"
THẦY dạy NỮ PHÁI biết trọng: TAM TÙNG TỨ ĐỨC. NAM PHÁI : TAM CANG, NGŨ THƯỜNG
Hễ NHƠN ĐẠO thành thì là phù hợp THIÊN ĐẠO. Nghe à! " (TNI/101)
Lời bạt.
Trong tập “QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG” này là kết-hợp
tài-liệu
“Mười năm Thuyết Đạo của Đức Hộ-pháp làm nồng cốt nhất là lời thuyết giảng vào năm Mậu-Tý (1948) và nhiều bài trong các năm khác.
“Mười năm Thuyết Đạo của Đức Hộ-pháp làm nồng cốt nhất là lời thuyết giảng vào năm Mậu-Tý (1948) và nhiều bài trong các năm khác.
Bên cạnh đó còn có tài-liệu “Tam thể xác thân” của
Đức Cao Thượng-Phẩm và trích dẫn vài ý-kiến nhỏ của các tài-liệu trên mạng
Intrenet không có xin phép tác-giả, xin được miễn chấp. Chung qui chỉ muốn làm
giàu kho tàng văn-học-sử Đạo mà thôi.
Đây chỉ là “Tủ sách gia đình” lưu hành nội bộ để
học hỏi.
Vài lời kính cẩn
Soạn-giả
NGUYÊN-THUỶ
Thay Lời Tựa.
Xin dẫn lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp làm lời tựa
cho đề tài QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG. Cũng như hầu hết tài liệu trong tập sách này đều
trích trong “Mười năm Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp”.
Thế nên những soạn-phẩm mới kế tiếp theo, dẫu được
chào đời để ra mắt đại chúng thì cũng chỉ là sự ráp nối, xâu kết thành những
chuỗi đề-tài có liên-quan với nhau, mục-đích là cho người đọc dễ tìm-tòi trong
cái kho tàng Đạo-pháp quá ư mênh-mông…
Đức Hộ-pháp thuyết ngày 30 tháng 9 năm Đinh-Hợi :
“Ngày nay ĐẠO CAO-ĐÀI đã đến khoảng đường kết-liễu
danh-giá và hình tướng của nó, nên Bần-Đạo lấy đề hai chữ QUỐC-ĐẠO đem
giảng-giải. Chí-Tôn ban sơ thuyết-minh đạo-lý hầu may ra những kẻ mơ hồ tỉnh
mộng đặng hiểu biết mình đang đến lập-trường nào, phương sách nào, khoảng đường
nào ấy là điều rất hay về tâm-lý toàn cả quốc-dân buổi này.
Hai chữ Quốc-Đạo lần đầu Chí-Tôn viết ra làm cho Bần-Đạo
mờ-mịt, cũng vì hai chữ Quốc-Đạo ấy mà PHẠM-CÔNG-TẮC chết năm 35 tuổi, thí thân
theo đuổi làm cho ra thiệt tướng.
Ôi! hai chữ Quốc-Đạo là một vật của Bần-Đạo tìm
tàng rồi mới biết khôn, khởi điểm biết thương nòi-giống, biết thương Tổ-quốc,
đeo đuổi mất còn với cái điều muốn khát-khao từ buổi thanh-xuân đó vậy. Tự biết
khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần-đạo thấy sao mà vẫn phải khao-khát thèm
lạt, tại làm sao Chí-Tôn biết thiếu thốn nơi tinh-thần điều ấy mà cho Bần-đạo,
Bần-đạo ban sơ nghi-hoặc, có lẽ một Đấng có quyền-năng thiêng-liêng biết tâm-lý
đang nồng-nàn ao-ước, đương thèm-lạt khao-khát, đương tìm-tàng mà đem ra
cám-dỗ.
Hại thay! Yếu-ớt đức-tin, ngày nay Bần-đạo ăn-năn
quá lẽ. Mười lăm năm đã đặng thấy gì?
Toàn cả thiên-hạ nói rằng nòi-giống Việt-Nam không
có Đạo.
Lạ-lùng thay! chúng ta tự hỏi có thật vậy không?
Thật quả có chớ! Có nhiều Đạo quá mà thành ra không
Đạo, mượn Đạo, xin Đạo của thiên-hạ mà thôi.
Ta thừa hiểu rằng nòi-giống Việt-Nam xuất hiện ở
hoàng-địa Tàu, nên ta không ái-ngại nói Việt-Nam này là sắc dân Tàu vậy. Nòi
giống Tàu, nhìn quả thật là dân Tàu mà thôi. Đất địa tổ-quán ta không phải ở
đây, ở Bắc Tam tỉnh là: Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam kể luôn Đông-Kinh
(Tonkin) tức là Hà-Nội và Hải-Nam nữa, là tổ quán ta thì thiệt của ta đó vậy.
Bần-đạo tìm hiểu Nho-Phong ta đoạt đặng hay đã có
trước?
Chúng ta thấy nòi giống Việt-thường này là con cháu
nước Lỗ. Nói rằng giống Lỗ lập Đạo Nho, chắc hẳn là Nho-Tông chúng ta vi chủ.
Nói vi chủ tức là của mình nếu có Đạo Nho sẵn trước thì ta có: Đạo Nho, Đạo
Lão, Đạo Phật; ba nền Tôn-giáo mà mặt địa-cầu nhìn là trọng yếu, bất kỳ là sắc
dân nào hay liệt quốc nào cũng đều nhìn nhận là do trong xứ Á-đông này.
Thêm nữa Thần-Đạo nguyên do ở tại Phù-Tang, sắc dân
vi chủ tức là Nhựt-Bổn đem truyền qua Trung-Huê rồi qua xứ ta. Ta chịu ảnh
hưởng quyền-lực của Thần-Gíao từ đó. Nhờ có nó Nho-Tông phát triển khác
chánh-giáo hơn, lại biết tín-ngưỡng một cách đặc-biệt hơn Thần-Gíao. Bằng cớ
hiện-hữu là ta đã thờ Thần trong các làng ngày nay đó vậy. Ngoài nữa tâm-lý
tín-ngưỡng của nòi-giống, của Việt-Nam nhiệt-liệt và thật-thà đối với bất-kỳ
đạo-giáo nào.
Đến thế-kỷ 19 Thánh-Gíao Gia-Tô đem đến nước ta
truyền-giáo mới thành một trường nhiệt-liệt đua tranh quyết chinh-phục hết thảy
tất cả các Tôn-giáo khác. Bần đạo tưởng ai có đọc tờ phúc-sự năm 1937 đều biết
rõ, Bần đạo đã giảng rõ-ràng nguyên-do đó, thành thử Việt-Nam có nhiều Đạo quá
nên thành không Đạo!
Có phen các Bạn thân-ái tưởng đến tương-lai quốc
dân, lo phương binh-vực mở rộng tự-do thêm, tức có kẻ phản-đối đả-đảo lại.
Bần-Đạo không nhớ ở Hạ-nghị-viện Pháp năm nào,
những người binh-vực chúng ta bị đả-đảo:
- Nưóc VIỆT-NAM không tinh-thần đạo-giáo nên khó
lập chánh-giới lắm! Vì không có căn-bản tinh-thần đạo-đức mà chúng ta không thể
chối, chịu thiệt thòi theo lời vu cáo. Vì cớ Bần-đạo đau thảm khổ-não tinh-thần
tìm hiểu coi sắc dân ta có Đạo hay chăng?
Hại thay! Ở trước mắt ta nào là bóng, chàng,
đồng-cốt, ông tà, ông địa, đủ thứ làm cho nhơ-nhuốc cái tinh-thần Đạo-giáo,
Bần-đạo uất ức!
Ngày CHÍ-TÔN tình-cờ đến, vì ham thi-văn nên ban sơ
DIÊU-TRÌ-CUNG đến dụ bằng thi-văn tuyệt bút làm cho mê-mẩn tinh-thần.
Hại thay! nếu chẳng phải là nhà thi-sĩ ắt chưa bị
bắt một cách dễ-dàng như thế, vì ham văn-chương thi-phú nên Ngài ráng dạy.
CHÍ-TÔN đến ban đầu làm bạn thân yêu, sau xưng thiệt danh Ngài, biểu Bần-Đạo
phế đời theo THẦY lập ĐẠO. Khi ấy Bần-Đạo chưa tín-ngưỡng, bởi lẽ nòi-giống
nước Nam còn tín-ngưỡng thập tàng lắm; không hiểu đúng, không căn-bản, nói rõ
là không tín-ngưỡng gì hết. Bần-Đạo mới trả lời với ĐỨC CHÍ-TÔN; ngày nay
Bần-Đạo nghĩ lại rất nên sợ sệt. Nếu không phải gặp đặng Đấng Đại-từ Đại-bi thì
tội tình biết chừng nào mà kể.
- Thưa Thầy, Thầy biểu con làm Lão-Tử hay chúa
JÉSUS con làm cũng không đặng, Thích-Ca con làm cũng không đặng, con chỉ làm
đặng PHẠM CÔNG-TẮC mà thôi, con lại nghĩ bất tài vô-đạo-đức này quyết theo Thầy
không bỏ nhưng tưởng cũng chẳng ích chi cho Thầy.
Đấng ấy trả lời:
- TẮC! thoảng Thầy lấy tánh đức PHẠM CÔNG-TẮC mà
lập giáo con mới nghĩ làm sao?
Bần đạo liền trả lời:
- Nếu đặng vậy!
Ngài liền nói:
- THẦY đến lập cho nước VIỆT-NAM này một nền
QUỐC-ĐẠO!
Nghe xong, Bần-đạo từ đấy hình như phiêu-phiêu lên
giữa không trung mơ-màng như giấc mộng. Được nghe nói cái điều mà mình thèm
ước, nên Bần-đạo không từ chối đặng.
Ôi! QUỐC-ĐẠO là thế nào? Quốc là nưóc, vậy nòi
giống tín-ngưỡng lập Quốc-Đạo; Bần-đạo theo tới cùng coi lập nó ra thế nào,
hình tướng nào cho biết; vì đó mà lần mò theo đuổi đến ngày nay, thấy hiện-hữu
cái hình trạng là ĐẠO CAO-ĐÀI rồi lại đoán xét coi nó biến thành QUỐC-ĐẠO
VIỆT-NAM ra sao?
Ngài có một bài thi dám chắc không ai thấu-đáo nỗi;
người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi cái ngọn thì không thấy gốc,
tứ văn thiệt-thà hay ho cho tới các đảng-phái quốc sự ngày nay cũng là
lợi-dụng.
Từ đây nòi giống chẳng chia ba: tức nhiên không
chia ba ĐẠO, chớ không phải ba kỳ à!
Thầy hiệp các con lại một nhà: Thầy nắm chủ-quyền
hiệp TAM GIÁO, nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam-Trung-Bắc thì vô-vị lắm!
Nam Bắc cùng rồi ra ngoại-quốc: tức nhiên nền chơn
giáo QUỐC ĐẠO, không phải của ta thôi, mà lại của toàn nhơn-loại, là truyền
giáo Nam Bắc thành tướng rồi ra ngoại-quốc, tức là Tôn-giáo toàn-cầu vậy.
Chủ quyền chơn đạo một mình TA: Tam-giáo Ngài vi
chủ năm châu hiệp tín-ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi. Nắm cả tín-ngưỡng của loài
người, chính Chí-Tôn là Chúa-Tể Càn-Khôn Thế-Giới, làm CHÚA nền chánh-giáo tại
nước VIỆT-NAM, vi-chủ tinh-thần loài người tức đủ quyền-năng lập QUỐC-ĐẠO.
Ngài đến đem đại-nghiệp cho quốc dân này, hình thể
lựa chọn ai?
Chọn tạo đoan vạn-vật tức là PHẬT-MẪU.
Tinh thần của CHÍ-TÔN, hình thể của PHẬT-MẪU; trí
não của CHA, hình hài của MẸ; cả thảy đều thấy:
Hễ vô đại điện ĐỨC ĐẠI-TỪ-PHỤ nào chức này, chức
kia, mão cao áo rộng; còn vô ĐIỆN THỜ PHẬT MẪU đều trắng hết, không ai hơn ai
cả. Nếu hiểu biết, thấy bí-pháp CHÍ-TÔN cao kỳ quá lẽ. CHÍ-TÔN nói rằng:
“QUỐC-ĐẠO này Ngài qui-tụ tinh-thần đạo-đức, trí-thức toàn nhơn-loại cho đặc
biệt: có cao, có thấp, có hàng ngũ, có phẩm giá; còn về phần xác thịt của người
đời, mạng sống trước mặt Ngài không ai hơn ai, cả thảy sống đồng sống, chết
đồng chết đặng đem QUỐC-ĐẠO làm mô-giới cả Đại-đồng đặng tạo tương-lai loài
người cho có địa-vị oai quyền, cao-thượng.
Nếu thoảng hiểu đặng thì Thánh-thể cũng vậy,
Hội-Thánh, chư chức sắc Thiên-phong nam, nữ hay toàn thể tín-đồ cũng vậy, lãnh
thiên-mạng đảm-nhiệm trách-vụ thiêng-liêng CHÍ-TÔN phú-thác lập giáo tức-nhiên
phải có phẩm-giá, trật-tự, đẳng cấp.
Nếu hiểu thêm ý của Ngài; khi cởi áo này ra khỏi
đại điện rồi, hết thảy đồng là anh em, không ai hơn ai, không ai thua ai, không
khinh, không trọng, đầy-đủ tình yêu-ái trong lòng MẸ đem ra mà thôi; nam nữ
cũng thế.
Ngày nào nhơn-loại cả thế-gian ở mặt địa-cầu này
hiểu được lý lẽ chí hướng cao-thượng ấy là ngày ĐẠO Cao-Đài sẽ ra thiệt tướng”
CHƯƠNG
I
CAO-ĐÀI
LÀ QUỐC-ĐẠO
A - NỀN TẢNG ĐẠI-ĐẠO
Nền Đại-Đạo phải có đủ ba yếu-tố: Thiên, Địa, Nhân
đó là nền-tảng của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay, còn gọi là Thiên-thời, Địa
lợi, Nhân hoà.
1 - Thiên thời:
Đây là Thiên-Thơ đã định “Khai Đạo muôn năm trước
định giờ”.
Nền Đại-Đạo này tức là Tôn-giáo toàn cầu vậy! Tôn
giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp tín-ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi với tôn-chỉ:
Tam-giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt đó!
Thánh-ý của Chí-Tôn rằng “Thầy đã lập Đạo nơi cõi
Nam này, là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh-nộ
của Thầy. Thầy lại tha-thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh-diệu. Từ tạo
Thiên lập Địa, chưa nước nào dưới quả địa-cầu 68 này đặng vậy, cốt để ban
thưởng các con thì các con hưởng phần hơn là đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều
cho các nước khác sao!” (TN II/25)
2 - Địa
lợi:
Là một nền tảng quan-trọng về vật-chất nữa là đất
nước Việt-Nam:
Toàn dân Việt-Nam có chung một niềm kiêu-hãnh về
dân-tộc, về đất nước. Vì đất nước Việt-Nam thân yêu của chúng ta có những nét
đặc thù khả kính.
Lời tiên-tri của Thầy là:
“Một nước nhỏ-nhoi trong Vạn quốc,
“Ngày
sau làm chủ mới là kỳ”.
Tuy nhiên cũng nên điểm lại trên thực-tế Việt-Nam
có được những yếu-tố nào mà được chọn là nước CHỦ của Vạn quốc trong kỳ thượng-nguơn
tứ chuyển? Vì sao nước Việt Nam được gọi là Thánh-địa?
Xét về ba phương-diện:
* Về
mặt triết-lý văn-minh:
Nước Việt-Nam thọ ba ảnh-hưởng của ba nền Tôn-giáo:
Thích, Đạo, Nho từ Ấn-độ và Trung-hoa truyền sang. Ba nền Tôn-giáo ấy đã được
đồng-thời phát triển dưới thời nhà Lý và nhà Trần bằng sự bình-đẳng của ba nền
Tôn-giáo nói trên.
Kịp đến khi văn-minh Âu-châu tràn vào thì Việt-Nam
lại được hưởng thụ thêm nền văn-minh Cơ-đốc-giáo nữa. Như vậy, Việt-Nam là mảnh
đất gieo Đạo giáo từ lâu; vả lại Việt-Nam ít tạo oan báo, nên nghiệp quả của nó
cũng nhẹ nhàng. Việt-Nam có đủ điều-kiện để làm cơ qui nhứt toàn thế-giới vì
lý-do ấy.
*
Xét về hình thể địa-lý thiên-nhiên:
Việt-Nam nằm vào vị-trí đặc biệt của Á-châu, mà
Á-châu lại nằm vào vị trí trung-tâm của quả đất và Á-châu là châu lớn nhất thế
giới. Châu Á thuộc sắc da vàng, theo lý của Ngũ-hành thuộc Thổ, mà Thổ chính là
ở trung-ương.
Việt-Nam là cửa ngõ để tiếp nạp các luồng tư-tưởng
từ Đông sang Tây cũng là cửa ngõ để phòng-vệ đất nước cho các giống dân miền
Đông Nam châu Á.
*
Xét về hình thể địa-lý huyền-bí:
Việt-Nam có con sông dài vào bậc nhất thế-giới tất
sẽ tạo nên linh-khí thiêng-liêng. Linh-khí ấy tạo nên “long mạch Cửu-Long” và
dãy “Thất-sơn” nơi Châu-đốc đó vậy.
Miền Nam là nơi đất mới khai-khẩn nên những quả báo
chưa gây nhiều, lại có luồng nước nóng và nước lạnh từ các miền đại-dương
hòa-hợp để tạo nên một khí-hậu điều-hòa.
Tóm lại, Việt-Nam có đủ điều-kiện: Thiên, Địa, Nhân
tức là Tam tài để đứng ra chủ-trương một mối Đại-Đạo.
Tam-tài ứng với lý Tam-ngôi. Tam ngôi ba điểm đều
vẹn thì làm chủ thiên-hạ là lẽ thường chớ có gì đâu khác lạ!
Nhưng Thầy cũng thường dạy rằng: “làm chủ đây là
chủ về tinh-thần chớ không phải mang binh hùng tướng mạnh đi chiếm đất như các
con lầm tưởng. Cái chủ tinh-thần mới trường-cữu, còn làm chủ theo thói đời thì
nó lỏng-lẻo, bấp-bênh nào có bền-chắc, nào có nghĩa lý gì!”
Cái lý Tam ngôi nhứt thể biến sanh Tam-giáo, Tam
nguơn, Tam bửu…Số Tam là chu-kỳ của trời đất để thực hiện cơ vận-chuyển hóa
sanh, qui hợp. Việt-Nam cũng là một Bát-quái Đồ-thiên có đầy-đủ các con số ấy!
Tức nhiên là một Thái-cực-đồ trọn vẹn.
3 -
Nhân-hoà.
Đức Hộ-pháp cho biết rằng:
“Kỳ khai Đại-Đạo Tam-Kỳ tạo một linh-đài qui
tín-ngưỡng của toàn nhơn loại, đủ quyền năng tiêu-diệt tà pháp đặng đem
nhơn-loại đến ĐẠI-ĐỒNG”.
Nay ĐỨC CHÍ-TÔN khai ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ là đúng
theo lời sấm truyền của các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.
Chỉ có hai phương diện:
1 - Là do Tam-giáo thất kỳ truyền
2 - Là chính mình ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ lập ĐẠO đặng
qui nguyên phục nhứt, gọi là chấn-hưng TAM GIÁO lại cho hoàn-toàn, lập luật
pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi
nhơn-sanh, hiệp cả TINH THẦN của các dân-tộc biết nhìn nhau một CHA chung là
thuận-hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền Thương-yêu, chung thờ một Tôn-giáo
ĐẠI-ĐỒNG thì nhơn-loại mới gội nhuần ân-huệ và đời tranh-đấu tự diệt sẽ trở nên
đời mỹ-tục thuần-phong thì vạn loại mới chung hưởng cơ Hoà-bình, phục hồi
Thượng cổ là do THIÊN-THƠ tiền định buổi hạ ngươn chuyển thế hoán cựu duy tân.
Thánh-ngôn Thầy dạy: “Vốn Thầy tạo lập nền
Chánh-giáo cho dân Nam-Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Đạo là
quí thì phải ân-cần thận trọng; đợi đến ngày thành-tựu các con mới thấy rõ
Thiên-cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi này sao đặng, vì mỗi
việc khó-khăn trắc-trở là lúc sơ khai. Vậy Thầy khuyên các con rán thành tâm
hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng không đâu.
Thầy thấy nhiều đứa trong các con có ý theo Đạo
đặng toan kế làm nhiều việc chẳng lành. Thầy vì thương nhơn-loại muốn cứu hết
nên thường thâu nhập nhiều đứa vô tâm, cũng muốn cho chúng nó ăn-năn chừa lỗi,
ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng.
Đến buổi chung qui mới thấy Thiên-đàng, Địa-ngục thì muộn rồi. Các con phải xét
mình cho lắm nghe!”
Tóm lại, ĐỨC CHÍ TÔN khai ĐẠO kỳ thứ ba này là
thuận theo lẽ tuần-hoàn “châu nhi phục thủy”
Khi đến với nhân-loại Đức Thượng-Đế có hứa:
“Que l’Humanité soit une: une comme Race, une comme Religion, une comme
Pensée” (Nhân-loại rồi đây sẽ là một: Một về xã-hội, một về nòi giống, một về tư-tưởng).
Tất cả những biến động trên toàn cầu ngày hôm nay
“Ấy là cuộc sửa đời (Être Nouvelle) của Đại-Từ-Phụ đã tuyên-ngôn từ buổi Khai
Đạo”
“Đạo Trời đem tin Cứu thế, thức tỉnh nhơn-sanh phải
tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho khỏi nạn luân-hồi vay trả; hằng ngày
phải nhớ câu “Oan gia nghi giải bất nghi kết”.
Đó là nền tảng của nền QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG theo như
tinh thần bài Thánh-giáo mà Đức Chí-Tôn giáng ban cho từ buổi khởi khai Đại-Đạo.
Thật ra thì làm người ai cũng muốn sống và sợ chết,
nhưng chẳng biết phải sống như thế nào? Sống để làm gì? Và có kẻ cũng chán đời
muốn chết đi cho rảnh nhưng cũng chẳng rõ sự chết ra sao? Chết như thế nào? Thì
ra, sống không nên sống và chết cũng không biết chết.
Vậy, Đạo chính là sự sống. Học đạo, tìm đạo để
định-vị cho cái sống và rõ thông đường chết hay nói rõ hơn là tạo sự bình-an
cho cái sống gỉa tạm này và yên ổn với cái sống vĩnh cữu, tức là thông suốt cả
đường đi lối về vậy.
Thế nên ngày giờ này Đức Thượng-Đế đến ban cho một
nền Quốc-đạo cũng không ngoài các yếu lý ấy.
Bây giờ, chúng ta quan-sát coi nền QUỐC-ĐẠO của
chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn-giáo cho hoàn-cầu? Nhân-loại hiện
giờ đang hướng về đâu? Mai này sẽ ra sao?
B -
DUYÊN KHỞI ĐỂ ĐẾN QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG
1 -
Bài thơ Đức Chí-Tôn ban cho Vĩnh-Thuỵ là Đức Quốc-trưởng Bảo-Đại
Tập QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG chính là sự hình thành
tư-tưởng từ trong cốt-tủy của hai câu thơ của bài thơ ĐỨC CHÍ-TÔN giáng cơ cho
Ngài Quốc-Trưởng Bảo Đại, do Hộ-Pháp và Tiếp-Đạo phò-loan đêm 11 tháng 12
Đinh-Hợi dl 21.1.1947) như sau:
Thầy, các con.
“Ừ! ngày nay là ngày Thầy đã đắc-vọng cho toàn cả
nòi-giống các con.
Vinh, con và Hoạch (Lê-văn Hoạch) phải hiệp cùng
Vĩnh-Thuỵ (Bảo-Đại) mà làm tròn sứ mạng theo Thánh-ý Thầy đã định đa nghe!
TẮC! con biểu Tài viết Nho-văn bài thi này, rồi
Hoạch, con đưa tận tay cho Vĩnh-Thuỵ.
THI
Thượng,
hạ nhị thiên xử địa hoàn
Việt-nam nhứt quốc nhứt giang san
Hoàng-đồ toàn bảo thiên-thơ định
Đảnh-tộ
trường-lưu tổ-nghiệp tồn
QUỐC-ĐẠO
kim triêu thành ĐẠI-ĐẠO
NAM-PHONG
thử nhựt biến NHƠN-PHONG
An
dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn
Văn-hóa
tương-lai lập Đại-Đồng.
上 下 二 天 處 地 寰
越 南 一 一 江 山
隍 圖 全 寶 天 書 定
鼎 怍 長 流 祖 業 存
國 道 今 朝 成 大 道
南 風 此 日 變 人 風
安 民 列 聖 從 堯 舜
文 化 將 來 立 大 同
Hôm nay tựa đề “QUỐC-ĐẠO
NAM-PHONG” được thành hình là lấy hai chữ đầu của hai câu thơ 5 và 6 trong đề
tài, kết-hợp thành tiểu tựa:
“QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG ” là vậy!
Tuy nhiên tôi chỉ có trong tay bài cơ vỏn-vẹn có mấy câu trên, còn phần chữ Hán tôi tự viết lấy để làm tượng-trưng, nếu có sự sai biệt xin được quí vị chỉnh thêm cho và rộng lòng tha-thứ. Hơn nữa đây là một đề-tài tôi chỉ góp nhặt, xâu kết những lời giảng dạy hầu
hết là những bài Thuyết Đạo của Đức Hộ-pháp Giáo-chủ Đạo Cao-Đài hoặc trích-lục
những tài-liệu của Đạo.
Cái khởi nguyên của QUỐC-ĐẠO
đã được ĐẤNG Tôn-sư HỘ-PHÁP trần-tình bằng tất cả trái tim yêu ái, giờ đây ta
hãy lật từng trang đã được đúc kết, hệ-thống-hóa thành tập sách nhỏ bé này để
cùng nhau chiêm-nghiệm và cùng hoà nhập với không-khí thiêng-liêng của Đạo-pháp.
2 - Tinh-thần của Quốc Đạo Nam-phong
* Giảng-luận về bài thơ:
Tinh-thần của nền Quốc-Đạo
được gói-ghém trong bài thơ trên.
Qua bài thơ thấy cả
tình-ái nồng-nàn của Đấng Trời CHA đã gởi trọn cả thâm-tình dành cho nhân-loại
trong thời buổi này. Xin được tạm thích-nghĩa nôm và tìm hiểu ý-nghĩa từng câu
thơ để nghe được tâm-tình của Thiên-phụ, đồng-thời thấy được trọn vẹn chân tướng
của Nam-Phong để dựng nên QUỐC-ĐẠO.
Giải-nghĩa:
Câu 1: Thượng hạ nhị thiên xử địa
hoàn 上 下 二 天 處 地 寰
Chính là THIÊN-THƯỢNG và
THIÊN-HẠ mà con người được đứng phẩm tối-linh nên đứng giữa kết liên thành
TAM-TÀI (THIÊN, NHÂN, ĐỊA) vậy phải xử thế nào cho được vẹn toàn. Tức là thuận
nhân-tâm ắt thuận Trời, mà cũng là bực tài ba quán-thông mọi việc thì mới mong
gánh vác nỗi vai-trò quá ư nặng nề thể-thiên hành hóa.
Hai chữ “thiên-thượng”
“thiên-hạ” tức là “nhị Thiên” ý nói trên là trời, dưới là đất, giữa là người hiệp
thành tam tài (số 3 trọn vẹn)
Nếu dùng những nét vạch để
làm biểu-tượng thì thấy rất rõ:
Xử địa hoàn: có nghĩa là
phải thông nhau, nối liền lại với nhau, tức nhiên thêm một nét sổ ở chính giữa
quẻ Càn thành ra chữ Vương 王 Vương là vua, chỉ người đứng
đầu một nước.
Vua là người hiểu biết:
- Trên thông thiên-văn
- Dưới đạt địa-lý
- Giữa quán nhân-sự
Phải chăng Đấng Chí-Tôn
giao trách-nhiệm Việt Nam lúc bấy giờ cho vì vua anh minh để bảo-tồn quốc thổ,
vì đây là một quốc-gia Thiên-định. Phải có một vị Vua xứng đáng, toàn hảo.
Nhưng Đạo là lý, phải lấy
lý mà giải để thấy rằng ngày nay Thầy dùng tánh-đức của Vĩnh-Thuỵ (Bảo-Đại) mà
lập quốc cũng như Thầy lấy tánh-đức của Ông Phạm Công-Tắc mà lập Giáo vậy. Xưa
Thầy nói rằng:
- “TẮC! thoảng THẦY lấy
tánh đức PHẠM CÔNG-TẮC mà lập giáo con mới nghĩ làm sao?”
Hai trường-hợp nào có khác
nhau! Tức nhiên dù bất cứ ai đi nữa mà khi làm Vua, làm Quốc-Trưởng thì phải “bảo
trọng cái lớn” tức “Bảo-Đại” thì mới giữ vững nghiệp “Quốc” của Đức Chí-Tôn đến
thất ức niên. Nếu cứ nghĩ rằng “Bảo-Đại” chỉ có Ông vua cuối triều: Nguyễn
Vĩnh-Thuỵ bằng xác thịt, thì ngày nay Người đã an nghỉ rồi thì nghiệp Đời, nghiệp
nước này giao lại cho ai? Chả lẽ đến đây Đạo phải bế? Đất nước này sẽ về ai?
Và đây là yếu-tố tiên quyết:
Năm 1948: Đức Hộ-pháp đề
xướng thuyết Bảo-Đại như vầy: “Trận giặc giữa Việt Minh và Pháp đang đánh nhau,
chớ Việt Nam chưa có một Chánh Phủ hợp pháp để thương thuyết với Pháp, Đức Hộ
Pháp triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Sài Gòn, có đông đủ các nhân sĩ Nam Trung
Bắc, các Tôn giáo, đảng phái. Đức Hộ Pháp được đề cử chủ toạ phiên họp.
Đức Hộ Pháp đưa ra giải
pháp Bảo Đại, lúc ban đầu mọi người đều tỏ vẻ không tán đồng, xầm xì to nhỏ với
nhau. Đức Hộ Pháp giải thích thêm vì sao Ngài đề xướng giải pháp Bảo Đại:
1 - Nhà Nguyễn đã ký hai
Hiệp Ước 1862 và 1864 giao nước Việt Nam cho Pháp bảo hộ, bây giờ Nhà Nguyễn phải
lấy lại, rồi giao cho Quốc dân Việt-Nam liệu định. Chỉ có Cựu Hoàng Bảo-Đại mới
có đủ tư cách thương thuyết với Pháp.
2 - Trong phiên họp, ông
Nghiêm-Xuân-Thiện một nhân sĩ miền Bắc đứng lên chấp nhận ý kiến của Đức Hộ
Pháp, kế đó là ông Trần-Văn-Lý một nhân sĩ miền Trung cũng tán thành.
Đức Hộ-Pháp mới tuyên bố
như vầy Nam, Trung, Bắc, đã đồng ý, nhờ toàn hội cho biết ý kiến và toàn hội đồng
hoan-hỉ giải pháp Bảo-Đại của Đức Hộ-Pháp”
(Trích Dưới bóng cờ cứu khổ)
Câu 2: Việt-Nam nhứt quốc nhứt
giang san 越 南 一 一 江 山
Đức Chí-Tôn đã hứa với
nhân-loại là Đạo Cao-Đài sẽ đạt được là cơ quan Đại-đồng thế-giới tức là sẽ có:
- Một quốc gia
- Một nòi giống
- Một tôn giáo.
Chính đất nước Việt-Nam
này làm khởi điểm một Thánh-địa đã ôm trọn Thái-cực-đồ mà thiêng-liêng đã dành
sẵn; khi được địa-linh thì hẳn sẽ có nhân-kiệt vậy.
Việt-Nam phải liền một
dãy: một đất nước, một giang-san bờ cõi. Đó là ý muốn của Đức Chí-Tôn. Có như vậy
thì Đại-Đạo này mới ra toàn cầu thế giới được.
“Nam Bắc cùng rồi ra ngoại-quốc
“Chủ-quyền Chơn-đạo một
mình TA”
Hơn thế nữa chữ-nghĩa cũng
xác-định điều ấy.
Thông-thường chữ Quốc 國 có chữ hoặc 或 (hoặc là thay đổi) đặt
trong bộ vi 囗 (vi là vây quanh). Ý nói ở đất nước không có chủ-quyền
nhứt định khi thì vua, lúc lại Tổng-Thống, thay đổi chế-độ luôn.
Còn với đất nướcViệt-Nam
mà Ngài chỉ-định là “nhứt quốc nhứt giang-san” thì chữ Quốc ấy phải là chữ vương nằm trong bộ vi, chứng tỏ
rằng nước ấy có Chủ quyền thật sự.
Câu 3: “Hoàng-đồ toàn bảo
Thiên-thơ định” 隍 圖 全 寶 天 書 定
Trong bức đồ trọn vẹn họp
đủ Tam Hoàng: Thiên hoàng, địa-hoàng, nhân-hoàng vô cùng quí-báu đó, Việt Nam
hân-hạnh được đón nhận đầy-đủ trong quyển sách trời gọi là “Thiên Thơ” đã ghi
chép hẳn-hoi.
Cả một mảnh giang-san gấm
vóc này đã được quyền Thiêng-liêng quyết định rồi, tức nhiên là nước chủ của Vạn
quốc.
Câu 4: “Đảnh-tộ trường-lưu tổ-nghiệp
tồn” 鼎 怍 長 流 祖 業 存
Là phúc mệnh trời ban cho
được lưu-truyền nhiều đời cháu con toại hưởng. (Đảnh là điểm cao, tộ là phúc vận
may của đất nước, trường lưu là ví như nước cuồn-cuộn chảy, Tổ-nghiệp là sự-nghiệp
của cha ông nhiều đời đã tích-luỹ cho con cháu, tồn là còn).
Nói chung là đã qua khúc
quanh của lịch-sử, Việt-Nam lại được quyền Thiêng-liêng giao phó một trách-nhiệm
lớn, cứ theo cái đà của sự-nghiệp Tổ-tiên để lại cứ nối theo mà phát-huy thêm nữa;
tức nhiên là thời-kỳ Nho-Tông chuyển thế đã đến đó vậy.
Câu 5: “QUỐC-ĐẠO kim triêu
thành ĐẠI-ĐẠO” 國 道 今 朝 成 大 道
Nền ĐẠO có trong nước Việt-Nam
hôm nay dân Nam được tiếp nhận làm mối Đạo nhà, sẽ làm khởi điểm cho nền Đạo của
toàn thế-giới trong một sớm một chiều nhân-loại đều chung hưởng.
Câu 6: “NAM-PHONG thử nhựt biến
nhơn phong” 南 風 此日 變 人 風
Chính cái phong-hóa của
nhà Nam đã tàng ẩn nhiều điều quí hóa, như triết-lý nhân-sinh-quan, vũ-trụ-quan…
kết-tinh thành một nền văn-hiến bốn ngàn năm, trong thời điểm này sẽ làm nền
phong-hóa chung cho nhân-loại đồ theo khuôn mẫu đó.
Câu 7: “An dân liệt Thánh tùng
Nghiêu Thuấn” 安 民 列 聖 從 堯 舜
Muốn cho quốc thới dân an,
phương-pháp thực hành phải noi theo chư liệt Thánh đã nêu gương trước mà làm
cho dân được sống cảnh thái-bình gọi là thuở trời Nghiêu đất Thuấn. Cả một cơ cấu
Chánh-trị-Đạo trong nền Đạo Cao-Đài ngày nay chính Đức Chí-Tôn đến lập, chứ
không phải một vị nào khác.
Trong chữ AN 安 đã có chữ Nữ 女 đặt dưới bộ miên, tức
nhiên muốn nói đến sự bình đẳng, bình quyền phải có bàn tay của Nữ-phái trợ lực
nữa để đem lại sự an-bình cho đất nước. Như vậy người nữ phải có nhiệm-vụ góp
bàn tay xây dựng đất nước cũng như đạo nghiệp của Chí-Tôn. Nhưng dù nữ dù Nam
cũng phải là mẫu người đạo-đức thật sự. Chính Đức Chí-tôn đã ban cho sự bình-đẳng
ấy rồi.
Câu 8 : “Văn-hóa tương-lai lập
Đại-đồng” 文 化 將 來 立大 同
Nền văn-hoá trong
tương-lai sẽ là nền văn-hoá Đại Đồng, Đông Tây hoà-hợp: văn-minh tinh-thần của
Đông phương kết-hợp với văn-minh của nhân-loại mà làm nên nền văn-hoá Cao-Đài
làm khởi điểm.
Tức nhiên văn-hóa của Việt-Nam
hôm nay đầy đủ yếu-tố để đi đến Đại-đồng. Nay, Đức Chí-Tôn đã dùng Quốc-ngữ làm
chính-tự, làm căn-bản để thông-truyền về Tôn-giáo, thứ văn-hóa này sẽ làm nồng
cốt đưa nguồn chơn-đạo chánh truyền phổ-thông trong thế-giới tức là “văn dĩ tải-đạo”
vậy.
Mối Đạo trong nước giờ đây
chỉ trong một sớm sẽ trở thành nền Đại-Đạo tức là sẽ có ảnh-hưởng đến toàn cầu
thế giới.
Tiền-nhân có cho biết:
“Văn-hiến bốn ngàn năm có
sẵn,
“Chi cần dị chủng đến dâng
công”
Để kết-luận, xin dẫn lời
nhận-định của Đức Hộ Pháp:
“Ta thường nói Đông Tây
không bao giờ gặp nhau. Câu đó không thể áp dụng được trong giới triết-học tuy
có đến hàng trăm đường lối khác nhau, nhưng chung qui cũng gồm về một mối.
Lấy cái thực học Âu Mỹ để
so-sánh với thực-học Á-đông cân nhắc nhau thì phần nhiều cái học Á-đông bị lu mờ
chỉ vì cách trình bày, luận-lý không rõ ràng, còn về phần tinh-thần thì bao
trùm được khắp võ-trụ như: Thiên-văn, Địa-lý, Dịch-lý mà ông cha ta vẫn cho là
những môn học khó-khăn, huyền-diệu. Vì những lẽ trên, ta thấy khó-khăn,
khúc-chiết mà xếp đặt cái học-thuyết âý vào hàng tâm-truyền hay bí-truyền.
Nhưng nếu ta lấy cái học-thuyết
hiện tại của Âu Mỹ hoà với DỊCH-LÝ để giải cho rõ, ta cảm thấy cái lý học
Á-đông đã đến chỗ tuyệt-đối huy-hoàng”.
C - HIỆN TẠI NỀN TẢNG PHONG-HOÁ ĐÃ BỊ LUNG-LAY
Đức Thượng-đế mới chọn tay
rường cột
Trong bài Điếu-văn ngày 13
tháng 10 năm 1934 Đức Hộ-pháp ngậm-ngùi tuyên dương tinh-thần đạo-đức của Đức
Quyền Giáo-Tông LÊ-VĂN-TRUNG đã là một tay rường cột chống đỡ Đạo-quyền, giữa
lúc quyền vật dục đang hồi ưu thế, làm cho nền phong-hoá của dân-tộc sắp bị
lung-lay.
Đức Hộ-pháp nói rằng:
“Giữa thế kỷ hai mươi nầy,
toàn địa-cầu nhơn sanh đều xu hướng về đường vật chất, đua tranh náo nhiệt, mạnh
đặng yếu thua, khôn thì còn, dại thì thác, làm cho cả cá-nhơn hay là trọn xã-hội
nào cũng vì sanh hoạt khó khăn, mà quên hẳn tinh thần vi chủ.
Hại thay! Cơ-quan của đời
hiện hữu lại do nơi quyền năng vật dục mà thành hình, đến đỗi trừ tinh-thần ra
thì trí thức con người cũng lậm nhiễm lấy quyền duy-vật, đạo-đức tinh thần xem
ra càng ngày càng mòn-mỏi. Nếu chúng ta thấy cơ quan hành động của các Tôn-giáo
còn mảy-may duy trì lại có đặng là nhờ khuôn viên tập tục, chớ chẳng phải nơi
tâm lý chuẩn-thằng.
Qua trận sát khí Âu-Châu,
những bậc ưu thế mẫn thời để tâm nghiên cứu nguyên thủy sự bất hòa của toàn cầu
do đâu mà sản xuất, thì đã thấy đặng hiển nhiên rằng:
- Tại dân quá khiếm phần đạo-đức,
- Những Tôn-giáo đương thời
hoặc là bị buộc ràng vào tôn-chỉ hẹp hòi,
- Hay là bị triết-lý
oai-nghiêm mà làm cho phân chia tâm lý, nên không thể dung hòa làm môi giới cho
Đại-đồng thiên hạ. Thuyết giao tình các Tôn-giáo là thuyết trọng-yếu của nhà hiền
triết Á-Âu buổi nầy.
Ôi! Hạng trí thức nhơn
sanh ấy, khi xem đặng con đường nguy hiểm của văn minh duy-vật dong ruổi thẳng
tới chừng nào thì lại càng âu lo khủng khiếp cho tương lai nhơn loại buổi sau
kia chừng nấy.
Đời chẳng khác nào như chiếc
thuyền chịu sóng gió ba đào lênh-đênh khổ hải. Những khách giang hồ của tạo
công ai lại chẳng phập-phồng rơi châu đổ ngọc. Trong cơn khổ não tâm hồn ngẫu
nhiên lại gặp cứu tinh giải nạn là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ của Thượng-Đế chấn
hưng Tôn-giáo.
Người đến đặng nhìn nhận
các Đạo là phương giáo-hóa của Người và dung hợp các triết-lý của đời dưới phép
lương tâm làm chủ. Dầu ai để chút tâm nghiên cứu thì đủ hiểu cơ quan chuyển-thế
rõ ràng nên không cần luận giải.
Từ năm Bính Dần (1926) là
năm Đạo mở tại Nam Kỳ, đến nay Anh Cả chúng tôi là Lê-Văn-Trung, Đạo-tịch Thượng-Trung-Nhựt
ra đảm nhiệm vai tuồng rất lớn lao, quan hệ là phổ-độ dìu dắt nhơn sanh vào đường
Chánh-giáo.
Một mối Đạo rất cao thâm mầu-nhiệm
mà chính mình Đức Thượng-Đế đem gieo truyền trong nước nhỏ-nhen như Việt-Nam ta
đây, thiết tưởng sự khó-khăn chẳng nhỏ, mà Anh Cả chúng tôi trọn chịu 9 năm trường,
chẳng quản nhọc-nhằn một tay chống vững Đạo thuyền, bền chí lướt qua khổ hải.
Đạo mở vào buổi nhơn sanh
đang khuynh hướng về đường vật-chất thì cái tôn chỉ Đạo tất phải có thiệt lực
gì cực-kỳ mãnh-liệt mới dung hòa nỗi hai thuyết duy-tâm và duy-vật và phải hạp
thời thì nhơn sanh mới chịu hoan-nghinh mà bước vào cửa Đạo. Nếu Đạo mà không
có cái Tôn-chỉ duy-tân cải cách theo trình-độ tiến hóa của nhơn sanh thì Đức
Thượng-Đế chẳng cần nhọc công tái lập, vì Đạo vẫn có từ tạo Thiên lập Địa mà
trong nhân-gian cũng đã lập thành nhiều nền Tôn-giáo, để tùy thời mà tế độ quần
linh.
Trong các Tôn-giáo ấy như
Phật-giáo, Lão-giáo, Nho-giáo, Cơ-Đốc-giáo, cũng có nhiều triết-lý cao siêu, có
thể cứ do theo đó mà hành Đạo cũng đặng tiến-hóa, nhưng mỗi Tôn-giáo ấy đều có
một tôn-chỉ đặc biệt, có thể hạp với mỗi phong hóa tùy mỗi thời đại, chớ không
đặng một tôn-chỉ thống nhứt hạp theo thời đại buổi bây giờ. Đạo đã có những điều
kiện tối tân như thế thì tất phải có người tài đức ra làm hướng đạo mới hiểu rõ
tôn-chỉ của Đạo mà truyền bá cho nhơn sanh, khỏi lầm đường lạc lối, và cũng phải
có đại hùng đại lực mới gánh vác nỗi trách-nhiệm lớn lao của Đại-Đạo.
Anh Cả chúng tôi đây, trước
khi vào Đạo vẫn là người duy vật cũng như mọi người khác, ngoài đời vì đường
danh lợi, Người cũng chẳng nhượng chi ai, kịp khi Đạo mở Đức Thượng-Đế kêu đích
danh Người mà phú thác Đạo Trời.
Phong-trào duy vật đang
sôi nổi, người lại đương thời phấn đấu, mà Người cũng vui lòng phế hết việc đời
để hiến thân cho Đạo. Buổi ban sơ mới có vài ba anh em trong Đạo, cũng có kẻ trắng
người đen, không đồng tâm chí, lẫn nghịch cùng nhau, rồi nào ai dám chắc sẽ ra
làm sao đâu? Nhưng vì lòng háo đức của Người sẵn có, nên Người không chút ngại-ngùng
bạo gan chí-sĩ mà hiến mình trọn vẹn lập Đạo mới thành, công ấy, thưởng nầy làm
Anh Cả chúng sanh cũng đáng.
Vào Đạo rồi, khi thì lập
Đàn thỉnh giáo cùng các Đấng Thiêng-Liêng, khi đi phổ-độ khắp Nam Kỳ, không nói
ra ai ai cũng rõ, những nỗi khó khăn về sự hội hiệp ở xứ mình cho nên lúc khai
Đạo phải gặp nhiều nỗi tân khổ, lại còn nhiều nỗi cam go đối với Đạo-hữu các
nơi. Khi Đạo đã có mòi hoằng-hóa, sau lại Hội-Thánh Ngoại Giáo thành lập ở
Kiêm-Biên, tuy gặp lắm nỗi truân-chuyên, mà Người cũng cứ nhứt tâm nhứt đức do
đường thẳng tiến hành, không bao giờ nản lòng thối chí.
Vì sao Đức Thượng-Đế không
chọn người nào khác, lại đem mối Đạo lớn lao mà trao lại cho Người lúc ban sơ?
Mà những người có công tu luyện theo Đạo này, Đạo khác cũng chẳng hiếm gì, mà
sao Đấng Chí-Tôn không dùng ai trước?
Có ai dám nói Đấng Chí-Tôn
dùng lầm!
Vậy thì, Tôn-chỉ của Đại-Đạo
đã biểu lộ ra rõ-ràng bí quyết đoạt Đạo chẳng phải do một mặt yểm thế để tịnh
dưỡng tinh thần, mà lại phải lịch-lãm nhơn sự và phải siêu-quần xuất chúng, rồi
lấy đạo đức mà cứu vớt nhơn quần.
Xã hội phải tùy sở-nhu của
chúng sanh mà lập phương phổ hóa, thì cái công tu luyện kia mới bổ ích cho. Vì
vậy mà Anh Cả chúng tôi mới đắc dụng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Anh Cả chúng tôi là người
gồm có nhiều điều kiện hạp với tân thời, mà cũng không nghịch với phong hóa cũ.
Vậy nên, Đấng Chí-Tôn mới
dùng người để làm mô-phạm cho anh em Đạo-hữu và cho đời thấy rõ một phần chơn
lý trong Tôn-chỉ Đại-Đạo.
Theo thời-đại khoa-học
đương nỗ lực phát dương này, nếu đem cái thuyết duy tâm cực-đoan mà phổ hóa
chúng sanh không khỏi bĩ-lậu; còn nếu chuyên một mặt duy vật mà tiến hành thì
xã hội phải có ngày tiêu diệt về nạn cạnh tranh phấn đấu. Vậy phải chiết trung
hai thuyết mà dung hòa thì đời mới đặng vừa tấn hóa theo văn minh khoa học, vừa
duy trì đặng tâm hồn đạo đức. Nhờ hiểu ý nghĩa cao thâm như vậy mà Anh Cả chúng
tôi không vì hoàn cảnh mà phải quá ư thiên lệch về một mặt nào.
Chúng tôi còn nhớ lời
tuyên bố rất thành thật của Anh Cả chúng tôi như vầy:
"Ngày nào nhơn sanh
còn khốn khổ, thì chưa phải ngày Anh tọa hưởng an nhàn. Dầu Anh đắc quả mà qui
Tiên đặng sớm, Anh cũng nguyện tái kiếp để độ tận chúng sanh".
Hùng hồn thay! Bác ái thay
là lời tuyên bố ấy! Không cần khoe khoan bằng văn chương tuyệt bút mà những lời
chất phác trên kia cũng tỏa đặng tâm tình của một trang Đại-đức.
Theo thế thường người nào
đi tu cũng có cái hy vọng đắc Đạo thành Tiên, chớ ít ai lẫn-lộn trong chốn trần-la
vì sợ khổ tâm nhọc trí. Vậy mà Anh Cả chúng tôi chẳng hề nao-núng, thậm chí có
người lo sợ dùm, nên đến khuyên Người giải quyền nhập tịnh cho yên, mà Người
nói rằng:
"Dầu phải thời tử Đạo,
Người cũng vui lòng, chớ Người không vì sợ chết mà bỏ phận sự". Xem đó thì
đủ thấy cái đại chí của Người vì Người thấu mục đích tối cao của Đạo. Mà tôn chỉ
của Đạo có cái ý nghĩa "không dữ mà hùng, hòa mà không nhược".
Cái ý nghĩa đó Anh Cả
chúng tôi hiểu thấu mà cũng đã thật hành rồi, nền Đạo mới đứng vững đến ngày
nay.
Anh Cả chúng tôi lại còn
hiểu rộng cái nghĩa "từ bi, bác ái" mênh mông lai láng, nên phải gặp
nhiều cái phản-động-lực của những người thiển kiến.
Bởi vì từ bi bác ái mà hiểu
nghĩa hẹp hòi quanh quẩn trong hoàn cảnh của mình thì cũng còn là "ích kỷ".
Anh Cả chúng tôi không vì sự thương thấp thỏi của thường tình mà bỏ cái thương
Đại-đồng thế-giái, cho nên phải gặp nhiều nỗi tân toan. Tuy vậy mà Anh Cả chúng
tôi vì công đức hơn là vì tư đức, dầu ai muốn nói sao thì nói, làm sao thì làm,
Người cứ một mực tiến hành, miễn là trong tâm nhứt quyết đuổi theo một chủ
nghĩa cao siêu của bề trên phú thác vì lòng tín-ngưỡng của Người rất là đặc biệt,
ít ai sánh kịp.
Ngày nay Anh Cả chúng tôi
đã vào cõi hư vô rồi, thiết tưởng những phản-động-lực kia cũng lần lần giảm bớt.
Anh em trong Đạo cũng đã rõ thấy mà nhận thức cái chơn lý sờ sờ kia vậy. Cái
khó nhất là phải có đủ đức kiên-nhẫn để chống lại với các phản-động-lực ở trong
Đạo và ngoài Đời.
Trong Đạo cũng vậy, mà
ngoài Đời cũng vậy, có nhiều lý thuyết tương phản nhau vì trí độ phàm của con
người không thể đồng nhau đặng. Kẻ thì ưa thuyết duy tâm, rồi cứ chuyên chú một
mặt tiêu cực, còn người lại thích duy vật thì chuyên chú một mặt tích cực, mà mỗi
phía đều cực-đoan thì tránh sao khỏi xung đột. Hai phía xung đột nhau mà bắt Đạo
ở trung gian làm nơi chiến địa thì kẻ cầm quyền trong Đạo tránh sao khỏi những
nỗi khó khăn, vì vậy mà Anh Cả của chúng tôi chịu nhiều đau đớn. Ôi! Một Đấng
anh hùng như thế, một tay kiện tướng của Đạo như thế, nay đã ra người thiên cổ.
Dẫu phải gan sắt dạ đồng
cũng phải rơi châu mà thương tiếc”
Lòng thiết-tha phụng-sự
cho nghiệp Đạo như thế làm sao khỏi động lòng Trời. Nhờ ơn Thượng-Đế mà Việt-Nam
này mới cỗi ách oan-khiên đồng thời cả nhân-loại cũng nương nhờ nơi diệu-pháp
D - TINH-HOA CỦA NỀN QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG
1 - Đạo có triết-lý, Giáo-lý, Giáo-pháp:
Thử hỏi “QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG”
ngày nay đã dựa trên nền tảng nào? Lập-trường nào?
- “Đạo CAO-ĐÀI là một
CHÁNH-GIÁO, tức là nền ĐẠO để thay thế tất cả Tôn-giáo đã có từ trước. Vì lẽ
các Tôn-giáo ấy ngày nay không còn phù-hợp với lương-tri, lương-năng của loài
người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn-giáo ấy ngày nay đã bị bế.
“Những điều bí-yếu bí-trọng
trong nền ĐẠO CAO-ĐÀI, những triết-lý cao siêu mà chỉ ĐẠO CAO-ĐÀI mới có, tuy
nhiên, âu cũng là một đặc-ân của ĐỨC CHÍ-TÔN dành cho ĐẠO CAO-ĐÀI là HỘ-PHÁP
thay lời ĐỨC CHÍ-TÔN nói ĐẠO cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng
là chỗ đó….” (ĐHP)
Như vậy nền Đại-Đạo này đã
có đủ kỷ-cương: nghi-thức cúng kính, phượng thờ, giáo-lý, giáo-pháp hẳn hòi…tức
là đủ yêu-tố để làm một Quốc-Đạo.
Điều này Ngài Bảo-Thế
Lê-thiện-Phước cũng đã nêu rõ trong bài Diễn-văn đọc tại Hội-Nghị Tôn-giáo thế-giới
tại Tokyo (Nhựt-Bản) ngày 1-6 Ất-Mùi (dl 19- Juillet 1955)
“ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ do
Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng Huyền-diệu Cơ bút khai sáng tại nước Việt-Nam từ năm
Bính-Dần (1.926) đến nay đã 30 năm, độ dân được một số thiện-nam tín-nữ hơn hai
triệu người, Tổ-Đình thờ Đức Chí-Tôn và Đền thờ Đức Phật-Mẫu lập thành tại
Thánh-địa Tây-Ninh. Hội Thánh hành-đạo dưới quyền Đức Tiên-Trưởng Lý Thái-Bạch
kiêm Giáo-Tông về mặt vô-vi, còn về mặt hữu-vi thì dưới quyền Đức Quyền
Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt, nay đã qui thiên. Hiện giờ Đức Hộ-Pháp chấp-chưởng
quyền tối cao trong cửa Đạo cho tới ngày có Giáo-Tông hữu-hình chánh-vị.
Luật-pháp: Luật-pháp của Đại-Đạo
là Tân-luật và Pháp-Chánh-Truyền do Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng huyền-diệu Cơ
bút giảng dạy để làm qui-củ chuẩn-thằng cho Hội-Thánh truyền giáo.
Diệt trừ mê-tín dị đoan, bất
nạp bóng chàng, phù thủy, bổn Đạo dung-hoà mọi tín-ngưỡng và tùy khả năng tiến-hoá
của mỗi hạng người và phong-tục của mỗi điạ-phương mà phổ-độ.
Tôn-chỉ: Tôn-chỉ của Đại-Đạo
là dìu-dẫn quần-sanh trên con đường xử thế, lấy luân-lý và triết-lý làm yếu-tố.
Luân-lý: Luân-lý thì dạy
con người giữ Đạo nhân-luân, làm tròn bổn phận mình, đối với mình, đối với
gia-đình, đối với xã-hội là gia-đình rộng lớn, đối với toàn cả thiên-hạ là Đại-Đồng
huynh-đệ.
Triết-lý: Triết-lý thì cấm
xa-hoa phung-phí, tránh bã lợi mồi danh, trọng duy tâm hơn duy vật và xả phú cầu
bần, xả thân cầu Đạo đặng giữ cho tâm thần được thơ-thới nhẹ-nhàng.
Giáo-lý: Giáo-lý của Đại-Đạo
là chuyên về tín-ngưỡng và tu-trì, dìu-dẫn quần-sanh trên con đường xuất thế.
Tín-ngưỡng: Tín-ngưỡng thì
dạy thờ Đấng Tạo-đoan là Trời, là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Chúa tể Càn-khôn vũ-trụ,
sùng thượng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đã dày công giáng trần độ thế. Đại-Đạo
cũng như các Tôn-giáo nhìn nhận linh-hồn bất tiêu bất diệt và tồn-tại mãi theo
định luật quả báo, có vay có trả, phải chuyển kiếp luân-hồi đền nợ tiền-khiên đặng
lần bước trên con đường sáng suốt cho tới cõi Hư-linh hằng sống.
Tu-trì: thì dạy lập công bồi
đức, thủ giới trì trai, trau-giồi đạo-hạnh, tịnh-dưỡng tinh-thần, tu tâm luyện
tánh đặng đoạt vị thiêng liêng”
2 - Quan-trọng nhất là căn-bản Pháp Luật Đại-Đạo
Đức Hộ-Pháp nói:
“Luật của HỘI-THÁNH để định
quyền cho ĐẠO, cho đại-gia-đình của tinh-thần nhơn-loại, ngó thấy TÂN-LUẬT và
PHÁP CHÁNH-TRUYỀN là một chơn tướng lập THÁNH-THỂ của Ngài không cần luận đến,
chỉ luận về TÂN-LUẬT mà ĐỨC CHÍ-TÔN và ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG đã dạy HỘI-THÁNH khi mới
khai ĐẠO, lập trong ba tháng phải thành-tựu, trong TÂN-LUẬT con cái của ĐỨC
CHÍ-TÔN đều ngó thấy, Bần đạo không cần lập đi lập lại vô ích, chỉ lấy cái
tinh-túy của nó là trong TÂN-LUẬT ấy ĐỨC CHÍ-TÔN định NGŨ GIỚI-CẤM và TỨ ĐẠI ĐIỀU-QUI
và trong ấy bảo vệ TAM-CANG NGŨ- THƯỜNG của toàn thể con cái của Ngài, thật ra
cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài:
Luật chỉ có một là
THƯƠNG-YÊU
Quyền chỉ có một là
CÔNG-CHÁNH
Thiên hạ đã lập luật nhiều
quá, mà cái luật của thiên hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều thấy, dầu cho họ có
thay đổi cho tới tận thế, họ chưa có phương nào làm cho nó phù hợp với cả nhân
tâm bao giờ. Còn ĐỨC CHÍ -TÔN đến lập luật có một điều mà thôi là THƯƠNG-YÊU. Cả
thảy đều hiểu cái luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không, người nào
không có dính trong cái luật THƯƠNG-YÊU ấy thì chẳng hề họ sống được bao giờ nhứt
là sống chung của đồng-loại, hoặc họ phải tự họ ly dị cả nhơn-loại hay là cả
nhơn-loại buộc phải đào thảy họ, nếu họ không tuân cái luật ấy .
Còn cái quyền CÔNG-CHÁNH,
công-bình, chánh-trực dầu một kẻ không học kia, dốt nát thế nào mà học được hai
cái đặc tính quí báu ấy, tôi tưởng cả thảy thiên hạ đều cúi đầu tôn trọng kính
nhường mà nhứt là THƯƠNG YÊU.
Thiên luật của ĐỨC CHÍ-TÔN
là vậy!
TÂN-LUẬT ĐỨC CHÍ-TÔN cốt-yếu
muốn cho ta làm, đặng ta bảo vệ cái TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG của nhân loại. Nói về
phương Đông này dầu cho luận tới các quốc-gia, xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự-trọng,
họ văn-minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ; nếu họ
ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã-hội của họ thì nó sẽ thành cái gì chứ không thành
xã-hội” (ĐHP 30.3.nh ẤT MÙI)
“Vì cớ cho nên cả khuôn khổ
quyền-lực của ĐẠO cốt-yếu để tạo THÁNH. Bây giờ ta mới luận về quyền đời: cả
quyền đời, thật quyền của họ, thiệt lực của họ là NHƠN-ĐẠO. Muốn thành tựu NHƠN-ĐẠO
ấy họ phải thông-minh trí-thức, lịch duyệt thế tình; thông-minh trí-thức phải học,
lịch duyệt thế tình họ phải chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy.
Vì cớ cho nên một ông quan
mới đầu tiên thủng-thỉnh bực nhỏ lên bực cao, học đặng chuyên chú nghề nghiệp của
họ, cốt-yếu họ cầm quyền trị dân ấy, đặng chi? Họ mong mỏi gì? Họ mong-mỏi cho
toàn cả nhân-loại được hạnh-phúc, cả cái sống còn của dân được bảo thủ cái
sanh-hoạt của dân được hòa-ái, tương thân, thật ra họ không có đi ngoài khuôn
khổ TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG của văn-minh ta lưu lại từ thử tới giờ.”
3 - Chương-trình học-vấn để trở thành Quốc-Đạo:
Muốn đặng hòa-bình người
CAO ĐÀI ngày nay HỌC những gì?
Bà ĐOÀN THỊ ĐIỂM đã giáng
cơ ban cho tập thi ca: Nữ Trung tùng phận dài 1401 câu, đã nêu rõ chương trình
học vấn đủ đầy với mục đích là: “Học tinh-thần khai thác NHO TÔNG ” (câu 442)
Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu
Học cho hay trọng-yếu miếu đường
Tầng quen cỡi ngựa cầm cương
Trận trung quyết-thắng chiến-trường đoạt binh
Lựa những mặt tài tình thọ giáo
HỌC cho hay mối đạo quân thần
Trương Lương dâng dép ba lần
Chút công ấy dịnh HỚN TẦN nên hư
TRỌNG-NI nhận vi sư HẠNG-THÁC
HỌC tinh thần khai thác NHO-TÔNG
Gẫm coi tổn bấy nhiêu công
Làm cho thiên hạ đại-đồng trí-tri
Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu
HỌC hay kế nhiệm mưu mầu
HỌC nên tài đặng giải sầu quốc-gia
HỌC đặng định chánh tà giả thiệt
HỌC cho thông đặc-biệt hư nên
HỌC gan sắt đá cứng bền
HỌC cho đủ chước xây nền NAM-PHONG
HỌC cho rộng giao thông tứ xứ
HỌC cho cùng xử sự ngoại-lân
HỌC cho đúng bực tài thần
Ưu quân ái-quốc vua cần dân nghinh
HỌC cho thấu máy linh cơ tạo
HỌC cho toàn trí-xảo văn-minh
Thâu tài hay, nhập nước mình
Làm cho dân hưởng thái-bình giàu sang
CHƯƠNG II
ĐỨC CHÍ-TÔN ĐẾN ĐẶNG CHUYỂN QUỐC-ĐẠO
Thật ra ngày giờ này con
dân Việt-Nam muốn đến toà lâu-đài nguy-nga ấy cũng phải có được trong tâm-hồn một
dòng máu bất-khuất, dòng máu đạo-đức lưu-truyền từ Ông cha đã bao đời truyền nối,
thì cái học ấy mới phát-huy được hết tinh-thần Nho-Tông mà làm ngọn đuốc thiêng
cho toàn nhân-loại trong buổi này!
Thử hỏi tâm-hồn của người
Việt-Nam trong buổi này đang hướng về đâu? Phải nương vào đâu làm điểm tựa cho
tâm-hồn?
A - Tổ-Phụ lưu truyền nền văn-minh tối cổ là Nho Đạo
Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo
(đêm 14-3 Giáp Ngọ)
“Bần-Đạo thuyết về tâm hồn
của dân tộc Việt Nam trong giờ buổi này.
Cả thảy con cái Đức Chí
Tôn Nam, Nữ cũng như Bần Đạo. Chúng ta đã thọ hưởng đặc ân Tổ-Phụ lưu truyền một
nền văn-minh tối cổ là Nho Đạo.
Cả phong-hóa văn hiến đều
thuộc về Khổng-Giáo, từ khi lập quốc thì dân do căn bản tối cổ của nền văn-minh
Khổng-Giáo mà đào tạo nên hình tướng của quốc-thể chúng ta. Có lẽ hồi Tổ Phụ
Ông Bà lập quốc tưởng cho cái nền văn hiến cổ truyền ấy nó phải còn tồn tại mãi
mãi. Do nơi đó mà đào tạo cả tâm-hồn của nòi giống; chắc các Đấng ấy chưa biết
sự thay đổi trong giờ phút này mà các con cái của họ; máu-mủ của họ đã chịu ảnh
hưởng.
Nếu nói phong-hóa cổ truyền
của Tổ-Phụ chúng ta để lại, thì con người của chúng ta về tâm-hồn vẫn chơn chất
hiền-lương đạo-đức. Nếu nói cái tâm hồn chơn-thật của họ thì vẫn là hình tướng
Đạo-giáo tạo cho họ đó vậy.
Sau 80 năm dưới quyền đô-hộ
của Pháp, Pháp đã đem cho ta một nền văn-hiến mới nữa là: Văn-hiến của Đạo
Thiên-Chúa mà ta gọi là Gia-Tô-Giáo từ trước.
Ấy vậy ta thử lấy trí xét
đoán coi cái nền văn-minh của ta, văn-minh tối cổ ấy đương nhiên cùng với một nền
văn-minh tối-tân kia, thử hỏi tâm lý Nho-Tông đào tạo phong-hóa của ta như thế
nào? Phong hóa của Thiên-Chúa-Giáo đào tạo nền văn minh giờ phút này chúng ta
chịu ảnh hưởng gì?
- Một đàng thì chỉ lấy Đạo
Tam Cang Ngũ Thường làm căn bản, chỉ biết lấy tinh thần tâm lý làm mực thước mà
đào tạo tâm hồn của mình.
- Còn một đàng thì lấy
khoa học, lấy quan sát thiệt tướng của sự sống làm căn bản.
Chúng ta ngó thấy hiển-nhiên
trước mắt rằng: Hai cái hình ảnh ấy chẳng khác nào như hai người đàn bà:
- Một người thì chơn-chất
thật thà chỉ lấy tâm-lý làm căn-bản cử xử thế tình, lấy tâm làm mực thước, một
hành-vi chi chẳng hề khi nào dám đi qua của tiếng gọi tâm hồn.
- Một đàng lấy cả phong thể
trang nghiêm hình ảnh đẹp đẽ sang giàu, hết thảy cả bóng dáng mỹ thuật ở trong
mình đào tạo ra, thì chúng ta ngó thấy một đàng lấy Sắc làm căn bản, một đàng lấy
Tâm làm căn bản.
Bần Đạo dám chắc; thử
chúng ta để dấu hỏi (?) nếu như có một người mỹ-nhân như thế và một người
thô-nhơn như thế. Ta để câu hỏi có một vị tình lang đang chọn lựa như vậy: Bần
Đạo dám chắc sự chọn lựa ấy không cần nói cả thảy các con cái Đức Chí-Tôn đã để
trong cái trí và trong mình rồi. "Hữu nhan sắc hữu ác đức" lời cổ nhơn
đã để lại quả không sai đó vậy.
Bây giờ chúng ta nghĩ lụng
lại, nếu như một người lịch-sự kia, chúng ta để trong óc não của họ, dạy dỗ họ
cho có tâm hồn nhân-đức, đạo nghĩa, biết giữ khuôn khổ của một người đàn bà thì
đáng giá là người của thiên-hạ đó, là vì họ lấy Tam Tùng Tứ Đức làm căn bản.
Người lịch sự ấy làm y
theo lời mình đã dạy thì quí hóa thế nào, tôi tưởng cả thảy trên mặt địa cầu
này, nếu người đàn ông nào để ý lập đời thì mơ mộng có một điều là: Được người
vợ nhân-từ đạo nghĩa mà lại đẹp thì còn hạnh phúc nào hơn nữa.
Nếu có tay nào đào-tạo được
như thế thì dám chắc cả thiên hạ khen tay đó lắm vậy!
Ấy vậy tâm hồn của thiên hạ
như thế đó, ta thử hỏi có thể nào đào tạo nhơn loại, đẹp đẽ như sự mơ ước của
chúng ta đó hay chăng?
Bần Đạo trả lời: Đạo Cao
Đài sẽ đào tạo họ!”
Nhưng thương thay cho
dân-tộc Việt-Nam phải chịu thua sút, chịu chậm tiến hơn các nước khác, cũng vì
cái án bất công của xã-hội, của chế-độ đã áp đặt Nữ-phái một cách quá đáng: nhất
là không cho đi học. Như thế sự dốt nát chẳng những đè nặng lên đầu người Nữ-phái
mà thôi, lại còn gây thêm biết bao điều mê tín dị-đoan; họ biết đâu là chơn-lý,
đâu là văn-minh và nhất là không có mối Đạo nhà. Chính vì lý-do này làm cho
dân-tộc phải đi đến mất nước và cội nguồn văn-hoá, đạo-đức cũng bị lung lay. Phải
nhìn thẳng vào sự thực để thấy rằng:
B - “TỪ TRƯỚC NƯỚC NAM CHẲNG ĐẠO NHÀ”
Đức Chí-Tôn xác nhận điều ấy
rằng “Từ trước nước Nam chẳng Đạo nhà”
Đức Quyền Gíáo-Tông cũng
có nói rõ lý-do là Việt-Nam từ trước đến giờ không có Đạo.
“Quả thật vậy!
“Người nước Nam từ cổ chí
kim thật không có ĐẠO trong nưóc nhà, mà người Nam ta có tâm đạo, người Nam trổi
danh khắp địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo PHẬT, đạo TIÊN, đạo NHO tuy khai bên ẤN-ĐỘ
và TRUNG HOA, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái.
Đạo GIA-TÔ của mấy vị
Linh-mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng.
Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu, đi nhà thờ cầu-khẩn, vọng
tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ trời Phật. Người không đi chùa, đi miễu, không đi nhà
thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo NHO.
Mấy bằng cớ trên đây chỉ
rõ-ràng người Nam-Việt tin-tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng
người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt, chớ linh-hồn bất tiêu bất-diệt.
Vì Đạo-Tâm ấy mà trong thời-kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật
của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ (ân-xá lần thứ ba).
Tuy khai ĐẠO tại nước Nam
mà cũng khởi ư Đông. Bàn-cổ sơ khai: Thiên khai ư Tý, địa tịch ư Sửu, nhân sanh
ư Dần.
Từ năm Bính Dần, đạo phát
khởi tại TÂY-NINH lần lần truyền ra Gia-định, Biên-hòa, Thủ-dầu-một (Bình
Dương), Chợ-lớn là mấy hạt ở hướng Đông. Qua năm thứ nhì, thứ ba, ĐẠO mới truyền
ra mấy hạt ở hưóng Tây.
Dẫn hồi tạo thiên lập địa
thì nội vùng Á-đông đây văn-minh trước, nên từ Bàn cổ sơ khai, Đạo cũng khai
bên vùng Á-đông trước, như: đạo Phật thì cũng khai mở tại Thiên-trước là Đức
Nhiên-Đăng Cổ Phật; Thích-Ca khai đạo Phật, Đại-Đạo là đạo TIÊN thì LÃO-TỬ khai
tại Trung-Huê; sau nữa Khổng-Phu-Tử khai đạo THÁNH cũng tại Trung-Huê là ở miền
Á-Đông.
Sau, lần lần Đạo trải khắp
qua hướng Tây nên ĐỨC CHÚA JÉSUS truyền đạo THÁNH bên hướng Tây. Kế đó ĐẠO mới
roi truyền ra khắp năm châu.
Ngày nay là châu nhi phục
thủy nên ĐẠI-ĐẠO phát ra tại Á-đông này. Bởi cớ ấy nên trong bài khai-kinh của
Đức LỮ-TỔ cho hai câu đầu như vầy:
“Biển trần-khổ vơi vơi trời nước
“Ánh thái-dương giọi trước phương Đông”
Mặt trời mọc ở hướng Đông
rồi lần lần lặn thì qua hướng Tây, Đạo truyền ra cũng như thế.
Trong thời đại hạ-nguơn
này đây, nhân-loại ở thế gian phần đông vì ham cái văn-minh vật-chất, ham ăn mặc
sung-sưóng, giành giựt cấu xé mồi phú-quí, bã vinh-hoa, vẻ cân-đai, mùi chung-đỉnh,
mạnh còn, yếu mất, đua chen lẫn lộn
Than ôi! Nếu nhân-loại như
thế sao khỏi động lòng Trời!
Đấng CHÍ-TÔN vì háo sanh,
đại-từ đại-bi, thấy nhân-loại đang mờ-mịt trong vòng hắc ám, lầm đường lạc nẻo
mới khai ĐẠI-ĐẠO để độ dẫn chúng sanh thoát khỏi bến trầm-luân khổ hải này.
Tôi chỉ rõ cho thiện nam
tín nữ biết rằng: Người Nam không ĐẠO nhà, mà nay Đấng CHÍ-TÔN thương tâm-đạo
chúng ta nên khai ĐẠO tại đây.
Hồi đầu của năm khai ĐẠO,
ĐỨC CHÍ-TÔN có cho ông Nguyễn Thế Vinh cũng là người đạo-đức và con nhà
Nho-phong ở tại Chợ-lớn một bài thơ tứ tuyệt như vầy:
Từ trước nước Nam chẳng đạo nhà
Nay TA gầy dựng lập nên ra
Ví dầu ai hỏi sao bao nã?
Rằng trẻ roi sau biến hóa già!
Bài thơ tứ tuyệt này chứng
tỏ rằng tự cổ chí kim nưóc ta không đạo nhà; nưóc mà không Đạo cũng ví như người
ta không hồn, nhà không đạo-đức tự-nhiên cang thường luân-lý phải suy bại.
ĐẠO là chi? ĐẠO rất cao
thâm mầu-nhiệm, Đạo trùm càn-khôn thế giới không có vật chi, không có việc chi
ra khỏi ĐẠO, tôi xin diễn tắt rằng hễ có đời tức nhiên có ĐẠO (Quyền Giáo Tông
24.8.Mậu Thìn)
Nhưng tại sao lời thơ lại
nói:
“Rằng trẻ roi sau biến hóa
già”?
Đức Hộ-Pháp đã lý giải lời
này vào năm 1946 rằng:
“ĐẠO CAO-ĐÀI tức là ĐẠO Tổ-Phụ
của chúng ta…mà ĐẠO TỔ-PHỤ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó!”
Tại sao ĐẠO được 2.500 tuổi?
- Vì Cao-Đài Đại-Đạo chính
là Phật-Giáo chấn hưng tức nhiên đã có từ 2.500 năm nay rồi, nay Đạo trời đến
khai ngươn chỉ là một sự tiếp nối mà thôi.
Nay đã đến thời kỳ chuyển
thế, Tam-giáo qui-nguyên Ngũ-chi hiệp-nhứt tức là nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã
thành hình đó. Ngày khai Đạo tại Từ-Lâm tự, Gò-Kén Tây-Ninh nhằm ngày rằm tháng
mười năm Bính-Dần (dl 19-11-1926) Đức CHÍ-TÔN có giáng cơ ban cho đôi câu đối để
làm biểu-ngữ:
- DI-LẠC thất bá thiên
niên khởi khai Đại-Đạo.
- THÍCH-CA nhị thập ngũ thế
chung lập Thiền-môn.
彌 勒 七 百 千 年 起 開 大 道
釋 迦 二 十 五 世 終 立 禪 門
Tức nhiên kỳ khai Đại-Đạo
này do quyền chấp chưởng của PHẬT DI-LẠC sẽ ngự trị toàn tâm lý thiên hạ trong
700 ngàn năm.
Trong khi đó Đạo Phật của
Đức Thích-Ca làm Chưởng-giáo trong nhiệm kỳ 2.500 năm đã kết thúc mối đạo Thiền.
Quả tình đã có sự chuyển
tiếp và có ấn chứng của thiêng-liêng
Đức Hộ-Pháp kể lại lời nói
của Ngài Khai-Pháp Chơn-Quân trong ngày lễ Đại-tường của Người với một niềm tin
vững-vàng rằng:
“Tôi tưởng dòng dõi của
dân-tộc Việt-Nam trên 4.000 năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí-Tôn đến định lập
QUỐC-ĐẠO thì chắc hẳn rằng đất nước Việt-Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ-quốc
và giống nòi, dân tộc Việt-Nam sẽ cởi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo
hành”. (Khai-Pháp 12-8, Ất-Mùi-1955)
C - ĐỨC CHÍ-TÔN ĐẾN ĐẶNG CHUYỂN QUỐC-ĐẠO
(Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 14-10 Quí-Tỵ)
“Thật ra, nếu không phải
cái huyền-linh vô đối của Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển quốc đạo chỉ trong một thời
gian ngắn ngủi thì nền Đạo chưa rõ đến địa-vị cao trọng và qúi hóa như thế này.
ĐẠO CAO-ĐÀI tức Đạo Tổ-phụ
của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi nếu chúng ta kể từ ngày chuyển thế
của nó. Nhưng Thánh-Thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái nam nữ của Ngài nên nhớ
rằng: Đạo Tổ-phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó!
Để nói rõ Thánh-ý của Đức
Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì? Giờ phút này cả toàn con cái của Ngài chắc
có lẽ thắc-mắc vì vậy. Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta
không nói rằng nó đã chịu một khó-khăn về mọi phương diện.
Nhưng đối với Bần-đạo, Bần-đạo
thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-đạo
lại vui mừng mới chướng cho chớ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn
muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi
khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo để con mắt quan-sát coi có quả
như vậy hay không?
Cái khó nỗi đảm-đang đương
nhiên bây giờ làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo là sửa-soạn tô-điểm đặng một đài
vinh-diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn
có đức-tin thì hiểu rõ điều ấy.
Trái ngược lại hễ mỗi phen
đã gặp khổ-hạnh khó-khăn chi trong cửa Đạo thì nhớ lời của Bần đạo: vui đi! mừng
đi! Bởi chẳng hề khi nào trật điều đó. Để quan sát lại coi, rồi sẽ thấy cái
vinh diệu của Đạo Cao-Đài sẽ đến mức nào trong thời gian sau đây” (14-10-Qúi-Tỵ).
Nay là buổi mà nhân-loại
đã văn-minh cực-kỳ về phương-diện hoá-học. Hầu như đã đi đến tuyệt đỉnh ước muốn
về nhu-cầu đời sống của con người. Nhưng nếu được tiếp nạp nguồn văn-minh ấy từ
người vào mà chính mình chưa có văn-minh từ trong tâm-hồn thật sự, thì e rằng
mình chỉ học lấy bóng dáng bên ngoài mà thôi. Điều lợi-lộc ấy phải trả bằng giá
đắc quá!
Ngay thời điểm Đức Hộ-Pháp
còn sanh tiền, Ngài đã có nói về vấn-đề Văn-minh ấy.
1 - Hai chữ Văn-Minh của thời-đại này
Đức Hộ-pháp nói:
(Bài 22-TLHS đêm 18 tháng 01 năm Kỷ-Sửu
(15-02-1949)
“Toàn-thể con cái của Đức
Chí-Tôn không có thể quyết-đoán nỗi triết lý cao siêu trọng-yếu tấn-triển của
phần hồn, nhứt là phương-pháp đoạt-vị của mình.
Còn một thuyết trọng-yếu
nơi mặt thế này, làm cho các Đẳng Chơn Hồn quả-kiếp biết bao nhiêu thống khổ,
nhứt là giục thúc chiến-đấu tấn triển từ thử đến giờ, đã gây biết bao nhiêu tội
tình đó là Văn-Minh 文 明
Hôm nay Bần-Đạo thuyết hai
chữ Văn-Minh của thời-đại này.
Văn-Minh là gì? Lấy theo
chơn-tự Việt-Ngữ tức nhiên Nho-Tông của chúng ta.
Văn 文 nghĩa là những lời lẽ, hoặc là văn-hóa hay văn-chương, những lời-lẽ mà
chúng ta đã đoạt đặng của người khác hay của mình đặt ra.
Minh 明 nghĩa là minh-bạch rõ-ràng, sáng-suốt, lời lẽ minh-bạch rõ-ràng, đã giúp
ta đoạt đặng những phương-pháp, để mà định quyết tương-lai hay là giữ tồn tại sự
tiến triển trong kiếp sống của mình, hoặc là chúng ta dùng phương-pháp về văn tự,
để lưu truyền ngôn-ngữ của chúng ta, đặng định một sự tấn triển của phương sống;
hay phương-pháp sống của xã-hội, chúng ta đã định, chúng ta đã đoạt được, tức
nhiên sự tiến-hóa tồn tại, bảo thủ với một phương-pháp văn-chương, đủ lẽ hay là
giải-nghĩa bao quát của chữ Văn-Minh là Civilisation.
Chúng ta nên hiểu có ba
nghĩa Civilisation, có thể tưởng rằng:
1 - Một là tổng-số của sự
tiến-triển về tâm-lý tức nhiên về chính lý, về khuôn khổ, về hình thức của sự
sinh-hoạt con người đã đoạt đặng và lấy trí óc bảo thủ cho nó tấn triển thêm, tấn
triển cho mỹ-mãn hơn nữa.
2 - Thứ nhì là tổng-hợp
các sự tấn triển của xã-hội, một quốc-gia mà họ đã đoạt đặng, họ muốn bảo thủ tồn
tại, nhưng họ bị tư-tưởng mới mẻ hay là những điều mới-mẻ do phương tiện của sự
sanh-hoạt mới mẻ sản-xuất, giục thúc họ, dường như muốn khám phá những cơ-nghiệp
của họ, đào tạo về văn-hóa của họ, về phương diện hạnh-phúc cho họ. Tư-tưởng mới
mẻ ấy, có thể bỏ ra, nếu cả đại-nghiệp của họ được, họ tìm phương bảo thủ cho
còn tồn tại.
3 - Thứ ba là phương-pháp
của tinh-thần quyết thắng vật-chất, tức nhiên là những phương-pháp mà chúng ta
không thể đè nén cả tinh-thần về thể-chất của hình thú ta, với cái trí óc ta vẫn
biết Thiêng-Liêng do Thiên-tánh, đặng làm cho người xứng đáng làm người, không
hạ mình xuống tánh chất con thú.
Với ba nghĩa lý ấy, nghĩa
lý nào chắc?
Nếu nói ba thuyết ấy chắc
cả thảy ba, thì chúng ta nên nhìn nhận nghĩa lý sau chót hết là chánh-đáng, tại
sao mà không có thể tưởng tượng rằng: Giúp cho loài người đến địa-điểm có thể
tưởng là hạnh-phúc được.
Con người bây giờ có thể
bay giữa không trung như con chim kia là máy bay, có thể lặn xuống biển được là
nhờ máy móc, có thể không ở mặt đất mà lại ở trên mây, trên không khí
Thiêng-Liêng, nó không cần đi mà nó có thể chạy trên mặt đất, nó không cần bay
mà nó có thể ở giữa lưng trời được, nhưng chưa phải đó là hạnh-phúc! Đó là theo
cái văn-minh mà thiên hạ tưởng-tượng, có thể đào tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại đặng,
không phải theo ôm bó hay an ủi hoặc bợ-đỡ đặng mảnh thi hài đầy-đủ sung-sướng
hạnh-phúc, hay nó giúp cho mảnh thi hài này tưởng-tượng mình không còn một lực-lượng
nào đối phó với mình. Tưởng hạnh-phúc thực sự, nhưng chưa phải là thật hạnh-phúc
của họ vậy, hạnh-phúc thiệt không phải là phần xác, hạnh-phúc thiệt của con người
là phần hồn.
Chúng ta đã ngó thấy biết
bao nhiêu vị Vương-Đế đã tạo giang-san sự nghiệp, từ thượng-cổ đến giờ ai không
tưởng đến: "Tứ hải vi thiên hạ chi giao", lấy hạnh-phúc của một Đấng
làm Chúa cả các dân-tộc khác, mà so sánh dám chắc nếu chúng ta dở lịch-sử ra
coi thì chúng ta để dấu hỏi mơ-hồ họ chưa có thể chắc hạnh-phúc được.!
Trái lại chúng ta thấy một
tấn tuồng: "Hễ càng cao danh-vọng lại càng dày gian-nan". Nếu họ
không thỏa-mãn về tâm hồn thì không phải là hạnh-phúc! Dầu sang trọng, sung sướng
cách nào cũng chưa gọi là hạnh-phúc được, không phải tâm hồn thỏa-mãn thì không
phải là hạnh-phúc thật.
Con người bao giờ cũng vậy,
đi tìm hạnh-phúc chớ không phải tìm ăn, tìm sống, nhờ sống cho họ sang cả
vinh-hiển phủ-phê thỏa-mãn, ấy là về phần xác của họ mà thôi. Dám chắc chúng ta
đoạt được dầu hạnh-phúc ấy hiện hữu, chúng ta thấy một vật vi hậu, con người
bao giờ cũng vậy, thân-thể của họ sung sướng bao nhiêu đi nữa chỉ hai ba ngày đầu
thôi, còn thú-vị đến năm ba ngày sau họ nhảm-nhí. Hễ họ đoạt được hạnh-phúc về
phần xác, dầu cho họ đoạt được đến địa-vị bực nào đi nữa cũng không thỏa-mãn,
cái hạnh-phúc không phải do nơi xác thịt này mà sung sướng hay vinh-hiển.
Ấy vậy, văn-minh tạo hạnh-phúc
cho loài người về phần xác là đời, chẳng khác nào như ngọn cỏ đầu sương, bất
quá là lòe con mắt cho thiên-hạ mà thôi, chớ chưa thỏa-mãn. Họ tạo dựng không phải
tồn-tại, không phải vinh-hiển.
Cái thuyết của văn-minh là
cái phương-pháp giúp cho con người biết duy-chủ con vật của mình, mà điều-độ sự
sống còn tồn-tại nơi mặt thế này. Sống tạm tại mặt thế này làm cho họ thỏa-mãn
đặng điều-độ mảnh thi-hài, hay thể-chất này thôi, duy có tinh-thần đạo đức mới
đặng.
Một lần nữa, giải thật
nghĩa hai chữ Văn-Minh:
Văn là quyền hạn, Minh là
sáng-sủa đạo-đức. Nếu Văn-Minh mà thiệt-tướng được, là thực-hiện một nền
Tôn-Giáo cao siêu tại mặt thế-gian này mới thiệt hạnh-phúc. Về phương-pháp Đạo-Đức
mới thật hạnh-phúc”.
Cái hạnh-phúc thật sự phải
được lập trên thân danh của mỗi người!
2 - Phương pháp lập thân danh.
(Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm
14-11 Giáp-Ngọ)
“Đêm nay Bần-Đạo giảng cho
đám Thanh Niên Nam Nữ lưỡng-phái. Có lẽ giảng hơi dài, đừng vì lẽ mệt ngồi ngủ
gục, hãy cố lắng tai nghe:
Bần Đạo giảng phải lập
thân danh thể nào và căn bản nào? Vả chăng sanh nơi thế kỷ 20 này. Bần-Đạo thường
nói: Cái phương sống của con người là tranh-đấu cố gắng đem cả trí não
khôn-ngoan đặng bảo-vệ sống còn của mình. Có lạ chi, dầu muốn, dầu không, dầu
thuận tùng hay là nghịch. Hỏi kiếp sanh của mình đã rủi sanh làm người rồi,
thân của chúng ta ở giữa vạn-vật là vật hữu sinh cũng như cả vạn-vật kia vậy.
Có thân, có phận thì con người của ta phải lập thân-phận thế nào? Bởi thế bậc
hiền triết thường nói:
“Đã sanh ra đứng trong Trời Đất,
“Phải có danh gì với núi sông".
Nếu con người không nên
danh-phận chi hết, dường như tinh-thần của họ thiếu phận làm người. Cái sống buộc
ta phải sống chung cùng vạn vật, ta phải khôn-ngoan khéo léo, biểu ta sống đặng
chi? Đặng làm gì?
Ta đã đồng sinh cùng vạn vật,
tức nhiên giữa khối sinh lực của ta đã xuất hiện ra, tức nhiên ta là một phần-tử
trong khối sinh-lực của toàn thể chúng sinh. Ta có phận-sự phải bảo vệ cái sống
ấy. Không có quyền diệt cái sống hay là nghịch với cái sống. Tỷ như mặt hồ kia
đầy nước, mà nếu ta múc nước trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy sẽ vơi một phần.
Ấy vậy, ta sống, ta chịu nợ
của cái sống. Sống chung cùng cả bạn đồng sanh, chúng ta phải làm thế nào cho sự
sống ấy tồn-tại hiển-hách mãi thôi. Ta không có quyền phép nào, quyền hành nào
làm mất cái sống ấy, tức nhiên không quyền diệt sự sống.
Hại thay! Chúng ta phải hiểu
rõ rằng: Sống đây không phải thú vị, vui hứng gì, mà sống đây buộc chúng ta phải
tìm phương giải-thoát khỏi sống ấy. Đương nhiên bây giờ ta vẫn sống, ta không
thể chối cải là ta đã chung sống cùng bạn đồng sinh của chúng ta là phải lập
thân danh đặng bảo vệ sống ấy.
Vì muốn bảo vệ sống ấy mà
Tiên-Nho của chúng ta để lại thuyết: "Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình
thiên hạ".
Tu thân là gì? Là trau-giồi
mình: biết mình, biết người, biết vạn-vật đặng định phận của mình. Ta không thế
ngu-muội, ta phải làm sao cho khôn-ngoan ấy nhờ tu thân. Tu thân ấy căn-bản là
gì?
Dầu cho thiên kinh vạn điển
đi nữa, cốt yếu một điều là tạo tâm-đức của ta và dùng cái tình-ái của ta cho
có khuôn khổ, có niêm luật, qui định một căn bản chắc chắn là tu thân đó vậy.
Ấy vậy, nó chỉ có bấy
nhiêu, chúng ta tầm hiểu rằng: Muốn định phận của mình, muốn tạo công danh của
mình phải do căn bản tình đức. Nếu trái lại do nơi thời may, hoặc là hung bạo,
hay là xảo trá, gian lận những điều ấy đều giả dối hết.
“Quan tiền vũ hậu”, ta thử
xem xét coi cái sống đương nhiên của bạn đồng sinh, họ đã hành vi và thi thố điều
gì? Dầu cho tên Đạo Chích kia nó là kẻ cướp, kẻ hung bạo, mà nó chưa hề dám từ
bỏ Tam Cang Ngũ Thường của nó, kẻ hung bạo dối trá chừng nào, càng ép mình
trong khuôn khổ tình đức chừng ấy. Họ mượn màu tình ái đặng lợi dụng lường gạt thiên
hạ mới đặng. Nếu đi ngược chiều tình đức thì chẳng hề làm lớn với ai được.
Kẻ cướp, kẻ hung bạo, tàn
ác, nó muốn làm anh chị thiên hạ, nó muốn mượn màu tình đức ấy, nhơn nghĩa ấy
cho tới tận cùng, gạt thiên hạ, thiên hạ theo mới đặng.
Trái ngược lại, đối với
người đã đoạt được khuôn viên tinh thần tình đức ấy, do nhiên tự nhiên nó có,
chẳng cần kiếm, nó có sẵn hiển nhiên.
Từ cổ chí kim, chúng ta dở
lịch sử của nhơn loại, chúng ta ngó thấy rõ ràng điều ấy: Bất cứ thời buổi nào
vị anh hùng nào quán thế, ở thế gian này muốn lập thân danh phải mượn màu tình
đức ấy. Bần Đạo chỉ cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm Chúa thiên hạ,
thâu thiên-hạ trong tay, phải lấy tình đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả
xương máu của họ đặng tô điểm địa vị của nó.
Trái lại nương nơi hung bạo
lập nghiệp như Sở-Bá-Vương, như Tần-Thủy Hoàng kia thì nó phải tiêu hủy cả cơ
nghiệp.
Bần-Đạo đã ngó thấy một điều,
nếu để tâm quan sát kỹ hơn nữa, hễ có tình đức chắc chắn, thì chẳng cần tìm,
công-danh cũng tự nhiên đến, dầu đến với phương diện nào nó cũng tìm đến.
Tích xưa, một bậc Hiền-triết
là: Nguyễn-Hiến là học trò yêu của Đức Khổng Tử lại là anh ruột của Đạo Chích.
Thầy Nguyễn-Hiến, Bần-Đạo thuật ra cả thảy con cái Đức Chí-Tôn thấy người như
thế không có người thứ hai nữa.
Buổi nọ Thầy Tử-Cống đi xe
bốn ngựa mặc áo lông cừu đi ngang qua nhà Thầy Nguyễn-Hiến. Thầy Nguyễn-Hiến
nghèo đến nỗi nhà lợp bằng cỏ tang, vách làm bằng cỏ du. Nghe Thầy Tử-Cống đi
ngang qua lật-đật ra chào đón, lấy áo mặc vô, vải áo rách; xỏ chân vô tới giày,
giày thủng gót; đội mão buộc không nhíp, ra đứng giữa đường đợi Thầy Tử-Cống.
Thầy Tử-Cống đi xe ngang thấy Ngài đứng bên đường, Thầy để lời than:
- Ôi! Ngài không nghĩ đến
công-danh ư?
Thầy Nguyễn-Hiến trả lời:
- Thầy xưa có nói: Kẻ biết
Đạo dù nghèo cũng không nghèo tức nhiên không làm quan, ấy là kẻ không mồ. Biết
Đạo không giữ Đạo là kẻ bịnh. Tôi chỉ là kẻ không mồ, chớ không phải kẻ bịnh!
Thử coi Thầy Nguyễn-Hiến
nói ai bịnh? Phải chăng Thầy Tử Cống bịnh?
Công danh mà chi, tới hôm
nay nhắc đến công-danh, Thầy Nguyễn-Hiến là người hi hữu danh cần gì cao trọng
như hàng phẩm của vị Thủ-tướng trong triều đình hay là vua, chúa mới lưu lại
danh phận mình.
Ông Vua Nghiêu không muốn
truyền ngôi cho con mới tìm hiền, lúc chưa gặp Ông Thuấn, nghe Hứa-Do là người
có tài đức mới cho người dời Hứa Do đến triều.
Vua Nghiêu nói: Trẫm nghe
ngươi tài đức lớn, vậy Trẫm muốn nhường ngôi cho ngươi thay Trẫm làm Chúa thiên
hạ?
Hứa-Do trả lời:
“Tiêu-liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử ẩm
hà bất quá mãn phúc" Nghĩa là con chim tiêu liêu ở rừng chỉ làm ổ trên một
nhánh cây, con yến thử xuống giòng sông uống nước chẳng qua đầy bụng. Kẻ hạ thần
đã quen thú an nhàn, cách sống riêng biệt. Bệ-hạ muốn nhường ngôi cho kẻ hạ thần
cũng vô ích.
Nói xong bỏ ra về. Khi đi
ngang qua nguồn nước mới lum-khum xuống rửa tai cho hết vấn-vít vì nghe thiên hạ
nói muốn làm vua kỳ quá.!
Ông Sào-Phủ là người giữ
trâu thôi, dắt trâu xuống giòng nước cho uống, thấy Hứa-Do lum khum rửa tai.
Sào-Phủ hỏi:
- Anh làm chi rửa tai vậy?
Hứa Do mới thuật lại: Vì
vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho làm vua, tôi không muốn vấn vít trong lỗ tai nữa.
Sào Phủ nói:
- Anh làm gì cho thiên-hạ
biết Anh là Hiền-đức muốn truyền ngôi cho Anh, nếu người ta biết Anh là Hiền đức,
tức nhiên Anh đã muốn làm cho người biết; chắc chắn hơn nữa là tại Anh tỏ cho
thiên hạ biết Anh là Hiền đức. Anh đừng tỏ cho thiên hạ biết Anh là Hiền đức,
thì ai biết Anh đâu mà nhường ngôi, cần chi phải rửa tai. Sào Phủ nói xong liền
dắt trâu đi lên trên dòng nước cho uống.
Hứa-Do lấy làm lạ hỏi:
- Bến ở đây sao dắt trâu
lên trên kia cho uống?
Sào Phủ trả lời:
- Vì sợ Anh rửa tai trôi
ra, trâu Tôi uống nhầm. Đó là công danh của kẻ Triết hiền.
Ta thử ngó lại nước Việt
Nam ta từ cổ chí kim, kẻ lập thân danh biết bao người mưu kế quỷ quyệt như Nguyễn
Huệ, Nguyễn Nhạc đã lập ra một cơ quan vĩ đại là khối Tây Sơn. Trịnh kia gian xảo
thế nào thì Tây Sơn gian xảo cũng thế. Trịnh phò Lê diệt Nguyễn tức nhiên phò
Lê đặng mượn danh nhà Lê đặng diệt Nguyễn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng thế mượn
màu phò Lê đặng diệt Trịnh.
Chúng ta thấy gian xảo bao
giờ cũng nương theo tình đức, lợi dụng tình đức đặng lập thân danh. Những mưu kế
xảo quyệt chẳng hề khi nào bền-bĩ lâu dài đặng. Thân-danh dầu lập bao nhiêu
cũng không thế tồn tại. Lịch sử của nước Việt Nam để trước mắt cho chúng ta ngó
thấy.
Bây giờ nói chuyện nước
Tàu, kẻ lập đế vị bền vững được 800 năm là họ Lưu. Lưu Bang bất quá là một anh
Đình Trưởng, tức nhiên là anh đưa đò vậy thôi, mà thâu phục được lòng dân, ưu
ái dân, binh vực kẻ yếu, đương đầu với kẻ mạnh, tức nhiên lúc yếu của mình mà
dám đương đầu cùng Sở Bá Vương cứu trăm họ lê dân trong nước lửa. Lấy tình đức
làm căn bản lập Hớn-thất giang san của Ngài được 800 năm.
Còn như Sở Bá Vương dùng bạo
tàn dựng nên cơ nghiệp chỉ một đời thôi. Từ cổ chí kim chưa một Đế Vương nào để
di tích cho bằng Tần Thủy Hoàng, nhưng đào tạo nên bởi hung tàn bạo ngược, chỉ
ba đời thôi.
Napoléon 1er vẫn là một
người thường dân trong hàng lê thứ, đi từ tên lính lên tới Đế vị rồi, biết bao
nhiêu vinh diệu cho nước Pháp thọ hưởng.
Hại thay! Tới chừng lên Đế
vị rồi, phong hầu, phong bá (Công, Hầu, Vương, Bá) cho cả hàng tướng sĩ của
Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng trở nên nhát nhúa mất chí khí anh
hùng nên Ngài phải thua. Cả tướng sĩ đã lập nên Đế vị cho Ngài sau khi chỉ còn
Ông Nai còn biết tình của Ngài, còn bao nhiêu đều phản phúc. Lợi dụng tình đức ấy
nó chỉ là bóng dáng giả dối. Cả cơ nghiệp dầu đào tạo mạnh mẽ liệt cường cao trọng
cũng như giọt sương trên ngọn cỏ chẳng hề khi nào bền vững được.”
Thánh-ngôn Thầy có dạy rằng:
“Cơ Trời mầu-nhiệm, đối với đời, mà máy Thiên
cơ đối với Đạo, lại càng huyền-vi thậm-trọng hơn nữa, có lẽ tâm phàm dầu cao-kiến
đến đâu, cũng chưa đạt thấu được. Những vai tuồng của Chí-Tôn sắp-đặt trên sân
khấu Đạo, nếu so-sánh lại cũng chẳng khác chi những bậc nguyên nhơn lãnh phận-sự
dìu đời từ xưa đến nay mà thôi.
Muốn an tâm tỉnh trí và đè
nén lửa lòng, cần phải có một nghị-lực vô-biên, một tâm-trung quảng-đại, thì mới
khỏi bực-tức với những trò đã vì mạng-lịnh Thiêng-liêng phô-diễn ở nơi thâm-hiểm
nặng-nề nầy. Nên biết rằng, mỗi việc chi đều có hạn định, có căn-nguyên, dầu
các bậc tiền bối cũng vậy. Phải lấy nét đạo-đức mà đoán xét, thì mới hiểu thấu
sự mầu-nhiệm vĩ-đại của Chí-Tôn sắp-đặt.
Xưa Hớn-Bái-Công chưa phải
là chánh-đáng một vị Minh-Quân, mà cơ Trời vẫn để cho nghiệp Hớn ba trăm năm
quyền-bính. Nào tật đố hiền-tài, hữu thỉ vô chung, nghe lời sàm tấu, giết người
lao công hạn mã, nếu chẳng phải chí của Trương-Lương thì không thể nào khỏi
xung-tâm oán-trách. Võ-Tắc-Thiên hoang-dâm thái-thậm, Tùy-Dương-Đế lỗi Đạo muôn
phần, khi Sở Hạng bạo ngược vô biên, Tần-Thủy-Hoàng hôn-quân cực-điểm, nhưng,
than ôi! Máy Thiên-cơ buổi nọ nếu phải chìu chuộng một ít vị công-thần bị khép
vào vòng những kẻ đã chịu sở bức, thì phải thay-đổi, bôi-xóa sự-nghiệp non-sông
của những Chúa tể ngu-muội ấy chăng? Cười...
Đời là Đời, Đạo cũng vậy,
chi chi cũng có định phân mực-thước. Những kẻ chí-sĩ lãnh trách-nhậm nghiêng
vai gánh vác cả non-sông, đều làm phận sự, công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn
với Tòa Thiêng-liêng, hoặc ghi tên tuổi vào thanh-sử thiên-niên, chớ chẳng phải
để kể công-trình với Chúa-tể ấy.
Than ôi! cái nư giận thường
làm đổ-nát những công sáng tạo đã qua, không biết bao nhiêu vĩ-đại.
Hiền-hữu chỉ biết hành-động
của người, mà chưa biết đến Thiên-thơ của Đức Chí-Tôn. Có biết thạnh-suy, mà
chưa chịu biết để công-linh đào-tạo thời-thế, đặng dìu-dắt chúng sanh cho kịp
buổi.
Bần-Đạo hỏi bốn Hiền-hữu
có ai đã mang sao đội nguyệt, ăn mật nằm gai, chịu muôn sự khổ-hạnh cõi đời để
tạo hạnh-phúc cho nhơn-sanh chưa?
(T... Đ... bạch......)
Cười... Đối với bực Hiền
xưa, chưa đặng muôn một nếu Chí-Tôn không lập sớm Đại-Đạo, chờ đôi ba chục năm
nữa, e khi các bậc nguyên-nhơn đang vị hiện-thời, đều phải chịu luân-hồi không
biết mấy kiếp” Thái Thượng Đạo-Tổ: 16-7 giáp-Tuất (1934)
Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
Cả con cái Đức Chí-Tôn,
Thiên-phong, Chư Viên quan quyền Đạo và Đời, các em Nam, Nữ.
Mấy em đã đặng ân
Thiêng-liêng ban thưởng do lòng đạo-đức của mấy em, nên mấy em được hưởng sự
vinh dự hôm nay là lập một sự nghiệp hữu hình cho thiên hạ.
Qua nhớ lại khi Đức
Chí-Tôn vừa đến tức nhiên năm 1925 khi đó trong các Môn Đệ của Ngài, Qua chẳng
biết mỗi người đã lãnh sứ mạng đặc biệt riêng nhau làm sao! Đức Chí Tôn đến với
họ một cách riêng biệt thế nào Qua không hiểu. Chỉ Qua biết phận sự của Qua là
Đại Từ Phụ giao phó với một lời yếu thiết như thế này:
- Tắc, Đời quá khổ chẳng
phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn loại
tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu
khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy
giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu: có khổ về tinh thần mới biến sanh ra
khổ của thể xác.
Thầy nói rõ Thầy giao cho
một gánh Đạo và Đời. Thật sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi
nào làm cho Bần-Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời Ngài giao phó nó nặng nề
hơn hết.
Mấy em Nam, Nữ nghĩ coi; một
lời tiên tri trước kia nó hiện tượng hôm nay ra thể nào, mấy em biết cái quyền
linh vô biên của Đấng cầm quyền thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế
nào? Bởi cớ cho nên khi Đạo mới phôi thai thì các quỷ quyền toan diệt Đạo. Buổi
sơ sanh Đạo yếu ớt, bạc nhược, ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho
thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ đặng Đạo. Hồ
đồ mưu chia rẻ làm cho trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn phải ly tán, Anh nghịch
Em, Em bất hòa với Anh, cả nền Đạo chinh-nghiêng đảo ngược.
Gánh một chức vụ Hộ-Pháp cầm
cả Luật Pháp của Đạo, không lẽ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí-Tôn. Qua
phải tìm phương giải quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặng làm căn bản.
Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra Phạm-Môn và Qui-thiện.
Thiên hạ nói Qua lấy Tộc
Qua là Phạm, tức nhiên lập cái đảng-phái cho họ Phạm.
Qua hỏi: Thiên hạ đã
tuyên-truyền dối trá ấy đặng đánh đổ cả uy-tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề
trả lời cho ai hết, dầu cho quyền hành buổi nọ rất mạnh-mẽ đòi phen đem đến Luật
hình, mà chính mình Qua cũng chưa nói cho họ biết nghĩa lý Phạm-Môn là gì?
Hôm nay mấy em biết chưa?
Có lẽ phần nhiều mấy em đã
biết, Phạm ấy là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, nói rõ hơn nữa là cửa Tu Chơn của
Đạo, cửa Bảo-thủ Chơn Pháp của Chí-Tôn. Còn Qui Thiện thế nào Qua chưa nói ra
cho thiệt tướng.
Thiên hạ đều hung bạo, vì
lẽ hung bạo làm cho anh nghịch em, em hận anh, trong cửa Đạo không có một vẻ
chi là Đạo hết. Lập trường Qui-thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con
cái Đức Chí-Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo.
Buổi đầu tiên nó sản xuất
tại nơi Mỹ-Tho, Qua lập "Khổ Hiền Trang" mấy em biết hai chữ Khổ Hiền
ý định Qua thế nào không? Trong bảy mươi hai anh em chung sức cùng nhau mà làm
đầu trường Qui Thiện ấy là Đinh Công Trứ vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo
hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối trọng của Chơn Pháp Đức Chí Tôn Qua giao
lại cho nó, để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất.
Sự biết Đạo của Đinh-Công-Trứ là vậy.
Tưởng cũng như Qua đã bị
các nạn-nhân của các lực lượng quyền Đạo luôn quyền Đời.
Buổi nọ thiên hạ
tuyên-truyền dối trá thì Đinh-Công-Trứ cũng bị nạn ấy. Qua đã bị thiên hạ chê
là lo Đời hơn lo Đạo, thì Đinh-công-Trứ cũng vậy, thiên hạ nói nó cũng như Qua
lo Đời hơn lo Đạo.
Mấy em ôi! Trong buổi
phong ba bão táp, nhơn loại ở trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bác-Nhã chưa
tạo thành đặng độ-rỗi họ, ít nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu
vớt khổ não của họ đặng bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Thiên hạ thấy mấy em khổ-não,
cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao nhiêu giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo.
Tân-Dân-Thị chính của mấy
em tìm phương chui đụt, tìm phương giải khổ cho mấy em. Mấy em được hạnh phúc
hay chăng là do lòng đạo đức của mấy em. Qua còn sống đây thì Qua cũng lo tạo dựng
mảy may hạnh phúc cho mấy em. Tạo hạnh phúc ấy chỉ có một đường lối duy nhứt là
Qua làm sao cho mấy em giải khổ, phận sự Thiêng Liêng của Qua là vậy.
Trong Bí-pháp Qua viết chữ
Hòa, nơi Tân-Dân-Thị nhờ chữ Hòa mà thêm lòng yêu ái. Qua gởi hai chữ Hòa-Ái
nơi lòng của mấy em đó vậy. Qua cầu xin mấy em có một điều là chung sức cùng
nhau đặng tạo hạnh phúc cho nhau mấy em đã có sẵn tình đức của Đức Chí Tôn đã đến
trong ba chục năm nay thôi, chỉ trong ba chục năm hưởng được đặc ân của Đại-Từ-Phụ
đã đến tạo cả tâm hồn mấy em. Tình đức trong Đạo ấy, mấy em tu thân dễ quá chừng
quá đỗi. Tu thân mấy em là làm nền móng vững chắc đặng lập công danh, đừng ngó
ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có thật đâu mấy em. Đứng
trong cửa Đạo nương tình đức lập thân danh. Qua dám nói chắc cả con cái Đức Chí
Tôn Nam, Nữ để ý, do căn bản tình đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu Qua không nói
mấy em ngồi trên đầu thiên hạ.”
Với tinh-thần ấy, với tình
đức ấy, hỏi vậy các bậc tiền bối, nhất là Đức Hộ-Pháp, đã phơi gan trải mật lo
cho nền Đạo như thế này là do động-lực nào đã thôi-thúc mà phải chịu đắng cay
dường ấy? Phải chăng từ trong trái tim yêu-ái, trái tim yêu-thương xuất phát từ
trong bổn nguyên của đức tánh TRUNG HIẾU NGHĨA mà ra? Thử tìm hiểu xem nguồn
phát xuất ấy.
3 - ĐỨC TÁNH TRUNG HIẾU NGHĨA.
Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền-Thánh
Thời Tý mồng 6 tháng 7 năm
Mậu-Tý (dl. 10-08-1948)
“Đêm nay, Bần-Đạo giảng ba
chữ TRUNG HIẾU NGHĨA, bởi vì Trung, Hiếu, Nghĩa là biểu hiện một chơn tánh của
linh hồn cao trọng.
Nhà Nho nói: Tánh tự tâm
sanh 性 似 心 生.
Đó là lý thuyết của Đạo
Nho, chỉ biết có một điều là ta quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng
hình được, vì Đạo Nho chưa phải là một Tôn Giáo huyền bí.
Còn Đức Chí-Tôn đến dạy ta
biết rằng tánh là chơn tướng của chơn thần, còn tâm là chơn tướng của chơn
linh. Chí-Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta. Hình thể
thứ nhứt là Tâm tức là chơn linh, thứ nhì là tánh tức là chơn-thần, thứ ba là
xác phàm thú chất nầy. Chí-Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ theo triết lý Đạo
Nho lấy nghĩa "Tánh tự tâm sanh" mà tả ra?
- Bởi vì nó có liên quan mật
thiết cùng nhau. Trong tâm mình như thế nào xuất tánh ra y như vậy. Nhà Nho thấy
hiện tượng mà đặt tên, còn Chí-Tôn chỉ rõ cho biết: Chơn thần cũng tấn bộ như
chơn linh. Mỗi cá nhân đều có hai năng lực ấy có đủ quyền năng đào tạo ra hình
hài xác thịt của ta. Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn-thần cao trọng,
bởi cả hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng tấn triển trong con đường
Thánh-đức của Chí-Tôn. Cả hai có liên-quan mật thiết, nên hễ chừng nào đạt pháp
đặng có đủ quyền năng định vận mạng, nghĩa là nó đã tấn tới đúng mức rồi, dầu
quyền của Ngọc-Hư-Cung cũng không còn lãnh hội nó nữa.
Quyền tự chủ đã đạt đặng
như các cơ quan hiển vi tấn triển tới mục-đích, tới giới định hiển nhiên ta thấy
nơi mặt thế đây vậy. Trong Đạo-giáo của Đức Chí Tôn trích ra một hạng Tiên,
không còn chịu quyền của Ngọc-Hư-Cung định luật. Họ tự làm chủ họ, tự dùng quyền-năng
đặng đào tạo xác thân của họ, tạo y khuôn khổ họ đã muốn.
Họ tự vi chủ mà tạo hình
thể ấy, bằng chẳng vậy thì con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi kéo ràng buộc, phản
lại họ, làm cho họ phải đọa lạc. Còn như con thú nầy không còn quyền lôi kéo họ
được thì họ mới đủ quyền-năng vi chủ nó mà dục tấn trên con đường tận thiện tận
mỹ, toàn tri toàn năng mà họ đã định đạt đến cùng tận sở-hướng.
Chơn thần là đệ nhị xác
thân tạo hình bằng ngươn khí của bảy từng thiên. Bỏ Tạo-Hóa-Thiên là từng thứ
chín, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết định đến thế gian nầy làm việc gì,
kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Đạo Giáo nói là
7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây.
Bảy từng có liên quan lạ
lùng với thất tình, từng thứ 7, 6, 5 là ba tình: Ái, Hỉ, Lạc; từng thứ tư là Dục;
từng thứ ba là Ái; từng thứ nhì là Ố; từng thứ nhứt là Nộ. Tới từng chót nầy
thì xác thịt là hiện tượng của Nộ giác.
Ấy vậy, Bần Đạo chỉ rõ rằng
ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở tình ái, phát hiện đó là cái tình độc nhứt
có liên quan mật thiết với chơn linh. Ta thấy con nít sơ sanh, thi hài chưa biết
vi chủ, nó chỉ sống với chơn linh mà thôi.
Khởi đoan nó chỉ biết
thương mến những kẻ gần-gũi như cha mẹ; còn Chơn-thần để gìn giữ nó, cho nó biết
tìm cái sống, bảo tồn sanh mạng. Thật ra theo Đạo Pháp, con nít từ 12 tuổi mới
bị chịu ảnh hưởng của xác thịt, còn dưới 12 tuổi xác thịt chưa có quyền.
Ba tánh đức Trung, Hiếu,
Nghĩa thuộc quyền năng của ái tình mà ra nên gần-gũi với chơn linh lắm, đến đỗi
ta thấy hình trạng nó như kẻ sơ sinh kia vậy.
Bần-Đạo vừa nói Trung, Hiếu,
Nghĩa do nơi tình ái xuất hiện ra tướng diện, nên nó gần Thánh, một khi giải thể
rồi lên từng thứ 7 là chắc-chắn được giải thoát, đạt vị, bởi nó gần với Thánh.
Tại sao Trung? Tại tình ái
cao thượng dồi dào đối với quốc dân nòi giống lên đến nhiệt độ, nó quá vĩ đại.
Nếu ta thấy một vị công thần liều mạng sống đặng bảo vệ cho quốc dân, trung ấy
chưa phải là trung với vua, mà trung với nước chớ! Có điều vua là tượng trưng
cho nước, nên trung với vua tức là trung với nước. Mà có trung đặng là vì quyền
năng ái chủng, ái quốc nuôi trong tinh thần nhiệt liệt, nên tình ái ấy vi chủ
tinh thần, cho nên ta thấy có kẻ vì trung dám hy sinh tánh mạng được là vì vậy.
Tới Hiếu. Tại sao có Hiếu?
Bởi các chơn hồn sáng suốt cao siêu đã có sẵn hai điều hiếu:
- Hiếu với Đấng Tạo-đoan của
chơn-linh.
- Hiếu với Đấng Tạo-đoan của
chơn thần.
Bởi có hiếu trước với hai
Đấng ấy, biết trọng hai quyền năng tạo hóa Chơn linh và Chơn-thần thì tự nhiên
phải biết nhìn Đấng tạohóa hình hài của mình đồng thể chớ. Tâm hiếu tự nhiên mà
xuất hiện vì nó có sẵn, mà hễ có sẵn tâm hiếu tức nhiên phải là chơn-linh cao
trọng thấu-đáo được nguyên do đâu mình đến và là con của ai?
Đã hiểu rằng mình có hiếu
với Đấng tạo sanh Chơn linh và Chơn thần như thế nào rồi, thì đến hiếu với Đấng
tạo sanh hình hài đã sẵn có rồi vậy. Nên, hiếu không thể dạy được: hoặc có hiếu,
hoặc không có hiếu mà thôi.
Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao
ta có Nghĩa? Tại sao Nghĩa lại hiện tướng trên tánh đức của một chơn linh cao
trọng?
Nơi cõi Hư-linh mỗi người
có một gia-tộc, một đại-nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu. Bần Đạo xin nhắc lại
câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng: Chẳng phải vì sự tình cờ mà chúng ta
được chung đứng trong lòng của Đức Chí Tôn ngày nay đây.
Biết đâu trong 24 chuyến
thuyền Bác-Nhã chở các Nguyên-nhân hạ trần đặng làm bạn và độ rỗi các Hóa-nhân
và Quỉ-nhân, lại không có chúng ta ngồi chung trong đó. Đã từng chia đau sớt khổ
cùng nhau chẳng những trong thế giới nầy mà trong các thế giới khác nữa. Đã từng
chung sống cùng nhau, cái thâm tình vĩ đại đã nhiều. Nếu cả thảy không nhớ lời
nầy của Bần-Đạo, đến khi linh hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận biết bao nhiêu mà
chừng ấy đừng trách Bần-Đạo không chỉ trước. Không thương yêu nhau cho trọn
nghĩa là lỗi tại mấy người đa! Chớ không phải tại Bần-Đạo không nói.
Ban sơ, nơi cõi Hư linh,
thọ nhứt điểm linh đến thế nầy tạo ngôi vị, làm bạn với biết bao nhiêu
chơn-linh khác, dầu nguyên do của mình là thảo mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều
bạn, chừng nào đạt đến địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa ta có nhiều ở mặt
thế nầy, lo tìm người nghĩa đặng tương liên cấu hiệp tâm tình trong cảnh khổ
não, truân chuyên chịu hình thử thách nầy.
Tìm mà vẫn lo ngại sợ lầm,
bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi ở bất nghĩa
cùng nhau, về cõi thiêng liêng sẽ hổ-thẹn hối hận muôn phần. Đối với nhơn loại
ta đã sẵn có cái đại nghĩa đó, đi tìm nghĩa tức là đi tìm bạn, dầu nơi cõi hư
linh hay tại thế, đại nghĩa vẫn còn lưu lại, ta không từ chối được, cho nên hễ
đi tìm nghĩa thì không còn phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta
tìm nghĩa ở đâu? Trước nhứt tìm thân tộc anh em sau mới ra toàn thiên hạ được.
Bần Đạo kết luận: Trung,
Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vì Thánh, vì cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm
hiền thì duy lựa trong ba tánh đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không lầm. Tại mặt
thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh
cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc
nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình
và thú tính mà chớ”.
Đấy là cái bổn nguyên, cái
vốn của Tâm hồn dân tộc VIỆT-NAM là vậy.
Còn tâm-lý chung của nhân
sanh thì sao? Hồn thiêng sông núi cũng như cái dòng máu hào-hùng của dân tộc để
lại trong tâm hồn Việt-Nam trong thời buổi này như thế nào? Tâm hồn dân tộc vẫn
được lưu-truyền cái nòi anh-phong đó “Anh-hùng tử nhưng khí hùng nào tử”!
Có như vậy mới giữ bền cái
Quốc-Đạo Nam-phong này chứ!
CHƯƠNG III
QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG
1 - HUỜN THUỐC THỜ NGƯỜI VÀ THỜ TRỜI
Chúng ta thấy trường hỗn-độn,
một nền văn-minh gồm có tinh-thần duy vật mạnh mẽ mà chớ, cái chánh-sách của
loài người chạy theo duy-vật đương nhiên thì mặt địa-cầu này chưa hòa-bình vì họ
chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần chí-thành.
Thử nhìn lại Việt-Nam có
gì để trình-diện với thế-giới buổi này không?
- Dân-tộc này có quyền tự-hào
về nòi-giống, về đất nước của mình như Đức Chí-Tôn đã hứa: Một về nòi giống, một
về xã-hội, một về tư-tưởng.
Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền-Thánh,
ngày 1 tháng 4 năm Mậu Tý (1948):
“Bữa nay Bần-Đạo giảng một vấn-đề trọng yếu
nhưng chẳng giảng một bữa mà đủ, nên cần phải tiếp tục nhiều lần Bần-Đạo mới giảng
dứt. Sau một buổi lễ cúng rồi, thì giờ lên giảng-đài rất ít, Bần-Đạo phải thúc
nhặt lại là vì mỗi lần hành lễ rồi cả thảy đều mệt. Bần-Đạo sẽ liệu phương sắp
đặt lại là giảng trước giờ hành lễ.
Theo trong bài thi của Đức
Chí-Tôn gởi cho Hoàng-Đế Bảo-Đại có hai câu yếu-trọng cho nền Thánh-giáo
Chí-Tôn hơn hết là hai câu nầy:
“Quốc-Đạo kim triêu thành Đại-Đạo
“Nam-phong thử nhựt biến Nhơn phong”
國 道 今 朝 成 大 道
南 風 此 日 變 人 風
Hai câu nầy chúng ta hiểu
rằng Đức Chí-Tôn muốn nói với Ngài Bảo-Đại nền Quốc-Đạo của Người, ngày nay đã
thành Đại-Đạo. Trong chữ Đại-Đạo bao trùm cả đức tin loài người.
Câu thứ nhì
"Nam-phong thử nhựt biến Nhơn-phong"
Chữ phong không phải là
gió, nó có nghĩa-lý lắm! Phong đây là phong-tục, Chí-Tôn muốn nói phong-tục nước
nhà của Người sẽ làm nền phong-hóa của loài người. Hai câu ấy chúng ta nên đoán
xét, suy-gẫm coi Đức Chí-Tôn vì thương mà quá lời chăng?
Thảng như Tôn-giáo nào
kích-bác họ sẽ nói Chí-Tôn tự-tôn, tự-trọng hay là họ có đức-tin hơn nữa họ có
thể họ bàn luận rằng: Chí-Tôn vì quá thương mà nói vậy! Chúng ta thử coi nền Quốc-Đạo
của chúng ta sẽ trở nên nền Tôn-giáo của toàn cầu chăng? Và phong-hóa chúng ta
có thể thay thế cho cả nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy chăng?
Chúng ta nên quan-sát,
suy-gẫm rồi tưởng-tượng coi có thể đặng vậy không?
- Có thể được và Bần-Đạo
tin quả-quyết rằng nó phải như vậy đó!
Tội nghiệp thay! Một sắc
dân đã từng bị nước Trung-Hoa khắc phục, tuy chịu trong hoàng-đồ, chúng ta có một
lịch-sử trong 4.000 năm tranh-đấu, vẫn tự-do, độc-lập không chịu tùng mạng lịnh
của Trung-Hoa. Nước chúng ta như cái vải áo, còn Trung Hoa như cái áo, chúng ta
không có lý lẽ gì từ chối tinh thần một sắc dân anh-dũng ấy, nó phải nương cái
năng lực nơi chỗ nào?
Ấy là nương tinh thần Đạo-giáo
nước nhà của nó, chúng ta phải chịu ảnh hưởng trọng hệ hơn hết của hai nền
Tôn-giáo Trung-Hoa thọ giáo Ấn-Độ dạy chúng ta tu cho được chí thiện, chí nhơn.
Phật-giáo bên Ấn-Độ dạy chúng ta tự tu đặng đạt đại-từ đại-bi. Hai cái khối
tinh thần hiệp nhau lại làm một nền Tôn-giáo, để được bảo trọng tinh thần quốc-túy
của mình.
Chí-Tôn đã nói cùng người
Pháp: Từ thử một sắc dân ấy chỉ biết nô lệ chưa biết vi chủ, vì vậy mà Ta đến bồi
thường sự bất công ấy, Đạo-giáo đã dạy chúng ta chí thiện chí nhơn, đại từ đại
bi, tinh thần đó vậy. Hỏi vậy ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng?
Tôi dám chắc giọt Cam-Lồ ấy,
tinh thần loài người đã khao-khát, để bảo-tồn sanh mạng, bằng chẳng vậy thì
nhơn-loại phải tự diệt mà chớ!
Tại sao tự diệt? Chúng ta
thấy trường hỗn-độn, một nền văn-minh gồm có tinh thần duy vật mạnh mẽ mà chớ,
cái chánh-sách của loài người chạy theo duy vật đương nhiên thì mặt địa cầu này
chưa hòa-bình vì họ chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần
chí thành. Cái quyền-năng của Đạo-giáo Gia-Tô mạnh mẽ dường nào mà ngày nay phải
thoái bộ trước năng lực của toàn cầu, còn Đạo giáo mà đến thay thế đặng cái
năng lực ấy, rồi đây cũng chưa chắc quyết thắng tấn tuồng tương lai, mà vật chất
sẽ dẫn đến con đường tử lộ không phương cứu chữa, duy có Đức Chí-Tôn đến cứu
loài người mà thôi.
May thay! Trong nòi giống
Tổ-phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm món thuốc
cứu cả tinh thần nhơn-loại trong hoàn-cầu này và trong tủ thuốc thiêng-liêng đó
để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương cứu khổ chẳng khi nào sai chạy.
Nhưng vì chẳng đủ năng lực để cứu thế, đem hoàn thuốc hằng sống ấy bảo tồn sanh
mạng loài người.”
(Tại Đền Thánh, đêm mồng 5 tháng 4 năm Mậu Tý
(1948)
“Bần-Đạo để đại khái đề-mục
cho toàn cả tiềm tàng thử coi nền Tôn-giáo của chúng ta sẽ biến tướng ra thành
Đại-Đạo là chỗ nào?
Nó đã đem cái gì cho
nhơn-loại về mặt tinh-thần đạo-đức mà biến ra Đại-đồng?
Chúng ta đã ngó thấy
nguyên-do Đạo-giáo, bao giờ loài người cũng phải chung họp lại với nhau, nào xã
hội, nào là gia đình, dầu trong buổi ăn lông ở lỗ loài người chẳng hề qua mặt
luật thiêng-liêng đó đặng. Buổi ấy, tất cả có bí-pháp, hội họp gia đình.
Đức Chí-Tôn duy có một
mình, Ngài phân ra mới có Phật-Mẫu.
Ngài phân ra đệ nhị quyền
hiệp lại đệ nhứt quyền, đủ quyền-năng tạo ra Càn-khôn Vũ-trụ để lập gia đình
cho loài người đó vậy. Nhờ Chí-Tôn phân tánh là bí-pháp lập thành xã-hội đó.
Chúng ta đã hằng tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được,
giải rõ là trống mái, đực cái hay nam nữ vậy, nó tương liên trước mặt chúng ta
hoặc một cách âm thầm bí mật. Vậy loài người bao giờ cũng có xã hội nhơn quần,
gia đình, vì mặt luật buộc như vậy, lời chúng ta thường nói: "Chưa ai ở đất
nẻ mà chun lên"!
Mỗi cá-nhân đều có
nguyên-do căn bản.
Hại thay! Xã hội bình-quyền
tức nhiên mặt địa-cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền
năng tinh thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mầu-nhiệm của tạo
đoan.
Đời có triết-lý, khoa-học
làm cho đảo lộn tinh thần, họ làm rồi họ tự kiêu là làm chủ cả cơ quan bí mật của
loài người, tự khoe mình là Trời; tự kiêu, tự đắc, tự tôn, tự đại. Chúng ta đã
thấy họ từ chối mọi lẽ thiên nhiên. Ngày giờ nhân loại xu hướng theo phương
pháp vật hình, quyền năng khoa học, lý thuyết quái gỡ dị đoan ấy, làm cho tinh
thần loài người ngu xuẩn, cho rằng không Trời, không Đất, tức nhiên không Đạo,
không người, không xã hội, không gia đình; sống như con vật chung hiệp với nhau
đồng sống vậy thôi. Sống không quyền lực tinh thần vi chủ, không thể nào nhơn
loại tự bảo tồn cho dân chúng đặng mà tránh khỏi nạn tiêu diệt, họ coi mạng sống
của loài người là một vật dụng, để hưởng hạnh phúc sung sướng, lường gạt, buộc
tinh thần loài người làm nô lệ cho vật hình, chúng ta thấy tấn tuồng nguy ngập,
xô đẩy loài người đi đến diệt vong.
Tổ-phụ chúng ta sống từ
thượng cổ đến nay 3.000 năm, một vị chí Thánh để lưu lại cho đời mực thước niêm
luật xã hội, nhơn quần. Ngài định phải có gia đình, có tông tổ, có xã hội, Ngài
lập pháp trọn trong điều ấy, từ thường dân chí Vương Đế, không ai ra khỏi mặt
luật.
Tổ phụ chúng ta chịu Đạo-giáo
để lại sự thờ phượng tông tổ gia đình chúng ta, tức nhiên thờ kẻ quá vãng, ta
coi người chết như sống, chúng ta tôn sùng mạng sống của con cái Người, vì loài
người là Thiên hạ mà Thiên hạ là Trời.
Chúng ta biết nhìn nhận Trời
trên mặt địa cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời, tức nhiên thờ loài người đó vậy.
Đạo giáo chúng ta để lại 2.000 năm, vậy điều trọng hệ là thờ Trời và thờ Người.
Buổi hỗn-độn nầy, nhơn loại vì khoa học mà đi đến một đường tử lộ. Chúng ta cần
đến Đạo giáo phô trương trên mặt địa cầu nầy cho nhơn loại họ biết tự tỉnh để
trụ cả tánh loài người lại, hưởng hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.
Bần Đạo giảng lần trước,
tiếp kỳ nầy kết-luận là huờn thuốc thờ Trời và thờ Người, thảng vạn loại phản-phúc
mà còn chối nữa thì chịu tận diệt mà thôi”.
2 - Chúng ta quan sát coi nền Quốc Đạo của chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn giáo cho
hoàn cầu?
(Tại Đền Thánh, ngày 14
tháng 4 năm Mậu Tý (1948)
“Đương nhiên bây giờ, cái
tinh thần của loài người chỉ xu hướng theo trí thức đương nhiên của họ. Họ có
thể được cái hành-vi bí mật thiêng-liêng mà lập nên cơ giới phi thường ở mặt địa
cầu nầy. Nhưng cái cơ giới ấy do nơi hóa-công sản xuất ra tâm não của kẻ trí thức
thông minh đặng bảo vệ sanh mạng của loài người và lập hạnh phúc cho loài người.
Trái ngược lại, những hạng
trí thức thông minh ở trong thời đại nầy đều nảy sanh do một tâm lý khoa học mà
thành hình, rồi tâm lý khoa học ấy trở lại tàn sát sanh mạng của loài người, đó
là đến những cảnh bạo ngược. Hơn nữa, trước mắt chúng ta đã ngó thấy hai trận
giặc trên hoàn cầu đã giết hại nhau, nên hiện giờ trên mặt địa cầu đã tự giết
chết bao nhiêu mà kể.
Cái trí thức tinh thần ấy
có làm gì cho đồng bào và thời đại nầy đặng hạnh phúc chăng? Trái lại, nó đem
cho đời một tấn tuồng thống khổ trước mắt cả thảy. Bần-Đạo chỉ nhắc lại cho con
cái của Đức Chí-Tôn thấy rõ: Nhơn loại hiện nay đã xu hướng theo hạng trí thức
tinh thần khoa học thì có kể đâu là thương chủng tộc, nên ngày nay đã gây ra biết
bao tấn tuồng thê lương thảm đạm, nhơn loại hết yêu ái nhau; mà trái lại người
với người họ đối nhau còn quá hơn thú dữ, người với người mà họ chưa biết tôn
trọng mạng sống với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau đặng tìm hạnh phúc.
Mặt địa cầu nầy, sanh ra
các đảng phái nào thì chỉ biết tương tàn tương sát với nhau mà thôi, họ không kể
gì là sanh mạng của con người ra thế nào cả. Họ không biết tôn trọng mạng sanh
của loài người, họ chỉ biết lấy xương cốt của loài người mà lập đài danh dự của
họ thôi. Cái mục đích bạo tàn của họ chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, cái
thảm khổ của đời mà chưa hề có ai thấu rõ tâm lý khổ não của đời, đem lòng
thương hại đến nhơn sanh.
Từ Phật giáo ra đời đến
bây giờ, tinh thần của loài người mới biết thương hại cho nhau, một nơi nào có
một tâm hồn ưu ái thì các Tôn giáo đương nhiên trước kia là một huờn thuốc để cứu
chữa cái bịnh thảm khổ của loài người nơi mặt địa cầu nầy. Nhưng nay huờn thuốc
cứu chữa ấy để tại mặt thế nầy nó không thể trị đặng một bịnh tinh thần mà khoa
học đương nhiên của họ đã sản xuất trên mặt địa cầu nầy. Thử hỏi chúng ta có
đem gì hạnh phúc cho họ không? Chúng ta chỉ biết đem hai chữ Nhơn-Nghĩa mà lập
nền hạnh phúc cho họ thôi.
Tuy vậy, nòi giống của
chúng ta là một sắc dân chiến đấu, một sắc dân oanh liệt, từ xưa tổ phụ ta biết
hiền lành, biết kỉnh trọng, biết thương yêu, kỉnh trọng mạng sống của loài người
lắm. Cái tánh thông thái, cái tánh thông minh của Tổ-phụ của chúng ta sản xuất
trong một nguồn cội từ lành, không điều gì đem đến trước mắt Tổ-phụ của chúng
ta mà Tổ-phụ chúng ta tìm tòi không đặng.
Nước Việt-Nam ở trong khoản
đất phì nhiêu nên Tổ-phụ chúng ta biết trọng sanh mạng con cái của Trời, biết
nhận nhơn loại là anh em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nhìn câu: "Tứ
hải giai huynh đệ"; Tổ-phụ ta biết thương yêu nhơn loại, bất kỳ là một sắc
dân nào, một nòi giống nào có trí thức cao minh làm cho loài người đặng hạnh
phúc thì Tổ-phụ ta kỉnh trọng tôn thờ vậy.
Một nền Tôn-giáo nào đến
nước Việt-Nam ta truyền bá thì Tổ-phụ ta kỉnh trọng tôn sùng ngay. Nên mối Đạo
nào vào nước Việt-Nam ta đều được kết quả mỹ mãn. Lòng mộ Đạo của Tổ-phụ ta trước
kia lấy lương thiện làm căn bản, lấy Nhơn-nghĩa làm môi giới, cái sự tôn nghiêm
của Tổ-phụ ta từ thử hiển nhiên chúng ta đã ngó thấy.
Trong nước hiện giờ thì có
các Đạo-giáo thanh liêm chánh trực đang làm cha mẹ cho dân, cái tinh thần tạo hạnh
phúc cho dân, một trang anh dũng biết bảo trọng nền quốc túy, nâng đỡ nước nhà,
biết tôn sùng Nhơn-nghĩa, chúng ta đã ngó thấy. Các Đạo-giáo của chúng ta đem
cái Nhơn-nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm lý của loài người là có thể trị đặng
cái tinh thần bạo ngược của họ.
Nhơn-loại vì quá ỷ tài sức
nương theo cái tinh thần khoa học mà làm mất cái tinh thần căn bản nhơn-luân
nên nay ta đem cái đạo nhơn nghĩa mà thức tỉnh loài người, đặng cho họ nhìn với
nhau vì danh Nhơn-nghĩa hầu thương yêu nhau, dắt nhau đi đến Chủ-nghĩa Đại-đồng.
Cái nền Nhơn-nghĩa của
chúng ta, nó có thể làm môi giới cho các chủng tộc trên thế giới, đạo nhơn
nghĩa của chúng ta là một căn bản của quốc thể của nước Việt Nam và có thể
thành Quốc-Đạo được.”
3 - Nho tông để chuyển thế
(Tại Đền Thánh, thời Tý mồng 5 tháng 5 Mậu Tý
(dl. 11-06-1948)
“Hôm nay Bần Đạo giảng tiếp
câu Thánh-ngôn của Đức Chí-Tôn "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong".
Bữa trước Bần-Đạo đã giải
rõ đại công của nền nhơn-luân phong-hóa của ta.
Nay ta sưu tầm căn nguyên
của Nam-phong coi do đâu mà sản xuất. Bần Đạo đã giảng là cốt yếu muốn thực
hành phong hóa nhà Nam, phải do nơi Nho-tông mà làm căn bản.
Thời kỳ nầy Chí-Tôn đến, lấy
Nho tông để chuyển thế và thi thố cho cả toàn cầu vạn quốc một triết lý tối
tân, đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục tồi phong của nhơn loại mà đem vào
Thánh chất của con người. Đức Chí Tôn đã tìm định đến đặng sửa đương. Vậy ta
nên tìm hiểu Nho-Tông là thể nào? Đã cho ta vật gì? Có đủ phương tiện mà chuyển
thế đặng chăng?
Trước hết ta phải biết
trong tay ta có khí-cụ gì rồi mới có đủ can đảm xông pha ra chiến trường quyết
thắng, tìm xem coi nhơn loại đang thiếu thốn điều gì và xem coi nhơn loại đang
tìm kiếm vật gì, mà vật ấy chúng ta có hay không?
Nói đến Nho-Tông, thì chẳng
còn gì phải biện thuyết nữa, vì đã có chẳng biết bao nhiêu là Hiền-môn,
Thánh-tích để lại từ thử. Kể từ ngày Đức Khổng-Phu-Tử giáng thế đã hai ngàn năm
trăm năm, nếu ta suy xét cao xa hơn nữa thì ta thấy Đạo Nho phát sanh từ vua Phục-Hi
là tối cổ hơn hết. Ta không thể tìm đâu xa hơn nữa, duy biết rằng Đức Khổng-Phu-Tử
học Nho của ông Châu Công, đặng chỉnh đốn lại Đạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy
vậy.
Đạo Nho đã làm được những
gì?
Ta thấy Đạo Nho của chúng
ta có Hội-Thánh mà Hội Thánh ấy bí ẩn khéo léo lạ lùng duy có một người có thể
kiến thiết quốc-phong của một nước mà thôi, chớ không đủ năng lực chuyển cả tâm
lý toàn cầu được. Vì sự khuyết điểm ấy, Đức Chí-Tôn mới đến lập Hội-Thánh, đền
thờ của Ngài kêu là Cao Đài, danh từ đó chỉ rõ đền thờ cao trọng của Ngài tại
thế nầy, tiếng Pháp gọi là Haute Église nghĩa là đức tin cao trọng.
Hỏi Hội Thánh của Đạo Khổng
lập quốc thế nào?
Ta thấy Hội Thánh của Đạo
Khổng trong gia đình làm gia pháp biến sanh ra phong hóa gia nghiêm đó vậy. Người
chưởng quản gia đình tức là giáo sư, Hội Thánh của Đạo Khổng tức là ông cha,
nên thiên hạ thường kêu là chủ gia.
Trong hương đảng có Hội
Thánh của hương đảng, theo cổ tục thì ông Hương Chủ là chủ của Hội Thánh hương
đảng, còn chức Hương Cả và Đại Hương Cả là người ta mới bày ra sau đây mà thôi.
Trong hương lân ngày xưa, chức Hương Chủ là lớn hơn hết vậy. Khởi đầu trong gia
đình, rồi mới tới hương lân, rồi mới ra đến quốc gia, người chủ của quốc gia ấy
là nhà Vua.
- Ông cha ta trong gia đình,
- Ông Hương Chủ trong hương thôn,
- Ông Vua trong nước.
Cả ba người ấy giữ ba giềng
mối đạo, phụng thờ ba Tôn giáo. Tổng số ba Tôn giáo ấy lại là Nho tông.
Ông cha trong nhà thì thờ
Tiên Tằng Tổ Khảo của Tông-môn, ông là giáo sư, là thầy cả trong gia đình.
Ông Hương Chủ thì thờ Chư
Thần tức là cả Công Thần vì nước mà hy sanh tánh mạng, được nhà Vua ân tứ làm
chủ hương lân, nên trong làng ta chỉ thấy có đình thờ Thần thiên thu phụng tự
mà thôi, nên ông Hương Chủ là thầy Cả của làng.
Nhà Vua thì thờ Đức
Chí-Tôn tức là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Ta thấy sự tế tự Đấng Chí-Tôn ấy lưu truyền
từ đời thượng cổ, nên hằng niên mới có tế Nam Giao, đó là tế Đức Chí-Tôn vậy.
Từ đời lập quốc đến giờ,
trong phong hóa nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng-tự, nếu đoán chắc
là nhờ âm chất của Tổ-tiên ta biết phụng thờ Đức Chí-Tôn, cái thâm tình ấy còn
lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ.
Thế thì Ngài đến vì Tổ tiên ta đã gieo mối thâm tình nồng hậu, chớ chẳng phải
vì sự tình cờ mà Ngài đến nước Việt-Nam nầy đâu. Trong phong hóa của ta gồm có:
Phong-hóa của nhà, phong-hóa của làng, phong-hóa của nước, tức là phong-hóa
chung của xã hội nhơn quần Việt-Nam ta đó.
Bây giờ chúng ta khảo cứu
coi Nho-tông đối với xã hội là gì?
Tức nhiên ta thấy là luật
pháp, tuy rằng 86 năm nay bị ảnh hưởng của văn minh Âu-Châu, chúng ta lãng quên
nền phong hóa tốt đẹp của ta mặc dầu, nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.
Chí-Tôn đã đến, Đạo Nho có
Thất thập nhị Hiền và Tam thiên đồ đệ.
Chí-Tôn lập Hội-Thánh có
Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền và Tam thiên đồ đệ.
Rõ-ràng là Hội-Thánh của Đạo Nho đó. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài áp dụng nền
chánh trị của nhà Châu đặng lập chánh-trị của Đạo, làm cho cả cơ quan yếu thiết
của Đạo Cao-Đài ra thiệt tướng, đặng đủ năng lực chuyển thế, ta không có gì mà
nghi ngờ nữa cả.
Gia nghiêm của ta lập
thành do phong-hóa của Tổ-phụ để lại có những gì? Căn bản gia nghiêm hay gia
pháp do nhơn luân chi Đạo, nên lấy nhơn luân làm chuẩn đích, mà nói về nhơn
luân thì mỗi người đều biết. Khởi đoan là hôn phối, việc vợ chồng đối với nhau
để trọn quyền của ông chủ gia định liệu là người chồng, sau quyền chủ gia ấy lại
có quyền nội trợ để cho người vợ, hai quyền ấy vô đối.
Ta thấy lối 100 năm trước
đây, quyền của cha bảo con chết cũng phải chết, không phải bất hiếu như ngày
hôm nay của những kẻ học đòi theo lượn sóng tự do văn-minh vật chất, rồi còn trở
lại muốn làm chủ cha mẹ.
Không! Nho-pháp không cho
có quyền lực ấy bao giờ. Nho pháp không chịu cho cái giọt máu, cái giọt khí huyết,
do vật ấy tạo hình, lại muốn làm chủ vật ấy tạo đoan ra nó, như vậy là sái luật
thiên nhiên của Chí-Tôn dĩ định.
Hỏi vậy cái quyền nắm đạo
nhơn luân trong tay của ông cha ta quan sát theo con mắt của đời văn-minh nầy
thì nói là quyền áp bức có phải? Hại thay! Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại
phong-hóa của con người đem vào khuôn khổ thuần-phong mỹ-tục thì cả nhơn loại
trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng ứng với sự tự do mà đi đến địa vị con vật,
là mất hết tính chất làm người đó. Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần
cha mẹ là những người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy
còn vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đã làm bại
hoại thân hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.
Bần-Đạo buổi ấu xuân bị ảnh
hưởng của tự do, thấy sự kềm thúc của gia nghiêm lấy làm khó chịu. Khi ấy Bần-Đạo
đang học Pháp-văn. Lúc về thăm ông thầy Nho, khi đến đó ông mới tường thuật
tình cảnh bối rối gia đình của một vị quan viên bà con xa với Bần-Đạo. Vì vợ
làm khổ tâm cho chồng là vị quan viên ấy, đến nỗi gia đình phải tan nát. Ông tường
thuật câu chuyện nầy vừa xong thì lại than rằng: Hại thay! Vì buổi trước không
phải cha mẹ định hôn, mà tự do kết hôn nên ngày hôm nay mới ra dường ấy.
Thừa dịp ấy Bần-Đạo mới vấn
nạn ông, Bần-Đạo hỏi rằng: Gia-pháp của ta nghiêm khắc quá lẽ, đến sự chăn con
như chúa ngục chăn tù, nếu không có quyền tự do thì con sẽ tối tăm ngu dốt?
Ông lại trả lời rằng:
Không, không phải gia-pháp áp bức làm cho con mất tự do đâu, mà trái lại người
có quyền lắm chớ, đến nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà "tại
gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử". Quyền của con còn có thể
thế cho quyền cha được rồi, thì có áp bức chỗ nào đâu? Chỉ có kềm thúc tâm tình
của con cho nó đừng thương ai trước khi thương vị hôn-phối của nó, để cho nó đủ
đầy tình ái mà thương người vợ tương lai của nó vậy thôi.
Muốn định hôn cho con thì
trước hết cha mẹ đã lựa chọn tâm lý của vị hôn thê coi có hòa hiệp với tâm tình
của con mình không chứ, chẳng phải xem xét tánh đức mà thôi, mà cha mẹ là người
lịch-lãm thế tình nên thâm hiểu cả tâm tình của đôi lứa, dầu cho đôi lứa chưa
biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ cùng nhau, đồng tâm đồng chí thương
yêu nhau đặng.
Đạo nhơn-luân khởi thủy từ
hôn nhơn, mà Nho-phong đã định cho cha mẹ vi chủ, nếu để cho đứa con vi chủ thì
chỉ có hư mà thôi, mà gia-đình hư tức nhiên sẽ có ảnh hưởng tới xã hội vậy.
Đây là Bần-Đạo duy mới nói
có gia-nghiêm mà thôi, vậy bây giờ chúng ta luận về tâm lý. Sự hám vọng tự do
quá lẽ, mà đưa tâm lý con người đến mức khả ố, nguy hiểm không thể tả được. Ta
thấy nó gieo trên mặt địa-cầu nầy một triết lý vô lối là triết lý: Vô phụ, vô
quân; không quê hương, không gia đình.
Bởi vậy ta mới thấy thế
tình con sanh ra ngỗ-nghịch, không tuân phụ huấn. Thảng như ngoại nhơn có hỏi đến
tại sao đã lớn, đã khôn, mà không biết nghe lời phụ-huấn cư xử với đời vô để,
vô nhơn không còn tình thương nhơn phẩm, thì chư Đạo-hữu biết kẻ bất hiếu kia sẽ
trả lời ra sao không? Nó trả lời rằng: Tôi không xin họ sanh tôi, tôi không muốn
họ sanh tôi, chẳng qua là họ vì lỡ mà sanh tôi nên họ phải nuôi tôi đó thôi.
Ôi! Ân đức thâm sanh thật
không còn có nghĩa gì hết.
Những tục lệ ấy nếu Đạo
Cao-Đài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại trên mặt địa cầu
nầy sẽ thành ra ác thú.”
4 - BẢO THỦ THUẦN PHONG MỸ TỤC.
(Tại Đền Thánh, 12 tháng 5 năm Mậu-Tý
(dl. 18-06-1948 )
“Hôm nay Bần-Đạo tiếp tục khảo cứu phong hóa của dân tộc Việt Nam đối với phong hóa các dân tộc khác, cốt yếu xem coi
chúng ta có phương gì chỉnh đốn đạo nhơn-luân của họ đặng? Mấy kỳ trước Bần Đạo
đã giảng rằng: Đạo nhơn luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con,
có cha con mới có dân tộc lập thành quốc gia xã hội.
Đương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn-luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi
nầy đã nghiêng đổ và lung lạc tất cả, nhứt là bên Âu-Châu, đạo nhơn luân của họ
tồi tệ là thường, Bần Đạo thấy rất nên bại hoại,
từ thử đến giờ chưa nghe ai nói cha lấy con, anh lấy em, mà bên Âu Châu thường
có xảy ra điều ấy.
Hại thay! Trải qua tám chục
năm nay những tánh tình yêu nghiệt ấy lại truyền sang đến nòi giống chúng ta,
ngày nay vẫn còn thấy tấn tuồng đó nữa, yêu nghiệt đã biến tướng biểu sao thiên
hạ không loạn được. Đạo nhơn luân đã vậy, tinh thần của con người không còn biết
phẩm vị, nhơn cách gì hết, nên hột giống ác nghiệt biến sanh ra mãi thôi. Thành
thử nhơn loại ngày nay quá bạo ngược, tương-tàn tương-sát lẫn nhau, người đối với
người còn dữ tợn hơn thú đối với thú nữa, vô nhơn vô đạo, cha không xứng phận
cha, con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, chồng không nên
chồng, vợ không đáng vợ, nền luân lý của nhơn loại trên mặt địa cầu nầy không
còn có khuôn khổ gì hết.
May thay! Đạo nhơn luân của
Tổ-phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh hưởng của văn minh ngoại bang làm cho ô-uế
đôi chút, nhưng nhờ Đức Chí Tôn đến phổ truyền nền Chơn-giáo của Ngài nơi đất
Việt-Nam nầy, có thể còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn mẫu cho toàn cả các
sắc dân nơi địa cầu nầy bắt chước theo nữa.
Đạo làm chồng, chúng ta có
gương xưa tích cũ, nhờ nơi Nho-Tông rất oai quyền, nghiêm khắc, mặt luật của nó
kềm chế tâm lý của con người. Đạo nhơn luân của nhà Nho ta có cái vẻ đẹp thiên
nhiên, ai tiêm nhiễm đến cũng sanh mê mẩn, cảm kích, vậy mới tạo tâm lý theo
Nho-Tông làm hình trạng tinh thần Nho Đạo, khuôn tuồng đó duy ở Việt Nam mới
có, còn các Tôn-giáo khác hình tướng lại biến ra làm khuôn mẫu riêng trên sân
khấu đời, nên Đạo Nho-Tông thâm nhập vào cốt thể của cả thảy con người đặng.
Bao nhiêu gương để chỉnh đốn
đạo nhơn-luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương
cho nhau lập mình lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ ông Châu Công, Ngài là Tể
Tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ
phu-nhơn mà cư xử được như vậy thật đáng quý. Kịp đến khi ông hồi hưu, buổi già
cả vợ chồng đối với nhau như chủ khách.
Nước ta lại có bà vợ của
ông Phan-Thanh-Giản. Ông xuất sĩ rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi
lại vào Trung, không mấy khi vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ
hiếu thay thế cho chồng, xét ra thì gương ấy cả Âu-Châu cũng chưa hề có vậy.
Ngày giờ nào, gương mẫu tiết liệt ấy trải ra cho toàn phụ nữ trên mặt địa cầu nầy
đồ theo, thì ngày ấy danh thể của phái nữ mới được trọng nễ, nhứt là phụ nữ
Cao-Đài cần phải làm cho đặng, hầu sửa đương nền phong hóa của Việt-Nam trước
đã.
Còn về sự tồi tệ thì chúng
ta hằng thấy tích xưa điển cũ, như có câu: "Đố phụ loạn gia". Lạ lùng
thay và khéo léo thay! Chẳng phải do ở bọn hàn mặc hoặc thượng lưu trí thức, lại
ở nơi một người đàn bà hạng thường, đủ khôn ngoan đạo đức có đủ hạnh kiểm có thể
sửa chồng nên phận được.
Xưa kia có người lính cầm
lọng cho Yến-Tử là quan Tể Tướng. Ông nầy thì nhỏ người, còn chú lính cầm lọng
thì to lớn kịch cợm. Ông Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng con người có
tánh cách nho nhã, nề nếp nhà quan, không kiêu hãnh, gương mặt khiêm hòa, còn
chú lính cầm lọng lại vênh mày vênh mặt, bộ tướng tá nghinh ngang, tưởng rằng
không phải Yến Tử mà chính anh ta là Tể Tướng đầu triều mà chớ! Lúc Tể Tướng đi
ngang qua, người vợ chú lính núp kẹt cửa thấy vậy, nên khi về nhà mới đòi làm tờ
để. Anh ta hỏi tại sao? Người vợ nói rằng: "Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy
chàng đi ngang, Quan Tể Tướng, Ngài thì nhỏ người mà gương mặt nho nhã, tỏ vẻ hạ
mình còn chàng thân hình to lớn mà chàng hiên ngang coi trái mắt quá lẽ, vì thế,
thiếp lấy làm hổ ngươi không thể ở với chàng nữa".
Nhờ vậy, chú lính ấy biết
cảm hóa, sau sửa mình lập thân trong hàng ngũ quân binh lên đến bực Tướng. Ấy vậy,
đạo nhơn-luân nếu biết giữ chặt, thì vợ có thể làm nên cho chồng, dạy chồng nên
đạo được. Phụ-nữ Cao-Đài cũng thế đã hai mươi ba năm nay tiêm nhiễm đạo đức
tinh thần, tạo đầu óc tâm não, vậy tìm phương dạy chồng thế nào!
Có nhiều hạng người được
vinh vang thì lên mặt phách xấc, không nhớ đến căn bổn hèn hạ của mình khi trước,
phải biết rằng chúng ta đứng đợt với thiên hạ được là nhờ Chí-Tôn tô mày vẽ mặt
cho đó, hạng nầy rất nhiều, phụ nữ nên để ý sửa dạy cho họ bớt tâm tự kiêu đôi
chút.
Đối với cha con, Nho-Tông
để lại nhiều vẻ đẹp của Tổ-phụ chúng ta lưu truyền đặng làm chuẩn thằng mà sửa
đương xã hội và lập quốc. Cha hiền mới sanh con thảo, con thảo là hột giống để
làm một nền móng tương lai, tương lai quý hóa không thể tả, bởi Tiên Nho chúng
ta đã nói: "Vua Nghiêu tìm ông Thuấn đặng truyền ngôi, chẳng vì lẽ gì hơn
là nghe danh ông Thuấn chí hiếu, mà một khi ta được chí hiếu rồi thì không gì
sánh bằng. Có hiếu rồi mới có nghĩa, có trung, có cang, có tr; nghĩa là hễ có
hiếu rồi thì có thể có đủ hết tính đức khác".
Ngày xưa người ta tầm hiếu,
đến tại nơi thôn lân, huyện, phủ, tỉnh lỵ, để hỏi thăm những gương hiếu thuận.
Người ta tìm hiếu tức là tìm hiền, do cái hiếu ấy suy độ ra cái hiền của bậc
danh thần triều chánh, mà muốn có hiếu thì cha phải có từ vậy. Bần Đạo thấy quốc
dân Việt Nam bị ảnh hưởng của ngoại quốc, con không cần cha, cha không biết đến
con, tồi phong tệ tục ấy đã thấy rõ ràng trước mắt. Bởi vậy, trong xã hội có ba
người quan trọng: Cha, Chủ, Chúa.
Cha là ông chủ của một gia
đình, Chủ là ông chủ của một hương đảng, Chúa là ông chủ của một nước, cả ba vị
ấy làm đầu từ gia đình lên xã hội. Nếu quyền cha nắm không kham là do người cha
bất lực. Truy căn nguyên là do tại tự do kết hôn, chồng không phải chồng, vợ
không phải vợ, cập xách với nhau rồi tự lập gia đình, đạo nhơn luân không có chỗ
nào ràng buộc, chẳng qua là chơi hoa giỡn nguyệt, không căn bản gì hết, biểu
sao khi sanh con ra mà chúng lại không trở nên kẻ vô bổn. Nhứt hạng Việt Nam
lai của ta là tối hại.
Bần-Đạo đã nói để cha mẹ định
hôn, như thế có lợi hơn vì như ta vẫn thấy, cả kiếp sanh lúc còn nhỏ, cha mẹ
còn đủ, đến ông nội, ông cố cũng còn nữa, trộng một chút là ta vẫn cũng còn thấy
đông đảo, đó là khi chưa biết khôn. Khi đã khởi biết khôn ngoan thì ông nội đã
đi đâu rồi, rồi cha mẹ đã già, mà mình cũng già nữa, trong lúc ông bà cha mẹ mất,
mình cảm thấy cái quyền trong tâm lý của mình cũng mất.
Cha mẹ là bực cao kỳ trí
thức, đáng kính, đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu cho chúng ta chưa có tình
thương nồng-nàn đi nữa, nhưng thời gian qua chừng nào, nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc
cha mẹ chồng đã khuất, thì vợ nhận thấy ở chồng là hình ảnh người cha của mình,
còn chồng nhận thấy ở vợ là hình ảnh mẹ của mình, nên được khuây khỏa tấm lòng
và khắn khít không lìa nhau là vì lẽ ấy.
Nói gì trên bộc trong dâu,
một đời nếu không có xảy ra điều gì thì thôi, còn nếu có xảy ra điều chi sanh
phiền sanh giận, thì chừng ấy không phương thuốc gì trị được cả, tâm lý phải
chia lìa thì tình kia phải xa cách, mới dễ bỏ nhau, thay chồng đổi vợ, con cái
sanh ra thấy tấn tuồng ấy tập tánh học theo, biểu sao tương lai không hư hèn và
tánh đức không lạc lầm phàm tâm lìa đạo đức. Làm cha mẹ nếu chúng ta biết Tiên
Nho đã đối với con người như thế nào và toàn cả xã hội Việt-Nam, cả nòi giống
cưng con như thế nào, đến nỗi trong một Tông-đường có đứa con nào ngỗ-nghịch
cha mẹ định từ bỏ thì chỉ nói ngoài cửa miệng, chớ chưa thấy ai từ con được bao
giờ.
Nhớ lại, khi Bần-Đạo đi
ngoài Qui-Nhơn, gặp một ông già tên là ông Sáu Chèo, vì ông bán chèo nên mọi
người kêu như vậy, vô nhà nhìn thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển gì
hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ có một vế thôi: "Nhược niệm Cửu Huyền chi
bổn, khả năng tu tỉnh ngộ thân", nghĩa là: Nhớ đến Cửu Huyền thì phải rán
gìn giữ thân mình. Bần Đạo thấy thờ có một câu mà không có sơn thủy gì hết, lấy
làm lạ thì ông nói: "Một câu đó đủ nghĩa để dạy con cái biết tuân theo,
thành tâm tu chỉnh thì Cửu Huyền sẽ vinh diệu, biết giữ thân mình không bịnh
nhược thì sanh con sáng láng mạnh khỏe khôn ngoan".
Đời bây giờ thiên hạ mê đường
hoa nguyệt phong tình, sanh con lớn lên thành ho lao, ho tổn, hay tật nguyền,
có nhiều sắc dân sanh con thấy tàn tật ghê khiếp lắm, vì cớ mà mấy năm trước
đây Hitler thi-hành chánh sách của Đức Quốc Xã xử tử hay là thiến những kẻ tàn
tật, bịnh hoạn, lấy lý rằng kẻ ấy chẳng giúp ích gì cho nước, chẳng những thêm
một miếng ăn cho xã hội lại còn di hại cho nòi giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa
lại những dân đinh cường tráng, nhưng vì Đức Quốc Xã đã làm quá lẽ thành ra tàn
ác, nghịch đạo làm người.
Tổ-phụ chúng ta không thi
thố chánh sách ấy, chỉ dùng tinh thần đặng giữ con cho nó tránh khỏi sự bạc nhược
đã nói, mà nòi giống Việt-Nam nầy không bị tiêu diệt là nhờ khéo giữ đạo nhơn
luân từ trước đó vậy.
5 - PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI PHONG HÓA CÁC DÂN TỘC
VẠN QUỐC.
(Tại Đền Thánh, đêm 19 tháng 5 năm Mậu-Tý (dl.
25-06-1948)
“Bần-Đạo giảng tiếp về khảo
cứu phong-hóa nước ta đối với các dân tộc vạn quốc.
Bần-Đạo đã giảng rằng
trong quốc-gia xã hội chúng ta có ba quyền: Cha, Chủ, Chúa. Ba quyền ấy cầm cả
chánh trị của nước nhà, có khác nhau chăng duy có nhỏ và lớn, chớ chánh kiến vốn
đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền tảng cho phong-hóa chúng ta vậy.
Hôm nay, Bần-Đạo tiếp giảng
về quyền làm cha và triều-chánh của ông cha, tức là gia đình liên quan thế nào
đối với triều chánh của làng và triều chánh của nước.
Chúng ta thấy trong ba quyền
ấy, duy có quyền chúa là trên hết, sau biến tướng đến quyền cha, quyền thầy. Ấy
là đạo Tam Cang: Phụ tử, Sư đệ, Quân thần. Bần Đạo sẽ giảng rành mạch về quyền
chúa ấy sau. Bây giờ Bần Đạo giải rõ quyền cha mà thôi.
Vả chăng chúng ta để ý cho
tận tường xem coi xã hội chúng ta thấy có điều đặc sắc riêng biệt không giống với
các xã hội khác, là từ khi Đức Khổng Phu-Tử hiệp ba quyền ấy làm Hội-Thánh của
Ngài:
Ông cha tức là thầy của
gia đình, ông chủ tức là ông thầy cả của làng, ông vua chúa tức là ông thầy cả
của nước. Vì cớ nên hình trạng của ba quyền ấy Bần-Đạo nói rõ là lớn nhỏ khác
nhau mà chánh kiến vẫn là một. Trong gia đình nếu ta không gọi là ông Cha thì gọi
là ông Chúa của gia đình, cầm đầu cái triều chánh của ông, bà vợ trong gia
đình, người ta còn gọi là Nội Tướng tức là Thủ Tướng của gia đình, cả con cái là
Lục Bộ Đài Quan, tôi tớ hoặc những công nhân giúp việc trong gia đình tức nhiên
là toàn dân vậy.
Ấy vậy, gia đình theo
phong hóa Việt-Nam ta rất trọng hệ, ông Cha của gia đình cũng như ông Chúa của
nước vậy, nên xét ra đến cực điểm phong hóa của ta thì thấy tốt đẹp lạ lùng. Chỉ
vì ta không quan tâm đến thôi, nếu để ý ta sẽ vui hứng hạnh phúc đặc biệt, bởi
không có dân tộc nào giống như chúng ta, kỳ dư nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng
văn minh như chúng ta mà cũng không đồng một vẻ hay là giảm bớt thì có. Trọng hệ
là gia đình, mà gia đình có được trọng hệ thì ông Chúa của gia đình mới trọng.
Vì cớ đạo làm Cha, phong hóa chúng ta kính trọng một cách vô đối.
Đối với xã hội, Tổ-phụ
chúng ta biết con cái lớn lên phải lập gia thất, nên mới lưu truyền món hương hỏa
ấy. Lấy gia pháp làm chủ đích, gia pháp ấy biến ra gia nghiêm, mà gia nghiêm chặt
chịa kềm thúc con cái chẳng có ý chi khác hơn là dụng oai quyền đó mà tạo một vị
Chúa tương lai cho gia đình, nên Tổ-phụ chúng ta trông nom điều trọng hệ ấy mà
hủy bỏ cả hành tàng phụ thuộc ở ngoài là cả sự sanh hoạt của gia đình, chỉ lo bảo
thủ lấy tinh thần làm Cha tương lai cho đúng giá trị của nó.
Lạ chi đối với nòi giống của
chúng ta thường nghe mọi người nói: "Phụ có từ, tử mới hiếu" mà Bần Đạo
đã nói rằng cả tánh đức của con người đứng đầu trên hết là hiếu, Bần Đạo cũng
đã giảng, đời Thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do nơi hiếu, nên Vua Nghiêu chọn
ông Thuấn kế vị cho Ngài là vì ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh đức hiếu ấy là
cái năng lực căn bản của các tánh đức khác, nó là tánh đức của đạo đức tinh thần
và nó đi gần tánh chất của loài người.
Con người đã có hiếu thì
các tánh đức tốt đẹp khác đều là phụ thuộc, bởi vì khởi đoan của tâm hiếu,
không phải biến sanh một ngày, một bữa gì mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm
căn bản môi giới cho các tánh đức khác nảy nở, mà ta đã thấy và định quyết rằng
người đã làm được con hiếu thì thế nào cũng sẽ là cha từ. Mà hạng phụ từ rất tối
cần, tối trọng cho xã hội vậy.
Ấy vậy, trong gia đình phải
có phụ từ, mà tại sao cha phải từ?
Phương ngôn nói: "Cha
hiền sanh con thảo", lại có câu: "Hiếu thuận huờn sanh hiếu thuận tử,
ngỗ nghịch huờn sanh ngỗ nghịch nhi", sách xưa truyện cũ ta thấy còn lưu lại
nhiều thành tích rất quí hóa. Đứa bé thơ kia học ai trước hết? Học cha mẹ nó.
Trí óc non nớt của nó chưa có hình trạng gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô
trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm ai. Dòm cha bắt chước
cha, dòm mẹ bắt chước mẹ, dòm anh em bắt chước anh em. Trong gia đình nếu có
gương cha lành, thì sự ấy huyền bí thay!
Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu
buổi sơ sanh, đứa con chưa biết nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lý, nhiều khi cha
mẹ dạy nó không tuân, Bần Đạo vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó
không mất, dầu đứa con có lơ lãng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để
vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy, chúng ta không thể tưởng tượng được, khi cha
mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tiềm tàng cái giáo hóa buổi sơ sanh ấy làm căn gốc
trong bản tâm của nó.
Làm người cha hiền không
biết làm mất tự do của con, trái lại còn trọng nữa, trong xã hội chúng ta như vậy
đó. Đừng thấy hình trạng giáo hóa bề ngoài lấy nghiêm trị làm căn bản mà gọi rằng
đối với nòi giống chúng ta cha mẹ áp chế con làm mất tự do của nó. Không phải
như vậy đâu! Có lẽ vì nhìn thấy Tông đường hư hoại, nên cha mới nghiêm trị con,
đặng bảo thủ tương lai của Tông-đường, chớ chẳng phải cố làm cho mất quyền tự
do của con.
Bần-Đạo giảng tích này cho
cả thảy nghe mà suy gẫm, thì thấy nòi giống chúng ta vốn trọng sự tự do của con
cái mà trọng một cách khéo léo.
Đời Tiền Lê có ông Thừa Tướng
đầu triều không có con. Hai ông bà thường đến chùa này miễu kia cầu tự.
"Nhơn hữu thiện niệm, thiên tất tùng chi", nên bà vợ hạ sanh được một
đứa con trai. Quan Thừa Tướng đã niên cao kỷ trưởng mà có một đứa con trai thì
nỗi mừng vui đó không thể luận được. Người Nam mình hay ví trứng mỏng cũng
không ví bằng cậu công tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia đình đối với cậu
thì ai cũng là tôi đòi nô lệ hết. Hai ông bà cưng đáo để, lớn lên rồi hễ thấy
cưng lại thêm nhỏng nhẻo, rồi du côn, rồi hoang đàng chi địa vô giáo dục. Tấn
tuồng xảy ra như vậy mà quan Thừa Tướng và phu nhân cũng không dám động tới, vì
quá cưng thì còn ai dám động tới cậu nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất
gì cũng được.
Đến tuổi đi học, cho vào
trường thì không ai chịu nỗi, con các quan bị cậu đánh luôn, ngày nào cũng có mắng
vốn. Thấy tình trạng như vậy, biết con mình bị cưng quá không ai động tới được.
Đến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi thanh lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc,
không món nào mà cậu không có, ngoài ra còn du côn, du đảng, ai thấy gia đình ấy
mà không nói rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải thống khổ tinh thần
như vậy.
Nhưng ông bà cũng vẫn cưng
không động gì tới cậu công tử cả, ông chỉ buồn than nói với ông bạn là quan
Hình Bộ Thượng Thơ rằng:
- "Tôi có một đứa con
mà con cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ đổi", thì ông bạn nói:
- "Thưa quan Thừa Tướng,
nếu Ngài giao quyền trọn vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi đặng tôi giáo
hóa thử coi".
Quan Thừa Tướng đã hết
phương rồi, nên giao cho ông bạn dạy dỗ cũng không được gì hết, cậu công tử vẫn
còn buông lung điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị, mới cho
quan Thừa Tướng hay:
- "Tôi phải dụng quyền
đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu
Ngài vui lòng như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng".
Quan Thừa Tướng chịu:
- "Bạn làm sao giúp
tôi được thì làm, vì tôi cùng đường hết kế rồi".
Quan Hình Bộ Thượng Thơ thả
cho cậu công tử ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thứ, rồi bắt bỏ tù, lên án
như các tội nhơn khác vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu,
thông tin về nhà cho Thừa Tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau lòng vì con, ra
chịu tội trước triều đình, rồi Ngài và quan Hình Bộ Thượng Thơ đến người nầy
người nọ xin tha thứ, đi tới đâu dắt công tử theo tới đó, cậu thấy khổ trạng
như vậy nên lương tâm tự hối, biết tội mình làm để lụy đến cha dường ấy.
Về nhà ông rước thầy cho
đi học thêm nữa, vì cậu đã biết ăn năn, sợ cha mẹ và chịu ở nhà không dám phóng
túng chơi bời nữa. Nhưng, trong gia đình cũng không chiều được, cậu chỉ kiêng
có cha mẹ thôi, ngoài ra không kể ai cả, nổi giận là cậu đánh đập liền. Ông mới
tính một phương thế, lấy cớ là con nhà trâm anh, bắt cậu để móng tay, từ đó cậu
ít đi ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên hạ nữa, là vì cũng bị lật móng
tay hai ba lần gì đó, nên hoảng mà thuần nết lại.
Đến khi triều đình mở khoa
mục, cậu nhờ trí thông minh sáng suốt lạ thường lại học giỏi nên được chấm đậu
Trạng-Nguyên. Nhà vua và cả mọi người biết tánh đức của cậu trước như vậy mà
nay được như vầy thì ai cũng mừng, trong gia đình còn mừng hơn nữa. Thiết lễ
Tân quan, khi vị Tân quan vào bái lễ Từ đường, rồi trở ra hội yến với các quan;
quan Thừa Tướng mới kêu con lại nói:
"Ngày nay con đã vinh
hiển rồi sẽ ra làm quan thì móng tay con không để làm chi nữa, con đưa đây cho
cha", ông cắt tử tế, đem vào bàn thờ Từ đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở
ngoài một lớp hàng đỏ nữa, đề bốn chữ "Trấn tâm chi bửu" nghĩa là của
báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng: "Từ đây trở đi hoặc sau
nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều, vật trấn tâm chi bửu này cũng không
nên rời con". Thì y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức,
kế được chí cha làm đến đầu triều, mà cái gói “trấn tâm chi bửu” tức là móng
tay đó vẫn còn luôn.
Bần-Đạo dám cả gan nói rằng:
Nhờ cái phụ giáo như vậy, mà triều chánh Việt Nam ta mới bền bĩ, và chắc chắn rằng
người đó là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc lập từ trước đến giờ, nhờ cái
tinh thần đó mà chúng ta đạt được tinh thần độc lập ngày nay.
Phụ giáo rất cao kỳ quý
hóa. Nếu xét tường tận như vậy thì ta chưa đáng phận làm chúa gia đình. Trước
khi tạo gia đình, cần suy gẫm coi ta có xứng đáng làm chúa làm nội tướng chăng
rồi sẽ tạo, cả khuôn khổ tốt đẹp nòi giống chúng ta đã xao lãng, nào giục tấn,
nào cấp tiến, nào văn minh, nào duy tân đáo để thôi. Tấn tuồng duy tân vật chất
đưa đến tồi phong bại tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá độc hại vậy.
Phong hóa tốt đẹp bị bôi
dơ, hỏi vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh thần mà đã biết như vậy thì
nên bỏ hay là phải cố thủ? Phải bảo thủ cái thể chất toàn hảo ấy là điều Chí
Tôn mong muốn hơn hết. Ngài không nỡ nói ra, mà Ngài trông cho chúng ta biết phục
hồi cái phong hóa của Tổ phụ lưu lại, đặng tạo một văn hóa tương lai cho toàn
thể mặt địa cầu nầy vậy.
Nếu Ngài nói ra thì nòi giống
Việt Nam sẽ nói là Ngài thủ cựu hay là muốn phá hoại sự tự do của loài người và
đời văn minh vật chất này không thể không chỉ trích Chí Tôn với lời lẽ ấy, nên
Ngài không nói đó vậy.”
6 - Quyền-hành của người CHA.
(Tại Đền Thánh, đêm 23 tháng 5 năm Mậu Tý
(1948)
“Hôm nay Bần Đạo tiếp tục
khảo cứu nền phong hóa của chủng tộc Việt Nam đối với các chủng tộc khác.
Bần Đạo đã giảng rõ về đạo
làm cha trong xã hội của chúng ta đã tạo thành một nền phong-hóa đặc sắc của
nòi giống như thế nào rồi. Vậy, Bần Đạo lần lượt giảng tiếp về cái quyền của
cha.
Bần Đạo giảng về đạo và
quyền của cha trước rồi sẽ giảng về đạo và quyền của chủ, sau chót mới đến đạo
và quyền của nhà vua tức là chúa.
Ai cũng biết điều trọng yếu
trong xã hội Việt-Nam ta là Tổ-phụ là nguồn cội của các Tôn giáo, nên từ Thượng
cổ Tổ phụ ta đã lưu lại cho nòi giống ta cái cảnh tượng là biết tôn trọng Cửu
Huyền Thất Tổ, dầu quá vãng hay hiện tiền cũng vậy, sự sùng thượng ấy còn tồn tại
trong tâm hồn mãi thôi, chẳng hề khi nào quên ông bà của chúng ta được. Nên Tôn
giáo chơn thật ấy nó buộc vạn quốc nhìn nhận là một Tôn giáo đặc sắc của một sắc
dân chơn thật hơn hết. Thế thì đạo nhơn luân của chúng ta là do truyền nối
hương hỏa của Cửu Huyền Thất Tổ đó vậy. Ta chẳng còn luận chi sâu xa hơn nữa,
chỉ nói cái nợ máu thịt mà nòi giống Việt Nam nầy xem mắc hơn các nòi giống
khác trên mặt địa cầu nầy.
Vì bởi Tiên Nho chúng ta
đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cầm tâm lý của nòi giống
chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại". Trọng hệ hơn hết của
nền quốc giáo Việt Nam ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt
mà ông bà ta để lại, nếu không đương nỗi thì phải chịu thất hiếu với cả Tông tộc,
Cửu Huyền Thất Tổ, thất hiếu trọn vẹn, mà đã thất hiếu rồi thì buổi tương lai về
cõi Hư Linh không ngó mặt ông bà ta đặng. Vì cớ, nên việc hôn nhân nơi nước ta
có vẻ nghiêm khắc, truyền lại làm căn bản Tôn giáo trong nước, dùng khuôn khổ
trọng nghiêm ấy đặng định luật, thì ta chẳng còn ngạc nhiên, hỏi bởi cớ sao luật
nhơn luân lại gắt gao như vậy?
Xưa kia hễ định luật hôn
phối với nhau thành chồng vợ rồi thì chủ hướng duy có một điều là nối truyền
hương hỏa. Tiếng tục thường nói rằng: "Dài dòng cả họ", nên Tông tộc
nào dài dòng cả họ thì hạnh phúc đáo để, trước phong hóa mà được dài dòng cả họ
thì được tôn trọng vô đối, tức nhiên buộc đạo nhơn luân phải gắt gao; khi cưới
vợ ba năm mà không sanh con trai nối hậu thì đàng trai đặng phép để bỏ và lập
thứ. Tại sao? Nếu người đàn ông cả gan vì thương vợ mà không chịu để bỏ thì
mang tội bất hiếu với Cửu Huyền Thất Tổ, với cha mẹ kia kìa.
Thấy đạo nhơn luân của
chúng ta trọng yếu dường ấy, mà hễ trọng yếu tức nhiên quyền cha vẫn là cái oai
quyền cao trọng, quyền cha trong phong hóa chúng ta, nếu con bất hiếu có thể
lên án tử hình được, lên án với luật pháp hữu định, bởi vậy nên Tổ phụ ta nói:
"Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu", ấy là luật nhơn luân của ta như vậy đó.
Đối với các quốc gia, các
nòi giống khác, nếu có công kích thì họ nói đó là làm mất quyền tự do, mất nhơn
phẩm của con. Bần Đạo dám chắc rằng họ thèm thuồng lắm mà họ làm không được vì
tình trạng phong hóa của ta, các nước Âu Châu không thế đối đặng. Bần Đạo giảng
về cái quyền cha mà chính mắt Bần Đạo trông thấy hiển nhiên là khi Bần Đạo mới
ra trường đi làm việc, đổi xuống Cái Nhum, có ông Kế Hiền ở làng Chánh An, tên
là Kế Hiền Kỷ làm một vị Trưởng tộc trong Tông đường, niên kỷ độ lối 55 tuổi.
Khi ấy trong nhà thờ Tông
đường làm lễ cúng ông Cao Tằng gì đó, mà lệ trong dòng họ, người nào đến giờ tế
tự mà vắng mặt thì năm đó mất phần hương hỏa. Sự nghiêm trị rất nhẹ nhàng nhưng
mực thước, nên kẻ nào trong năm đó bị phạt ắt cất đầu không nổi, rồi chỉ có
khóc lóc lén lút vậy thôi nên cả thảy đều phải đến.
Bần Đạo tọc mạch theo coi
nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong Tông đường của Bần Đạo gia phong thì lại khác.
Bởi biết ông Kế Hiền Kỷ còn theo Nho lắm, trong lúc ấy Bần Đạo ngạc nhiên thấy
trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng, dầu khinh, mỗi đứa đều đem tới một
món, đi thôi rần rộ, độ 7 giờ cúng thì lối 5 giờ đi rước ông Trưởng tộc, các
con cháu xúm khiêng ông, ba bốn chục người giành mà khiêng, còn bao nhiêu đi
theo sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh tiếp, ôi thôi! Bần Đạo tưởng nhà Vua
cũng không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông cố hay ông sơ
gì đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy. Bần Đạo tưởng tượng đó là
ông Vua, ông Chúa của gia đình rõ ràng vậy.
Còn nếu biết ông trị nghiêm
trong Tông đường thế nào thì lại càng cảm mến hơn nữa, vì bởi từ thử chưa hề có
một con cháu nhà nào đem nhau tới làng mà kiện thưa một việc chi cả, gia luật
thật đáo để đẹp đẽ và nghiêm khắc, như thế mà đã năm sáu đời truyền kế. Tộc
phái không kể Nội Ngoại gì cũng kế nghiệp được. Trong Tộc phái ấy có một bộ
Tông chi không sót một tên nào mà vẫn còn giữ vĩnh cửu luôn. Ngày giờ nầy các
nước ngoại quốc kia nói nhà Nam ta bảo thủ cổ tục ấy, hỏi có ai làm đặng vậy
chưa? Nếu có được thì một phần ít thôi, mà cũng không có nữa.
Tại sao? Tại tiêm nhiễm
văn hóa Âu Châu rồi đem của quý liệng đi hốt của bỏ đem vào, tinh thần đã thành
ra bạc nhược, thô bỉ, chạy theo thuyết duy vật của văn minh vật chất, quên hẳn
khuôn khổ Tổ nghiệp ta để lại rất đẹp đẽ vô cùng, thâu thập những vật không
đáng giá, làm xáo trộn nền phong hóa tận thiện tận mỹ. Hỏi thử ngày giờ gần đây
ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao chăng? Cả đạo nhơn luân điên đảo, biểu
sao không trộm cướp loạn lạc, giặc giã tứ tung cho được!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét