Trời có đức háo sanh, mượn con “Thần-qui” mà tiết lộ
đạo phản huờn cho người biết “Qui gia nhận tổ”( Nghĩa là về nhà mình, nhận ông
cha là gốc sanh thân của mình, ý nói trở về căn-bổn là ngôi trung-ương Mồ thổ
biểu tượng là con Số 5 (Xem đồ hình VI).
Qui gia: căn bổn tánh mạng của mình .Căn bổn tại chổ nào ? Ấy là tại một vạch
tại trung-ương của số 5, chỗ gọi Huyền-Tẩn là nơi đó.( Cái cửa này sống cũng tại
đó ,chết cũng tại đó ,mà nghịch cũng tại đó. Ngũ-
hành thổ loạn phân tán cũng tại
đó.Mà ngũ-hành tống chỉnh qui tụ cũng tại đó. Bởi vì tại đó có một “cái gốc của
Trời đất”( thiên-địa chi căn),có chữ TÍN của Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí nên thố nhờ
đó mà được tống lại; tán nhờ đó mà được tụ lại.)
Hễ mất chữ Tín đó thì ngũ-nguơn đều bị tổn thương. Ngũ-vật cả thảy dấy lên,
tánh Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí biến ra tánh mừng , giận, buồn, vui. Giữ lại được chữ
TÍN đó thì ngũ nguơn trổ sanh, ngũ-vật tiêu-diệt. Tánh mừng, giận, buồn, vui biến
ra tánh Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí.Trong lục thể có số 5 ở chính giữa là vì: Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí đều căn cứ ở chữ TÍN. Còn số 10 ở ngoài dùng chữ Tin mà vận
nhân, nghĩa, lễ, trí.
- Tin tại nhân ắt đặng NHÂN.( Con số 3)
- Tin tại nghĩa ắt đặng NGHĨA.( Con số 9)
- Tin tại lễ ắt đặng LỄ.( Con số 7)
- Tin tại trí ắt đặng TRÍ.( con số 1)
Đặng một chữ TIN đó thì nhân, nghĩa, lễ, trí không thứ nào mà chẳng biến
hóa theo Tâm. Đạo biến hóa là đạo đổi hậu-thiên lại tiên-thiên, ấy là tại Lạc-Thơ,(trong
thố loạn mà có tống chỉnh, tượng hình tam-ngũ hiệp nhất. Xem hình Bát-quái Đồ-Thiên
thì sẽ thấy rõ tôn-chỉ của Đạo Cao-Đài ở ngay con số Tam-Ngũ, thể hiện bằng
hình Thiên-Nhản trước mặt tiền Tòa-Thánh phía trên bao lơn-đài có 35 tia ).
Ngũ-hành có Âm có Dương nên chỉ có nhị ngũ chớ không có tam ngũ. Nhưng vì sao gọi
tam-ngũ ? Là bởi lấy số 5 của tam gia (mỗi nhà có một số 5 : Thiên số ngũ, địa
số ngũ, Nhân số ngũ ) mà luận:
Số 5 ở chính giữa có 5 vạch:
1 . Vạch thứ nhứt ở phía Bắc là Thủy
2 . Vạch thứ hai ở phía Nam là Hỏa.
3 . Vạch thứ
ba ở phía Đông là Mộc.
4 . Vạch thứ tư ở phía Tây là Kim.
5 . Vạch thứ năm ở chính giữa là Thổ.
a / Mộc sanh hỏa hiệp thành
nhứt gia :
Số 2 với số 3 cộng thành nhứt ngũ (2+3=5).
b / Kim sanh thủy hiệp
thành nhứt ngũ :
- số 1 với số 4 cộng thành nhứt ngũ(1+4=5).
c / Thổ ở tại Trung-ương
(số 5) cũng là nhứt gia:
- Một mình số 5 cũng đủ nhứt ngũ.
“Tam-gia tương kiến” đó là nói ba nhà, 3 số ngũ hiệp nhứt.
“ Tam-ngũ hiệp nhứt cũng là nhứt Âm nhứt Dương, tinh-hoa của nhị-ngũ hiệp
đúng phép mà thành một ( Tôn-chỉ của Đạo Cao-Đài:Tam-giáo Qui-nguyên ngũ-chi Phục-nhứt
). Xem bản đồ Lạc-thơ dưới đây:
- (Nhị-ngũ hiệp nhứt xét lại cũng là trong âm mà phản lại dương, nhứt ngũ qui
tụ mà thành một. Nhứt ngũ qui tụ hồn hồn, luân luân, tuần huờn không cùng,
không tiếng không hơi thì đâu có nhứt ngũ, đâu có nhị ngũ hay là tam ngũ nữa.)
Cái đạo đổi hậu-thiên lại tiên-thiên là trong âm ngũ-hành phản huờn dương
ngũ-hành trở lại làm một khí. (Trong đạo phản huờn đây chẳng có chi mà trước hết
không phản về chữ TIN.( Đức tin tuyệt-đối). Đức Lão-Tử nói: “hoảng vậy, hốt vậy”(
Hoảng-hốt có nghĩa là trong chỗ chí Tín lại có vật động sanh , tức là dương mà
sanh sản được nên làm cho hành-giả giật mình). Trong đó có vật yển vật minh vậy,
trong đó có Tinh ), Tinh nầy rất thiệt ( Tinh-thần do Tam-bửu đã qui-tụ khi mà
tinh đã hóa Khí ) trong đó có TIN
Chữ TIN nầy là Tinh của tiên-thiên lai phục.Hễ tin nầy thì mồ kỷ phát hiện,
trong đó có chủ tể, muôn việc hóa không, tư-lự cũng dứt thì “Tâm chẳng buồn” mới
sanh Trí. Trong chữ Tin mà sanh ra trí ấy là mồ thổ khắc quí thủy làm cho thủy
phản lại dương. Thủy phản lại dương thì trí có gốc tại TIN.
Trí không vọng động, không còn tham
cầu, tâm khí bình-hòa ắt vui mến việc phải thì có Lễ. (Trong chữ trí sanh ra lễ
ấy là Nhâm thủy khắc Đinh hỏa thì hỏa phản lại dương. Hỏa phản lại dương thì Lễ
có gốc tại Trí. Hòa mà chẳng đồng, tránh những điều phi lễ. Khí nóng tiêu hết ắt
chẳng giận mà sanh Nghĩa.)
Trong chữ Lễ sanh ra nghĩa ấy là Bính hỏa khắc Tân kim thì kim phản lại
dương. Kim phản lại dương thì Nghĩa có gốc tại LỄ (kim dương số 9, hỏa dương số
7, bây giờ thì kim ở ngôi hỏa tưc Cửu ly và hỏa ở ngôi kim hay thất Đoài).
Nghĩa chẳng qúa thiên-vị, biết tùng quyền biến, noi theo qui củ ắt vui mến điều
lành thì có Nhân. Trong chữ Nghĩa sanh ra Nhân ấy là canh kim khắc ất mộc, thì
mộc phản lại dương thì Nhân có gốc tại Nghĩa. Nhân chẳng quá nhu nhược, tột
lành không chút ác, một lòng chẳng đổi hai ắt không sinh DỤC thì có TIN.Trong
chữ Nhân sinh ra tin ấy là giáp mộc khắc kỷ thổ thì thổ phản lại dương. (Thổ phản
lại dương thì Tin có gốc tại Nhân. Tin mà đặng chánh trở về ngôi mình, không động
không lay thì chơn Thổ hiện hình, ắt gỉa thổ tự Tin. )
Mồ kỷ hiệp nhau, mừng giận buồn vui đều qui về vô dục. Nhân-Nghĩa -Lễ -Trí
đều qui về một chữ TIN thì “Ngũ Khí triều nguyên”, Hậu thiên ngũ vật điều vận”Linh
ngũ nguơn” thì tứ-tượng hòa-hiệp. Ngũ-hành thành ra một khí thì tam ngũ hiệp nhứt, kết thành “Thánh-thai” thì chỉ có một:
Thiên-lý.)
Nhơn dục chẳng sanh “huờn-nguyên phản-bổn”, Qui căn phục mạng giống y “Bổn-lai
diện mục”hồi mới sanh vậy.
Như trong Lạc-Thơ, Dương ngũ-hành ở tại ngôi chánh, Âm ngũ hành ở tại ngôi
phụ. Ấy là tượng hình trong thổ loạn có tống chỉnh không đồng nhau . Trong thổ
loạn có tống chỉnh trong âm trở lại sanh dương thì “Kim-đơn”(金丹) hiện hình.
Tại Nho gọi là “Minh-thiện phục sơ”.
Tại Thích gọi là“Ma-ha bát-Nhã ba-la-mật”(Ma-ha nghĩa là lớn; Bát-Nhã nghĩa
là Trí-Huệ; Ba-la-mật nghĩa là đăng bỉ-ngạn: “lên bờ bên kia” là bờ của Phật
(giác-ngộ), bờ giải-thoát, trái với chỗ của người thế-gian ở (cõi phiền-não) gọi
là thử ngạn là bờ bên này.
Dùng Đại trí-huệ mà đăng bỉ-ngạn cũng là nghĩa “Minh thiện phục sơ huờn
nguyên phản bổn”(Trở lại tánh lành ban sơ).Tam-Giáo Thánh-Nhơn cũng đều dạy một
caí diệu lý “nghịch-vận” đó mà thôi. Đạo Kim-Đơn hữu-vi tòan bằng nghịch-vận
,cho nên nói “Thất phản cửu huờn".Kim dịch đại huờn đơn.)
Thất là số dương hỏa,( hỏa ở tại ngôi kim). Hỏa gặp kim thì nhập khố phản
chơn. Cửu là số Dương kim,( kim ở tại ngôi hỏa)
kim gặp hỏa thì sanh minh huờn nguyên. .Hỏa phản chơn thì khí hậu-thiên
tiêu hết. Kim huờn nguyên thì khí tiên-thiên lộn về sanh sanh chẳng dứt. Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí gốc tại chữ TIN thì kim,mộc, thủy, hỏa qui trung thổ. Ngũ-hành
qui-tụ thì Lạc Thơ trở lại thành Hà-Đồ. Phép - hữu-vi hết thì tới phép vô-vi
còn phải gia công TU tới nữa.) Tầm cái diệu lý trong Hà-Đồ rồi thì nhớ công phu
tự-nhiên tiên-thiên vô-vi mà THẦN có thể biến-hóa vô cùng.
(Người luyện-đạo nơi chỗ thổ tiến biến
hóa trong Lạc-Thơ mà xoi phá được lỗ khiếu tại chỗ trung tâm một vạch động, nên
căn cứ nghịch lại mà tu thì có lo chi là ngũ-hành không qui tụ, Âm dương không
hòa-hiệp, kim đơn không đoàn kết, Tánh Mạng không tu xong).
III - ĐỒ-THƠ HIỆP-NHỨT
(Hà-Đồ và Lạc-Thơ hiệp làm một) Hà-Đồ hình tròn, âm dương hiệp thành một,
năm hành chung một khí là Đạo tự-nhiên vô-vi. Lạc-Thơ hình vuông, âm dương có
thố tổng (ngoài loạn mà trong xếp yên). Năm hành khắc chế nhau là đạo biến-hóa
hữu-vi nghịch vận. Hình tròn tượng hình Trời là một khí lưu hành hoàn toàn là
thiên-lý. Không tu không chứng ; Đặt mình yên trong Thái-cực cốt để tu Tánh
.Hình vuông tượng hình đất là hai nghi (âm và dương) biến hóa, Trời người hiệp
phải có thêm có bớt động tác ở trong âm dương cốt để tu mạng.
Vô-vi nghĩa là thuần dương chưa bị phá (chưa hao), người bực thượng đức tu
theo đó.
Hữu-vi nghĩa là đã giao với Hậu-thiên, người bực trung hạ tu theo đây.
Luận riêng về người thượng đức thì năm hành hiệp thành một Tiên-thiên Tổ-khí chưa bị phá, Tánh mạng
chung một nhà, khỏi phải nhọc công phản huờn (quày trở lại, trở về), chỉ dùng
chân hỏa thiên-nhiên mà ôn dưỡng nó khi nó chưa bị hậu-thiên khuấy hại.Thần đầy
Khí đủ, hễ có thành ( chơn thiệt) thì đặng Minh (sáng suốt), từ trong phát ra
ngoài ,lộ xuất pháp thân đời đời bất hoại, muôn kiếp hằng còn (đệ nhị xác thân
hay Pháp-thân cũng chính là nó ( Spirituel).
Đạo gia gọi thân ngoại hữu thân (ngoài caí thân này có cái thân khác).Thích
gia gọi là “Khiên xuất luân-hồi”( ra khỏi vòng luân hồi ).Nho gia gọi “Thánh
nhi bất khả tri chi, chi vị thần”( Phần thiêng-liêng sáng-suốt mà không thể biết
nó được, đó gọi là Thần).
Còn những kẻ bực trung hạ hoặc bị khí chất câu thúc, hoặc bị tập quán buộc
ràng, tiên-thiên đã bị phá thì hậu-thiên hành sự, Tánh mạng chia ra làm hai chỗ.
Nếu không có Đạo hữu-vi thì cái chi đã mất rồi khó mà gặp lại được, đã đi rồi
khó mà quay về được. Tuy có người chí-sĩ nhân nhơn cũng không làm sao thành
công được.
Cho nên tại sông Hà hiện ra bản đồ, nơi sông Lạc hiện ra bức thơ (gọi chung
là Đồ-Thơ, tức là Hà-đồ và Lạc-thơ)
Hãy xem thi-văn dạy Đạo: (TNHT).
“Dò đon cho rõ nẽo
Thiên-Thai,
Cái tiếng tài khen chẳng
phải tài,
Mình Thánh, mình Hiền,
mình biết lấy,
Tặng phong quá tiếng chớ
nhờ ai.
“Người đâu biết đặng tấc lòng mình
Họa hỏi đến Trời mới biết
linh,
Thiệt-thiệt hư-hư vì mắt
thịt,
Thôi thì đợi chết biết
tiền-trình.”
“Tiền-trình Thầy dạy trước con tường,
Đợi hạ sang năm mới tuyển
lương,
Năm bảy năm sau nên nghiệp
lớn,
Đến chừng ấy khá Đạo lo lường,”
Lo-lường cho rõ thấu
thiên-cơ,
Biết đặng thì tua tính kịp
giờ.
Khuyến-thiện đã nhiều công
cực-nhọc,
Toan lo cho vẹn đạo Đồ-Thơ.
Thánh-Nhân chép truyền lại cho đời. Tìm xét ý nghĩa của
nó được rồi thì ai ai cũng hiễu lý tánh mạng.
Lời truyền của quẻ Khôn nói rằng: “Kỉnh dĩ trực nội”,nghĩa
là lấy kỉnh phương ngọại ( Dùng Kinh Lễ để tụng
đọc hằng ngày). để sửa bên trong cho ngay thẳng.
Lấy nghĩa để cầu bên ngoài đặng vuông vức. Kỉnh là cần cố đặt để, trực là tột
trung , tột chánh, chẳng chếch chẳng lệch.( Lề bái thường hành Tâm-Đạo khởi là
vậy).
Lấy kỉnh trực nội là “xuất tánh chi vị Đạo”( nghĩa là noi theo tánh mà ăn ở
thì gọi là Đạo), tức là đạo tự nhiên vô-vi của Hà-Đồ. Nghĩa có nghĩa là biến
hóa, chế giảm phương là chẳng động chẳng lay nối gìn qui củ.
Lấy nghĩa phương ngọai là “Tu đạo chi vị giáo”(Nghĩa là chỉ cách sửa sang
cái Đạo thì gọi là giáo) tức là đạo biến hóa hữu vi của LẠC-THƠ.
Vô-Vi để tu bên trong (tu Bí-pháp), Hữu-vi để tu bên ngoài (theo thể-pháp).Tu
bên trong là tu Tánh, Tu bên ngoài là tu Mạng,
Người bực thượng đức tu tánh và mạng cũng đặng lập ngay tự cơ thành (chơn
thiệt ) rồi đặng MINH (sáng suốt ).Người bực hạ đức, trước tu mạng rồi sau tu
tánh tự đặng Minh mới có thành. Tự có thành mà đặng Minh gọi đó là Tánh ( nói
ra để dẫn người thượng đức, tức người có căn lành) tự đặng minh mà có thành gọi
đó là giáo,( nói ra để độ người hạ đức còn tính phàm-phu).
Nay vẽ bản đồ trong tròn ngoài vuông để chỉ rõ người thượng đức tu bên
trong để chế bên ngoài, Trước tròn sau vuông. Còn người hạ đức tu bên ngoài cho
yên bên trong, trước vuông sau tròn. Tuy nói như vậy, chỗ người hạ bực phải lấy
cái tròn bên trong làm gốc. Bất qúa là về cái vuông bên ngoài phần dụng công có
nặng hơn mà thôi.
Hai chữ vuông tròn rất có hiệu dụng, Tròn chẳng phải vắng lặng vô-vi, trong
đó có công phu phòng hung lự hiểm (ngừa chừng các sự nguy hiểm).Vuông chẳng phải
là tuyệt hết việc đời, trong đó có công-phu nương thể-pháp mà tu đạo-pháp.(Biết
được năm hành hiệp làm một khí, một điểm trung-huỳnh trong Hà-Đồ thì tròn mới đặng
tròn chẳng đến đổi lầm lạc về lối học tịch-diệt trước không.(Vắng lặng thiên về
không tưởng, tức chưa đắc được cái Diệu-hữu thì làm sao có được cái Không này ?
vì đó chỉ là lối tu theo mê-tín, tức tu vô-minh đó vậy). như vậy là tu không
thành tựu tức không tinh-tấn .
Rõ được năm hành dương thổ mà có tống (trong khắc mà có sanh, ngang dọc thuận
nghịch, rốt cuộc chỉ qui về trung huỳnh thì vuông mới đặng vuông, chẳng đến đổi
lầm lạc về lối học miễn cưởng chấp tướng ( cượng cầu thiên về hình tướng ), dầu
tròn dầu vuông đều ở trong một điểm trung huỳnh. Vuông cũng do đó mà vuông,
Tròn cũng nhờ đó mà tròn. Không đặng chỗ Trung-Huỳnh thì vuông cũng không phải
vuông, tròn cũng không phải tròn.
Thi:
Nguyệt đáo thiên tâm xứ
Phong lai thủy diện thì
Nhứt ban thanh ý vị
Liễu đắc thiểu nhơn
tri.
Nghĩa là:
Trăng tới chỗ thiên tâm
Gió lai rai mặt nước
Một mùi hứng thú riêng
Thi văn dạy Đạo (TNHT):
Đồ-Thơ oằn-oại gánh
nghiêng vai,
Mặc khách làng văn nhọc chớ
nài ,
Nghiệp nước nỗi nhà còn bận-bịu,
Thanh-nhàn chưa phải buổi
xem mai.
Xem mai trông gặp trổ hai
lần,
Như Đức Khổng xưa muốn thấy
Lân,
Hờn gió giận mưa hoài trí
tính,
Thâu niên chẳng đoái chút
tinh-thần.
Tinh-thần đầy xác mới
tinh-anh,
Đừng vướng nẻo công với mối
danh,
Thường hứng gió đông tua
biết gió,
Đừng trương cánh nhạn bị
tan tành.
Tan tành khó nổi kết làm
nguyên,
Như chỗ non cao muốn quá
thuyền,
Mình biết phận mình an
thú-vị,
Chẳng phen bằng Phật
cũng là Tiên.
IV - TIÊN-THIÊN HOÀNH-ĐỒ.
Tiên-thiên hoành-đồ là quá trình biến hóa từ chỗ không
(vô-Vi chi khí) mà sinh ra cái có (chơn không mà diệu-hữu) tức
Ngôi Thái-cực sanh ra lưỡng-nghi( một âm, một dương đối chọi nhau).
Chúng ta đọc lại bài Kinh cúng Phật-Mẫu để có nhận-xét đúng đắn về cơ
sanh-hóa vạn-linh thì sẽ hiểu được quyền-năng sản-xuất hữu-hình của Phật-mẫu:
“Kể từ hỗn-độn sơ khai
Chí-Tôn hạ chỉ trước đài
Linh-tiêu.
Lưỡng-nghi phân khí Hư-vô,
Diêu-Trì Kim-Mẫu nung lò
hóa sanh,
Âm-dương biến tạo Chơn-thần,
Lo cho nhơn-vật về phần hữu-vi…”
Tiên-Thiên hoành đồ là thứ-tự của vua Phục-Hi vẽ ra bát quái. Đương lúc
chưa có quẻ mà sắp ra quẻ thì số 5 ở chính giữa bản đồ tức là ngôi THÁI-CỰC.
Trước vẽ một vạch liền (gọi là cơ) để tượng hình Dương nghi, kế vẽ một vạch
đứt (ngẫu) để tượng hình Âm nghi.
Thái-cực sanh lưỡng nghi tức là cái vạch liền và cái vạch đứt ở trong bản đồ.
Lại trên lưỡng nghi mỗi bên có một vạch liền và một vạch đứt chồng lên hai
nghi đó tạo thành Tứ-tượng:
Thái-Dương số 1, Thiếu-Âm số 2, Thiếu-Dương số 3, Thái-Âm số 4.
Lưỡng nghi sanh tứ-tượng là: KIM, MỘC, THỦY, HỎA.
Tứ-Tượng sanh Bát-Quái là: Kiền số 1, Đoài số 2, Ly số 3, Chấn số 4, Tốn số
5, Khảm số 6, Cấn số 7, Khôn số 8. Vẽ Tứ-Tượng mà không nói tới Thổ là bởi
Thái-Cực tức là Thổ đó.
Âm dương đối ứng nhau, giao-hợp nhau
mà thành quẻ cũng là thổ ( : vì nó sanh sanh chẳng ngớt nên gọi là thổ).
Vì nó có một khí vận chung nên gọi là Thái-Cực. Thái-Cực và Thổ là một mà thôi.
Cho nên không nói tới Thổ mà chỉ vẽ tứ-tượng. Trong Tứ-Tượng đã có Âm-Dương
giao nhau: trong âm có dương (thiếu-âm), trong Dương có âm (thiếu-dương). Bởi
thế mới có tứ-dương và tứ-âm kết hợp với nhau mà tạo thành Bát-Quái (hột
nguyên-tử tánh). Bát-quái cũng có âm dương và quái nầy lại đặt chồng lên với 8
quái kia mà biến thành 64 quẻ kép (8x8=64) biến-hóa vô cùng mà tạo nên vạn-vật.
Một quẻ đơn có ba vạch, một quẻ đôi có 6 vạch, dầu trên hay dưới là lấy ý
tam tài: Thiên-Địa-Nhân cho có cặp, mỗi tài đều có Âm Dương của nó.
Bát-Quái chính là Âm Dương của Tứ-Tượng (mỗi thứ trong tứ-tượng đều có âm
dương). 64 quẻ tức là khí do âm dương của tứ-tượng phối hiệp mà sanh ra.
Bát Quái sấp rồi chồng lên với nhau tức là âm dương tương giao thì sự sanh
sanh chẳng ngớt, há chỉ có 64 quẻ mà thôi đâu! Thế nên mới nói rằng “Bát-quái
biến-hóa vô cùng mới thành ra càn-khôn thế giới”( Biến hóa vô cùng – Lũ truyền
bửu kinh dĩ giác thế linh oai mạc trắc ( Kinh Thiên-Đạo – bài Đại-la)
Vẽ quẻ mà dừng ở 64 quẻ là vì đạo của Trời đất chẳng qua là âm dương của Tứ-tượng
biến-hóa ra đó mà thôi. Tứ- Tượng hiệp lại do âm và dương thì gọi là Bát quái.
Một quẻ đi khắp các ngôi chọi với 8 quẻ. 8 quẻ đi khắp các ngôi chọi với 64 quẻ,
ngàn quẻ, muôn quẻ đều chẳng ra ngoài 64 quẻ đó được.
Vậy lấy cái gì mà hành khí, có phải là 64 quẻ đó chăng? Và 64 quẻ là do 8
quẻ đặt chồng lên nhau thành (8x8)=64 quẻ. Tám quẻ là do tứ-tượng sanh ra
(4x2=8). Tứ-Tượng là do lưỡng nghi sanh ra (2x2=4). Lưỡng-Nghi chỉ là một khí
THÁI-CỰC (O) lưu-hành. Thế thì Thái-Cực là căn bổn của muôn sự biến-hóa, là Tổ-Khí
sanh ra muôn vật. Vì:
Có Thái-Cực ( ngôi trời, thái dương) này mới có âm dương.
Có âm dương(ngôi Hai) mới có tứ-tượng.
Có tứ-tượng ( Trời Đất hợp nhau) mới có bát-quái (8 quẻ).
Có tám quái mới có 64 quẻ.
Nếu không có Thái-Cực thì âm dương ở đâu mà có, tứ -tượng ở đâu nảy sanh,
tám quẻ ở đâu sấp thành, 64 quẻ ở đâu mà vận hành.
Vua Phục-Hi vẽ họa-đồ quẻ sanh quẻ có phải là chỗ huyền-diệu của số sanh
trong Hà-Đồ không ? Sách“Tham-Đồng-Khế ”có câu:
Nhứt tự Hư-Vô triệu chất
Lưỡng-Nghi nhân nhứt khai
căn
Tứ-Tượng bất ly nhị thể
Bát-Quái hộ vi tử-tôn.
Nghĩa là:
Nhứt Khí Hư-Vô lộ chất
Lưỡng-nghi do một chia đôi
Tứ-Tượng không lìa hai thể
Bát-Quái lẩn làm cháu con
Muôn hình tượng sanh ra từ trong chỗ biến-động. Có biến-động rồi mới có Kiết,
Hung, Hối, Lẫn (hối-hận). Thiên-hạ vận-dụng hằng ngày theo đó, thế mà không rõ
Thánh-nhơn đã tìm ra được cái bổn-nguyên (cái gốc ban đầu) Tiên-Thiên sanh ra
các quẻ, nên cái nghĩa mầu-nhiệm nhờ đó mà phát lộ trọn hết cái “bổn lai chơn-tâm”
của người rỗng tuếch, không mang theo một mảy lông, một sợi tơ nào. Tột Trống
(không),VÔ (無, không) tức là Thái-cực,ấy chỗ gọi “Vô danh thiên
địa chi thủy”. Nghĩa là cái không tên kia là đầu mối của Trời Đất, nhưng
cái “Hư-Vô Thái-Cực” này chẳng phải là một
vật bất động mà là một vật sống, linh-động, trong đó có ẩn một điểm (o). Sanh
cơ điểm này gọi là khí Tiên-Thiên chơn nhứt, là cội Tánh-mạng của con người, là
nguồn của Tạo-Hóa, là gốc của sanh tử.
trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển có bài
thi:
Khuya sớm tương dưa hết dục
lòng,
Lòng dầu toan kế, kế sao
xong.
Xong bề nhơn-đạo tua gìn
trước,
Trước cửa không rồi mối Đạo
thông.
Kinh Kim-Cang Đại định hay Bát-Nhã Ba-La Mật Đa Tâm Kinh có câu:
Quán tự tại Bồ-Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời chiếu kiến ngũ-uẩn
giai không độ nhứt-thiết khổ ách.
Trong hư-vô có ngậm chứa (tiềm tàng chưa phát lộ) một khí chẳng có chẳng không
(lúc chưa có sự tư-tưởng hay ý-tưởng), chẳng phải HỮU (sắc) chẳng phải VÔ
(không), rất là hoạt bát, lại cũng gọi là chơn không. Ấy là chỗ gọi “Hữu danh vạn
vật chi mẫu” nghĩa là cái có tên kia là mẹ sanh của muôn loài (Đó là lời nói
phát sanh từ cái miệng).
Một khí Hư-vô đã có một điểm sanh cơ ở trong đó (tượng là vòng tròn có một
điểm tâm ) là Thái-Cực ngậm chứa một
khí, tức là câu: “Nhứt tự hư-vô triệu chất” 一 字虛 無 兆 質. Một khí đã lộ chất thì không thể chẳng động chẳng tịnh. Động làm Dương, Tịnh
làm Âm. Cái động cái tịnh nầy sanh ở trong một khí chánh là: “Lưỡng nghi nhân
nhứt khai căn”. Đã có động có tịnh; động hết sức rồi tịnh, tịnh hết sức rồi động
thì Tánh, Tình, Tinh, Thần có ngụ ở trong đó là “Lưỡng nghi sanh tứ-tượng” 兩 儀 生 四 象.
CHÁNH là “tứ-tượng bất ly nhị thể” 四 象不 離 二 體
Đã có tứ-tượng là Tánh, Tình, Tinh, Thần thì mỗi tượng đều có động tịnh, đó
là tứ-tượng sanh Bát-Quái. Bát-Quái sanh
khắc lẫn nhau mà “hộ vi tử-tôn” (cái này sanh cái kia, cái kia sanh cái khác nữa
làm con cháu lẫn cho nhau).
Sáu mươi bốn quẻ bởi đó mà nảy sanh muôn hình vạn trạng, biến động cũng từ
đó mà hóa ra, bởi vì:
Muôn hình gốc ở tám quẻ (gọi
là bát-hồn).
Tám gốc ở Bốn (tượng)
Bốn tượng gốc ở hai (nghi)
Hai gốc ở một (khí)
Một gốc ở HƯ (vô)
Hư-vô là mối đầu của (Khí chi thể). Một là mẹ sanh của khí (khí chi mẫu).
Hư-Vô là THỂ, một Khí là DỤNG. Thể Dụng như một, hai chia bốn hoặc tám hoặc
muôn, đều vận-dụng ở trong một khí hư-vô thì có gì Kiết, hung, Hối, Lẫn được? Bằng
một khí hư-vô thì động tịnh chẳng hợp thì bốn khí chẳng còn điều-hòa, tám quẻ
thổ loạn, muôn hình biến-động thì chừng đó mới có phân ra kiết, hung, hối, lẫn.
Cái chỗ bí-mật nầy ai không biết nó mà thuận theo khí âm-dương (tức là sống
theo lối nhị-nguyên, tâm bất chánh, tâm thiên-lệch còn gọi là tâm tà là tâm mất
quân-bình) thì có sống có chết, muôn kiếp trầm-luân. Cho nên nói thiên hạ vận dụng
hằng ngày theo đó mà chẳng rõ: Ai biết nó mà nghịch với khí của dương thì: RA
chết, trở VÀO sống, lên ngay cõi Thánh. Cho nên nói Thánh-nhân tìm ra được caí
bổn-nguyên (dụng nó hằng ngày mà chẳng rõ là nói chẳng hiểu thấu, rõ biết một
khí hư-vô. Tìm ra được cái bổn nguyên là nói gìn-giữ được một khí Hư-vô là chân
tâm mình đó vậy.
Trời đất sử khiến được vật có hình chớ không thể sử khiến vật không hình, sử
khiến được kẻ có tình chớ không sử khiến kẻ vô tình. Sử khiến được kẻ hữu-tâm
chớ không thể sử-khiến kẻ vô tâm.
Tìm ra được cái bổn-nguyên, đặt cái tâm mình ở hư-vô, dưỡng tâm ở một khí,
tuy rằng có:Lưỡng-nghi , Tứ-Tượng, 8 quẻ, 64 quẻ nhưng cả thảy đều vận dụng tại
chỗ căn bổn là HƯ-VÔ, chẳng hề sanh ra bao giờ,muôn hình đều không, duy có một
cái không đó (o).
Thử hỏi cái đó là sự vật trong một khí hư-vô thì làm sao kiết hung gia cho
mình, hối lẫn gần bên mình được?
Cách sanh quẻ và sắp quẻ của Phục-Hi rất hay thay. Hay là ở chỗ tám quẻ sấp
thành:
Kiền dương kiện lúc đầu tiên. Khôn âm thuận lúc cùng cuối. Khi âm dương mới
sanh thì cả hai đều ở trung-uơng.
Kiền đầu tiên là Kiền dị-tri
(dễ biết).
Khôn cùng cuối là Khôn giản-năng
(gọn làm).
Đứng về một Trời Đất thì gọi là dị tri giản năng.Theo đạo người mà gọi (thì
gọi là) Lương-tri lương-năng hoàn-toàn là thiên-lý. Cho nên một động một tịnh đều
lấy một điểm hư bạch (một vòng trắng 0) ở chính giữa mà lập căn cơ. Ở chỗ không
quẻ mà sanh quẻ, nếu con người tìm ra được bổn-nguyên thì bỗng nhiên sẽ thấy
cái bổn lai diện mục (chơn-tướng) mới là biết một khí hư-vô ngậm chứa sự vật.
Tột không mà ngậm chứa tột
có.
Tột trống mà ngậm chứa tột
đặc.
Không hình mà hay biến
hóa,
cho nên biến-hóa vô cùng.
Trong tâm ta tự nhiên có một ông vua Phục-Hi .Trong thân ta tự nhiên có Đạo
sanh sanh chẳng ngớt .
Kinh Thiên-Đạo có câu:
Bất ngôn nhi mặc tuyên đại-hóa
Thị không thị sắc
Vô-vi nhi dịch sử quần-linh.
V - TIÊN-THIÊN PHƯƠNG-VIÊN
ĐỒ
(Bảng đồ vuông tròn thuộc Tiên-Thiên).
Vuông và tròn là để nói về
sự động và tịnh: tròn chủ về động hay biến-động,
bị động là thuộc về dương. Vuông chủ về phần tĩnh, là thuộc về âm.
Ngôi các quẻ trong bản đồ Bát-quái tròn của Phục-Hi là ngôi của Trời (☰: Càn) đất (☷: Khôn) sấp thành theo thứ-tự trên dưới. Mặt Nhựt (☲: Ly), Mặt Nguyệt (☵: Khảm) vận hành tại khoảng chính giữa Trời đất.
Chấn ☳ (lôi) tức là sấm động ở dưới đất.
Tốn ☴(phong) là gió thổi ở trên Trời.
Đòai (☱Trạch) là cái miệng, ao) ngẩng lên
Cấn ☶(sơn) là núi bám vào đất.
Trời Đất phản phúc (điên đảo) mới có âm có dương. Sơn trạch thông khí mới
có sanh có thành. Phong lôi đăng (xâm lấn lẫn nhau) mới có lên có xuống. Đó là
biểu-tượng của bát-quái.
Trời đất bao trùm khắp nhật, nguyệt, tinh… tạo-hỏa.
A - Mặt Nhựt bắt từ bên
trái mà tiến thì khí dương lên, cho nên quẻ Chấn ☳ có một dương, quẻ đoài ☱ có hai dương, quẻ Kiền ☰ có ba dương đều ở bên trái.
B - Mặt Nguyệt bắt từ bên
phải (mặt) mà thối thì khí âm sanh, cho nên quẻ Tốn ☴ có một âm, quẻ Cấn ☶ có hai âm, quẻ khôn ☷ có ba âm đều ở bên mặt.( Xem hình đồ Tiên-thiên bát-quái ).
Đây là khí vận của bát-quái. Khí hành thì 64 quẻ hóa-sanh.
64 quẻ tức là 8 quẻ thúc đẩy nhau biến-hóa mới có sanh sanh, hóa hóa…
Khí vận thì chạy bên trong, biểu-tượng thì chạy bên ngoài.
Như thứ-tự của khí hành theo bát-quái cũng là nghịch đạo. Có nghịch thì mới
có sanh, không nghịch thì chẳng sanh., được vậy thì thuận sanh tức là ở trong
nghịch thối mà ra.
Bản-đồ tròn là lấy ý: Tròn là để tựợng hình trời, mà trời vận-hành một khí
lên xuống, giáp vòng rồi trở lại mối đầu. Tuần-huờn không biết đâu là manh mối,
đó là biểu-tượng của Thái-cực lúc chưa sanh ra (vị sanh xuất).
Cái Đạo chưa sanh không làm sao mà thấy nó được. Thấy là thấy cái quẻ sanh
ra kia. Đã sanh ra rồi mà nghịch vận trở lại thì cái chưa sanh tức còn ẩn ở
trong đó. Cho nên theo ngôi vị của quẻ thì quẻ Chấn ☳ có một dương ở bên trái, phía dưới hết; quẻ ly ☲ có hai dương một âm, ở bên trái phía chính giữa. Quẻ Đoài ☱ có hai dương ở bên trái gần trên; quẻ Kiền ☰ có 3 dương ở bên trái phía trên hết. Kể theo thứ-tự thì:
1: Kiền ☰ nhứt, 2: Đoài ☱ nhị, 3:Ly ☲ tam; 4: Chấn ☳ tứ.
Theo ngôi vị của quẻ thì bắt đầu từ dưới đi lên, còn theo thứ-tự quẻ thì bắt
đầu từ trên đi xuống.
1 – PHỤC-HY BÁT-QUÁI
PHƯƠNG-VỊ SƠ-ĐỒ (Tiên-Thiên Bát-Quái)
Đủ thấy ở trong nghịch có thuận, ở
trong thuận có nghịch. Còn cái đi nghịch lại với kiền ☰ nhứt, Đoài ☱ nhị, Ly ☲ tam, Chấn ☳ tứ đó là : 5:Tốn ☴ ngũ, 6: Khảm ☵ lục, 7:Cấn ☶ thất, 8: bát khôn. ☷
Trong bát-quái Phục-Hi tuy có thuận có nghịch nhưng lúc nào cũng hợp
nhau từng cặp âm dương: Kiền-Khôn, Khảm-Ly, Đoài-Cấn, Chấn-Tốn. Trong đồ
Tiên-Thiên đã đặt để rõ-ràng từng cặp đối nhau nhưng hòa nhau:
- Kiền ☰ hiệp Khôn ☷ :(1+8=9) ngược lại Khôn hiệp Kiền.
- Đoài ☱ hiệp Cấn ☶ : (2+7=9) và ngược lại
- Ly ☲ hiệp Khảm ☵ : (3+6=9) và ngược lại
- Chấn ☳ hiệp Tốn ☴ :(4+5=9) và ngược lại
Một khí đi thuận lên là khí dương của quẻ Chấn, Ly, Đoài, Kiền.
Một khí đi nghịch xuống là khí âm của quẻ Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Dương thối
tức là âm sanh. Dương tiến tức là âm thối.
Tóm lại âm dương chỉ có một khí biến-hóa chớ không phải ngoài một khí ra lại
có âm dương riêng biệt. Nhưng cái máy sanh hóa (sanh cơ) của một khí đắc diệu
là tại chữ nghịch đó. Duy có nghịch khí mới lại, nếu đi nghịch lại thì khí dương
thâu-liễm qui-căn rồi cũng sanh lại như trước. Vậy cho nên hệ-từ tuyệt nơi nầy
.
“Sổ vãng giả thuận, truy lai giả nghịch”.Nghĩa
là đếm xét cái qua rồi là thuận, biết việc sẽ tới là nghịch. Vì cớ mà dịch tức
là nghịch-số là thấy Tiên-Thiên thái-dịch hoàn-toàn ở chỗ nghịch.
Ngôi-vị của “thuận sanh thứ-tự quẻ”
nghịch sanh cái ý tứ nầy thâm-thúy biết mấy. Chẳng những trong tám quẻ như thế
mà trong bản đồ phương viên có 9 quẻ cũng y như thế.
Bản-đồ tròn thuộc về phép 8 quẻ phối-hợp nhau; phối-hợp nhau là một quẻ đấu
mà vận-hành khí của 8 quẻ kia. Tám quẻ đẩy nhau mà vận hành khí của tất cả 64
quẻ, chớ không phải ngoài 8 quẻ ra riêng biệt có 64 quẻ khác nữa. 64 quẻ chẳng
qua là 8 quẻ vận-dụng với nhau mà thành. Tám quẻ chỉ là một âm một dương vận dụng.
Một âm một dương chỉ là một khí thuận nghịch vận dụng mà thôi.
Bản-đồ tròn, bản-đồ vuông cũng là khí-vận của tám quẻ. Dụng theo bản-đồ
vuông thì:
Quẻ Kiền ☰ ở Tây-Bắc, Quẻ Tốn ☴ ở Đông-Nam là bởi Kiền nhứt, Đoài nhị, Ly tam, Chấn tứ, Tốn ngũ ,Khảm lục,
Cấn thất, Khôn bát là hành (nghĩa là đi) theo lối chẳng chánh).Hai bảng đồ thiệt
là chẳng đồng nhau.
TRÒN tượng hình Trời.
VUÔNG tượng hình Đất.
Cái TRÊN là DƯƠNG làm Trời.
Cái DƯỚI là Âm làm Đất
Tây Bắc cao còn đông-nam thấp; cao tức là dương, thấp tức là âm. Bản-đồ
vuông cũng lấy Kiền nhứt, Đoài nhị làm thứ tự, tức là nghịch đạo của Kinh-Dịch.
Thiên biến vạn hóa đều là một chữ nghịch, không có hai lý, hay thay! Cho Thiệu-Tử
đem bản-đồ vuông đặt trong bản-đồ tròn, thiệt là hiểu hết cái tâm-truyền của Phục-Hi
đó.
Nguyên-nhân là bản-đồ tròn của Phục-Hi ngưỡng lên xem thấy Trời mà vẽ. Còn
bản-đồ vuông thì cúi xuống y theo đất mà
vẽ. Đất vốn vô-vi nhờ thọ khí của trời mà ra hữu-vi.
Khí của trời là ngũ-vận (Là vận-hành) tức là Thập thiên-can: (Giáp, Ất,
Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Qúy).
Khí của đất là lục-khí (Phong,Hỏa,Thử,Thấp, Táo,Hàn) tức là Thập nhị địa
chi: (Tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ ,ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi).
Vận của Trời nhập vào khí của đất thì: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh,
Tân, Nhâm, Qúy vận-hành ở ngôi Tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu,
tuất, hợi. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là khí ngũ-hành hóa làm phong (gió), hàn
(lạnh),thử (nóng), thấp (ẩm ướt ), táo (khô ráo), hỏa (lửa).
2 - PHỤC-HY TIÊN-THIÊN LỤC THẬP TỨ QUÁI PHƯƠNG ĐỒ
(64 quẻ trên đồ hình vuông
của Phục-hi)
Bản-đồ tròn là vận ở ngoài, bản-đồ vuông thì vận ở trong là chỉ Trời ĐỘNG Đất TỊNH. Một khí đi đi lại lại, lấy
Kiền-Khôn làm bao la (bao-quát). Lấy lục thiếu (6 quẻ nhỏ) Chấn-Tốn,
Khảm-Ly, Cấn-Đoài làm biến-hóa.
Dương nghịch thì Âm sanh.
Dương thuận thì Âm thối.
Tứ thời hành thì trăm vật
sanh.
Cái đạo Tiên-Thiên tạo-hóa tới đây là rõ ràng rồi. Nhưng cái đạo trong vuông ngòai tròn, trời động, Đất
tịnh lại còn ở chỗ bí-mật khó nói. Phục-Hi không thể chỉ rõ cho người biết, chỉ lấy 64 quẻ sấp làm hai bảng đồ vuông tròn mà thôi. Thiệu-Tử cũng không thể viết ra cho người thấy, chỉ lấy hai bản-đồ vuông tròn hiệp làm một bản-đồ trong vuông ngoài tròn mà thôi. Phục-Hi chẳng phải
là không muốn dạy, nhưng dạy chẳng qua là vẽ các quẻ
làm bản đồ, còn phần nào không thể vẽ quẻ
làm bản-đồ thì không dạy được.
Thiệu-Tử chẳng phải là không muốn viết ra, chẳng qua
là làm bản-đồ trong vuông ngoài tròn, còn phần sở dĩ nhiên (lý-do làm sao mà ra
vậy) không ở tròn vuông, không dính với tròn vuông thì không viết ra được.
Nhưng có quẻ có bản-đồ, những chỗ không dạy không viết ra được, ta có thể suy
tìm ở trong quẻ trong bản đồ.
3 - THIỆU NGHIÊU-PHU PHƯƠNG VIÊN NỘI NGOẠI HIỆP
NHỨT ĐỒ.
Trong bản-đồ vuông, 8 quẻ giao thế chỗ chính, ngay giữa chữ thập 16 quẻ tức
là Thái-Cực. Làm cửa cho âm dương ra vào. Âm cũng sanh ra ở đó, Dương cũng sanh
ra ở đó. Tứ tượng hòa-hiệp ở đó. Ngũ-Hành qui tụ ở đó. Cho nên quẻ chấn quẻ tốn
có một âm một dương ở tại giữa như nghĩa số 5 chính ngay giữa Hà-Đồ Lạc- Thơ . Duy nhờ có Thái-Cực nầy mà âm
dương có sanh có thành, có chia có hiệp, có động có tịnh.
Dương từ Tây-Bắc mà nghịch thối về trung-ương là sanh khí ở chính giữa. Âm
từ trung ương mà thuận vãng về Đông Nam là âm khí ở phía ngòai.
Âm là khách Dương là chủ. Lấy dương thống (trị) âm. Lấy âm thuận dương. Âm tùng dương tiến
hay thối, mà theo tiến thối. Đó là nghĩa chữ vuông.
Trong bảng đồ tròn, dương bên tả đi lên, âm bên hữu đi xuống. Âm lại giao
cùng dương thì một âm sanh trên trời. Dương lại giao cùng âm, thì một dương
sanh dưới đất. Dương sanh hay là âm sanh đều là ở tại chính giữa của bảng đồ.
4 - TIÊN-THIÊN ÂM-DƯƠNG HỔN-THÀNH
ĐỒ
Cái tròn tượng hình một khí của trời lên xuống: Lên là dương ,xuống là âm
tượng hình một khí vận âm dương. Ở tại đây chỗ âm dương giao cùng nhau tức là một
khí Thái-Cực.
Thái-Cực tức là một khí. Một khí tức là Thái-Cực. Luận về Thể thì gọi là
Thái-Cực .Luận về Dụng thì gọi là một khí.
Lúc nào phải dương thì dương, .Lúc
nào phải âm thì âm. Lúc nào phải lên thì lên lúc nào phải xuống thì xuống. Dương
mà âm, âm mà dương .Một khí hoạt bát không định có không, tự nhiên đóng mở đều
là vận dụng ở một điểm tại chính giữa. Đó tức là một điểm do thọ hỏa-lư âm
dương khối. Phục-Hi không thể dạy rõ được tức là cái đó. Thiệu-Tử không thể viết
rõ được tức là cái đó.
Học -gỉa biết được căn do của nó ở trong bản-đồ vuông tại chỗ chánh ngay chữ
thập. Hiểu thiệt xứ của nó ở trong bảng đồ tròn tại chỗ Kiền-Khôn giao đại, tiếp
và thay thế nhau thì tại chỗ chánh ngay chữ thập, lập định căn-cước tại chỗ điểm
chánh giữa đó mà tu trì tánh mạng. Vuông để trị trong, tròn để ứng ngòai (Trời
người hiệp một).Táng Thái-cực một khí làm thể , lấy tứ-tượng bát quái làm dụng.
Trong tròn có vuông ,ngòai vuông có tròn.
5 - NGHỊCH -VẬN TIÊN-THIÊN
KIẾT-ĐƠN ĐỒ.
Vuông tròn đừng câu nệ thì
trong thân mình ta tự có 64 quẻ của Phục-Hi..
Trong hai bản đồ vuông và tròn chẳng cần phải nệ văn chấp tượng có thể đặng
ý rồi quên lời họat hoạt,bát bát. Nhưng chỗ quan trọng nên chú ý trong hai bản
đồ vuông và tròn là loại nghịch vận cho được.
Hễ nghịch thời sanh mà thuận thì chết.Trong cái thuận mà sanh thì sanh nầy
có hạn. Còn trong cái nghịch mà sanh thì sanh nầy không cùng.
Nghịch là nghịch làm sao ?Tức là nghịch hồi (trở lại) cái TÁNH bổn chơn trước
khi cha mẹ sanh ta đó thôi.
Con người chịu khí âm dương ngũ hành của Trời-Đất mà sanh ra, khí dương củaTrời
tột cương kiện kết tinh làm MẠNG. Khí âm của đất tột nhu thuận trọng đại làm
TÁNH .
Lúc mới sanh ra thì kiện và thuận hiệp nhau, Tánh Mạng chung một nhà. Tánh
chẳng lìa mạng, Mạng chẳng lìa tánh.Tánh tức là mạng, Mạng tức là tánh . Đó là
chỗ gọi “Thiên mạng chi vị tánh”, nghĩa là (cái điểm Linh-Quang của trời phú
cho ta thì gọi là TÁNH.).
Đương lúc nầy thì hoàn toàn là thiên-lý (không có gì khác nữa) lưu hành chẳng
ngớt, Tiên-Thiên làm chủ mỗi việc, Hậu-Thiên chưa có phát
lộ, muôn vật đều không bụi trần, không thể nhiễm .Một động một tịnh đều là vận
dụng nơi trong Thái-cực .Cho nên tánh mình động mà chẳng đến đỗi sanh ra táo bạo.
Động mà khiêm hòa .Khiêm mà chẳng hóa nhu nhược ,khiêm mà làm việc quả quyết,
khiêm và động hiệp làm một thì cũng như lôi phong tương đảng (gió sấm xâm lấn
nhau).
Lại minh mà chẳng tới mức tự dụng
(1),minh mà tợ như hãm dưới thấp, hãm mà chẳng tới mức mụi tánh, hãm mà hại
mình. Minh mà hãm hiệp làm một thì cũng như thủy-hỏa chẳng tương hiệp (nước lữa
xô xát nhau).
Hòa mà chẳng xuống mức ngụy vọng, hòa mà có chỉ số (có chỗ ngừng có ranh hạng).Chỉ
mà chẳng lạc vào nẽo không tịch (vắng lặng). Chỉ mà hay hòa. Hòa mà chỉ hiệp
làm một thì cũng như sơn trạch thông khí (núi ao thông hơi nhau).
6 - LUYỆN THẦN HUỜN HƯ ĐỒ
Trong dương có ẩn âm, trong âm có ẩn dương. Dương thì kiện, Âm thì thuận .
Âm dương hỗn thành một cảnh rỗng tuếch, trong đó có treo một hột thử mễ bửu-châu
tròn dình, sáng rỡ, trong sạch , đỏ chói, chẳng biết chẳng hay y phép Thượng-Đế.
Đó là chỗ gọi “suất tánh chi vị đạo”(帥 性 之 謂 道 ).Nghĩa là noi theo bổn tánh (mà cư xử) thì gọi là Đạo . Đạo là cái gì ?Tức
là Thái-Ất hàm (bao gồm )chơn khí chẳng dùng tư vị, thung dung mà trung đạo
,chơn không mà diệu hữu, ý nói chí thiện vô ác. Chí thiện vô ác là lành lên cực
điểm không sẩm lậu, chẳng trong ngoài,không nhơn ngã ,chẳng tu chứng, không phối
đối chỉ có một Linh-Chơn Tánh chiếu sáng chẳng tối,chẳng phải sắc chẳng phải
không .tức sắc tức không (mà nhập với không mà sắc).chẳng phải có chẳng phải
không có, tức có tức không có, sắc không như một, chẳng định không hay có.( Tâm
đã trở về vô-vi tuyệt đối , đây mới gọi là chí-thiện (lành đúng mực). Ròng là
Thiên-cơ, tuyệt không nhơn, cơ sanh khí hẵn còn tuy là có cái tánh Nhân, nghĩa
, lễ, trí, tín.
Bất nhân mà chí nhân
Bất nghĩa mà chí nghĩa
Bất lễ mà chí lễ
Bất trí mà chí Trí
Tức là nhân ,tức
là nghĩa, tức là lễ, tức là trí. Một tánh thiện mà có thể gồm đủ 4 đức. Một khí
mà có thể gồm đủ muôn pháp thì làm sao có chất cặn bả như ngũ vật, ngũ tặc .Đó là chỗ gọi chưa sanh ra vậy. Chưa sanh ra nghĩa là
thiên chơn ở bên trong chưa phân tán ra
ngoài, tức là “Bổn lai diện mục”tức là hột giống sanh Thánh-Hiền, tức là
phôi thai của Tiên Phật (tức là Thiên-Thai). Người hành Đạo đắc được quả vị này
mới được về chầu đức Phật-mẫu để được dự lễ Hội-Yến Diêu-Trì.
Cái diện mục hột giống phôi thai nầy người nào cũng có đủ, kẻ nào cũng hoàn
thành. Dẫu bực Thánh không thêm ,dẫu người phàm chẳng bớt .Cho nên Thánh Phàm đồng
chung một con đường.
Đến khi khí Tiên-Thiên đủ, khí hậu-Thiên lẫn sanh, khí âm chủ động mỗi việc.Tinh,
Thần, Hồn, Phách, Ý đều khởi thì Thánh Phàm mới chia ra hai ngã.
Tới đây chỉ có bực Thánh-Nhơn tự trời sanh mới giữ được cái “bổn lai diện mục” đó mà thôi. Còn cả thảy thường
nhơn chưa từng có ai bỏ chơn theo giả tự tổn thương Tánh mạng. mình. Từ xưa các
vị thánh sư đại từ đại bi đem cái đạo bảo nhứt vô-vi mà lưu truyền cho đời sau,
đó là muốn cho người người thành đạo, ai
ai cũng rõ LÝ- CHƠN.
Nhứt là khí Tiên-Thiên chơn nhứt tức là khí do âm dương hỗn hiệp,chẳng phải
chia hai ,tức là cái khí của Tánh-Mạng đoàn kết không tan vậy .Cái khí nầy ở
trong mình người, tứ đại chẳng dính dấp, ngũ hành chẳng ngõ tới, không hình
không tượng, tột trống tột linh, có cái dáng hoạt bác (linh động lanh lẹ) hiệu
là Cốc-Thần. Cái thần nầy chủ tể muôn hình trạng, cầm quyền khí âm dương đây là
chỗ gọi “CỐC THẦN”bất tử thị vị Huyền-Tẩn.(Người đắc được Cốc-thần là người đã
làm chủ được mình , người tự-chủ được mình mới
là người tự-do thật sự vậy)
“HUYỀN-TẨN chi môn thị vị Thiên-Địa
căn dã”. Nghĩa là cốc thần chẳng chết gọi là Huyền-Tẩn. Cửa huyền-Tẩn nầy gọi
là gốc sanh ra trời đất.
Bảo 保 nghĩa là ôm ấp,nắm giữ. Bảo nhứt (càn ☰ vi thiên) nghĩa là nắm giữ
một khí nầy hằng còn mãi mà chẳng lạc mất. Đây là chỗ gọi: “Thủ Huỳnh-Đình dưỡng
cốc-thần dã”. Nghĩa là giữ cung Huỳnh-Đình là nuôi nấng Cốc-Thần vậy.
Nhưng bảo nhứt chẳng phải nói là không không, vô-vi ấy là nghịch thối.Tiên-Thiên
chơn dương tự nhiên. Chơn dương khỏi bị hậu-thiên âm giữ làm lụy. Nếu nghịch thối
chơn dương tự nhiên có chân âm ôn dưỡng.(Ở Bát-Quái Đồ-thiên thì vị trí của quẻ
Càn nằm ở vị trí của quẻ Khôn trong Hậu-thiên Bát-quái, tức là Chân âm chân dương
hỗn hiệp với nhau kiện thuận chung huyền-tẫn giao). Động chẳng lìa tịnh, tịnh
chẳng lìa động tự nhiên có tiên-thiên chơn hỏa ở trong LƯ phát ra đỏ rần luôn
luôn, thì tiên-thiên lần kết ,Hậu-Thiên lần thu, Cốc-Thần bền vững tức là thành
bực Vô-Lậu Chơn-Nhơn. Đây là chỗ gọi:
Yếu đắc Cốc-Thần trường bất
tử,
Tu bằng Huyền-Tẫn lập can
ky
Chơn tinh ký phản huỳnh
kim ốc,
Nhứt phá Linh-Quang vĩnh bất
ly.
Nghĩa là:
Muốn đặng cốc-thần thường
bất-tử,
phải dùng huyền-tẫn lập
căn-cơ
Nhà vàng đã thấy Chơn-tinh
lại.
Một điểm Linh-Quang mấy thủơ
rời.
CHƠN-LINH hay LINH-QUANG đều là tên khác của Cốc-Thần. Linh-Quang chẳng rời
tức là cốc thần chẳng chết. Cốc-Thần chẳng chết thì đặng trường sanh (Đây cũng
là con đường Thiêng-liêng hằng sống).
Cái cốc thần nầy ở trong bản đồ tròn tức là chỗ giữa kiền khôn trống không.
Ở trong bảng đồ vuông tức là chỗ chữ thập giao tiếp. Ở trong mình người tức là
chỗ tứ-tượng động tịnh.
Có hay (khiến trống không lặng lẽ) thì thần còn ở .Không có hay thì thần đi
mất. Sống tại đó,chết tại đó. Âm sanh tại đó, âm trưởng tại đó.Người xưa gọi nó
là SANH MÔN -TỬ-HỘ laị cũng gọi là “ Tạo HỎA-LƯ Âm-Dương đó.
Nho gọi nó là Đạo-Nghĩa
chi môn.
Thích gọi nó là Bất Nhị
Pháp môn
Đạo gọi nó là Chúng Diệu
chi môn.
Nói gọi chung (nói chung cái đó gọi là gỉa cả).Nếu có người thượng-trí đặng
minh sư chỉ bày mối manh của cái đó, nghịch lại mà tu, THÁNH-THAI hiện thành ;
chẳng để cho dương cực âm sanh thì sẽ bước ngay lên bờ bên kia, rồi gia công tu
tới: Luyện Thần huờn hư trở ngược về diện mục (tình trạng lúc cha mẹ trước khi
chưa sanh) đánh phá hư không nhảy ra ngoài vòng âm dương tức là câu “Thánh nhi
bất khả tri chi chi vị Thần”.Cái chi thông-linh sáng-suốt mà không thể biết nó
được thì gọi đó là THẦN”. Y theo xuôi thì chết, vận nghịch thì sống.Lý nầy thường
có đem dạy người mà không ai tính ra mối manh .Nếu chẳng gặp Chơn-Sư dễ dầu chi
biết một chữ NGHỊCH đó.
VI - VĂN-VƯƠNG HẬU-THIÊN
BÁT-QUÁI
(Bát-Quái Hậu-Thiên của
vua Văn-Vương)
Nhơn-luân chi đạo: (đạo vợ
chồng).
Bát-Quái Hậu-Thiên của vua Văn-Vương cũng là quẻ của vua Phục-Hi đã vẽ ra,
chớ chẳng phải là một Bát-quái khác.
Khác là trong các quẻ đã thành lập mà lại nhận thấy một thứ đạo-lý riêng biệt
cho nên đổi nghĩa quẻ và khí của quẻ mà phát-minh điều vua Phục-Hi chưa
phát-minh chớ không phải cượng cầu bịa đặt.
Như Càn ☰ là lão dương, tổ-tông của các khí dương, làm cha. Khôn ☷ là lão âm, chủ tể của các khí âm, làm mẹ.
Cha Mẹ phối nhau, âm dương hiệp nhau, tất nhiên sanh ra con trai con gái.
Cho nên khi Kiền đi lại với Khôn, gặp được cái vạch dưới cùng (sơ hào) của khôn
thì sanh ra Tốn ☴ làm trưởng nữ (con gái lớn).
- Khi Khôn đi lại với Kiền, gặp được
cái vạch dưới của (Càn) Kiền thì sanh ra Chấn ☳ làm trưởng
nam (con trai lớn) )
- Khi Kiền đi lại với Khôn lần nữa, gặp được cái vạch giữa (trung hào) của
Khôn thì sanh ra Ly ☲ làm trung nữ (con gái giữa).
Khi Khôn đi lại với Kiền nữa, gặp được cái vạch giữa của Kiền thì sanh ra
khảm ☵ làm trung nam (con trai giữa).
Khi Kiền đi lại với Khôn lần thứ ba, gặp được cái vạch trên (thượng hào) của
Khôn thì sanh ra Đoài ☱ làm thiếu nữ (con gái út).
1 - VĂN-VƯƠNG SANH-SANH
BÁT-QUÁI ĐỒ
Khi Khôn đi lại với Kiền lần thứ ba, gặp được cái vạch trên của Kiền thì
sanh ra Cấn ☶ làm thiếu nam (con trai út).
Quẻ Kiền gặp được ba hào âm của Khôn, thì dương biến làm âm bèn sanh ba
gái.
Quẻ Khôn gặp được ba hào dương của Kiền, Âm biến làm dương bèn sanh ba
trai.
Trai gái đã sanh thì trai theo cha, gái theo mẹ. Kiền coi hết ba trai ở hướng
Tây-Bắc.
Khôn coi hết ba gái ở hướng Tây-Nam, Kiền là Lão phụ (cha gìa), ba hào khí
chơn dương lọt về tay của ba con trai nên kiện đức thâu liễm phải ẩn núp cảnh
Tây-Bắc là hướng rất lạnh.
Khôn là lão mẫu (mẹ già), ba hào khí chân âm đã lọt về tay của ba gái nên
thuận tánh thất thường phải dời qua cảnh Tây-Nam là nơi sát cơ (chỗ sát khí).
LY ☲ được cái vạch âm ở giữa của Khôn, âm nhốt trong dương, âm mượn sức dương
mà phát ra sáng, cho nên ở chánh Nam là hướng hỏa vượng.
KHẢM ☵ Được cái vạch dương ở giữa của Kiền, dương ra trong âm, dương lọt vào âm
mà làm ra thủy-triều (nước lớn nước ròng) cho nên ở chánh Bắc là hướng thủy vượng.
2 - VĂN-VƯƠNG HẬU-THIÊN
BÁT-QUÁI PHƯƠNG VỊ.
CHẤN ☳ được cái vạch dương ở dưới của Kiền, hào dương đầu, chủ về sanh trưởng cho
nên ở chánh Đông là hướng cây cỏ vượng.
ĐOÀI ☱ đặng cái vạch âm ở trên của Khôn, hào âm cuối cùng chủ về tiêu-hóa, cho
nên ở chánh Tây là hướng Kim (là hướng thuộc các loài kim) vượng.
CẤN ☶ được cái vạch dương ở trên của Kiền, hào dương cuối cùng chủ về tịnh-dưỡng
nên ở Đông-Bắc là hướng khí dương yếu.
TỐN ☴ đựơc caí vạch âm ở dưới của Khôn,
âm hào là hào âm đầu chủ về tiệm tiến, cho nên ở Đông-Nam là hướng khí dương thạnh. .
Kiền, Khảm, Cấn, Chấn thuộc về dương tạo sanh muôn vật.
Tốn, Ly, Khôn, Đoài thuộc về âm, dưỡng thành muôn vật. Cha mẹ, trai gái, tự
nhiên phối-hợp với nhau để vận-hành khí của các quẻ. 64 quẻ Hậu-Thiên cũng sanh
ra tại đây. 64 quẻ sanh ra rồi thì có tạo có hóa, có sanh có thành.
Tạo rồi lại hóa, hóa rồi lại tạo; sanh rồi lại thành, thành rồi lại sanh.
Khi lớn, khi mòn, khi đầy, khi vơi không có lúc nào ngừng nghỉ. Đây là nói lúc
sanh ra rồi cho nên gọi là Hậu-Thiên.
3 - HẬU-THIÊN THUẬN HÀNH TẠO
HỎA ĐỒ
Hậu-Thiên là Đạo thuận sanh mà đạo nghịch vận.( Bát-quái Đồ-Thiên của Toà
thánh tây-ninh) cũng ẩn trong đó.
Quẻ LY vốn thuộc dương mà trở lại là
con gái là ý nói ngoài dương mà trong âm. Âm ở ngôi giữa tức là Chơn Âm.
Quẻ KHẢM Vốn là âm mà trở lại làm con trai là ý nói ngoài âm mà trong dương,
Dương ở ngôi giữa tức là chân dương.
Dương ở ngoài là dương hậu-thiên, âm ở trong là âm tiên-thiên. Âm ở ngoài
là âm hậu-thiên, dương ở trong là dương tiên-thiên. TIÊN-THIÊN là chủ. HẬU-THIÊN
là khách. Khảm ly qua lại, nước lửa trợ nhau, lạnh nóng có giờ cho nên đủ sức
thay thế cho Kiền-Khôn mà vận hành tạo hóa.
QUẺ CHẤN âm nhiều dương ít, làm con trai là ý nói Chấn là khí dương vừa mới
thay, mà khí dương thay thì đủ sức phù khí âm.
Quẻ ĐOÀI dương nhiều âm ít, làm con gái là ý nói Đoài là khí âm hiện phía
ngoài, mà khí âm hiện thì đủ sức diệt khí dương. Chấn là sanh cơ ( tức là Dương
làm chủ), Đoài thì sát cơ.( Âm vi chủ).
Kim Mộc hiệp nhau ( Chấn Đoài hiệp nhau) có sanh sát thấy rõ ràng cho nên đủ
sức thay thế cho Kiền-Khôn mà đoạt thành Tạo-Hóa.
NGHĨA-LÝ CÁC QUẺ TRONG
HẬU-THIÊN THUẬN-HÀNH TẠO HỎA
ĐỒ
CÀN Chơn kiện do gỉa kiện
xuất.
KHẢM Nguơn-Tinh hãm,trược
tinh sanh, Trí biến AÍ
CẤN Chơn dương chỉ, giả
dương hiện.
CHẤN Nguơn tánh khai, khí
tánh phát, Nhơn biến Hỉ
TỐN Chơn âm phục, giả âm tấn.
LY Nguơn-Thần hội, Thức-Thần
minh, Lễ biến LẠC.
KHÔN chơn thuận thiên, giả
thuận hội.
ĐOÀI nguơn tình tòng vọng
tình diệt, Nghĩa biến NỘ.
Từ Khảm qua ly theo chiều thuận: Hữu
sanh hữu tử, nhi bất dĩ gỉa, Tiên-Thiên thối vị, hậu-thiên chủ sự.
Từ Kiền đến Ly theo chiều nghịch: Kiện
thuận thất thường, chơn vi giả mai dương vi âm yển, Thuận kỳ hậu-thiên âm dương
ngũ-hành
4 - HẬU-THIÊN NGHỊCH VẬN
BIẾN HỎA ĐỒ.
Kiền với Tốn giao mà chẳng hiệp. Khôn với Cấn giao mà không chánh. Kiền: lão
dương; Khôn: lão âm chẳng thể sanh dục.
Cấn vừa giao tiếp với khí dương kia (của kiền).Tốn chỉ thuận sanh khí âm nọ
cuả Khôn . Cho nên theo ngôi hướng của 8 quẻ thì Kiền Khôn Cấn Tốn ở 4 chéo góc
,còn khảm ly chấn đoài ở 4 hướng chánh.
Đạo vận nghịch thuận của Hậu-Thiên là “Tận tánh chí mạng”của Thánh-Hiền đều
không ra ngoài chỗ đó.
Cái bổn lai (gốc gác )của con người do âm dương hổn hiệp mà thành tánh mạng
chung một nhà, kiện thuận gồm đủ ,ròng là Tiên-Thiên khí nó giao với hậu-thiên
thì trong cái chơn lại có cái giả, nên cái chơn kiện thì có hao thuận thì bị hại
tánh mạng mới chia riêng hai chỗ.
Tới đây các đức kiện không hiện bày ,tuy linh minh mà có chỗ sai lầm, Nguơn
thần mê muội thì thức thần chường mặt, caí đức thuận không phải thiệt tối tăm
mà có chỗ nguy hiểm .Nguơn tinh ẫn tàng thì trược tinh phát sanh như trong bản
đồ.
5 - KIM MỘC GIAO-TIN ĐỒ.
KHẢM-LY ở ngôi trung chánh còn KIỀN dời về Tây-Bắc ,KHÔN đổi lại Tây-Nam, nên
tinh thần hậu-thiên hành sự.
Động mà táo bạo là khí tánh .Phát hòa mà phe đảng là vọng tinh sanh như
trong bản đồ.
CHẤN ở chánh Đông.Ngôi mẹo dương biến làm âm.Còn ĐOÀI ở chánh Tây ngôi Dậu
hòa biến làm sát (giết hại).Tinh-Thần Tính-Tình biến khí âm lẫn nhập mà tiến
mãi .Khí dương lần suy rồi tuyệt vọng như trong bản đồ.
TỐN ở Đông-Nam là chỗ
dương vượng.
CẤN ở Đông-Bắc là cảnh
dương tối .
Ôi ! Hễ hậu-thiên phát rồi, âm lần lớn, dương lần tiêu đến chừng nào sanh hết
khí dương mới thôi.
Tại vậy mà trong bảng đồ có Kiền gặp Tốn mà thành quẻ Cấu, Khôn gặp Cấn thành quẻ Bác.Khảm ở trên hỏa ở dưới thành thủy
hỏa Ký-Tế .Chấn ở Đông , Đoài ở Tây thành Lôi-Trạch Qui-Muội.
Cái đạo nầy là Đạo Trời Đất tự nhiên thuận hành . Khí dương lên tột độ thì
phải sanh âm. Khí âm lên tột độ thì phải chết .Thế thì con người ta cũng không
biết làm sao được. Chỉ có bực Thánh-nhân có cái đạo nghịch vận, hay trộm được
khí âm dương đoạt Tạo-Hóa, chuyển kiền-khôn, vận khí cơ trong chỗ hậu thiên mà
phản lại tiên-thiên, trong chỗ chết mà làm ra sống.
6 - KHẢM-LY ĐIÊN-ĐẢO ĐỒ
(Đạo-tâm và Nhân-tâm)
Cái Đạo nầy ở đâu? Cũng không ra ngoài cái lý Bát-Quái Hậu-Thiên trong bản
đồ: Khảm ly chấn đoài ở 4 hướng chánh
.Kiền Khôn Cấn Tốn ở 4 hướng chéo gốc. Cái máy Thiên-cơ ẩn trong đó .Nếu không
có thầy truyền thì không sao mà biết được.
Một hào âm ở trong quẻ Ly là nhân tâm đó .Một hào dương ở trong quẻ Khảm là
Đạo- tâm đó. Đạo-Tâm vốn là khí dương của nhà Kiền vì giao với hậu-thiên mà phải
lọt vào cung khôn. Dương hãm trong âm, kiện mà hết kiện.
Nhơn Tâm vốn là khí âm của nhà Khôn ,vì mất Tiên-Thiên mà phải lọt vào cung
Kiền . Âm giành ngôi dương thuận mà không thuận.
Nếu ai hay giữ được trong lòng của mình (Hư-Tâm) thì nhơn-tâm hóa .Nhơn-tâm
hóa thì âm thuận trở về cung Khôn như xưa.Lữa quay lại tánh chơn của nó. Nếu ai hay giữ được đầy bụng của mình
(Phật-Pháp) thì Đạo-Tâm sanh. Đạo-Tâm sanh thì dương kiện trở về cung Kiền như
xưa .Nước quày lại cội nguồn của nó. ( tức là chiết Khảm điền Ly phản vị Càn).
7 - KIỀN KHÔN ĐIÊN-ĐẢO ĐỒ
Đoài ☱ là kim khách khí ở nhà
người.
Chấn ☳ là mộc khách khí ở nhà
ta.
Chấn vốn là dương mà ở
trong có âm . Đoài vốn là âm mà ở trong có dương. Chủ khí bị khách khí trộm thì
hướng Đông trống mà hướng Tây đầy. Nếu ở trong sự sát mà cầu sanh, khí sát biến
làm khí hòa. Kim tính luyến mộc từ nhân thì kim trở lại gốc của nó. Một tánh
ái-kim thuận nghĩa thì mộc trở lại cội của nó.
Lấy Khảm đáp ly thì đức kiện
phục bổn mạng như xưa.
Mượn Ly rèn Khảm thì đức
thuận rèn bổn tánh như trước.
Dùng Chấn mà cầu Đoài thì kiện động mà hay hòa thuận. Dụng đoài mà cầu Chấn
thì hòa thuận mà hay kiện động. Kiện là thuận như một. Kiền và Khôn chung hiệp tứ
-tượng cùng hòa.Ngũ-Hành qui tụ thì Tinh, Thần, Hồn, Phách, Ý của Hậu-Thiên trở
về gốc Chơn .Ngũ đức, ngũ nguơn hoàn toàn thành tựu . Huờn nguyên phản bổn thì
kim đơn lộ hình (xuất hiện).
Chánh là : Kiền Khôn giao cấu bãi.
Nhứt điểm lạc Hỳnh-Đình.
Nghĩa là : Kiền Khôn giao
cấu rồi
Một giọt lọt Huỳnh-Đình.( Một giọt là Đơn-Nguơn -Huỳnh-Đình là trung –ương
).
8 - GIẢI THOÁT BỔN DIỆN
(Bát-quái Đồ-thiên)
ĐƠN mà lọt vào trung uơng thì âm dương thành nhứt khí trở lại cái bổn-lai
diện-mục của mẹ sanh thì cơ sở mới được chắc chắn.
Đây là chỗ gọi :
Nhứt liệp Kim-Đơn thâu nhập
phúc.
Thỉ tri ngã mạng bất do
thiên .
Nghĩa là :
Một hột Kim –đơn nuốt xuống
bụng.
Mới tường bổn mạng chẳng
do Trời.
Ôi! kiện thuận một khi mất đi rồi thì tánh mạng chia
lìa, ngũ hành loạn lạc, kiện thuận vừa được lập lại thì tánh mạng đoàn kết ,
ngũ hành qui tụ.
Cái đó đã mất thì chẳng có cái gì không mất . Cái đó
phục lại (trở về gốc) thì chẳng có gì không phục lại.
Cái đạo hữu vi biến hóa theo hậu-thiên lớn lắm thay!
chỉ HUỜN NGUYÊN phản bổn, KIỀN KHÔN chung hiệp đó là công phu phân nữa đầu làm
trọn hết rồi, còn lại phân nữa sau chưa xong.
Số là đạo tới kiền khôn chung hiệp là mới đổi hậu-thiên lại thành
tiên-thiên (xem kỹ lại Bát-quái Đồ-Thiên). Đã đổi lại thành tiên-thiên thì từ
đây phải còn một lập đảnh lư nữa . Đặt kim chùy ở chỗ khác .Dùng cái đạo nghịch
vận vô-vi điên đảo kiền khôn.
KIỀN nghịch thối mà Khôn thuận sanh, nên mượn sức âm mà bảo toàn dương, vừa
ôn vừa dưỡng .Hãy dùng chơn hỏa thiên nhiên ( số 7) nấu cho tiêu hết khí hậu-thiên
âm trược trong cả thân thể đúc thành một
KIM CANG BẤT HOẠI ( số 9).
Vật nầy do chỗ hư-vô mà lộ ra ,nhập vào cảnh không hơi không tiếng, huờn lại
cái diện mục chưa sanh thân ta về trước. Đặng vậy mới thiệt “Đại -giải-thoát”,
tiêu-diêu tự-tại trên từng trời không cản không thúc.
VII - TIÊN HẬU THIÊN BÁT
QUÁI HIỆP NHỨT .
(Bát-Quái Tiên-Thiên và Hậu-
Thiên hiệp một).
Tiên-Thiên Bát-Quái là nhứt khí tuần huờn hoàn toàn thiên-lý phát ra do
Thái-Cực động nói về chân thể chưa phá (còn đồng chơn).
Hậu-Thiên Bát-Quái là âm dương chia rẽ, có dữ có lành biến động trong cơ tạo-hoá.
Đây nói về chân thể đã hao (đã lậu tinh).
Lúc chơn thể chưa phá là “vị sanh xuất”,thì phải tu vô-vi. Chỗ huyền diệu của
vô-vi là Trong cái nghịch mà đi thuận, đem dương tiên-thiên ngược về ẩn tàng. Dẫn
âm hậu-thiên thuận cho điều-hòa, phục lại diện mục cha mẹ chưa sanh về trước chẳng
cho khí âm làm hại chơn thể.
Khi chơn thể bị hại là “ dĩ sanh xuất” thì phải tu hữu-vi là trong cái thuận
mà dùng nghịch. Thuận để thối hết âm hậu-Thiên trở ngược về dương tiên-thiên,
phục lại cái diện mục ban sơ của cha mẹ chưa sanh, khiến khí dương huờn lại
thành chơn thể .
Nhưng trong Tiên-Thiên vị sanh xuất, không còn phân biệt. Trong hậu-thiên
dĩ sanh xuất tự nhiên có chỗ phân biệt.
Trong lúc còn ở trong bào thai, Tiên-thiên âm dương ngũ-hành chỉ là một khí
bao gồm, không thấy hình thấy dấu chi được, đó là dĩ sanh xuất. Đến khi thân nầy
đã sanh rồi mà chưa giao với hậu-thiên thì ta chẳng biết chẳng hay, y phép thượng-Đế
tột lành không dữ.
Tuy là cái thân đó có tánh âm-dương ngũ-hành mà chưa có chất âm dương
ngũ-hành ,hoàn toàn là một khí . Đây cũng là vị sanh xuất ở cảnh
Tiên-thiên..Trong chỗ nghịch mà đi thuận, tức là trở ngược lại ẩn tàng trong
Tiên-Thiên âm-dương ngũ-hành mà phục lại cái khí bào thai, thuận cho tiêu hỏa
khí âm hậu- thiên để chỉ một khí..
Lúc mới sanh thân, khí hậu-thiên âm-dương ngũ-hành nhập trong thân thể hiệp
với khí Tiên-Thiên âm dương .Trong khí Tiên-Thiên có lẫn lộn khí âm hậu-thiên.
Tuy khí Hậu-Thiên chưa phát mà hình tích đã lộ rồi.Cũng như lành dữ,mềm cứng của
con trẻ đều gốc ở tánh thành.
Như Hậu-Thiên bị Tiên-Thiên gồm trị ấy là tánh tương cận (nghĩa là tánh
lành) còn gần với nhau đó là dĩ sanh xuất. Đến khi khí dương Hậu-Thiên mạnh lên
tột bực giao với Tiên-Thiên, trí hay hết mở mang, mở mang thì caí 1inh khiếu bế
lại, cái máy đó phát chạy rất phóng túng ngông cuồng. Đây cũng là dĩ sanh xuất.
Ở cảnh tiên-thiên trong chỗ thuận mà dùng nghịch ,tức là thuận để thối cho hết
khí âm bị phá phục lại chỗ chưa phát hồi ban sơ vừa sanh. Đem ngược lại cái khí
Tiên-Thiên trở về chỗ ban sơ vừa sanh đó.
Hễ dương kiện âm thuận thì thấy lại cái bỗn lai diện mục, ấy là nguyên vật
do hai khí tiên và hậu thiên hiệp thành. Rồi từ đây lập riêng cảnh kiền khôn tạo
thành lư (lò chão) một lần nữa làm cái đạo tiên-thiên ở trong nghịch mà dùng
thuận. Đó là phép “cửu huờn thất phản” đạo
huờn đơn.(1).
Ghi-chú (1): Cửu là 9, số thành của Kim ,thất là 7 số thành của hỏa .Kim hỏa
quay về trở lại ngôi xưa thì thành Đạo Kim-Đơn.
Bây giờ hãy đem cái bản đồ tiên-thiên đặt trong bản đồ hậu thiên, khiến người
nào chơn thể chưa phá làm đạo tự nhiên vô-vi , đó là lấy làm đạo tàng hình.
Trong nghịch dùng thuận để tiêu hóa khí âm hậu-thiên.Còn cái chơn thể đã
hao rồi thì làm đạo biến hóa hữu vi .Phải dùng phép Diên-mạng, trong thuận dùng
nghịch để trở lại khí dương tiên-thiên ( nghịch lại cử chỉ của thế tình là gần
ngôi Tiên Phật).Tiên và hậu hiệp làm một dùng luôn cái có cái không, cữu huờn
thất phản để trở về ngôi đại giác thì việc tu Kim-Đơn đã trọn vậy.
VIII – ĐỒ THƠ TIÊN HẬU HIỆP-NHỨT.
(Bát-quái ĐỒ-THIÊN của
Tòa-thánh Tây-ninh).
( Hà-Đồ Lạc-Thơ Tiên-Thiên và Hậu-Thiên hiệp một.)
Hình của Hà-Đồ tròn, âm dương hiệp một là đạo tự-nhiên vô-vi. Hình của Lạc-Thơ
vuông, âm dương chia ngôi là đạo biến hóa hữu-vi.
Hình của Tiên-Thiên tròn, âm dương chung một khí, dùng nghịch mà toàn thuận,
cũng là đạo tự-nhiên.. Hình của Hậu-Thiên vuông, âm-dương đã chia đôi, trong
thuận lại dùng nghịch cũng là đạo biến hóa hữu-vi.
Hà-Đồ Tiên-Thiên chủ về việc dùng phép diên mạng ,tiên-thiên và hậu thiên
là phần hà-đồ lạc-thơ chú thích. Hà Đồ và Lạc-Thơ là số của tiên-thiên và hậu-thiên.
Tiên-thiên và hậu thiên là lý của hà-đồ lạc thơ. Số nhờ lý mới đặng rõ ràng. Lý
nhờ số mới có căn bản.
Hà-Đồ Lạc-Thơ làm biểu lý (trong ngoài) lẫn cho nhau .Không có Lạc-Thơ thì
hà-đồ không biến hóa. Không có Hậu-thiên thì Tiên-Thiên không trọn thành.
Hà-Đồ là bổn thể của Lạc-Thơ. Lạc-Thơ là cung dụng của Hà-Đồ .Tiên-thiên là
bổn thể của hậu thiên .Hậu-thiên là công dụng của Tiên.-thiên.
Thể và dụng có đủ lý và số gồm trọn thì cái đạo song tu tánh mạng chẳng còn
chi là dấu diếm nữa. Bây giờ hãy bắt chước theo cái bản đồ trong vuông ngoài tròn
của Thiệu-Tử mà đem đặt Hà-Đồ trong Lạc-Thơ .Tiên-Thiên trong Hậu-Thiên.
Hà-Đồ Lạc-Thơ là một bản-đồ. Tiên thiên .Hậu-Thiên là một bản đồ khác,
thành ra hai bản-đồ trong vuông ngoài tròn (lấy cái nghĩa biến hóa trong vuông
ngoài tròn ).
Lại đem 4 bản đồ hiệp làm một bản đồ để chỉ: “caí bản đồ này là bản đồ sống,cái
lý là cái lý sống”. Chẳng đặng lấy bản đồ mà nói bản đồ, lấy quẻ mà nói quẻ.
Lấy đạo toàn hình là công phu trọn thành không thiếu hụt , đủ phòng nguy hiểm
thành chi (Nội thành nội minh là tự nhiên thành minh, còn nói thành chi minh
chí là phải gắng sức mới đạt tới thành
minh.) là Tánh vậy .Dùng phép Diên mạng
là đạo âm dương thố tổng phản bổn huờn nguyên minh chí (2) là GIÁC vậy.
Trong vuông ngoài tròn là tự thành mà mình tu vô-vi mà bỏ hữu vi. Còn ngoài
vuông trong tròn là tự minh mà thành tu hữu vi để qua vô-vi thì liễu Tánh, tu hữu-vi
thì liễu Mạng .Liễu tánh là để thành công phu tiên-thiên. Liễu mạng là đổi hậu
thiên ra tiên-thiên .
Tiên-Thiên toàn hậu thiên hỏa, có và không bất luận tánh mạng (tánh và mạng)
đều xong thì hiện ra cái diện mục hồi cha mẹ chưa sanh ,lộ rõ chơn tướng lúc vô
thỉ, Ngũ-hành không đi tới đó được (không xen lẫn được).
Hà-Đồ và Lạc-Thơ bát-quái tiên-thiên và hậu thiên chỉ có một lý quán xiển tất
cả hoàn-toàn là Thái-Cực. Tới đó muôn hình tượng đều ra không âm dương ,cả hai
hiệp hòa, không tiếng không hơi thiệt là tột bực .
IX - TRUNG ĐỒ.
(Chân-tâm, chính tâm)
Nho giáo nói chấp trung 執 中
Đạo giáo nói thủ trung 守 中
Thích giáo nói hư trung 虛 中
Chữ TRUNG 中 là Tâm-Pháp của Thánh-Nhơn
trong Tam giáo để tu-hành cả tánh mạng mới thành Đại-Đạo.
Ngũ-kinh muôn điển lập đi lập lại chỉ nói có một chữ nầy theo triện văn (một
thứ chữ xưa hình vuông ).Chữ Trung do một vòng tròn và một sổ xuống hiệp lại mà
thành (中).Ở trong thân người nó là cái tánh luân-lý đạo-đức
và vật tột lành nghĩa là không dữ, cực sáng nghĩa là tan đi bóng tối. Chỗ người
ta gọi khí Tiên-Thiên chơn nhứt tức là nó vậy. Ở giữa là vòng tròn có một sổ,
nghĩa là hoàn-toàn thiên-lý. Một khí xuống lên lưu hành chẳng ngớt.
Một sổ ở giữa, trung tim của vòng tròn, bên trái là dương, bên phải là âm,
tức là cái dấu riêng của một khí lên xuống trong Hà-Đồ. Bên trái là dương, bên
mặt là âm.
Có thi rằng:
Hữu vật tiên thiên địa
Vô sanh bổn tịch liêu
Năng vi vạn tướng chủ
Bất trụ tứ thời diêu.
Nghĩa là :
Có một vật kia trước đất
trời
Không tin vốn thiệt bặt
tăm hơi.
Cầm quyền chủ tể sanh muôn
vật.
Tám tiết trơ trơ chẳng đổi
dời .
“Trơ trơ chẳng đổi dời” tức là vòng
tròn. Làm chủ tể muôn vật tức là một nét sổ xuống. Cái đó tột không mà tột có,
tột trống mà tột đầy cho nên gọi là TRUNG. Chữ trung nầy không chênh không lệch,
không trước không sau, không trái không mặt, không đầu không đuôi. Chẳng phải
có chẳng phải không có. Chẳng phải Sắc chẳng phải không. Trống mà tròn không đo
lường được. Không vạn bóng mà hay làm chủ muôn vạn bóng. Không có hình mà hay tạo-hóa
vật có hình. Sanh trời, sanh đất, sanh người và vạn-vật. Ở trong thân người
không phải là tứ đại hiệp thành thân thể.
Nó cũng chẳng phải thứ trung lấy nghĩa trong (trung- uơng ). Đối với ngoài
không chỗ, không hướng, không định ngôi. Ta nhìn thì không thấy nó. Ta lóng thì
không nghe nó. Ta rờ thì không đụng nó.
Người xưa lấy lý mà suy rồi vẽ một cái hình tương tợ. Gắng gượng mà đặt tên
cho nó là Thập-tự-Nhai, Tứ hội điền, Thông cù lộ, Mồ kỷ môn, Huyền Tẩn môn, Huyền-quang
khiếu, Sanh sát xá, Hình đức môn, Sanh tử
quan, Huyền thai đảnh, Tạo hỏa lư…
Danh hiệu biết bao nhiêu mà kể, nhưng tóm lại có thể gọi chung một chữ là
TRUNG.
Trung là gốc lớn của thiên-hạ từ xưa đến nay. Thánh Hiền Tiên Phật đều do một
chữ trung ấy mà ra. Cái lớn của nó không có chi lọt ra ngoài, cái nhỏ của nó
không có chi xen vào trong. Hễ phát nó ra thì nó tràn đầy sanh tướng, còn thâu
nó lại thì nó rút ẩn trong nơi kín. Ai biết được nó thì lập tức về cõi Thánh. (
Thánh-thai) Ai không biết nó thì muôn kiếp chịu trầm luân.
Ngôi trung nầy là cội của tánh mạng ở cảnh tiên-thiên. Tánh mạng chỉ có Một
hiệp ngôi trung.
Ở cảnh hậu-thiên ngôi trung chia ra làm hai: Tánh và Mạng. Kỳ thiệt trong hậu
thiên phản lại tiên-thiên, tu Tánh trọn rồi mạng cũng ngưng. Tu tánh mạng trở về
cội huờn lại ngôi Trung như xưa. Lão-Tử nói “Cốc thần bất tử thị vị Huyền-Tẩn”.
Huyền-Tẩn chi môn thị vị thiên địa căn”. Nghĩa là cốc thần chẳng chết thì gọi
là cửa huyền-tẩn. Cửa huyền-tẩn tức là gốc sanh trời đất
Tử-Dương nói “Yếu đắc Cốc-Thần trường bất tử, Tu bằng huyền tẩn lập căn
cơ”. Nghĩa là muốn đặng cốc-Thần thường chẳng chết, phải dùng huyền-tẩn (âm dương)
để làm nền.
Cốc thần tức là ngôi Trung. Huyền tẩn tức là âm dương là tánh mạng, Cốc thần
chẳng chết là ngôi trung ngậm chứa tánh mạng. Huyền-Tẩn làm nền là tánh mạng hiệp
huờn thành ngôi Trung.
Giữ ngôi Trung nầy là Thánh-Nhơn; mất ngôi trung nầy là phàm nhơn. Thánh
khác với phàm chỉ tại khoảng còn hay mất ngôi Trung đó mà thôi. Hết thảy những
kẻ phàm phu bị khí chất buộc ràng, bị tập nhiễm lem-luốt, nếu tánh mạng chia
hai nơi mà ở riêng.
Ngôi trung có chỗ hao kém, càng ngày càng hao kém thì tánh rối loạn, mạng động
lay. Thần hôn ám, Khí trược nhơ làm cho ngôi trung tán mất. Ngôi trung đã mất,
tánh mạng không gốc, hình tuy động chớ thần đã tan thì sao cho bền bĩ được ?!(
Người đắc được ngôi Trung là người đã sach nợ tiền Khiên thì sẽ được tự-tại, hưởng
phúc an-nhàn).
Thánh-Nhơn trong Tam giáo lấy ngôi Trung làm gốc là ý muốn cho người ta nắm
giữ ngôi Trung ấy để bảo-tồn được tánh mạng
mà thôi.
Một chữ Trung nầy sau như trước là việc quan-trọng nhứt cho kẻ tu-hành.
Trúc cơ tại đó, thể dược tại đó, phanh luyện tại đó, ôn dưỡng tại đó, tiến dương tại đó thối âm tại
đó, kết đơn tại đó, thoát đơn tại đó. Trong phép “thất phản cửu huờn” chẳng có
một việc gì mà không ở tại đó.
Nhưng chữ Trung nầy người không dễ thấy cũng không dễ biết, chẳng khá dùng
hữu tâm mà cầu, chẳng khá lấy vô tâm mà giữ.
Hữu tâm mà cầu nó thì ngả về nẻo
sắc tướng. Vô tâm mà gồm nó thì đọa vào chỗ lặng không. Cả hai đều chẳng phải
là Trung đạo, mà là ngôi Trung chơn-chánh.
Nó chẳng phải có chẳng phải không mà tức có, tức không.( Chữ tức nầy nghĩa
là không ra ngoài, như có một, ý nói chẳng phải có mà không ra ngoài cái có. Chẳng
phải không mà không ra ngoài cái không). Nó chẳng phải sắc chẳng phải không mà
tức sắc tức không .Bác-nhã tâm-kinh có câu:
“ Sắc tức thị không, không
tức thị sắc”
“ Sắc bất dị không, không
bất dị sắc”
Nó chẳng chênh-lệch theo mặt nào. Phải cầu nó trong cảnh hoảng-hốt. Phải
tìm nó trong chỗ yểu minh mới là mong gặp nó được.
Thiên hạ học đạo mà chẳng biết chữ Trung nầy là vật gì. Hoặc gọi là huyệt
Huỳnh-Đình, hoặc gọi là huyệt thiên-cốc, hoặc gọi là huyệt Bá-Hội, hoặc gọi là
Giáng Cung, hoặc gọi là Minh-Đường, hoặc gọi là Yết-Hầu. Hoặc gọi là khoảng giữa
hai thận (Mệnh -Môn).
Họ nắm giữ huyệt khiếu ở trong huyễn thân mà gọi là “Bảo-trung thủ nhất”, họ
mong đặng trường sanh mà chẳng những không đặng sống lâu lại còn chết gấp là
khác, buồn thay!
Nho-Giáo nói “Hỉ, Nộ, Ái, Lạc, chi vị phát vị chi Trung” (Mừng giận buồn
vui chưa phát ra gọi là trung). Lại nói “bất thiên bất ỷ vị chi trung (Chẳng
chênh lệch, chẳng dựa nương gọi là Trung).
Đạo-Giáo nói: “Tiền huyền chi hậu, hậu huyền tiền. Dược vị bình bình khí tượng
tuyền (toàn)”.Nghĩa là tiền-huyền là trăng mồng 8 .Về sau hậu huyền (là trăng
23 về trước). Trong lúc đó mùi thuốc bình bình (vừa phải) thì khí tượng toàn vẹn.
Lại nói “Âm dương đắc loại qui giao cảm.
Nhị bát tương đương tự hiệp thân”.Nghĩa là âm dương gặp đồng loại (tiên-thiên
như nhau) thì giao cảm; hai bên đủ 8 cân bằng nhau thì tự nhiên mến nhau, hiệp
nhau (8 lượng bằng nữa cân, trời người hiệp một).
Thích giáo nói “Ngô hữu nhứt vật,
thượng trụ thiên hạ trụ địa, vô đầu vô vĩ, vô bối vô diện”. Nghĩa là Ta có một
vật trên chống trời, dưới chống đất, không đầu không đuôi, không trái không phải.
Lại nói “Xá-Lợi-Tử”, “sắc bất dị
không không bất dị sắc, sắc tức thị không không tức thị sắc”. Nghĩa là Nầy xá-lợi-tử sắc tướng chẳng khác
chơn không; chơn không chẳng khác sắc tướng. Sắc tướng tức là chơn không, chơn
không tức là sắc tướng (sắc tướng và chơn không chỉ là hai phương diện của một
vật, chớ không phải riêng biệt nhau).
Những câu nói như vậy đó đều chỉ chỗ thiệt xứ của ngôi trung. Nếu có người
để ý tới mấy chỗ nầy hết lòng nghiên-cứu tựu thành với các bậc chơn-sư. Nhận
cho ra ngôi TRUNG chân chánh, đem cây Thiền-Trượng xỏ vô lổ mũi con trâu, thì lập
tức lên bờ bên kia mà chẳng hao một tí lực-lượng nào cả.
Rồi từ đây tiến thẳng trên con đường cái, chẫm rãi mà bước, rốt cuộc có
ngày tới nhà (gốc đạo).
Kinh nói “Đắc kỳ nhất, vạn sự tất”. Nghĩa là đặng ngôi nhất rồi (ám chỉ
ngôi trung) thì việc chi cũng xong, có phải là lời phỉnh gạt ai đâu !?
TRUNG-ĐỒ
(Mồ-Kỷ môn)
Nhìn nó không thấy, Lóng nó không nghe, Nắm nó không đặng. Chí-linh, chí
thánh, chí thần. Nghĩ nó thì hỏng, bàn nó thì sai, tìm nó thì không có. Sanh
thiên, sanh địa, sanh nhơn.
X - KIM-ĐƠN ĐỒ
Sách Ngộ-Chơn nói rằng :
Đạo tại hư-vô sanh nhứt
khí
Tiện tùng nhứt khí sản âm
dương
Âm dương tái hiệp thành tam
thể
Tam thể trùng sanh vạn-vật
trương.
Nghĩa là :
Đạo ở hư-vô sanh một khí
Rồi do một khí rẽ âm dương
Âm dương hiệp lại thể ba
hiện
Cứ hiện thể ba vật phát
trương
Chỗ gọi Hư-Vô Nhứt Khí đây là cội TRỜI ĐẤT là nguồn âm dương, là tổ muôn vật,
tức là KIM-ĐƠN đó.
Đức Chí-Tôn cho Thi:
Tường quang nhứt khí chiếu
minh đông,
Tam giáo qui nguyên dữ cộng
đồng.
Phật pháp khuyến nhơn qui
mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng
thuần phong.
Diệu huyền chơn đạo tu
tông hướng,
Mê hoặc tà mưu khả tự
phòng.
Thế thượng dục tri Thiên sứ
đáo,
Tam Kỳ Phổ Ðộ lập kỳ công.
Bay đến Hồ Dương phụng gáy
chiều,
Thần Tiên giáng thế biết
bao nhiêu.
Trở chơn ít kẻ lo đi ngược,
Bước đọa xem qua dấu dập
dìu.
Kẻ thế không rõ Kim-Đơn là việc gì, là vật chi, nên độ chừng nó ở trong
thân thể,có hình có dạng của ta đây, Hoặc tưởng nó là loài kim, loài đá luyện
thành .Hoặc tưởng nó là khí huyết của con trai con gái kết nên. Hoặc tưởng nó
là cái tâm giao cùng cái thận mà đọng kết lại .Hoặc tưởng nó là do tinh thần
qui tụ mà có. Hoặc cho nó ở tại đơn điền khí hải. Hoặc cho nó ở tại huỳnh đình
,nê huờn. Hoặc cho nó ở minh-đường ngọc chẫm. Hoặc cho nó ở khoảng giữa hai thận.
Những điều sai lầm như thế không sao kể xiết , đều là chuyện đưa gạch mà gạt là
ngói, nhìn giả mà gọi là thiệt (Chơn).Cho nên nói : “ người học đạo như lông
trâu mà kẻ thành đạo như sừng lân”là vậy (lân chỉ có một sừng).
Kim có nghĩa bền bỉ, chẳng hoại (như ngọc Kim-cương). Đơn có nghĩa sáng suốt
không tối . (Hình chữ đơn (丹) như chữ minh (明)do hai họ nhựt nguyệt họp thành ).
Sao mà chẳng biết Kim-Đơn tức là cái khí bổn lai Tiên-Thiên chơn nhứt vậy kìa
.Cái khí nhờ lữa trui rèn rồi thì dầu trãi muôn ngàn kiếp cũng không hoại.Cho
nên gọi là KIM-ĐƠN.
Thứ đơn này tột không mà ngậm tột có. Tột trống mà ngậm tột đầy.Không hình
không dạng. Bổn thể của nó ở trước trời, còn sau trời là công dụng của nó.
Chẳng thể lấy trí biết mà biết được nó, lấy sức hiểu mà hiểu nó. Càng nghĩ
càng sai càng bàn càng trật .Người xưa gắng gượng vẽ ra hình O .Gắng gượng đặt
tên là đạo HƯ-VÔ , Tiên-Thiên nhứt khí, vô-cực, Thái-Cực .Người ta gọi Đạo là
chỉ một cái tên mà không tên .Gọi hư-vô, vô-cực là nó, là lúc chưa sanh vật .Gọi
Thái-Cực, nhứt khí là nói về lúc vừa sanh vật.
Kỳ thiệt hư-vô, vô-cực, thái-cực, nhứt khí đều chỉ một việc, một vật là Đạo
mà thôi .Chớ không phải hai việc, hai vật khác nhau .Cái việc cái vật này là
Kim-Đơn. Ở trong Hà-Đồ Lạc-Thơ tức là một điểm ở trong số 5 tại giữa (là Bát-Nhã
thoàn, là nới kết tụ của khí Âm Dương ngũ-hành)
Theo Tiên-Thiên, Hậu-Thiên nó là cái khiếu ở giữa hai khí âm dương tương hiệp
cùng nhau ( Huyền-quang Khiếu). Cái khiếu nầy người người đều sẵn có, ai ai
cũng trọn đủ ,chẳng phải ở bực thánh mà thêm, chẳng phải ở người phàm mà bớt.
Chỉ vì con người bị khí chất buộc ràng, tập quán lem luốc nên thuận theo khí âm
hậu thiên mà quên tông tổ, trôi nổi mà quên trở về, chẳng còn biết đâu là bờ bến.
Từ xưa những bực thánh-hiền từ-bi độ thế, bày ra đạo hữu-vi Kim-Đơn để thức
tỉnh người đời. Đó là muốn cho mọi người
đều biết rõ về gốc để phục mạng .(qui căn phục-mạng). Đem cái vật buổi ban sơ
kia trở về chỗ củ mà thôi. Cái phương pháp nầy có hai đoạn:
1 - là hữu-vi.
2 - là vô-vi.
VÔ-VI: Tức là cái Lý nhứt khí hồn nhiên (không xen lộn thứ khác) của âm dương
cùng giao trong Tiên-Thiên đồ.
Người bực thượng trí hành đạo vô-vi để ôn dưỡng cái này (O) .cái này tức là
“Diệu-quang tam-giáo” : Tinh-thần vô-kỹ ,vô-công ,vô-danh, tượng trưng bằng 3 vòng
tròn dính liền nhau (Nơi Hộ-Pháp tịnh-đường ở Trí-giác-cung có thờ 3 vòng Vô-vi
này còn ở Trí-huệ-cung thì treo ở trước mặt tiền tầng 3 và ở phía trên cùng)..
Còn kẻ bực trung, bực hạ hành đạo hữu-vi ,theo chỗ không mà giữ cái có để
phục lại cái nầy “O”(bậc chí-nhân thì vô-kỷ ,thần-nhân vô công ,thánh-nhân
vô-danh). Kỳ thiệt cái nầy đến lúc phục lại được rồi thì qui về vô-vi như trước.Vô-vi
đến mức cuối cùng của nó thì có một điểm tròn dình , sáng rỡ ,sạch tốt , đỏ
tươi ,chắc chắn ,vững-vàng lâu dài không hoại, vọt khỏi ngũ-hành ra ngoài âm dương
thì mạng ta do ta cầm chẳng còn do trời nữa. (cái trí Bát-nhã).
Nhưng Đại-Đạo của Thánh-Hiền ,môn học “cùng-lý tận tính” chí mạng có công
trình,có thứ tự,có văn phanh ,có võ luyện ,có gấp huởn, có trước sau ,có lúc đủ
thì phải nghỉ v.v.. Nếu sai một mãy lông thì lạc xa ngàn dặm .
Vậy muốn làm đạo thì trước phải học cho biết .Biết một phần thì làm một phần
,biết mười phần thì làm mười phần .
Kẻ thế gian còn mê muội ,gắng gượng hành động trên cái bị da đựng đồ thúi
(khu xác hữu hình) mà gọi là tu trì tánh mạng , đó chẳng phải là tu dưỡng tánh
mạng, mà là phá hoại tánh mạng. Tánh mạng còn không biết mà vọng tưởng trường
sanh có phải là ngu dại không ?!.
MẠNG là Tiên-Thiên chánh khí; TÁNH là Tiên-Thiên nguơn-thần. Mạng thuộc
dương, Tánh thuộc âm. Tánh -Mạng hiệp nhau, âm dương chung một, ấy là KIM-ĐƠN.
Kim-Đơn là tên riêng của tánh mạng kết tụ trong chỗ hư-vô ( Hư-vô là Đạo vì: “Đạo
sanh-nhứt, Nhứt sanh Nhị, Nhị sanh Tam, Tam sanh vạn-vật) chớ không phải là một
vật do thân thể con người sản xuất.
Chẳng biết Tánh-Mạng là gì thì làm sao tu-trì tánh mạng được ? chẳng biết
Kim-Đơn là chi thì làm sao đoàn kết kim đơn được? Cho nên cái công phu cùng lý
cần phải lo đầu tiên.
Nếu quả thiệt tìm thấy chỗ ảo diệu của
Hà-Đồ Lạc-Thơ và cơ bí mật của tiên-thiên, hậu thiên thì võ trụ ở trong lòng
bàn tay ta. Muôn việc hóa sanh ở trong thân thể ta ,nơi cỏi đời nầy. Đại-Địa Huỳnh
nha nảy lớn cùng khắp Kiền Khôn, Kim hoa nở hoát .Mỗi lần bước, mỗi lần chạy (mỗi
cử chỉ) đều là Đại-Đạo .
Khi qui tụ ngũ-hành, hòa hiệp âm dương, phục lại cái “Bản-lai diện mục” của
ta lúc mới sanh; Kim-Đơn kết tụ thì công phu hậu-thiên hữu vi theo Lạc-Thơ đã
xong.Lại còn tu thêm phép ôn dưỡng cho
trọn cái đạo tiên-thiên vô-vi theo Hà-Đồ ;phục lại cái diện mục của cha mẹ ta
chưa sanh ta về trước. Phải đánh phá hư không cho tới chỗ không hơi ,không tiếng
(vô thinh vô xú ).Thì bổn phận của người Đại Trượng phu mới trọn vẹn.
Ôi ! Tánh do nơi mỗi người tìm hiểu ,còn Mạng thì cậy phải có thầy truyền.
.Nếu ai chẳng đặng khẩu khuyết (quyết) mà cượng nghĩ bàn thì cũng vô ích thôi .
Hữu vật tiên thiên-địa
Vô sanh bổn tịch liêu
Năng vi vạn-tượng chủ
Bất trụ tứ thời diêu.
***
Đồng hành đồng tọa hiệu đồng
miên
Hoảng hốt yểu minh tại diện
tiền
Nhân đắc thân qui lư nội
luyện
Công hoàn thập ngoạt, hỏa
kim thiền.
XI - ĐẢNH LƯ DƯỢC VẬT -HỎA-HẬU.
(Lục thập tứ quái toàn đồ)
“Giai-đoạn này gọi là “Luyên khí hóa Thần”
- Đạo Kim-Đơn hữu
vi tức là đạo Tiên-Thiên biến dịch.
Đạo biến dịch lấy Kiền Khôn làm bổn thể (Thân thể của con người, vì người là Tiểu
Thiên-Địa), lấy khảm ly làm công dụng ( Hai khí âm dương tứ khí nóng và khí lạnh
trong mỗi người), lấy quẻ truân quẻ mông ,60 quẻ làm khí hậu.( học cho thông 64
quẻ Dịch ) Đó là khí lưu hành, đi giáp vòng rồi trở lại y chỗ củ (châu nhi phục
thủy).
Đạo Kim-Đơn lấy Kiền Khôn làm đảnh lư (Đảnh là cái Đỉnh có công dụng như
cái nồi để nấu chín vật, Lư là cái lò lữa)
lấy Khảm Ly làm dược vật, lấy Truân Mông ,60 quẻ làm hỏa hậu. Đó là hai khí âm
dương luân phiên vận chuyển . Âm rồi
dương , Dương rồi âm mà cũng là một khí lưu hành.
Cuốn “Tham-Đồng Khế”, tiên chú của Từ-Chơn-Nhơn soạn nói rằng :Kiền Khôn là
nhà của Dịch học , Là cha mẹ của các quẻ, còn khảm ly như vòng lớn bao vây bề ngoài; Kiền Khôn tịnh tỉ như chánh trục .
Khảm ly động tỉ như tum xe ,bốn quẻ tẩu mẫu (âm dương ) là thác dược (là ống bể
thông khí) bao trùm cả đạo âm dương .
Lại nói mỗi tháng có 5.6 lần (5x6=30 ngày) , đường kinh đường vĩ (quái-tượng)
theo mặt nhựt điều khiển ,cộng chung là 60 cang nhu có trong có ngoài .Ngày sớm
mai mùng một quẻ truân trị-sự, tới chiều tối quẻ mông mới lãnh việc .
Ngày đêm hiệp thành hai quẻ, dùng nó phải theo thứ-tự: ký-tế vị-tế…tới hết
tối lại sáng. Rốt cuộc cũng trở lại ban sơ .Mặt nhựt mặt nguyệt làm chừng mực ,
động tịnh có sớm chiều.
Mùa xuân mùa hạ hãy căn cứ vào một thể, từ giờ tý cho tới thìn tỵ (thuộc giờ
Dương cai-quản); mùa thu mùa đông thì công dụng phải ở ngoài từ giờ ngọ cho tới
tuất hợi (là giờ thuộc Âm ngự trị).
Thưởng phạt ứng với Xuân –Thu .sáng tối thuận theo lạnh nóng .Trong hào từ
có nhân nghĩa tuỳ thời mà phát, Hỉ nộ ứng theo bốn mùa, như vậy thì mới đúng lý
của ngũ-hành.
Đây là nói đạo kim-đơn ,chẳng ra ngoài đạo biến dịch .Còn đạo biến dịch chẳng
ra ngoài đạo tạo hỏa của trời đất, nhựt
nguyệt , âm dương.
Người thường lấy cang kiện làm đảnh, nhu-thuận làm lư ,thì kiền khôn , đảnh
lư đã lập rồi.Người hay giữ nhơn tâm được trống thì linh tánh không mê,phát khởi
Đạo-Tâm. Hễ chánh khí thường gìn giữ thì khảm ly dược vật đã đặng rồi .
Đảnh lư đã lập, dược vật đã đặng, tự nhiên y theo trời đất ,noi theo nhựt
nguyệt .Hễ đáng cang kiện thì cang kiện hẵn, mà cang kiện phải qui về trung chánh. Còn đáng nhu-thuận thì nhu thuận
ngay, mà nhu thuận phải qui về trung chánh .
Nhân-nghĩa đồng hành, động tịnh như một. Ngày tự cường đêm nơm nớp (tịch)
công phu chớ thiếu sót, đi cặp với thời tiết tùy cơ mà ứng biến. Tức là dùng 4
quẻ Kiền –Khôn, Khảm ,Ly làm ống bể đó.
Khởi đầu ở truân mông, rốt dứt nơi ký-tế vị tế, tức là thưởng phạt ứng với
Xuân Thu, sáng tối thuận theo lạnh nóng .Trong hào từ có nhân nghĩa ,tuỳ thời
mà phát hỉ nộ.
Một bộ Dịch-Lý nằm trong tấc lòng của ta thì có lo gì Đại-Đạo không thành,
tánh mạng chẳng tu xong vậy.
Tử-Dương Ông nói :
Tiên bả Kiền Khôn vi đảnh
khí
Thứ đoàn ô thố dược lai
phanh
Kỳ xu nhị vật qui Huỳnh-Đạo
Tranh đắc Kim-Đơn bất phát
sanh.
Nghĩa là :
Trước dụng Kiền Khôn làm
cái đảnh (đỉnh).
Kế đem qua thổ thuốc chưng
phanh.
Đã xua hai vật về Huỳnh-Đạo
Không lẽ Kim-Đơn chẳng
phát sanh?
Bài thi nầy tiết lộ hết cái bí pháp thiên cơ cuả phép luyện đơn , không còn
chi dấu diếm nữa.
Nay lập cái bảng đồ chung cho đảnh lư,dược vật hỏa hậu .Lấy quẻ Kiền ở trên
làm đảnh .Lấy quẻ Khôn ở dưới làm lư.Hai quẻ Khảm Ly ở giữa làm dược vật.
Bốn quẻ sắp để phía ngoài là tượng hình ống bể của âm dương .Còn kỳ dư là
60 quẻ khởi từ quẻ truân ,mông .Dứt ở quẻ
Ký-Tế ,Vị-Tế sắp để phía trong là tượng hình hỏa hậu buổi mơi buổi chiều.
Truân là dương khí động ở trong âm khí; Mông là dương khí hãm ở trong âm
khí. Ký-Tế nghĩa là âm dương đã hiệp trợ nhau.
Vị tế nghĩa là âm dương chưa giao tiếp nhau.
Khi dương khí mới động thì phò dương, cho nên phải tiến dương hỏa là công
phu buổi mai .
Khi dương khí bị hãm thì dưỡng dương , cho nên vận âm phù là công phu buổi
chiều.
Ký tế là âm dương đã hiệp thì phải tùy thời mà giữ hai bên hiệp. Giữ hai
bên hiệp là mượn khí âm để dưỡng trọn khí dương.
Vị tế là âm dương chưa giao, thì phải chờ thời mà giúp hai bên giao .Giúp
hai bên giao là mượn khí dương để bổ trợ khí âm.
Mượn khí dương để bổ trợ khí âm tức là tiến dương hỏa từ quẻ truân cho tới
quẻ ký-tế , cộng là 30 quẻ cốt để đạt tới ký tế.
Mượn khí âm để dưỡng trọn khí dương tức là vận âm phù từ quẻ mông cho tới
quẻ vị tế, cộng là 30 quẻ cốt để phòng ngừa bất tế.
Khởi ở quẻ truân quẻ mông ,dứt ở quẻ ký tế quẻ vị-tế. Kỳ dư 56 quẻ giữa đều là công việc của âm phù, dương hỏa cả.
Hãy lại suy thì rõ.
Nhưng chỗ diệu dụng của các quẻ đều ở tại khảm ly , âm dương kiện thuận mà
qui về trung chánh đó thôi.
Kiện thuận mà trung chánh thì trước là Truân Mông ,sau là Ký tế, Vị tế đều
là hành động tự nhiên .Như vậy chẳng chút chi gắng gượng cả .
XII - DƯƠNG HỎA ÂM PHÙ.
( Lục âm lục dương toàn-đồ
).
Đạo Kim-Đơn chia làm hai đoạn công phu:
1 - Tiến dương hỏa .
2 - Vận âm phù. (Cũng gọi là thối âm phù).
Tiến dương hỏa nghĩa là trong khí âm (☷) trở lại sanh khí dương (☰), tiến thêm đức cang kiện ngõ hầu phục lại khí
tiên-thiên.( theo bản hà-đồ: ☰ ☰ ☰ là quẻ Địa-thiên Thái, theo số thì : 6+3 = 9 , số 9 này có tên là Cửu-trùng-Thiên
( Đạo Cao-Đài).
Vận âm phù nghĩa là trong khí dương dùng khí âm vận giúp đức nhu thuận ngõ
hầu nuôi lớn khí tiên thiên .
Tiến dương hỏa thì phải tiến dương cho tới 6 hào dương đặng thuần toàn tột
bực cang kiện mới là rồi công phu dương hỏa.( Xem 64 quẻ kép trong “Dịch-lý
Cao-Đài” của nữ soạn-giả Nguyên-Thủy ). Sáu hào Dương trong Kinh-dịch tượng
trưng bằng quẻ Thuần càn:
Quẻ Thuần-càn có 6 hào dương là 6 khí lưu-hành khắp cùng Trời-đất để
sinh-hóa muôn loài. Kinh-dịch gọi 6 hào dương này là Lục-long (6 rồng). Trong
Kinh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế có câu:
Thời thừa Lục long,
Du hành bất tức.
Khí phân Tứ-tượng,
Hoát truyền vô biên.
Càn kiện cao minh,
Vạn loại thiện-ác tất kiến,
Vận âm phù thì phải vận âm cho tới 6 hào âm ( Quẻ Thuần-Khôn có 6 hào âm )
đặng thuần toàn tột bực nhu thuận mới là rồi công phu âm phù.
Quẻ Thuần khôn là đầu mối của 6 khí
âm (Lục-khí): Phong, Hỏa, Thử, Thấp, Táo, Hàn.. Sáu khí này còn có tên gọi Khác
là:
1 - Quyết-âm Phong Mộc
2 - Thiếu-âm Quân Hỏa
3 - Thiếu dương Tướng Hỏa.
4 - Thái-âm Thấp Thổ.
5 - Dương-minh Táo Kim.
6 - Thái-dương Hàn Thủy.
Công phu của dương hỏa và âm phù đã tới cùng bực rồi thì cang nhu bằng
nhau, kiện thuận gồm đủ, trong dương có âm, trong âm có dương. Âm dương duy một
khí hoàn toàn là thiên lý, toàn vẹn ,sáng rỡ ,sạch tốt, đỏ tươi. Tới đây
Thánh-Thai đã trọn thành .Một hột thử mễ bữu châu treo ở giữa thái hư, không
trung lặng lẻ chẳng động, nhưng xúc đến
liền hay. Xúc đến liền hay, nhưng lặng lẽ chẳng động. Thường ứng thường tịnh,
thường tịnh thường ứng thì bổn lai, lương tri, lương năng đã lộ diện mục hoàn
toàn.:( Sáu-khí này tạo nên Chơn-thần là đệ-nhị xác thân của con người, nó bao
bọc thể xác và giữ gìn thể xác. Tà khí khi nhập vào người là ta có cảm ứng
ngay).
Đó là chỗ gọi:
Nhứt liệp kim đơn thâu nhập
phúc,
Thỉ tri ngã mạng bất do thiên.
Nghĩa là :
Một hột kim đơn nuốt xuống
bụng,
Mới hay bổn mạng chẳng
do trời.
Rồi tu thêm một tuần công phu tới nữa: Luyện thần huờn
hư, đánh phá hư không , đem cái chơn thần xuất ra
ngoài, đời đời chẳng hư hoại. Đó là chỗ gọi: “Thánh nhi bất khả tri chi, chi vị
thần”. Đặng vậy thì đã tới cảnh: “Hình thần đều đặng huyền diệu,cùng đạo hiệp một
lẽ chơn”. Nay vẽ ra bản đồ chung cho lục dương lục âm,dương hỏa âm phù thì dùng
12 quẻ là:
Lục-Dương quái :
1- Địa-Lôi PHỤC
2 - Địa-Trạch LÂM
3-Địa-Thiên THÁI
4 - Lôi-Thiên ĐẠI-TRÁNG
5 - Trạch-Thiên QUẢI (quyết).
6 - Thuần KIỀN
Lục-Âm quái :
7 - Thiên-Phong CẤU
8 - Thiên-Sơn ĐỘN
9 - Thiên-Địa BỈ
10 - Phong-Địa QUAN
11 - Sơn-Địa BÁC
12 - Khôn vi ĐỊA
12 Thiên-tử-quái: Mười hai quẻ chính thì sấp để phía ngoài,còn kỳ dư 52 quẻ
khác thì sấp để vào trong . Tuy thấy có 64 quẻ chớ rút lại chỉ có 12 .
Mười hai Thiên-tử-quái này là đầu mối của
Thập-nhị địa-chi, là gốc của Thập-nhị Thời-quân. Mỗi một vị Thời-quân đều
có trách nhiệm riêng và phaỉ phối hợp với tam vị Hộ-pháp, Thượng-phẩm, Thượng-sanh
mới đủ năng-lực điều-hành mối Đạo.
Kinh cúng Phật-mẫu có câu:
Thập thiên-can bao-hàm vạn-tượng,
Tùng Địa-chi hóa trưởng
Càn-khôn,
Trùng hườn phục-vị
Thiên-môn,
Nguơn-linh, hóa chủng, quỷ-hồn
nhứt thăng.
Theo quẻ Phục có một hào dương tiến, thì những quẻ khác có một vạch dương
cũng đều ở trong đó.
Theo quẻ Lâm có hai hào dương tiến thì những quẻ khác có hai vạch dương
cũng đều ở trong đó, cho đến ba vạch dương, 5 vạch dương đều cũng y như vậy.
Vận âm thì cũng y như thế. Bên trái là những quẻ dương, trước phải tiến
dương hỏa để phục lại khí tiên-thiên. Bên hữu là những quẻ âm, sau phải vận âm
phù để nuôi lớn khí tiên-thiên .
Nhờ trước phục lại kế sau nuôi lớn mà khí Tiên-Thiên đoàn kết , Tánh mạng vững
vàng thì công phu hữu-vi và vô-vi của đạo Kim-Đơn đã trọn xong rồi.
Cái bảng đồ nầy làm biểu lý (tuồng trong tuồng ngoài) với bảng đồ trước chỉ
công phu theo hỏa hậu, còn cái bảng đồ nầy chỉ thứ-tự của hỏa-hậu .Dụng công
cho y thứ-tự, y thứ -tự mà dụng công. Mỗi bước chơn đạp lên đất , chắc (căn cứ
trên chơn-lý) mà đi tới tự-nhiên sẽ đặng thêm nhiều ích-lợi.Vậy mới là tránh khỏi
caí “ Sai mảy lông,lạc xa ngàn dặm”.
PHỤ CHƯƠNG:
1 - Luận về hình thể
Người ta bẩm khí âm-dương mà thành hình thể, giống hình Trời-đất, thọ tư-bổn
của Ngũ-hành mà làm giống linh hơn hết muôn vật vậy . Cho nên đầu tượng Trời,
chân tượng đất , mắt tượng mặt trời mặt trăng , tiếng tượng sấm-sét. Huyết mạch
tượng sông ngòi, xương tượng kim thạch, trán mũi tượng núi non. Lông tóc tượng
cây cỏ . Trời nên cao xa, đất nên vuông dầy. Mặt Trời mặt trăng nên sáng tỏ. Sấm-sét
nên vang dậy; Sông ngòi nên nhuận trạch; Kim thạch nên kiên cường; núi non nên
cao lớn ; Cây cỏ nên tốt tươi . Đó là đại khái vậy.
a - Bàn về Thần:
Hình để nuôi huyết, huyết để nuôi khí, khí để nuôi Thần. Cho nên hình toàn
thì huyết toàn, huyết toàn thì khí toàn, khí toàn thì Thần toàn . Đó mới hay
hình nuôi đặng Thần nhờ về khí mà an vậy. Khí chẳng an thì Thần động chẳng an. An đặng Thần thì duy có người
Quân-tử.
Người ta lúc thức thì Thần qui ở mắt . Lúc ngủ thì Thần đọng ở Tâm. Vậy thì
mắt là nơi ra vô của Thần, mà cái đồ phát biểu của hình như bóng sáng của mặt trời
, mặt trăng ngoài chiếu muôn vật mà cái Thần vẫn ở trong vâng mặt trời, mặt
trăng vậy.
Mặt sáng thì Thần trong , mắt tối thì Thần đục. Trong thì quý, đục thì hèn. Trong thì thức nhiều ngủ ít. Đục thì thức ít ngủ
nhiều . Suy lúc thức lúc ngủ có thể biết được người sang kẻ hèn. Vậy kìa cái cảnh-giới
chiêm bao nghĩa là Thần rong chơi ở lòng, mà coi thấy chỗ chơi ở xa (nó xa) chẳng qua trong lối năm tạng , sáu phủ cùng là trong lối
tai mắt trông nghe đó. Cái cõi mình qua chơi và cái việc mình coi thấy hoặc cảm
với nhau mà ứng hoặc việc nhà tối cũng là lý do của trong thân mình vậy. Cái sự
mình có thấy (coi thấy) tại trong giấc chiêm bao, tức là trong thân mình chớ
không phải ngoài thân mình đâu..
Bạch-Nhân Thiền-Sư bàn mộng có năm cảnh:
Một là cảnh Linh.
Hai là cảnh Bửu.
Ba là cảnh Quá-khứ.
Bốn là cảnh Hiên-tại.
Năm là Vị lai.
THẦN thảm là mộng
sanh ra. Thần tịnh thì cảnh.liệt đi nầy.Coi cái hình hoặc trong-trẻo, hoặc sáng-sủa, hoặc trầm-trọng
là do thần phát ở trong mà hiện ra ngoài vậy.
Thần trong mà
hòa, sáng mà suốt là tượng phú-quí đó. Lạnh là tịnh, là
cái Thần an. Hư mà gập là cái Thần thảm. Thần chẳng nên lộ, lộ là Thần giong đi
ắt là xấu vậy.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét