Sống Đạo - Đường Về - 4 / 4 (Soạn-giả: Nguyên-Thủy)

Thần quỹ hồ ẩu ẩu thì người ta thấy có lòng kinh-sợ , gần thì Thần mừng  mà tới là quỉ.
Phàm tượng chắng thà Thần có dư mà hình chẳng đủ , chớ chẳng nên hình có dư mà Thần chẳng đủ. Thần có dư là tướng sang, hình có dư là tướng giàu. Thần chẳng nên kinh thì tổn thọ. Thần chẳng nên cấp, cấp thì nhiều lầm. Lại còn nên coi tướng khí thức người ta. Khí rộng thì dụng đặng người mà đức mới lớn. Thức cao thì hiểu đặng lẽ mà lòng mới linh. Khí nông thức
thấp dầu có dư của cũng chẳng khỏi là tiểu-nhân vậy.

Bàn về hình có dư :
Hình có dư là chẫm đầu tròn dày, bụng và lưng cao nở. Trán rộng bốn phía, môi đỏ răng trắng, tay tròn thành vòng , mũi thấy như trái mật, mắt tròng đen tròng trắng phân-minh. Lông mày tốt dầy mà thưa, vai nở rún dầy. Trước ngực phẳng rộng, bụng tròn buông xuống. Dáng đi, đứng ngồi đoan chính. Năm nhạc chầu lại , ba đình xứng nhau. Thịt nên xương nhỏ, tay dài chân vuông , coi thấy có vẽ oai-nghiêm . Nhìn ra có ý vui vẻ. Đó đều là hình có dư vậy . Hình có dư là tướng người trường thọ, vô bệnh mà hưởng giàu sang đó.

b - Bàn về Thần có dư:
Thần có dư là tinh mắt trong sáng , nhìn ngó chẳng nghiêng , mi tốt mà dài , tinh-thần chẳng động, dung sắc nhuận-trạch, cử chỉ ung-dung . Ngó xa thì nhấp-nhánh như mặt trời trên nhành chiếu trời sương . Nhìn gần thì tinh lung như gió hòa động nhành hoa xuân. Tới việc chi thì cương-nghị như con thú dữ bước trong núi sâu. Xử với chúng thì tiêu-diêu như chim phụng-hoàng bay luyện trên dường mây. Lúc ngồi như hòn đá, vững chẳng động . Lúc nằm như con quạ đậu chẳng bay. Lúc đi lẹ làng như dòng nước phẳng chảy đi. Lúc đứng sừng-sững như ngọn núi cao vọi. Nói chẳng nói bậy, làm chẳng làm càn. Mừng giận chẳng động cái lòng. Vinh nhục chẳng đổi cái nết. Muôn vẻ giao-động (lộn) ở trước mà lòng thường như một mực. Đó là Thần có dư vậy.

Thần có dư là tướng người quí, sự hung tai khó phạm nó đặng, được hưởng trót lộc Trời đó vậy.

c - Bàn về hình chẳng đủ:
Hình chẳng đủ là chỏm đầu nhọn mỏng, vai cánh xéo lệch, gân eo thưa nhỏ mà đốt nách vặn gập. Bàn tay mỏng, ngón tay thưa, môi co, trán lép. Mũi ngữa lên , tai lật lại co thấp. ngực hãm vai cong , một vai thẳng. Một mắt ngữa, một mắt cúi. Một con người lớn, một con ngươi nhỏ . Một gò má cao, một gò má thấp ; Một tai có vằn, một tai không vằn. Trong lúc ngủ mắt mở. Trai nói tiếng gái. Răng vàng mà lộ . Miệng mủn mà nhọn; chỏm đầu sói mà không có tốt to; mắt sâu chẳng thấy con ngươi . Bước đi khập-khểnh ; sắc mặt bẻn lẻn . Đầu nhỏ mà mình lớn, trên vắn mà dưới dài . Đó là hình chẳng đủ vậy.
Hình chẳng đủ là tướng người nhiều bệnh  mà đoản mạng. Phước bạc mà bần-tiện vậy.

Bàn về Thần chẳng đủ:
Thần chẳng đủ là chẳng say tợ say, thường như người bệnh, chẳng sầu tợ sầu . Thường như người lo. Chẳng ngủ tợ ngủ , ngay thấy như chết . Chẳng khóc tợ khóc. Xãy như hồn kinh, chẳng té (ngã) tợ té. Chẳng mừng tợ mừng, chẳng sợ tợ sợ. Chẳng ngày tợ ngày, chẳng kinh tợ kinh. Duy chỉ hơn loại  sắc dục nhu-nhược. Thần sắc mê sảng, thê-thảm dường như mất vật chi. Hoảng hốt dường như sợ-sệt ; nói năng nhúc-nhác dường như mắc cở (xấu-hổ) . Làm-lụng rụt-rè như bị lăng-nhục , sắc trước tươi mà sau xấu . Nói trước lanh mà sau chậm . Đó đều là thần chẳng đủ . Thần chẳng đủ là tướng người nhiều lao-tù, cường ách. Dầu làm quan cũng mất ngôi cao.

d - Bàn về Khí:
Đá chứa ngọc mà núi rạng; cát bọc vàng mà sông trong . Đó là của báu Chí-linh hiện ra sắc mà phát ra khí vậy. Ôi hình là thân-thể nhơn khí rộng ra. Thần lành thì khí khoan, Thần an thì khí tịnh. Sự được lỗi chẳng phá hoại nổi Khí; điều mừng giận chẳng lkinh-động đặng Thần đối với đức thì có dụng;; đối với lượng thì có độ., tức là người trọng-hậu có phước vậy. Người Quân-tử khéo nuôi cái Khí. Khí khoan để nuôi được vật, hòa để tiếp được vật, cương để chế được vật. Trong để lóng được vật, Chánh để tránh được vật. Chẳng sang thì hèn ; chẳng hòa thì trái ; chẳng cang thì nhu; chẳng trong thì đục; chẳng chánh thì thiếu cái độ sâu hay nông. Xét cái sắc táo hay là tịnh thì có thể phân-biệt được quân-tử với Tiểu-nhân vậy.

Khí dầy mà thủ, hòa mà chẳng dữ tướng người phước thọ . Cân-súc chẳng đều, hầm hầm hiện ra vẻ mặt; đó là tướng kẻ hèn-hạ

Ôi ! khí hớp vào phát ra ngoài mặt  mà hiện làm cái triệu kiết hung . Lúc tán ra như lông như tóc . Lúc tựu lại như thóc như gạo. Trong nó có hình, án vào không có tích. Nếu chẳng tinh-ý để xem ra thì họa phước chẳng lấy chi làm bằng cứ vậy. Khí ra không có tiếng , tự tai mình chẳng xét được . Hoặc nằm mà chẳng thở kêu là tượng khí hơi Rùa (qui-tức), thở ra hớp vô. Khí đầy mà mình động là triệu ( Điềm) mình gần chết đó. Ông Mạnh-Tử chẳng đoái số lộc muôn chung là khéo nuôi đặng khí đó. Còn như tranh cái lợi mình muốn hăm hở lộ ra sắc mặt  mà phá hại cái khí , kẻ ấy sao đủ bàn thay !

Sách nói rằng: “ Khí là gốc của hình” . Xét ra thấy người Hiền, kẻ ngu , kẻ Tiểu-nhân phần nhiều cấp táo. Người Quân-tử hay khoan-thai, hễ bạo lệ thì bại dạ, khuấy rối. Thâm trầm thì phước-lộc có dư.

e - Bàn về tiếng:
Người ta có tiếng cũng như chuông trống có âm . Đồ lớn thì tiếng xa. Đồ nhỏ thì tiếng vắn. Thần thanh  thì khí hòa. Khí hòa thì tiếng nhuận sâu mà tròn hoạt . Thần trược thì khí gắt, khí gắt thì tiểng chảy  gấp mà nhẹ rè. Cho nên tiếng người sang phần nhiều ra tự trong đơn-điền ở dưới rún lối hai phân rưỡi tây, thông nhau với tâm-khí hòa lộn mà đạt ra ngoài . Đơn-điền là cội-rễ của tiếng đó . Chót lưỡi là đầu máy của tiếng. Côi rễ sâu thì đầu máy nặng; cội rễ nhẹ thì đầu máy nhẹ đó. Nói hay tiếng phát từ cội rễ mà hiện ra đầu máy vậy. Còn như nhẹ mà tròn hoạt; chắc mà uốn-lượn hườn mà may mắn, cấp mà hòa điệu , dài mà có lực, dòng mà có âm lớn như chuông cả khua vang, trống cái dậy động. Nhỏ thì như dây đờn tấn khúc oanh vàng bay kêu cõi thế , vẻ mặt thì khoan rồi mới động cùng nói chuyện với  thì lâu rồi mới ứng đều là tiếng người sang vậy, tiến vậy.

Tiếng nói của kẻ tiểu-nhơn đều phát tự trên đầu lưỡi, gấp rút mà chẳng đạt, hoặc khẩn cấp âm rè , hưởn mà rít, sâu mà trệ, nông mà uốn. Ôi lớn thì tan, tan thì phá hoặc nặng nhẹ chẳng điều líu lo không thành tiếng chuông bể . đục như tiếng trống nát , như quạ lạnh úm con, nhạn độc gào bạn. Như vượn đang kiếm lủ, chim lạc kiếm bầy (mất bầy). Nhỏ như tròng dền ngâm thu , Cường như ruồi xanh kêu đêm. Nói như chó cắn dê gào , đều là tượng kẻ hèn vậy. Trai nói tiếng gái là tiếng bần tiện. Gái nói tiếng trai cũng là tiếng phương hại; Song mình lớn mà tiếng nhỏ chẳng đều kêu là tiếng thư hùng . Hoặc trước chầy mà sau gắp , hoặc trước gắp mà sau chầy , hoặc tiếng chưa ngưng mà khí trước tuyệt. Hoặc lòng chưa động mà sắc trước biến là tiếng hèn hạ đó. Ôi Thần định ở trong khí hòa ở ngoài rồi sau mới có thể giao-tiếp với người đặng là vì nói có thứ tự trước sau mà sắc cũng chẳng biến vậy . Nếu thần chẳng an mà khí chẳng bày thì tiếng lỗi thứ-tự trước sau . Từ và sắc đều rối lộn hết thảy , đó là tiếng chẳng tốt vậy. Kia là người ta bẩm bình năm hành thì tiếng với khí cũng đủ tượng năm hành vậy .

Cho nên tiếng Thổ cao dày. Tiếng mộc cao xướng, tiếng hỏa chảy dữ, tiếng thủy hưởn cấp. Tiếng Kim hòa nhuận. Lại nói rằng: Người tiếng lạ không có tài đoán việc . Người tiếng bể( vỡ) làm việc không thành . Người tiếng đục vận chẳng phát-đạt . Người tiếng thấp lổ độn vô năng . Tiếng trong lạnh như nước chảy trong suối là tiếng rất quí. Ưởn lượn như tiếng vang trong chum là tướng ngủ phước kiên toàn.

Tiếng thiệt không có hình, thoát ở khí mà phát ra tiếng người : Hèn phù trược, tiếng người sang thì trong óng, nhu quá thì nhác, cang quá thì gãy. Tiếng như nghe tại cách núi , tròn mà dầy không khuyết  không dứt; đó tức là tiếng người sang, phong tiết truyền đi xa.

Mình nhỏ tiếng rộng, ngôi tới tam công. Mình lớn tiếng nhỏ thụ mạng chết yểu.. Tiếng như lửa nóng bôn ba vất vả. Con trai tiếng mái (tiếng đàn bà) phá hết cửa nhà. Con gái tiếng trống (tiếng đàn ông) ngôi chồng chẳng yên.

2 - CHÁNH ĐẠO VÀ TÀ ĐẠO.

Chúng ta đọc lại bốn câu thi trong TNHT:
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà.
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra,
Sao ra Tiên Phật người trần tục,
Trần tục muốn thành phải đến ta.

Điều xấu, điều tốt như có một tiêu chuẩn rõ ràng. Một điều người Âu cho là vô lý có thể người Á châu lại chấp nhận như một sự kiện hữu lý.

Đúng thế, quan niệm xấu tốt, thiện ác ít nhiều chịu ảnh hưởng xã hội, nhưng vượt lên cao hơn nữa, chúng ta vẫn còn có luật vũ trụ.( đó là Đạo).

Theo sự hiểu biết của tôi, thì có hai con đường: Chánh đạo và Tà đạo. Con người làm chuyện tà đạo là khi y dùng quyền năng tiềm tàng của mình để mưu lợi riêng cho sự phát triển cá nhân, và sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của kẻ khác. Phát triển cá nhân ở đây có nghĩa là sự bành trướng về giác quan, cảm xúc hay tri thức của cá nhân, mà không kể gì đến sự thiệt hại cho kẻ khác. Một người lợi dụng sự ngu dốt, yếu đuối của kẻ khác để thu lấy ít lợi lộc về tiền bạc hay thoả mãn tham vọng cá nhân tức là đang đi trên con đường tà đạo. Nếu y có chút quyền năng, y sẽ trở nên ghê gớm như thế nào ? Chánh đạo cũng là việc sử dụng những quyền năng của mình, nhưng để phụng sự nhân loại. Trong khi phụng sự, con người sẵn sàng hy sinh mọi tiện nghi, tham vọng cá nhân mình để làm việc hữu ích cho kẻ khác. Kẻ phụng sự dứt tuyệt các thú vui về giác quan, từ bỏ mọi tôn kính chính đáng mà y có quyền hưởng thụ, dẹp bỏ cái phàm ngã cá nhân, chỉ nên chú trọng đến mục đích đạt đến sự toàn thiện. Tà đạo sử dụng quyền năng qua các hình thức lễ nghi, cúng bái trợ lực để tạo nên các đoàn thể hình thức. Các hình thức này có thể là vật chất hay một tổ chức mà công cụ của nó không phải lo cho đời sống hay một lý tưởng cao thượng mà chỉ là một hình thức phát biểu cho quan niệm riêng của mình. Chánh đạo là sử dụng các quyền năng cố hữu của bản chất con người để vượt qua mọi hạn định của hình thức. Để giải thoát tâm hồn khỏi các trói buộc của cảm giác, của sự tưởng tượng hay xu hướng nhất thời. Để tránh các cám dỗ, lừa gạt của vô minh, để phục vụ cái phần tử thiêng liêng của bản thể vũ trụ. Một người nghiên cứu huyền môn có thể đi trên đường chánh cũng như tà. Họ có thể tìm cách phát triển cá nhân qua sự tự chủ gắt gao để khai mở các quyền năng, thu thập kiến thức. Họ cũng có thể ao ước cõi thiên đàng mở rộng trong lòng mọi người, và chính trong họ, qua các hành động bác ái, vị tha. Trong hai trường hợp, hạng đầu cầu mong kiến thức, quyền năng; hạng sau muốn trở nên người hữu dụng. Càng đi xa thì sự tiến bộ càng khác biệt. Người sử dụng kiến thức, quyền năng để phụng sự, sẽ trở nên một bậc “Bồ Tát” (Bodhisattva), và chỉ có trái tim Bồ Tát mới là ánh sáng soi đưòng, chỉ lối giúp họ đi trọn vẹn con đường đạo. Người cầu trí thức cho mình chỉ quanh quẩn trong phạm trù cá nhân một lúc, thiếu từ bi, trí tuệ, y rất dễ bị sa ngã vào ma đạo lúc nào không hay. Không có trí tuệ bát nhã soi đường, y dễ trở thành nạn nhân của vô minh. Điều này cũng như một người đi biển mà không có bản đồ, la bàn định hướng, mà đi bừa bãi thì làm sao đến nơi được.  Đường đạo cũng thế, một tu sĩ phải trì giới nghiêm minh để tu thân, nhưng vẫn chưa đủ, mà còn phải lập những hạnh nguyện, xác định mục đích rõ ràng để hành động. Có tu thì phải có hành, phải biết đem kiến thức của mình ra để giúp ích cho những người khác. Trí tuệ phải đi đôi với Từ Bi. Có “Trí” mà thiếu “Tâm” chỉ là mớ kiến thức vô dụng, một cái xác không hồn. Có “Tâm” mà thiếu “Trí” cũng không được vì sẽ dễ sa ngã, đi lầm vào tà đạo. Đó là điều đã xảy ra trong quá khứ, các tu sĩ thiếu kiến thức, trí tuệ, đã bị vô minh che phủ. Họ coi thượng đế như một đấng thần linh để thờ phụng, tách ngài ra khỏi tín đồ và dạy bảo rằng thượng đế cao siêu quá, không thể nói chuyện với những người tầm thường được, mà phải qua trung gian của giới tăng lữ. Họ đặt đủ các ngôn từ hoa mỹ, thêu gấm dệt hoa vào giáo điều để tín đồ quay cuồng trong ngôn ngữ, mà xa lánh chân lý thực tế. Dần dần các chân lý cao đẹp bị bao phủ bằng các hình thức mê tín dị đoan, các điều xằng bậy, và đưa đến chỗ suy tàn.

4 - TRÊN ĐƯỜNG PHỤNG-SỰ.
Sống đạo (hành đạo vô-vi):

Lời dạy của Đức Lý :thành tâm hành chánh đạo miễn làm xong phận sự là đủ, còn nét vạy tà của ai, mặc ai.
Nền Ðạo lập nên là nhờ có lòng đạo đức và tánh khiêm cung của mỗi môn đệ của Ðức Từ Bi. Nếu đạp vào nẻo Ðạo mà còn bôn chôn tranh lướt theo thói thường tình thì dầu có bao nhiêu đạo hữu, bao nhiêu công quả đi nữa, mối Ðạo chẳng qua là một trường ngôn luận của thế gian đó thôi, chớ công quả đạo đức mong chi thấy sự kết quả xứng đáng đặng? Phần nhiều đạo hữu vì tánh tình phàm tục mà làm cho gay trở bước Ðạo, lại e chẳng khỏi sanh ra một trường náo nhiệt trong Ðạo về buổi sau nầy. Ðức Từ Bi đã lấy lòng quảng đại mà gieo giọt nhành dương để rửa lối phàm gian, hầu đem mình giá trắng gương trong vào nơi Cực Lạc; đã chẳng biết tự cải lại bợn thêm tánh tục mà để cho cả muôn người phải chịu khổ tâm; hành đạo như vậy có giúp đặng ai chăng? Chư đạo hữu mựa chớ luận bàn để phải quấy Lão cũng ra tay sửa trị được vậy; miễn làm xong phận sự là đủ, còn nét vạy tà của ai, để mặc ai. Lão cũng hết lòng chiều theo tánh từ bi của Ðức Thượng Ðế, bằng chẳng, thì Lão xuống tay bôi xóa hết trường công quả Ðại Ðạo, thì chúng sanh hết trông mong, mà kẻ chác tội lỗi cũng khó bề lấy sức phàm phu để gây nên rối rấm nữa. Ðen trắng hai màu, chánh tà đôi nẻo, mạnh sức trì chí thì nhờ, yếu tâm lơi bước thì chịu; Ma Ma Phật Phật hai chốn riêng phần, thưởng phạt rồi đây cũng tới.

Láo-tử bảo: “ lời nói và việc làm của người ta đều có gốc. Bởi không biết được cái gốc ấy , nên không hiểu được ta. Vậy tâm điểm của học-thuyết Trang-tử như thế nào ? Phùng hữu Lan nói: “Hết thảy vạn-vật đều do Đạo mà ra, và mỗi vật đều có cái Đức của nó” . Nghĩa là hết thảy vạn-vật, mỗi vật đều có cái tánh tự-nhiên của nó. Nếu biết thuận theo  “tánh tự-nhiên” của mình thì hạnh-phúc có ngay trong lúc đó không cần phải cầu cạnh đâu khác ở ngoài nữa. Nói thế là biểu-lộ được tất cả mọi yếu-điểm  của học-thuyết Trang Châu rồi vậy.

Quan-niệm về Vũ-trụ của Trang-Châu ? Theo Trang-tử có một cái chân-lý tuyệt-đối , vô-hạn, toàn mãn…tức là cái lý sống chung của Trời-đất ; cái sống ấy gọi là Đạo.

Bất kỳ là vật nào trong Trời-đất đều có cái Đạo ấy ở trong, gọi là Tánh (). Hay nói một cách khác, Tánh ấy cùng với Đạo là một thể : “Thiên-địa dữ ngã tịnh sinh, nhi vạn-vật dữ ngã vi nhất” .

Vậy, phận-sự duy nhất của mỗi vật là trở về với cái chân thể ấy, tức là trở về với cái tánh của mình để sống theo nó. Đó gọi là “Phản kỳ chân hay là phục kỳ bản”Mà hễ sống thuận với nó là sống thuận với Đạo, vì nó và Đạo  là một, và hễ sống thuận được với Đạo rồi, thì cái mà mình gọi là “ Làm”()không còn phải là mình làm (Ngã vi) nữa. Mà chính là cái “ Đạo nơi mình” làm. Cái làm (vi) ấy là cái làm của “Đạo nơi ta”, nghĩa là cái “làm” của cái “vô ngã”. Cho nên hành-động ấy gọi là hành-động vô-vi. (無為).

Vô-vi tức là hành-vi của vô ngã , của Chân thể, của Bản-tánh . Cái hành-vi của vô-ngã ấy gọi là Đức ().

Theo Trang-tử : Sống hòa làm một với Đạo tức là sống theo chân-thể, theo Bản tánh nên gọi là Thiên () .

Trái lại, sống trong sai lầm của quan-niệm nhị nguyên, thấy mình riêng biệt với vạn-vật, tức là sống theo tư-ngã, sống theo cái sống giả tạo, ước lệ của xã hội chung-quanh của cái người mẫu lý tưởng theo xã-hội , chế-độ, luân-lý ước-định , đó gọi là Nhơn ().

Thiên “Đại-tông-sư” nói: Biết được cái hành-động của Trời (), biết được hành-động của người (), đó là biết đến chỗ cùng tột rồi vậy.

Kẻ nào sống được trong cái sống thật của Tánh mình , Trang-tử gọi là người thật hay Chân nhân. Người chưa sống được trong cái sống của chân thể chưa phải là chân-nhân. Cái sống vô-ngã ấy là mục-đích cuối cùng của đời người .
Vậy, tất cả một nền Triết-học  của Trang-tử có thể tóm lại trong một câu này trong thiên “Tiêu-diêu-du”: “ Chí nhân vô-kỷ, Thần-nhân vô-công, Thánh-nhân vô-danh”.
Hành vi kẻ “ Vô kỷ, vô công, vô danh” là vô-vi. Vô-vi không phải là không làm, mà là làm theo Trời () , không làm theo người (). Làm theo Thiên-tánh, không làm theo tư ngã .

Vô-vi có hai nghĩa:
1 - Tiêu-cực: không làm những gì trái với tự-nhiên của mình.
2 - Tích-cực: Là phá hoại những gì có thể trở ngại cho sự phát triển tự-nhiên bản tánh, chính là chỗ mà thiên “Từ vô quỷ” bảo: “Cái đạo trị thiên-hạ không khác nào việc chăn ngựa, chỉ nên trừ khử cho nó những gì có hại đến nó thôi. Bởi vậy, những cái mà Trang-tử cho là có hại đến sự phát-triển tự-nhiên của bản tánh con người, Ông đều cực-lực bài bác như : Tất cả mọi lối chánh-trị, chế-độ, luân-lý…đương thời vậy.

Giáo-dục mà không hiểu biết chân-lý là đào tạo ra những kẻ trí-thức tội lỗi .
Làm chính-trị mà không hiểu biết luật Vũ-trụ là khai thác mồ hôi nước mắt và xương máu của đồng-bào .

Công-lý của con người thiếu đạo-lý âm-dương là công-lý của bạo-lực ( Thiết câu giả trụ, thiết quốc giả hầu ). Trộm cái móc thì bị xử tử , còn trộm cả nước thì được làm Vua chư-hầu.

Một nền văn-minh căn-cứ trên nền tảng lạc-lầm của bản ngã , xa lià chân tánh, quên lãng luật âm dương, kết quả là đưa nhân-loại vào cuộc đời giả trá , lừa-bịp nhau, khuynh-loát nhau, đàn-áp nhau bằng bạo-lực gây thành một trường đấu-tranh thù-hận liên miên bất tận để kết cuộc bằng chiến-tranh tàn-sát lẫn nhau thảm tuyệt nhân-loại.

Hạnh-phúc hay sự bất-hạnh của cuộc đời chúng ta chỉ hoàn toàn tùy thuộc vào kiến-giải của ta. Mọi vấn đề, mọi bệnh-tật, tai ương , hiểm-họa, tội ác.v.v…của con người đều phát-sinh từ sự vô-minh, sự không thấu hiểu chân-lý.

Nói tóm lại, theo Dịch-lý tất cả những hiện-tượng của cuộc sống tương-đối đều phát sanh từ sự sai-biệt của một  Thực tại DUY-NHẤT gọi là ĐẠO. Đạo sinh ra vạn sự vạn-vật bằng cách tự phân-cực ra dưới hai hình trạng Âm Dương biểu thị dưới hình tướng Nam Nữ, động tịnh, tâm vật, tối sáng, nóng lạnh v.v...Đây là hai hình tướng đối diện nhau và bề ngoài có vẻ tương-phản, đối nghịch nhau, nhưng thực ra bổ túc cho nhau vì cùng phát sinh ở tại một nguồn gốc: Vô-song nguyên-lý. Hai hình tướng này không lìa nhau, trái lại cùng nương nhau mà có, cho nên chúng có thể biến đổi hình tướng của nhau . Sự phân đôi trong vũ-trụ không phải là nhị-nguyên duy-nhất.Tuy nghe ra thì có vẻ mâu thuẩn. Đối tính tùy thuộc vào một và vì lẽ một mà thực tại cứu cánh nên ta phải xem những mâu thuẩn không phải như những tương phản hay địch thù mà như những gì bổ túc hay những người bạn vì cái này cần thiết cho cái kia .

Thực tế do sự vô minh sâu sắc của chúng ta , do cái nghiệp của chúng ta nên chúng ta không hiểu ý nghĩa của hiện tượng phân cực này để rồi khởi tâm bỉ ngã, phân biệt, chia rẽ, độc đoán, tranh đấu, hận thù… con người tự mình tạo ra ý thức nhị nguyên . Khách quan mà nói thì nhị nguyên vốn chẳng có mà chỉ có đối tính phát sinh từ nhất nguyên không có tranh đấu cũng như không có hận thù thực sự bất kỳ ở mức độ nào.

Nhị nguyên là một sự giả tạo, mơ hồ, chủ quan của nội tâm chúng ta. Giải thoát ảo tưởng đó, có một chánh-kiến, đốn ngộ lý nhất như của pháp giới. Siêu việt mọi sai biệt đối đãi của vạn sự vạn-vật ấy là GIÁC-NGỘ.

CHƯƠNG V.

PHẦN LUYỆN ĐẠO

1 - THÁNH-GIÁO DẠY THỌ TRUYỀN BỬU-PHÁP VÀ LUYỆN ĐẠO

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ VIẾT CAO ÐÀI
TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG

Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ.
Ðại hỉ! Ðại hỉ!
Ngọc Ðầu Sư khả tu truyền Pháp, thuyết Ðạo.
Kẻ nào trai giới đặng mười ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng.
Chư môn đệ phải trai giới.

Vì tại sao?
Chẳng phải Thầy còn buộc theo Cựu Luật, song luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành Tiên Phật đặng.

TẠI SAO PHẢI HIỆP TAM BỬU
Thầy cắt nghĩa:
Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân. Một phàm gọi là corporel. Còn một thiêng liêng gọi là spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.

Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí.
Khi nơi xác phàm xuất ra, thì lấy hình ảnh của xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh-Khí, không có Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng.
Còn có Thần không có Tinh-Khí thì khó huờn đặng Nhị xác thân. Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.

Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong Khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn Thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí ra khỏi ngoài Càn Khôn đặng.
Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật, mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn Thần tinh khiết.
Nếu như các con còn ăn mặn luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng?

Như rủi bị huờn, thì đến khi đắc đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur d'électricité) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt. Còn như biết khôn thì ẩn núp tại thế mà làm một bậc Nhân Tiên thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện đạo.

2 - TƯỢNG SỐ HỌC.
SỰ QUAN-TRỌNG CỦA TƯỢNG-SỐ HỌC.

Trong “ Dịch-Học Tinh-Hoa”bàn về con số trong Hà-Đồ có ghi: con số của Dịch, số nhỏ là con số mạnh , con số lớn là con số yếu về tinh-thần (vì đứng xa con số Huyền của Thái-cực). Con số 3 vì vậy được xem như là con số căn-bản của Đạo, con số sáng chói nhất, tượng trưng sự huy-hoàng của Đạo .

Con số 3 mà nhơn cho 3 (3x3 = 9) là chỗ mà sách Thái-Huyền bảo: “ Phân khí dương làm 3 chặn, chồng lên  3 lần đến 9 doanh là đến chỗ cùng-cực”. Đó là con số của cực dương(Thái-dương), sắp trở về với hư-vô hay cõi Huyền. Con số 9 vì vậy được xem như là con  “số căn” để thực-hiện viên-mãn công-phu “Tinh hóa khí, khí hóa Thần, thần hườn Hư của Đạo-gia, cũng như trong tất cả mọi công-phu tu-luyện của Đạo-giáo.

Tượng-số-học là cái học huyền-nhiệm căn-bản của khoa Huyền-bí, khó học nhất của Dịch-học. Người ta bảo rất đúng: “Không học Dịch làm gì rõ được chỗ đầu mối của Tạo-Hóa”. Dịch mà thông thì sự lý trong vạn-vật tự-nhiên được thông. Chưa từng thấy “ kẻ chưa thông Dịch”lại thông được sự lý của vạn-vật. Dĩ nhiên, ở đây người ta muốn nói đến cái học về tượng-số của Kinh-Dịch, vì Dịch gốc nơi Tượng và Số.( Hà-đồ và Lạc-thư ,nói chung một tên là Hà-Lạc).

Cái học “Hình-nhi-Thượng” của Dịch là ở các con số và hình tượng của nó : Mỗi con số đều có hình-tượng đặc-biệt của nó. Hình thể của mỗi con số có tác-dụng như một “Trường-lực” đủ sức tạo-tác từ cái “Không” đến cái “Có”. Con số, tự nó không khác nó , như con số 3 có khác gì những con số 3 khác. Nhưng hình tam-giác tượng-trưng con số 3( là một đơn vị hình-học) lại có nhiều hình thức khác nhau (như tam-giác đều hay tam-giác vuông ). Cho nên, những hình khối do tam-giác tạo ra đều có một trường-lực đặc-biệt (Champ de forces) của nó. Người nắm được sự bí-mật của con số và những hình-thức của nó, có thể tạo cho mình một quyền-lực huyền-bí phi-thường đáng nể của một đấng tiểu “ Tạo-hóa”.

Con số, như ta đã thấy là cái học căn-bản của môn huyền-học và huyền-bí học  thượng-thừa; không hiểu nổi huyền nghĩa của nó thì đọc sách về huyền-học Trung-hoa hay cả Thánh-kinh Thiên-Chúa-Giáo sẽ không làm sao hiểu được đến chỗ tinh thâm diệu nghĩa của nó .

Thánh Augustin cũng đã có nói: “ không hiểu ý nghĩa của các con số, không sao hiểu nổi nhiều đoạn bí-hiểm trong Thánh-Kinh” Ông lại quả-quyết: “nhờ con số ta mới hiểu được ý Trời.

Đạo là lý sống tự-nhiên mà con người cần phải thấu triệt cái lý đó để sống cho thuận với đạo thì mới tồn tại.

 Đạo là Lý, có lý rồi mới có tượng, có Tượng rồi mới có số. Kinh-dịch nhân tượng để biết số, hễ hiểu được nghĩa của nó  thì số sẽ ở bên trong.

Lý là vật vô-hình, cho nên nhân tượng để rõ lý , Lý hiện ở lời, thì có thể do lời mà biết Tượng. Vì vậy mới nói rằng: “Hiểu được nghĩa của nó , thì số sẽ ở bên trong.

Kinh-dịch là sách dạy về LÝ-SỐ, nói về lý tương-đối trong vạn-vật hay nguyên-lý âm-dương, Kinh-dịch đã nói: “Nhất âm nhất dương chi vị Đạo”.

Âm dương là Khí, hễ có khí ấy thì có lý ấy; hễ có lý ấy thì có khí ấy. Muôn vật, muôn việc ở gầm trời, cái gì không ở lý ấy mà ra ? Cái gì không ở âm dương mà ra:

Một 1 (thái-cực), mà Hai 2 (Lưỡng-nghi). Hai (lưỡng-nghi) mà Một ( thái Cực). Có hiểu được cái lý “ Một mà hai, hai mà một” ấy thì mới có thể hiểu được tinh-hoa của Dịch-lý: “Thái-cực mà là lưỡng-nghi; Lưỡng-nghi mà là Thái-cực. Dương và âm vì thế không phải là danh-từ tuyệt-đối , chỉ có Thái-cực là tuyệt-đối thôi . Dịch-học là ‘NHẤT-NGUYÊN-LUẬN”, hay nói cho đúng hơn: “ NHẤT NGUYÊN LƯỠNG-CỰC ĐỘNG ”( Monisme dynamique polarisable).

Đức Ngọc-hoàng Thượng-Đế khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này là muốn dạy cho các Môn-đệ về môn lý-số, nên  mới có sự sắp xếp và định-vị cách trưng bày các cúng phẩm trên  “Thiên-Bàn” cũng như cách lạy các đấng thiêng-liêng đều biểu thị bằng các con số…  Như Thầy dạy cách cúng lạy sau:

 25 Février 1926, TNHT/ I trang 10 sau đây:
Trung vô giữa bái lễ cho Thầy coi…
Con làm lễ trúng, song mỗi gật, con nhớ niệm câu chú của Thầy: "Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát". ( 12 chữ).
Ðại Lễ là làm lễ ba lần:
Lần đầu dâng hương và hoa,
Lần giữa dâng rượu,
Lần chót dâng trà.
Phải chính mình con dâng các lễ ấy.

Khi bái lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.

Từ đây (25-2-1926) 13 tháng Giêng năm Bính Dần, con phải may riêng bộ áo lễ, tay rộng, cổ trịch như áo đạo, nhưng giải gài chín mối, màu xanh da trời. Con nhớ mang giày gai đặng hầu Thầy, còn nhứt nhứt đều để chơn không hết.

Lạy là gì?
- Là tỏ ra bề ngoài , lễ kỉnh trong lòng.
Chấp hai tay lại là tại sao?  Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm Dương. Âm Dương hiệp nhứt phát khởi Càn Khôn, sanh sanh hóa hóa tức là Ðạo.

Lạy kẻ sống thì hai lạy là tại sao?
- Là nguồn cội của nhơn sanh lưỡng hiệp Âm Dương mà ra. Ấy là Ðạo.

Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao?
- Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa.

Lạy Thần, lạy Thánh thì ba lạy là tại sao?
- Là lạy Ðấng vào hàng thứ ba của Trời, và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.

Lạy Tiên, lạy Phật thì chín lạy là tại sao?
- Là tại chín Ðấng Cửu Thiên Khai Hóa.

Còn lạy Thầy 12 lạy là tại sao?
- Các con không biết đâu?
Thập nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn Khôn Thế Giái, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số mười hai là số riêng của Thầy.

3 - Luyện Tinh hoá Khí:
Có một Đấng xưng là Vô-danh Tiên Trưởng  cho một bài thi dạy Đạo, bài Thi có ý nghĩa rất cao-siêu chỉ cách “ Luyên Tinh hóa Khí”cho người nào muốn luyên Đơn nấu thuốc trường sanh.
                          Bài Thi:
VÔ tận kho kia mấy kẻ dò,
DANH thơm nhờ có biết lường đo,
TIÊN gia chỉ thú mùi thi Đạo,
TRƯỞNG giả đừng mong mỏi đến đò.
                                                                                     Bần Đạo chào quí vị,

Bần Đạo thấy lòng chư quí Vị mến Đạo thương đời, nên cũng nhân lúc nhàn du đặng để ít lời giáo huấn.
Đạo là Không, Đời là Sắc, qui bao nhiêu sắc trở lại làm không, ấy là cơ đắc đạo đó.
Sắc thành không, không biến Sắc, thật ra hư hư nên nên, thật cõi đời muôn việc có cũng như không. Nếu vì có mà quên ngôi xưa vị cũ, phải chăng hữu ích có phải ? Hay trăm năm giấc mộng của đời trả cho thế, rồi về chỉ cái hồn không , đặng hối tiếc ăn năng đã muộn.

Bấy nhiêu lời, Bần-đạo xin quí vị hiểu cho lắm. Xin kiếu. Thăng. ( Thánh-ngôn Sưu-Tập, quyển III ).

Luyện Tinh cho hoá khí, tức là luyện cái tinh hữu hình (là con số 6 biểu tượng của lục căn sanh ra lục dục). Tức là nhất bổn tán vạn thù: 6= tam âm hiệp với tam dương( + ) thành cái tinh hữu hình . Bây giờ mới luyên sao cho cái tinh hữu hình này trở thành cái tinh vô-hình (Số 1 là ngôi thái cực ), tức là vạn thù qui nhứt bổn, là biến lục-căn thành lục thông lúc bây giờ người tu mới thực là có trí huệ. Làm được việc này, người luyện-đạo phải lấy tâm chơn thành và một ý chí cường liệt mới có thể đắc đạo được. Chữ Tinh ở đây có nghĩa là tinh-hoa đạo-pháp trong tam-giáo đều giống nhau, chớ không phải cái tinh khí của trai gái tạo nên nhơn hình mà mọi người thường hiểu, vì tinh này cũng gọi là tinh.  Chữ tinh mà chúng ta cần phải luyện đây là nói về Đạo tâm của mỗi người, có hình tượng là quẻ Khảm là phần chơn dương nằm giữa hai âm., nó là khí sanh-quang của người ta vậy.( xem lại bản Hà-Đồ trang 85)

Hào dương này khi tách rời khỏi hai hào âm bao quanh nó ( tức Thái cực sanh lưỡng nghi) sẽ gây nên tiếng nổ ( quẻ Chấn ) làm kinh Thiên động Địa. Do theo hiện-tượng này mà Đạo Cao-Đài dùng âm nhạc trong việc lễ bái hằng ngày(Nhạc là nói về sự điều-hoà).

ÂM-NHẠC ĐẠI-ĐẠO
( Huyền âm Thượng-Đế)

Đây cũng là một thứ tinh của Thượng-Đế đã ban cho chúng sinh ( Khí sanh-quang), đó là Đạo , là nguồn gốc cây Long-tu-Phiến, là bửu pháp của Đức Cao-thượng-Phẩm.

Ý-nghĩa Lễ Nhạc: Nhạc Tấu Quân Thiên.

Ðền Thánh, đêm mồng 1 tháng 8 năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng về ý nghĩa Lễ, Nhạc.
Từ thử ai cũng cho âm thinh, sắc tướng là tà mị, mà căn bản của Ðạo Nho là Lễ Nhạc, mà chính Ðạo Tam Kỳ là Nho Tông chuyển thế thì phải truy tầm nguyên lý của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế nào? Ðòi phen chúng ta không hiểu được cho uyên thâm khi dâng lễ cho Chí Tôn lúc Nhạc Tấu Quân-Thiên, hết lớp trống, qua đến đờn bảy bài thì lâu quá có khi phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần Ðạo cũng vậy, vì nghĩ rằng: Chí Tôn tư vị Quốc Dân Việt Nam nên tiền định chi chi cũng làm gương mẫu cho toàn đại đồng thế giái, mà có Lễ Nhạc nầy luôn luôn khi dâng lễ thì ý nghĩa ấy ắt cao trọng lắm là phải.

Bởi cớ nên khi mới khai Ðạo, Bần Ðạo đến tại Thánh Thất Thủ Ðức của ông Thơ tạo lập, Bần Ðạo không tin nên hỏi Ðức Lý Giáo Tông, Ngài dạy rằng: "Trên Ngọc Hư Cung có hai câu liễn, phía hữu: Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão; phía tả: Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn". Bần Ðạo cũng không hiểu là gì. Lần lần Bần Ðạo hỏi nữa, Bần Ðạo lại được dạy mà hiểu rằng: "Kể từ phôi thai Càn Khôn vạn vật nầy, Chí Tôn, là khối sanh quang, biến thành hai khối sanh khí, hai khối ấy trụ lại thành một khối lớn tương hiệp nhau mới nổ sanh tiếng ầm, người ta gọi là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Ðạo Phật sửa lại thành Úm (Úm ma ni bát rị hồng) nhờ tiếng nổ ấy Bát Hồn mới vận chuyển biến sanh vạn vật và loài người. Tiếng ấy bay ra nghe đến đâu thì khí sanh quang đến đó, tức là có sự sống đến, bằng chẳng nghe được thì nơi ấy tiêu diệt nghĩa là chết mất mà thôi. Bởi cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn, tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu được, tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là Bát Hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Ðức Chí Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc Tấu Quân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ Chí Tôn qui pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho Ngài.

Nên chi từ đây khi Nhạc Tấu Quân-Thiên, chúng ta xem quí hơn dâng Tam Bửu, dầu phải lở đi nửa chừng trong Ðền Thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn xộn, thì lễ ấy giảm điều kính trọng dâng cho Chí Tôn mà không nên. Khi ấy là vận chuyển Bát Hồn đảnh lễ Ðức Chí Tôn. Vì cớ Lễ Nhạc hiểu rõ lại thì Chí Tôn không phải là tư vị nước Việt Nam, mà chính nghĩa là làm cho sống lại Bát Hồn, và Ngài vẫn vui nhận lễ ấy. Ấy vậy mới có thể làm chủ và làm gương cho toàn nhơn loại được, thì danh ấy không phải là quá đáng.

Xin khuyên toàn Ðạo từ đây nên để trọn tâm mà kính trọng khi Nhạc Tấu Quân-Thiên.
Nói về 5 cây nhang, từ thử Bần Ðạo để cho các Nho gia tự do giảng nghĩa sao thì giảng, còn Bần Ðạo hiểu rõ là Ngũ khí. Chí Tôn dùng Ngũ khí mà biến thành Ngũ hành vận chuyển cả Càn khôn Thế giới, tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí. Mùi vị và sanh quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được. Nên chi, khi làm lễ đốt đủ 5 cây hương là đúng theo phép tín ngưỡng là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí Tôn chỉ có người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi, cắt nghĩa rõ rệt ra là Ngũ khí đó vậy. Ðúng hơn nữa là trong Bát Hồn vận chuyển được phải nhờ đến Ngũ khí cùng một ý nghĩa với "Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn".

Ðạo Cao Ðài là nền Ðạo qui pháp cả cái sống của Bát Hồn mà dâng lễ trả cái sống khi mới phôi thai Càn Khôn do nơi hai khối sanh khí mà tạo thành, ngày nay lại dâng lễ trọng cho Chí Tôn tức là qui pháp cho khối sanh khí ấy, tức là Chí Tôn vui và duy nhứt là thấy sự sống trả lại cho Ngài. Toàn Ðạo nên trọn tâm xét hiểu nhiệm mầu Ðạo lý ấy mà lần lần đạt cho được Chơn pháp của Chí Tôn.

5 - TÁC-ĐỘNG CỦA ĐỘ-SỐ ÂM-THANH LÊN CÁC THỂ CON NGƯỜI.
Các ông nên biết, con người có nhiều thể bao quanh xác thân như thể phách, thể vía, thể trí…Các thể này được cấu tạo bằng những nguyên tử rất nhẹ, rất thanh gần như vô hình. Âm nhạc tự nó đã có các rung động cùng nhịp với sự rung động của các thể, nên ảnh hưởng rất nhiều đến con người.

Âm thanh vừa qua căn bản trên “phần tư âm” , có tác động lên thể trí các ông. Các loại âm thanh dựa trên “phần ba âm” tác động lên thể vía, và “phân nửa âm” tác động lên thể xác. Điều này cũng dễ hiểu thôi, vì “phần tư âm” thanh hơn nên ảnh hưởng đến các thể nhẹ hơn. Con người chỉ biết tác động của âm nhạc ở cõi vật chất nhưng không hiểu ảnh hưởng của chúng ở các cõi trên. Âm nhạc lưu một dấu vết trên thân thể con người, và trực tiếp ảnh hưởng đến tính tình, hành động. Điều này có thể ví như khi ta ném một hòn đá xuống ao. Khi hòn đá chìm nhưng làn sóng vẫn gợn, và lan rộng ra. Một cái lá nổi trên mặt nước chắc chắn sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Hậu quả của âm nhạc còn mạnh hơn như vậy. Do đó, việc chọn nhạc để nghe rất quan trọng. Kinh Veda đã nói, “vũ trụ tạo lập do sự phối hợp các âm thanh”. Thánh kinh cũng ghi nhận, “huyền âm xuất hiện trước nhất, và huyền âm ở với thượng đế, huyền âm là thượng đế.”

Nhờ âm thanh mà các sinh vật thông cảm với nhau. Quyền năng này rất đơn giản ở loại thú cầm và dần dần trở nên phức tạp ở loài người. Từ ngôn ngữ đến tiếng hát thô sơ chỉ có vài bước và bước này tạo nên âm nhạc. Âm nhạc là một công thức tế nhị, kín đáo để truyền thông nhưng có một tác dụng cực mạnh, có thể làm thay đổi quốc gia, xã hội, truyền thống. Nó còn mạnh mẽ hơn các giáo điều, triết lý vì nó ảnh hưởng đến các thể vô hình. Con người chỉ hiểu rằng khi nghe nhạc buồn lâu ngày, ta sẽ trở nên u sầu. Khi nghe nhạc vui lòng ta thấy phấn khởi. Thật sự lòng ta chỉ phản ảnh một cách vô thức những đổi thay trong các thể. Từ ngàn xưa , âm nhạc đã giữ một địa vị quan trọng và ảnh hưởng rất lớn từ vua chúa đến thứ dân. Các ông không thấy thời đại nào, âm nhạc càng thay đổi, biến chuyển nhiều thì thuần phong, mỹ tục càng suy giảm, và xã hội càng đảo lộn hay sao ? Trái lại khi âm nhạc bị hạn chế thì xã hội đâm ra bảo thủ. Các ông cho rằng âm nhạc là sản phẩm văn hoá, tiêu biểu cho từng thời kỳ. Điều này không đúng lắm vì lịch sử cho thấy mỗi khi âm nhạc thay đổi là chính trị, văn hoá thay đổi theo sau. Âm nhạc có tính cách xây dựng cũng như huỷ hoại, chỉ có các âm thanh tinh vi do sự sáng tạo chân thành của lòng vô ngã mới đưa ta trở về quê hương của linh hồn. Muốn sáng tạo các loại nhạc này con người cần phải để cho Chân Ngã sáng chói, cần trau dồi cho tâm hồn tĩnh lặng để hoà đồng với vũ trụ. Vì âm thanh của vũ trụ lúc nào cũng vang lừng cho những người thức tỉnh, người biết thưởng thức, biết yêu cái đẹp, biết nghe những huyền âm cao cả trong yên tĩnh vô biên. Hãy yên lặng, các ông sẽ học hỏi nhiều điều mới lạ. Hãy cố gắng nhìn mọi vật như một thực tại, các ông sẽ sáng tạo và khi sống trong tâm thức sáng tạo, các ông đều là những nghệ sĩ, những người biết yêu cái đẹp, biết rung động với Chân, Thiện, Mỹ.

6 - Tự kiểm soát cách thức tu hành
Tôi không quan niệm một phương pháp nào mà để mỗi cá nhân tuỳ theo sở thích lựa chọn. Tôi chỉ khuyên họ nên sáng suốt kiểm soát cách thức tu hành để tránh các sai lầm thông thường. Như các ông thấy, trên các con tàu lướt sóng ngoài biển khơi bao la, cứ khoảng nửa giờ, vị thuyền trưởng phải nhìn vào bản đồ, xem địa bàn, đo phương hướng để xác định vị trí con tàu. Biết mình ở đâu và đi đến đâu là câu hỏi quan trọng của mọi người trên đường đạo . Công việc tu hành cũng thế, người tu lúc nào cũng phải luôn luôn tự hỏi về mình, để kịp thời sửa sai các lỗi lầm thông thường vì sai một ly đi một dặm. Khi con tàu rời bến, một lỗi lầm nhỏ từ khởi điểm có thể làm con tàu đi xa mục tiêu vài chục hải lý. Đường tu cũng thế, một ý niệm sai lầm có thể khiến ta đi vào tà đạo lúc nào không hay. Phương pháp tu thân không chú trọng đến hình thức, mà chỉ nhắm vào kiểm soát thường xuyên quan niệm của người tu đối với bản thân mình, với mọi người chung quanh. Phải tự xét mình, kiểm soát tư tưởng của mình từng ngày, từng giờ, rồi suy ngẫm về bản ngã, chân ngã. Kinh Veda đã dạy, “ta không phải là xác thân vật chất này mà là một linh hồn cao quý, trường tồn, một điểm linh quang của thượng đế.” Nói khác đi, con người là một linh hồn bất diệt còn thể xác chỉ là một dụng cụ thô sơ, tạm thời. Người hiểu đạo là người ân cần lo lắng cho linh hồn hơn là cái xác thân tạm bợ. Chân lý này giúp cho người tu tránh các tội ác, các phiền não, vì đa số người đều lầm tưởng mình là xác thân nên lo lắng, chìu chuộng nó đủ điều. Để cho xác thân được sung sướng họ đã không ngần ngại giết nhau, làm hại nhau, lừa bịp lẫn nhau, tóm lại tất cả những gì xấu xa, tồi bại. Nếu ý thức được chân lý này thì ai lại còn vơ vét của cải, vật chất làm gì, vì các thứ đó đâu có ích lợi gì cho linh hồn. Người hiểu biết đường đạo ý thức linh hồn là ta, là người làm chủ, còn xác thân chỉ là con ngựa để ta cưỡi đi trên đường . Người chưa hiểu biết nhận mình là con ngựa và cố gắng thoả mãn các nhu cầu của nó (thân xác hữu hình này ví như con ngựa). Họ không ý thức mình là tay kỵ mã kiêu hùng bất diệt mà cam chịu thân phận con vật yếu hèn chịu sự chi phối của thời gian và không gian. Căn bản đầu tiên của người đi trên đường đạo là ý thức mình, duyệt xét đường đi của mình để tìm một lối tu thân hợp lý. Kinh Veda lại dạy rằng, “Ta và người tuy bề ngoài khác biệt nhưng thực sự bên trong lại như nhau, bởi tất cả đều cùng chung một nguồn gốc mà ra”. Chân lý này cho thấy chúng ta đều là hoa trái của một cái cây, cùng chung một gốc, bề ngoài tuy khác, nhưng bề trong tất cả đều là con của Thượng đế. Nếu ý thức được chân lý này thì ai lại còn giận hờn, oán thù, ghen ghét nhau. Có khi nào tay mặt lại cầm dao chém tay trái, có khi nào anh em lại thù nghịch hãm hại lẫn nhau. Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hoá khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu ? Suy luận rằng, “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi hiểu rằng “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng-Đế ngự ở trong. Ta sẽ cởi bỏ thành kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài. Người tu là người sống thuận hoà với mình và mọi người, sống an lạc với vạn vật trong vũ trụ, sống hoà hợp với thiên nhiên một cách ung dung tự tại. Đó là con đường tu đứng đắn nhất theo sự hiểu biết của tôi.

7 - Phải biết sửa sai mới hoàn thiện được bản thân.

Nếu chúng ta tu một thời gian mà thấy lòng không vui vẻ, phấn khởi, gương mặt không thoải mái, cử chỉ không dịu dàng, lời nói không ôn tồn, tâm hồn không thương mến thì chắc là ta đã không sống thuận lẽ đạo. Có lẽ ta đã đi vào tà đạo lúc nào mà không hay. Khi tu hành mà tâm thần rối loạn, thần trí đảo điên, tham lam, sân hận, oán thù, thì đó là triệu chứng đã đi lạc đường rồi. Nếu biết thế phải lập tức kiểm điểm lại phương pháp tu hành để sửa đổi, và quyết tâm trở lại khởi điểm để bắt đầu lại con đường đạo. Nếu không làm như thế thì vô phương cứu chữa, cũng như bệnh đã nhập tâm mà còn mê say luyến tiếc vật chất, không cương quyết dứt bỏ thì làm sao còn chữa trị được.

THỂ-DỤC  DƯỠNG-SINH
PHÁP MÔN YOGA

Yoga là một khoa học, một lối tu thân cho những người muốn vào cửa đạo nhưng đây cũng không phải là một tôn giáo như nhiều người đã hiểu lầm.. Du Già (Yoga) là một khoa học bao gồm nhiều thứ từ : thiên văn, địa lý, triết học, toán học, v..v.. 

Phương pháp dưỡng sinh và tập Yoga có thể giúp con người vượt qua các bệnh tật. Cũng như thế, phương pháp tu thân sẽ giúp con người vượt qua các trở ngại để tiến vào cửa đạo. Có rất nhiều phương pháp tu hành tuỳ theo quan niệm cá nhân, hoàn cảnh xã hội chung quanh, tôn giáo… Nhưng tất cả đều nhắm mục đích chung là giải thoát.

Pháp môn tôi được truyền dạy gọi là Hatha Yoga, chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ Yoga. Pháp môn Yoga còn gì quý bằng nên người tu chân chính không khi nào đem rao bán ngoài chợ. Kẻ nào thành tâm muốn học hỏi phải ra công tìm kiếm và đó là phương pháp duy nhất. Một danh sư không cần quảng cáo rầm rộ vì không cần các đệ tử xúm vào xưng tụng. Trái lại, ông tuyển chọn đệ tử gắt gao và chỉ truyền dạy các giáo lý bí truyền khi người đệ tử tỏ ra xứng đáng. Khoa Yoga bí mật vì cách luyện tập rất nguy hiểm đối với người non kém, chưa đủ khả năng. Khai mở các bí huyệt đâu phải trò chơi tầm thường.
Có rất nhiều môn Yoga khác nhau, nhưng tôi tu luyện theo môn Hatha Yoga, nhắm việc chủ trị xác thân trước khi chủ trị tinh thần. Lúc đầu ta phải luyện tập bắp thịt và bộ máy hô hấp cho thật thuần thục, sau đó mới đi vào thần kinh, não tuỷ. Nếu tập đúng cách, sức khoẻ sẽ tăng cường, sống lâu và có ý chí mạnh mẽ. Đó chỉ là giai đoạn nhập môn, nó đòi hỏi ít nhất từ một đến bốn năm mới đáng kể. Thân thể có cường tráng, tinh thần có dũng mãnh mới có thể tiếp tục bước vào giai đoạn kế tiếp.

Lối luyện tập của người Á châu, vốn chú trọng từ bên trong ra đến bên ngoài. Trước hết có bốn cách thức căn bản : Nghỉ ngơi làm xoa dịu thần kinh, cân não. Tĩnh toạ để tập trung ý chí. Điều tức để tẩy uế thân thể, khu trục các chất cặn bã, và Khí công để kiểm soát hơi thở. Người Âu các ông tưởng mình biết nghỉ ngơi, nhưng thật ra các ông không biết gì cả.

Các ông ngồi trên ghế một lúc rồi quay bên này, ngả bên nọ. Khi thì tréo chân, lúc lại dang tay, coi thì thoải mái nhưng trí óc các ông hoạt động liên miên từ việc này đến việc nọ. Như thế chỉ là hoạt động âm thầm chứ đâu phải nghỉ ngơi.

Loài vật biết cách dưỡng sức bởi vì chúng có bản năng dìu dắt mà bản năng là tiếng nói tự nhiên. Loài người được hướng dẫn bằng lý trí, nhưng thay vì làm chủ lý trí, họ đã không kiểm soát được bộ óc của họ, nên hậu quả là cả hệ thống thần kinh thể xác đều bị ảnh hưởng. Sự nghỉ ngơi hoàn toàn gần như không có.

Tôi chỉ có thể nói một vài tư thế giúp con người tăng cường sức khoẻ thôi. Có hai mươi tư thế (Asana), mà ai cũng có thể tập luyện để tăng cường sinh lực. Các tư thế này có ảnh hưởng đến một số bí huyệt khiến nó tác động lên các cơ quan suy yếu, giúp nó hoạt động trở lại mạnh mẽ hơn.

Khoa học Tây phương đã chứng minh rằng ngoài các mạch máu chính, thân thể con người còn có hàng triệu các vi ti mạch chạy khắp nơi để đưa dưỡng khí nuôi cơ thể. Nếu một cơ quan hay bắp thịt ít hoạt động hay suy yếu, thì số lượng các vi ti mạch (capillaries) cũng giảm bớt đi. Tập thể thao hay bơi lội có thể làm các mạch máu nhỏ này gia tăng hoạt động, khiến cơ quan phục hồi. Cũng như thế, tập các tư thế Yoga sẽ làm luồng hoả hầu (Prana) lưu chuyển, kích động các cơ quan từ trong khiến nó hoạt động nhưng tập Yoga làm nó hoạt động đúng với hiệu năng sẵn có. Do đó, nó mang lại nhiều hiệu quả thần diệu hơn. Con người không có lo gì bệnh tật nữa, nếu có bệnh cũng sẽ khỏi hoàn toàn. Một thân thể khoẻ mạnh, cường tráng làm sao có thể bị bệnh được ? Bệnh tật là do sự mất quân bình trong cơ thể. Người chỉ biết hoạt động mà không biết nghỉ ngơi, thế đã là lý do gây nên các bệnh thần kinh rồi.
9 - Phép thư-giản
(Nghỉ ngơi hoàn toàn )

Có hai cách thư giản: ngồi và nằm ngữa.
CÁCH THỨ NHẤT: Việc đầu tiên là phải ngồi cho thoải mái, ngồi trên ghế, nhất là các ghế bành êm ái rất có hại cho xương sống, con đường vận hành chính của luồng hoả hầu (Prana), và là nguyên nhân gây nên các chứng đau lưng, bại xuội, phong thấp. Phép ngồi thật ra rất dễ, chỉ cần ngồi xếp bằng dưới đất, không dựa vào đâu, không nghiêng ngả bên nào, giữ cơ thể thật thăng bằng, xương sống phải thật thẳng và thở nhẹ, đều đặn. Ai cũng có thể thở nhẹ trong vài phút nhưng sau đó sẽ lại thở loạn xạ ngay. Đó là vì bộ óc quen hoạt động, quen náo nhiệt. Hãy giữ cho lòng yên tĩnh, vắng lặng không bận rộn vào mọi chuyện vớ vẩn. Lúc đầu chưa quen chủ trị tư tưởng thì hãy nghĩ đến một cái gì đẹp đẽ, mỹ lệ như bông hoa, giòng suối.              Đó là bước đầu cho việc nghỉ ngơi.
Khi giữ được xương sống thẳng và thở hít đều đặn, thì luồng chân khí sẽ lưu thông khắp cơ thể và từ đó sẽ điều chỉnh các chỗ bế tắc, ứ đọng trong châu thân.

CÁCH THỨ HAI: Cách thứ hai là nằm ngửa trên mặt đất, chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai tay buông xuôi bên thân mình, mắt nhắm lại để sức nặng toàn thân phân phối đều trên sàn gạch. Nên nhớ phải nằm trên sàn chứ không phải trên giường, nhất là giường nệm, vì giường mềm mại khiến thân thể lệch lạc không đều. Hãy nằm cho thoải mái, không nên cố gắng thái quá, đầu óc phải thảnh thơi, chớ suy nghĩ hay mong mỏi điều gì.

Tư thế này sẽ xoa dịu bộ thần kinh khiến nó lấy lại trạng thái quân bình. Nên nhớ nền tảng chính của Hatha Yoga dựa trên sự nghỉ ngơi, dưỡng sức chứ không phải hành xác với các tư thế vặn vẹo kỳ cục.
Sự tập trung ý chí để thi hành tư thế đó một cách đứng đắn sẽ thúc đẩy các mãnh lực tiềm tàng trong cơ thể con người. Những mãnh lực này là bí mật của thiên nhiên, nó chỉ phát triển khi người luyện tập phải kèm theo một phương pháp thở (Khí công). Tư thế giúp con người chủ trị giác quan, hơi thở giúp con người mở cửa vào thế giới tinh thần. Nên nhớ tinh thần và thể xác luôn đi song đôi. Không thể có một tinh thần bạc nhược trong một thể xác tráng kiện, hay tinh thần minh mẫn trong một thể xác bệnh hoạn. Trong giai đoạn cao của Hatha Yoga, thì hành giả sẽ phải tham thiền nhập định rất lâu, thế ngồi của thể xác là điều quan trọng vì nó giúp sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp hành giả tinh tấn, tăng cường ý chí….
- Nhưng tôi vẫn thắc mắc về các tư thế kỳ lạ, vặn vẹo thân hình của Yoga như chổng ngược đầu, vắt chân lên cổ.
- Bạn nên nhớ, trung tâm bí mật của hệ thần kinh rải rác nhiều chỗ trong cơ thể. Mọi tư thế có công dụng riêng, ảnh hưởng đến một bí huyệt nhất định. Nhờ kích động các bí huyệt đó mà ta có thể ảnh hưởng các bộ phận trong cơ thể, cũng như hoạt động trí não. Các tư thế lạ lùng chỉ dùng để kích động các bí huyệt mà thôi. Ngoài ra không còn gì khác nữa. Bạn phải nhớ kỹ rằng ngoài các tư thế còn có phương pháp khí công nữa, chứ không phải chỉ vận động các bắp thịt thôi. Người Tây phương tập thể thao, vận động thể xác mạnh mẽ, tiêu phí sức lực để làm nẩy nở bắp thịt. Người Á châu tin rằng chính cái sức mạnh ở trong mới điều khiển và chỉ huy các bắp thịt. Bạn cho rằng phương pháp chổng ngược chân lên trời (trồng cây chuối) là lố bịch ư ? Tư thế này dồn máu xuống bộ óc do trọng lượng của nó. Bình thường máu được đưa lên óc do sức vận động của tim. Sự khác biệt ở chỗ để máu tự nhiên dồn xuống óc xoa dịu cân não rất có lợi cho ai làm việc nhiều bắng trí óc và giúp quả tim ngơi nghỉ không phải cố gắng để đưa máu lên óc. Nhờ tim được nghỉ mà tránh được các chứng đau tim. Khi thực hành các tư thế này phải cẩn thận, làm chậm rãi, từ từ, có ý thức, giữ vững tư thế trong một thời gian, không nên cố gắng thái quá. Nên nhớ chìa khoá là ở sự nghỉ ngơi thong thả, chứ không phải hùng hục. Môn Yoga giúp thân thể tự động điều hoà trong sự yên tĩnh, thăng bằng, khác hẳn các lối tập thể thao co tay, múa chân ào ạt của người Âu. Làm thế tuy bắp thịt cơ thể nẩy nở, nhưng thân thể náo động, có hại cho thần kinh .

10 - LUYỆN KHÍ  (HƠI THỞ).
Yoga là khoa học của vũ trụ, nó không những chỉ áp dụng riêng đối với dân Á châu, mà là khắp nơi. Tôi không thể đi sâu vào chi tiết nhưng dù sao duyên hội ngộ lần này cũng tốt đẹp. Tôi giúp ông bạn một chìa khoá bí truyền này. Luật thiên nhiên định rằng trung bình con người thở với số nhịp là 21.600 lần mỗi ngày. Sự hô hấp quá nhanh làm gia tăng nhịp điệu nói trên và thu ngắn sự sống. Sự hô hấp chậm rãi, kéo dài, đều đặn là tiết kiệm sinh lực và kéo dài sự sống, đó là bí quyết khoa Khí công. Mỗi hơi thở tiết kiệm sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ giúp ta kéo dài sự sống. Các đồ ăn có chất kích thích hay hút thuốc làm cho hơi thở dồn dập, giảm số lượng dưỡng khí vào phổi , tất nhiên làm ta giảm thọ nhanh. Có lẽ ông bạn còn nghi ngờ ? Khoa Yoga ý thức rất rõ sự liên quan chặt chẻ giữa cơ quan hô hấp và tuần hoàn. Cả hai cơ quan này liên hệ mật thiết với hệ thần kinh. Bộ thần kinh là chìa khoá vào cánh cửa tâm linh, do đó, hơi thở chính là lối vào tinh thần. Nhưng hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn. Sức mạnh này mới là cột trụ sinh hoạt xác thể, và chính cái sức mạnh vô hình, vô ảnh ẩn tàng trong cơ thể chúng ta (THẦN) mới thực sự điều khiển đời sống. Khi nó rời xác thân thì hơi thở ngừng lại và sự chết đến. Sự kiểm soát hơi thở giúp ta làm chủ một phần nào luồng sinh lực vô hình này. Khi sự chủ trị thân xác được thực hiện đến mức cao siêu, con người sẽ kiểm soát được sự vận động các cơ quan trong thân thể như tim, gan ,bao tử, phổi…..

11 - TRƯỜNG SINH-HỌC
(Phương-pháp kéo dài sự sống).

- Có ba phương pháp kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là luyện tập tất cả các tư thế (asana) cùng với môn khí công bí truyền cho thật thuần thục tuyệt hảo. Phương pháp này chỉ có thể thực hiện dưới sự chỉ dẫn của một vị danh sư đã có kinh nghiệm vì sai một ly đi một dặm, đó là chưa kể người tập phải có một nếp sống tinh khiết, trong sạch hoàn toàn. Một ý niệm xấu khi thiền định có thể làm loạn động hơi thở đưa đến tình trạng “tẩu hoả nhập ma”, điên loạn hoặc chết ngay. Phương pháp thứ hai là sử dụng dược chất, pha chế các loại thuốc đặc biệt các loại cây cỏ hiếm hoi, phương pháp này cũng chỉ một thiểu số biết cách bào chế và chỉ truyền lại cho các đệ tử riêng. Phương pháp luyện đơn này chỉ được dùng trong trường hợp đặc biệt vì nó có các hiệu quả không thể lường được.

12 - HUYỀN-QUAN KHIẾU
(Khai mở Huyền-quang nhất khiếu)

Phương pháp thứ ba là lối mở các kỳ kinh bát mạch, sinh tử huyền quan rất khó giải thích theo khoa học thực nghiệm.. Tôi chỉ có thế nói như thế còn tin hay không là quyền của ông. Trong óc con người có một lỗ trống rất nhỏ nằm sâu bên trong, và có một nắp đậy bên ngoài . Nơi cuối cùng của đốt xương sống là sào huyệt của luồng hoả hầu Kundalini. Sự truỵ lạc, trác táng làm tiêu hao sinh lực, khiến con người trở nên già nua, cằn cỗi. Trái lại, nếu biết kiểm soát ta có thể tiết kiệm sinh lực. Khi một người làm chủ toàn xác thân, y sẽ kiểm soát được luồng hoả hầu này. Chỉ những đạo sĩ Yogi thượng thặng mới dám luyện tập đến luồng hoả hầu, khiến nó thức tỉnh đi ngược lên trên theo xương sống khai mở các bí huyệt, các trung tâm quan trọng nằm dọc theo lộ trình. Khi mở được nắp đậy lỗ hổng ngay trong óc để luồng hoả hầu Kundalini chui vào cư ngụ nơi đây, ta sẽ khai mở nhiều quyền năng, cải lão hoàn đồng kéo dài sự sống. Sự khó khăn nhất là việc mở được cái nắp đậy trên óc, việc này có khi cần sự trợ giúp của một danh sư sử dụng nội lực giúp y đả thông kinh kỳ bát mạch. Việc này rất khó vì kẻ táo bạo luyện công dễ mất mạng như chơi. Người thành công có thể kéo dài sự sống như ý muốn và khi chết thể xác họ vẫn tươi tốt như khi còn sống, và không hề hư hoại…

Tôi biết ông bạn nghi ngờ vì các điều đó hoàn toàn trái với lý thuyết khoa học nhưng bạn hỡi, minh triết bao trùm mọi khoa học, nó là khoa học vũ trụ, so với môn khoa học thực nghiệm thì môn này chỉ là một mãnh vụn

KINH Thiên Đạo có nói đến huyền quan khiếu:
Hổn-độn tôn-sư càn khôn chủ tể,
Qui thể giới ư nhứt khí chi trung.
………………………………….
Công tham Thái-cực
Phá nhứt khiếu chi huyền quan
Tánh hiệp vô vi

13 - TỰ MÌNH CẤT BƯỚC LÊN ĐƯỜNG GIẢI-THOÁT
Tâm chưa an trụ là tâm còn phân biệt, là tâm còn sống trong nhị nguyên, là tâm phàm ,là tâm của người Duy-vật.

Tâm chưa an trụ thì đừng mong gì giải thoát. Khi bạn chưa giải thoát được mình thì bạn còn phải khổ dài dài dù bạn là hạng người nào trong xã-hội.

Này các bạn, giáo lý nào cũng dạy phải thương yêu, tha thứ và giúp đỡ đồng loại nhưng tại sao xã hội lại không như vậy? Tại sao giữa cái biết và hành xử lại có sự trái ngược ? Phải chăng lòng con người còn ham mê vật chất, tuy nghe điều hay lẽ thiệt nhưng ta vẫn để đó, tiếp tục làm các điều càn rỡ. Người bệnh cũng thế, khi mới mắc bệnh không lo chạy chữa mà chờ khi mạng sống bị đe doạ mới cuống lên, thuốc gì cũng uống, ai nói gì cũng làm, cố sao kéo dài đời sống. Tại sao lại có các điểm dị biệt như thế ? Khoa học công nhận rằng ăn uống điều độ, có thể tránh bệnh tât, nhưng biết rồi để đó, chứ có mấy ai theo ? Hình như chúng ta vẫn thèm miếng ngon, vật lạ dù biết nó là chất độc.

Nếu chúng ta chấp nhận tất cả đều là con của thượng đế, tại sao ta vẫn đâm chém, làm hại lẫn nhau ? Nếu chúng ta chấp nhận các loài cầm thú là đàn em bé bỏng, thì ta phải tránh sát sinh chứ. Tại sao ta vẫn giết hại “đàn em” qua các bữa ăn thịnh soạn ? Phải chăng miếng ăn, vì béo đã làm ta quên hết rồi ? Vấn đề của cải cũng thế, ta biết chúng chỉ là vật tạm bợ, vô thường khi chết nào có mang theo được; nhưng thực tế, hễ đâu có của cải là nơi đó có tranh chấp lẫn nhau.

Hãy nhìn đàn gà trong sân, chúng đang vui vẻ nô đùa nhưng hễ có ném cho nắm thóc, là có xô xát ngay. Hãy nhìn bầy chó cùng cha, cùng mẹ âu yếm liếm nhau kia, nhưng chủ ném cho cục xương là cắn nhau tức thì. Loài người thông minh hơn loài vật nhưng của cải, danh vọng, vật chất đã làm họ bất hoà có khác chi loài thú ?

Từ mấy ngàn năm nay, con người luôn được hướng dẫn bởi các chân lý cao đẹp. Tôn giáo nào cũng dạy những điều thật tốt lành nhưng tại sao vẫn không thấy có sự tiến bộ? Phải chăng vì chúng ta chỉ nói chân lý ở đầu môi, chót lưỡi ? Ta đến các thánh đường tôn nghiêm với y phục sang trọng nhất, các lễ vật đẹp đẽ nhất, đọc thuộc lòng các lời răn chân chính nhất nhưng chúng ta vẫn làm các điều xấu xa, bỉ ổi nhất. Có bao giờ các ông nghĩ về những điều này không?

14 - CON SỐ 7 HUYỀN-DIỆU.

Trong thân người có 7 trung tâm lực (Prana) vận-hành  điều khiển hệ thần-kinh của cơ thể mà ta thường gọi tên là “Luân-xa”. Mỗi luân-xa gồm các dây thần-kinh giao-cảm và đối giao-cảm từ trong tuỷ sống óc và dây chuyền hạch giao-cảm.

Các địa điểm ấy là các trung-tâm lực chỉ huy sự hoạt động , cảm-giác có ý thức và tự-đông của tạng-phủ  và các bộ-phận của cơ thể..

Bẩy luân-xa là 7 địa điểm thần kinh  chỉ huy hoạt động toàn cơ thể . Nếu kích thích thần kinh đó chạy tốt, thì khí huyết sẽ thông , con người thơ thới, trí óc sẽ minh-mẫn, không có một chút gì bế tắc thì chúng ta đạt được  không dám nói Thiên-nhĩ-thông…mà chỉ đạt tới minh-mẫn, sáng suốt, biết phân-biệt điều phải lẽ trái, biết thương yêu mọi người , được vậy cũng quí rồi.

Vạn vật trong vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều được sắp hạng và phân loại theo quy mô của số 7. Tất cả mọi hình thức sinh hoạt trong dãy hành tinh hiện tại đều thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 49 nhóm . Toàn thể Thái dương hệ của chúng ta đều là sự biểu lộ của Thượng-Đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của ngài. Ngoài ra có 7 vị tinh quân (logo) mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này chỉ là những trung tâm thần lực, những con đường vận hà để thần lực Thượng đế ban rãi ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí tương ứng với ba cõi giới: Hạ giới ,Trung giới, và Thượng giới. Thượng-Đế cũng thế, tất cả vật chất trong Hạ giới hợp thành thể xác của ngài . Tất cả vật chất cõi Trung giới hợp thành vía của ngài, và tất cả vật chất cõi Thượng giới hợp thành thể trí của ngài. Tóm lại, tât cả đều là thành phần của Thượng-Đế từ hạt bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là một phần của Thượng-đế xuyên qua 7 cung – khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều, tuỳ ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung nào tuỳ số lượng nguyên tử cấu tạo xuất phát từ cung liên hệ.” (Trong Dịch-lý nó chính là cung Mệnh  tính theo bát-quái )

Nói theo danh từ Thiên chúa giáo thì 7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách khải huyền 4.5 nói rõ, “có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của chúa trời”(thất khiếu sinh quang ở trên đầu của mỗi con người) Lúc khởi thuỷ, mọi người chúng ta đều là thành phần của Thượng-Đế, nghĩa là cùng bắt nguồn từ một nơi. Sau đó, chúng ta tách rời ra, xuyên qua 7 con đường vận hà này. Theo sự hiểu biết của tôi, thì 7 con đưòng biểu lộ 7 đức tính của Thượng-Đế, qua 7 vị tinh quân (thất tình của con người) Vị thứ nhất là thiên thần Michael (sức mạnh), liên hệ đến hoả tinh. Vị thứ hai là Gabriel (toàn tri) liên quan đến thuỷ tinh. Vị thứ ba là Raphael (quyền năng) liên quan đến thái dương. Vị thứ tư là Uriel (ánh sáng) liên quan đến mặt trăng. Vị thứ năm là Zakiel (hảo ý) liên quan đến mộc tinh, còn hai vị kia là Jophiel và Samuel thì tôi không biết rõ hành tinh liên hệ. Khoa học thực nghiệm tin rằng các hành tinh đều là sự kết hợp ngẫu nhiên của vật chất. Nếu là ngẫu nhiên tại sao chúng nằm ở các vị trí nhất định trong vũ trụ, và di chuyển theo một quỹ đạo cố định ? Mọi vật dường như tuân theo một định luật thiên nhiên, nhưng đằng sau định luật đó luôn luôn có một sức mạnh thiêng liêng cai quản. Tôi cố gắng dùng tên các vị thiên thần và danh từ Thiên chúa giáo để giải thích cho các ông . Điều này có thể được diễn tả khác đi tuỳ theo quan niệm tôn giáo, văn hoá; nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa chiêm tinh phải đi ngược về nguồn cội. Con người từ một chốn nguyên thuỷ ví như nước cùng một nguồn chảy theo bảy dòng suối khác nhau để ra biển. Mỗi dòng suối sẽ mang một tính chất khác nhau, do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều. Loài người có thể phân biệt ra 7 đức tính rõ rệt (Thất-tình) tuỳ theo con đường vận hà mà họ trải qua. Chiêm tinh nghiên cứu con người và ảnh hưởng hành tinh đến các tính nết nhất định. Cũng như khoa Sinh lý học phân biệt con người qua tính chất nồng nhiệt, lãnh đạm, bạch huyết chất hay đa huyết chất. Thực ra đó chỉ là các phương pháp khác nhau để trình bày tính chất con người. Dĩ nhiên không dễ gì tìm ra cung của mỗi người vì y đã đi sâu trong luân hồi sinh tử, tạo các nghiệp quả phức tạp, và những nguyên nhân này chế ngự, ảnh hưởng đến tính tình y rất nhiều. Chỉ với sự khai mở các giác quan như Thần nhãn hay có một kinh nghiệm sâu xa về huyền môn, ta mới có thể biết rõ họ thuộc cung nào. Nếu một người biết rõ cung của mình và tiếp tục trau dồi bản tính sẵn có, thì y sẽ tiến bộ rất nhanh, vì khí cụ hữu hiệu nhất là phương pháp thuộc về cung liên hệ. Thí dụ như người có khiếu về âm nhạc lại cứ học toán. Không phải y sẽ không tiến bộ gì, nhưng nếu đi về âm nhạc y sẽ tiến nhanh hơn vì hợp với khả năng hơn. Sự hiểu biết mình là ai, có những khả năng tiềm ẩn nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính xác. Đó mới là mục đích của khoa chiêm tinh. Đa số con người hành động không ý thức, chịu ảnh hưỏng ngoại cảnh, nên luôn bất mãn, không thoải mái. Họ tự đóng kịch với chính mình, hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ không thích hợp. Trong Kinh thánh có câu, “nếu các ngươi không hồn nhiên như trẻ con, các ngươi không thể vào nước thiên đàng”. Điều này khuyên ta nên sống thật với chính mình. Chiêm tinh học có thể giúp ta biết ta là ai, thích hợp với những công việc gì ? Sự nghiên cứu chiêm tinh như thế mới gọi là đứng đắn chứ không phải chỉ xem quá khứ, vị lai, may rủi.

Làm sao con người có thể biết họ thích hợp với cung nào ?
Một nhà chiêm tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá nhân liên hệ với cung nào, điều này đòi hỏi rất nhiều thời giờ, kinh nghiệm. Một phương pháp khác là hãy nhìn hành động mỗi người . Người thuộc cung 1 sẽ đạt đến mục đích bằng sức mạnh ý chí. Người thuộc cung 2, phân tích kỹ lưỡng vấn đề để lựa chọn phương pháp nào hữu hiệu nhất. Người thuộc cung 3 nghiên cứu rất kỹ về thời gian, giờ khắc thuận lợi nhất v..v… Một thí dụ khác như trong việc chữa bệnh, người cung 2 sẽ tìm hiểu nguyên nhân và phương pháp nào thích hợp nhất để chữa bệnh, khi người ở cung 3 sẽ nghiên cứu thời gian nào thuận lợi để chữa. Người ở cung 6 sẽ tìm cách chữa bệnh bằng đức tin. Người thuộc cung 7 sẽ chữa bằng các nghi lễ, cúng tế, v..v.. Tuy nhiên,cách tốt hơn hết là tự mình, xét lấy mình. Hãy dẹp bỏ những điều mình vẫn khoác lên bản ngã như danh vọng, địa vị, ham muốn. Hãy thành thật với chính mình thì ta có thể xem được mình thuộc về cung nào.

15 - THỂ PHÁCH
LÀ NHỊP CẦU NỐI LIỀN GIỮA THẾ GIỚI VÔ VÀ HỮU HÌNH.

Con số 7 là thất khiếu sanh quang làm nên thể phách con người, nếu biết phản bổn hoàn nguyên mà tu hành chính chắn thì con người sẽ được giải thoát khói kiếp luân-hồi mà về hợp nhất với Thượng-Đế.

Chúng ta thường nghe người đời hay nói đến “ tam hồn, thất phách” hay “ ba hồn chín vía”. Vậy Hồn, Phách và Vía như thế nào? Điều này nói ra thì nghe không có gì lạ nhưng hiểu nó là gì thì chắc ít có ai hiểu đặng vì nó chỉ là những con số trong Hà-Đồ. Xin được giải ra đây để nhờ quí Đạo tâm phán xét:

Số 3 là số dương, là quẻ càn . 3 là thành số của 1+2, là tượng cho Trời, cha, là điểm linh-quang, là Linh-hồn của con người  do: sanh hồn, giác-hồn và linh hồn hiệp làm một vậy.

Số 7: Thất-tình của con người, theo Hà-Đồ thì con số 7 là Thiếu-Dương, là phần Dương bị lộn vào âm ở trong nên không được hoàn hảo vì có chữ DỤC (dục vọng). số 7 tạo thành cái thể Phách bao bọc quanh thể xác của con người. Số 7= 2+5 ( Âm dương lẫn lộn chưa phân-định).

SỐ 9: Cũng là một số dương, gốc nó là kim trong Hà Đồ, là thành số của 4+5= 9( là con số thuần dương) . Số chín là gươm “ Thần-Huệ” cũng là thể vía của người tu đắc-đạo, phật-giáo gọi nó là Kim-thân bất hoại.

16 - THỂ VÍA TỨC LÀ THÁNH-TÂM
(TRÍ-TUỆ).

Người không tu thì bị thất tình sai khiến ,lục-dục níu lôi nên thể Phách phải chịu ô-trược, đến lúc chết hồn không thể siêu thăng được. Trong phép Tu hoàn nguyên phản bổn: “thất phản cửu hoàn” thì linh-hồn mới được nhẹ nhàng siêu-thoát.

Các ông hiểu thế nào về sự cấu tạo của con người. Trong lúc tỉnh, thể vía là cây cầu cho tâm thức. Mọi sự va chạm, rung động, cảm xúc bên ngoài do hệ thần kinh giao cảm, được thể vía chuyển vào tâm thức, sau đó mới ghi nhận ở khối óc. Bằng chứng là ta suy nghĩ trước khi ta hành động có phải không ? Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác. Nó cần phục hồi sức khoẻ nên nằm yên, nhưng thể vía lại khác. Nó vẫn hoạt động vì bằng chứng là đôi khi ngủ say nhưng ta vẫn ý thức mọi việc xảy ra chung quanh, có đúng thế không ? Thể vía luôn rung động để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, vì tính chất này nó rất mẫn cảm với các rung động của bản năng, ham muốn, dục vọng. Các tính xấu như giận hờn, oán ghét chẳng qua là sự cô đọng của tư tưởng mà thôi. Sự cô đọng này tạo thành một lớp vỏ bao trùm lên thể vía, và ảnh hưởng của nó. Do đó, tính tình con người chỉ là một thói quen của tư tưởng. Như tôi đã trình bày, tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều bị thu hút vào thể vía và trực tiếp ảnh hưởng đến tình cảm con người. Bằng chứng là một người có tâm hồn thanh khiết không thể hợp với những nơi ồn ào náo nhiệt, ngược lại kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm. Có người tự hỏi, tại sao họ không thể ngồi yên một chỗ, không thể tu tập các pháp môn thiền quán ? Ấy vì thể vía họ lao chao, giao động. Họ cần biết cách chủ trị tình cảm, thanh lọc thể vía. Các món đồ ăn nặng trọc như thịt cá, rượu, các chất kích thích cũng đem vào thể vía những phần nặng trọc. Người tu phải triệt để từ bỏ các món ăn này, vì nó rất có hại cho việc tham thiền, quán tưởng. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua bảy trung tâm giao điểm sinh lực gọi là Luân xa. Tại đây, có một tấm màn cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần để ngăn chận ảnh hưởng cõi âm. Vì thế, ký ức và sinh hoạt lúc ngủ không chuyển sang khối óc vật chất. Tuy nhiên, đôi khi ngủ dậy ta vẫn mường tượng có một cái gì mà không sao nhớ được. Đối với một người bình thường thì luân xa không thức động nên tấm màn này khép chặt, nhưng rượu, thịt, các chất kích thích có thể phá hoại tấm màn này khiến nó bị rách và ảnh hưởng cõi âm có thể chuyển qua cõi trần khiến y bị điên khùng hay rối loạn hệ thần kinh. Có khi cá nhân mất tự chủ, bị các loài ma quỷ( Các vong-linh bất hảo) nhập vào sai khiến.

Tuy nhiên, theo sự hiểu biết của chúng tôi thì khoa học không thể chứng minh điều này. Liệu có cách nào khiến chúng ta khai mở các quan năng để nghiên cứu cõi giới vô hình không

Sự khai mở quyền năng thuộc phạm vi tâm thức, trước khi mở tâm phải tinh luyện các thể đã. Nếu chưa thanh lọc được các thể thì đừng nói đến khai mở bất cứ một giác quan nào.
- Vậy ta phải luyện các thể bằng cách nào ?
- Tinh luyện thể trí bằng sự suy tư chân chính (tức học Đạo-Dịch). Trí tưởng tượng con người là một công cụ sáng tạo hữu hiệu. Khi ta suy tư, tưởng tượng, ta vô tình xây dựng thể trí. Nếu ta chỉ suy tư những điều tốt lành, cao thượng thì ta đã luyện trí rồi. Sau thể trí là thể vía, thể này chỉ luyện bằng cách ham muốn chân chính. Hãy ham mê các điều cao thượng thì tự khắc thể vía sẽ phát triển.

Nhưng tư-tưởng cao thượng và ham muốn chân chính là những điều trừu tượng, làm sao có thể làm được…
- Đa số mọi người quan niệm như thế nên chả khi nào tiến bộ được. Con người muốn quyền năng, giải thoát nhưng chỉ chờ đợi một phép lạ, một tha lực ngoại giới, chứ không tự tin rằng mình có khả năng làm những việc đó.
- Dù tôi muốn thanh lọc các thể thì cũng phải có một phương pháp, một sự hướng dẫn, một kỹ thuật nào đó, chứ nói một cách trừu tượng thì ai nói chẳng được.
- Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng dạy những điều cao đẹp và áp dụng những lời dạy này. Đây cũng là một phương pháp, kỹ thuật thanh lọc các thể .

17 - PHƯƠNG-PHÁP THANH-LỌC CÁC THỂ.
a - THỂ XÁC
Thứ nhất là luyện thể xác, phải biết cách kiểm soát, kiềm chế thể xác hoàn toàn, quy định mọi hoạt động như ăn, uống, ngủ cho thật đúng. Thức ăn được phân làm ba loại : tỉnh, động và điều hoà. Người tập phải tránh đồ ăn “tỉnh” vì nó làm thể xác hôn mê, lười biếng, bất động. Các thức ăn có đặc tính “tỉnh” là các món đang lên men, các thứ đồ khô, các loại rượu. Các món ăn có đặc tính “động”, như thịt, cá, thường đem lại các kích thích hăng hái nhất thời, xác chết thú vật gồm nhiều nguyên tử nặng nề bởi các thú tính thấp hèn không thích hợp cho việc tu hành, thanh lọc. Chỉ có các món ăn “điều hoà” là thứ có khả năng tăng trưởng, chứa nhiều sự sống như ngũ cốc, vì nó đâm mầm, nẩy lộc, các loại trái cây vốn tràn đầy nhựa sống, các loại rau cỏ vốn hấp thụ khí thái dương cần thiết cho một thể xác cường tráng, nhạy cảm. Sau việc ăn uống, còn phải thở hít, hô hấp cho đúng cách. Khoa học chứng minh con người sống được là nhờ hơi thở nhưng thật ra đó là nhờ sinh khí (prana). Chính các sinh khí này thấm nhuần khắp cơ thể, mang sự sống đến khắp tế bào. Prana xuất phát từ ánh sáng mặt trời, nó rung động và pha trộn trong không khí. Bằng cách hô hấp thật sâu, thong thả. Prana sẽ thấm vào thần kinh hệ và lưu thông khắp châu thân, mang sự sống khắp xác thể. Chính các Prana tích tụ trong hệ thần kinh tạo ra luồng “nhân điện”, một yếu tố quan trọng của sự sống.

Tóm lại, dinh dưỡng đúng cách bằng các món ăn có đặc tính “điều hoà”, tập thở hít đúng cách là phương pháp tinh luyện thể xác vô cùng quan trọng. Như các ông thấy, phương pháp này không có gì trái với khoa học hiện tại. Cách thực hành có thể khác nhau tuỳ cá nhân, người gọi là thể dục, kẻ gọi là thiền định, điều này không quan trọng vì căn bản chính chỉ nhằm đem lại một thể xác lành mạnh, cường tráng. Người luyện thể xác cần sống nơi thoáng khí, nhiều ánh sáng mặt trời để đón nhận các sinh lực prana, nhằm bổ túc luồng nhân điện.

Các món ăn như thịt cá mang lại các rung động thô bạo, khiến luồng nhân điện này chạy loạn lên khó kiểm soát, gây nên các bệnh tật hoặc phá hoại hệ thần kinh. Các món ăn “tỉnh” như rượu làm tê liệt bộ thần kinh khiến luồng nhân điện bị ngắt quãng không đều, ngăn trở các sinh khí prana lưu thông mang sinh lực nuôi thể xác, gây nên nhiều hậu quả không tốt.

b  - THỂ VÍA
(hay đệ nhị xác thân)

Luyện nhị xác thân theo lời thuyết đạo của Đức-Hộ-Pháp:
Muốn cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy đặng tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai giới, chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bác, tùng khuôn viên thiện đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh quang tiếp với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại thì nó trực tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng nó nghiệt ác thì nó phải dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh hồn tức là hằng sống vậy.

Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỉ khóc, chiến tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để giết người. Hiện tại nơi Mỹ Châu, Cổ Tàng Viện của họ có đến 200 triệu quyển sách. Cứ bổ đồng một ngày xem một quyển thì phải sống đến mấy đời mới đọc hết được.

Chí Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần, nên Chí Tôn đến khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thể thế giới nầy những điều tinh ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề đến ta được.

Nếu ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục.

Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn.

Cả thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.

Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên, Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt ngôi vị là phải trau luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí hườn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo vậy.

Trọng giá của Tam Bửu mà Chí Tôn ưa chuộng để dâng Ðại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái họa tranh thù gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới.

Ấy vậy, muốn duy trì sự hòa hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí Pháp đó mà thôi, dầu triết lý thâm uyên đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; mà nếu không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình, thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ.

LUYỆN THỂ VÍA

Sau khi thanh lọc thể xác, ta bắt đầu luyện đến thể vía. Thể vía là trung tâm của tình cảm, một khi tình cảm trong sạch, vị tha, bác ái, đương nhiên các chất thanh nhẹ sẽ được hấp thụ vào và các chất nặng trọc, xấu xa sẽ bị đào thải ra ngoài, theo một nguyên lý giống như sự thấm lọc (osmose). Khi thể vía thanh cao, nó sẽ rung động với các tư tưởng cao thượng mang tâm thức lên một bình diện cao hơn. Khi sự rung động đến một chu kỳ nào đó, các giác quan thể vía bắt đầu khai mở tự nhiên, con người sẽ bắt đầu có quyền năng đặc biệt. Nói một cách khoa học hơn, các giác quan thể vía chỉ hoạt động ở một chu kỳ và chỉ khi nào thể vía rung động đúng chu kỳ này nó mới được đánh thức để hoạt động. Thể vía chỉ có thể rung động ở chu kỳ này vì nó được cấu tạo bằng những nguyên tử thật thanh, nhẹ, khi những nguyên tử nặng trọc bị khu trục hết. Điều này chỉ xảy ra khi con người chỉ có các tình cảm cao thượng, lòng bác ái tốt lành bao trùm mọi vật. Đó là bí quyết cách luyện thể vía.

Khi bảy giác quan của thể vía hoạt động, nó sẽ khai mở một số bí huyệt để luồng hoả hầu Kundalini thức giấc. Khi luồng hoả hầu này chạy dọc theo xương sống lên đỉnh đầu, nó sẽ thúc đẩy, khai mở thể trí khiến nó khai triển để hợp nhất với chân thần. Khi thể trí khai triển, mở lớn ra nó sẽ khởi sự tiêu diệt cái phàm ngã ích kỷ của con người để hướng đến các điều thánh thiện. Đây là một giai đoạn vô cùng khó khăn, rất ít ai vượt qua nổi. Danh từ Phật giáo gọi là Phật tánh biểu lộ, danh từ Thiên chúa giáo gọi là quên mình để hoà nhập với đấng cứu thế, danh từ Ấn giáo gọi là sự hợp nhất với Chân Ngã. Nói một cách giản dị thì đây là lúc trí tuệ quy kết các tư tưởng và hoạt động về tình huynh đệ, bác ái nhu thuận, từ bi, trí tuệ, vị tha, hỷ xả để kết tinh thành chân ngã. Khi phàm ngã hoàn toàn bị huỷ diệt, các thể cũng hoàn toàn được thanh lọc thì không còn sự phân biệt giữa ta và tha nhân, giữa chủ thể và đối tượng mà tất cả đều là một. Thể trí không còn tính cách cá nhân mà đã thành “đại trí”, hay trí tuệ “bát nhã”. Tâm thức cũng không còn là tâm cá nhân mà thành tâm thức “bồ đề”, hoà hợp hoàn toàn với tâm thức vũ trụ. Cả tâm lẫn trí mở rộng đón nhận ánh sáng chân lý mà không còn phải học hỏi, lý luận gì nữa. Đây chính là giai đoạn giác ngộ của người tu. Họ trở nên một đấng siêu nhân, một vị Tổ, một vị Thánh…

Căn cứ vào đâu ta biết được như vậy ? Phải có bằng chứng gì chứ ?
Các kinh nghiệm quý báu, thiêng liêng đó chỉ có các bậc giác ngộ rồi mới hiểu được. Không một vị thánh nào vỗ ngực tự xưng đã đạt quả vị này hay quyền năng nọ. Khi đã giác ngộ thì chức tước, danh vọng, địa vị đâu có nghĩa lý gì nữa, vì họ đâu còn bản ngã thấp hèn như chúng ta để phân biệt. Chỉ có các “bậc lừa bịp”, các tu sĩ giả mạo mới thích danh vọng, chức tước, vì bản ngã họ còn to lớn và cần các danh xưng, địa vị để lừa bịp tín đồ nhẹ dạ.
- Trên nguyên tắc thì như vậy, nhưng còn phương pháp, kỹ thuật thì sao ?
- Phương pháp, kỹ thuật thì rất nhiều, con đường đến chân lý cũng thế, tuỳ theo nhân duyên, căn cơ cá nhân không thể áp dụng một kỹ thuật nào cứng nhắc được. Phương pháp, kỹ thuật có thể khác nhau, nhưng nguyên tắc chỉ có một.
Sự thật là chân lý luôn luôn được truyền dạy dưới hình thức này hay hình thức khác., tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh và phương tiện. Phương pháp tuy khác nhưng chân lý vẫn là một giống như nước suối hay nước sông vẫn là nước mà thôi. (Tuỳ duyên bất biến).

18 - CÕI-GIỚI VÔ-HÌNH

Vấn-đề sử dụng khả năng thần nhãn vào các việc khác như thế giới bên kia cửa tử vẫn được như thường khi nào ta tu có được trí-tuệ, lúc bây giờ người tu cũng đọc được tư-tưởng của người sống và biết được họ đang nghĩ gì.

Bạn mến, trước hết tôi xin xác định rằng chết không phải là hết, mà chỉ là một giai đoạn di chuyển từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Con người chỉ rời bỏ thể xác này thôi. Sự chết không có gì đáng sợ như người ta vẫn nghĩ.

Như thế người chết có thấy chúng ta không ?
Họ nhìn thấy chúng ta qua thể vía mà thôi. Do đó, họ biết được tình cảm hoặc ý nghĩ, cảm xúc của ta mặc dù họ không còn nghe được lời nói, âm thanh cõi trần nữa.

Như vậy họ vẫn ở gần người sống ?
Lúc mới từ trần, còn quyến luyến, họ vẫn ở nguyên chốn cũ, gần nhà cửa, gia đình, những người thân. Theo thời gian, họ ý thức được cõi giới mới rồi siêu thoát, nghĩa là hoà nhập với cõi giới mới, không quanh quẩn ở cõi trần nữa. Sự quyến luyến rất có hại cho người chết, nhất là những người chết bất đắc kỳ tử. Họ còn nhiều dục vọng, ham muốn, nên cứ quanh quẩn ở cõi trần, không chịu đi đâu hết.

Số phận trẻ em khi chết ra sao ?
Chúng ít ham muốn, dục vọng, nên thảnh thơi, tự tại hơn. Lúc đầu chúng vẫn quanh quẩn, nô đùa quanh cha mẹ, và không ý thức sự chết của mình. Chúng tái sinh rất mau lẹ và thường hay trở lại gia đình cũ vì các nhân duyên từ trước. Thí dụ như một bà mẹ xẩy thai do sự bất cẩn của bác sĩ chẳng hạn. Đứa bé vẫn tiếp tục quanh quẩn bên mẹ chúng và sẽ đầu thai trở lại khi có dịp. Trong trường hợp phá thai lại khác, đứa bé không hiểu tại sao mẹ nó lại ghét chúng và làm hại nó như thế ? Nó quanh quẩn gần đó một cách đáng thương và tìm cách hỏi mẹ chúng nhưng dĩ nhiên không tìm được câu trả lời.

Người Á châu thường tin rằng các vong linh thân nhân có thể giúp đỡ người sống và có các quyền năng đặc biệt, vì vậy, có tục lệ thờ cúng tổ tiên. Theo ông thì điều này ra sao ?

Theo sự hiểu biết của tôi, con người khi sống ra sao thì chết cũng thế thôi. Không có gì thay đổi hết! Họ không thông minh hơn, hiểu biết hơn. Hơn nữa, âm dương cách trở, họ khó có thể giúp gì cho người cõi trần. Dĩ nhiên, họ rất muốn tiếp xúc với thân nhân còn sống, nhưng người sống đâu ý thức gì đến sự hiện diện của họ. Đó cũng là lý do người chết rất đau khổ. Hơn nữa, người chết đọc được tư tưởng người sống qua thể vía và đôi lúc biết rõ sự thật còn làm họ đau khổ hơn nữa. Thử tưởng tượng cha mẹ đọc được tư tưởng đứa con mừng rỡ khi cha mẹ chết vì được hưởng gia tài. Người chồng mừng rỡ vì vợ chết rồi, từ nay tha hồ tự do, muốn làm gì thì làm. Người chồng thấy vợ mừng chồng chết vì đã trút được gánh nặng. Các ông nên biết, người đau khổ nhiều, phần lớn là người chết, chứ không phải người sống. Do đó, họ cần được an ủi, chỉ dẫn.

Có nhiều cách giúp đỡ người chết: một cách tiêu cực và một cách tích cực. Đối với thân nhân người chết, họ có thể làm một cách tích cực như giúp cho người chết thấy thoải mái, nhẹ nhàng để họ mau siêu thoát. Việc thứ nhất nên tránh than khóc, kêu gào, để người chết khỏi xúc động, thương tiếc, và quyến luyến, khó rời cõi trần được. Việc thứ hai là tránh cỗ bàn, mổ gà, làm thịt vì như thế chỉ kêu gọi các vong linh bất hảo, các cô hồn đói khát kéo đến đầy nhà gây ảnh hưởng xấu đến người chết. Nên cầu nguyện trong suốt 81) ngày liền (gọi là Tuần-cửu vì đây là lúc người chết đang ở trong trạng thái quan trọng, sự cầu nguyện khiến đầu óc họ trở nên sáng suốt, hiểu biết dễ siêu thoát.( về phần cầu siêu cho vong linh thời kỳ ba này chúng ta nên theo chân-truyền của Đạo Cao-Đài Tây-ninh: làm tuần cửu thay vì tuần thất như xưa không còn phù-hợp nữa) Nên thiêu xác thay vì chôn cất, để người chết không thấy đau khổ khi nhìn thể xác mình hư thúi, bị dòi bọ đục khoét. Khi không còn lưu luyến thể xác, họ sẽ dễ siêu thoát hơn. Tại Ấn độ, tất cả người chết đều được hoả táng, đó là phong tục rất tốt, vì không còn các vong hồn quanh quẩn các nghĩa địa nữa. Việc tích cực giúp đỡ thường do các tu sĩ đảm trách. Họ xuất vía sang cõi chết để an ủi, hướng dẫn vong linh.

Tu sĩ đảm nhiệm việc này phải phát nguyện phụng sự hoàn toàn, phải trải qua một thời gian huấn luyện để giữ tâm trí luôn sáng suốt, vì cõi chết có nhiều cảnh ghê rợn với các sinh vật lạ lùng, một người thiếu kiến thức, hiểu biết, có thể kinh hoàng ghê sợ. Chỉ khi nào có thể tự chủ hoàn toàn, không bị ảnh hưởng bên ngoài làm giao động, tâm hồn luôn yên tĩnh không lo âu, sợ sệt và có một tình thương hoàn toàn rộng rãi đến tất cả, không còn phân biệt, thì sự giúp đỡ mới kín đáo, vô tư và có hiệu quả. Các ông nên nhớ, qua cõi này, sinh vật có thể đọc được tư tưởng lẫn nhau nên một lời nói không chân thật, tinh khiết có thể mang đến hậu quả không thể lường được.

Tại sao ông biết rõ như thế ?
Tại vì tôi đang được huấn luyện để làm việc này. Sự khai mở thần nhãn giúp tôi thu thập kiến thức về cõi giới vô hình. Từ đó, tôi nhận thức sứ mạng đức Mẹ đã giao cho tôi. Tôi đã phát nguyện dành trọn đời để thực hiện thiên ý. Đó là lý do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng của đô thị để đến đây. Ban ngày, tôi là một bác sĩ chăm lo săn sóc những người bệnh. Thời giờ còn lại tôi phục vụ đức Mẹ qua các công việc ngài giao phó. Các bạn thân mến, trọn cuộc đời, chưa lúc nào tôi sống thật trọn vẹn như bây giờ.

Hamud im lặng một lúc rồi thong thả :
- Cứu trợ, giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một điều hết sức cần thiết vì người chết thì nhiều, mà người hiểu biết lại chẳng có bao nhiêu….
- Nhưng đâu phải ai cũng làm được việc này, phải có các quang năng đặc biệt như ông, hay đợi lúc chết mới giúp đỡ được chứ…

Hamud lắc đầu :
- Không phải khi từ trần mới làm được việc này. Khi còn sống ta vẫn có thể làm được mà cũng không cần khai mở quang năng nào cả. Bất cứ ai biết suy nghĩ đều có thể làm được. Các ông nên hiểu rằng khi ngủ, thể vía của ta được tự do có thể hoạt động bên cõi âm. Nếu ta tập trung tư tưởng trước khi ngủ vào một sự giúp đỡ, an ủi nhắm mục đích hướng dẫn, cứu trợ tất cả mọi người không phân biệt thì điều này sẽ được thực hiện.

Dĩ nhiên, điều này không nguy hiểm gì hết vì tư tưởng có một sức mạnh thần giao đặc biệt và có một mãnh lực phi thường ở cõi âm. Nếu ta tập làm những việc này khi còn sống, ta sẽ không bỡ ngỡ, ngạc nhiên khi qua cõi bên kia vì ta đã quen thuộc với nó rồi. Ta còn gặp những người nhờ tư tưởng của ta mà được giúp đỡ, dĩ nhiên là họ sẽ đón tiếp ta nồng hậu và từ đó sẽ tiếp tục làm những công việc này…

Nghe thì dễ thật nhưng nó đòi hỏi một sự quyết tâm. Thứ nhất việc làm của ta phải bất vụ lợi, vị tha, vô tư vì cõi âm là cõi tư tưởng . Nếu ta có ý định mưu đồ việc gì, những người khác biết ngay và hậu quả lại chưa biết thế nào mà lường được. Thứ hai, đa số vong linh đều u mê, ngoan cố, rất khó thuyết phục, vì các nghiệp quả trói buộc hoặc lưu luyến cõi trần vì con cháu khóc than, thương tiếc quá làm họ đâm ra xúc động khó siêu thoát. Do đó, công việc này đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo và một tâm hồn an tĩnh, không bối rối, xúc động. Nhưng khi ta đã phát tâm thì tư tưởng này sẽ là một khí cụ rất tốt giúp đỡ ta rất nhiều. Theo ý kiến của tôi, thì việc có một kiến thức rộng rãi về cõi âm là căn bản đầu tiên.

a - CÕI TRUNG GIỚI

Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?
Vị pháp sư nghiêm giọng :
- Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này.
- Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tuỳ theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tuỳ theo vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi. Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này. Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tuỳ theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn. Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng. Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ xẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú. Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằng và thường tìm cách trở về cõi trần. Tuỳ theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được. Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ xẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt. Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thoả mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng. Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác.

Tuỳ theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như  người Á châu chăng ?

Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người :
- Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford…
Giáo sư Harding giật mình kêu lên :
- Oxford ư ?
-Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ?
- Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1864, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.

(Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1856 và tốt nghiệp năm 1864 với bằng Tiến sĩ Vật lý).
- Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?
- Tôi đã khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học.

- Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt.

Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.

Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng- Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?
- Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lớn là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
- Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ?
- Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng-Như thế có nguy hiểm không?
- Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn…Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa….
- Ông có thể làm như vậy không ? Vị pháp sư nghiêm mặt - Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.
- Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.

b- NHỮNG CẢNH GIỚI CÕI ÂM

- Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự. Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tuỳ theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới. Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngay. Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáy cũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau.

Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể thoả mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không sao thoả mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu.

Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thoả mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyện vu vơ nhằm thoả mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm.

CÕI THỨ NĂM
(Cõi hình thành “ Hình tư tưởng”)

 Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép.

Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”. Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tuỳ theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngay.

Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông ta. Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến.

Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm, phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”. Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí.

Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán.

Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưởng lẫn nhau, và đôi khi kết những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia.

Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung động nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảm-dục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại.

Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tế nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, phát triển các đức tính riêng trước khi siêu thoát lên cảnh giới cao hơn.

THỜI GIAN LƯU LẠI CÕI TRUNG GIỚI.

- Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao  lâu?
- Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tuỳ thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ. Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát.

Tóm lại, danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tuỳ theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng.
Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào. Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học.
- Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ. Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thoả mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta.
Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh.

Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ?
Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn. Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm.

Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát.

Một sự chuẩn bị ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn.
- Nhưng còn các ma quỷ thì sao ?
- Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng

19 - PHẦN KẾT

Đến đây soạn-giả xin tạm kết thúc đề tài  “Sống Đạo” mặc dù Đạo thì vô-cùng biết sao nói hết được.

Chí-Tôn nói: “Các con, Thầy cũng đã thấy rõ lòng của các con khắn khít về nền đạo là dường nào. Trong các con, nhiều đứa muốn chư Thần Thánh hành phạt những tánh bất lương của bọn vô đạo kia đặng làm cho đường đạo vững bền, nền đạo mau thành tựu. Nhưng Thiên cơ há vị phàm phu tục tánh mà để cho các con toại kỳ sở nguyện sao. Các con khá thương hại cho lũ vô tâm ấy mà chẳng nên cưu hờn. Thầy vì lấy từ bi mà dìu dắt các con, nên tạm sửa chút máy huyền vi, là để cho các con lấy chí thánh của Thầy un đúc bấy lâu, mà đối đãi với kẻ nghịch cho đến ngày mãn công quả.

“Ðường đạo vững bền, chớ nên bạo tánh mà cũng chẳng nên giải đãi bần dùn, gắng công trì chí, liệu chừng với nhau mà vẹt cho sạch mấy lối chông gai, để cho dễ bước đường sau tấn bộ.

 Thiên Thơ đã có đủ các máy hành tàng, nhưng Thầy vì thương các con mà phải sửa nét tân khổ ra đường lo liệu.

 Các con đặng tự do mà hành biến cho xong việc; kẻ lo lắng bao nhiêu, thì đường về chung hiệp cùng Thầy bước đặng bấy nhiêu, kẻ vô tâm trở lòng phá nền Ðạo bao nhiêu, thì hành phạt sẽ chất đầy bấy nhiêu.

Tòa Tam Giáo đã xin ngưng phổ độ nơi đây nhiều lần, song vì Thầy thấy lòng chí đức của các con mà chẳng nỡ.

Lý Bạch và Quan Thánh cũng xin hành phạt lũ vô đạo, Thầy chẳng khứng là vì muốn để các con chịu dày thêm chút ít hạnh khổ đó.

... Trong các con mỗi đứa đều lưu tâm tưởng cho nền Ðạo sẽ đặng vững bền đồ sộ, là biết vì Thầy đó. Xưa các Thánh làm cho nên mối Ðạo biết bao là công trình ngày tháng!

Ðạo của Thầy gieo có mấy lâu, mà tình hình thế sự thể nào? Bao nhiêu cũng đủ cho các con vui lòng mà bước tới. ( tiếp theo là lời của Hộ-Pháp).

 “ Ngày nay Đức Chí-Tôn đã mở cho chúng ta một con đường Thiêng-liêng Hằng-sống và Bần-Đạo đã vâng lịnh của Đức Ngài tạo dựng một bến giải-thoát cho toàn thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu này.

Bần-Đạo nói: “ Từ đây, kể từ ngày nay cửa thiêng-liêng của Đạo đã mở rộng, Bần-Đạo kêu toàn thể con cái Đức Chí-Tôn, ai hiểu biết mình đứng trong hàng phẩm cửu nhị ức nguyên-nhân hãy tỉnh mộng lại đặng về cùng Đức Chí-Tôn”.
 “Cửa nầy là cửa các Người đến đạt-pháp đặng giải-thoát lấy mình, nếu không tự mình đến trong lòng Đức Chí-Tôn, vì Đức Chí-Tôn đã đưa tay ra nâng đỡ, mà chúng ta không đến, không tưởng nghĩ đến thì sau này ắt sẽ bị đọa-lạc nơi cõi Phong-đô”.

 “ Giờ phút ấy không còn trách Đức Chí-Tôn rằng không thương yêu con cái của Ngài , không đem cơ-quan tận độ chúng sanh để nơi mặt địa-cầu này cứu vớt nữa”.

Chơn pháp Đại-Đạo đã được Đức Hộ Pháp gói trọn trong bài Thi khoán thủ sau đây. Chúng ta hãy vững niềm tin vào nền chánh-giáo mà an lòng lo lập công bồi đức trong kỳ Ba này.

THI:
ĐẠI đồng xã hội hưởng hồng ân
ĐẠO hạnh dìu nhau khá dặn lòng
TAM giáo hiệp-đồng cơ tận độ
KỲ ba trổ mặt giống Tiên-Rồng
PHỔ thông Chơn-đạo nơi HÀ-LẠC (1)
ĐỘ khắp năm châu giữ thiện đồng
CAO thượng Chí-Tôn quyền chủ-toạ
ĐÀI tiền sùng bái giữ nâu sồng

Đức Trạng trình Nguyễn bỉnh khiêm cũng có nói đến hai chữ Đồ-Thơ trong bài thi “ Điền viên thú” sau:
Lọ là thành thị với lâm tuyền,
Được thú thì hơn miễn phận bàn.
Bởi vụng bất tài nên kém bạn,
Âu già vô sự cũng là tiên.
Đồ-thư (1) một quyển, nhà làm của;
Phong nguyệt năm hồ, khách nổi thuyền.
Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế;
Cơ mầu tạo hoá mặc tự nhiên

 Ghi chú: (1) Hà-lạc; Đồ-thơ cũng là một:Hà-Đồ và Lạc-Thơ.

QUYỀN PHÁP CỨU THẾ.

Trích Thánh-giáo Sưu tập của “cơ quan phổ-thông giáo-lý” Cao-Đài giáo Việt Nam. Đàn cơ tại Nam Thành Thánh Thất, Ngọ thời mùng 01 tháng giêng năm Kỷ Dậu (17-02-1969).

Thầy các con!
Thầy mừng các con Nam cũng như Nữ, lớn cũng như nhỏ.
Thầy vui lòng sự hành đạo của các con, dầu được ít, được nhiều cũng vậy.
Thầy vẫn ban ơn cho các con đồng đều cũng như ban ánh sáng và không khí, chẳng lựa riêng cho hàng thiên phong chức sắc.
Các con muốn Đạo sớm thành để hoằng dương độ thế thì hãy hành Đạo trong khuôn khổ “Quyền pháp”.
Thầy ban ơn toàn thể các con hãy rán thương nhau mà hành đạo. Nếu chưa được thương nhau thì cũng không được phép ghét nhau. Hễ các con ghét nhau tức là tự ghét mình và cũng là ghét Thầy đó vậy, mà hễ các con ghét Thầy là cơ hội tốt để ma quỷ đến ám ảnh, diều dẫn các con đi vào nẽo u đồ rẽ chia và huỷ diệt . Thôi Thầy giả từ các con, Thầy hồi Bạch Ngọc!

LỜI GIẢNG DẠY CỦA ĐỨC GIÁO TÔNG
THÁI BẠCH KIM TINH

 (Đàn cơ tại Nam Thành Thánh Thất – Ngọ Thời ngày 01-01-Kỹ Dậu).
Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh,
Bần Đạo mừng chư hiền đệ, hiền muội!
Chư hiền Đệ, Hiền Muội! Muốn chạy loạn phải lo bề trị loạn. Muốn thành công thì phải thấu triệt lý thành công . Kìa những câu: Thiên thượng, Địa hạ  duy Ngã độc tôn – Thiên nhơn hợp nhứt – Tạo Tiên, tác Phật thị do Tu – Thầy là các con, các con là Thầy”. Vì sao mà nói như thế? Do đâu mà có và muốn có phải làm sao?

Đây, Bần Đạo muốn nói đến “ Quyền Pháp”.
Đại Từ Phụ nắm  “quyền pháp” mới chuyển cơ sanh hoá vạn vật vũ trụ. Con người nắm được quyền pháp mới chuyển đưa vật loại vào thiên lý, và chuyển thiên lý vào vật loại. Hiệp Thiên Đài nắm giữ quyền pháp, mới đưa Cửu Trùng Đài vào Bát Quái, chuyển lý hành tàng của Bát quái vào Cửu Trùng, kẻ giác ngộ, người tu hành có quyền pháp thì mới đưa Đạo vào đời và đạt mục đích cứu nhơn độ thế.

Vậy quyền pháp là “Cơ” là “Lý”, là phương định đưa tuyệt đối vào sở vật tương đối, chuyển vô thường giả tạm vào siêu nhiên bất diệt.

Nếu không làm được Đông thành Xuân, phàm tục thành Tiên, Thánh, loạn nên trị, chiến đấu ra an bình, vị kỷ ra đại đồng, chính là chưa đạt được “Quyền Pháp” đó!

“ Quyền pháp” không giao riêng cho ai, cho xã hội nào, cho tôn giáo nào. “Quyền Pháp” có vẫn có, tuỳ tâm ý mà đạt định, tuỳ sứ mạng mà nhận lãnh.

Hãy nhìn xem quả trứng gà, Chư Hiền đệ muội sẽ thấy những gì? Bần Đạo muốn nói ở dây là  “Quyền pháp” từ rất nhỏ cho đến rất lớn đều từ Thượng Đế mà sanh, từ Đại Từ Phụ mà thành.

Sở vật thực tại được tạo thành và biến sanh đều do “Quyền pháp”. Điểm Quyền pháp ở đây là cái ngòi của quả trứng. Những cái ngoại thực nội tại có đủ, nếu cái ngòi thật tốt thì quả trứng gà sẽ biến thành con gà sau một thời gian nào đó, Trái lại, nếu không có điểm “Quyền pháp” của Thượng Đế ban, dầu có đủ điều kiện, quả trứng vẫn hư hoại.

Trong sở vật thực tại con người, điểm quyền pháp là linh hồn. Nhờ đó mà sinh ra, trưởng thành, và có thể tiến hoá đến mức đổi phàm ra Thánh, thay tục hoá Tiên được. Đó là thí dụ nhỏ của quả trứng.

Còn sở vật thực tại rất to tác trước thời tạo Thiên, lập Địa là ngôi Vô-Cực Diêu-Trì, và điểm “Quyền Pháp” được chứa đựng là Ngôi Thái Cực, là Thầy chính “Quyền Pháp” nằm trong sở vật thực tại, chuyển biến và hoá sanh vạn loại, cũng chính nhờ đó mà không một vật nào biến mất, cũng không có gì là tân tạo .

Một thí dụ khác: - Một toà lâu đài to tát, đó là một sở vật thực tại đẹp đẻ, vì không có “Quyền pháp” cũng như cái quả trứng không ngòi; do đó quả trứng sẽ hư hoại , lâu đài sẽ xụp đổ trong thời gian, dầu có muốn hay dầu không có muốn.

Đạo Thầy cũng thế. Hiệp Thiên Đài nắm giữ “Quyền Pháp”. Nhờ đó mà có Toà Thánh, Hội Thánh, Thánh thất, Thánh Tịnh, Tân luật, Pháp-chánh-truyền lưu giáo lý Đại Đạo.

Trong hiện tình nhân loại phân tranh chiến đấu, đó chính là sở vật thực tại đang biến dưỡng. Một là, nếu như quả trứng không ngòi, thì thế giới này sẽ huỷ diệt. Hai là nếu có điểm “Quyền Pháp” thì thế giới sẽ tạo một “thiên đàng thuần chánh”.

Con gà chỉ là con gà, sau khi tự phá vỏ trứng. Thế giới này cũng thế. Hãy suy gẫm!
Các tôn giáo hiện có chỉ là các cấu tử chớ chưa phải là “ĐẠO’, là “tôn giáo cứu thế”. Vì lẽ đó, Đại Từ Phụ mới ban “quyền pháp”.
 “Quyền pháp” là Thầy, là Đạo, là động năng thúc đẩy tạo thành Thánh Đức sau Hội Long Hoa..

Bần Đạo đã nói “Quyền pháp” là Thầy, là Đạo. Nhắc lại, Đạo chớ không phải là tôn giáo.
Trong sở vật thực tại của tôn giáo trên thế giới, tất cả tôn giáo từ xưa nay đang biến dưỡng tranh chấp để tiến hoá. Sự tiến hoá không là hỗn tạp mà từ sự mâu thuẩn.

Đại Từ Phụ dựng Cao Đài nơi vùng Đông Nam Á này để làm  “Quyền Pháp”. Chính sứ mạng quyền pháp này thúc đẩy mọi sở vật thực tại tôn giáo kết thành thực thể “Đạo cứu Thế” trong Tam Kỳ Phổ Độ, cũng như cái ngòi gà trong quả trứng vậy.

Nhìn lại điểm “Quyền pháp” mà Thượng Đế đã đặt để cho dân tôc này chưa làm tròn sứ mạng của “Quyền Pháp” vì tôn giáo hiện hữu còn tranh chấp là chưa tạo được một thực thể Đạo thuần chánh để cứu thế.

Không phải Thượng Đế cấy lúa trên tảng đá, hay trao quyển binh thư cho người mù chữ. Ngoài ân ban, Đức Thương Đế còn nhận thấy dân tộc này có thể thi hành sứ mạng “ Hảo Nam Bang! Hảo Nam Bang! Tiểu quốc tảo khai hội Niết Bàn”.

Bần Đạo nói để chư Đệ, Muội không lấy làm buồn mà để nhận một thực tế. Dân tộc này, Đại Từ Phụ đã chọn, như Gia Tô giáo chủ đã nói trong lễ giáng sinh:
 “Chỉ có tâm thức thì sáng mà ý thức còn u tối”. Chính vì vậy mà “Quyền pháp này chưa lập được”.

Ngòi gà ở trong quả trứng không là tròng trắng hay tròng đỏ. “Quyền pháp” mà Thầy đã ban không là tôn giáo này hay tôn giáo khác.
Thử đứng trên nhịp cầu nhìn dòng nước chảy, giờ này và giờ sau, cũng thành cầu đó, cũng dòng sông đó, cũng cảnh vật đó, chư hiền đệ muội! nó đã đổi khác rộng lớn, vơi đầy. Những cái qua tất phải trôi qua! Những cái xưa cũ đều là xưa cũ. Tiến hoá không là tổ hợp mà là khai sanh.

Sứ mạng của dân tộc này to tát như thế; “Quyền pháp” quan trọng như thế, không phải làm không được. Chư Đệ, Muội hãy chờ đợi, việc sẽ đến và đang đến. Từ ngàn xưa, trên lịch sử đã từng được nghe và thấy rõ Việt Nam, một dân tộc mà cả thế giới đều nhìn vào, không phải nhìn vào vì nó có sự đe doạ tàn phá cả thế giới, mà nhìn vào chính nó là một động năng cứu rỗi xây dựng mới trên toàn thể nhân sinh.

Muốn được vậy, chư đệ muội phải làm sao? Làm thế nào để phát huy “Quyền pháp” được đặt để ? Từ xưa, các tôn giáo được tạo lên để giải quyết tâm linh, nhưng Tam Kỳ Phổ Độ Thầy phải trao cho chư Hiền, cho dân tộc này một “Quyền pháp Đạo” thực thể thuần chánh để cứu thế.

Tôn giáo là chiếc hoả xa, mà người hành đạo phải biết rằng mình là hành khách. Nếu chư Hiền cho rằng mình là xe hoả, thì từ đầu thời gian cho đến cuối thời gian, cũng chỉ đi lại trên con đường thiết lộ.

“Quyền Pháp Đạo” thực thể cứu thế phải có trách nhiệm trên toàn thể nhơn loại. Không phải chỉ giải quyết vấn đề tâm linh, chính là giải quyết toàn diện cá thể con người.

Chư hiền đệ muội nên nhớ rằng: nếu một “Quyền pháp”; một phương thuốc trị dứt căn bệnh của dân tộc, giải thoát sự huỷ diệt của dân tộc, giải thoát được sự huỷ diệt cả thế giới: “Bảo sanh, Nhân nghĩa, Đại đồng”. Lý thuyết là một lẽ, mà quyền pháp có hay không để thực thi là một điều khác.

Muốn đại đồng cùng thiên hạ, hãy đại đồng  với xã hội tại dân tộc này của chư Hiền trước đã.

Trong cơn ba đào sóng nổi, thuỷ thủ chia phe giựt giành, chính là lúc những người sứ mạng phải vượt lên trên để an trị và thăng tiến trên con đường cứu thế . Chưa biết mà làm là nông nổi, đã biết mà không làm là hèn nhác.

 Chư Hiền hãy ghi nhận lời này: Thiêng liêng đã bảo chư hiền phục vụ cho nhơn sanh, Đạo sẽ phục vụ cho chư Hiền. Bần Đạo nhắc lại cho chư Hiền ghi lấy, nắm giữ “Quyền Pháp” đã ban cho, thi hành đến nơi đến chốn, thọ lấy địa linh với thiên ý; chỉ còn tuỳ theo nhơn tâm sẽ cứu rỗi hay tự huỷ diệt; tận độ toàn nhơn sanh hay đoạ lạc toàn thế giới.

Con ngựa hay thường khó trị. Muốn đạt đến một mục đích nào, điều tiên quyết là thấu rõ mọi khía cạnh của vấn đề trước. Đừng đi sau con ngựa, chư hiền sẽ bị phủ bụi của nó. Đừng đi sau con voi, chư Hiền sẽ bị dơ vì phóng uế. Hãy cầm cương ngựa, hãy cởi lưng voi, nếu chưa được, Bần Đạo bảo cho, hãy tránh xa để khỏi bị dày đạp. Tránh xa không phải là chay trốn, mà tránh để sửa soạn sự thành công .

Phía sau chư Hiền là chuổi ngày lịch sử, phía trước chư Hiền là ánh sáng rực rỡ của Đức Thượng Đế, dứơi chân chư Hiền và nhơn loại là hố sâu, vực thẳm. Chỉ còn một việc: hãy nhìn thẳng vào thực tế để chế ngự thực tế.

Cuối cùng, Bần Đạo muốn nói rõ: “Quyền Pháp Đạo không là điều cai trị, Quyền Pháp Đạo chính là sự thương yêu giải thoát cai trị để tiến hóa.
Thăng.

Nói tóm lại:   
Quyền Pháp là tình thương, là sự sống. Có tình thương thì “Quyền pháp” mới có giá trị. Có pháp độ thì sự sống mới an vui và vĩnh cửu.
Dù hình thức có khác nhau, nhưng “Quyền Pháp Đạo” chỉ vẫn có một, cốt yếu học cho nên mình, hành cho đúng đạo lý là được.
                                                            Trần Hưng Đạo 
HẾT
 Home       1 ]  [ ]  [ 3 ]  [ 4 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét