Sống Đạo - Đường Về - 1 / 4 (Soạn-giả: Nguyên-Thủy)

Li i Đầu
Cùng chư vị Đạo-tâm,
Chúng ta thường ngày đi cúng ,phần nhiều người hay đến Đền-Thánh chớ ít khi đi cúng ở Báo Ân-Từ cũng là nơi thờ phượng Đức “ Diêu-Trì-Kim-Mẫu” là mẹ sanh của nhân-loại, mà nếu có đi cúng ở đây thì chắc cũng ít ai để ý và đọc được hai câu đối treo ở trước Điện thờ:
形從

 (Bát phẩm chơn hồn tạo thế-giới, hoá chúng-sanh, vạn-vật hữu-hình tòng thử đạo).

爻博
(Quái hào bác-ái, định càn-khôn, phân đẳng pháp, nhứt thần phi tướng trị kỳ tâm.).

Câu đối bên phải, ở đầu câu là chữ BÁT, ở cuối câu là chữ ĐẠO . Câu đối bên trái, ở trên là chữ QUÁI, ở dưới là chữ TÂM. Nếu ghép hai chữ trên dưới lại với nhau thì sẽ thấy:
Trên là BÁT-QUÁI 
Dưới là ĐẠO-TÂM  

Hai câu đối liễn này ý nghĩa ra sao? muốn nói lên điều gì trong thời kỳ ba chuyển thế này . Đó là mục-đích  đề-tài: “Sống-Đạo ”của Soạn-giả Nguyên-Thủy được thành hình , thành sách hôm nay, xin chân thành trao đến tay quí đồng-đạo với nỗi hoài mong “ Hiệp-đồng chư môn-đệ gìn luật-lệ Cao-Đài”.

Thưa quí đồng Đạo,        
 “ Cơ Trời mầu nhiệm đối với Ðời, mà máy Thiên cơ đối với Ðạo, lại càng huyền vi thậm trọng hơn nữa, có lẽ tâm phàm dầu cao kiến đến đâu cũng chưa đạt thấu được. Những vai tuồng của Chí Tôn sắp đặt trên sân khấu Ðạo, nếu so sánh lại chẳng khác chi những bậc Nguyên nhân lãnh phận sự dìu đời từ xưa đến nay mà thôi.

Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.

Nên biết rằng, mỗi việc chi đều có hạn định, có căn nguyên, dầu các bậc tiền bối cũng vậy. Phải lấy nét đạo đức mà đoán xét thì mới hiểu thấu sự mầu nhiệm vĩ đại của Chí Tôn sắp đặt.

Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một chữ Tâm và những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng.
Tây-Ninh  Thánh-Địa, Ngày sang Thu: 7/6 năm Kỷ-sửu (DL 2009).
Soạn-giả
Nguyên-Thủy

Thay ĐTựa

Sau đây soạn giả xin trích lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp và Đức Thượng-Sanh thay cho đề tựa để làm  quà mọn gởi đến quí đạo hữu nhân mùa Hội-Yến.(Dl 2009). 
Đức Hộ-Pháp thuyết tại Đền-Thánh 26-11 năm Tân-Mão ( Dl 24-12-1951).

CHẾT ĐỜI ĐỂ SỐNG ĐẠO.
 “Phải biết làm sao cái chết thật, mà phải biết làm sao cái sống là thật. Cái sống và cái chết, ta cũng nên tìm hiểu điều ấy. Vả chăng chúng ta sanh ra có hai cái sống và có hai cái chết. Chúng ta ngó thấy xác thịt của chúng ta không phải là cái sống, bởi vật thể nó phải chịu tiêu hủy tức nhiên nó phải chết mà thiệt cái chết của nó, chẳng phải chết vì cái xác thịt mà thôi, mà chết vì danh giá, kiếp sống của mình, cái lời nói là chết. Còn bây giờ cái sống không phải cái xác thịt chúng ta đã ngó thấy trước mắt, bất quá con người sanh ra một trăm năm là nhiều rồi chết trước mắt. Ấy vậy cái sống thật chỗ nào? Cái sống thật của chúng ta là cái sống về tinh thần hiện tại của chúng ta cho trường tồn, tức nhiên nó về linh hồn chúng ta vậy. Cái đó mới thiệt sống, cái sống với linh hồn là cái sống thật, sống với xác thịt tức nhiên sống giả. Bây giờ còn cái sống nữa, sống thế nào đồng sống cả vạn loại, cả cái sống đại đồng sống trong cái sống ấy mà muốn đồng sống, chúng ta phải hiệp làm một cùng vạn loại, biết nó là cái sống của mình, biết mình là cái sống của nó. Cái sống ấy là cái sống của Đức Chí Tôn nắm trong tay của Ngài đó vậy. Cái sống trên cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống của Ngài đã tạo dựng cho nó, trước khi ta đến đầu kiếp làm con người ở mặt thế gian này, cái sống ấy phải sống.

Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết, mới tìm cái sống. Đạo giáo nào kiếm mắc mỏ khó khăn, chớ Đạo giáo Cao Đài Đức Chí Tôn để bí pháp ấy trong Thánh Thể của Ngài. Ngài nói những kẻ nào dám chết về đời, sống vì Đạo, những kẻ ấy mới đáng làm Thánh Thể của ta nơi mặt thế gian này. Cả toàn Thánh Thể đã hiểu lắm, tới phẩm Giáo Hữu phải chết, chết vì đời rồi sống lại, sống vì Đạo. Tức nhiên Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết, ai đã biết cái sống của chúng ta đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên Thiêng Liêng Hằng Sống của Cha ta đã dành để.

Bần Đạo thuyết điều ấy cốt yếu nói cả toàn thể con cái của  Đức Chí Tôn, dầu cho hàng tín đồ nam nữ dĩ chí Đại Thiên Phong cũng vậy, mỗi phần tử Thánh Thể của Ngài phải biết cái mạnh của mình là cái sống thật, cái yếu của mình là cái sống giả, phải có can đảm hy sinh cái chết, cái thi hài thúi tha của ta đây đặng mà đạt cho đặng cái danh hằng sống và chúng ta đặng ngôi vị Thiêng Liêng Hằng Sống nơi cửa Thiêng Liêng kia của Ngài đã dành để, tức nhiên là đại nghiệp của Ngài đã chia chung cho mỗi đứa con. Đức Chí Tôn nói rằng: Thầy đành để đại nghiệp cho các con, Thầy không có quyền đem cho kẻ khác duy có kẻ nào từ bỏ, thì Thầy mới có quyền đem cho kẻ khác mà thôi. Cái sống đó mới sống thật, sống trường tồn sống vĩnh cửu. Sống Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn mới thật sống đó.

CON ÐƯỜNG GIẢI THOÁT
(Bài Thuyết Ðạo của Ðức Thượng Sanh).
Kính Thưa Quý Vị,
Mỗi Tôn Giáo, dầu Thích giáo, Lão giáo hay Nho giáo đều có tôn chỉ khuyên người lánh dữ làm lành, dưỡng tánh tu tâm để đi đến con đường giải thoát.

Phật giáo gọi Ðời là bể khổ, nước mắt chúng sanh trong ba nghìn thế giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn biển.

Ðức CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ dạy rằng: Cõi Ðời là nơi con người bị đày đọa, đặng trả cho xong nợ tiền khiên. Nếu trả chưa dứt nợ, thì phải chịu trầm luân mãi cho đến khi vay trả vẹn toàn mới được giải thoát.

Muốn được giải thoát, con người phải lo tu hành, phải sống một đời thanh bạch, tránh chốn cạnh tranh giành giựt, trau giồi hạnh đức để làm nấc thang bước lên khỏi chốn mê đồ, thoát vòng và lập công quả tục lụy.

Dìu dắt con người đi trọn vẹn trên đường Thánh đức, là mục đích chung của các Ðạo giáo.
Mục đích đó, người theo Ðạo có thể quên đi, nhưng nó vẫn có sẳn trong kinh điển.
Muốn vạch con đường cho nhơn sanh thoát nơi biển khổ, tránh đọa luân hồi, Ðức Phật THÍCH CA dạy phải diệt cái bản ngã, dứt hết mọi tình lưu luyến, coi sự đời là mộng ảo, đoạn tuyệt sự ham muốn, trừ khử vô minh để về với chân như bất sanh bất diệt.

Ðức LÃO TỬ thì coi thường mọi việc thế tình, cho công danh phú quí là phù vân, nên chủ trương cái thái độ hờ hững lãnh đạm với ngoại giới.

Ðức Ngài quan niệm cái nguyên lý sinh tồn tự thể của con người, với cái nguyên tắc sinh tồn bản thể của vũ trụ, có những mối tương quan vô hình nhưng chặc chẽ, làm nhân duyên sinh khởi tồn tại cho nhau, nên muốn thanh tịnh vô vi để hòa mình cùng Ðạo, hầu tìm phương trường sanh bất tử.

Chúa JÉSUS thì long trọng phán truyền cho nhân loại: "Các con hãy trở nên hoàn thiện như Cha các con trên trời".

Ðức KHỔNG TỬ thì áp dụng triệt để khẩu hiệu: "Thành chi" tức là tiến tới hoàn thiện. Thuyết 'Thành chi của Ðức Ngài chia ra làm hai giai đoạn: Thành kỷ và Thành nhân, tức là hoàn thiện mình trước, rồi giúp người hoàn thiện như mình, để phối hiệp cùng Ðấng THƯỢNG ÐẾ.

Vì hiểu thấu con người tuy hèn mọn đối với võ trụ, nhưng được ban cho một định luật linh diệu là có thể tu tâm dưỡng tánh, để phối hợp với Trời, và Trời bao giờ cũng ở trong tâm hồn chúng ta, nên Ðức KHỔNG TỬ cảm thấy mình tràn ngập vui sướng mới dám nói lên: "Triêu văn Ðạo, tịch tử khả hỷ", có nghĩa: Sáng nghe biết Ðạo, chiều chết cũng vui.

Ðể hoàn thiện mình, Ðức Ngài áp dụng định luật "Trật tự" và "Hòa hợp" của Trời đất.
Quan niệm của Ðức Ngài là phải đem trật tự lại trong con người, tức là phải sửa ngay ngắn lại những gì chếch lệch, phải chấn chỉnh lại những gì gian tà, phải đem thành thực lại thế cho những gì giả dối. Ðể thực hành việc đó, Ðức Ngài dùng những phương pháp: Ý thành, Tâm chánh, Thân tu, Gia tề, Quốc trị, Thiên hạ bình.

Trật tự tu tỉnh lại bản thân đó gọi là Trung. Kế đó đem trật tự gieo lại cho người khác, cho họ hoàn thiện như mình gọi là Thứ.

Trung và Thứ hòa hợp với nhau, để đem công bình, bác ái lại cho thiên hạ, cùng nhau góp sức chung vai nâng đỡ nhau về cùng Thượng Ðế toàn thiện toàn mỹ.
Như vậy bản thân mình sẽ là khúc nhạc, gia đình mình là khúc nhạc và quốc gia, xã hội cũng là khúc nhạc.

Khúc nhạc nhơn quần đó sẽ hòa tấu cùng khúc nhạc võ trụ.
Huyền diệu thay! Hòa bình vĩnh cửu, hạnh phúc trường tồn sẽ do đó mà phát sinh.
Tánh ích kỷ của phàm phu, lòng ganh tỵ của tục tử không còn có nữa.

Nơi bến chợ đời, người ta không còn trông thấy sự cấu xé giết hại nhau vì một miếng ăn hay mảnh áo. Lễ nghĩa ngập tràn trong xã hội, trẻ biết kính già, lớn biết thương nhỏ, đi đường nhường bước, của rơi không mất. Kẻ nghèo khó được đỡ nâng, thì đạo tặc phải vắng bóng.

Cái đời thái bình thịnh trị đó là đời Thánh đức của nhà Châu dưới quyền thống trị của vua Văn Vương ở vào năm 1120 trước Tây lịch.

Nhơn dân được vui hưởng hạnh phúc, gia vô bế hộ, lộ bất thập di, trong nước không có nhà tù, vì không có tội nhơn. Nếu vạn bất đắc dĩ phải răn phạt người sái phép, thì nhà cầm quyền chỉ vẽ một vòng tròn nơi một khoản đất nào, rồi bắt người phạm tội vào ngồi trong đó một hay là nhiều ngày, gọi là cách giam phạt tội nhơn. Mặc dù không cắt người canh giữ, nhưng tội nhơn không khi nào dám bước ra khỏi cái vòng vẽ đó và đợi đến mãn giờ phạt, có lịnh cho đi mới dám đi.

Ðời Thánh Ðức đó Ðức KHỔNG TỬ muốn đem Ðạo của Ðức Ngài mà tạo trở lại trên nước Trung Hoa.
Ðó cũng là cơ giải thoát hữu hình do thuyết Trung Hòa mà Ðức Ngài hằng lập tâm thực hiện.

Nhưng Ðức Ngài đã thất bại, vì gặp nhằm Xuân Thu thời đại, loạn lạc bốn phương, dân tình khổ sở, Vua thì yếu đuối, mất hết quyền hành, các chư hầu thì đua nhau tranh bá xưng hùng, không ai thiết gì đến nhơn nghĩa.

Ngày nay từ Âu sang Á, làn sóng văn minh tràn ngập khắp nơi, vật chất lấn áp tinh thần khiến cho nền luân lý cổ truyền cõi Á đông phải luân lạc.

Bởi Hạ ngươn hầu mãn, nên Ðức CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ dùng huyền diệu cơ bút lập ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ với tôn chỉ qui nguyên Tam giáo, hiệp nhứt Ngũ chi.

Lấy Nho tông chuyển thế, lấy sự thương yêu là phương pháp thực hành chánh Ðạo. Ðức CHÍ TÔN quyết cứu vớt những kẻ hữu căn thoát vòng khổ hải, tránh đọa luân hồi hầu vui hưởng một hạnh phúc vĩnh cửu.

Cơ giải thoát chúng sanh lần nầy là lần cuối cùng, Ðức CHÍ TÔN phải ra công dạy dỗ cho toàn thể tín hữu biết hồi tâm hướng thiện, quay về đường chánh giáo tu tâm dưỡng tánh, lập công bồi đức hầu ngày chung qui được hội hiệp với Người nơi cõi Thiêng Liêng hằng sống.

Mở rộng trường thi công quả, Ðức CHÍ TÔN quyết lòng chỉ bảo cho các môn đệ có thể lập vị cho mình và độ rỗi nhơn sanh còn sa ngã trong vòng tục lụy.

Ðại Từ Phụ lại sợ cơ thử thách quá cay nghiệt, nên có dạy rằng: "Ngày nào Ðạo đã khai tức là tà khởi. Các con phải hết sức mà gìn giữ lấy mình. Chẳng những giữ mình các con mà thôi, lại còn phải giữ gìn cả môn đệ Thầy nữa. Những mưu chước của tà mỵ làm ngăn trở bước đường Thánh đạo của các con, đó là do Thầy dùng để thử các con. Vì vậy, Thầy đã thả một lủ hổ lang ở lộn cùng các con, chúng nó hằng thừa dịp cắn xé các con. Song trước, Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp chúng nó chẳng hề thấy đặng, đó là đạo đức của các con. Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy.

Ấy vậy, Ðạo rất hữu ích cho con người như giáp hữu ích cho thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lổ, còn bỏ Ðạo thì các con ở dưới phép tà thần".

Ðức CHÍ TÔN lo lắng cho môn sinh như thế, là vì trên trường đời đầy dẩy những cạm bẩy hiểm nguy. Lòng ham muốn của con người lại vô bờ bến: Nào lợi, nào danh, nào tiền tài, nào tửu sắc.

Trước bao nhiêu cuộc quyến rũ, con người mất hết huệ khí thiên lương nên phải sa ngã vào đường tội lỗi.

Nhưng, người đã quyết chí tu hành, quyết lánh giả tầm chơn, đã xả thân cầu Ðạo, xả phú cầu bần thì sự quyến rũ nào lôi cuốn được?

May duyên gặp thời kỳ đại ân xá nầy, đó là cơ hội "Ngàn năm một thuở" Ðức CHÍ TÔN ÐẠI TỪ PHỤ, lại tha thiết nhủ khuyên, ân cần dìu dắt, thì hỡi ai, còn tiếc chi tuồng đời mộng ảo mà phải để cho công phu lở dở?

Ðời người qua thấm thoát như cửa sổ thoát vó câu, như ngọn đèn treo trước gió, người tu hành chẳng nên bỏ mất thì giờ, phải mau chơn tiến bước trên đường nghĩa vụ.

Giữa trường đời gió bụi, mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết, người Tín hữu CAO ÐÀI lại may mắn được che chở dưới bóng từ bi của Ðức THƯỢNG ÐẾ, lại được Ơn Trên ban cho một món báu mầu nhiệm riêng biệt mà từ ngàn xưa chưa hề có trên thế gian.

Ðó là cơ giải thoát, mà muốn đạt được, người hành đạo duy có trải tâm chơn thành, giồi trau hạnh đức hầu tế độ nhơn sanh quay về chánh giác.Các ân huệ đó lớn lao biết bao nhiêu!
Hội Thánh trông mong mỗi Tín hữu nên lưu tâm và đừng để mất cơ hội./.
NAM MÔ CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
 (Trích Thông Tin số 7, ngày 28/06/1970)

CHƯƠNG I

THEO BƯỚC CHÂN ĐẠI TỪ-PHỤ

A - LỜI CẢNH TỈNH CỦA CHÍ-TÔN.
Màu thu cảnh ướm trở về đông,
Ðạo đức soi gương đã vẹn lòng.
Non xế nhành thung oanh nhặt thúc,
Rừng tà đảnh hạc khách trông mong.
Ðường trần dù muốn dừng chơn tục,
Nguồn suối tìm nơi rửa bụi hồng.
Thìn dạ bước dìu sanh chúng độ,
Nương thuyền mới trọn thoát qua sông.

Lòng đạo đức của con, Thầy đã thấu rõ, nhưng gương khổ hạnh rán giồi thêm, hầu dìu dắt sanh linh vào nẻo chánh giáo, mà lánh khỏi đọa luân hồi, sanh nhằm thời buổi nhơn sanh dụng gương bất đức mà gieo họa cho bước trần; khiến cho sai sót nẻo luân thường; bến khổ đường mê vẫn cứ tìm vào mà làm cho biển trần chẳng biết bao nhiêu chìm đắm, đạo đức chẳng rèn lòng mà tội tình càng chác lấy; nếu chẳng có một Ðấng Từ Bi lấy đức háo sanh mở Ðạo Tam Kỳ đặng vớt những kẻ hữu căn, thì toàn thế giới sẽ bị dần dần tiêu diệt, ngôi cựu vị ở chốn non thẳm rừng xưa, cũng chẳng có một bực Tiên Thánh đọa trần nào đoạt lại được. Họa Âu tai Á sẽ vì Thiên Ðiều mà phạt kẻ bạo tàn tội lỗi; Càn Khôn tiều tụy, mà bước tục hỡi chần chờ, nếu chẳng sớm xét mình để buổi ác xế trăng tà, nước dời cạn bực, thuyền Bát Nhã đã lướt qua, nhành dương liễu hết rơi giọt từ bi, thì ăn năn rất muộn. Khá biết lấy, chư chúng sanh hãy nghe.

Nguồn Tiên, nẻo Phật, từ trước đến giờ vẫn chờ kẻ hữu phần, hữu đức, hữu công, tu thân, dưỡng tánh, mà lánh khỏi thói đời mê muội nầy. Biển khổ lắm chơi vơi, mà khách phàm hằng đeo đuổi; Ðài Nghiệt Cảnh rọi chẳng biết bao nhiêu tội tình, mà chốn tội tình lắm người đưa chơn tìm đến. Kiếp phù sanh không mấy chốc, đời mộng ảo chẳng là bao, sanh đứng nên người chen vai vào vòng thế cuộc, có khác chi kẻ bị đày vào biển khổ để làm xong nhân sự đặng chuộc thửa tội tiền khiên; bao nhiêu tiếng khóc câu cười, thế lộ bước đã mòn mà giấc mộng trần chưa thức tỉnh. Cang thường điên đảo, phong hóa suy vi, những mảng ghét lẫn nhau, giành xé nhau; mỗi Tôn Giáo phân chia, Ðạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà, tà chánh nan phân, còn chút hơi thở ở cõi trần, mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống Diêm Ðài, khổ A Tỳ bảo sao không buộc trói.

Ðạo Trời khai dẫn bước lỗi lầm, đem kẻ hữu căn lánh vòng phiền não, nếu chẳng bả bươn nhặt thúc bóng thiều, kiếp phù sinh qua dường nháy mắt. Hãy biết lấy!
Vậy gắng khổ tâm, giữ lòng đạo đức, mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ trần ai đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ; rừng vắng non nhàn suối chảy tòng đưa, lánh chốn đọa đày đã bấy lâu ràng buộc.
Ai ôi! Tự nghĩ biết lo xa,
Xa bốn phương trời cũng kiếm ra.
Ra mối manh thì tua liệu lấy,
Lấy nền Ðạo chánh dẫn truyền ra.

1 - cuối Hạ-nguơn đời nhiều thay-đổi:
Hạ-nguơn là thời kỳ cùng cuối của một nguyên-đại, là buổi xế chiều của một ngày, là lúc mặt Trời đang xuống và sắp lặn ở hướng tây, là lúc ánh nắng măt trời không còn rực chiếu nữa, là lúc người nhà nông lo thu xếp đồ đạc  để chuẩn-bị nghỉ ngơi qua một đêm dài…làm khách trần đang dong ruỗi trên biển khổ trầm luân ta có suy nghĩ gì trong khoảng thời-gian ấy ?

 “ Chới với biết bao người giữa lượn sóng trầm luân, mà con đường xô đẩy khách trần vào chốn đắm chìm hằng vẽ cảnh cùng sầu cho nhân loại,

Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, họa Thiên điều đã cận, càn khôn thế giái còn đeo đuổi, dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm chất sầu trong nhân loại. Họa Âu tai Á sẽ lần lần thay phiên nhau, dụng luật Thiên đình mà diệt phạt người vô đạo, càn khôn cũng vì đó mà phải điên đảo. Thầy lấy đức háo sanh mở Ðạo lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân vào, kẻ vô phần phải bị tà yêu cám dỗ.

Nào nhân xưa, nào đức trước, nào sách Thánh, nào lời Hiền, trải qua chưa trăm năm mà cuộc cờ đời đã rửa phai hạnh đạo.

Ðường tội phước chẳng biết cân, gương dữ lành không để ý. Triền cao, vực thẳm, rừng trước, non xưa, cảnh vẫn đợi kẻ tìm về, nhưng giọng ai oán của khách lạc đường chẳng thế vạch trời xanh soi thấu.

Than ôi! Chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà thuyền Bát Nhã độ người không mấy kẻ, đức thừa ít có mà tài vô dụng chẳng thiếu chi, phong hóa khiến suy tồi, cang thường càng loạn phép. Tài mọn, đức hèn, mượn chước khoe mình, việc kỉnh thành Thánh Giáo, hư thiệt, thiệt hư, đâu qua máy hành tàng của tạo hóa, nhơn luân giữ trọn, ấy là mối đạo nhân, lo Thánh đức trau lòng là phương thoát tục. Mấy ai xét nét thế tình, lắm kẻ khinh khi nguồn Thánh.

2 – Đạo là ngọn đèn Thiêng-liêng.
“Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng hễ vào đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các con biết nếu công quả chưa đủ, nhân sự chưa xong, thì không thế nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy, thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao. Các con phải hiểu Thánh ý Thầy mà trau giồi chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải cần cái đèn thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững bước. Làm vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ cũng cần phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng. Các nghề dưới thế không có nghề nào là vô dụng mà vô dụng là tại người không chuyên vậy.”

“ Màn Trời che lấp dấu trần, Ðạo Thánh dắt dìu bước tục, Thế thì nhơn loại, nếu chẳng có mối huyền vi để nhắc chừng tâm tánh, sẽ vì mồi danh lợi, miếng đỉnh chung mà cắn xé giựt giành, giết hại lẫn nhau cho đến buổi cùng đường, rồi vì hung bạo ấy mà cõi dinh hoàn nầy chẳng còn sót dấu chi của nhân vật cả.

Trái cầu sáu mươi tám nầy bỗng nhiên có một lằn yếng sáng thiêng liêng để thức tỉnh khách phàm, chiếu dẫn người hữu căn hầu cứu khỏi họa Thiên điều, sẽ vì hung bạo của sanh linh mà diệt tận. Con đường vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức. Ngọn đèn thiêng liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con; khác với con đường ấy là đường của quỉ vương đem lối. Nên hiểu kỹ lời, bằng chẳng thấu thì tu có ích chi”. Chư chúng sanh khá liệu mình”

3 - Đạo-đức là áo giáp che thân.
 “Những sự phàm tục đều là mưu kế của Tà Mị Yêu Quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh Ðạo của các con. Những mưu quỉ quyệt ấy do lịnh Thầy dùng để thử các con. Thầy đã nói: Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con; nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.

Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy vậy Ðạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho thân các con, nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lổ; còn bỏ Ðạo thì các con ở dưới phép Tà Thần.

... Các con chớ ngại. Ngày nay Ðạo đã khai tức là Tà khởi. Vậy thì các con phải hết lòng, hết sức mà gìn giữ lấy mình; đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn gìn giữ cả môn đệ Thầy nữa.

Thầy nói cho các con hiểu trước rằng: Cả môn đệ Thầy đã lựa chọn lọc lừa, còn lối nửa phần, vì Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám dỗ... Cười... Ði bao nhiêu đều mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên Cơ phải vậy. Thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức tin của môn đệ cao lên hằng ngày; ấy là công quả đầu hết.

Các con phải biết trong Trời Ðất, nhơn sanh là con quí của Thầy, nên Thầy hằng để ý lo lường cho chúng con biết hối ngộ, hầu chung hưởng phước lành.  Nhơn luân giữ trọn, ấy là mối đạo nhân, lo Thánh đức trau lòng là phương thoát tục.

Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam thập lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu, thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi. Có câu nầy nữa: "Mọi sự khó khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con thương yêu gắng công độ rỗi".

4 – Đạo là tấm bản đồ chỉ lối đưa đường.
Trần là cõi khổ, để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần.

Khách trần thì có tới 5 hạng theo như lời thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp, cho dù chúng ta ở vào hạng nào đi  nữa mà sống trong cõi trần khổ nầy rồi cũng có lúc phải trở về nơi xuất-phát… có đi ắt phải có về. mà đường đời có muôn vạn lối biết đi đâu và về đâu  nếu không được người hướng dẫn chỉ vẽ cho đường đi nước bước thì ắt phải bị lạc vào nơi rừng sâu núi thẳm mà chớ!? Còn nếu ta là hạng “Thiên-mạng” thì chắc phải am tường ( biết một cách rõ ràng) cách sử-dụng bản đồ thì mới có thể hướng đạo cho người khác được. Tấm bản đồ đó là Đạo vậy .Chúng ta nên hiểu Đạo tức là Pháp-luật của thiên-điều, không một ai dưới thế này có thể qua lọt được luật ấy. cho dù một bậc Đại-La xuống trần mà không tu thì cũng không mong trở về ngôi vị đặng.Ấy vậy chúng ta phải cố gắng trau dồi Đạo-đức để làm hành trang trên bước đường phản bổn hoàn nguyên.. Vậy Đạo là gì? Sao gọi Đạo ?

Phân tích chữ Đạo ta thấy: chữ đạo có 12 nét, nét bên tả () là Dương, nét bên hữu (丿) là âm, nét ngang () là chữ nhất, với nghĩa là âm dương hiệp nhất là phần của Thiên có ba nét, hợp với chữ tự ()có 6 nét là phần của con người thành chữ thủ () nghĩa là cái đầu có 9 nét., phía bên tả chữ thủ  thêm bộ dẫn ( có 3 nét) tượng trưng cho phần Địa ( gồm có Thuỷ, hoả, Phong),  tam bửu . Lại nữa trong chữ tự phía dưới nét chủ () là chữ mục () nghĩa là con mắt, mà mắt là chủ tâm hồn. Vậy ta có thể nói rằng: Đạo là do âm dương hợp nhất “ Nhất âm, nhất dương chi vị đạo” ( TrỜI có 3, Đất có 3, con người có ba báu tức Tam âm hiệp với tam dương) mới đủ số 12 là số của Thầy.. Hày nghe lời thuyết của Đức Chí-Tôn về chữ Đạo:

Ðạo, tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu vị. Ðạo là đường của các nhơn phẩm, do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Ðạo, thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Ðạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng. Ðời cũng thế, Ðạo cũng thế, chẳng Ðạo chẳng nên Ðời, Ðời Ðạo chẳng trọn, lấy Ðạo trau Ðời, mượn Ðời giồi Ðạo, Ðạo nên Ðời rạng, giũ áo phồn hoa, nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc, tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn thì có chi hơn.
Vậy là mầu, vậy là trí.

5 - Tấm bản đồ vô-vi.
Tu vô-vi tức là luyện rèn Trí tuệ cho được sáng suốt đó là cơ Đạo-tâm  vậy.

Theo hai câu Đối ở phần “ Lời nói đầu” của quyển  “Sống-đạo”. Soạn-giả xin vắn tắt lời giải lý sau đây:
Bát-quái: là 8 cái kỳ lạ, tức là tám quẻ trong Dịch-lý, là Tám biểu-tượng căn bản được hình thành do sự kết hợp lý Âm-dương với lý Tam-tài mà làm nên cho cơ Đạo của Chí-Tôn Khai mở Kỳ Ba này hầu độ rỗi các đẳng chơn hồn thoát vòng tục-luỵ mà trở về ngôi xưa vị củ.. Bát-quái là thể-pháp của Đạo Cao-Đài là do Đức Chí-Tôn dựng nên, lấy gốc là Toà-Thánh Tây-Ninh cũng là Bạch-Ngọc-kinh tại thế đó vậy. Có thể-pháp tất nhiên có bí-pháp, tu theo thể pháp là để giải khổ cho phần xác mà thôi , chỉ có tu Bí-pháp mới giải thoát cho mình và cho chúng sanh đặng.

ĐẠO-TÂM: 道心 là Tịch-đạo đến sau Tịch-đạo Thanh-Hương  để báo cho chư tín-đồ biết rằng: thời kỳ chuyển-pháp đã đến phải tu vô-vi mới mong tránh khỏi hoạ Thiên-điều hành-phạt. Chúng ta nên biết rằng: “Thời kỳ mạt pháp nầy, khiến mới có Tam Kỳ Phổ Ðộ các sự hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.

Thầy đến chuyển Ðạo, lập lại vô vi, các con coi thử bên nào chánh lý: Hữu hình thì bị diệt đặng, chớ vô vi, chẳng thế nào diệt đặng.

Th..., Thầy đã khiến con đi Ðế Thiên Ðế Thích đặng xem cho tạng mặt hữu hình, nội thế gian nầy, ngày nay ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng? Lòng đạo đức con Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến. Thầy không muốn cho con hao tài, tốn của, mà gìn giữ sự giả dối.

Chẳng cần chi con lo lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên "Bảo Sanh" là bổn nguyên "Thánh chất Thầy".

Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi; phần hồn về Thầy.

Ng... nghe Thầy:
Nghiệp thành trước đã có Ơn Trên,
Công quả độ sanh khá vẹn đền.
Ðạo đức thìn soi gương trí huệ,
Nguồn đào đoạt vị mới hầu nên.

Hai con có lòng vun nền đạo đức; phải khổ tâm thêm nữa mà giữ cho tròn phận sự. Mùi chung đỉnh bả vinh hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió, nét hạnh đức là phương hay để dìu dắt các con bước lên con đường cực lạc, tránh khỏi đọa tam đồ. Thầy vì đức háo sanh nên chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giái, đến lập Ðại Ðạo Tam Kỳ trong lúc Hạ nguơn nầy mà vớt sanh linh khỏi vòng khổ hải. Ai biết Ðạo tức là có duyên phần, ai vô Ðạo tức là số chịu hình khổ luân hồi; phải mau chơn, bằng luyến ái sự thế, thì sau ăn năn rất muộn. Than ôi! Thầy đã là Ðấng lập khổ hình, chiếu theo phép công bình của tạo hóa, nhưng thấy nhơn sanh càng ngày càng bước vào con đường hắc ám, để đem số phận buộc vào đó thì Thầy cũng bắt đau lòng, nhưng chẳng lẽ bỏ phép công vì sanh chúng. Ấy vậy Ðại Ðạo Tam Kỳ chẳng khác chi một trường thi công quả; nếu biết ăn năn trở bước lại nơi đường sáng sủa, giồi tâm, trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy, thì mới đạt đặng địa vị thanh cao trong buổi chung qui cho. Chúng sanh khá nghe và xét mình cho lắm”.

6 - Đạo khởi nơi đâu?
 “Chư đạo hữu biết trước, muốn rèn lòng đạo đức phải khởi nơi đâu cho chắc bước đường chăng?”
Cái Tâm là vật người không thấy được, khá giồi trau nó trước, nếu bỏ tâm kia ra ngoài mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quì đọc kinh, đèn đốt đỏ hừng mà thiếu bức Thiên Nhãn trên điện vậy. Hồn ma bóng quế cũng lên ngồi, mà ngạ quỉ vô thường cũng xẩn bẩn, đó là phương đem đường cho quỉ vương chẳng một ai tránh được nghe.”

Ấy vậy, nên biết mà răn mình,
 “Ðạo đức cần trau nơi tâm là chỗ chẳng ai thấy được. Rèn trau cho thuần tâm mỹ tánh, rồi mới lần đến bề ngoài, trọn hết cả ngoài trong, thì chừng ấy thân hình tâm trí chắc khư, nào ai chuyển lay cho được. Lo ngoài quên trong, che bề trong trau bề ngoài, ấy là cách thức của Hớn Lưu Bang đối đãi với tướng sĩ đó, cũng như có xác không hồn, chuộng hữu hình mà quên các huyền bí chơn truyền. Than ôi! Có hình thể, xương thịt mà chơn hồn phưởng phất nơi xa thì cái thân vô dụng ấy trơ trơ như khối đá dựa đường, như khúc cây bên trủng. Có đèn dầu đầy mà thiếu hơi lửa nhen lên thì cũng phải mờ mịt thâm u, trông chi soi sáng.”

7 - Hãy mau thức tĩnh cố-gắng lập công để trở về cùng Thầy.
Thầy hằng muốn cho các con hiệp chung nhau mở đường chánh giáo, phải biết tương thân tương ái, chia vui sớt nhọc cho nhau mà dìu dắt chúng sanh. Nếu vì chút phàm tâm mà chia đường phân nẻo, ghét nghịch lẫn nhau, các con sẽ treo gương bất chánh cho kẻ sau, lại nền Ðạo cũng vì đó mà khó mau thành đặng. Các con khá để ý đến, ấy là các con hiến cho Thầy một sự thành kính trọng hậu đó.

“Ðạo Trời soi gương rạng, khá biết tỉnh mộng hồn, kiếp sanh chẳng bao lâu, đừng đợi đến ngày cùng tận. Nơi trường thi công quả, nên cân lấy phước phần, chẳng sớm trau thân rừng chiều ác xế ”.
Mấy ai xét nét thế tình, lắm kẻ khinh khi nguồn Thánh, chư chúng sanh khá liệu mình.

8 - Đạo đức mới thắng hung bạo
Trong trường đấu tranh quyết-liệt để dành lấy sống còn này (Thời kỳ văn-minh khoa học cực thịnh) giữa các thế-lưc đối chọi nhau mà muốn bảo tồn được nhân loại thì không thể nào lấy sức hung-bạo mà đọ nhau được tức không thể lấy bạo-lực chống bạo-lực, mà chỉ có thể dụng nhu mới chế được cương. Cái nhu đó là Đạo-Đức vậy. Đạo-đức chính là sức mạnh hòa bình đem lại sự yên vui cho nhân loại cũng như cho vạn vật trong vũ-trụ , thế nên      

 “Thầy đã nói dụng hòa bình êm tịnh mà dẫn các con trong đường Ðạo. Các con cũng nên lưu tâm, để hết công trình trí não lo lắng thì bước đường càng bữa càng tới chẳng điều chi cản đặng; duy có một điều là chư môn đệ và tín đồ xa khuất lời Thánh Giáo, nên phần nhiều để thì giờ mà chăm nom về nhơn sự ( thế tục).

 “Than ôi! Ðiều vui sướng lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương châm thoát tục, mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi, uốn lưỡi, mà tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.

9 – Thành tâm hành Đạo
Vốn Thầy tạo lập nền Chánh Giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ đâu. Các con ví biết Ðạo là quí thì phải ân cần thận trọng;

Sanh nhằm đời có một Ðạo chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai; lần vào non thẳm kiếm ngọc lại càng khó; khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức sau ăn năn rất muộn.

Cơ lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá, biết Ðạo, biết ta, biết người, biết thế, biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời còn lắm giành xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật. Đợi đến ngày thành tựu các con mới thấy rõ Thiên cơ, thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn trắc trở là lúc sơ khai. Vậy Thầy khuyên các con rán thành tâm hành đạo, mà đạo không phải giữ bằng lỗ miệng không đâu.

B - PHẢI CÓ TÍN NGƯỠNG MẠNH-MẼ VÀO NỀN ĐẠI-ĐẠO.
ĐẠI-ĐẠO TAM KỲ PHỔ-ĐỘ là đạo duy nhất do đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế lập nên với mục-đích là qui nguyên tam-giáo ( Nho, Thích, Đạo ) phục nhứt Ngũ-chi ( Nhơn-đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo) là để đem đến cho loài người một niềm tin mạnh mẽ vào Đạo Trời, bởi thế mới  bắt buộc người muốn vào đạo đều phải lập minh-thệ trước Thiên-Bàn rằng: “ Tôi..Tên, Họ.. “Thề rằng : từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp-đồng chư môn-đệ, gìn luật-lệ Cao-đài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Địa lục” ( gồm có 36 chữ). Ấy vậy , lời minh-thệ là để cho người muốn làm môn-đệ Chí-Tôn trước khi nhập môn cần phải có lòng thành-tín rồi mới quyết định.

Bởi vậy Thầy mới phán rằng:
Các con phải biết: hễ là người thì phải biết Ðạo; không biết Ðạo không phải là người. Cái chánh cái tà rồi đây sẽ phân biệt nhau. Nếu các con còn để một vài điểm mờ hồ trong dạ thì làm sao chóng đến nơi, đến chốn đặng?

Mối Ðạo Thầy đưa cho các con phăng đầu hết, thì các con phải biết trách nhậm các con lớn lao cao thượng là chừng nào – Nếu các con không biết nghĩa vụ của Ðạo, thì sao cho xứng đáng? Vậy Thầy khuyên các con cứ thìn lòng thìn nết, cho có trật tự trong Ðạo, thì tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá.

Các con phải đồng tâm hiệp lực nhau, bỏ hết các điều tệ theo thường tình, thì mới dễ thành Ðạo. Vậy Thầy khuyên các con đứa nào có trí lực bao nhiêu khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm.            

1 - Thời đạo loạn.
Nói rằng Đạo loạn chớ thật ra là tâm con người loạn: chỉ biết có vật chất mà không nghĩ gì về tinh-thần, chỉ lo cho thể xác được mập béo mà không kể đến linh hồn đang đói khổ, chỉ biết cái sống của riêng mình mà không nghĩ gì đến đồng-loại rên siết trong nổi khổ đau., luật-pháp đời nay dời mai đổi theo tham-vọng của kẻ cầm quyền. Ở trên không giữ công chánh thì bảo sao dưới chẳng loạn cho được…Luật thương-yêu quyền công-chánh của Thượng-Đế bắt buộc phải thể-hiện  để lập lại đời mới cho xã hội Thánh-đức mai sau. Thế nên mới có ngày phán xét cuối cùng, điều này hẵn nhiên là phải có và nó đã đến rồi đó.!

Thế-giới phải có chiến-tranh rồi mới có được hoà-bình, cũng như Đạo phải có loạn rồi mới tới trị. Đạo loạn là do nhơn-sanh không có niềm tin ở người cầm đầu, không làm theo chơn-truyền luật pháp mà chỉ biết làm theo tư-dục là tánh nết của hầu hết kẻ phàm-phu ở thế-gian này. Không có hạnh-đạo đứng đắn thì làm sao nhơn sanh tin-tưởng được mình là kẻ dẫn lối, đưa đường chỉ nẻo vào đến nước bình-an cho được. Nước mà vô đạo thì làm sao trị được, thế-giới mà vô đạo thì chắc chắn là chiến tranh phải xãy ra mà thôi. Thầy cũng đã  cho biết:

Thầy quyết lấy đức háo sanh mở Ðạo, cứu rỗi sanh linh, cho kịp trước kỳ Hạ Nguơn nầy, nhưng Ðạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước, là vì tại nơi lòng nhiều đứa, chưa để hết tín ngưỡng mà nghe lời Thánh giáo, cho nên lần hồi, nền Ðạo phải ra tan tành manh mún.

Kẻ hữu đức buồn lòng thối bước, đứa chơn thành không vui nắm tay theo; ma hồn quỉ xác loán vào; kẻ đức thiếu níu đứa không nhân; thành ra nhơn kém đức suy, cứ thẳng một đường tà dung ruổi.( không làm theo chơn-truyền và Tân-luật).

Công Thầy bố hóa, bị lũ học trò tham lam ngu xuẩn, dục lợi cầu danh làm cho tà quái lẫn vào, dìu dắt vào chốn hang sâu vực thẳm; thế mà hồn Ðạo phải chịu ngàn năm phưởng phất.

Thầy thấy nhiều đứa xả thân cầu Ðạo, diệt tục xủ phàm để mình làm hướng đạo. Hỏi vậy có ai xứng đáng chưa?

Áo dà cũng muốn mặc, giày đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhân sinh để cho họ biết mình hướng đạo. Ðường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng toan vào mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi mún chẳng từ, mượn danh Ðạo mà tạo danh mình, vô Thánh Ðiện mà hơi tà còn phưởng phất. Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, mượn lốt cọp dọa cáo bầy, bụng trống lổng, túi thâu đầy toan làm thầy lũ dại.

Thầy vì mấy chục ức nguyên nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên thơ thì không một ai dự vào Kim Bảng.

Ôi! Lốt Ðạo, lốt Ðạo, Thầy buồn cho trẻ ngây, chẳng còn biết làm sao đem Thánh giáo vào tai chúng nó được.

Thầy nhớ xưa, kẻ mộ Ðạo, chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình; giày gai áo bã, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giạu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình đặng; có đâu lấy của lấn nhân, mượn quyền xua đức, kẻ chân thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm núm mang hơi tà, lại đua nói rằng thờ chánh giáo.

Thầy hỏi: Ai chứng cho?
2 – Người tu hành chân chính là biết chọn cho mình cái sống vĩnh hằng
Chúng ta thường nghe miệng người đời hay nói câu: “Khôn chết, dại cũng chết duy có biết là sống”, Cái sống đây tức là sống Đạo, sống đạo là cái sống vĩnh-hằng, là sống cho linh-hồn , trái với lối sống này là sống đời, là chỉ biết sống cho xác thịt. Chúng ta lắng nghe Chí-Tôn nói về sự sống và chết thì sẽ hiểu:
 “Sự chết, thường thế gian gọi chết là hết, là vì dốt không biết đạo nên tưởng lầm.

Khắp trong nhân loại trên mặt địa cầu nầy, phần đông vì kính thờ Tà quái, mà Tà quái vốn chứa sự chết, thì tức nhiên chúng nó ở trong vòng sự chết là phải tiêu diệt, thì bao giờ biết đặng sự hằng sống là gì. Cười . . . Nếu Thầy không đến kịp thì các con cũng vẫn bị trong vòng sự chết.

Tà mị cũng như một hột lúa bị hẩm mà thúi thì thế nào mọc đặng mà sanh bông trổ trái.
Còn bực chơn tu, tỉ như một hột giống tốt, hễ gieo xuống thì cây lên, cây lên thì trổ bông, rồi sanh trái mà biến biến sanh sanh càng tăng số. Vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa Chơn thần, Chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên hoài. Ấy là Ðạo.

Bởi vậy, một Chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, và toàn cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới. Nên chi, các con là Thầy, Thầy là các con.
- Như kẻ bên Phật giáo hay tặng Nhiên Ðăng là Chưởng giáo, Nhiên Ðăng vốn sanh ra đời Hiên Viên Huỳnh Ðế.
- Người gọi Quan Âm là Nữ Phật tông, mà Quan Âm vốn là Từ Hàng Ðạo Nhân biến thân. Từ Hàng lại sanh ra lúc Phong Thần đời nhà Thương.
- Người gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật Tổ, Thích Ca vốn sanh ra đời nhà Châu.
- Người gọi Lão Tử là Tiên Tổ giáo, thì Lão Tử cũng sanh ra đời nhà Châu.
- Người gọi Jésus là Thánh đạo Chưởng giáo, thì Jésus lại sanh nhằm đời nhà Hớn.

Thầy hỏi: Vậy chớ ai sanh ra các Ðấng ấy?
Khí Hư Vô sanh có một Thầy. Còn mấy Ðấng Thầy kể đó ai sanh? Ấy là Ðạo. Các con nên biết.

Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy.
Máy Thiên cơ các con chưa rõ, các con cứ tưởng lầm rằng Thầy không kềm chế kẻ vô lương đặng. Các con hằng muốn thấy kẻ ấy bị hành phạt nhãn tiền, thì mới vừa lòng các con. Nhưng Thánh ý Thầy không phải vậy đâu, Thầy đã nói cho các con hay trước rằng: Nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó. Thầy vì công lý mà khai đạo cho các con, cũng là một phúc hạnh lớn cho các con. Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm thì các con chẳng còn để ý chịu nhọc vì Ðạo. Thầy lại có nói rằng: Ngày nào các con, còn trông thấy một điều bất bình ở đời nầy, thì Ðạo chưa thành vậy.

Muốn cho cơ đạo sớm được thành tựu thì giờ đây mỗi con người tu của chúng ta phải thật sự hồi đầu và thành tâm hối cải, đối diện với chính mình, bỏ ra ngoài những lời thị phi đàm tiếu chạy theo mối lợi đường danh, quyết chí tu hành, chết đời sống Đạo…

3 - Luyện chơn thần cho mạnh mẽ
Chơn-thần ở đây muốn nói chính là lương tâm, là cái thiên-lương mà trời đã ban cho con người, bổn nguyên của nó là sự sống là ánh sáng phát ra từ khối Đại-linh-quang của Trời, nên nó đồng thể với Trời vậy.

Người tu-hành phải biết cách luyện mới có được một chơn thần mạnh-mẽ, cho nên thầy mới nhắc:
Thầy thấy nhiều, tu cũng muốn tu mà thế tục cũng không muốn chừa bỏ. Thế tục là nét dìu dắt cho mất tánh thiêng liêng, phải lấy nghị lực cang tâm mà kềm chế, thì cái lối diệt vong mới chẳng làm uổng công phu hành đạo cho.

Tu hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng liêng.
Các con hiền mà dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con hành phạt; cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình, thì là gần ngôi Tiên Phật đó.

Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh chẳng ưa chứa kẻ hung hăng mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá cửa lún đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.

Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một việc lợi riêng chi cho gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm tục của các con. Nhiều đứa lại còn mờ hồ, đã thờ Thầy mà còn chưa chắc ý rằng thờ đặng chi, và mở Ðạo có ích gì?

Than ôi! Ðã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền Thánh giáo đâu? Ðạo Trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần, sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ lúc kết quả hồn qui Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần ai khốn đốn nầy; phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi, còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức để cho có ích chung nữa đặng! Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức; làm một việc phải tức là do nơi ý Trời; phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật; phải quấy Thần Thánh chỉnh chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc! Khá biết lấy!

4 – Thờ Thiên-nhãn là thờ Trời
Tại sao thờ Thiên-nhãn là thờ Trời?

Thầy nói:
 “ Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng "Con Mắt" mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh.”
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,Thiên giả, Ngã giã.

Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho "Thần" hiệp "Tinh-Khí" đặng hiệp đủ "Tam Bửu" là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

Các con nhớ nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư Ðạo Hữu nghe.
... Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày bị bế Ðạo, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên Ðình mỗi phen đánh tản Thần không cho hiệp cùng Tinh Khí.

Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn Thần cho các con đắc Ðạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư Ðạo Hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo, hằng nhớ đến danh Thầy.

C - CÀN KHÔN YÊN TỊNH LÀ DO HOÀ
1 - Phải dạy cho nhau đăng chữ HOÀ.

Chữ Hòa là đầu mối cơ sanh hóa của Càn Khôn vũ-trụ, là gốc của sự thương yêu, là chiếc chìa khóa để mở cửa Bát-quái-đài và Bạch-ngọc kinh tại thế, nên Thầy mới nói:

Nền hòa-bình và sự yên tịnh là hai điều mà thầy dùng để khai mối Đạo . Điều thầy dạy trước nhất là chữ HÒA . Để có thể sống chung với nhau và hết lòng thương yêu đùm bọc nhau mà đi đến trường của thầy , nên Thầy  cho Thi:
Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một Đạo tức một Cha,
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ HÒA.

2 - Đức Quan-Âm cũng dạy chữ hoà:
Thiếp mừng mấy em. Mấy em nghe à:
Ðạo quí là tại HÒA. Các em nghĩ thử mà coi, tạo Thiên lập Ðịa cũng bởi Âm Dương hòa hiệp sanh hóa muôn loài, cũng bởi một chữ Hòa, đến đỗi như thân của người có tạng có phủ, tạng phủ ấy nếu chẳng hòa thì con người chẳng hề sống bao giờ.

Kịp đến tâm hồn bất hòa thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần lương tâm, nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì?

Các em thử nghĩ, cái phẩm giá của kẻ ấy cao hèn là thế nào. Người chẳng có hòa là thế đó.

Còn gia đình chẳng hòa thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong luân lý chẳng hòa thì dân cư bất mục. Nước chẳng hòa thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hòa thì nhơn loại đấu tranh. Vì vậy, Thiếp khuyên các em dĩ hòa vi tiên.

3 – Chơn pháp Cao-Đài
Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài là : “Qui nguyên tam giáo, phục nhứt ngũ chi”. Câu này mới nghe qua thì thấy lạ., nhưng xét cho kỹ thì nó là hai con số đại biểu choTrời đất và người là nói về lý Tam tài :
Trời có ba là Nhật, nguyệt, tinh.
Đất có ba là Thuỷ, hoả, phong.
Người có ba là Tinh, khí, thần.

Con số năm là tượng trưng cho ngũ khí: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Năm khí này là nguồn sống hữu hình của muôn loài vạn-vật. Nói tóm lại, muôn loài vạn vật không vật nào có thể tồn tại được nếu không có ngũ khí tức là khí sanh quang và lý tam Ngôi đó vậy. Hai con số “Ba và Năm” là biểu tượng cho trời Đất và Đức Chí-Tôn lấy đó làm chơn pháp cho  thời Tam Kỳ Phổ Độ nói vắn tắt là Đạo Cao-Đài hầu dẫn dắt nhân loại đến chỗ Thế giới đại đồng cùng nhìn về một chân-lý duy nhất vậy. ( xem “Số ba huyền diệu” của Nữ soạn-giả NT sẽ biết rõ hơn về lý tam ngôi nhất thể này ).

Dân-tộc Việt-nam đã chịu biết bao sự đau khổ dưới ách thồng-trị của Tàu gần cả ngàn năm, chịu sự đô-hộ của Pháp cũng gần Trăm năm, và gần đây là cuộc nội-chiến phi nghĩa suốt ba mười năm chịu cảnh “ Nồi da xáo thịt”. Nếu không có Đức Chí-Tôn sớm Khai đạo  tại miền Nam nước Việt để gở ách nạn cho giống nòi và làm gương cho Thế-giới thì trận-chiến kỳ ba này chưa biết chúng ta sẽ về đâu ! ! ? .Đức Chí-Tôn khai ĐẠI-ĐẠO là đem đến cho nhân-loại niềm tin “ giải-thoát” chúng ta phải tuyệt-đối tin tưởng . Chúng ta phải biết : Đạo chớ không phải tôn-giáo, vì tôn giáo thì có rất nhiều nhưng đạo thì chỉ có một Đạo Trời là đạo do đức Thượng-Đế khai sáng mà thôi, đó mới là chánh Đạo. Thật là hữu phước may duyên cho những ai được nương thân dưới bóng Cao-Đài trong Kỳ ba mạt pháp này mà biết để tâm hướng về Đại-từ-Phụ.
Thi:
Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

Có cơ có thế có tinh thần.
Từ đấy Thần, Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.

4 – Dụng Thánh tâm mà dẫn dắt nhơn sanh.
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ chiếu theo luật Thiên Ðình Hội Tam Giáo, mở rộng mối Ðạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn sanh bước lên con đường Cực Lạc, tránh khỏi đọa luân hồi và dụng Thánh tâm mà dẫn dân sanh, làm cho hoàn toàn trách nhậm nặng nề của đứng làm người, về bực nhơn phẩm ở cõi trần ai khốn đốn nầy.

Than ôi! Ðường Thánh ít kẻ tìm, mà nẻo Tà nhiều người đến. Trò đời lăng xăng, cõi thế biết bao người chìm đắm vào biển khổ, mang nặng xác phàm, miếng đỉnh chung, mồi danh lợi, giành giựt phân chia mà chẳng kể đạo lý, luân thường, khiến cho mối Ðạo quí báu ngàn năm đã thành nấc thang để dắt người xuống hang sâu vực thẳm. Nhơn loại dùng thế lực mà cắn xé nhau, giành giựt nhau, quên lửng cõi trần nầy nhơn sanh lãnh mỗi đứa một vai tuồng đặc biệt mà trả cho xong căn xưa, quả cũ.

Càn khôn càng náo nhiệt, ngày tận diệt đã hầu kề. Kẻ hữu phần đặng nắm mối Ðạo Trời, dựa chiếc thuyền sen, lần vào non cao suối lặng, để rửa bớt chút bợn trần, dưỡng tánh tu thân, để nâng lên địa vị thanh cao, lánh xa đọa luân hồi trong lúc hồn lìa khỏi xác.

Kẻ vô phước dụng tà tâm làm một món lợi riêng, quên cả điều hành phạt đã kế bên mình, chới với cả muôn triệu giữa dòng mà chẳng chịu sớm tự hối đặng gỡ lần mối họa sau. Hành trình dài đăng đẳng, mà bước tục hãy còn chờ, chẳng sớm biết mình, họa Trời đâu tránh khỏi. Khá biết cho.

Cảnh nhàn chẳng phải đâu xa, chỉ ở nơi địa đàng đây mà vì nhơn loại không để ý tìm ra, cứ theo một lối thấp hèn mà quên đàng cao thượng.

Thầy vui thấy nhơn sanh biết hối ngộ, chẳng quản dặm dài, đến hội hiệp nhau mà để bước vào đường đạo đức. Các con vì Ðạo là việc công lý mà công lý đánh đổ cường quyền, thì Ðạo mới phải Ðạo. Các con hiểu à!

5 – Bài thi khó buổi sau cùng.
Có học thì ắt phải có thi, mà bài thi càng khó thì người được chấm đậu mới thấy cấp-bằng của mình có giá trị. Đời cũng thế mà Đạo cũng thế; Đại-hôị Long-Hoa cũng sắp kết-thúc cho nên bài thi cuối cùng này chắc không phải dễ đâu, thế nên Đức-Lý mới có lời nhắn nhủ:                        “Chư đạo hữu, lúc nầy đã đến buổi người hành khách phải trải qua một lối chông gai. Muốn bước khỏi, cần phải có bền chí tận tâm, và phải gắng xem đạo đức là trọng hơn muôn việc vui thích ở cõi trần nầy. Ðạo tuy gần thành, nhưng còn phải chịu nhiều việc trắc trở nữa, ấy là lúc các đạo hữu gặp một trường thi rất khó trong buổi rốt. Sự phổ độ Thiên cơ đã định, sức người cũng khó lướt qua, song ngọn đèn Trời đã chiếu tỏ mà dìu dắt các đạo hữu, thì nhiều ít gì rồi sau cũng đến chốn được. Hội Tam Giáo đương chầu Ðức Từ Bi định khai Ðạo cho khắp nơi khác đặng hiệp theo lẽ Trời cuối kỳ Hạ Nguơn nầy.

CHƯƠNG II
- Tự lập-vị cho mình là tìm cơ giải-thoát
- Lập đại nguyện

A - TỰ LẬP-VỊ CHO MÌNH
LÀ TÌM CƠ GIẢI-THOÁT

Đức Chí Tôn đã đến, Ngài chỉ Bí Pháp có một điều là: Các con không cần tìm kiếm triết lý cao siêu hơn nữa, các con tìm kiếm cái sống của toàn thể bạn đồng sinh của các con, rồi kỉnh trọng phụng sự cái sống ấy. Hễ các con tận tâm phụng sự cái sống của Vạn Linh, thì cơ quan giải thoát của các con, Thầy đã để nơi tay của các con đó vậy. Giải- thoát là tự mình làm chủ lấy mình, để làm chủ được thân xác này thì chỉ có con đường duy nhất là lo lập-đức tu thân. Thế nên:

1 - Tu thân là một bổn phận thiêng-liêng mà tất cả những ai làm người dưới thế này đều phải lo trước nhất, từ bậc thiên-tử dĩ chí ư thứ dân đều phải lấy việc tu thân làm gốc. Đã là khách Trần thì chẳng ai dám tự-hào là mình hoàn hảo, bởi chưa hoàn hảo cho nên phải có sự tu sửa thân mình để làm cho hoàn mỹ chính bản thân mình đó vậy, là để khôi phục lai cái bản tánh mà Trời đã ban cho từ lúc ban sơ nên mới có câu “Nhân chi sơ tính bản thiện” vậy.

Cuối hạ ngươn tam chuyển này muôn vật đều phải thay đổi. Để đưa nhân loại  tiến lên thời Thượng ngươn Tứ chuyển, là đời Thánh đức nên Đức-chí-Tôn mới khai mở Đại-Đạo Tam-Kỳ phổ-Độ là lập một trường thi công-quả để qui tụ con cái của Người lại mà lo lập công bồi đức hầu trở về thiêng-liêng vị.

Biết được một đạo chánh không phải dễ, phải để hết lòng lo học hỏi cho đến nơi đến chốn, đó là phương sửa mình  nên người hữu ích cho đời. Sửa mình tức là Tu-thân đó .Tu-thân  cho đến chỗ tận thiện tận mỹ.

Cái chân thiện mỹ này nếu không nhờ vào Đạo  thì lấy gì  đánh giá, định mức chuẩn thằng để noi theo. Ấy vậy Đạo là con đường sáng, là ngọn đèn để cho chúng ta soi bước đi của mình trong cuộc trần ai nhiều gian hiễm này .

Vậy Tu-thân là sao?
Muốn tu được thân thì trước hết hãy làm sáng tỏ cái đức sáng của mình: ‘Tại minh minh đức”, mà muốn có được đức sáng thì không gì hơn là tìm hiểu vạn-vật cho đến cùng kỳ lý ( cách vật trí tri).

Sách Nho-giáo dẫn rằng:
“ Cái đạo của bậc Đại-học (Nho-giáo) là ở sự làm cho sáng cái đức-sáng ( chữ Minh ) ở sự thân yêu người, ở sự đến chí-thiện mới thôi.. Có biết đến cùng (cùng kỳ lý) thì sau mới có Định (Tâm định), định thì sau mới có tĩnh, tĩnh thì sau mới có thể yên, yên thì sau mới có thể tư-lự tinh-tường , tư-lự tinh-tường thì sau mới có thể được cái hay cái phải.

Vật có gốc ngọn, sự có chung thủy (đầu và cuối) , biết rõ trước sau thì gần Đạo vậy.
Để tỏ rõ được cái đức sáng thì phải như thế nào ?
Đời xưa, người muốn làm sáng cái đức sáng ở thiên-hạ, thì trước phải trị nước mình, người muốn trị nước mình, thì trước phải tề nhà (tề-gia) mình; người muốn tề nhà mình, thì trước phải sửa thân mình (TU-thân), người muốn sửa thân mình, thì trước phải chính cái tâm của mình, người muốn chính cái tâm của mình, thi trước phải làm cho tinh thành  cái ý của mình, người muốn làm cho tinh thành cái ý của mình, thì trước phải  biết đến chỗ cùng-cực ( cực-tiểu &cực-đại, theo khoa-học là chỉ hạt-nhân nguyên-tử và vũ trụ của con người giống nhau). Biết đến chỗ cùng-cực là ở sự suốt tới chỗ uyên-thâm của sự vật.

Suốt tới chỗ uyên-thâm của sự vật, thì sau mới biết đến chỗ cùng cực; biết đến chỗ cùng-cực, thì sau cái ý mới tinh thành ; cái ý đã tinh thành, thì sau cái tâm mới chính; cái tâm đã chính, thì sau cái thân mới tu; cái thân đã tu, thì sau nhà mới tề , nhà đã tề thì sau nước mới trị; nước đã trị thì sau thiên-hạ mới bình.

Từ đấng Thiên-tử ( chữ vương là chỉ cho người đã suốt được lý tam tài) cho đến kẻ thứ nhân, ai cũng phải lấy sự sửa mình  làm gốc.  Cái gốc loạn mà cái ngọn trị thì chưa có vậy; cái gốc mình đáng hậu mà bạc, cái ngọn mình đáng bạc mà hậu, là chưa có bao giờ”.

Thánh-nhân có câu:
 “Dục tu Thiên-đạo, tiên tu Nhân-đạo, nhân đạo bất tu Thiên đạo viễn hỹ” (Muốn tu (sửa mình) theo đạo trời, thì trước phải làm theo đạo người, không làm được đạo người thì đạo trời còn xa lắm vậy). Người tu nhân đạo , tôi thiết nghĩ không ai không tu theo thuyết tu, tề, trị, bình : “tu thân, tề gia, trị-quốc, bình thiên-hạ” của Nho-giáo mà có thể thành người quân-tử được .

Đức hạnh của một bậc thành nhân là đạt cái lý của tính-tình, suốt cái biến của vật loại, biết cái cớ u-minh, rõ cái nguồn du-khí (như là sống chết hồn-phách) . Như thế gọi là bậc thành nhân. Đã biết đạo Trời , lại đem mình làm những điều Nhân-nghĩa, trang sức mình bằng Lễ-nhạc. Nhân-nghĩa, Lễ-nhạc là cái hạnh của bậc thành nhân, cùng thần tri hóa , cái đức đến thế thật là thịnh vậy”.

Cái phẩm giá của bậc người quân-tử  hoàn toàn cao như thế , sự học vấn rộng như thế , không thể lấy cái tư-cách của hạng người tầm thường chỉ bo-bo những việc thiển-cận trước mắt mà ví được. Vậy nên người đi học, muốn theo đạo của người quân-tử cần phải cố-gắng lắm..

Con người nhờ có học mới có hiểu biết, mỗi ngày mỗi hiểu biết thêm lên thì mới gọi là tiến-hóa vậy. Nhưng phải học những gì? Học bằng cách nào ?

Chủ đích của Khổng-giáo là dạy người ta cho thành người nhân nghĩa trung-chính, tức là người quân-tử . Song có dạy mà không có học thì dù cho sự dạy có hay thế nào mặc lòng cũng không sao thành công được. Vậy nên Khổng-giáo lấy sự học làm một điều rất trọng-yếu . Sự học của cổ nhân không phải như sự học của số nhiều người ngày nay thường vẫn hiểu . Cổ nhân nói học là cốt học ĐẠO của Thánh-hiền để hiểu nghĩa-lý , biết phải trái mà sửa mình cho thành người có đức-hạnh, chứ không chỉ vụ lấy biết nghề kiếm ăn .

Sách Lễ-ký nói rằng: “Ngọc bất trác bất thành khí , nhân bất học bất tri đạo.( ) Quân-tử học dĩ trí kỳ đạo (君子學以致其道道). Người quân-tử học để  hiểu rõ cái đạo”.

Sự học của quân-tử sở chủ ở điều gì ?Khổng-tử dạy người ta phải giữ cái Tâm cho  trung-chính và việc làm cho thành-thực để sự biết và việc làm hiệp làm một , trong ngoài không có hai: “Quân-tử tiến đức tu nghiệp. Trung-tín, sở dĩ tiến đức dã : Tu từ lập kỳ thành, sở dĩ cư nghiệp dã. Tri chí chí chi,, khả dữ cơ dã, tri chung chung chi, khả dữ tồn nghĩa dã.” Quân-tử tiến đức tu nghiệp .Trung-tín là để tiến đức, tu tỉnh ngôn-từ, lập cái thành-thực của mình là để giữ vững cái nghiệp vậy. Biết chỗ đến mà đến chỗ ấy , là có thể gần cái đức ; biết chỗ cuối cùng mà suốt đời giữ vững là có thể giữ cho còn cái Nghĩa vậy. (Dịch:Văn ngôn-truyện). Lời ấy thật là quan-trọng, chư Nho thường cho là sự trí tri , thành-ý, chính tâm, tu thân đều căn-bản ở đó. Trung-tín chủ ở tâm; Tu từ, lập kỳ thành  chủ ở sự thực-hành. Tri chí chí chi là việc tiến đức, tức là trí tri; Tri chung chung chi là việc tu-nghiệp, tức là lực hành , Tri chí là biết cái chỗ đến của đạo; Chí chi là thực-hành mà nghiệm cái biết của mình . Tri chung là thấy rõ chỗ cùng-cực của Đạo; chung chi là cố lực hành cho đến chỗ qui túc, nghĩa là chỗ trọn đời ở mãi được. Ấy là tri mà hành, hành mà tri. Hai bên giao với nhau mà cảnh phát lẫn nhau, thì cái đạo càng ngày càng sáng rõ. Đó thật là cái thỉ chung việc học của Quân-tử”.

Đức Hộ Pháp thuyết Đạo nói rõ về chữ tu như sau:
Đền Thánh đêm 14/5 năm Nhâm Thìn (06/6/1952)
Đêm nay Bần Đạo xin bắt chước các bạn đã lên giảng đài từ thử đến giờ giảng chữ tu.

Chữ tu tiếng Phạn gọi là Dyana, người Miên tức nhiên người Tần Nhơn nói trại lại một chút Xaxona. Tiếng Pháp hay tiếng bên Âu Châu: “Se perfectioner” nghĩa là Rendre parfait ou plus parfait có nghĩa là làm thế nào cho mình đặng tận thiện tận mỹ. Tiếng tu nó bao quát như thế, thiên kinh vạn điển tiếng của các Tôn Giáo đã để lại duy chỉ trong một chữ đấy mà thôi; thành thử chẳng phải đứng trên giảng đài mà giảng chữ tu ấy cho cùng lý được, nhứt là Bần Đạo có thể lấy cái tinh túy của nó để ra, dầu không trọn vẹn, nhưng cả thể toàn thể con cái của Đức Chí Tôn để ý, định trí cho lắm nghe và hiểu.

Vả chăng khuôn Luật Thiên Nhiên của Tạo Hóa nó buộc cho các Đẳng linh hồn dầu vật loại, phải trau mình thế nào đặng đoạt cho đến nhơn phẩm của mình, rồi khi đã đứng địa vị làm người, mình phải dồi mài, sửa cải thế nào đặng đi từ từ đặng đoạt đến Phật Vị.

Chúng ta sanh nơi đây rồi chết, rồi tái sanh lại đặng mỗi kiếp sanh của chúng ta tu, tu đặng từ từ bước lên Thiêng Liêng Vị của mình. Tu nhơn phẩm đoạt đến địa vị tối cao tối trọng là Phật Vị đó vậy.
Trong phương tu của chúng ta buổi nào cũng tu, vừa trong lòng mẹ ra khỏi thì đã tu rồi.

Tu là gì?
Đứa con nít nó không biết nói, không biết gì hết, không biết làm sao đặng mẹ nó cho bú, hễ nó khát sữa nó có phương pháp là nó khóc, nó tìm phương làm cho mẹ nó hiểu, tức nhiên nó tu đó.

Rồi khi nó biết cha biết mẹ, biết thương cha mến mẹ, cái đó cũng cái tu của nó nữa. Khi nó có em biết thương em, cái tu nó đấy.

Khi trí khôn ngoan hơn chút nó vô trường học, mỗi ngày học được mấy chữ, Thầy kể rằng học đặng thấu đạt được cái hay cái biết là tu đó; lớn hơn chút nữa có trí khôn ngoan, nó kiếm phương thế làm sao cho nó hay hơn bạn nó, ham làm giỏi hơn bạn, nó biết tranh đua tức nhiên nó tu đấy.

Khi nó biết khôn ngoan rồi hiểu rằng tôi phải học cho hay hơn thiên hạ trong xã hội nhơn quần, nó kiếm thế nào học hiểu cho nhiều đương đầu, đặng sống cùng xã hội, tu đấy. Khi nó có tuổi, trong tuổi trứng nước đó đến tuổi khôn ngoan hơn nữa, nó biết lựa chọn một người bạn trăm năm là vợ của nó, ấy là nó tu đấy. Đối cùng xã hội nhơn quần nó kiếm phương pháp thế nào đứng trong xã hội cho có địa vị của nó, nó nong nả đừng cho nó quá hèn, mỗi ngày nó kiếm thế tiến triển hay ho thêm mãi, tu đó.

À, cái tu từ khi mới thơ sinh lọt lòng mẹ đặng làm người, nó tu về Nhơn Đạo, tức là tu thân. Cái tu thân gọi rằng tu thân là chi? Là nó phải biết cái tu thân ấy mới có phương thế lập công cùng xã hội nhơn quần. Nó lập công làm thế nào cho toàn cả nhơn loại trên mặt địa cầu này đặng hạnh phúc, nếu như nó có phương thế làm nên cái công nghiệp vĩ đại ấy là tu thân của nó đấy.Bây giờ Bần Đạo mới thuyết cái phương tu trong chơn truyền của Đức Chí Tôn đã để nơi cửa Đạo nầy.

Chúng ta dùng Tam Bửu mỗi ngày chúng ta cầu nguyện Đức Chí Tôn đặng dâng hiến ba của báu ấy. Bần Đạo thuyết tu về Tinh, tu về Thần, đặng lập công, tức nhiên mình thờ phượng cái Tinh của mình, báu đầu tiên của mình là thân thể mình. Bây giờ ta chỉ nói với một kẻ ngu muội hay là khùng kia cũng vậy, mà mình biết nó khùng mà nó cũng biết nó là khùng, nhưng ta điểm mặt nó nói, mày điên, mày khùng thì nó giận dữ ngay đa và tức mình lắm. Cái giận ấy là trong tinh thần của nó có khuôn luật thiên nhiên bảo nó phải tu, đừng để nó ngu, mà hễ ai nói nó ngu tức nhiên làm nó phạm luật thiên nhiên ấy, nên nó không chịu, nó tức giận lắm, dầu cho nó đã thiệt ngu.

Huống chi con người sanh ra nơi cõi nầy, Đức Chí Tôn đã ban cho một cái ân đặc biệt hễ khi nào trong lòng mẹ đã xuất hiện ra thì trong cái tinh thần thiên nhiên của ta nó đã có cái quyền năng đạt được cả cái hiểu biết của nhơn loại, dầu cho Thượng Cổ, Trung Cổ nó cũng tự nhiên am hiểu cho được mới thôi. Cả cái tinh thần của nó đấy có đủ quyền năng đạt đặng khối bao quát thiên nhiên về tinh thần trí não của loài người.

Từ khi loài người đã có nơi mặt thế nầy, đều muốn thoát ly cái thú tánh của họ. Hễ thoát ly đặng cái thú tánh ấy tức nhiên họ sẽ định tâm sáng suốt thành ra một vị Thánh tại thế gian này. Chúng ta đã ngó thấy biết bao vị Thánh sống xuất hiện trong loài người từ thử đến giờ, huyền bí vô biên của tạo đoan là do nơi đó.

Ấy vậy cái khuôn luật thiên nhiên kia bảo ta phải tu trí, nếu chúng ngu xuẩn, mê muội thì bao giờ cũng phải chịu làm tôi đòi nô lệ trong kiếp sống của ta, chúng ta vẫn ngó thấy một đứa con nít mà nó vẫn kiếm phương thế đặng hiểu mọi điều thiên hạ đã biết, nó không biết nó hỏi, vấn nạn cho biết, ấy cái khuôn luật thiên nhiên biểu nó tu trí. Tu trí đặng chi? Đặng đủ khôn ngoan, tu hạnh đức hay hạnh kiểm của mình, rồi mới tu ngôn ngữ của mình, tu trí đặng lập ngôn tại thế gian này, tức nhiên tu về khí đó vậy.

Bây giờ tới tu tâm, hễ khi nào chúng ta đầy đủ trí thức, tâm ta mới sáng suốt, khi tâm đã sáng suốt thì biết rằng: Cảnh tượng kiếp sống của chúng ta đây cả thảy đều là mộng ảo, dầu cho cái ý sống hay cái thân của ta đây cũng là mộng ảo, con vật thân thể đã thế nào, thì thân thể ta cũng thế ấy. Con vật chết như thế nào thì chúng ta cũng chết tương tợ như thế đó, không khác. Đã biết kiếp sống của chúng ta là mộng ảo thì chúng ta cần phải tìm gì mà chớ. Tìm cái chi cho bền vững chắc chắn hơn, tức nhiên cái thiên lương của chúng ta, là căn bản là linh hồn của chúng ta. Ta đã hiểu được cái chơn linh của chúng ta nó bất di bất dịch, nó tồn tại mãi mãi nơi cõi Hằng Sống, biết được cái sống ấy là hằng sống thì ta phải tô điểm nó, gìn giữ nó cho được trường tồn đẹp đẽ.

Trước các tôn giáo nhứt là nhà Phật, chưa có danh từ thiên lương là gì, và tiếng linh hồn mà thiên hạ đã để lấy chữ tâm mà tượng trưng ấy, thì nó vẫn là bóng dáng chớ không phải thiệt tướng. Lấy chữ tâm là bất quá nói cái trí của chúng ta do tinh thần căn bản, nên lấy chữ tâm thay thế cho tinh thần, chớ chưa phải thật tướng tinh thần.

Ấy vậy, khi chúng ta đã qua khỏi tu trí, mới tới giai đoạn tu tâm, thì tu tâm ấy nó buộc chúng ta phải xem xét quan sát cả hành tàng kiếp sống của các bậc Thánh Nhơn, Hiền Triết, lời nói và việc làm của các vị Phật hay các vị Tiên đã lưu lại tại thế này, chúng ta mới lấy nó làm căn bản, đặng kiếm một khuôn khổ, một phương pháp đặc biệt của mình để làm phương tu của mình.

TU TÂM LÀ SAO?
Các bạn cả thảy đều biết sự tu tâm nó chẳng phải để một cái tình cảm đối với vạn vật hay nhơn loại nơi mặt địa cầu này, mà nó còn dắt ta đi, đi mãi con đường đi của nó vô biên vô tận, bởi nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm phương tu của nó. Nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ làm nhà, làm căn bản của nó; cho nên trí của ta đối lại tâm ta, nó lại không vừa, vì danh của tâm nó còn cao vọng hơn nữa, nó còn vô tận vô biên hơn nữa. Nơi cảnh vô hình thế nào thì chữ tâm cũng thế ấy, không ai biết rõ. Do chữ tâm mà Đức Chí Tôn để cái tình yêu ái, cái thương với cái công chánh, hai cái đó là hình trạng thay thế chữ Tâm mới thiệt tướng của nó mà thôi. Còn ngoài ra nữa nó liên hệ và liên quan với cả Phật tánh, Thiên tánh nữa kìa. Muốn đến con đường liên hệ với Thiên tánh, Phật tánh nó có một cái cửa là cửa tịch mịch, cái cửa ấy ở thế gian này thiên hạ muốn lắm, mà phần nhiều đi chưa tới, là cửa Hư Vô tịch diệt trong cảnh Thiêng Liêng kia đó vậy.

Đạo Cao Đài giờ phút nầy còn thiếu cái đó, tức là Đạo Cao Đài còn thiếu tu tâm vậy. Nếu tu tâm mà thật hiện đặng là "Ái truất thương sanh", hành vi của Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh là tu tâm đó.

Nhưng cái tâm mà diễn ra bao nhiêu đấy không phải đủ nó còn nữa còn vô ngần vô tận, cả kiếp sanh này chúng ta không có cái năng lực để tạo nó. Ta chỉ nhờ hồng phúc mới tạo nó đặng, nên ta cần nó lắm. Nếu chưa đặng chúng ta không thể nói rằng: Con đường của chúng ta thật hiện còn đi xa vời hơn nữa. Bởi vì phụng sự vạn linh Đức Chí Tôn đã để là cốt yếu. Ngài nói rằng: Nếu biết phụng sự Vạn Linh các con mới bước vô con đường tu tâm của các con, mà nói các con chưa tu tâm, bởi cả hình trạng vô biên các con chưa theo dõi, dầu cho các con đặng chữ Từ Bi, Bác Ái và Công Chánh thì cũng chưa đủ gì hết. Ấy, tu tâm ấy mới gọi là tu tâm. Hễ có tâm mới có phương thế lập Đức. Đức Chí Tôn dạy chúng ta phụng sự Vạn Linh cốt yếu biểu chúng ta rán tu tâm, tu tâm chúng ta mới đối lại cái quyền năng tinh thần của tâm lý, đặng lập Đức là Tam Lập đó vậy, vì nó liên hệ với nhau như thế đấy.

Cả những lời Bần Đạo, thuyết từ nảy giờ có thể viết ra một quyển sách mà nói lại có bao nhiêu, về rồi suy nghĩ kiếm hiểu ở trỏng tràn trề ý vị.

2 - Con người khi bỏ xác trần rồi thì sẽ đi đâu?
Các con nghe:
 “Một sự các con chưa hề biết đến, đặng hiểu đạo quí trọng là dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.
Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy chịu khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy, Thầy hỏi: Các con chết rồi các con ra thế nào? Các con đi đâu?

Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy. Thầy dạy: Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm; loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng.

Ðứng bực Ðế Vương nơi trái địa cầu nầy, chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Ðệ nhứt Cầu, Tam Thiên Thế Giới; qua khỏi Tam Thiên Thế Giới thì mới đến Tứ Ðại Bộ Châu; qua Tứ Ðại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên; vào Tam Thập Lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa, mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh, là nơi Ðạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.

Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các con nó nhiều là dường nào; song ấy là phẩm trật Thiên vị.
Còn phẩm trật Quỉ vị cũng như thế ấy; nó cũng noi chước Thiên Cung mà lập thành Quỉ vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm, đặng đày đọa các con, hành hài các con, xử trị các con. Cái quyền hành lớn lao ấy, do Thầy ban cho nó nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con, mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.

Thầy đã thường nói: Hai đầu cân không song bằng, thì tiếng cân chưa đúng lý. Luật công bình thiêng liêng buộc phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Thầy đã chỉ rõ hai nẻo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi cho khỏi lầm lạc. Các con hiểu rằng: Trong Tam Thiên Thế Giái còn có Quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là Thất Thập Nhị Ðịa nầy, sao không có cho đặng?

Hại thay! Lũ quỉ lại là phần nhiều; nó bày bố ra mỗi nơi một giả cuộc, mà dỗ dành các con.

Ấy vậy đạo đức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không đạo, thì là tôi tớ quỉ mị. Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng là ngang bực cùng Thầy hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.

Vậy Thầy lại dặn các con: Nếu kẻ không tu, làm đủ phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy; nên Thầy cho một quyền rộng rãi, cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giái, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng;                  

Thầy khuyên các con nhớ hoài rằng: Thầy của các con là ông Thầy Trời; nên biết một ổng mà thôi, thì đủ, nghe à!

Cái tình cảm hóa của con người là tình thường ứng hiệp Trời Ðất, cho nên khi tâm tịnh thường cảm hoài, hằng tìm nơi u huyền mà nghĩ nghị trong trí khôn ấy là kẻ có sẵn tình ý thiên nhiên Tạo Hóa; còn có một hạng người cũng có tánh thiêng liêng ấy, nhưng lại không để trí khôn vào lối cao thượng, mà cứ quen thói hung hăng, nghĩ những việc bạo tàn làm những điều tội lỗi; ấy là những kẻ nghịch Thiên, không biết luân hồi là chi cả. Chúng nó lại tưởng rằng kiếp người là kiếp sống chỉ có giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu, kế độc cho đặng của nhiều, no lòng sướng dạ, trối kệ luân hồi.

Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn của con người biết thương ghét, vui, buồn mà toàn trong nhơn loại đều có; khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao các con? Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình.

Hễ trả lời phù hạp thì dễ biết Ðạo, còn ngu xuẩn cũng huờn ngu xuẩn...
Thầy dạy Nữ phái biết trọng Tam Tùng Tứ Ðức; Nam phái Tam Cang Ngũ Thường. Hễ nhơn đạo thành thì là phù hạp Thiên đạo, nghe à!
Vậy Thầy dặn: Ðạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.

Thi:
Mối Ðạo từ đây rán vẹn gìn,
Tu là khổ hạnh khá đinh ninh.
Lòng thành một tấm Trời soi xét,
Gương rạng nghìn thu nguyệt chiếu minh.

Gai gốc lần đường công trước gắng,
Thảnh thơi có lúc buổi sau dành.
Vòng trần chìm nổi từ đây dứt,
Công quả tua bền độ chúng sinh.

Đức Hộ-Pháp là giáo chủ hữu hình của  Đạo Cao-Đài Toà-Thánh Tây-Ninh, là đấng lãnh sứ-mạng thay Trời cứu thế đã  lập cho chúng ta một bảng chương trình để cho người tu noi theo đó mà tự trau dồi bản thân hầu khỏi phải lo lạc đường :

3 – Phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ Ba Đại-Đạo

a - Phải biết thân-thích cùng cả nhân vật tức là tìm nguyên-do  của Vạn-linh cùng Chí-linh.
Phải ân-hậu và khoan-hồng.
Phải thanh-nhàn, đừng vị-kỷ.

Phải bình-tỉnh, nghĩa là đừng chịu ảnh-hưởng của hoạ, phước, buồn, vui (Tập tánh không không đừng nhiễm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chơn Tánh ).
Phải độ-lượng, khoan-dung, tha thứ.
Phải vui-vẻ, điều-hoà, tự-chủ và quyết-đoán.

Giữ Linh-tâm làm căn-bổn, Hiếu-hạnh với Chí-tôn và Phật-mẫu.

b - Phương pháp trị tâm vì tâm là hình ảnh Thiên lương.
Đức-tin và khôn-ngoan là kho chí bửu ngoài ra là của bỏ, là đồ vô-giá.
Ai đã cố oán kẻ thù của mình thì khó giữ thanh tâm công-chánh cho đặng.
Ai chẳng oán-hận mới thắng đặng kẻ thù-nghịch cùng mình.

Sự cừu-hận là khối thảm-khổ đệ nhứt của nhơn-sanh, nên người Hiền thì không biết đến, hay là từ bỏ cừu-hận oán-ghét.

Thắng đặng khí nộ mình, thì không chọc ai giận-dữ.
Lấy thiện mà trừ ác.
Lấy nhơn-nghĩa  trừ bạo-tàn.
Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp-hòi.
Lấy Chánh trừ tà.
Ấy là đường thương huệ-kiếm.

c – Luyện thân, luyện trí.
Ẩm-thực tinh-khiết
Tư-tưởng tinh-khiết.
Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-tôn, Phật-mẫu..
Thương-yêu vô-tận.
ấy là chìa khoá mở cửa Bát-Quái-Đài tại thế này.

d – Tự định Thiên vị cho mình bằng con đường Tam-lập.
Đêm 19 tháng 4 năm Tân-Mão ( 1951) tại Đền-Thánh.
Muốn định thiên vị của mình, quyền Thiêng-Liêng đã buộc hẳn mà chớ (!), phải có tam-lập của mình mới được.
Đêm nay Bần-Đạo giảng “phương-pháp lập thiên-vị mình” . Ngày Bần-Đạo đến  tại Trí-Huệ-Cung  có đặng nhiều bức thư của mấy Bạn chúng ta cầu xin nhập vào Trí-Huệ-Cung một lượt với Bần-Đạo, nhiều lắm!...

Ngày giờ ấy chính mình Bần-Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn-linh đem vào cửa thiêng-liêng ấy đặng, đang lo không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập Trí-Huệ-Cung nên chưa quyết-định, nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao (?) . May duyên thay, Đức Chí-tôn thấy không phương thế giải quyết đặng, mới cho hội-diện cùng các đấng cầm quyền thiêng-liêng của Đạo. Khi đặng hiểu rõ rồi, Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh thấy rằng: “ Cái nền Chơn-giáo của Đức-Chí-Tôn vẫn là đường đường ngay chính , nhứt-định về thể-pháp chơn-truyền không hề mê-hoặc ai cả thảy”,và Bần-Đạo cũng quả-quyết rằng: “ Những  phương-pháp mê hoặc của thiên-hạ về đạo-lý sẽ bị chơn truyền của Đức Chí-Tôn từ từ tiêu-diệt hết”.

Muốn định thiên vị của mình, quyền Thiêng-Liêng đã buộc hẳn mà chớ (!), phải có tam-lập của mình mới được. Gọi là nhơn-luân, lập điều ấy Bần-Đạo có truyền cho chức sắc Hiệp-Thiên Đài hay trước và dường như đức Trần Khai-pháp đã có thuyết minh điều ấy rồi, Bần-Đạo không cần luận thêm nữa , chỉ nói tại làm sao phải có tam-lập ấy (?) .

Nếu người nào không có tam-lập thì không ở chung với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời, tức nhiên thể pháp , mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có bí-pháp, đạt pháp, đạt đạo. Thể-pháp  mà họ không làm đặng, bí pháp vẫn khó làm sao cho rồi, nếu mà không rồi thì hành tàng của họ hành đạo về bí pháp tức nhiên mê-hoặc chúng sanh mà thôi…Phải có hình mới có Bóng, khi nào thấy bóng tức nhiên  chúng ta quyết-định có hình; bóng, hình phải tương-liên mới đặng.

Ấy vậy tam-lập là: lập ĐỨC, Lập CÔNG, lập NGÔN; con người khi sanh ra nơi mặt địa cầu này không có tam lập thì giá trị của con người không có gì hết , tam-lập ấy quyết-định cho ta, ta phaỉ có mới sống chung với xã hội nhơn quần được.

Nếu con người không có ĐỨC thì làm sao xử sự trong gia đình, ngoài xã-hội đặng.
Con người không có CÔNG thì ở với ai cũng không được, người ta làm ngã-ngửa còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người , với đời thì sống với ai (?).

Cũng như người ta thì chơn-chất thật-thà, hiền-lương, đạo-đức, còn mình thì  xảo-ngữ lường-gạt,không chút dạ nhơn từ dầu cho con người có tài tình thế mấy mà thiếu ba điều đó thì không thế gì sống với ai được hết , như vậy thì địa-vị mình tại mặt thế này chưa rồi .

Bây giờ làm thế nào để lập ĐỨC ?
Lập Đức với vợ con mình được không  ?...Không được. Lập Đức với anh em Tông-đường mình được không  ?...cũng không được . Lập Đức với quốc-gia xã-hội mình được không ?...Hơi khá khá chút… nhưng mà cũng chưa đủ, phải lập đức khắp mặt địa-cầu này… và phải lập-đức với toàn thể nhơn-loại. Nếu muốn được vậy , không ở cửa nào hơn là cửa Đạo; nếu cái đó không cần ích thì Đức Chí-Tôn không cần lập giáo .Phương-pháp của Ngài lập Đạo Cao-Đài là cốt yếu để cho chúng ta lập Đức mình, không đến ở trong cửa Đạo nầy thì không thế gì lập ĐỨC với toàn thể thiên-hạ được.

Bây giờ đến lập CÔNG:
Chén cơm, manh quần tấm áo, ngọn rau tấc đất đều là nợ của chúng ta, nếu không trả được tức nhiên còn thiếu nợ , muốn trả thì lập Công với ai ?... vì tôi chựa biết làm ra chén cơm cho tôi ăn, manh áo tôi mặc  và tôi cũng không biết rõ người ơn của tôi , thì đụng ai tôi trả nấy, tức nhiên tôi phải phụng-sự cho toàn thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này. Bởi nhờ ơn của họ đã làm cho tôi sống, tôi mới trả công ơn cho cha mẹ tôi được. Cha mẹ tôi cho tôi xác thịt chớ không cho tôi manh-quần tấm áo . Cha mẹ tôi có thể cho tôi trí não chớ không cho tôi sống ở xã-hội nhơn-quần , xã hội dạy khôn cho tôi . Cha mẹ tôi có thể nuôi tôi khi còn thơ ấu  chớ không thể nuôi tôi cho đến chết ; như vậy xã hội nuôi tôi , tôi phải trả ơn ấy.

Muốn trả ơn ấy tôi phải lập CÔNG , nhưng không biết lập công với ai, buộc tôi phải trả công cho toàn thể nhơn-loại, không còn có nơi nào khác hơn cửa Đạo, phải vô cửa Đạo mới phụng-sự cho toàn thể nhơn-loại được, vì cớ ấy cho nên Đức Chí-Tôn mới lập giáo.

Bây giờ tới lập NGÔN:
Tôi đi học của đời , tôi bị họ lường-gạt nhiều quá, họ  chỉ giành-giựt với nhau mà thôi , chưa khi nào để Thánh-ngôn lụng lại cho tinh-thần tôi mở-mang , phát huệ, không khi nào họ để lại một chơn-chất ngôn, chỉ ngụy-biện mà thôi . Vậy bây giờ tôi biết khôn rồi , tôi không để họ ngụy-biện với tôi nữa , tự-ên tôi kiếm những Thánh-ngôn của các bậc tiền-bối để lại coi cái gì hay, cái gì thiệt, cái gì đáng, cái gì không đáng.. Quyển sách của các vị ấy để lại cho tôi, Tôi tạo dựng ngôn-ngữ cho tôi. Tôi kiếm Thánh-ngôn nào phải hiền từ, phải chí thánh, chí thiện đặng chi ?.... Dám chắc, muốn đặng tôi bắt chước mà lưu lại cho đời cái thiện ngôn ấy, cái đạo ngôn ngữ ấy kiếm Đạo-ngôn và thiện-ngôn ấy không phải vào hàng cá, hàng tôm, hàng thịt mà có, cũng không phải vào xóm đời mà có được.

Cả một đời kiếm thiện ngôn ấy cũng không khi nào có  nếu không phải trong cửa Đạo, nếu không vào cửa Đạo Cao-Đài nầy. Thánh-ngôn Đức Chí-Tôn đến đã để lại từ thử mà thôi và cả Tam-Giáo nữa. Phải vào Đạo Cao-Đài nầy mới kiếm được thiện-ngôn ấy, tôi kiếm được rồi tôi có thể lập ngôn-ngữ của tôi mà lưu chiếu lại cho con cháu tôi . Chúng ta khi nào mà được ba điều ấy rồi , mới gọi rằng đã phụng-sự cho nhơn-loại.

Tôi lập ĐỨC, lập CÔNG, lập NGÔN tại mặt thế nầy được thì nơi cửa thiêng-liêng kia tôi mới có thể lập vị của tôi được. Hể thiên-hạ đã nhìn nhận cho tôi  có đủ ba điều đó, thì tôi có thể lập-vị của tôi được.

Ấy vậy, khi muốn bước vô Trí-Huệ-Cung phải có đủ tam-lập là: “TU THÂN”, nhưng làm sao biết họ đã lập CÔNG, lập ĐỨC, lập NGÔN của họ rồi, dầu giao cho Bộ Pháp-Chánh cũng chưa chắc điều tra được, bởi nó thuộc về nửa Bí-pháp, nửa thể-pháp.

Bây giờ Bần-Đạo có một điều : “Những người nào xin đến Trí-Huệ-Cung , Bần-Đạo coi màng màng được thì Bần-Đạo trục thần của họ cho hội-diện cùng quyền năng thiêng-liêng , nếu  có tam-lập thì vô, không đủ thì ra”.

e - PHẠM-MÔN LÀ GÌ

Bài Thuyết Đạo của Đức HỘ-PHÁP
Ngày 30 tháng 5 năm Quí-Tỵ (1953).
Hộ-Pháp giảng hai chữ Phạm-môn
(梵門)

Phạm-môn là gì ?
Do nơi đâu mà nảy sanh ra Phạm-môn ?
Phạm-môn là cửa Phật, Phạm là Phật, Môn là cửa, tức là cửa Phật, thật hành là nhà Phật.

Trong “Thánh-ngôn Hiệp-tuyển” trang thứ 119 về khoản thi văn dạy Đạo có một bài thi tứ-tuyệt, chính mình Đức Chí-Tôn giáng cho như vầy:
“ Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm-môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn,
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc Chánh-Tôn”.

Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm-môn là nghĩa gì ?
Nghĩa là: Chí-Tôn kêu cả con cái của Đức Chí-Tôn thức giấc cho mau hiến thân vào cửa Phạm.

Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn nghĩa là: khuyên chúng ta nên ráng tu hành tùng khuôn viên kỷ-luật nhà Phật thì ngày kia đặng siêu-thăng thoát-hóa.

Vô lao bất phục hồi chơn mạng nghĩa là: Đức Chí-Tôn dạy con cái của Ngài nếu không có công lao khổ hạnh trong cửa Đạo thì không thế nào trở về ngôi xưa vị củ cho đặng.

Tỉnh thế kỳ-thân đắc chánh-tôn nghĩa là: nhằm lúc thế-kỷ 20 nầy thời kỳ Đức Chí-Tôn rộng mở cửa Phật độ toàn con cái của Ngài , chỉ khuyên chúng ta ráng tu Tỉnh-Ngộ, hủy cả hành-vi của thế sự, đem thân vào cửa Phạm chịu nâu sồng khổ-hạnh cho đặng, thì tự nhiên đắc Đạo tại thế đó vậy.

Thưa chư chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ, bài thi nầy chính Đức Chí-Tôn giáng dạy trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển hai mươi mấy năm trường song le ít ai để ý tìm hiểu nghĩa lý sâu xa có ẩn nhiều huyền-vi mầu-nhiệm của Đạo.

Do bởi tấm màn bí-mật nên khó nỗi truy tầm, song cũng có lắm người vén màn bí-mật ấy, nên ngày nay nhơn-sanh mới hưởng giọt nước cam-lồ của Đức Chí-Tôn rưới chan cho toàn nhơn-loại.

Đời quá ư bạo tàn, cho nên Đức Chí-Tôn mới giáng trần mở Đạo cho con cái của Ngài biết các ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật đều tình nguyện hạ thế cứu đời, xuống bao nhiêu lại càng mất bấy nhiêu.Trong thời kỳ ấy Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn xuống thế mở Đạo, thì Đức Chí-Tôn mới hỏi rằng: “Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí-Pháp trước hay là Thể-Pháp trước ? Bần-Đạo mới trả lời: “Xin mở Bí-Pháp trước, Chí-Tôn nói: “Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa. Đang lúc đời cạnh-tranh tàn-bạo, nếu mở Bí-pháp trước, cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, Đời thấy rõ xúm nhau tranh-giành phá hoại thì mối Đạo phải ra thế nào ?” Vì thế nên mở Thể-Pháp trước, dầu cho đời quá dữ có tranh-giành phá-hoại cơ thể hữu-vi hữu hủy đi nửa thì cũng vô-hại, xin miển mặc Bí-Pháp còn là Đạo còn.

BÍ-PHÁP là Hiệp-Thiên-Đài giữ.
THỂ-PHÁP là Cửu-Trùng-Đài mở mang bành-trướng về mặt phổ-thông chơn-giáo , thì bên Hiệp-Thiên-Đài Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn mở PHẠM-MÔN   dùng tấm màn bí-mật bao-phủ khuất lấp cả hành-vi, khó ai hiểu đặng.

Mười mấy năm khổ-hạnh nâu-sòng trong cửa Phạm, ẩn nhẫn tạo nên cả cơ thể hữu-tướng dường ấy. Hại thay ! Chúa quỉ biết rõ cơ mầu nhiệm nên mới tương-liên cùng chánh-phủ Pháp tìm hiểu yếu-lý huyền-vi của Phạm Môn liền ra lịnh đóng cửa thì lại nảy sanh ra trăm ngàn Sở PHƯỚC-THIỆN.

Từ ngày Phước-Thiện ra đời cho đến nay thì toàn cả Nhơn-sanh Nam Nữ vào cửa Phước-Thiện này và đạt vị rất nhiều,  đã hiển nhiên y theo bài thi của Đại-từ-Phụ mà Bần-Đạo mới vừa đọc trên đây.

Thưa chư chức-sắc Thiên-Phong Nam, Nữ cơ Đạo của Chí-Tôn giáng lập kỳ ba là cốt yếu cứu vớt Cửu Nhị Ức Nguyên-nhân còn-lẫn lộn trong hàng Tín-Đồ đang vạch lối tìm đường mở ngõ hầu trở về ngôi phẩm.

Trường xuất Thánh của Đạo, Đức Đại-Từ-Phụ mở rộng mà hại thay ! những người giữ cửa rất hẹp hòi, lại quá ư nghiêm-khắc, Phước-Thiện Phạm-Môn ra đời kêu réo mỏi hơi, song hàng nguyên nhân phần nhiều bị đóng cửa chẳng đặng vào thì ngày nào tận-độ chúng sanh mới trọn câu phổ-độ ?

Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, Đức Chí-Tôn có nói rằng: Con người dưới thế này muốn giàu sang phải kiếm phương thế mà làm ra của. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn đắc-đạo thì phải có công-quả. Thầy đến thế nầy lập một Trường Công-Quả .

Vậy các con muốn đạt thủ địa-vị của mình phải đến trường Thầy mà thi-thố, chớ không đi nơi nào khác mà đắc-đạo bao giờ.

Ấy vậy cơ quan Phước-Thiện Phạm-môn là trường thi công-quả của đức Chí-Tôn đến lập sẵn đã có mỗi nơi, làng nào, ấp nào cũng có cơ-sở Phước-Thiện cho toàn đạo hữu ở thôn-quê có chỗ đến đó đặng thi-thố, lập công bồi đức hầu đạt thủ địa-vị thiêng-liêng  Đức Chí-Tôn đã dành sẵn cho mỗi con cái của Ngài.

Cơ-quan Phước-Thiện Phạm-Môn là một đại danh-từ của toàn nhơn-loại chớ không riêng-biệt cho người nào, ngày nay cái màn bí-mật đã vén lên hết rồi, dòm thấy rõ-ràng chớ không còn ẩn-vi như trước nữa.

Vậy Bần-Đạo xin chư chức-sắc thiên-phong Nam, Nữ, chư chức-sắc lưỡng phái, hãy mở hoát cửa thiêng-liêng ra cho cửu nhị ức nguyên nhân lần bước vào Trường-Thi Công-Quả của Đức Chí-Tôn.

Tóm lại, Phạm-Môn Phước-Thiện là trường học của linh-hồn, là một cái thang thiêng-liêng 12 nấc Chí-Tôn đem bắc sẵn-sàng cho thời Tam-kỳ Phổ-độ , chuyển thế kêu gọi tất cả con cái của Ngài hãy rán bước, kẻ trước người sau mà leo lên cho tột nấc thang thiêng-liêng ấy là ngày giờ chúng ta được hội-hiệp cùng Thầy và vui-vẻ nhứt hơn hết nơi cõi Hư-Linh đó vậy.

g – Dục tấn trên con đường thiêng-liêng hằng sống
Đền-Thánh, đêm 13 tháng 8 năm Mậu-Tý (16-9-1948)

Kể từ đêm nay Bần-Đạo bắt đầu thuyết một đề-tài trọng-yếu, đề-tài này phải thuyết nhiều đêm mới hết, bởi thế cho nên cứ mỗi bốn đêm thì thuyết một lần. Bần-Đạo rán thúc nhặt cho con cái Đức Chí-Tôn có một bửu-bối nơi tay, để ngày kia tìm đường đoạt Đạo.
Đề tài đêm nay là “Con đường Thiêng-Liêng Hằng Sống”.

Con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là gì?
- Nếu hiểu theo Chơn-Pháp của Đức Chí-Tôn thì con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống là Con đường dành cho các Chơn-hồn khi thoát xác rồi quay về với Đức Chí Tôn để được định vị thăng hay đọa. Nhưng nếu hiểu theo Triết lý nhà Phật, thì con đường Thiêng-liêng Hằng-sống là con đường của Luân-hồi.

Như vậy, Con đường Thiêng-liêng Hằng-sống là một đề-tài Thuyết-pháp khó khăn, muốn cho toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn thấu-đáo, lãnh-hội đầy-đủ nghĩa-lý sâu xa của đề-tài đó, ít ra phải viết thành sách, mà sách ấy tới mấy ngàn trang là ít.

Ấy vậy, con cái của Đức Chí-Tôn rán nghe và rán đi cúng đặng nghe, để nữa sau khỏi hối tiếc và oán-trách, nói sao Bần-Đạo không cho hay trước, không cho biết trước, để được nghe những điều bí-yếu trong nền Đạo Cao-Đài, những triết-lý cao siêu mà chỉ có Đạo Cao-Đài mới có. Tuy nhiên, âu cũng là một đặc-ân của Đức Chí Tôn dành cho Đạo Cao-Đài ngày nay, nên mới có mấy đứa nhỏ cố gắng học được tốc-ký để ghi chép những lời thuyết Đạo của Bần-Đạo, vì những lời thuyết Đạo này, không phải của Phạm-Công-Tắc mà là của Hộ-Pháp, Hộ-Pháp thay lời Đức Chí-Tôn nói Đạo cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quý hay chăng là ở chỗ đó.

Bần-Đạo may duyên được Đức Chí-Tôn chọn làm Ngự-Mã-Quân của Ngài để thay Ngài lập nền Chánh-giáo, tức là nền Đạo Cao-Đài này để thay thế tất cả Tôn-Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn-Giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương-tri lương-năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn-Giáo ấy ngày nay đã bị bế.

Nhớ lại, từ khi Đức Chí-Tôn chọn Bần-Đạo làm Hộ-Pháp; dạy Bần-Đạo phò-loan và chấp bút, đặc biệt hơn hết là chấp bút, vì nhờ chấp bút, mà Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn dạy cách Tham-Thiền, khi biết Tham-Thiền rồi mới Nhập-định.

Nhưng Nhập-tịnh không phải dễ, chỉ sai một tí, sót một chút là có thể hỏng cả cuộc đời, nhập-tịnh mà không tới thì bị hôn-trầm tức là ngủ gục, còn nhập-tịnh mà quá mức thì phải điên đi mà chớ; nhập-tịnh mà đúng rồi, còn phải nhờ các Đấng Thiêng-liêng mở Huệ-quang-khiếu nữa mới xuất hồn ra được. Con đường mà Chơn-Thần xuất ra rồi về với Đức Chí-Tôn là con đường Thiêng-liêng Hằng sống đó vậy. Chính Bần-Đạo được Đức Chí-Tôn mở Huệ quang-khiếu nên mới được về hội kiến cùng Đức Chí-Tôn và đã học hỏi được nơi Đức Chí-Tôn nhiều điều bí-yếu bí trọng.

Ngày nay, giảng Con đường Thiêng-liêng hằng sống là Bần-Đạo muốn dìu dắt Chơn-thần của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn về với Đức Chí-Tôn qua một hình thức Thuyết Đạo.

… Đề-tài Dục tấn trên con đường Thiêng-liêng Hằng sống: Như hồi nãy Bần-Đạo có nói, nhờ hồng-ân đặc-biệt của Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo được diễm-phúc hội-hiệp cùng Ngài và trước khi hội-hiệp cùng Ngài, Bần-Đạo cũng đã được hội-kiến cùng các Đấng Thiêng-Liêng nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống.

Kể từ đêm nay, Bần-Đạo không Thuyết Đạo, mà Bần-Đạo chỉ nói lại, thuật lại những gì Bần-Đạo đã thấy, đã nghe, đã biết, khi gặp các Đấng nơi cảnh Thiêng-Liêng kia, âu cũng là phương-pháp giúp cho toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn biết trước cảnh đó như thế nào, để nữa có về thì không bỡ-ngỡ.

Bần-Đạo nói, con cái Đức Chí-Tôn nghe, rồi tưởng tượng như mình có một người hướng-dẫn và đi đến đâu thì người hướng-dẫn giải-thích đến đó, tỷ-dụ như người ngoại-quốc đến nước Việt-Nam được một người hướng dẫn và giới-thiệu các thắng cảnh tại Việt-Nam đó vậy”.

h – Ba cách lập vị để về với Chí-Tôn.

Bài Thuyết-Đạo tại Đền-Thánh, đêm 13 tháng 8 năm Mậu-Tý (16-9-1948)
“Con đường về với Đức Chí-Tôn không phải dễ, mà cũng không phải về là tới liền, muốn về với Đức Chí-Tôn ta phải qua nhiều Cung, nhiều Điện; mỗi Cung chúng ta gặp một sự lạ, mỗi Điện chúng ta gặp một huyền-vi khác nhau, phải đi từ Cung này đến Điện nọ,  nên gọi là:
 “Dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống”. Về được với Đức Chí-Tôn thì không còn hạnh-phúc nào bằng.

Một kiếp Tu chưa chắc đã về được với Đức Chí Tôn, muôn năm ngàn kiếp mà nếu thiếu Tu, cũng không khi nào về được với Đức Chí-Tôn, mấy Anh mấy Chị rán nhớ điều đó, mà Tu thì sao?

Trong cửa Đạo Cao-Đài này đã dạy Tu rồi, nhứt là Bần-Đạo đã giảng nhiều rồi, ấy là ta phải: Lập Đức, Lập Công và Lập Ngôn đó vậy.

Mỗi chơn-hồn nơi thế-gian này, khi thoát xác đều phải qui tựu tại Đền-Thánh này và đi từ trong Đền Thánh này đến các cảnh giới khác. Tại sao phải vào Đền Thánh này, mà không vào các Đền-Thánh khác?

 Tại vì Đền-Thánh này tỷ như một trường thi: Mỗi năm Chánh-Phủ mở một kỳ thi như thi Tú-Tài chẳng hạn, địa-điểm đã ấn định rồi, chỉ có thi nơi đó mới có giá-trị: Tòa-Thánh này cũng vậy, Đức Chí-Tôn lập ra để con cái của Ngài lập công, lập đức, lập ngôn  mà về với Ngài.

Vào Đền-Thánh tức là vào Hiệp-Thiên-Đài, đi từ Hiệp-Thiên-Đài đến Cung Đạo, nhưng muốn vào Cung Đạo phải qua Cửu-Trùng-Đài, mỗi nấc của Cửu-Trùng Đài là mỗi lần khảo-dượt của các Đấng Thiêng-Liêng, là mỗi lần cứu-rỗi của Cửu vị Nữ-Phật, là mỗi lần cầu xin của các Đẳng linh-hồn, toàn-thể con cái Đức Chí-Tôn đọc lại mấy bài Kinh từ Đệ Nhứt Cửu đến Đệ Cửu Cửu, đến Tiểu Tường và Đại-Tường thì biết.
Trong cửa Đạo Cao-Đài có ba cách về với Đức Chí Tôn, hay là có ba cách lập vị mình:

Cách thứ nhứt:
Các chơn-hồn mượn xác phàm phải đi theo phẩm trật Cửu-Thiên Khai-Hóa, tức là theo Hội-Thánh Cửu Trùng-Đài, dùng tài sức mình lập công để đoạt Đạo, nghĩa là phải đi từ bậc Đạo-hữu lên Lễ-Sanh, Giáo-Hữu, Giáo Sư... Phải lập công từ Tiểu-Thừa, Trung-Thừa đến Thượng Thừa; phải ăn chay từ sáu ngày mỗi tháng đến mười ngày, rồi ăn chay trường luôn, phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Các chơn-hồn đi theo phẩm-trật Cửu-thiên khai hóa còn phải có tự-tín rồi tha-tín, tức là giác-nhi giác-tha đó vậy. Có tự-tín rồi tha-tín tức là có tự độ mình rồi độ chúng-sanh. Đạo Cao-Đài khác với các nền Tôn-giáo khác là ở chỗ đó; trước hết phải độ mình, độ gia-đình mình rồi độ ngoài thân-tộc, tức là độ cả nhơn-loại vậy; mình phải học để mình hiểu Đạo. Hiểu Đạo rồi, nói sao cho thân-tộc mình hiểu Đạo, chẳng những nói Đạo cho thân-tộc mình biết mà thôi, mà phải nói Đạo cho toàn nhơn-loại nữa.
- Mình học để biết Đạo là lập Đức,
- Nói Đạo cho thân tộc mình biết Đạo là lập Công,
- Độ toàn nhơn-loại là lập Ngôn.
Có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Cửu-Thiên Khai-Hóa.

Cách thứ hai:
Lập vị mình theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng Liêng tức là theo Hội-Thánh Phước-Thiện, nơi đây ngoài việc ăn chay giữ-gìn luật Đạo tùng theo chơn-pháp của Đức Chí Tôn còn phải dùng Đức để lập vị mình.

Muốn Lập Đức phải đi từ Minh-Đức, Tân-Dân, Thính-Thiện, Hành-Thiện, Giáo-Thiện, Chí-Thiện...

Lập đức là gì? Là dùng sự Thương-yêu để cứu độ chúng-sanh mà Đức Chí-Tôn đã có nói "Sự Thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh" là vậy đó.

Các Đẳng chơn-hồn tái kiếp đang chơi-vơi trong “Tứ diệu đề khổ”. Muốn thoát khổ họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ. Người đi theo Thập-nhị Đẳng cấp Thiêng-liêng là dạy người ta thọ khổ để thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ trước hết thì mình phải thọ khổ đã, muốn thọ khổ thì không gì hay bằng dùng đức Thương yêu. Cho nên bậc thứ nhất của Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng là Minh-đức đó vậy.

Có Thương yêu mới thọ khổ được, ta thương Cha Mẹ ta, ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng Cha Mẹ lúc tuổi già, ta thương con ta, ta mới lo tảo lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật nguyền ta mới tầm phương giúp-đỡ họ, mà tầm phương giúp họ là thọ khổ đó vậy.

Thọ khổ rồi mới thắng khổ, thọ khổ không phải một ngày, một bữa, mà phải thọ khổ cho đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi Cha Mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ khi còn bé cho đến lúc nó tự lo cho nó được. Hai điều đó còn dễ, đến lo cho thiên-hạ hết khổ mới khó, vì khi lo người này, hết người này đến người khác và cứ như vậy trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ, có thắng khổ mới về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng.

Cách thứ ba: Cách thứ ba là cách Tu-Chơn hay là cách Tịnh luyện cũng thế.
Những người đi trong Cửu-phẩm Thần-Tiên hay đi trong Thập nhị Đẳng cấp Thiêng-liêng; khi mình nhận thấy là đã Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn rồi. Hay là đã thọ khổ và thắng khổ rồi mà còn sức nữa, thì vào nhà Tịnh để được Tu-chơn. Nơi đây các vị đó sẽ được học phương pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, tức là Tinh-Khí Thần hiệp nhứt là Hườn-Hư đó vậy.(Hườn hư tức là môn Thái dương học đã thành).

TAM BỬU CON NGƯỜI

Bây giờ Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, ba cơ quan tạo nên hình thể con người, Chơn linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên thiên khí; Chơn thần do Hậu thiên khí kết thành, còn xác thịt thì do vật chất mà nên.

Chơn-linh:
Hỏi vậy ta muốn sống đây do cơ quan nào? Ấy là nhờ chơn linh mới có sự sống. Chơn linh có một quyền năng vô đoán, chưa có khoa học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền năng của nó là của Ðức Chí Tôn ban cho. Quyền năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác hình. Chơn thần là Hậu thiên khí, nó bảo trọng vật chất khí.
 Home       1 ]  [ ]  [ 3 ]  [ 4 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét