Quốc Đạo Nam Phong - 1 / 2 (Nữ soạn-giả Nguyên Thủy)

TAM KỲ PHỔ ĐỘ chẳng phân cao thấp sang hèn. THẦY chỉ khuyên một điều là đạo hạnh các con phải giữ hằng ngày cho nhằm phương pháp NHƠN ĐẠO, tức là TỨ ĐỨC đó vậy... (TNI/890)
" THẦY dạy NỮ PHÁI biết trọng: TAM TÙNG TỨ ĐỨC. NAM PHÁI : TAM CANG, NGŨ THƯỜNG Hễ NHƠN ĐẠO thành thì là phù hợp THIÊN ĐẠO. Nghe à! " (TNI/101)
Lời bạt.
Trong tập “QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG” này là kết-hợp tài-liệu
“Mười năm Thuyết Đạo của Đức Hộ-pháp làm nồng cốt nhất là lời thuyết giảng vào năm Mậu-Tý (1948) và nhiều bài trong các năm khác.

Bên cạnh đó còn có tài-liệu “Tam thể xác thân” của Đức Cao Thượng-Phẩm và trích dẫn vài ý-kiến nhỏ của các tài-liệu trên mạng Intrenet không có xin phép tác-giả, xin được miễn chấp. Chung qui chỉ muốn làm giàu kho tàng văn-học-sử Đạo mà thôi.
Đây chỉ là “Tủ sách gia đình” lưu hành nội bộ để học hỏi.
Vài lời kính cẩn
Soạn-giả
NGUYÊN-THUỶ
Thay Lời Tựa.
Xin dẫn lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp làm lời tựa cho đề tài QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG. Cũng như hầu hết tài liệu trong tập sách này đều trích trong “Mười năm Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp”.

Thế nên những soạn-phẩm mới kế tiếp theo, dẫu được chào đời để ra mắt đại chúng thì cũng chỉ là sự ráp nối, xâu kết thành những chuỗi đề-tài có liên-quan với nhau, mục-đích là cho người đọc dễ tìm-tòi trong cái kho tàng Đạo-pháp quá ư mênh-mông…

Đức Hộ-pháp thuyết ngày 30 tháng 9 năm Đinh-Hợi :
“Ngày nay ĐẠO CAO-ĐÀI đã đến khoảng đường kết-liễu danh-giá và hình tướng của nó, nên Bần-Đạo lấy đề hai chữ QUỐC-ĐẠO đem giảng-giải. Chí-Tôn ban sơ thuyết-minh đạo-lý hầu may ra những kẻ mơ hồ tỉnh mộng đặng hiểu biết mình đang đến lập-trường nào, phương sách nào, khoảng đường nào ấy là điều rất hay về tâm-lý toàn cả quốc-dân buổi này.

Hai chữ Quốc-Đạo lần đầu Chí-Tôn viết ra làm cho Bần-Đạo mờ-mịt, cũng vì hai chữ Quốc-Đạo ấy mà PHẠM-CÔNG-TẮC chết năm 35 tuổi, thí thân theo đuổi làm cho ra thiệt tướng.

Ôi! hai chữ Quốc-Đạo là một vật của Bần-Đạo tìm tàng rồi mới biết khôn, khởi điểm biết thương nòi-giống, biết thương Tổ-quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều muốn khát-khao từ buổi thanh-xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần-đạo thấy sao mà vẫn phải khao-khát thèm lạt, tại làm sao Chí-Tôn biết thiếu thốn nơi tinh-thần điều ấy mà cho Bần-đạo, Bần-đạo ban sơ nghi-hoặc, có lẽ một Đấng có quyền-năng thiêng-liêng biết tâm-lý đang nồng-nàn ao-ước, đương thèm-lạt khao-khát, đương tìm-tàng mà đem ra cám-dỗ.

Hại thay! Yếu-ớt đức-tin, ngày nay Bần-đạo ăn-năn quá lẽ. Mười lăm năm đã đặng thấy gì?
Toàn cả thiên-hạ nói rằng nòi-giống Việt-Nam không có Đạo.
Lạ-lùng thay! chúng ta tự hỏi có thật vậy không?

Thật quả có chớ! Có nhiều Đạo quá mà thành ra không Đạo, mượn Đạo, xin Đạo của thiên-hạ mà thôi.
Ta thừa hiểu rằng nòi-giống Việt-Nam xuất hiện ở hoàng-địa Tàu, nên ta không ái-ngại nói Việt-Nam này là sắc dân Tàu vậy. Nòi giống Tàu, nhìn quả thật là dân Tàu mà thôi. Đất địa tổ-quán ta không phải ở đây, ở Bắc Tam tỉnh là: Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam kể luôn Đông-Kinh (Tonkin) tức là Hà-Nội và Hải-Nam nữa, là tổ quán ta thì thiệt của ta đó vậy.

Bần-đạo tìm hiểu Nho-Phong ta đoạt đặng hay đã có trước?
Chúng ta thấy nòi giống Việt-thường này là con cháu nước Lỗ. Nói rằng giống Lỗ lập Đạo Nho, chắc hẳn là Nho-Tông chúng ta vi chủ. Nói vi chủ tức là của mình nếu có Đạo Nho sẵn trước thì ta có: Đạo Nho, Đạo Lão, Đạo Phật; ba nền Tôn-giáo mà mặt địa-cầu nhìn là trọng yếu, bất kỳ là sắc dân nào hay liệt quốc nào cũng đều nhìn nhận là do trong xứ Á-đông này.

Thêm nữa Thần-Đạo nguyên do ở tại Phù-Tang, sắc dân vi chủ tức là Nhựt-Bổn đem truyền qua Trung-Huê rồi qua xứ ta. Ta chịu ảnh hưởng quyền-lực của Thần-Gíao từ đó. Nhờ có nó Nho-Tông phát triển khác chánh-giáo hơn, lại biết tín-ngưỡng một cách đặc-biệt hơn Thần-Gíao. Bằng cớ hiện-hữu là ta đã thờ Thần trong các làng ngày nay đó vậy. Ngoài nữa tâm-lý tín-ngưỡng của nòi-giống, của Việt-Nam nhiệt-liệt và thật-thà đối với bất-kỳ đạo-giáo nào.

Đến thế-kỷ 19 Thánh-Gíao Gia-Tô đem đến nước ta truyền-giáo mới thành một trường nhiệt-liệt đua tranh quyết chinh-phục hết thảy tất cả các Tôn-giáo khác. Bần đạo tưởng ai có đọc tờ phúc-sự năm 1937 đều biết rõ, Bần đạo đã giảng rõ-ràng nguyên-do đó, thành thử Việt-Nam có nhiều Đạo quá nên thành không Đạo!

Có phen các Bạn thân-ái tưởng đến tương-lai quốc dân, lo phương binh-vực mở rộng tự-do thêm, tức có kẻ phản-đối đả-đảo lại.

Bần-Đạo không nhớ ở Hạ-nghị-viện Pháp năm nào, những người binh-vực chúng ta bị đả-đảo:
- Nưóc VIỆT-NAM không tinh-thần đạo-giáo nên khó lập chánh-giới lắm! Vì không có căn-bản tinh-thần đạo-đức mà chúng ta không thể chối, chịu thiệt thòi theo lời vu cáo. Vì cớ Bần-đạo đau thảm khổ-não tinh-thần tìm hiểu coi sắc dân ta có Đạo hay chăng?

Hại thay! Ở trước mắt ta nào là bóng, chàng, đồng-cốt, ông tà, ông địa, đủ thứ làm cho nhơ-nhuốc cái tinh-thần Đạo-giáo, Bần-đạo uất ức!

Ngày CHÍ-TÔN tình-cờ đến, vì ham thi-văn nên ban sơ DIÊU-TRÌ-CUNG đến dụ bằng thi-văn tuyệt bút làm cho mê-mẩn tinh-thần.

Hại thay! nếu chẳng phải là nhà thi-sĩ ắt chưa bị bắt một cách dễ-dàng như thế, vì ham văn-chương thi-phú nên Ngài ráng dạy. CHÍ-TÔN đến ban đầu làm bạn thân yêu, sau xưng thiệt danh Ngài, biểu Bần-Đạo phế đời theo THẦY lập ĐẠO. Khi ấy Bần-Đạo chưa tín-ngưỡng, bởi lẽ nòi-giống nước Nam còn tín-ngưỡng thập tàng lắm; không hiểu đúng, không căn-bản, nói rõ là không tín-ngưỡng gì hết. Bần-Đạo mới trả lời với ĐỨC CHÍ-TÔN; ngày nay Bần-Đạo nghĩ lại rất nên sợ sệt. Nếu không phải gặp đặng Đấng Đại-từ Đại-bi thì tội tình biết chừng nào mà kể.

- Thưa Thầy, Thầy biểu con làm Lão-Tử hay chúa JÉSUS con làm cũng không đặng, Thích-Ca con làm cũng không đặng, con chỉ làm đặng PHẠM CÔNG-TẮC mà thôi, con lại nghĩ bất tài vô-đạo-đức này quyết theo Thầy không bỏ nhưng tưởng cũng chẳng ích chi cho Thầy.

Đấng ấy trả lời:
- TẮC! thoảng Thầy lấy tánh đức PHẠM CÔNG-TẮC mà lập giáo con mới nghĩ làm sao?

Bần đạo liền trả lời:
- Nếu đặng vậy!

Ngài liền nói:
- THẦY đến lập cho nước VIỆT-NAM này một nền QUỐC-ĐẠO!

Nghe xong, Bần-đạo từ đấy hình như phiêu-phiêu lên giữa không trung mơ-màng như giấc mộng. Được nghe nói cái điều mà mình thèm ước, nên Bần-đạo không từ chối đặng.

Ôi! QUỐC-ĐẠO là thế nào? Quốc là nưóc, vậy nòi giống tín-ngưỡng lập Quốc-Đạo; Bần-đạo theo tới cùng coi lập nó ra thế nào, hình tướng nào cho biết; vì đó mà lần mò theo đuổi đến ngày nay, thấy hiện-hữu cái hình trạng là ĐẠO CAO-ĐÀI rồi lại đoán xét coi nó biến thành QUỐC-ĐẠO VIỆT-NAM ra sao?

Ngài có một bài thi dám chắc không ai thấu-đáo nỗi; người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi cái ngọn thì không thấy gốc, tứ văn thiệt-thà hay ho cho tới các đảng-phái quốc sự ngày nay cũng là lợi-dụng.

Từ đây nòi giống chẳng chia ba: tức nhiên không chia ba ĐẠO, chớ không phải ba kỳ à!

Thầy hiệp các con lại một nhà: Thầy nắm chủ-quyền hiệp TAM GIÁO, nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam-Trung-Bắc thì vô-vị lắm!

Nam Bắc cùng rồi ra ngoại-quốc: tức nhiên nền chơn giáo QUỐC ĐẠO, không phải của ta thôi, mà lại của toàn nhơn-loại, là truyền giáo Nam Bắc thành tướng rồi ra ngoại-quốc, tức là Tôn-giáo toàn-cầu vậy.

Chủ quyền chơn đạo một mình TA: Tam-giáo Ngài vi chủ năm châu hiệp tín-ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi. Nắm cả tín-ngưỡng của loài người, chính Chí-Tôn là Chúa-Tể Càn-Khôn Thế-Giới, làm CHÚA nền chánh-giáo tại nước VIỆT-NAM, vi-chủ tinh-thần loài người tức đủ quyền-năng lập QUỐC-ĐẠO.

Ngài đến đem đại-nghiệp cho quốc dân này, hình thể lựa chọn ai?
Chọn tạo đoan vạn-vật tức là PHẬT-MẪU.

Tinh thần của CHÍ-TÔN, hình thể của PHẬT-MẪU; trí não của CHA, hình hài của MẸ; cả thảy đều thấy:

Hễ vô đại điện ĐỨC ĐẠI-TỪ-PHỤ nào chức này, chức kia, mão cao áo rộng; còn vô ĐIỆN THỜ PHẬT MẪU đều trắng hết, không ai hơn ai cả. Nếu hiểu biết, thấy bí-pháp CHÍ-TÔN cao kỳ quá lẽ. CHÍ-TÔN nói rằng: “QUỐC-ĐẠO này Ngài qui-tụ tinh-thần đạo-đức, trí-thức toàn nhơn-loại cho đặc biệt: có cao, có thấp, có hàng ngũ, có phẩm giá; còn về phần xác thịt của người đời, mạng sống trước mặt Ngài không ai hơn ai, cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết đặng đem QUỐC-ĐẠO làm mô-giới cả Đại-đồng đặng tạo tương-lai loài người cho có địa-vị oai quyền, cao-thượng.

Nếu thoảng hiểu đặng thì Thánh-thể cũng vậy, Hội-Thánh, chư chức sắc Thiên-phong nam, nữ hay toàn thể tín-đồ cũng vậy, lãnh thiên-mạng đảm-nhiệm trách-vụ thiêng-liêng CHÍ-TÔN phú-thác lập giáo tức-nhiên phải có phẩm-giá, trật-tự, đẳng cấp.

Nếu hiểu thêm ý của Ngài; khi cởi áo này ra khỏi đại điện rồi, hết thảy đồng là anh em, không ai hơn ai, không ai thua ai, không khinh, không trọng, đầy-đủ tình yêu-ái trong lòng MẸ đem ra mà thôi; nam nữ cũng thế.

Ngày nào nhơn-loại cả thế-gian ở mặt địa-cầu này hiểu được lý lẽ chí hướng cao-thượng ấy là ngày ĐẠO Cao-Đài sẽ ra thiệt tướng”

CHƯƠNG I

CAO-ĐÀI LÀ QUỐC-ĐẠO

A - NỀN TẢNG ĐẠI-ĐẠO

Nền Đại-Đạo phải có đủ ba yếu-tố: Thiên, Địa, Nhân đó là nền-tảng của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay, còn gọi là Thiên-thời, Địa lợi, Nhân hoà.

1 - Thiên thời:
Đây là Thiên-Thơ đã định “Khai Đạo muôn năm trước định giờ”.

Nền Đại-Đạo này tức là Tôn-giáo toàn cầu vậy! Tôn giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp tín-ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi với tôn-chỉ: Tam-giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt đó!

Thánh-ý của Chí-Tôn rằng “Thầy đã lập Đạo nơi cõi Nam này, là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh-nộ của Thầy. Thầy lại tha-thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh-diệu. Từ tạo Thiên lập Địa, chưa nước nào dưới quả địa-cầu 68 này đặng vậy, cốt để ban thưởng các con thì các con hưởng phần hơn là đáng, lẽ nào Thầy đã để phần nhiều cho các nước khác sao!” (TN II/25)

2 - Địa lợi:
Là một nền tảng quan-trọng về vật-chất nữa là đất nước Việt-Nam:
Toàn dân Việt-Nam có chung một niềm kiêu-hãnh về dân-tộc, về đất nước. Vì đất nước Việt-Nam thân yêu của chúng ta có những nét đặc thù khả kính.

Lời tiên-tri của Thầy là:
“Một nước nhỏ-nhoi trong Vạn quốc,
“Ngày sau làm chủ mới là kỳ”.

Tuy nhiên cũng nên điểm lại trên thực-tế Việt-Nam có được những yếu-tố nào mà được chọn là nước CHỦ của Vạn quốc trong kỳ thượng-nguơn tứ chuyển? Vì sao nước Việt Nam được gọi là Thánh-địa?

Xét về ba phương-diện:
* Về mặt triết-lý văn-minh:
Nước Việt-Nam thọ ba ảnh-hưởng của ba nền Tôn-giáo: Thích, Đạo, Nho từ Ấn-độ và Trung-hoa truyền sang. Ba nền Tôn-giáo ấy đã được đồng-thời phát triển dưới thời nhà Lý và nhà Trần bằng sự bình-đẳng của ba nền Tôn-giáo nói trên.

Kịp đến khi văn-minh Âu-châu tràn vào thì Việt-Nam lại được hưởng thụ thêm nền văn-minh Cơ-đốc-giáo nữa. Như vậy, Việt-Nam là mảnh đất gieo Đạo giáo từ lâu; vả lại Việt-Nam ít tạo oan báo, nên nghiệp quả của nó cũng nhẹ nhàng. Việt-Nam có đủ điều-kiện để làm cơ qui nhứt toàn thế-giới vì lý-do ấy.

* Xét về hình thể địa-lý thiên-nhiên:
Việt-Nam nằm vào vị-trí đặc biệt của Á-châu, mà Á-châu lại nằm vào vị trí trung-tâm của quả đất và Á-châu là châu lớn nhất thế giới. Châu Á thuộc sắc da vàng, theo lý của Ngũ-hành thuộc Thổ, mà Thổ chính là ở trung-ương.

Việt-Nam là cửa ngõ để tiếp nạp các luồng tư-tưởng từ Đông sang Tây cũng là cửa ngõ để phòng-vệ đất nước cho các giống dân miền Đông Nam châu Á.

* Xét về hình thể địa-lý huyền-bí:
Việt-Nam có con sông dài vào bậc nhất thế-giới tất sẽ tạo nên linh-khí thiêng-liêng. Linh-khí ấy tạo nên “long mạch Cửu-Long” và dãy “Thất-sơn” nơi Châu-đốc đó vậy.

Miền Nam là nơi đất mới khai-khẩn nên những quả báo chưa gây nhiều, lại có luồng nước nóng và nước lạnh từ các miền đại-dương hòa-hợp để tạo nên một khí-hậu điều-hòa.

Tóm lại, Việt-Nam có đủ điều-kiện: Thiên, Địa, Nhân tức là Tam tài để đứng ra chủ-trương một mối Đại-Đạo.

Tam-tài ứng với lý Tam-ngôi. Tam ngôi ba điểm đều vẹn thì làm chủ thiên-hạ là lẽ thường chớ có gì đâu khác lạ!

Nhưng Thầy cũng thường dạy rằng: “làm chủ đây là chủ về tinh-thần chớ không phải mang binh hùng tướng mạnh đi chiếm đất như các con lầm tưởng. Cái chủ tinh-thần mới trường-cữu, còn làm chủ theo thói đời thì nó lỏng-lẻo, bấp-bênh nào có bền-chắc, nào có nghĩa lý gì!”

Cái lý Tam ngôi nhứt thể biến sanh Tam-giáo, Tam nguơn, Tam bửu…Số Tam là chu-kỳ của trời đất để thực hiện cơ vận-chuyển hóa sanh, qui hợp. Việt-Nam cũng là một Bát-quái Đồ-thiên có đầy-đủ các con số ấy! Tức nhiên là một Thái-cực-đồ trọn vẹn.

3 - Nhân-hoà.
Đức Hộ-pháp cho biết rằng:
“Kỳ khai Đại-Đạo Tam-Kỳ tạo một linh-đài qui tín-ngưỡng của toàn nhơn loại, đủ quyền năng tiêu-diệt tà pháp đặng đem nhơn-loại đến ĐẠI-ĐỒNG”.

Nay ĐỨC CHÍ-TÔN khai ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ là đúng theo lời sấm truyền của các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.

Chỉ có hai phương diện:
1 - Là do Tam-giáo thất kỳ truyền
2 - Là chính mình ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ lập ĐẠO đặng qui nguyên phục nhứt, gọi là chấn-hưng TAM GIÁO lại cho hoàn-toàn, lập luật pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn-sanh, hiệp cả TINH THẦN của các dân-tộc biết nhìn nhau một CHA chung là thuận-hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền Thương-yêu, chung thờ một Tôn-giáo ĐẠI-ĐỒNG thì nhơn-loại mới gội nhuần ân-huệ và đời tranh-đấu tự diệt sẽ trở nên đời mỹ-tục thuần-phong thì vạn loại mới chung hưởng cơ Hoà-bình, phục hồi Thượng cổ là do THIÊN-THƠ tiền định buổi hạ ngươn chuyển thế hoán cựu duy tân.

Thánh-ngôn Thầy dạy: “Vốn Thầy tạo lập nền Chánh-giáo cho dân Nam-Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân-cần thận trọng; đợi đến ngày thành-tựu các con mới thấy rõ Thiên-cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi này sao đặng, vì mỗi việc khó-khăn trắc-trở là lúc sơ khai. Vậy Thầy khuyên các con rán thành tâm hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng không đâu.

Thầy thấy nhiều đứa trong các con có ý theo Đạo đặng toan kế làm nhiều việc chẳng lành. Thầy vì thương nhơn-loại muốn cứu hết nên thường thâu nhập nhiều đứa vô tâm, cũng muốn cho chúng nó ăn-năn chừa lỗi, ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng. Đến buổi chung qui mới thấy Thiên-đàng, Địa-ngục thì muộn rồi. Các con phải xét mình cho lắm nghe!”

Tóm lại, ĐỨC CHÍ TÔN khai ĐẠO kỳ thứ ba này là thuận theo lẽ tuần-hoàn “châu nhi phục thủy”

Khi đến với nhân-loại Đức Thượng-Đế có hứa:
“Que l’Humanité soit une: une comme Race, une comme Religion, une comme Pensée” (Nhân-loại rồi đây sẽ là một: Một về xã-hội, một về nòi giống, một về tư-tưởng).

Tất cả những biến động trên toàn cầu ngày hôm nay “Ấy là cuộc sửa đời (Être Nouvelle) của Đại-Từ-Phụ đã tuyên-ngôn từ buổi Khai Đạo”
“Đạo Trời đem tin Cứu thế, thức tỉnh nhơn-sanh phải tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho khỏi nạn luân-hồi vay trả; hằng ngày phải nhớ câu “Oan gia nghi giải bất nghi kết”.

Đó là nền tảng của nền QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG theo như tinh thần bài Thánh-giáo mà Đức Chí-Tôn giáng ban cho từ buổi khởi khai Đại-Đạo.

Thật ra thì làm người ai cũng muốn sống và sợ chết, nhưng chẳng biết phải sống như thế nào? Sống để làm gì? Và có kẻ cũng chán đời muốn chết đi cho rảnh nhưng cũng chẳng rõ sự chết ra sao? Chết như thế nào? Thì ra, sống không nên sống và chết cũng không biết chết.

Vậy, Đạo chính là sự sống. Học đạo, tìm đạo để định-vị cho cái sống và rõ thông đường chết hay nói rõ hơn là tạo sự bình-an cho cái sống gỉa tạm này và yên ổn với cái sống vĩnh cữu, tức là thông suốt cả đường đi lối về vậy.

Thế nên ngày giờ này Đức Thượng-Đế đến ban cho một nền Quốc-đạo cũng không ngoài các yếu lý ấy.

Bây giờ, chúng ta quan-sát coi nền QUỐC-ĐẠO của chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn-giáo cho hoàn-cầu? Nhân-loại hiện giờ đang hướng về đâu? Mai này sẽ ra sao?

B - DUYÊN KHỞI ĐỂ ĐẾN QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG

1 - Bài thơ Đức Chí-Tôn ban cho Vĩnh-Thuỵ là Đức Quốc-trưởng Bảo-Đại
Tập QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG chính là sự hình thành tư-tưởng từ trong cốt-tủy của hai câu thơ của bài thơ ĐỨC CHÍ-TÔN giáng cơ cho Ngài Quốc-Trưởng Bảo Đại, do Hộ-Pháp và Tiếp-Đạo phò-loan đêm 11 tháng 12 Đinh-Hợi dl 21.1.1947) như sau:

Thầy, các con.
“Ừ! ngày nay là ngày Thầy đã đắc-vọng cho toàn cả nòi-giống các con.
Vinh, con và Hoạch (Lê-văn Hoạch) phải hiệp cùng Vĩnh-Thuỵ (Bảo-Đại) mà làm tròn sứ mạng theo Thánh-ý Thầy đã định đa nghe!

TẮC! con biểu Tài viết Nho-văn bài thi này, rồi Hoạch, con đưa tận tay cho Vĩnh-Thuỵ.

THI
Thượng, hạ nhị thiên xử địa hoàn
Việt-nam nhứt quốc nhứt giang san
Hoàng-đồ toàn bảo thiên-thơ định
Đảnh-tộ trường-lưu tổ-nghiệp tồn
QUỐC-ĐẠO kim triêu thành ĐẠI-ĐẠO
NAM-PHONG thử nhựt biến NHƠN-PHONG
An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn
Văn-hóa tương-lai lập Đại-Đồng.

Hôm nay tựa đề “QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG” được thành hình là lấy hai chữ đầu của hai câu thơ 5 và 6 trong đề tài, kết-hợp thành tiểu tựa:

“QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG ” là vậy!

Tuy nhiên tôi chỉ có trong tay bài cơ vỏn-vẹn có mấy câu trên, còn phần chữ Hán tôi tự viết lấy để làm tượng-trưng, nếu có sự sai biệt xin được quí vị chỉnh thêm cho và rộng lòng tha-thứ. Hơn nữa đây là một đề-tài tôi chỉ góp nhặt, xâu kết những lời giảng dạy hầu hết là những bài Thuyết Đạo của Đức Hộ-pháp Giáo-chủ Đạo Cao-Đài hoặc trích-lục những tài-liệu của Đạo.

Cái khởi nguyên của QUỐC-ĐẠO đã được ĐẤNG Tôn-sư HỘ-PHÁP trần-tình bằng tất cả trái tim yêu ái, giờ đây ta hãy lật từng trang đã được đúc kết, hệ-thống-hóa thành tập sách nhỏ bé này để cùng nhau chiêm-nghiệm và cùng hoà nhập với không-khí thiêng-liêng của Đạo-pháp.

2 - Tinh-thần của Quốc Đạo Nam-phong

* Giảng-luận về bài thơ:

Tinh-thần của nền Quốc-Đạo được gói-ghém trong bài thơ trên.

Qua bài thơ thấy cả tình-ái nồng-nàn của Đấng Trời CHA đã gởi trọn cả thâm-tình dành cho nhân-loại trong thời buổi này. Xin được tạm thích-nghĩa nôm và tìm hiểu ý-nghĩa từng câu thơ để nghe được tâm-tình của Thiên-phụ, đồng-thời thấy được trọn vẹn chân tướng của Nam-Phong để dựng nên QUỐC-ĐẠO.

Giải-nghĩa:
Câu 1: Thượng hạ nhị thiên xử địa hoàn

Chính là THIÊN-THƯỢNG và THIÊN-HẠ mà con người được đứng phẩm tối-linh nên đứng giữa kết liên thành TAM-TÀI (THIÊN, NHÂN, ĐỊA) vậy phải xử thế nào cho được vẹn toàn. Tức là thuận nhân-tâm ắt thuận Trời, mà cũng là bực tài ba quán-thông mọi việc thì mới mong gánh vác nỗi vai-trò quá ư nặng nề thể-thiên hành hóa.

Hai chữ “thiên-thượng” “thiên-hạ” tức là “nhị Thiên” ý nói trên là trời, dưới là đất, giữa là người hiệp thành tam tài (số 3 trọn vẹn)

Nếu dùng những nét vạch để làm biểu-tượng thì thấy rất rõ:
Xử địa hoàn: có nghĩa là phải thông nhau, nối liền lại với nhau, tức nhiên thêm một nét sổ ở chính giữa quẻ Càn thành ra chữ Vương Vương là vua, chỉ người đứng đầu một nước.

Vua là người hiểu biết:
- Trên thông thiên-văn
- Dưới đạt địa-lý
- Giữa quán nhân-sự

Phải chăng Đấng Chí-Tôn giao trách-nhiệm Việt Nam lúc bấy giờ cho vì vua anh minh để bảo-tồn quốc thổ, vì đây là một quốc-gia Thiên-định. Phải có một vị Vua xứng đáng, toàn hảo.

Nhưng Đạo là lý, phải lấy lý mà giải để thấy rằng ngày nay Thầy dùng tánh-đức của Vĩnh-Thuỵ (Bảo-Đại) mà lập quốc cũng như Thầy lấy tánh-đức của Ông Phạm Công-Tắc mà lập Giáo vậy. Xưa Thầy nói rằng:
- “TẮC! thoảng THẦY lấy tánh đức PHẠM CÔNG-TẮC mà lập giáo con mới nghĩ làm sao?”

Hai trường-hợp nào có khác nhau! Tức nhiên dù bất cứ ai đi nữa mà khi làm Vua, làm Quốc-Trưởng thì phải “bảo trọng cái lớn” tức “Bảo-Đại” thì mới giữ vững nghiệp “Quốc” của Đức Chí-Tôn đến thất ức niên. Nếu cứ nghĩ rằng “Bảo-Đại” chỉ có Ông vua cuối triều: Nguyễn Vĩnh-Thuỵ bằng xác thịt, thì ngày nay Người đã an nghỉ rồi thì nghiệp Đời, nghiệp nước này giao lại cho ai? Chả lẽ đến đây Đạo phải bế? Đất nước này sẽ về ai?

Và đây là yếu-tố tiên quyết:
Năm 1948: Đức Hộ-pháp đề xướng thuyết Bảo-Đại như vầy: “Trận giặc giữa Việt Minh và Pháp đang đánh nhau, chớ Việt Nam chưa có một Chánh Phủ hợp pháp để thương thuyết với Pháp, Đức Hộ Pháp triệu tập Hội nghị toàn quốc tại Sài Gòn, có đông đủ các nhân sĩ Nam Trung Bắc, các Tôn giáo, đảng phái. Đức Hộ Pháp được đề cử chủ toạ phiên họp.

Đức Hộ Pháp đưa ra giải pháp Bảo Đại, lúc ban đầu mọi người đều tỏ vẻ không tán đồng, xầm xì to nhỏ với nhau. Đức Hộ Pháp giải thích thêm vì sao Ngài đề xướng giải pháp Bảo Đại:

1 - Nhà Nguyễn đã ký hai Hiệp Ước 1862 và 1864 giao nước Việt Nam cho Pháp bảo hộ, bây giờ Nhà Nguyễn phải lấy lại, rồi giao cho Quốc dân Việt-Nam liệu định. Chỉ có Cựu Hoàng Bảo-Đại mới có đủ tư cách thương thuyết với Pháp.

2 - Trong phiên họp, ông Nghiêm-Xuân-Thiện một nhân sĩ miền Bắc đứng lên chấp nhận ý kiến của Đức Hộ Pháp, kế đó là ông Trần-Văn-Lý một nhân sĩ miền Trung cũng tán thành.

Đức Hộ-Pháp mới tuyên bố như vầy Nam, Trung, Bắc, đã đồng ý, nhờ toàn hội cho biết ý kiến và toàn hội đồng hoan-hỉ giải pháp Bảo-Đại của Đức Hộ-Pháp”
(Trích Dưới bóng cờ cứu khổ)

Câu 2: Việt-Nam nhứt quốc nhứt giang san
Đức Chí-Tôn đã hứa với nhân-loại là Đạo Cao-Đài sẽ đạt được là cơ quan Đại-đồng thế-giới tức là sẽ có:
- Một quốc gia
- Một nòi giống
- Một tôn giáo.

Chính đất nước Việt-Nam này làm khởi điểm một Thánh-địa đã ôm trọn Thái-cực-đồ mà thiêng-liêng đã dành sẵn; khi được địa-linh thì hẳn sẽ có nhân-kiệt vậy.

Việt-Nam phải liền một dãy: một đất nước, một giang-san bờ cõi. Đó là ý muốn của Đức Chí-Tôn. Có như vậy thì Đại-Đạo này mới ra toàn cầu thế giới được.
“Nam Bắc cùng rồi ra ngoại-quốc
“Chủ-quyền Chơn-đạo một mình TA”

Hơn thế nữa chữ-nghĩa cũng xác-định điều ấy.
Thông-thường chữ Quốc có chữ hoặc (hoặc là thay đổi) đặt trong bộ vi (vi là vây quanh). Ý nói ở đất nước không có chủ-quyền nhứt định khi thì vua, lúc lại Tổng-Thống, thay đổi chế-độ luôn.

Còn với đất nướcViệt-Nam mà Ngài chỉ-định là “nhứt quốc nhứt giang-san” thì chữ Quốc  ấy phải là chữ vương nằm trong bộ vi, chứng tỏ rằng nước ấy có Chủ quyền thật sự.

Câu 3: “Hoàng-đồ toàn bảo Thiên-thơ định”
Trong bức đồ trọn vẹn họp đủ Tam Hoàng: Thiên hoàng, địa-hoàng, nhân-hoàng vô cùng quí-báu đó, Việt Nam hân-hạnh được đón nhận đầy-đủ trong quyển sách trời gọi là “Thiên Thơ” đã ghi chép hẳn-hoi.

Cả một mảnh giang-san gấm vóc này đã được quyền Thiêng-liêng quyết định rồi, tức nhiên là nước chủ của Vạn quốc.

Câu 4: “Đảnh-tộ trường-lưu tổ-nghiệp tồn”
Là phúc mệnh trời ban cho được lưu-truyền nhiều đời cháu con toại hưởng. (Đảnh là điểm cao, tộ là phúc vận may của đất nước, trường lưu là ví như nước cuồn-cuộn chảy, Tổ-nghiệp là sự-nghiệp của cha ông nhiều đời đã tích-luỹ cho con cháu, tồn là còn).

Nói chung là đã qua khúc quanh của lịch-sử, Việt-Nam lại được quyền Thiêng-liêng giao phó một trách-nhiệm lớn, cứ theo cái đà của sự-nghiệp Tổ-tiên để lại cứ nối theo mà phát-huy thêm nữa; tức nhiên là thời-kỳ Nho-Tông chuyển thế đã đến đó vậy.

Câu 5: “QUỐC-ĐẠO kim triêu thành ĐẠI-ĐẠO”

Nền ĐẠO có trong nước Việt-Nam hôm nay dân Nam được tiếp nhận làm mối Đạo nhà, sẽ làm khởi điểm cho nền Đạo của toàn thế-giới trong một sớm một chiều nhân-loại đều chung hưởng.

Câu 6: “NAM-PHONG thử nhựt biến nhơn phong” 此日
Chính cái phong-hóa của nhà Nam đã tàng ẩn nhiều điều quí hóa, như triết-lý nhân-sinh-quan, vũ-trụ-quan… kết-tinh thành một nền văn-hiến bốn ngàn năm, trong thời điểm này sẽ làm nền phong-hóa chung cho nhân-loại đồ theo khuôn mẫu đó.

Câu 7: “An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn”
Muốn cho quốc thới dân an, phương-pháp thực hành phải noi theo chư liệt Thánh đã nêu gương trước mà làm cho dân được sống cảnh thái-bình gọi là thuở trời Nghiêu đất Thuấn. Cả một cơ cấu Chánh-trị-Đạo trong nền Đạo Cao-Đài ngày nay chính Đức Chí-Tôn đến lập, chứ không phải một vị nào khác.

Trong chữ AN đã có chữ Nữ đặt dưới bộ miên, tức nhiên muốn nói đến sự bình đẳng, bình quyền phải có bàn tay của Nữ-phái trợ lực nữa để đem lại sự an-bình cho đất nước. Như vậy người nữ phải có nhiệm-vụ góp bàn tay xây dựng đất nước cũng như đạo nghiệp của Chí-Tôn. Nhưng dù nữ dù Nam cũng phải là mẫu người đạo-đức thật sự. Chính Đức Chí-tôn đã ban cho sự bình-đẳng ấy rồi.

Câu 8 : “Văn-hóa tương-lai lập Đại-đồng” 立大
Nền văn-hoá trong tương-lai sẽ là nền văn-hoá Đại Đồng, Đông Tây hoà-hợp: văn-minh tinh-thần của Đông phương kết-hợp với văn-minh của nhân-loại mà làm nên nền văn-hoá Cao-Đài làm khởi điểm.

Tức nhiên văn-hóa của Việt-Nam hôm nay đầy đủ yếu-tố để đi đến Đại-đồng. Nay, Đức Chí-Tôn đã dùng Quốc-ngữ làm chính-tự, làm căn-bản để thông-truyền về Tôn-giáo, thứ văn-hóa này sẽ làm nồng cốt đưa nguồn chơn-đạo chánh truyền phổ-thông trong thế-giới tức là “văn dĩ tải-đạo” vậy.

Mối Đạo trong nước giờ đây chỉ trong một sớm sẽ trở thành nền Đại-Đạo tức là sẽ có ảnh-hưởng đến toàn cầu thế giới.

Tiền-nhân có cho biết:
“Văn-hiến bốn ngàn năm có sẵn,
“Chi cần dị chủng đến dâng công”

Để kết-luận, xin dẫn lời nhận-định của Đức Hộ Pháp:
“Ta thường nói Đông Tây không bao giờ gặp nhau. Câu đó không thể áp dụng được trong giới triết-học tuy có đến hàng trăm đường lối khác nhau, nhưng chung qui cũng gồm về một mối.

Lấy cái thực học Âu Mỹ để so-sánh với thực-học Á-đông cân nhắc nhau thì phần nhiều cái học Á-đông bị lu mờ chỉ vì cách trình bày, luận-lý không rõ ràng, còn về phần tinh-thần thì bao trùm được khắp võ-trụ như: Thiên-văn, Địa-lý, Dịch-lý mà ông cha ta vẫn cho là những môn học khó-khăn, huyền-diệu. Vì những lẽ trên, ta thấy khó-khăn, khúc-chiết mà xếp đặt cái học-thuyết âý vào hàng tâm-truyền hay bí-truyền.

Nhưng nếu ta lấy cái học-thuyết hiện tại của Âu Mỹ hoà với DỊCH-LÝ để giải cho rõ, ta cảm thấy cái lý học Á-đông đã đến chỗ tuyệt-đối huy-hoàng”.

C - HIỆN TẠI NỀN TẢNG PHONG-HOÁ ĐÃ BỊ LUNG-LAY
Đức Thượng-đế mới chọn tay rường cột
Trong bài Điếu-văn ngày 13 tháng 10 năm 1934 Đức Hộ-pháp ngậm-ngùi tuyên dương tinh-thần đạo-đức của Đức Quyền Giáo-Tông LÊ-VĂN-TRUNG đã là một tay rường cột chống đỡ Đạo-quyền, giữa lúc quyền vật dục đang hồi ưu thế, làm cho nền phong-hoá của dân-tộc sắp bị lung-lay.

Đức Hộ-pháp nói rằng:
“Giữa thế kỷ hai mươi nầy, toàn địa-cầu nhơn sanh đều xu hướng về đường vật chất, đua tranh náo nhiệt, mạnh đặng yếu thua, khôn thì còn, dại thì thác, làm cho cả cá-nhơn hay là trọn xã-hội nào cũng vì sanh hoạt khó khăn, mà quên hẳn tinh thần vi chủ.

Hại thay! Cơ-quan của đời hiện hữu lại do nơi quyền năng vật dục mà thành hình, đến đỗi trừ tinh-thần ra thì trí thức con người cũng lậm nhiễm lấy quyền duy-vật, đạo-đức tinh thần xem ra càng ngày càng mòn-mỏi. Nếu chúng ta thấy cơ quan hành động của các Tôn-giáo còn mảy-may duy trì lại có đặng là nhờ khuôn viên tập tục, chớ chẳng phải nơi tâm lý chuẩn-thằng.

Qua trận sát khí Âu-Châu, những bậc ưu thế mẫn thời để tâm nghiên cứu nguyên thủy sự bất hòa của toàn cầu do đâu mà sản xuất, thì đã thấy đặng hiển nhiên rằng:
- Tại dân quá khiếm phần đạo-đức,
- Những Tôn-giáo đương thời hoặc là bị buộc ràng vào tôn-chỉ hẹp hòi,
- Hay là bị triết-lý oai-nghiêm mà làm cho phân chia tâm lý, nên không thể dung hòa làm môi giới cho Đại-đồng thiên hạ. Thuyết giao tình các Tôn-giáo là thuyết trọng-yếu của nhà hiền triết Á-Âu buổi nầy.

Ôi! Hạng trí thức nhơn sanh ấy, khi xem đặng con đường nguy hiểm của văn minh duy-vật dong ruổi thẳng tới chừng nào thì lại càng âu lo khủng khiếp cho tương lai nhơn loại buổi sau kia chừng nấy.

Đời chẳng khác nào như chiếc thuyền chịu sóng gió ba đào lênh-đênh khổ hải. Những khách giang hồ của tạo công ai lại chẳng phập-phồng rơi châu đổ ngọc. Trong cơn khổ não tâm hồn ngẫu nhiên lại gặp cứu tinh giải nạn là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ của Thượng-Đế chấn hưng Tôn-giáo.

Người đến đặng nhìn nhận các Đạo là phương giáo-hóa của Người và dung hợp các triết-lý của đời dưới phép lương tâm làm chủ. Dầu ai để chút tâm nghiên cứu thì đủ hiểu cơ quan chuyển-thế rõ ràng nên không cần luận giải.

Từ năm Bính Dần (1926) là năm Đạo mở tại Nam Kỳ, đến nay Anh Cả chúng tôi là Lê-Văn-Trung, Đạo-tịch Thượng-Trung-Nhựt ra đảm nhiệm vai tuồng rất lớn lao, quan hệ là phổ-độ dìu dắt nhơn sanh vào đường Chánh-giáo.

Một mối Đạo rất cao thâm mầu-nhiệm mà chính mình Đức Thượng-Đế đem gieo truyền trong nước nhỏ-nhen như Việt-Nam ta đây, thiết tưởng sự khó-khăn chẳng nhỏ, mà Anh Cả chúng tôi trọn chịu 9 năm trường, chẳng quản nhọc-nhằn một tay chống vững Đạo thuyền, bền chí lướt qua khổ hải.

Đạo mở vào buổi nhơn sanh đang khuynh hướng về đường vật-chất thì cái tôn chỉ Đạo tất phải có thiệt lực gì cực-kỳ mãnh-liệt mới dung hòa nỗi hai thuyết duy-tâm và duy-vật và phải hạp thời thì nhơn sanh mới chịu hoan-nghinh mà bước vào cửa Đạo. Nếu Đạo mà không có cái Tôn-chỉ duy-tân cải cách theo trình-độ tiến hóa của nhơn sanh thì Đức Thượng-Đế chẳng cần nhọc công tái lập, vì Đạo vẫn có từ tạo Thiên lập Địa mà trong nhân-gian cũng đã lập thành nhiều nền Tôn-giáo, để tùy thời mà tế độ quần linh.

Trong các Tôn-giáo ấy như Phật-giáo, Lão-giáo, Nho-giáo, Cơ-Đốc-giáo, cũng có nhiều triết-lý cao siêu, có thể cứ do theo đó mà hành Đạo cũng đặng tiến-hóa, nhưng mỗi Tôn-giáo ấy đều có một tôn-chỉ đặc biệt, có thể hạp với mỗi phong hóa tùy mỗi thời đại, chớ không đặng một tôn-chỉ thống nhứt hạp theo thời đại buổi bây giờ. Đạo đã có những điều kiện tối tân như thế thì tất phải có người tài đức ra làm hướng đạo mới hiểu rõ tôn-chỉ của Đạo mà truyền bá cho nhơn sanh, khỏi lầm đường lạc lối, và cũng phải có đại hùng đại lực mới gánh vác nỗi trách-nhiệm lớn lao của Đại-Đạo.

Anh Cả chúng tôi đây, trước khi vào Đạo vẫn là người duy vật cũng như mọi người khác, ngoài đời vì đường danh lợi, Người cũng chẳng nhượng chi ai, kịp khi Đạo mở Đức Thượng-Đế kêu đích danh Người mà phú thác Đạo Trời.

Phong-trào duy vật đang sôi nổi, người lại đương thời phấn đấu, mà Người cũng vui lòng phế hết việc đời để hiến thân cho Đạo. Buổi ban sơ mới có vài ba anh em trong Đạo, cũng có kẻ trắng người đen, không đồng tâm chí, lẫn nghịch cùng nhau, rồi nào ai dám chắc sẽ ra làm sao đâu? Nhưng vì lòng háo đức của Người sẵn có, nên Người không chút ngại-ngùng bạo gan chí-sĩ mà hiến mình trọn vẹn lập Đạo mới thành, công ấy, thưởng nầy làm Anh Cả chúng sanh cũng đáng.

Vào Đạo rồi, khi thì lập Đàn thỉnh giáo cùng các Đấng Thiêng-Liêng, khi đi phổ-độ khắp Nam Kỳ, không nói ra ai ai cũng rõ, những nỗi khó khăn về sự hội hiệp ở xứ mình cho nên lúc khai Đạo phải gặp nhiều nỗi tân khổ, lại còn nhiều nỗi cam go đối với Đạo-hữu các nơi. Khi Đạo đã có mòi hoằng-hóa, sau lại Hội-Thánh Ngoại Giáo thành lập ở Kiêm-Biên, tuy gặp lắm nỗi truân-chuyên, mà Người cũng cứ nhứt tâm nhứt đức do đường thẳng tiến hành, không bao giờ nản lòng thối chí.

Vì sao Đức Thượng-Đế không chọn người nào khác, lại đem mối Đạo lớn lao mà trao lại cho Người lúc ban sơ? Mà những người có công tu luyện theo Đạo này, Đạo khác cũng chẳng hiếm gì, mà sao Đấng Chí-Tôn không dùng ai trước?

Có ai dám nói Đấng Chí-Tôn dùng lầm!
Vậy thì, Tôn-chỉ của Đại-Đạo đã biểu lộ ra rõ-ràng bí quyết đoạt Đạo chẳng phải do một mặt yểm thế để tịnh dưỡng tinh thần, mà lại phải lịch-lãm nhơn sự và phải siêu-quần xuất chúng, rồi lấy đạo đức mà cứu vớt nhơn quần.

Xã hội phải tùy sở-nhu của chúng sanh mà lập phương phổ hóa, thì cái công tu luyện kia mới bổ ích cho. Vì vậy mà Anh Cả chúng tôi mới đắc dụng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Anh Cả chúng tôi là người gồm có nhiều điều kiện hạp với tân thời, mà cũng không nghịch với phong hóa cũ.

Vậy nên, Đấng Chí-Tôn mới dùng người để làm mô-phạm cho anh em Đạo-hữu và cho đời thấy rõ một phần chơn lý trong Tôn-chỉ Đại-Đạo.

Theo thời-đại khoa-học đương nỗ lực phát dương này, nếu đem cái thuyết duy tâm cực-đoan mà phổ hóa chúng sanh không khỏi bĩ-lậu; còn nếu chuyên một mặt duy vật mà tiến hành thì xã hội phải có ngày tiêu diệt về nạn cạnh tranh phấn đấu. Vậy phải chiết trung hai thuyết mà dung hòa thì đời mới đặng vừa tấn hóa theo văn minh khoa học, vừa duy trì đặng tâm hồn đạo đức. Nhờ hiểu ý nghĩa cao thâm như vậy mà Anh Cả chúng tôi không vì hoàn cảnh mà phải quá ư thiên lệch về một mặt nào.

Chúng tôi còn nhớ lời tuyên bố rất thành thật của Anh Cả chúng tôi như vầy:
"Ngày nào nhơn sanh còn khốn khổ, thì chưa phải ngày Anh tọa hưởng an nhàn. Dầu Anh đắc quả mà qui Tiên đặng sớm, Anh cũng nguyện tái kiếp để độ tận chúng sanh".

Hùng hồn thay! Bác ái thay là lời tuyên bố ấy! Không cần khoe khoan bằng văn chương tuyệt bút mà những lời chất phác trên kia cũng tỏa đặng tâm tình của một trang Đại-đức.

Theo thế thường người nào đi tu cũng có cái hy vọng đắc Đạo thành Tiên, chớ ít ai lẫn-lộn trong chốn trần-la vì sợ khổ tâm nhọc trí. Vậy mà Anh Cả chúng tôi chẳng hề nao-núng, thậm chí có người lo sợ dùm, nên đến khuyên Người giải quyền nhập tịnh cho yên, mà Người nói rằng:
"Dầu phải thời tử Đạo, Người cũng vui lòng, chớ Người không vì sợ chết mà bỏ phận sự". Xem đó thì đủ thấy cái đại chí của Người vì Người thấu mục đích tối cao của Đạo. Mà tôn chỉ của Đạo có cái ý nghĩa "không dữ mà hùng, hòa mà không nhược".

Cái ý nghĩa đó Anh Cả chúng tôi hiểu thấu mà cũng đã thật hành rồi, nền Đạo mới đứng vững đến ngày nay.

Anh Cả chúng tôi lại còn hiểu rộng cái nghĩa "từ bi, bác ái" mênh mông lai láng, nên phải gặp nhiều cái phản-động-lực của những người thiển kiến.

Bởi vì từ bi bác ái mà hiểu nghĩa hẹp hòi quanh quẩn trong hoàn cảnh của mình thì cũng còn là "ích kỷ". Anh Cả chúng tôi không vì sự thương thấp thỏi của thường tình mà bỏ cái thương Đại-đồng thế-giái, cho nên phải gặp nhiều nỗi tân toan. Tuy vậy mà Anh Cả chúng tôi vì công đức hơn là vì tư đức, dầu ai muốn nói sao thì nói, làm sao thì làm, Người cứ một mực tiến hành, miễn là trong tâm nhứt quyết đuổi theo một chủ nghĩa cao siêu của bề trên phú thác vì lòng tín-ngưỡng của Người rất là đặc biệt, ít ai sánh kịp.

Ngày nay Anh Cả chúng tôi đã vào cõi hư vô rồi, thiết tưởng những phản-động-lực kia cũng lần lần giảm bớt. Anh em trong Đạo cũng đã rõ thấy mà nhận thức cái chơn lý sờ sờ kia vậy. Cái khó nhất là phải có đủ đức kiên-nhẫn để chống lại với các phản-động-lực ở trong Đạo và ngoài Đời.

Trong Đạo cũng vậy, mà ngoài Đời cũng vậy, có nhiều lý thuyết tương phản nhau vì trí độ phàm của con người không thể đồng nhau đặng. Kẻ thì ưa thuyết duy tâm, rồi cứ chuyên chú một mặt tiêu cực, còn người lại thích duy vật thì chuyên chú một mặt tích cực, mà mỗi phía đều cực-đoan thì tránh sao khỏi xung đột. Hai phía xung đột nhau mà bắt Đạo ở trung gian làm nơi chiến địa thì kẻ cầm quyền trong Đạo tránh sao khỏi những nỗi khó khăn, vì vậy mà Anh Cả của chúng tôi chịu nhiều đau đớn. Ôi! Một Đấng anh hùng như thế, một tay kiện tướng của Đạo như thế, nay đã ra người thiên cổ.

Dẫu phải gan sắt dạ đồng cũng phải rơi châu mà thương tiếc”
Lòng thiết-tha phụng-sự cho nghiệp Đạo như thế làm sao khỏi động lòng Trời. Nhờ ơn Thượng-Đế mà Việt-Nam này mới cỗi ách oan-khiên đồng thời cả nhân-loại cũng nương nhờ nơi diệu-pháp

D - TINH-HOA CỦA NỀN QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG
1 - Đạo có triết-lý, Giáo-lý, Giáo-pháp:
Thử hỏi “QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG” ngày nay đã dựa trên nền tảng nào? Lập-trường nào?
- “Đạo CAO-ĐÀI là một CHÁNH-GIÁO, tức là nền ĐẠO để thay thế tất cả Tôn-giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn-giáo ấy ngày nay không còn phù-hợp với lương-tri, lương-năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn-giáo ấy ngày nay đã bị bế.

“Những điều bí-yếu bí-trọng trong nền ĐẠO CAO-ĐÀI, những triết-lý cao siêu mà chỉ ĐẠO CAO-ĐÀI mới có, tuy nhiên, âu cũng là một đặc-ân của ĐỨC CHÍ-TÔN dành cho ĐẠO CAO-ĐÀI là HỘ-PHÁP thay lời ĐỨC CHÍ-TÔN nói ĐẠO cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng là chỗ đó….” (ĐHP)

Như vậy nền Đại-Đạo này đã có đủ kỷ-cương: nghi-thức cúng kính, phượng thờ, giáo-lý, giáo-pháp hẳn hòi…tức là đủ yêu-tố để làm một Quốc-Đạo.

Điều này Ngài Bảo-Thế Lê-thiện-Phước cũng đã nêu rõ trong bài Diễn-văn đọc tại Hội-Nghị Tôn-giáo thế-giới tại Tokyo (Nhựt-Bản) ngày 1-6 Ất-Mùi (dl 19- Juillet 1955)

“ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ do Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng Huyền-diệu Cơ bút khai sáng tại nước Việt-Nam từ năm Bính-Dần (1.926) đến nay đã 30 năm, độ dân được một số thiện-nam tín-nữ hơn hai triệu người, Tổ-Đình thờ Đức Chí-Tôn và Đền thờ Đức Phật-Mẫu lập thành tại Thánh-địa Tây-Ninh. Hội Thánh hành-đạo dưới quyền Đức Tiên-Trưởng Lý Thái-Bạch kiêm Giáo-Tông về mặt vô-vi, còn về mặt hữu-vi thì dưới quyền Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt, nay đã qui thiên. Hiện giờ Đức Hộ-Pháp chấp-chưởng quyền tối cao trong cửa Đạo cho tới ngày có Giáo-Tông hữu-hình chánh-vị.

Luật-pháp: Luật-pháp của Đại-Đạo là Tân-luật và Pháp-Chánh-Truyền do Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng huyền-diệu Cơ bút giảng dạy để làm qui-củ chuẩn-thằng cho Hội-Thánh truyền giáo.

Diệt trừ mê-tín dị đoan, bất nạp bóng chàng, phù thủy, bổn Đạo dung-hoà mọi tín-ngưỡng và tùy khả năng tiến-hoá của mỗi hạng người và phong-tục của mỗi điạ-phương mà phổ-độ.

Tôn-chỉ: Tôn-chỉ của Đại-Đạo là dìu-dẫn quần-sanh trên con đường xử thế, lấy luân-lý và triết-lý làm yếu-tố.

Luân-lý: Luân-lý thì dạy con người giữ Đạo nhân-luân, làm tròn bổn phận mình, đối với mình, đối với gia-đình, đối với xã-hội là gia-đình rộng lớn, đối với toàn cả thiên-hạ là Đại-Đồng huynh-đệ.

Triết-lý: Triết-lý thì cấm xa-hoa phung-phí, tránh bã lợi mồi danh, trọng duy tâm hơn duy vật và xả phú cầu bần, xả thân cầu Đạo đặng giữ cho tâm thần được thơ-thới nhẹ-nhàng.

Giáo-lý: Giáo-lý của Đại-Đạo là chuyên về tín-ngưỡng và tu-trì, dìu-dẫn quần-sanh trên con đường xuất thế.

Tín-ngưỡng: Tín-ngưỡng thì dạy thờ Đấng Tạo-đoan là Trời, là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Chúa tể Càn-khôn vũ-trụ, sùng thượng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đã dày công giáng trần độ thế. Đại-Đạo cũng như các Tôn-giáo nhìn nhận linh-hồn bất tiêu bất diệt và tồn-tại mãi theo định luật quả báo, có vay có trả, phải chuyển kiếp luân-hồi đền nợ tiền-khiên đặng lần bước trên con đường sáng suốt cho tới cõi Hư-linh hằng sống.

Tu-trì: thì dạy lập công bồi đức, thủ giới trì trai, trau-giồi đạo-hạnh, tịnh-dưỡng tinh-thần, tu tâm luyện tánh đặng đoạt vị thiêng liêng”

2 - Quan-trọng nhất là căn-bản Pháp Luật Đại-Đạo
Đức Hộ-Pháp nói:
“Luật của HỘI-THÁNH để định quyền cho ĐẠO, cho đại-gia-đình của tinh-thần nhơn-loại, ngó thấy TÂN-LUẬT và PHÁP CHÁNH-TRUYỀN là một chơn tướng lập THÁNH-THỂ của Ngài không cần luận đến, chỉ luận về TÂN-LUẬT mà ĐỨC CHÍ-TÔN và ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG đã dạy HỘI-THÁNH khi mới khai ĐẠO, lập trong ba tháng phải thành-tựu, trong TÂN-LUẬT con cái của ĐỨC CHÍ-TÔN đều ngó thấy, Bần đạo không cần lập đi lập lại vô ích, chỉ lấy cái tinh-túy của nó là trong TÂN-LUẬT ấy ĐỨC CHÍ-TÔN định NGŨ GIỚI-CẤM và TỨ ĐẠI ĐIỀU-QUI và trong ấy bảo vệ TAM-CANG NGŨ- THƯỜNG của toàn thể con cái của Ngài, thật ra cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài:
Luật chỉ có một là THƯƠNG-YÊU
Quyền chỉ có một là CÔNG-CHÁNH

Thiên hạ đã lập luật nhiều quá, mà cái luật của thiên hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới tận thế, họ chưa có phương nào làm cho nó phù hợp với cả nhân tâm bao giờ. Còn ĐỨC CHÍ -TÔN đến lập luật có một điều mà thôi là THƯƠNG-YÊU. Cả thảy đều hiểu cái luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không, người nào không có dính trong cái luật THƯƠNG-YÊU ấy thì chẳng hề họ sống được bao giờ nhứt là sống chung của đồng-loại, hoặc họ phải tự họ ly dị cả nhơn-loại hay là cả nhơn-loại buộc phải đào thảy họ, nếu họ không tuân cái luật ấy .

Còn cái quyền CÔNG-CHÁNH, công-bình, chánh-trực dầu một kẻ không học kia, dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tính quí báu ấy, tôi tưởng cả thảy thiên hạ đều cúi đầu tôn trọng kính nhường mà nhứt là THƯƠNG YÊU.

Thiên luật của ĐỨC CHÍ-TÔN là vậy!
TÂN-LUẬT ĐỨC CHÍ-TÔN cốt-yếu muốn cho ta làm, đặng ta bảo vệ cái TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG của nhân loại. Nói về phương Đông này dầu cho luận tới các quốc-gia, xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự-trọng, họ văn-minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ; nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã-hội của họ thì nó sẽ thành cái gì chứ không thành xã-hội” (ĐHP 30.3.nh ẤT MÙI)

“Vì cớ cho nên cả khuôn khổ quyền-lực của ĐẠO cốt-yếu để tạo THÁNH. Bây giờ ta mới luận về quyền đời: cả quyền đời, thật quyền của họ, thiệt lực của họ là NHƠN-ĐẠO. Muốn thành tựu NHƠN-ĐẠO ấy họ phải thông-minh trí-thức, lịch duyệt thế tình; thông-minh trí-thức phải học, lịch duyệt thế tình họ phải chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy.

Vì cớ cho nên một ông quan mới đầu tiên thủng-thỉnh bực nhỏ lên bực cao, học đặng chuyên chú nghề nghiệp của họ, cốt-yếu họ cầm quyền trị dân ấy, đặng chi? Họ mong mỏi gì? Họ mong-mỏi cho toàn cả nhân-loại được hạnh-phúc, cả cái sống còn của dân được bảo thủ cái sanh-hoạt của dân được hòa-ái, tương thân, thật ra họ không có đi ngoài khuôn khổ TAM-CANG NGŨ-THƯỜNG của văn-minh ta lưu lại từ thử tới giờ.”

3 - Chương-trình học-vấn để trở thành Quốc-Đạo:
Muốn đặng hòa-bình người CAO ĐÀI ngày nay HỌC những gì?

Bà ĐOÀN THỊ ĐIỂM đã giáng cơ ban cho tập thi ca: Nữ Trung tùng phận dài 1401 câu, đã nêu rõ chương trình học vấn đủ đầy với mục đích là: “Học tinh-thần khai thác NHO TÔNG ” (câu 442)
Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu
Học cho hay trọng-yếu miếu đường
Tầng quen cỡi ngựa cầm cương
Trận trung quyết-thắng chiến-trường đoạt binh

Lựa những mặt tài tình thọ giáo
HỌC cho hay mối đạo quân thần
Trương Lương dâng dép ba lần
Chút công ấy dịnh HỚN TẦN nên hư

TRỌNG-NI nhận vi sư HẠNG-THÁC
HỌC tinh thần khai thác NHO-TÔNG
Gẫm coi tổn bấy nhiêu công
Làm cho thiên hạ đại-đồng trí-tri

Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu
HỌC hay kế nhiệm mưu mầu
HỌC nên tài đặng giải sầu quốc-gia

HỌC đặng định chánh tà giả thiệt
HỌC cho thông đặc-biệt hư nên
HỌC gan sắt đá cứng bền
HỌC cho đủ chước xây nền NAM-PHONG

HỌC cho rộng giao thông tứ xứ
HỌC cho cùng xử sự ngoại-lân
HỌC cho đúng bực tài thần
Ưu quân ái-quốc vua cần dân nghinh

HỌC cho thấu máy linh cơ tạo
HỌC cho toàn trí-xảo văn-minh
Thâu tài hay, nhập nước mình
Làm cho dân hưởng thái-bình giàu sang

CHƯƠNG II

ĐỨC CHÍ-TÔN ĐẾN ĐẶNG CHUYỂN QUỐC-ĐẠO

Thật ra ngày giờ này con dân Việt-Nam muốn đến toà lâu-đài nguy-nga ấy cũng phải có được trong tâm-hồn một dòng máu bất-khuất, dòng máu đạo-đức lưu-truyền từ Ông cha đã bao đời truyền nối, thì cái học ấy mới phát-huy được hết tinh-thần Nho-Tông mà làm ngọn đuốc thiêng cho toàn nhân-loại trong buổi này!

Thử hỏi tâm-hồn của người Việt-Nam trong buổi này đang hướng về đâu? Phải nương vào đâu làm điểm tựa cho tâm-hồn?

A - Tổ-Phụ lưu truyền nền văn-minh tối cổ là Nho Đạo
Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo (đêm 14-3 Giáp Ngọ)
“Bần-Đạo thuyết về tâm hồn của dân tộc Việt Nam trong giờ buổi này.

Cả thảy con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng như Bần Đạo. Chúng ta đã thọ hưởng đặc ân Tổ-Phụ lưu truyền một nền văn-minh tối cổ là Nho Đạo.

Cả phong-hóa văn hiến đều thuộc về Khổng-Giáo, từ khi lập quốc thì dân do căn bản tối cổ của nền văn-minh Khổng-Giáo mà đào tạo nên hình tướng của quốc-thể chúng ta. Có lẽ hồi Tổ Phụ Ông Bà lập quốc tưởng cho cái nền văn hiến cổ truyền ấy nó phải còn tồn tại mãi mãi. Do nơi đó mà đào tạo cả tâm-hồn của nòi giống; chắc các Đấng ấy chưa biết sự thay đổi trong giờ phút này mà các con cái của họ; máu-mủ của họ đã chịu ảnh hưởng.

Nếu nói phong-hóa cổ truyền của Tổ-Phụ chúng ta để lại, thì con người của chúng ta về tâm-hồn vẫn chơn chất hiền-lương đạo-đức. Nếu nói cái tâm hồn chơn-thật của họ thì vẫn là hình tướng Đạo-giáo tạo cho họ đó vậy.

Sau 80 năm dưới quyền đô-hộ của Pháp, Pháp đã đem cho ta một nền văn-hiến mới nữa là: Văn-hiến của Đạo Thiên-Chúa mà ta gọi là Gia-Tô-Giáo từ trước.

Ấy vậy ta thử lấy trí xét đoán coi cái nền văn-minh của ta, văn-minh tối cổ ấy đương nhiên cùng với một nền văn-minh tối-tân kia, thử hỏi tâm lý Nho-Tông đào tạo phong-hóa của ta như thế nào? Phong hóa của Thiên-Chúa-Giáo đào tạo nền văn minh giờ phút này chúng ta chịu ảnh hưởng gì?
- Một đàng thì chỉ lấy Đạo Tam Cang Ngũ Thường làm căn bản, chỉ biết lấy tinh thần tâm lý làm mực thước mà đào tạo tâm hồn của mình.
- Còn một đàng thì lấy khoa học, lấy quan sát thiệt tướng của sự sống làm căn bản.

Chúng ta ngó thấy hiển-nhiên trước mắt rằng: Hai cái hình ảnh ấy chẳng khác nào như hai người đàn bà:
- Một người thì chơn-chất thật thà chỉ lấy tâm-lý làm căn-bản cử xử thế tình, lấy tâm làm mực thước, một hành-vi chi chẳng hề khi nào dám đi qua của tiếng gọi tâm hồn.
- Một đàng lấy cả phong thể trang nghiêm hình ảnh đẹp đẽ sang giàu, hết thảy cả bóng dáng mỹ thuật ở trong mình đào tạo ra, thì chúng ta ngó thấy một đàng lấy Sắc làm căn bản, một đàng lấy Tâm làm căn bản.

Bần Đạo dám chắc; thử chúng ta để dấu hỏi (?) nếu như có một người mỹ-nhân như thế và một người thô-nhơn như thế. Ta để câu hỏi có một vị tình lang đang chọn lựa như vậy: Bần Đạo dám chắc sự chọn lựa ấy không cần nói cả thảy các con cái Đức Chí-Tôn đã để trong cái trí và trong mình rồi. "Hữu nhan sắc hữu ác đức" lời cổ nhơn đã để lại quả không sai đó vậy.

Bây giờ chúng ta nghĩ lụng lại, nếu như một người lịch-sự kia, chúng ta để trong óc não của họ, dạy dỗ họ cho có tâm hồn nhân-đức, đạo nghĩa, biết giữ khuôn khổ của một người đàn bà thì đáng giá là người của thiên-hạ đó, là vì họ lấy Tam Tùng Tứ Đức làm căn bản.

Người lịch sự ấy làm y theo lời mình đã dạy thì quí hóa thế nào, tôi tưởng cả thảy trên mặt địa cầu này, nếu người đàn ông nào để ý lập đời thì mơ mộng có một điều là: Được người vợ nhân-từ đạo nghĩa mà lại đẹp thì còn hạnh phúc nào hơn nữa.

Nếu có tay nào đào-tạo được như thế thì dám chắc cả thiên hạ khen tay đó lắm vậy!
Ấy vậy tâm hồn của thiên hạ như thế đó, ta thử hỏi có thể nào đào tạo nhơn loại, đẹp đẽ như sự mơ ước của chúng ta đó hay chăng?

Bần Đạo trả lời: Đạo Cao Đài sẽ đào tạo họ!”
Nhưng thương thay cho dân-tộc Việt-Nam phải chịu thua sút, chịu chậm tiến hơn các nước khác, cũng vì cái án bất công của xã-hội, của chế-độ đã áp đặt Nữ-phái một cách quá đáng: nhất là không cho đi học. Như thế sự dốt nát chẳng những đè nặng lên đầu người Nữ-phái mà thôi, lại còn gây thêm biết bao điều mê tín dị-đoan; họ biết đâu là chơn-lý, đâu là văn-minh và nhất là không có mối Đạo nhà. Chính vì lý-do này làm cho dân-tộc phải đi đến mất nước và cội nguồn văn-hoá, đạo-đức cũng bị lung lay. Phải nhìn thẳng vào sự thực để thấy rằng:

B - “TỪ TRƯỚC NƯỚC NAM CHẲNG ĐẠO NHÀ”
Đức Chí-Tôn xác nhận điều ấy rằng “Từ trước nước Nam chẳng Đạo nhà”
Đức Quyền Gíáo-Tông cũng có nói rõ lý-do là Việt-Nam từ trước đến giờ không có Đạo.
“Quả thật vậy!
“Người nước Nam từ cổ chí kim thật không có ĐẠO trong nưóc nhà, mà người Nam ta có tâm đạo, người Nam trổi danh khắp địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo PHẬT, đạo TIÊN, đạo NHO tuy khai bên ẤN-ĐỘ và TRUNG HOA, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái.

Đạo GIA-TÔ của mấy vị Linh-mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu, đi nhà thờ cầu-khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ trời Phật. Người không đi chùa, đi miễu, không đi nhà thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo NHO.

Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ-ràng người Nam-Việt tin-tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt, chớ linh-hồn bất tiêu bất-diệt. Vì Đạo-Tâm ấy mà trong thời-kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ (ân-xá lần thứ ba).

Tuy khai ĐẠO tại nước Nam mà cũng khởi ư Đông. Bàn-cổ sơ khai: Thiên khai ư Tý, địa tịch ư Sửu, nhân sanh ư Dần.

Từ năm Bính Dần, đạo phát khởi tại TÂY-NINH lần lần truyền ra Gia-định, Biên-hòa, Thủ-dầu-một (Bình Dương), Chợ-lớn là mấy hạt ở hướng Đông. Qua năm thứ nhì, thứ ba, ĐẠO mới truyền ra mấy hạt ở hưóng Tây.

Dẫn hồi tạo thiên lập địa thì nội vùng Á-đông đây văn-minh trước, nên từ Bàn cổ sơ khai, Đạo cũng khai bên vùng Á-đông trước, như: đạo Phật thì cũng khai mở tại Thiên-trước là Đức Nhiên-Đăng Cổ Phật; Thích-Ca khai đạo Phật, Đại-Đạo là đạo TIÊN thì LÃO-TỬ khai tại Trung-Huê; sau nữa Khổng-Phu-Tử khai đạo THÁNH cũng tại Trung-Huê là ở miền Á-Đông.

Sau, lần lần Đạo trải khắp qua hướng Tây nên ĐỨC CHÚA JÉSUS truyền đạo THÁNH bên hướng Tây. Kế đó ĐẠO mới roi truyền ra khắp năm châu.

Ngày nay là châu nhi phục thủy nên ĐẠI-ĐẠO phát ra tại Á-đông này. Bởi cớ ấy nên trong bài khai-kinh của Đức LỮ-TỔ cho hai câu đầu như vầy:
“Biển trần-khổ vơi vơi trời nước
“Ánh thái-dương giọi trước phương Đông”

Mặt trời mọc ở hướng Đông rồi lần lần lặn thì qua hướng Tây, Đạo truyền ra cũng như thế.

Trong thời đại hạ-nguơn này đây, nhân-loại ở thế gian phần đông vì ham cái văn-minh vật-chất, ham ăn mặc sung-sưóng, giành giựt cấu xé mồi phú-quí, bã vinh-hoa, vẻ cân-đai, mùi chung-đỉnh, mạnh còn, yếu mất, đua chen lẫn lộn

Than ôi! Nếu nhân-loại như thế sao khỏi động lòng Trời!

Đấng CHÍ-TÔN vì háo sanh, đại-từ đại-bi, thấy nhân-loại đang mờ-mịt trong vòng hắc ám, lầm đường lạc nẻo mới khai ĐẠI-ĐẠO để độ dẫn chúng sanh thoát khỏi bến trầm-luân khổ hải này.

Tôi chỉ rõ cho thiện nam tín nữ biết rằng: Người Nam không ĐẠO nhà, mà nay Đấng CHÍ-TÔN thương tâm-đạo chúng ta nên khai ĐẠO tại đây.

Hồi đầu của năm khai ĐẠO, ĐỨC CHÍ-TÔN có cho ông Nguyễn Thế Vinh cũng là người đạo-đức và con nhà Nho-phong ở tại Chợ-lớn một bài thơ tứ tuyệt như vầy:
Từ trước nước Nam chẳng đạo nhà
Nay TA gầy dựng lập nên ra
Ví dầu ai hỏi sao bao nã?
Rằng trẻ roi sau biến hóa già!

Bài thơ tứ tuyệt này chứng tỏ rằng tự cổ chí kim nưóc ta không đạo nhà; nưóc mà không Đạo cũng ví như người ta không hồn, nhà không đạo-đức tự-nhiên cang thường luân-lý phải suy bại.

ĐẠO là chi? ĐẠO rất cao thâm mầu-nhiệm, Đạo trùm càn-khôn thế giới không có vật chi, không có việc chi ra khỏi ĐẠO, tôi xin diễn tắt rằng hễ có đời tức nhiên có ĐẠO (Quyền Giáo Tông 24.8.Mậu Thìn)

Nhưng tại sao lời thơ lại nói:
“Rằng trẻ roi sau biến hóa già”?

Đức Hộ-Pháp đã lý giải lời này vào năm 1946 rằng:
“ĐẠO CAO-ĐÀI tức là ĐẠO Tổ-Phụ của chúng ta…mà ĐẠO TỔ-PHỤ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó!”

Tại sao ĐẠO được 2.500 tuổi?
- Vì Cao-Đài Đại-Đạo chính là Phật-Giáo chấn hưng tức nhiên đã có từ 2.500 năm nay rồi, nay Đạo trời đến khai ngươn chỉ là một sự tiếp nối mà thôi.

Nay đã đến thời kỳ chuyển thế, Tam-giáo qui-nguyên Ngũ-chi hiệp-nhứt tức là nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã thành hình đó. Ngày khai Đạo tại Từ-Lâm tự, Gò-Kén Tây-Ninh nhằm ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần (dl 19-11-1926) Đức CHÍ-TÔN có giáng cơ ban cho đôi câu đối để làm biểu-ngữ:
- DI-LẠC thất bá thiên niên khởi khai Đại-Đạo.
- THÍCH-CA nhị thập ngũ thế chung lập Thiền-môn.

Tức nhiên kỳ khai Đại-Đạo này do quyền chấp chưởng của PHẬT DI-LẠC sẽ ngự trị toàn tâm lý thiên hạ trong 700 ngàn năm.

Trong khi đó Đạo Phật của Đức Thích-Ca làm Chưởng-giáo trong nhiệm kỳ 2.500 năm đã kết thúc mối đạo Thiền.

Quả tình đã có sự chuyển tiếp và có ấn chứng của thiêng-liêng
Đức Hộ-Pháp kể lại lời nói của Ngài Khai-Pháp Chơn-Quân trong ngày lễ Đại-tường của Người với một niềm tin vững-vàng rằng:

“Tôi tưởng dòng dõi của dân-tộc Việt-Nam trên 4.000 năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí-Tôn đến định lập QUỐC-ĐẠO thì chắc hẳn rằng đất nước Việt-Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ-quốc và giống nòi, dân tộc Việt-Nam sẽ cởi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành”. (Khai-Pháp 12-8, Ất-Mùi-1955)

C - ĐỨC CHÍ-TÔN ĐẾN ĐẶNG CHUYỂN QUỐC-ĐẠO
 (Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 14-10 Quí-Tỵ)

“Thật ra, nếu không phải cái huyền-linh vô đối của Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển quốc đạo chỉ trong một thời gian ngắn ngủi thì nền Đạo chưa rõ đến địa-vị cao trọng và qúi hóa như thế này.

ĐẠO CAO-ĐÀI tức Đạo Tổ-phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi nếu chúng ta kể từ ngày chuyển thế của nó. Nhưng Thánh-Thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái nam nữ của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ-phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó!

Để nói rõ Thánh-ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì? Giờ phút này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc vì vậy. Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó-khăn về mọi phương diện.

Nhưng đối với Bần-đạo, Bần-đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-đạo lại vui mừng mới chướng cho chớ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo để con mắt quan-sát coi có quả như vậy hay không?

Cái khó nỗi đảm-đang đương nhiên bây giờ làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo là sửa-soạn tô-điểm đặng một đài vinh-diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn có đức-tin thì hiểu rõ điều ấy.

Trái ngược lại hễ mỗi phen đã gặp khổ-hạnh khó-khăn chi trong cửa Đạo thì nhớ lời của Bần đạo: vui đi! mừng đi! Bởi chẳng hề khi nào trật điều đó. Để quan sát lại coi, rồi sẽ thấy cái vinh diệu của Đạo Cao-Đài sẽ đến mức nào trong thời gian sau đây” (14-10-Qúi-Tỵ).

Nay là buổi mà nhân-loại đã văn-minh cực-kỳ về phương-diện hoá-học. Hầu như đã đi đến tuyệt đỉnh ước muốn về nhu-cầu đời sống của con người. Nhưng nếu được tiếp nạp nguồn văn-minh ấy từ người vào mà chính mình chưa có văn-minh từ trong tâm-hồn thật sự, thì e rằng mình chỉ học lấy bóng dáng bên ngoài mà thôi. Điều lợi-lộc ấy phải trả bằng giá đắc quá!

Ngay thời điểm Đức Hộ-Pháp còn sanh tiền, Ngài đã có nói về vấn-đề Văn-minh ấy.

1 - Hai chữ Văn-Minh của thời-đại này
Đức Hộ-pháp nói:
 (Bài 22-TLHS đêm 18 tháng 01 năm Kỷ-Sửu (15-02-1949)

“Toàn-thể con cái của Đức Chí-Tôn không có thể quyết-đoán nỗi triết lý cao siêu trọng-yếu tấn-triển của phần hồn, nhứt là phương-pháp đoạt-vị của mình.

Còn một thuyết trọng-yếu nơi mặt thế này, làm cho các Đẳng Chơn Hồn quả-kiếp biết bao nhiêu thống khổ, nhứt là giục thúc chiến-đấu tấn triển từ thử đến giờ, đã gây biết bao nhiêu tội tình đó là Văn-Minh

Hôm nay Bần-Đạo thuyết hai chữ Văn-Minh của thời-đại này.

Văn-Minh là gì? Lấy theo chơn-tự Việt-Ngữ tức nhiên Nho-Tông của chúng ta.

Văn nghĩa là những lời lẽ, hoặc là văn-hóa hay văn-chương, những lời-lẽ mà chúng ta đã đoạt đặng của người khác hay của mình đặt ra.

Minh nghĩa là minh-bạch rõ-ràng, sáng-suốt, lời lẽ minh-bạch rõ-ràng, đã giúp ta đoạt đặng những phương-pháp, để mà định quyết tương-lai hay là giữ tồn tại sự tiến triển trong kiếp sống của mình, hoặc là chúng ta dùng phương-pháp về văn tự, để lưu truyền ngôn-ngữ của chúng ta, đặng định một sự tấn triển của phương sống; hay phương-pháp sống của xã-hội, chúng ta đã định, chúng ta đã đoạt được, tức nhiên sự tiến-hóa tồn tại, bảo thủ với một phương-pháp văn-chương, đủ lẽ hay là giải-nghĩa bao quát của chữ Văn-Minh là Civilisation.

Chúng ta nên hiểu có ba nghĩa Civilisation, có thể tưởng rằng:
1 - Một là tổng-số của sự tiến-triển về tâm-lý tức nhiên về chính lý, về khuôn khổ, về hình thức của sự sinh-hoạt con người đã đoạt đặng và lấy trí óc bảo thủ cho nó tấn triển thêm, tấn triển cho mỹ-mãn hơn nữa.

2 - Thứ nhì là tổng-hợp các sự tấn triển của xã-hội, một quốc-gia mà họ đã đoạt đặng, họ muốn bảo thủ tồn tại, nhưng họ bị tư-tưởng mới mẻ hay là những điều mới-mẻ do phương tiện của sự sanh-hoạt mới mẻ sản-xuất, giục thúc họ, dường như muốn khám phá những cơ-nghiệp của họ, đào tạo về văn-hóa của họ, về phương diện hạnh-phúc cho họ. Tư-tưởng mới mẻ ấy, có thể bỏ ra, nếu cả đại-nghiệp của họ được, họ tìm phương bảo thủ cho còn tồn tại.

3 - Thứ ba là phương-pháp của tinh-thần quyết thắng vật-chất, tức nhiên là những phương-pháp mà chúng ta không thể đè nén cả tinh-thần về thể-chất của hình thú ta, với cái trí óc ta vẫn biết Thiêng-Liêng do Thiên-tánh, đặng làm cho người xứng đáng làm người, không hạ mình xuống tánh chất con thú.

Với ba nghĩa lý ấy, nghĩa lý nào chắc?
Nếu nói ba thuyết ấy chắc cả thảy ba, thì chúng ta nên nhìn nhận nghĩa lý sau chót hết là chánh-đáng, tại sao mà không có thể tưởng tượng rằng: Giúp cho loài người đến địa-điểm có thể tưởng là hạnh-phúc được.

Con người bây giờ có thể bay giữa không trung như con chim kia là máy bay, có thể lặn xuống biển được là nhờ máy móc, có thể không ở mặt đất mà lại ở trên mây, trên không khí Thiêng-Liêng, nó không cần đi mà nó có thể chạy trên mặt đất, nó không cần bay mà nó có thể ở giữa lưng trời được, nhưng chưa phải đó là hạnh-phúc! Đó là theo cái văn-minh mà thiên hạ tưởng-tượng, có thể đào tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại đặng, không phải theo ôm bó hay an ủi hoặc bợ-đỡ đặng mảnh thi hài đầy-đủ sung-sướng hạnh-phúc, hay nó giúp cho mảnh thi hài này tưởng-tượng mình không còn một lực-lượng nào đối phó với mình. Tưởng hạnh-phúc thực sự, nhưng chưa phải là thật hạnh-phúc của họ vậy, hạnh-phúc thiệt không phải là phần xác, hạnh-phúc thiệt của con người là phần hồn.

Chúng ta đã ngó thấy biết bao nhiêu vị Vương-Đế đã tạo giang-san sự nghiệp, từ thượng-cổ đến giờ ai không tưởng đến: "Tứ hải vi thiên hạ chi giao", lấy hạnh-phúc của một Đấng làm Chúa cả các dân-tộc khác, mà so sánh dám chắc nếu chúng ta dở lịch-sử ra coi thì chúng ta để dấu hỏi mơ-hồ họ chưa có thể chắc hạnh-phúc được.!

Trái lại chúng ta thấy một tấn tuồng: "Hễ càng cao danh-vọng lại càng dày gian-nan". Nếu họ không thỏa-mãn về tâm hồn thì không phải là hạnh-phúc! Dầu sang trọng, sung sướng cách nào cũng chưa gọi là hạnh-phúc được, không phải tâm hồn thỏa-mãn thì không phải là hạnh-phúc thật.

Con người bao giờ cũng vậy, đi tìm hạnh-phúc chớ không phải tìm ăn, tìm sống, nhờ sống cho họ sang cả vinh-hiển phủ-phê thỏa-mãn, ấy là về phần xác của họ mà thôi. Dám chắc chúng ta đoạt được dầu hạnh-phúc ấy hiện hữu, chúng ta thấy một vật vi hậu, con người bao giờ cũng vậy, thân-thể của họ sung sướng bao nhiêu đi nữa chỉ hai ba ngày đầu thôi, còn thú-vị đến năm ba ngày sau họ nhảm-nhí. Hễ họ đoạt được hạnh-phúc về phần xác, dầu cho họ đoạt được đến địa-vị bực nào đi nữa cũng không thỏa-mãn, cái hạnh-phúc không phải do nơi xác thịt này mà sung sướng hay vinh-hiển.

Ấy vậy, văn-minh tạo hạnh-phúc cho loài người về phần xác là đời, chẳng khác nào như ngọn cỏ đầu sương, bất quá là lòe con mắt cho thiên-hạ mà thôi, chớ chưa thỏa-mãn. Họ tạo dựng không phải tồn-tại, không phải vinh-hiển.

Cái thuyết của văn-minh là cái phương-pháp giúp cho con người biết duy-chủ con vật của mình, mà điều-độ sự sống còn tồn-tại nơi mặt thế này. Sống tạm tại mặt thế này làm cho họ thỏa-mãn đặng điều-độ mảnh thi-hài, hay thể-chất này thôi, duy có tinh-thần đạo đức mới đặng.

Một lần nữa, giải thật nghĩa hai chữ Văn-Minh:
Văn là quyền hạn, Minh là sáng-sủa đạo-đức. Nếu Văn-Minh mà thiệt-tướng được, là thực-hiện một nền Tôn-Giáo cao siêu tại mặt thế-gian này mới thiệt hạnh-phúc. Về phương-pháp Đạo-Đức mới thật hạnh-phúc”.
Cái hạnh-phúc thật sự phải được lập trên thân danh của mỗi người!

2 - Phương pháp lập thân danh.
 (Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 14-11 Giáp-Ngọ)

“Đêm nay Bần-Đạo giảng cho đám Thanh Niên Nam Nữ lưỡng-phái. Có lẽ giảng hơi dài, đừng vì lẽ mệt ngồi ngủ gục, hãy cố lắng tai nghe:

Bần Đạo giảng phải lập thân danh thể nào và căn bản nào? Vả chăng sanh nơi thế kỷ 20 này. Bần-Đạo thường nói: Cái phương sống của con người là tranh-đấu cố gắng đem cả trí não khôn-ngoan đặng bảo-vệ sống còn của mình. Có lạ chi, dầu muốn, dầu không, dầu thuận tùng hay là nghịch. Hỏi kiếp sanh của mình đã rủi sanh làm người rồi, thân của chúng ta ở giữa vạn-vật là vật hữu sinh cũng như cả vạn-vật kia vậy. Có thân, có phận thì con người của ta phải lập thân-phận thế nào? Bởi thế bậc hiền triết thường nói:
“Đã sanh ra đứng trong Trời Đất,
“Phải có danh gì với núi sông".

Nếu con người không nên danh-phận chi hết, dường như tinh-thần của họ thiếu phận làm người. Cái sống buộc ta phải sống chung cùng vạn vật, ta phải khôn-ngoan khéo léo, biểu ta sống đặng chi? Đặng làm gì?

Ta đã đồng sinh cùng vạn vật, tức nhiên giữa khối sinh lực của ta đã xuất hiện ra, tức nhiên ta là một phần-tử trong khối sinh-lực của toàn thể chúng sinh. Ta có phận-sự phải bảo vệ cái sống ấy. Không có quyền diệt cái sống hay là nghịch với cái sống. Tỷ như mặt hồ kia đầy nước, mà nếu ta múc nước trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy sẽ vơi một phần.

Ấy vậy, ta sống, ta chịu nợ của cái sống. Sống chung cùng cả bạn đồng sanh, chúng ta phải làm thế nào cho sự sống ấy tồn-tại hiển-hách mãi thôi. Ta không có quyền phép nào, quyền hành nào làm mất cái sống ấy, tức nhiên không quyền diệt sự sống.

Hại thay! Chúng ta phải hiểu rõ rằng: Sống đây không phải thú vị, vui hứng gì, mà sống đây buộc chúng ta phải tìm phương giải-thoát khỏi sống ấy. Đương nhiên bây giờ ta vẫn sống, ta không thể chối cải là ta đã chung sống cùng bạn đồng sinh của chúng ta là phải lập thân danh đặng bảo vệ sống ấy.

Vì muốn bảo vệ sống ấy mà Tiên-Nho của chúng ta để lại thuyết: "Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ".

Tu thân là gì? Là trau-giồi mình: biết mình, biết người, biết vạn-vật đặng định phận của mình. Ta không thế ngu-muội, ta phải làm sao cho khôn-ngoan ấy nhờ tu thân. Tu thân ấy căn-bản là gì?

Dầu cho thiên kinh vạn điển đi nữa, cốt yếu một điều là tạo tâm-đức của ta và dùng cái tình-ái của ta cho có khuôn khổ, có niêm luật, qui định một căn bản chắc chắn là tu thân đó vậy.

Ấy vậy, nó chỉ có bấy nhiêu, chúng ta tầm hiểu rằng: Muốn định phận của mình, muốn tạo công danh của mình phải do căn bản tình đức. Nếu trái lại do nơi thời may, hoặc là hung bạo, hay là xảo trá, gian lận những điều ấy đều giả dối hết.

“Quan tiền vũ hậu”, ta thử xem xét coi cái sống đương nhiên của bạn đồng sinh, họ đã hành vi và thi thố điều gì? Dầu cho tên Đạo Chích kia nó là kẻ cướp, kẻ hung bạo, mà nó chưa hề dám từ bỏ Tam Cang Ngũ Thường của nó, kẻ hung bạo dối trá chừng nào, càng ép mình trong khuôn khổ tình đức chừng ấy. Họ mượn màu tình ái đặng lợi dụng lường gạt thiên hạ mới đặng. Nếu đi ngược chiều tình đức thì chẳng hề làm lớn với ai được.

Kẻ cướp, kẻ hung bạo, tàn ác, nó muốn làm anh chị thiên hạ, nó muốn mượn màu tình đức ấy, nhơn nghĩa ấy cho tới tận cùng, gạt thiên hạ, thiên hạ theo mới đặng.

Trái ngược lại, đối với người đã đoạt được khuôn viên tinh thần tình đức ấy, do nhiên tự nhiên nó có, chẳng cần kiếm, nó có sẵn hiển nhiên.

Từ cổ chí kim, chúng ta dở lịch sử của nhơn loại, chúng ta ngó thấy rõ ràng điều ấy: Bất cứ thời buổi nào vị anh hùng nào quán thế, ở thế gian này muốn lập thân danh phải mượn màu tình đức ấy. Bần Đạo chỉ cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm Chúa thiên hạ, thâu thiên-hạ trong tay, phải lấy tình đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả xương máu của họ đặng tô điểm địa vị của nó.

Trái lại nương nơi hung bạo lập nghiệp như Sở-Bá-Vương, như Tần-Thủy Hoàng kia thì nó phải tiêu hủy cả cơ nghiệp.

Bần-Đạo đã ngó thấy một điều, nếu để tâm quan sát kỹ hơn nữa, hễ có tình đức chắc chắn, thì chẳng cần tìm, công-danh cũng tự nhiên đến, dầu đến với phương diện nào nó cũng tìm đến.

Tích xưa, một bậc Hiền-triết là: Nguyễn-Hiến là học trò yêu của Đức Khổng Tử lại là anh ruột của Đạo Chích. Thầy Nguyễn-Hiến, Bần-Đạo thuật ra cả thảy con cái Đức Chí-Tôn thấy người như thế không có người thứ hai nữa.

Buổi nọ Thầy Tử-Cống đi xe bốn ngựa mặc áo lông cừu đi ngang qua nhà Thầy Nguyễn-Hiến. Thầy Nguyễn-Hiến nghèo đến nỗi nhà lợp bằng cỏ tang, vách làm bằng cỏ du. Nghe Thầy Tử-Cống đi ngang qua lật-đật ra chào đón, lấy áo mặc vô, vải áo rách; xỏ chân vô tới giày, giày thủng gót; đội mão buộc không nhíp, ra đứng giữa đường đợi Thầy Tử-Cống. Thầy Tử-Cống đi xe ngang thấy Ngài đứng bên đường, Thầy để lời than:
- Ôi! Ngài không nghĩ đến công-danh ư?

Thầy Nguyễn-Hiến trả lời:
- Thầy xưa có nói: Kẻ biết Đạo dù nghèo cũng không nghèo tức nhiên không làm quan, ấy là kẻ không mồ. Biết Đạo không giữ Đạo là kẻ bịnh. Tôi chỉ là kẻ không mồ, chớ không phải kẻ bịnh!

Thử coi Thầy Nguyễn-Hiến nói ai bịnh? Phải chăng Thầy Tử Cống bịnh?
Công danh mà chi, tới hôm nay nhắc đến công-danh, Thầy Nguyễn-Hiến là người hi hữu danh cần gì cao trọng như hàng phẩm của vị Thủ-tướng trong triều đình hay là vua, chúa mới lưu lại danh phận mình.

Ông Vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con mới tìm hiền, lúc chưa gặp Ông Thuấn, nghe Hứa-Do là người có tài đức mới cho người dời Hứa Do đến triều.

Vua Nghiêu nói: Trẫm nghe ngươi tài đức lớn, vậy Trẫm muốn nhường ngôi cho ngươi thay Trẫm làm Chúa thiên hạ?

Hứa-Do trả lời:
 “Tiêu-liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử ẩm hà bất quá mãn phúc" Nghĩa là con chim tiêu liêu ở rừng chỉ làm ổ trên một nhánh cây, con yến thử xuống giòng sông uống nước chẳng qua đầy bụng. Kẻ hạ thần đã quen thú an nhàn, cách sống riêng biệt. Bệ-hạ muốn nhường ngôi cho kẻ hạ thần cũng vô ích.

Nói xong bỏ ra về. Khi đi ngang qua nguồn nước mới lum-khum xuống rửa tai cho hết vấn-vít vì nghe thiên hạ nói muốn làm vua kỳ quá.!

Ông Sào-Phủ là người giữ trâu thôi, dắt trâu xuống giòng nước cho uống, thấy Hứa-Do lum khum rửa tai. Sào-Phủ hỏi:
- Anh làm chi rửa tai vậy?

Hứa Do mới thuật lại: Vì vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho làm vua, tôi không muốn vấn vít trong lỗ tai nữa.

Sào Phủ nói:
- Anh làm gì cho thiên-hạ biết Anh là Hiền-đức muốn truyền ngôi cho Anh, nếu người ta biết Anh là Hiền đức, tức nhiên Anh đã muốn làm cho người biết; chắc chắn hơn nữa là tại Anh tỏ cho thiên hạ biết Anh là Hiền đức. Anh đừng tỏ cho thiên hạ biết Anh là Hiền đức, thì ai biết Anh đâu mà nhường ngôi, cần chi phải rửa tai. Sào Phủ nói xong liền dắt trâu đi lên trên dòng nước cho uống.

Hứa-Do lấy làm lạ hỏi:
- Bến ở đây sao dắt trâu lên trên kia cho uống?

Sào Phủ trả lời:
- Vì sợ Anh rửa tai trôi ra, trâu Tôi uống nhầm. Đó là công danh của kẻ Triết hiền.

Ta thử ngó lại nước Việt Nam ta từ cổ chí kim, kẻ lập thân danh biết bao người mưu kế quỷ quyệt như Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đã lập ra một cơ quan vĩ đại là khối Tây Sơn. Trịnh kia gian xảo thế nào thì Tây Sơn gian xảo cũng thế. Trịnh phò Lê diệt Nguyễn tức nhiên phò Lê đặng mượn danh nhà Lê đặng diệt Nguyễn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng thế mượn màu phò Lê đặng diệt Trịnh.

Chúng ta thấy gian xảo bao giờ cũng nương theo tình đức, lợi dụng tình đức đặng lập thân danh. Những mưu kế xảo quyệt chẳng hề khi nào bền-bĩ lâu dài đặng. Thân-danh dầu lập bao nhiêu cũng không thế tồn tại. Lịch sử của nước Việt Nam để trước mắt cho chúng ta ngó thấy.

Bây giờ nói chuyện nước Tàu, kẻ lập đế vị bền vững được 800 năm là họ Lưu. Lưu Bang bất quá là một anh Đình Trưởng, tức nhiên là anh đưa đò vậy thôi, mà thâu phục được lòng dân, ưu ái dân, binh vực kẻ yếu, đương đầu với kẻ mạnh, tức nhiên lúc yếu của mình mà dám đương đầu cùng Sở Bá Vương cứu trăm họ lê dân trong nước lửa. Lấy tình đức làm căn bản lập Hớn-thất giang san của Ngài được 800 năm.

Còn như Sở Bá Vương dùng bạo tàn dựng nên cơ nghiệp chỉ một đời thôi. Từ cổ chí kim chưa một Đế Vương nào để di tích cho bằng Tần Thủy Hoàng, nhưng đào tạo nên bởi hung tàn bạo ngược, chỉ ba đời thôi.

Napoléon 1er vẫn là một người thường dân trong hàng lê thứ, đi từ tên lính lên tới Đế vị rồi, biết bao nhiêu vinh diệu cho nước Pháp thọ hưởng.

Hại thay! Tới chừng lên Đế vị rồi, phong hầu, phong bá (Công, Hầu, Vương, Bá) cho cả hàng tướng sĩ của Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng trở nên nhát nhúa mất chí khí anh hùng nên Ngài phải thua. Cả tướng sĩ đã lập nên Đế vị cho Ngài sau khi chỉ còn Ông Nai còn biết tình của Ngài, còn bao nhiêu đều phản phúc. Lợi dụng tình đức ấy nó chỉ là bóng dáng giả dối. Cả cơ nghiệp dầu đào tạo mạnh mẽ liệt cường cao trọng cũng như giọt sương trên ngọn cỏ chẳng hề khi nào bền vững được.”

Thánh-ngôn Thầy có dạy rằng:
 “Cơ Trời mầu-nhiệm, đối với đời, mà máy Thiên cơ đối với Đạo, lại càng huyền-vi thậm-trọng hơn nữa, có lẽ tâm phàm dầu cao-kiến đến đâu, cũng chưa đạt thấu được. Những vai tuồng của Chí-Tôn sắp-đặt trên sân khấu Đạo, nếu so-sánh lại cũng chẳng khác chi những bậc nguyên nhơn lãnh phận-sự dìu đời từ xưa đến nay mà thôi.

Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị-lực vô-biên, một tâm-trung quảng-đại, thì mới khỏi bực-tức với những trò đã vì mạng-lịnh Thiêng-liêng phô-diễn ở nơi thâm-hiểm nặng-nề nầy. Nên biết rằng, mỗi việc chi đều có hạn định, có căn-nguyên, dầu các bậc tiền bối cũng vậy. Phải lấy nét đạo-đức mà đoán xét, thì mới hiểu thấu sự mầu-nhiệm vĩ-đại của Chí-Tôn sắp-đặt.

Xưa Hớn-Bái-Công chưa phải là chánh-đáng một vị Minh-Quân, mà cơ Trời vẫn để cho nghiệp Hớn ba trăm năm quyền-bính. Nào tật đố hiền-tài, hữu thỉ vô chung, nghe lời sàm tấu, giết người lao công hạn mã, nếu chẳng phải chí của Trương-Lương thì không thể nào khỏi xung-tâm oán-trách. Võ-Tắc-Thiên hoang-dâm thái-thậm, Tùy-Dương-Đế lỗi Đạo muôn phần, khi Sở Hạng bạo ngược vô biên, Tần-Thủy-Hoàng hôn-quân cực-điểm, nhưng, than ôi! Máy Thiên-cơ buổi nọ nếu phải chìu chuộng một ít vị công-thần bị khép vào vòng những kẻ đã chịu sở bức, thì phải thay-đổi, bôi-xóa sự-nghiệp non-sông của những Chúa tể ngu-muội ấy chăng? Cười...

Đời là Đời, Đạo cũng vậy, chi chi cũng có định phân mực-thước. Những kẻ chí-sĩ lãnh trách-nhậm nghiêng vai gánh vác cả non-sông, đều làm phận sự, công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn với Tòa Thiêng-liêng, hoặc ghi tên tuổi vào thanh-sử thiên-niên, chớ chẳng phải để kể công-trình với Chúa-tể ấy.

Than ôi! cái nư giận thường làm đổ-nát những công sáng tạo đã qua, không biết bao nhiêu vĩ-đại.

Hiền-hữu chỉ biết hành-động của người, mà chưa biết đến Thiên-thơ của Đức Chí-Tôn. Có biết thạnh-suy, mà chưa chịu biết để công-linh đào-tạo thời-thế, đặng dìu-dắt chúng sanh cho kịp buổi.

Bần-Đạo hỏi bốn Hiền-hữu có ai đã mang sao đội nguyệt, ăn mật nằm gai, chịu muôn sự khổ-hạnh cõi đời để tạo hạnh-phúc cho nhơn-sanh chưa?
 (T... Đ... bạch......)

Cười... Đối với bực Hiền xưa, chưa đặng muôn một nếu Chí-Tôn không lập sớm Đại-Đạo, chờ đôi ba chục năm nữa, e khi các bậc nguyên-nhơn đang vị hiện-thời, đều phải chịu luân-hồi không biết mấy kiếp” Thái Thượng Đạo-Tổ: 16-7 giáp-Tuất (1934)

Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
Cả con cái Đức Chí-Tôn, Thiên-phong, Chư Viên quan quyền Đạo và Đời, các em Nam, Nữ.

Mấy em đã đặng ân Thiêng-liêng ban thưởng do lòng đạo-đức của mấy em, nên mấy em được hưởng sự vinh dự hôm nay là lập một sự nghiệp hữu hình cho thiên hạ.

Qua nhớ lại khi Đức Chí-Tôn vừa đến tức nhiên năm 1925 khi đó trong các Môn Đệ của Ngài, Qua chẳng biết mỗi người đã lãnh sứ mạng đặc biệt riêng nhau làm sao! Đức Chí Tôn đến với họ một cách riêng biệt thế nào Qua không hiểu. Chỉ Qua biết phận sự của Qua là Đại Từ Phụ giao phó với một lời yếu thiết như thế này:
- Tắc, Đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu: có khổ về tinh thần mới biến sanh ra khổ của thể xác.

Thầy nói rõ Thầy giao cho một gánh Đạo và Đời. Thật sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần-Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời Ngài giao phó nó nặng nề hơn hết.

Mấy em Nam, Nữ nghĩ coi; một lời tiên tri trước kia nó hiện tượng hôm nay ra thể nào, mấy em biết cái quyền linh vô biên của Đấng cầm quyền thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế nào? Bởi cớ cho nên khi Đạo mới phôi thai thì các quỷ quyền toan diệt Đạo. Buổi sơ sanh Đạo yếu ớt, bạc nhược, ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ đặng Đạo. Hồ đồ mưu chia rẻ làm cho trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn phải ly tán, Anh nghịch Em, Em bất hòa với Anh, cả nền Đạo chinh-nghiêng đảo ngược.

Gánh một chức vụ Hộ-Pháp cầm cả Luật Pháp của Đạo, không lẽ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí-Tôn. Qua phải tìm phương giải quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặng làm căn bản. Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra Phạm-Môn và Qui-thiện.

Thiên hạ nói Qua lấy Tộc Qua là Phạm, tức nhiên lập cái đảng-phái cho họ Phạm.
Qua hỏi: Thiên hạ đã tuyên-truyền dối trá ấy đặng đánh đổ cả uy-tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai hết, dầu cho quyền hành buổi nọ rất mạnh-mẽ đòi phen đem đến Luật hình, mà chính mình Qua cũng chưa nói cho họ biết nghĩa lý Phạm-Môn là gì?

Hôm nay mấy em biết chưa?

Có lẽ phần nhiều mấy em đã biết, Phạm ấy là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, nói rõ hơn nữa là cửa Tu Chơn của Đạo, cửa Bảo-thủ Chơn Pháp của Chí-Tôn. Còn Qui Thiện thế nào Qua chưa nói ra cho thiệt tướng.

Thiên hạ đều hung bạo, vì lẽ hung bạo làm cho anh nghịch em, em hận anh, trong cửa Đạo không có một vẻ chi là Đạo hết. Lập trường Qui-thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo.

Buổi đầu tiên nó sản xuất tại nơi Mỹ-Tho, Qua lập "Khổ Hiền Trang" mấy em biết hai chữ Khổ Hiền ý định Qua thế nào không? Trong bảy mươi hai anh em chung sức cùng nhau mà làm đầu trường Qui Thiện ấy là Đinh Công Trứ vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối trọng của Chơn Pháp Đức Chí Tôn Qua giao lại cho nó, để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh-Công-Trứ là vậy.
Tưởng cũng như Qua đã bị các nạn-nhân của các lực lượng quyền Đạo luôn quyền Đời.

Buổi nọ thiên hạ tuyên-truyền dối trá thì Đinh-Công-Trứ cũng bị nạn ấy. Qua đã bị thiên hạ chê là lo Đời hơn lo Đạo, thì Đinh-công-Trứ cũng vậy, thiên hạ nói nó cũng như Qua lo Đời hơn lo Đạo.

Mấy em ôi! Trong buổi phong ba bão táp, nhơn loại ở trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bác-Nhã chưa tạo thành đặng độ-rỗi họ, ít nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Thiên hạ thấy mấy em khổ-não, cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao nhiêu giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo.

Tân-Dân-Thị chính của mấy em tìm phương chui đụt, tìm phương giải khổ cho mấy em. Mấy em được hạnh phúc hay chăng là do lòng đạo đức của mấy em. Qua còn sống đây thì Qua cũng lo tạo dựng mảy may hạnh phúc cho mấy em. Tạo hạnh phúc ấy chỉ có một đường lối duy nhứt là Qua làm sao cho mấy em giải khổ, phận sự Thiêng Liêng của Qua là vậy.

Trong Bí-pháp Qua viết chữ Hòa, nơi Tân-Dân-Thị nhờ chữ Hòa mà thêm lòng yêu ái. Qua gởi hai chữ Hòa-Ái nơi lòng của mấy em đó vậy. Qua cầu xin mấy em có một điều là chung sức cùng nhau đặng tạo hạnh phúc cho nhau mấy em đã có sẵn tình đức của Đức Chí Tôn đã đến trong ba chục năm nay thôi, chỉ trong ba chục năm hưởng được đặc ân của Đại-Từ-Phụ đã đến tạo cả tâm hồn mấy em. Tình đức trong Đạo ấy, mấy em tu thân dễ quá chừng quá đỗi. Tu thân mấy em là làm nền móng vững chắc đặng lập công danh, đừng ngó ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có thật đâu mấy em. Đứng trong cửa Đạo nương tình đức lập thân danh. Qua dám nói chắc cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ để ý, do căn bản tình đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu Qua không nói mấy em ngồi trên đầu thiên hạ.”

Với tinh-thần ấy, với tình đức ấy, hỏi vậy các bậc tiền bối, nhất là Đức Hộ-Pháp, đã phơi gan trải mật lo cho nền Đạo như thế này là do động-lực nào đã thôi-thúc mà phải chịu đắng cay dường ấy? Phải chăng từ trong trái tim yêu-ái, trái tim yêu-thương xuất phát từ trong bổn nguyên của đức tánh TRUNG HIẾU NGHĨA mà ra? Thử tìm hiểu xem nguồn phát xuất ấy.

3 - ĐỨC TÁNH TRUNG HIẾU NGHĨA.

Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền-Thánh
Thời Tý mồng 6 tháng 7 năm Mậu-Tý (dl. 10-08-1948)

“Đêm nay, Bần-Đạo giảng ba chữ TRUNG HIẾU NGHĨA, bởi vì Trung, Hiếu, Nghĩa là biểu hiện một chơn tánh của linh hồn cao trọng.
Nhà Nho nói: Tánh tự tâm sanh .

Đó là lý thuyết của Đạo Nho, chỉ biết có một điều là ta quan sát có thể thấy hiện tượng mà tả trạng hình được, vì Đạo Nho chưa phải là một Tôn Giáo huyền bí.

Còn Đức Chí-Tôn đến dạy ta biết rằng tánh là chơn tướng của chơn thần, còn tâm là chơn tướng của chơn linh. Chí-Tôn dạy: Tánh của mỗi chúng ta là hình thể thứ nhì của ta. Hình thể thứ nhứt là Tâm tức là chơn linh, thứ nhì là tánh tức là chơn-thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy. Chí-Tôn hỏi: Tại sao từ trước đến giờ theo triết lý Đạo Nho lấy nghĩa "Tánh tự tâm sanh" mà tả ra?

- Bởi vì nó có liên quan mật thiết cùng nhau. Trong tâm mình như thế nào xuất tánh ra y như vậy. Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên, còn Chí-Tôn chỉ rõ cho biết: Chơn thần cũng tấn bộ như chơn linh. Mỗi cá nhân đều có hai năng lực ấy có đủ quyền năng đào tạo ra hình hài xác thịt của ta. Một chơn linh cao trọng tự nhiên có một chơn-thần cao trọng, bởi cả hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng tấn triển trong con đường Thánh-đức của Chí-Tôn. Cả hai có liên-quan mật thiết, nên hễ chừng nào đạt pháp đặng có đủ quyền năng định vận mạng, nghĩa là nó đã tấn tới đúng mức rồi, dầu quyền của Ngọc-Hư-Cung cũng không còn lãnh hội nó nữa.

Quyền tự chủ đã đạt đặng như các cơ quan hiển vi tấn triển tới mục-đích, tới giới định hiển nhiên ta thấy nơi mặt thế đây vậy. Trong Đạo-giáo của Đức Chí Tôn trích ra một hạng Tiên, không còn chịu quyền của Ngọc-Hư-Cung định luật. Họ tự làm chủ họ, tự dùng quyền-năng đặng đào tạo xác thân của họ, tạo y khuôn khổ họ đã muốn.

Họ tự vi chủ mà tạo hình thể ấy, bằng chẳng vậy thì con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi kéo ràng buộc, phản lại họ, làm cho họ phải đọa lạc. Còn như con thú nầy không còn quyền lôi kéo họ được thì họ mới đủ quyền-năng vi chủ nó mà dục tấn trên con đường tận thiện tận mỹ, toàn tri toàn năng mà họ đã định đạt đến cùng tận sở-hướng.

Chơn thần là đệ nhị xác thân tạo hình bằng ngươn khí của bảy từng thiên. Bỏ Tạo-Hóa-Thiên là từng thứ chín, linh hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết định đến thế gian nầy làm việc gì, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm 7 phách, Đạo Giáo nói là 7 cái thi hài hữu tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây.

Bảy từng có liên quan lạ lùng với thất tình, từng thứ 7, 6, 5 là ba tình: Ái, Hỉ, Lạc; từng thứ tư là Dục; từng thứ ba là Ái; từng thứ nhì là Ố; từng thứ nhứt là Nộ. Tới từng chót nầy thì xác thịt là hiện tượng của Nộ giác.

Ấy vậy, Bần Đạo chỉ rõ rằng ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở tình ái, phát hiện đó là cái tình độc nhứt có liên quan mật thiết với chơn linh. Ta thấy con nít sơ sanh, thi hài chưa biết vi chủ, nó chỉ sống với chơn linh mà thôi.

Khởi đoan nó chỉ biết thương mến những kẻ gần-gũi như cha mẹ; còn Chơn-thần để gìn giữ nó, cho nó biết tìm cái sống, bảo tồn sanh mạng. Thật ra theo Đạo Pháp, con nít từ 12 tuổi mới bị chịu ảnh hưởng của xác thịt, còn dưới 12 tuổi xác thịt chưa có quyền.

Ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa thuộc quyền năng của ái tình mà ra nên gần-gũi với chơn linh lắm, đến đỗi ta thấy hình trạng nó như kẻ sơ sinh kia vậy.

Bần-Đạo vừa nói Trung, Hiếu, Nghĩa do nơi tình ái xuất hiện ra tướng diện, nên nó gần Thánh, một khi giải thể rồi lên từng thứ 7 là chắc-chắn được giải thoát, đạt vị, bởi nó gần với Thánh.

Tại sao Trung? Tại tình ái cao thượng dồi dào đối với quốc dân nòi giống lên đến nhiệt độ, nó quá vĩ đại. Nếu ta thấy một vị công thần liều mạng sống đặng bảo vệ cho quốc dân, trung ấy chưa phải là trung với vua, mà trung với nước chớ! Có điều vua là tượng trưng cho nước, nên trung với vua tức là trung với nước. Mà có trung đặng là vì quyền năng ái chủng, ái quốc nuôi trong tinh thần nhiệt liệt, nên tình ái ấy vi chủ tinh thần, cho nên ta thấy có kẻ vì trung dám hy sinh tánh mạng được là vì vậy.

Tới Hiếu. Tại sao có Hiếu? Bởi các chơn hồn sáng suốt cao siêu đã có sẵn hai điều hiếu:
- Hiếu với Đấng Tạo-đoan của chơn-linh.
- Hiếu với Đấng Tạo-đoan của chơn thần.

Bởi có hiếu trước với hai Đấng ấy, biết trọng hai quyền năng tạo hóa Chơn linh và Chơn-thần thì tự nhiên phải biết nhìn Đấng tạohóa hình hài của mình đồng thể chớ. Tâm hiếu tự nhiên mà xuất hiện vì nó có sẵn, mà hễ có sẵn tâm hiếu tức nhiên phải là chơn-linh cao trọng thấu-đáo được nguyên do đâu mình đến và là con của ai?

Đã hiểu rằng mình có hiếu với Đấng tạo sanh Chơn linh và Chơn thần như thế nào rồi, thì đến hiếu với Đấng tạo sanh hình hài đã sẵn có rồi vậy. Nên, hiếu không thể dạy được: hoặc có hiếu, hoặc không có hiếu mà thôi.

Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao ta có Nghĩa? Tại sao Nghĩa lại hiện tướng trên tánh đức của một chơn linh cao trọng?

Nơi cõi Hư-linh mỗi người có một gia-tộc, một đại-nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu. Bần Đạo xin nhắc lại câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng: Chẳng phải vì sự tình cờ mà chúng ta được chung đứng trong lòng của Đức Chí Tôn ngày nay đây.

Biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bác-Nhã chở các Nguyên-nhân hạ trần đặng làm bạn và độ rỗi các Hóa-nhân và Quỉ-nhân, lại không có chúng ta ngồi chung trong đó. Đã từng chia đau sớt khổ cùng nhau chẳng những trong thế giới nầy mà trong các thế giới khác nữa. Đã từng chung sống cùng nhau, cái thâm tình vĩ đại đã nhiều. Nếu cả thảy không nhớ lời nầy của Bần-Đạo, đến khi linh hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận biết bao nhiêu mà chừng ấy đừng trách Bần-Đạo không chỉ trước. Không thương yêu nhau cho trọn nghĩa là lỗi tại mấy người đa! Chớ không phải tại Bần-Đạo không nói.

Ban sơ, nơi cõi Hư linh, thọ nhứt điểm linh đến thế nầy tạo ngôi vị, làm bạn với biết bao nhiêu chơn-linh khác, dầu nguyên do của mình là thảo mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa ta có nhiều ở mặt thế nầy, lo tìm người nghĩa đặng tương liên cấu hiệp tâm tình trong cảnh khổ não, truân chuyên chịu hình thử thách nầy.

Tìm mà vẫn lo ngại sợ lầm, bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rủi ở bất nghĩa cùng nhau, về cõi thiêng liêng sẽ hổ-thẹn hối hận muôn phần. Đối với nhơn loại ta đã sẵn có cái đại nghĩa đó, đi tìm nghĩa tức là đi tìm bạn, dầu nơi cõi hư linh hay tại thế, đại nghĩa vẫn còn lưu lại, ta không từ chối được, cho nên hễ đi tìm nghĩa thì không còn phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta tìm nghĩa ở đâu? Trước nhứt tìm thân tộc anh em sau mới ra toàn thiên hạ được.

Bần Đạo kết luận: Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh chất của một vì Thánh, vì cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền thì duy lựa trong ba tánh đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết đoán chắc hẳn là chơn linh cao trọng, chớ không phải người hèn hạ phàm phu, trái lại, kẻ nào phi ân, bạc nghĩa, bất hiếu, bất trung, là chơn linh hạ tiện đi lần đến hoàn cảnh thú hình và thú tính mà chớ”.

Đấy là cái bổn nguyên, cái vốn của Tâm hồn dân tộc VIỆT-NAM là vậy.

Còn tâm-lý chung của nhân sanh thì sao? Hồn thiêng sông núi cũng như cái dòng máu hào-hùng của dân tộc để lại trong tâm hồn Việt-Nam trong thời buổi này như thế nào? Tâm hồn dân tộc vẫn được lưu-truyền cái nòi anh-phong đó “Anh-hùng tử nhưng khí hùng nào tử”!
Có như vậy mới giữ bền cái Quốc-Đạo Nam-phong này chứ!

CHƯƠNG III

QUỐC-ĐẠO NAM-PHONG

1 - HUỜN THUỐC THỜ NGƯỜI VÀ THỜ TRỜI
Chúng ta thấy trường hỗn-độn, một nền văn-minh gồm có tinh-thần duy vật mạnh mẽ mà chớ, cái chánh-sách của loài người chạy theo duy-vật đương nhiên thì mặt địa-cầu này chưa hòa-bình vì họ chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần chí-thành.

Thử nhìn lại Việt-Nam có gì để trình-diện với thế-giới buổi này không?
- Dân-tộc này có quyền tự-hào về nòi-giống, về đất nước của mình như Đức Chí-Tôn đã hứa: Một về nòi giống, một về xã-hội, một về tư-tưởng.

Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền-Thánh, ngày 1 tháng 4 năm Mậu Tý (1948):
 “Bữa nay Bần-Đạo giảng một vấn-đề trọng yếu nhưng chẳng giảng một bữa mà đủ, nên cần phải tiếp tục nhiều lần Bần-Đạo mới giảng dứt. Sau một buổi lễ cúng rồi, thì giờ lên giảng-đài rất ít, Bần-Đạo phải thúc nhặt lại là vì mỗi lần hành lễ rồi cả thảy đều mệt. Bần-Đạo sẽ liệu phương sắp đặt lại là giảng trước giờ hành lễ.

Theo trong bài thi của Đức Chí-Tôn gởi cho Hoàng-Đế Bảo-Đại có hai câu yếu-trọng cho nền Thánh-giáo Chí-Tôn hơn hết là hai câu nầy:
“Quốc-Đạo kim triêu thành Đại-Đạo
“Nam-phong thử nhựt biến Nhơn phong”

Hai câu nầy chúng ta hiểu rằng Đức Chí-Tôn muốn nói với Ngài Bảo-Đại nền Quốc-Đạo của Người, ngày nay đã thành Đại-Đạo. Trong chữ Đại-Đạo bao trùm cả đức tin loài người.
Câu thứ nhì "Nam-phong thử nhựt biến Nhơn-phong"

Chữ phong không phải là gió, nó có nghĩa-lý lắm! Phong đây là phong-tục, Chí-Tôn muốn nói phong-tục nước nhà của Người sẽ làm nền phong-hóa của loài người. Hai câu ấy chúng ta nên đoán xét, suy-gẫm coi Đức Chí-Tôn vì thương mà quá lời chăng?

Thảng như Tôn-giáo nào kích-bác họ sẽ nói Chí-Tôn tự-tôn, tự-trọng hay là họ có đức-tin hơn nữa họ có thể họ bàn luận rằng: Chí-Tôn vì quá thương mà nói vậy! Chúng ta thử coi nền Quốc-Đạo của chúng ta sẽ trở nên nền Tôn-giáo của toàn cầu chăng? Và phong-hóa chúng ta có thể thay thế cho cả nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy chăng?

Chúng ta nên quan-sát, suy-gẫm rồi tưởng-tượng coi có thể đặng vậy không?
- Có thể được và Bần-Đạo tin quả-quyết rằng nó phải như vậy đó!

Tội nghiệp thay! Một sắc dân đã từng bị nước Trung-Hoa khắc phục, tuy chịu trong hoàng-đồ, chúng ta có một lịch-sử trong 4.000 năm tranh-đấu, vẫn tự-do, độc-lập không chịu tùng mạng lịnh của Trung-Hoa. Nước chúng ta như cái vải áo, còn Trung Hoa như cái áo, chúng ta không có lý lẽ gì từ chối tinh thần một sắc dân anh-dũng ấy, nó phải nương cái năng lực nơi chỗ nào?

Ấy là nương tinh thần Đạo-giáo nước nhà của nó, chúng ta phải chịu ảnh hưởng trọng hệ hơn hết của hai nền Tôn-giáo Trung-Hoa thọ giáo Ấn-Độ dạy chúng ta tu cho được chí thiện, chí nhơn. Phật-giáo bên Ấn-Độ dạy chúng ta tự tu đặng đạt đại-từ đại-bi. Hai cái khối tinh thần hiệp nhau lại làm một nền Tôn-giáo, để được bảo trọng tinh thần quốc-túy của mình.

Chí-Tôn đã nói cùng người Pháp: Từ thử một sắc dân ấy chỉ biết nô lệ chưa biết vi chủ, vì vậy mà Ta đến bồi thường sự bất công ấy, Đạo-giáo đã dạy chúng ta chí thiện chí nhơn, đại từ đại bi, tinh thần đó vậy. Hỏi vậy ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng?

Tôi dám chắc giọt Cam-Lồ ấy, tinh thần loài người đã khao-khát, để bảo-tồn sanh mạng, bằng chẳng vậy thì nhơn-loại phải tự diệt mà chớ!

Tại sao tự diệt? Chúng ta thấy trường hỗn-độn, một nền văn-minh gồm có tinh thần duy vật mạnh mẽ mà chớ, cái chánh-sách của loài người chạy theo duy vật đương nhiên thì mặt địa cầu này chưa hòa-bình vì họ chỉ biết tranh sống với duy vật, chớ chưa sống với tinh thần chí thành. Cái quyền-năng của Đạo-giáo Gia-Tô mạnh mẽ dường nào mà ngày nay phải thoái bộ trước năng lực của toàn cầu, còn Đạo giáo mà đến thay thế đặng cái năng lực ấy, rồi đây cũng chưa chắc quyết thắng tấn tuồng tương lai, mà vật chất sẽ dẫn đến con đường tử lộ không phương cứu chữa, duy có Đức Chí-Tôn đến cứu loài người mà thôi.

May thay! Trong nòi giống Tổ-phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm món thuốc cứu cả tinh thần nhơn-loại trong hoàn-cầu này và trong tủ thuốc thiêng-liêng đó để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương cứu khổ chẳng khi nào sai chạy. Nhưng vì chẳng đủ năng lực để cứu thế, đem hoàn thuốc hằng sống ấy bảo tồn sanh mạng loài người.”
 (Tại Đền Thánh, đêm mồng 5 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)

“Bần-Đạo để đại khái đề-mục cho toàn cả tiềm tàng thử coi nền Tôn-giáo của chúng ta sẽ biến tướng ra thành Đại-Đạo là chỗ nào?

Nó đã đem cái gì cho nhơn-loại về mặt tinh-thần đạo-đức mà biến ra Đại-đồng?
Chúng ta đã ngó thấy nguyên-do Đạo-giáo, bao giờ loài người cũng phải chung họp lại với nhau, nào xã hội, nào là gia đình, dầu trong buổi ăn lông ở lỗ loài người chẳng hề qua mặt luật thiêng-liêng đó đặng. Buổi ấy, tất cả có bí-pháp, hội họp gia đình.

Đức Chí-Tôn duy có một mình, Ngài phân ra mới có Phật-Mẫu.
Ngài phân ra đệ nhị quyền hiệp lại đệ nhứt quyền, đủ quyền-năng tạo ra Càn-khôn Vũ-trụ để lập gia đình cho loài người đó vậy. Nhờ Chí-Tôn phân tánh là bí-pháp lập thành xã-hội đó. Chúng ta đã hằng tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được, giải rõ là trống mái, đực cái hay nam nữ vậy, nó tương liên trước mặt chúng ta hoặc một cách âm thầm bí mật. Vậy loài người bao giờ cũng có xã hội nhơn quần, gia đình, vì mặt luật buộc như vậy, lời chúng ta thường nói: "Chưa ai ở đất nẻ mà chun lên"!

Mỗi cá-nhân đều có nguyên-do căn bản.
Hại thay! Xã hội bình-quyền tức nhiên mặt địa-cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền năng tinh thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mầu-nhiệm của tạo đoan.

Đời có triết-lý, khoa-học làm cho đảo lộn tinh thần, họ làm rồi họ tự kiêu là làm chủ cả cơ quan bí mật của loài người, tự khoe mình là Trời; tự kiêu, tự đắc, tự tôn, tự đại. Chúng ta đã thấy họ từ chối mọi lẽ thiên nhiên. Ngày giờ nhân loại xu hướng theo phương pháp vật hình, quyền năng khoa học, lý thuyết quái gỡ dị đoan ấy, làm cho tinh thần loài người ngu xuẩn, cho rằng không Trời, không Đất, tức nhiên không Đạo, không người, không xã hội, không gia đình; sống như con vật chung hiệp với nhau đồng sống vậy thôi. Sống không quyền lực tinh thần vi chủ, không thể nào nhơn loại tự bảo tồn cho dân chúng đặng mà tránh khỏi nạn tiêu diệt, họ coi mạng sống của loài người là một vật dụng, để hưởng hạnh phúc sung sướng, lường gạt, buộc tinh thần loài người làm nô lệ cho vật hình, chúng ta thấy tấn tuồng nguy ngập, xô đẩy loài người đi đến diệt vong.

Tổ-phụ chúng ta sống từ thượng cổ đến nay 3.000 năm, một vị chí Thánh để lưu lại cho đời mực thước niêm luật xã hội, nhơn quần. Ngài định phải có gia đình, có tông tổ, có xã hội, Ngài lập pháp trọn trong điều ấy, từ thường dân chí Vương Đế, không ai ra khỏi mặt luật.

Tổ phụ chúng ta chịu Đạo-giáo để lại sự thờ phượng tông tổ gia đình chúng ta, tức nhiên thờ kẻ quá vãng, ta coi người chết như sống, chúng ta tôn sùng mạng sống của con cái Người, vì loài người là Thiên hạ mà Thiên hạ là Trời.

Chúng ta biết nhìn nhận Trời trên mặt địa cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời, tức nhiên thờ loài người đó vậy. Đạo giáo chúng ta để lại 2.000 năm, vậy điều trọng hệ là thờ Trời và thờ Người. Buổi hỗn-độn nầy, nhơn loại vì khoa học mà đi đến một đường tử lộ. Chúng ta cần đến Đạo giáo phô trương trên mặt địa cầu nầy cho nhơn loại họ biết tự tỉnh để trụ cả tánh loài người lại, hưởng hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.

Bần Đạo giảng lần trước, tiếp kỳ nầy kết-luận là huờn thuốc thờ Trời và thờ Người, thảng vạn loại phản-phúc mà còn chối nữa thì chịu tận diệt mà thôi”.

2 - Chúng ta quan sát coi nền Quốc Đạo của chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn giáo cho hoàn cầu?
(Tại Đền Thánh, ngày 14 tháng 4 năm Mậu Tý (1948)

“Đương nhiên bây giờ, cái tinh thần của loài người chỉ xu hướng theo trí thức đương nhiên của họ. Họ có thể được cái hành-vi bí mật thiêng-liêng mà lập nên cơ giới phi thường ở mặt địa cầu nầy. Nhưng cái cơ giới ấy do nơi hóa-công sản xuất ra tâm não của kẻ trí thức thông minh đặng bảo vệ sanh mạng của loài người và lập hạnh phúc cho loài người.

Trái ngược lại, những hạng trí thức thông minh ở trong thời đại nầy đều nảy sanh do một tâm lý khoa học mà thành hình, rồi tâm lý khoa học ấy trở lại tàn sát sanh mạng của loài người, đó là đến những cảnh bạo ngược. Hơn nữa, trước mắt chúng ta đã ngó thấy hai trận giặc trên hoàn cầu đã giết hại nhau, nên hiện giờ trên mặt địa cầu đã tự giết chết bao nhiêu mà kể.

Cái trí thức tinh thần ấy có làm gì cho đồng bào và thời đại nầy đặng hạnh phúc chăng? Trái lại, nó đem cho đời một tấn tuồng thống khổ trước mắt cả thảy. Bần-Đạo chỉ nhắc lại cho con cái của Đức Chí-Tôn thấy rõ: Nhơn loại hiện nay đã xu hướng theo hạng trí thức tinh thần khoa học thì có kể đâu là thương chủng tộc, nên ngày nay đã gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm đạm, nhơn loại hết yêu ái nhau; mà trái lại người với người họ đối nhau còn quá hơn thú dữ, người với người mà họ chưa biết tôn trọng mạng sống với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau đặng tìm hạnh phúc.

Mặt địa cầu nầy, sanh ra các đảng phái nào thì chỉ biết tương tàn tương sát với nhau mà thôi, họ không kể gì là sanh mạng của con người ra thế nào cả. Họ không biết tôn trọng mạng sanh của loài người, họ chỉ biết lấy xương cốt của loài người mà lập đài danh dự của họ thôi. Cái mục đích bạo tàn của họ chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, cái thảm khổ của đời mà chưa hề có ai thấu rõ tâm lý khổ não của đời, đem lòng thương hại đến nhơn sanh.

Từ Phật giáo ra đời đến bây giờ, tinh thần của loài người mới biết thương hại cho nhau, một nơi nào có một tâm hồn ưu ái thì các Tôn giáo đương nhiên trước kia là một huờn thuốc để cứu chữa cái bịnh thảm khổ của loài người nơi mặt địa cầu nầy. Nhưng nay huờn thuốc cứu chữa ấy để tại mặt thế nầy nó không thể trị đặng một bịnh tinh thần mà khoa học đương nhiên của họ đã sản xuất trên mặt địa cầu nầy. Thử hỏi chúng ta có đem gì hạnh phúc cho họ không? Chúng ta chỉ biết đem hai chữ Nhơn-Nghĩa mà lập nền hạnh phúc cho họ thôi.

Tuy vậy, nòi giống của chúng ta là một sắc dân chiến đấu, một sắc dân oanh liệt, từ xưa tổ phụ ta biết hiền lành, biết kỉnh trọng, biết thương yêu, kỉnh trọng mạng sống của loài người lắm. Cái tánh thông thái, cái tánh thông minh của Tổ-phụ của chúng ta sản xuất trong một nguồn cội từ lành, không điều gì đem đến trước mắt Tổ-phụ của chúng ta mà Tổ-phụ chúng ta tìm tòi không đặng.

Nước Việt-Nam ở trong khoản đất phì nhiêu nên Tổ-phụ chúng ta biết trọng sanh mạng con cái của Trời, biết nhận nhơn loại là anh em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nhìn câu: "Tứ hải giai huynh đệ"; Tổ-phụ ta biết thương yêu nhơn loại, bất kỳ là một sắc dân nào, một nòi giống nào có trí thức cao minh làm cho loài người đặng hạnh phúc thì Tổ-phụ ta kỉnh trọng tôn thờ vậy.

Một nền Tôn-giáo nào đến nước Việt-Nam ta truyền bá thì Tổ-phụ ta kỉnh trọng tôn sùng ngay. Nên mối Đạo nào vào nước Việt-Nam ta đều được kết quả mỹ mãn. Lòng mộ Đạo của Tổ-phụ ta trước kia lấy lương thiện làm căn bản, lấy Nhơn-nghĩa làm môi giới, cái sự tôn nghiêm của Tổ-phụ ta từ thử hiển nhiên chúng ta đã ngó thấy.

Trong nước hiện giờ thì có các Đạo-giáo thanh liêm chánh trực đang làm cha mẹ cho dân, cái tinh thần tạo hạnh phúc cho dân, một trang anh dũng biết bảo trọng nền quốc túy, nâng đỡ nước nhà, biết tôn sùng Nhơn-nghĩa, chúng ta đã ngó thấy. Các Đạo-giáo của chúng ta đem cái Nhơn-nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm lý của loài người là có thể trị đặng cái tinh thần bạo ngược của họ.

Nhơn-loại vì quá ỷ tài sức nương theo cái tinh thần khoa học mà làm mất cái tinh thần căn bản nhơn-luân nên nay ta đem cái đạo nhơn nghĩa mà thức tỉnh loài người, đặng cho họ nhìn với nhau vì danh Nhơn-nghĩa hầu thương yêu nhau, dắt nhau đi đến Chủ-nghĩa Đại-đồng.

Cái nền Nhơn-nghĩa của chúng ta, nó có thể làm môi giới cho các chủng tộc trên thế giới, đạo nhơn nghĩa của chúng ta là một căn bản của quốc thể của nước Việt Nam và có thể thành Quốc-Đạo được.”

3 - Nho tông để chuyển thế
 (Tại Đền Thánh, thời Tý mồng 5 tháng 5 Mậu Tý (dl. 11-06-1948)

“Hôm nay Bần Đạo giảng tiếp câu Thánh-ngôn của Đức Chí-Tôn "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong".

Bữa trước Bần-Đạo đã giải rõ đại công của nền nhơn-luân phong-hóa của ta.
Nay ta sưu tầm căn nguyên của Nam-phong coi do đâu mà sản xuất. Bần Đạo đã giảng là cốt yếu muốn thực hành phong hóa nhà Nam, phải do nơi Nho-tông mà làm căn bản.

Thời kỳ nầy Chí-Tôn đến, lấy Nho tông để chuyển thế và thi thố cho cả toàn cầu vạn quốc một triết lý tối tân, đặng chỉnh đốn sửa đương những tệ tục tồi phong của nhơn loại mà đem vào Thánh chất của con người. Đức Chí Tôn đã tìm định đến đặng sửa đương. Vậy ta nên tìm hiểu Nho-Tông là thể nào? Đã cho ta vật gì? Có đủ phương tiện mà chuyển thế đặng chăng?

Trước hết ta phải biết trong tay ta có khí-cụ gì rồi mới có đủ can đảm xông pha ra chiến trường quyết thắng, tìm xem coi nhơn loại đang thiếu thốn điều gì và xem coi nhơn loại đang tìm kiếm vật gì, mà vật ấy chúng ta có hay không?

Nói đến Nho-Tông, thì chẳng còn gì phải biện thuyết nữa, vì đã có chẳng biết bao nhiêu là Hiền-môn, Thánh-tích để lại từ thử. Kể từ ngày Đức Khổng-Phu-Tử giáng thế đã hai ngàn năm trăm năm, nếu ta suy xét cao xa hơn nữa thì ta thấy Đạo Nho phát sanh từ vua Phục-Hi là tối cổ hơn hết. Ta không thể tìm đâu xa hơn nữa, duy biết rằng Đức Khổng-Phu-Tử học Nho của ông Châu Công, đặng chỉnh đốn lại Đạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy vậy.

Đạo Nho đã làm được những gì?
Ta thấy Đạo Nho của chúng ta có Hội-Thánh mà Hội Thánh ấy bí ẩn khéo léo lạ lùng duy có một người có thể kiến thiết quốc-phong của một nước mà thôi, chớ không đủ năng lực chuyển cả tâm lý toàn cầu được. Vì sự khuyết điểm ấy, Đức Chí-Tôn mới đến lập Hội-Thánh, đền thờ của Ngài kêu là Cao Đài, danh từ đó chỉ rõ đền thờ cao trọng của Ngài tại thế nầy, tiếng Pháp gọi là Haute Église nghĩa là đức tin cao trọng.

Hỏi Hội Thánh của Đạo Khổng lập quốc thế nào?
Ta thấy Hội Thánh của Đạo Khổng trong gia đình làm gia pháp biến sanh ra phong hóa gia nghiêm đó vậy. Người chưởng quản gia đình tức là giáo sư, Hội Thánh của Đạo Khổng tức là ông cha, nên thiên hạ thường kêu là chủ gia.

Trong hương đảng có Hội Thánh của hương đảng, theo cổ tục thì ông Hương Chủ là chủ của Hội Thánh hương đảng, còn chức Hương Cả và Đại Hương Cả là người ta mới bày ra sau đây mà thôi. Trong hương lân ngày xưa, chức Hương Chủ là lớn hơn hết vậy. Khởi đầu trong gia đình, rồi mới tới hương lân, rồi mới ra đến quốc gia, người chủ của quốc gia ấy là nhà Vua.
- Ông cha ta trong gia đình,
- Ông Hương Chủ trong hương thôn,
- Ông Vua trong nước.

Cả ba người ấy giữ ba giềng mối đạo, phụng thờ ba Tôn giáo. Tổng số ba Tôn giáo ấy lại là Nho tông.

Ông cha trong nhà thì thờ Tiên Tằng Tổ Khảo của Tông-môn, ông là giáo sư, là thầy cả trong gia đình.

Ông Hương Chủ thì thờ Chư Thần tức là cả Công Thần vì nước mà hy sanh tánh mạng, được nhà Vua ân tứ làm chủ hương lân, nên trong làng ta chỉ thấy có đình thờ Thần thiên thu phụng tự mà thôi, nên ông Hương Chủ là thầy Cả của làng.

Nhà Vua thì thờ Đức Chí-Tôn tức là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Ta thấy sự tế tự Đấng Chí-Tôn ấy lưu truyền từ đời thượng cổ, nên hằng niên mới có tế Nam Giao, đó là tế Đức Chí-Tôn vậy.

Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong hóa nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng-tự, nếu đoán chắc là nhờ âm chất của Tổ-tiên ta biết phụng thờ Đức Chí-Tôn, cái thâm tình ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay Ngài mới đến đặng đền bồi ân nghĩa ấy lại có lẽ. Thế thì Ngài đến vì Tổ tiên ta đã gieo mối thâm tình nồng hậu, chớ chẳng phải vì sự tình cờ mà Ngài đến nước Việt-Nam nầy đâu. Trong phong hóa của ta gồm có: Phong-hóa của nhà, phong-hóa của làng, phong-hóa của nước, tức là phong-hóa chung của xã hội nhơn quần Việt-Nam ta đó.

Bây giờ chúng ta khảo cứu coi Nho-tông đối với xã hội là gì?

Tức nhiên ta thấy là luật pháp, tuy rằng 86 năm nay bị ảnh hưởng của văn minh Âu-Châu, chúng ta lãng quên nền phong hóa tốt đẹp của ta mặc dầu, nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.

Chí-Tôn đã đến, Đạo Nho có Thất thập nhị Hiền và Tam thiên đồ đệ.
Chí-Tôn lập Hội-Thánh có Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền và Tam thiên đồ đệ. Rõ-ràng là Hội-Thánh của Đạo Nho đó. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài áp dụng nền chánh trị của nhà Châu đặng lập chánh-trị của Đạo, làm cho cả cơ quan yếu thiết của Đạo Cao-Đài ra thiệt tướng, đặng đủ năng lực chuyển thế, ta không có gì mà nghi ngờ nữa cả.

Gia nghiêm của ta lập thành do phong-hóa của Tổ-phụ để lại có những gì? Căn bản gia nghiêm hay gia pháp do nhơn luân chi Đạo, nên lấy nhơn luân làm chuẩn đích, mà nói về nhơn luân thì mỗi người đều biết. Khởi đoan là hôn phối, việc vợ chồng đối với nhau để trọn quyền của ông chủ gia định liệu là người chồng, sau quyền chủ gia ấy lại có quyền nội trợ để cho người vợ, hai quyền ấy vô đối.

Ta thấy lối 100 năm trước đây, quyền của cha bảo con chết cũng phải chết, không phải bất hiếu như ngày hôm nay của những kẻ học đòi theo lượn sóng tự do văn-minh vật chất, rồi còn trở lại muốn làm chủ cha mẹ.

Không! Nho-pháp không cho có quyền lực ấy bao giờ. Nho pháp không chịu cho cái giọt máu, cái giọt khí huyết, do vật ấy tạo hình, lại muốn làm chủ vật ấy tạo đoan ra nó, như vậy là sái luật thiên nhiên của Chí-Tôn dĩ định.

Hỏi vậy cái quyền nắm đạo nhơn luân trong tay của ông cha ta quan sát theo con mắt của đời văn-minh nầy thì nói là quyền áp bức có phải? Hại thay! Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại phong-hóa của con người đem vào khuôn khổ thuần-phong mỹ-tục thì cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng ứng với sự tự do mà đi đến địa vị con vật, là mất hết tính chất làm người đó. Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đã trọn kiếp sanh lịch duyệt thế tình, mà sự lịch duyệt ấy còn vốn thiếu; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do định phận ấy, đã làm bại hoại thân hình, tâm lý con người tại thế thể nào rồi, điều ấy không chối cãi được.

Bần-Đạo buổi ấu xuân bị ảnh hưởng của tự do, thấy sự kềm thúc của gia nghiêm lấy làm khó chịu. Khi ấy Bần-Đạo đang học Pháp-văn. Lúc về thăm ông thầy Nho, khi đến đó ông mới tường thuật tình cảnh bối rối gia đình của một vị quan viên bà con xa với Bần-Đạo. Vì vợ làm khổ tâm cho chồng là vị quan viên ấy, đến nỗi gia đình phải tan nát. Ông tường thuật câu chuyện nầy vừa xong thì lại than rằng: Hại thay! Vì buổi trước không phải cha mẹ định hôn, mà tự do kết hôn nên ngày hôm nay mới ra dường ấy.

Thừa dịp ấy Bần-Đạo mới vấn nạn ông, Bần-Đạo hỏi rằng: Gia-pháp của ta nghiêm khắc quá lẽ, đến sự chăn con như chúa ngục chăn tù, nếu không có quyền tự do thì con sẽ tối tăm ngu dốt?

Ông lại trả lời rằng: Không, không phải gia-pháp áp bức làm cho con mất tự do đâu, mà trái lại người có quyền lắm chớ, đến nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà "tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử". Quyền của con còn có thể thế cho quyền cha được rồi, thì có áp bức chỗ nào đâu? Chỉ có kềm thúc tâm tình của con cho nó đừng thương ai trước khi thương vị hôn-phối của nó, để cho nó đủ đầy tình ái mà thương người vợ tương lai của nó vậy thôi.

Muốn định hôn cho con thì trước hết cha mẹ đã lựa chọn tâm lý của vị hôn thê coi có hòa hiệp với tâm tình của con mình không chứ, chẳng phải xem xét tánh đức mà thôi, mà cha mẹ là người lịch-lãm thế tình nên thâm hiểu cả tâm tình của đôi lứa, dầu cho đôi lứa chưa biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ cùng nhau, đồng tâm đồng chí thương yêu nhau đặng.

Đạo nhơn-luân khởi thủy từ hôn nhơn, mà Nho-phong đã định cho cha mẹ vi chủ, nếu để cho đứa con vi chủ thì chỉ có hư mà thôi, mà gia-đình hư tức nhiên sẽ có ảnh hưởng tới xã hội vậy.

Đây là Bần-Đạo duy mới nói có gia-nghiêm mà thôi, vậy bây giờ chúng ta luận về tâm lý. Sự hám vọng tự do quá lẽ, mà đưa tâm lý con người đến mức khả ố, nguy hiểm không thể tả được. Ta thấy nó gieo trên mặt địa-cầu nầy một triết lý vô lối là triết lý: Vô phụ, vô quân; không quê hương, không gia đình.

Bởi vậy ta mới thấy thế tình con sanh ra ngỗ-nghịch, không tuân phụ huấn. Thảng như ngoại nhơn có hỏi đến tại sao đã lớn, đã khôn, mà không biết nghe lời phụ-huấn cư xử với đời vô để, vô nhơn không còn tình thương nhơn phẩm, thì chư Đạo-hữu biết kẻ bất hiếu kia sẽ trả lời ra sao không? Nó trả lời rằng: Tôi không xin họ sanh tôi, tôi không muốn họ sanh tôi, chẳng qua là họ vì lỡ mà sanh tôi nên họ phải nuôi tôi đó thôi.

Ôi! Ân đức thâm sanh thật không còn có nghĩa gì hết.

Những tục lệ ấy nếu Đạo Cao-Đài không xuất hiện đặng chỉnh đốn lại, sợ e cả nhơn loại trên mặt địa cầu nầy sẽ thành ra ác thú.”

4 - BẢO THỦ THUẦN PHONG MỸ TỤC.
 (Tại Đền Thánh, 12 tháng 5 năm Mậu-Tý (dl. 18-06-1948)

“Hôm nay Bần-Đạo tiếp tục khảo cứu phong hóa của dân tộc Việt Nam đối với phong hóa các dân tộc khác, cốt yếu xem coi chúng ta có phương gì chỉnh đốn đạo nhơn-luân của họ đặng? Mấy kỳ trước Bần Đạo đã giảng rằng: Đạo nhơn luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới có dân tộc lập thành quốc gia xã hội.

Đương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn-luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã nghiêng đổ và lung lạc tất cả, nhứt là bên Âu-Châu, đạo nhơn luân của họ tồi tệ là thường, Bần Đạo thấy rất nên bại hoại, từ thử đến giờ chưa nghe ai nói cha lấy con, anh lấy em, mà bên Âu Châu thường có xảy ra điều ấy.

Hại thay! Trải qua tám chục năm nay những tánh tình yêu nghiệt ấy lại truyền sang đến nòi giống chúng ta, ngày nay vẫn còn thấy tấn tuồng đó nữa, yêu nghiệt đã biến tướng biểu sao thiên hạ không loạn được. Đạo nhơn luân đã vậy, tinh thần của con người không còn biết phẩm vị, nhơn cách gì hết, nên hột giống ác nghiệt biến sanh ra mãi thôi. Thành thử nhơn loại ngày nay quá bạo ngược, tương-tàn tương-sát lẫn nhau, người đối với người còn dữ tợn hơn thú đối với thú nữa, vô nhơn vô đạo, cha không xứng phận cha, con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, chồng không nên chồng, vợ không đáng vợ, nền luân lý của nhơn loại trên mặt địa cầu nầy không còn có khuôn khổ gì hết.

May thay! Đạo nhơn luân của Tổ-phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh hưởng của văn minh ngoại bang làm cho ô-uế đôi chút, nhưng nhờ Đức Chí Tôn đến phổ truyền nền Chơn-giáo của Ngài nơi đất Việt-Nam nầy, có thể còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn mẫu cho toàn cả các sắc dân nơi địa cầu nầy bắt chước theo nữa.

Đạo làm chồng, chúng ta có gương xưa tích cũ, nhờ nơi Nho-Tông rất oai quyền, nghiêm khắc, mặt luật của nó kềm chế tâm lý của con người. Đạo nhơn luân của nhà Nho ta có cái vẻ đẹp thiên nhiên, ai tiêm nhiễm đến cũng sanh mê mẩn, cảm kích, vậy mới tạo tâm lý theo Nho-Tông làm hình trạng tinh thần Nho Đạo, khuôn tuồng đó duy ở Việt Nam mới có, còn các Tôn-giáo khác hình tướng lại biến ra làm khuôn mẫu riêng trên sân khấu đời, nên Đạo Nho-Tông thâm nhập vào cốt thể của cả thảy con người đặng.

Bao nhiêu gương để chỉnh đốn đạo nhơn-luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương cho nhau lập mình lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ ông Châu Công, Ngài là Tể Tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh cửi làm ăn nuôi mẹ chồng, một vị mạng phụ phu-nhơn mà cư xử được như vậy thật đáng quý. Kịp đến khi ông hồi hưu, buổi già cả vợ chồng đối với nhau như chủ khách.

Nước ta lại có bà vợ của ông Phan-Thanh-Giản. Ông xuất sĩ rồi bận việc triều chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy khi vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ hiếu thay thế cho chồng, xét ra thì gương ấy cả Âu-Châu cũng chưa hề có vậy. Ngày giờ nào, gương mẫu tiết liệt ấy trải ra cho toàn phụ nữ trên mặt địa cầu nầy đồ theo, thì ngày ấy danh thể của phái nữ mới được trọng nễ, nhứt là phụ nữ Cao-Đài cần phải làm cho đặng, hầu sửa đương nền phong hóa của Việt-Nam trước đã.

Còn về sự tồi tệ thì chúng ta hằng thấy tích xưa điển cũ, như có câu: "Đố phụ loạn gia". Lạ lùng thay và khéo léo thay! Chẳng phải do ở bọn hàn mặc hoặc thượng lưu trí thức, lại ở nơi một người đàn bà hạng thường, đủ khôn ngoan đạo đức có đủ hạnh kiểm có thể sửa chồng nên phận được.

Xưa kia có người lính cầm lọng cho Yến-Tử là quan Tể Tướng. Ông nầy thì nhỏ người, còn chú lính cầm lọng thì to lớn kịch cợm. Ông Yến Tử tuy là Tể Tướng đầu triều, nhưng con người có tánh cách nho nhã, nề nếp nhà quan, không kiêu hãnh, gương mặt khiêm hòa, còn chú lính cầm lọng lại vênh mày vênh mặt, bộ tướng tá nghinh ngang, tưởng rằng không phải Yến Tử mà chính anh ta là Tể Tướng đầu triều mà chớ! Lúc Tể Tướng đi ngang qua, người vợ chú lính núp kẹt cửa thấy vậy, nên khi về nhà mới đòi làm tờ để. Anh ta hỏi tại sao? Người vợ nói rằng: "Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy chàng đi ngang, Quan Tể Tướng, Ngài thì nhỏ người mà gương mặt nho nhã, tỏ vẻ hạ mình còn chàng thân hình to lớn mà chàng hiên ngang coi trái mắt quá lẽ, vì thế, thiếp lấy làm hổ ngươi không thể ở với chàng nữa".

Nhờ vậy, chú lính ấy biết cảm hóa, sau sửa mình lập thân trong hàng ngũ quân binh lên đến bực Tướng. Ấy vậy, đạo nhơn-luân nếu biết giữ chặt, thì vợ có thể làm nên cho chồng, dạy chồng nên đạo được. Phụ-nữ Cao-Đài cũng thế đã hai mươi ba năm nay tiêm nhiễm đạo đức tinh thần, tạo đầu óc tâm não, vậy tìm phương dạy chồng thế nào!

Có nhiều hạng người được vinh vang thì lên mặt phách xấc, không nhớ đến căn bổn hèn hạ của mình khi trước, phải biết rằng chúng ta đứng đợt với thiên hạ được là nhờ Chí-Tôn tô mày vẽ mặt cho đó, hạng nầy rất nhiều, phụ nữ nên để ý sửa dạy cho họ bớt tâm tự kiêu đôi chút.

Đối với cha con, Nho-Tông để lại nhiều vẻ đẹp của Tổ-phụ chúng ta lưu truyền đặng làm chuẩn thằng mà sửa đương xã hội và lập quốc. Cha hiền mới sanh con thảo, con thảo là hột giống để làm một nền móng tương lai, tương lai quý hóa không thể tả, bởi Tiên Nho chúng ta đã nói: "Vua Nghiêu tìm ông Thuấn đặng truyền ngôi, chẳng vì lẽ gì hơn là nghe danh ông Thuấn chí hiếu, mà một khi ta được chí hiếu rồi thì không gì sánh bằng. Có hiếu rồi mới có nghĩa, có trung, có cang, có tr; nghĩa là hễ có hiếu rồi thì có thể có đủ hết tính đức khác".

Ngày xưa người ta tầm hiếu, đến tại nơi thôn lân, huyện, phủ, tỉnh lỵ, để hỏi thăm những gương hiếu thuận. Người ta tìm hiếu tức là tìm hiền, do cái hiếu ấy suy độ ra cái hiền của bậc danh thần triều chánh, mà muốn có hiếu thì cha phải có từ vậy. Bần Đạo thấy quốc dân Việt Nam bị ảnh hưởng của ngoại quốc, con không cần cha, cha không biết đến con, tồi phong tệ tục ấy đã thấy rõ ràng trước mắt. Bởi vậy, trong xã hội có ba người quan trọng: Cha, Chủ, Chúa.

Cha là ông chủ của một gia đình, Chủ là ông chủ của một hương đảng, Chúa là ông chủ của một nước, cả ba vị ấy làm đầu từ gia đình lên xã hội. Nếu quyền cha nắm không kham là do người cha bất lực. Truy căn nguyên là do tại tự do kết hôn, chồng không phải chồng, vợ không phải vợ, cập xách với nhau rồi tự lập gia đình, đạo nhơn luân không có chỗ nào ràng buộc, chẳng qua là chơi hoa giỡn nguyệt, không căn bản gì hết, biểu sao khi sanh con ra mà chúng lại không trở nên kẻ vô bổn. Nhứt hạng Việt Nam lai của ta là tối hại.

Bần-Đạo đã nói để cha mẹ định hôn, như thế có lợi hơn vì như ta vẫn thấy, cả kiếp sanh lúc còn nhỏ, cha mẹ còn đủ, đến ông nội, ông cố cũng còn nữa, trộng một chút là ta vẫn cũng còn thấy đông đảo, đó là khi chưa biết khôn. Khi đã khởi biết khôn ngoan thì ông nội đã đi đâu rồi, rồi cha mẹ đã già, mà mình cũng già nữa, trong lúc ông bà cha mẹ mất, mình cảm thấy cái quyền trong tâm lý của mình cũng mất.

Cha mẹ là bực cao kỳ trí thức, đáng kính, đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu cho chúng ta chưa có tình thương nồng-nàn đi nữa, nhưng thời gian qua chừng nào, nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng đã khuất, thì vợ nhận thấy ở chồng là hình ảnh người cha của mình, còn chồng nhận thấy ở vợ là hình ảnh mẹ của mình, nên được khuây khỏa tấm lòng và khắn khít không lìa nhau là vì lẽ ấy.

Nói gì trên bộc trong dâu, một đời nếu không có xảy ra điều gì thì thôi, còn nếu có xảy ra điều chi sanh phiền sanh giận, thì chừng ấy không phương thuốc gì trị được cả, tâm lý phải chia lìa thì tình kia phải xa cách, mới dễ bỏ nhau, thay chồng đổi vợ, con cái sanh ra thấy tấn tuồng ấy tập tánh học theo, biểu sao tương lai không hư hèn và tánh đức không lạc lầm phàm tâm lìa đạo đức. Làm cha mẹ nếu chúng ta biết Tiên Nho đã đối với con người như thế nào và toàn cả xã hội Việt-Nam, cả nòi giống cưng con như thế nào, đến nỗi trong một Tông-đường có đứa con nào ngỗ-nghịch cha mẹ định từ bỏ thì chỉ nói ngoài cửa miệng, chớ chưa thấy ai từ con được bao giờ.

Nhớ lại, khi Bần-Đạo đi ngoài Qui-Nhơn, gặp một ông già tên là ông Sáu Chèo, vì ông bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nhìn thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển gì hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ có một vế thôi: "Nhược niệm Cửu Huyền chi bổn, khả năng tu tỉnh ngộ thân", nghĩa là: Nhớ đến Cửu Huyền thì phải rán gìn giữ thân mình. Bần Đạo thấy thờ có một câu mà không có sơn thủy gì hết, lấy làm lạ thì ông nói: "Một câu đó đủ nghĩa để dạy con cái biết tuân theo, thành tâm tu chỉnh thì Cửu Huyền sẽ vinh diệu, biết giữ thân mình không bịnh nhược thì sanh con sáng láng mạnh khỏe khôn ngoan".

Đời bây giờ thiên hạ mê đường hoa nguyệt phong tình, sanh con lớn lên thành ho lao, ho tổn, hay tật nguyền, có nhiều sắc dân sanh con thấy tàn tật ghê khiếp lắm, vì cớ mà mấy năm trước đây Hitler thi-hành chánh sách của Đức Quốc Xã xử tử hay là thiến những kẻ tàn tật, bịnh hoạn, lấy lý rằng kẻ ấy chẳng giúp ích gì cho nước, chẳng những thêm một miếng ăn cho xã hội lại còn di hại cho nòi giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa lại những dân đinh cường tráng, nhưng vì Đức Quốc Xã đã làm quá lẽ thành ra tàn ác, nghịch đạo làm người.

Tổ-phụ chúng ta không thi thố chánh sách ấy, chỉ dùng tinh thần đặng giữ con cho nó tránh khỏi sự bạc nhược đã nói, mà nòi giống Việt-Nam nầy không bị tiêu diệt là nhờ khéo giữ đạo nhơn luân từ trước đó vậy.

5 - PHONG HÓA VIỆT NAM ĐỐI VỚI PHONG HÓA CÁC DÂN TỘC VẠN QUỐC.
 (Tại Đền Thánh, đêm 19 tháng 5 năm Mậu-Tý (dl. 25-06-1948)

“Bần-Đạo giảng tiếp về khảo cứu phong-hóa nước ta đối với các dân tộc vạn quốc.
Bần-Đạo đã giảng rằng trong quốc-gia xã hội chúng ta có ba quyền: Cha, Chủ, Chúa. Ba quyền ấy cầm cả chánh trị của nước nhà, có khác nhau chăng duy có nhỏ và lớn, chớ chánh kiến vốn đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền tảng cho phong-hóa chúng ta vậy.

Hôm nay, Bần-Đạo tiếp giảng về quyền làm cha và triều-chánh của ông cha, tức là gia đình liên quan thế nào đối với triều chánh của làng và triều chánh của nước.

Chúng ta thấy trong ba quyền ấy, duy có quyền chúa là trên hết, sau biến tướng đến quyền cha, quyền thầy. Ấy là đạo Tam Cang: Phụ tử, Sư đệ, Quân thần. Bần Đạo sẽ giảng rành mạch về quyền chúa ấy sau. Bây giờ Bần Đạo giải rõ quyền cha mà thôi.

Vả chăng chúng ta để ý cho tận tường xem coi xã hội chúng ta thấy có điều đặc sắc riêng biệt không giống với các xã hội khác, là từ khi Đức Khổng Phu-Tử hiệp ba quyền ấy làm Hội-Thánh của Ngài:

Ông cha tức là thầy của gia đình, ông chủ tức là ông thầy cả của làng, ông vua chúa tức là ông thầy cả của nước. Vì cớ nên hình trạng của ba quyền ấy Bần-Đạo nói rõ là lớn nhỏ khác nhau mà chánh kiến vẫn là một. Trong gia đình nếu ta không gọi là ông Cha thì gọi là ông Chúa của gia đình, cầm đầu cái triều chánh của ông, bà vợ trong gia đình, người ta còn gọi là Nội Tướng tức là Thủ Tướng của gia đình, cả con cái là Lục Bộ Đài Quan, tôi tớ hoặc những công nhân giúp việc trong gia đình tức nhiên là toàn dân vậy.

Ấy vậy, gia đình theo phong hóa Việt-Nam ta rất trọng hệ, ông Cha của gia đình cũng như ông Chúa của nước vậy, nên xét ra đến cực điểm phong hóa của ta thì thấy tốt đẹp lạ lùng. Chỉ vì ta không quan tâm đến thôi, nếu để ý ta sẽ vui hứng hạnh phúc đặc biệt, bởi không có dân tộc nào giống như chúng ta, kỳ dư nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng văn minh như chúng ta mà cũng không đồng một vẻ hay là giảm bớt thì có. Trọng hệ là gia đình, mà gia đình có được trọng hệ thì ông Chúa của gia đình mới trọng. Vì cớ đạo làm Cha, phong hóa chúng ta kính trọng một cách vô đối.

Đối với xã hội, Tổ-phụ chúng ta biết con cái lớn lên phải lập gia thất, nên mới lưu truyền món hương hỏa ấy. Lấy gia pháp làm chủ đích, gia pháp ấy biến ra gia nghiêm, mà gia nghiêm chặt chịa kềm thúc con cái chẳng có ý chi khác hơn là dụng oai quyền đó mà tạo một vị Chúa tương lai cho gia đình, nên Tổ-phụ chúng ta trông nom điều trọng hệ ấy mà hủy bỏ cả hành tàng phụ thuộc ở ngoài là cả sự sanh hoạt của gia đình, chỉ lo bảo thủ lấy tinh thần làm Cha tương lai cho đúng giá trị của nó.

Lạ chi đối với nòi giống của chúng ta thường nghe mọi người nói: "Phụ có từ, tử mới hiếu" mà Bần Đạo đã nói rằng cả tánh đức của con người đứng đầu trên hết là hiếu, Bần Đạo cũng đã giảng, đời Thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do nơi hiếu, nên Vua Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho Ngài là vì ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh đức hiếu ấy là cái năng lực căn bản của các tánh đức khác, nó là tánh đức của đạo đức tinh thần và nó đi gần tánh chất của loài người.

Con người đã có hiếu thì các tánh đức tốt đẹp khác đều là phụ thuộc, bởi vì khởi đoan của tâm hiếu, không phải biến sanh một ngày, một bữa gì mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm căn bản môi giới cho các tánh đức khác nảy nở, mà ta đã thấy và định quyết rằng người đã làm được con hiếu thì thế nào cũng sẽ là cha từ. Mà hạng phụ từ rất tối cần, tối trọng cho xã hội vậy.

Ấy vậy, trong gia đình phải có phụ từ, mà tại sao cha phải từ?
Phương ngôn nói: "Cha hiền sanh con thảo", lại có câu: "Hiếu thuận huờn sanh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch huờn sanh ngỗ nghịch nhi", sách xưa truyện cũ ta thấy còn lưu lại nhiều thành tích rất quí hóa. Đứa bé thơ kia học ai trước hết? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có hình trạng gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm ai. Dòm cha bắt chước cha, dòm mẹ bắt chước mẹ, dòm anh em bắt chước anh em. Trong gia đình nếu có gương cha lành, thì sự ấy huyền bí thay!

Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi sơ sanh, đứa con chưa biết nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lý, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân, Bần Đạo vẫn quả quyết rằng cái phụ giáo và mẫu giáo đó không mất, dầu đứa con có lơ lãng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy, chúng ta không thể tưởng tượng được, khi cha mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tiềm tàng cái giáo hóa buổi sơ sanh ấy làm căn gốc trong bản tâm của nó.

Làm người cha hiền không biết làm mất tự do của con, trái lại còn trọng nữa, trong xã hội chúng ta như vậy đó. Đừng thấy hình trạng giáo hóa bề ngoài lấy nghiêm trị làm căn bản mà gọi rằng đối với nòi giống chúng ta cha mẹ áp chế con làm mất tự do của nó. Không phải như vậy đâu! Có lẽ vì nhìn thấy Tông đường hư hoại, nên cha mới nghiêm trị con, đặng bảo thủ tương lai của Tông-đường, chớ chẳng phải cố làm cho mất quyền tự do của con.

Bần-Đạo giảng tích này cho cả thảy nghe mà suy gẫm, thì thấy nòi giống chúng ta vốn trọng sự tự do của con cái mà trọng một cách khéo léo.

Đời Tiền Lê có ông Thừa Tướng đầu triều không có con. Hai ông bà thường đến chùa này miễu kia cầu tự. "Nhơn hữu thiện niệm, thiên tất tùng chi", nên bà vợ hạ sanh được một đứa con trai. Quan Thừa Tướng đã niên cao kỷ trưởng mà có một đứa con trai thì nỗi mừng vui đó không thể luận được. Người Nam mình hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng cậu công tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia đình đối với cậu thì ai cũng là tôi đòi nô lệ hết. Hai ông bà cưng đáo để, lớn lên rồi hễ thấy cưng lại thêm nhỏng nhẻo, rồi du côn, rồi hoang đàng chi địa vô giáo dục. Tấn tuồng xảy ra như vậy mà quan Thừa Tướng và phu nhân cũng không dám động tới, vì quá cưng thì còn ai dám động tới cậu nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất gì cũng được.

Đến tuổi đi học, cho vào trường thì không ai chịu nỗi, con các quan bị cậu đánh luôn, ngày nào cũng có mắng vốn. Thấy tình trạng như vậy, biết con mình bị cưng quá không ai động tới được. Đến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi thanh lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc, không món nào mà cậu không có, ngoài ra còn du côn, du đảng, ai thấy gia đình ấy mà không nói rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải thống khổ tinh thần như vậy.

Nhưng ông bà cũng vẫn cưng không động gì tới cậu công tử cả, ông chỉ buồn than nói với ông bạn là quan Hình Bộ Thượng Thơ rằng:
- "Tôi có một đứa con mà con cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ đổi", thì ông bạn nói:
- "Thưa quan Thừa Tướng, nếu Ngài giao quyền trọn vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi đặng tôi giáo hóa thử coi".

Quan Thừa Tướng đã hết phương rồi, nên giao cho ông bạn dạy dỗ cũng không được gì hết, cậu công tử vẫn còn buông lung điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị, mới cho quan Thừa Tướng hay:
- "Tôi phải dụng quyền đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài vui lòng như vậy, tôi mới sửa lịnh lang đặng".

Quan Thừa Tướng chịu:
- "Bạn làm sao giúp tôi được thì làm, vì tôi cùng đường hết kế rồi".
Quan Hình Bộ Thượng Thơ thả cho cậu công tử ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thứ, rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội nhơn khác vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu, thông tin về nhà cho Thừa Tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau lòng vì con, ra chịu tội trước triều đình, rồi Ngài và quan Hình Bộ Thượng Thơ đến người nầy người nọ xin tha thứ, đi tới đâu dắt công tử theo tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên lương tâm tự hối, biết tội mình làm để lụy đến cha dường ấy.

Về nhà ông rước thầy cho đi học thêm nữa, vì cậu đã biết ăn năn, sợ cha mẹ và chịu ở nhà không dám phóng túng chơi bời nữa. Nhưng, trong gia đình cũng không chiều được, cậu chỉ kiêng có cha mẹ thôi, ngoài ra không kể ai cả, nổi giận là cậu đánh đập liền. Ông mới tính một phương thế, lấy cớ là con nhà trâm anh, bắt cậu để móng tay, từ đó cậu ít đi ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên hạ nữa, là vì cũng bị lật móng tay hai ba lần gì đó, nên hoảng mà thuần nết lại.

Đến khi triều đình mở khoa mục, cậu nhờ trí thông minh sáng suốt lạ thường lại học giỏi nên được chấm đậu Trạng-Nguyên. Nhà vua và cả mọi người biết tánh đức của cậu trước như vậy mà nay được như vầy thì ai cũng mừng, trong gia đình còn mừng hơn nữa. Thiết lễ Tân quan, khi vị Tân quan vào bái lễ Từ đường, rồi trở ra hội yến với các quan; quan Thừa Tướng mới kêu con lại nói:

"Ngày nay con đã vinh hiển rồi sẽ ra làm quan thì móng tay con không để làm chi nữa, con đưa đây cho cha", ông cắt tử tế, đem vào bàn thờ Từ đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa, đề bốn chữ "Trấn tâm chi bửu" nghĩa là của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng: "Từ đây trở đi hoặc sau nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều, vật trấn tâm chi bửu này cũng không nên rời con". Thì y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đến đầu triều, mà cái gói “trấn tâm chi bửu” tức là móng tay đó vẫn còn luôn.

Bần-Đạo dám cả gan nói rằng: Nhờ cái phụ giáo như vậy, mà triều chánh Việt Nam ta mới bền bĩ, và chắc chắn rằng người đó là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh thần đó mà chúng ta đạt được tinh thần độc lập ngày nay.

Phụ giáo rất cao kỳ quý hóa. Nếu xét tường tận như vậy thì ta chưa đáng phận làm chúa gia đình. Trước khi tạo gia đình, cần suy gẫm coi ta có xứng đáng làm chúa làm nội tướng chăng rồi sẽ tạo, cả khuôn khổ tốt đẹp nòi giống chúng ta đã xao lãng, nào giục tấn, nào cấp tiến, nào văn minh, nào duy tân đáo để thôi. Tấn tuồng duy tân vật chất đưa đến tồi phong bại tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá độc hại vậy.

Phong hóa tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh thần mà đã biết như vậy thì nên bỏ hay là phải cố thủ? Phải bảo thủ cái thể chất toàn hảo ấy là điều Chí Tôn mong muốn hơn hết. Ngài không nỡ nói ra, mà Ngài trông cho chúng ta biết phục hồi cái phong hóa của Tổ phụ lưu lại, đặng tạo một văn hóa tương lai cho toàn thể mặt địa cầu nầy vậy.

Nếu Ngài nói ra thì nòi giống Việt Nam sẽ nói là Ngài thủ cựu hay là muốn phá hoại sự tự do của loài người và đời văn minh vật chất này không thể không chỉ trích Chí Tôn với lời lẽ ấy, nên Ngài không nói đó vậy.”

6 - Quyền-hành của người CHA.
 (Tại Đền Thánh, đêm 23 tháng 5 năm Mậu Tý (1948)

“Hôm nay Bần Đạo tiếp tục khảo cứu nền phong hóa của chủng tộc Việt Nam đối với các chủng tộc khác.
Bần Đạo đã giảng rõ về đạo làm cha trong xã hội của chúng ta đã tạo thành một nền phong-hóa đặc sắc của nòi giống như thế nào rồi. Vậy, Bần Đạo lần lượt giảng tiếp về cái quyền của cha.

Bần Đạo giảng về đạo và quyền của cha trước rồi sẽ giảng về đạo và quyền của chủ, sau chót mới đến đạo và quyền của nhà vua tức là chúa.

Ai cũng biết điều trọng yếu trong xã hội Việt-Nam ta là Tổ-phụ là nguồn cội của các Tôn giáo, nên từ Thượng cổ Tổ phụ ta đã lưu lại cho nòi giống ta cái cảnh tượng là biết tôn trọng Cửu Huyền Thất Tổ, dầu quá vãng hay hiện tiền cũng vậy, sự sùng thượng ấy còn tồn tại trong tâm hồn mãi thôi, chẳng hề khi nào quên ông bà của chúng ta được. Nên Tôn giáo chơn thật ấy nó buộc vạn quốc nhìn nhận là một Tôn giáo đặc sắc của một sắc dân chơn thật hơn hết. Thế thì đạo nhơn luân của chúng ta là do truyền nối hương hỏa của Cửu Huyền Thất Tổ đó vậy. Ta chẳng còn luận chi sâu xa hơn nữa, chỉ nói cái nợ máu thịt mà nòi giống Việt Nam nầy xem mắc hơn các nòi giống khác trên mặt địa cầu nầy.

Vì bởi Tiên Nho chúng ta đã lưu lại một lý thuyết chánh đáng chuyên nghiệp để cầm tâm lý của nòi giống chúng ta là "Bất hiếu hữu tam vô hậu nhi kế đại". Trọng hệ hơn hết của nền quốc giáo Việt Nam ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại, nếu không đương nỗi thì phải chịu thất hiếu với cả Tông tộc, Cửu Huyền Thất Tổ, thất hiếu trọn vẹn, mà đã thất hiếu rồi thì buổi tương lai về cõi Hư Linh không ngó mặt ông bà ta đặng. Vì cớ, nên việc hôn nhân nơi nước ta có vẻ nghiêm khắc, truyền lại làm căn bản Tôn giáo trong nước, dùng khuôn khổ trọng nghiêm ấy đặng định luật, thì ta chẳng còn ngạc nhiên, hỏi bởi cớ sao luật nhơn luân lại gắt gao như vậy?

Xưa kia hễ định luật hôn phối với nhau thành chồng vợ rồi thì chủ hướng duy có một điều là nối truyền hương hỏa. Tiếng tục thường nói rằng: "Dài dòng cả họ", nên Tông tộc nào dài dòng cả họ thì hạnh phúc đáo để, trước phong hóa mà được dài dòng cả họ thì được tôn trọng vô đối, tức nhiên buộc đạo nhơn luân phải gắt gao; khi cưới vợ ba năm mà không sanh con trai nối hậu thì đàng trai đặng phép để bỏ và lập thứ. Tại sao? Nếu người đàn ông cả gan vì thương vợ mà không chịu để bỏ thì mang tội bất hiếu với Cửu Huyền Thất Tổ, với cha mẹ kia kìa.

Thấy đạo nhơn luân của chúng ta trọng yếu dường ấy, mà hễ trọng yếu tức nhiên quyền cha vẫn là cái oai quyền cao trọng, quyền cha trong phong hóa chúng ta, nếu con bất hiếu có thể lên án tử hình được, lên án với luật pháp hữu định, bởi vậy nên Tổ phụ ta nói: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu", ấy là luật nhơn luân của ta như vậy đó.

Đối với các quốc gia, các nòi giống khác, nếu có công kích thì họ nói đó là làm mất quyền tự do, mất nhơn phẩm của con. Bần Đạo dám chắc rằng họ thèm thuồng lắm mà họ làm không được vì tình trạng phong hóa của ta, các nước Âu Châu không thế đối đặng. Bần Đạo giảng về cái quyền cha mà chính mắt Bần Đạo trông thấy hiển nhiên là khi Bần Đạo mới ra trường đi làm việc, đổi xuống Cái Nhum, có ông Kế Hiền ở làng Chánh An, tên là Kế Hiền Kỷ làm một vị Trưởng tộc trong Tông đường, niên kỷ độ lối 55 tuổi.

Khi ấy trong nhà thờ Tông đường làm lễ cúng ông Cao Tằng gì đó, mà lệ trong dòng họ, người nào đến giờ tế tự mà vắng mặt thì năm đó mất phần hương hỏa. Sự nghiêm trị rất nhẹ nhàng nhưng mực thước, nên kẻ nào trong năm đó bị phạt ắt cất đầu không nổi, rồi chỉ có khóc lóc lén lút vậy thôi nên cả thảy đều phải đến.

Bần Đạo tọc mạch theo coi nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong Tông đường của Bần Đạo gia phong thì lại khác. Bởi biết ông Kế Hiền Kỷ còn theo Nho lắm, trong lúc ấy Bần Đạo ngạc nhiên thấy trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng, dầu khinh, mỗi đứa đều đem tới một món, đi thôi rần rộ, độ 7 giờ cúng thì lối 5 giờ đi rước ông Trưởng tộc, các con cháu xúm khiêng ông, ba bốn chục người giành mà khiêng, còn bao nhiêu đi theo sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh tiếp, ôi thôi! Bần Đạo tưởng nhà Vua cũng không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông cố hay ông sơ gì đó mặc vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy. Bần Đạo tưởng tượng đó là ông Vua, ông Chúa của gia đình rõ ràng vậy.

Còn nếu biết ông trị nghiêm trong Tông đường thế nào thì lại càng cảm mến hơn nữa, vì bởi từ thử chưa hề có một con cháu nhà nào đem nhau tới làng mà kiện thưa một việc chi cả, gia luật thật đáo để đẹp đẽ và nghiêm khắc, như thế mà đã năm sáu đời truyền kế. Tộc phái không kể Nội Ngoại gì cũng kế nghiệp được. Trong Tộc phái ấy có một bộ Tông chi không sót một tên nào mà vẫn còn giữ vĩnh cửu luôn. Ngày giờ nầy các nước ngoại quốc kia nói nhà Nam ta bảo thủ cổ tục ấy, hỏi có ai làm đặng vậy chưa? Nếu có được thì một phần ít thôi, mà cũng không có nữa.

Tại sao? Tại tiêm nhiễm văn hóa Âu Châu rồi đem của quý liệng đi hốt của bỏ đem vào, tinh thần đã thành ra bạc nhược, thô bỉ, chạy theo thuyết duy vật của văn minh vật chất, quên hẳn khuôn khổ Tổ nghiệp ta để lại rất đẹp đẽ vô cùng, thâu thập những vật không đáng giá, làm xáo trộn nền phong hóa tận thiện tận mỹ. Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao chăng? Cả đạo nhơn luân điên đảo, biểu sao không trộm cướp loạn lạc, giặc giã tứ tung cho được!

Nền đạo nhơn luân có đủ năng lực bảo trọng tương lai quốc vận lại đem bỏ đi, lấy cái hoàn thuốc độc của thiên hạ đưa cho, đã thiệt thòi mà cũng còn rán trướng cổ lên mà nuốt, nuốt cho chết.
 Home       1 ]  [ 2 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét