NỔI LÒNG TRẮC ẨN CỦA NGƯỜI ĐẠO
CAO ĐÀI
* CTS Nguyễn Thị Mỹ Nga
Đã
94 năm "Cửu
Thập Tứ Niên" Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáng ban cho nước Việt Nam một nền Quốc Đạo, Ngài xưng
danh mình là Đấng AĂÂ "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" hay còn gọi Ngài là Đức CHÍ TÔN là Giáo
Chủ Vô Vi của ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ gọi tắt là Đạo CAO ĐÀI hay là
THIÊN ĐẠO tức ĐẠO TRỜI.
Đức Chí Tôn
dạy: "Các
con ôi,Thầy là Chúa Tể Càn Khôn Thế Giái sanh ra muôn loài vạn vật,
trải qua bao nhiêu cuộc tuần hoàn, dinh hư tiêu trưởng, đó là sự mầu
nhiệm của Thầy đã định sẵn. Vì vậy mà đến buổi hạ ngươn.Thầy đến
xứ Việt Nam này để Khai Đạo, kêu gọi các bậc nguyên nhân hảy sớm lập
công bồi đức, hướng dẫn toàn thể sanh linh sớm tỉnh tu, để về cỏi
Thiêng Liêng Hằng Sống, hoặc hướng đời Thượng Ngươn Thánh Đức".
Thầy dạy các
Tín đồ đều có sứ mạng thực hiện Tôn Chỉ của Đại Đạo là "Tam Giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhứt". Hiện nay các con cái của Thầy có
mặt khắp nơi ở Hải Ngoại "Nam Bắc rồi cùng ra ngoại quốc,
Chủ Quyền Chơn Đạo một mình TA". Đức Đại Từ Phụ ngầm bảo
chúng ta đưa con người có Tôn giáo đến tầm vóc Đại Đạo truyền bá
hoằng khai khắp nơi trên thế giới để đi đến Thế giới Đại đồng: "Thế
Đạo Đại Đồng, Thiên Đạo Giải Thoát".
Nhưng Cơ Đạo ở
Hải Ngoại người Đạo chúng ta chưa phát triển được nhiều về cơ sở
vật chất cũng như về mặt tâm linh, trao giồi đức hạnh, Tu tấn để dìu
dẫn Anh trước em sau để về với Cha Mẹ Thiêng Liêng Hằng Sống.
Đức Hộ Pháp
giảng về Quyền Năng của Đạo Cao Đài 1948: Đạo là sự sống của vạn
loại, nhất là thánh thể của Hội Thánh.Hội Thánh là hình ảnh Thiên
Lương của Đức Chí Tôn.
Hội Thánh
trong Đạo Cao Đài tổ chức theo một đại gia đình, anh cả tức Giáo Tông,
em nhỏ tức Chánh Trị Sự còn gọi là Giáo Tông Em, đều là con cái
của Đức CHÍ TÔN. Vì "Sự Thương yêu là chìa khóa mở cửa Tam
Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự
Thương yêu, thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi". TNHT,tr,43.
Hiện nay Hội
Thánh Em, tức Chức Việc Bàn Trị Sự ở Hải Ngoại hay trong quốc nội
cũng vậy phải tùng theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Bát Đạo Nghị
Định…mà hành đạo nơi tư phương mình để tìm phương tận độ chúng sanh
trong thời kỳ Đại Ân xá này, chúng ta được đặc ân của Ngài ban cho
nắm quyền làm Thánh Thể cho Ngài, cho nên chúng ta phải làm sao cho
xứng đáng làm anh cả trông nom dìu dắt đàn con của Thầy, vì anh cả
ấy phải làm Cha làm Thầy. Nhưng ngặt một điều là mình không xứng
đáng mà thôi, không đủ tánh đức thay thế cho Ngài…Do không đủ Tánh
Đức: "Liêm và Sĩ" trong tám đức hạnh: Hiếu, Để, Trung,
Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Si. Nên người "Vô Liêm" điều gì
cũng dám tranh, Kẻ "Vô Sĩ" cái gì cũng dám làm.
Cổ ngữ có
câu: "Dùng nhân nghĩa và Đức hạnh trị sửa người
là Đạo. Dùng Đạo trị sửa Quốc Gia thì Quốc thái dân an, thiên hạ
thái bình. Dùng quyền hành và sức mạnh trị sửa người chính là ác
bá. Dùng ác bá trị sửa quốc gia thì hậu hoạn vô cùng tận.Mà Thể
Đạo thì ắt loạn."
Người xưa phân
Đức ra thành tám loại, được gọi là Bát Đức hay Bát Dân. Ý nghĩa là
nếu một người thiếu tám loại đức này thì không phải là con người.
So với thời
xưa thì hiện nay giá trị Đạo đức như Liêm và Sĩ đã không còn được
coi trọng nữa, thậm chí càng ngày càng suy bại, không coi trọng Bát
đức cũng là nguyên nhân căn bản của các hiện tượng suy đồi trong xã
hội và trong các Tôn giáo ngày hôm nay. Do đó làm người ,không thể
không tu dưỡng hai hạnh đức Liêm và Sĩ.
Liêm: tức là
liêm khiết, là một phẩm đức quan trọng của nhân loại. Liêm bao gồm ý
nghĩa liêm khiết và tiết kiệm, thanh đạm. Người xưa nói: "Liêm
là cội nguồn của phú quí". Không
tham lam được coi là Liêm. Liêm thường được kết hợp với Thanh "Trong sạch" thành Thanh Liêm, nghĩa là không tham lam
trong sạch, trong trắng. Suy nghĩ sâu thêm thì thấy Liêm có khởi nguồn
từ Sĩ, tức là xấu hổ, hổ thẹn. Vì người biết Sĩ ắt sẽ không tham.
Sĩ: là Tâm hổ
thẹn.Đức Khổng Tử nói: "Các hành vi của mình phải biết hổ
thẹn". Nghĩa là biết giữ mình, biết rằng việc làm bừa tùy
ý là việc đáng hổ thẹn.
Mạnh Tử nói: "Con
người không thể Vô Sĩ, không biết hổ thẹn".
Khổng Tử còn
nói: "Biết hổ thẹn là biết gần với dũng cảm". Người
biết hổ thẹn thì khi đứng trước tiền tài sẽ không tham, khi ở cảnh
khốn cùng cũng không khuất phục. Người có Liêm Sĩ sẽ biết khiêm tốn,
biết nhượng bộ , hiểu được nên lựa chọn hay buông bỏ. Bất kể là tu
dưỡng cá nhân hay là khí tiết dân tộc thì Liêm và Sĩ đều là "Lãnh
Đạo" của Lương Tri .
Một người
biết hổ thẹn sẽ luôn luôn ước thúc hoặc kiểm soát hành vi của mình
để không trái với Đạo đức. Vì vậy người biết Liêm Sĩ cũng là người
dũng cảm. Bởi vì biết hổ thẹn nên họ luôn luôn tự xem xét lại hành
vi đức hạnh của mình. Người biết hổ thẹn sẽ dũng cảm đối diện với
những sai lầm của mình, và vượt lên chính mình, đó chính là cái
dũng.
Mạnh Tử nói: "Không
có tâm xấu hổ về cái ác, cái xấu của mình thì không phải là con
người". Ông cho rằng người biết xấu hổ nhất định phải có
đạo đức tốt đẹp.Họ sẽ không bị danh lợi mê hoặc.
Chu Hy nói: "Người
có Liêm Sĩ thì có những việc không nên làm". Tức là người có tâm hổ thẹn sẽ làm những
việc không nên làm. Người có biết hổ thẹn nhất định có ý chí kiên
định. Khi đối diện được và mất, nghĩa là lợi, cộng đồng và cá
nhân, họ không bị dục vọng thao túng, khống chế.
Lã Khôn, Học
giả đời Minh nói: "5 loại hình phạt không bằng một chữ Sĩ".
Ông cho rằng Giáo dục để người dân hiểu được Liêm Sĩ qua trọng hơn
hình phạt nặng nề. Bởi vì khi đạo đức mọi người được nâng cao, họ
sẽ biết nên làm thế nào và điều gì không nên làm, biết đúng sai,
thị phi, thì cũng không cần dùng đến hình luật nữa. Do đó Nho giáo
vô cùng coi trọng giáo dục, Đạo Cao Đài xem giáo dục là tiên phong,
hình pháp là phù trợ.
Người xưa coi
các tiêu chuẩn đạo đức là cái gốc để cải biến con người.
Người xưa thanh
liêm như thế nào? Khi Bao Thanh Thiên thọ 60 tuổi Ông kiên quyết không
nhận bất kỳ lễ vật nào, của bất kỳ người nào đem tặng. Không ngờ,
người đầu tiên chúc mừng và tặng quà cho Ông lại là đương kim Hoàng
Thượng Tống Nhân Tông. Trên bửa tiệc, Thái Giám viết bốn câu thơ:
"Đức cao trọng vọng nhất phàm
gian,
Đêm ngày vì nước tựa Ngụy Trưng,
Hôm nay Hoàng Thượng mang quà tặng,
Chối từ nhận lễ lý chẳng thông."
Bao Thanh Thiên
xem xong lấy bút viết tiếp 4 câu thơ bên dưới:
" Thiết diện vô tư tấm lòng
trung,
Làm quan kỵ nhất cứ kể công,
Vì nước đêm ngày là trách nhiệm,
Chối từ nhận lễ giữ thanh liêm."
Thông qua bài
thơ chối từ nhận lễ vật của Bao Thanh Thiên đã thể hiện sự Liêm
chính của Ông, và cũng được Hoàng Thượng khen ngợi, bá quan trong
triều và bách tính tôn kính.
"Theo
BLdaily".
Đức Hộ Pháp
dạy: Trong đám anh em chúng ta tại đây, hay quì ngồi kiết tường, cùng
sắp nhỏ kia, trong đàn cúng, trong đó cũng có những vị Phật Tiên
giáng thế, nhưng còn chờ chúng ta lập vị cho nó…Chúng ta cần phải
trau giồi Đạo đức: "Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ.
Hầu dạy dỗ đàn em lo tu tấn để Hoằng Khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Còn
nằm trong thời kỳ ĐẠI ÂN XÁ của Đức CHÍ TÔN". LTĐ, tr. 103.
Nhưng các Anh
Chị lớn thì bảo thủ, độc tài, độc quyền, không chơn thật, không tìm
tòi học Đạo, thiếu kém Đạo hạnh tài đức, còn các em nhỏ ngày nay
khoa học tiến bộ, thời kỳ internet Càn Khôn Dĩ Tận Thức các em học
hỏi hiểu biết nhiều về mặt thế. Nhưng chưa hiểu thấu thấm nhuần nền
Chơn Đạo của Đức Chí Tôn, bậc đàn anh cần phải trao giồi đức hạnh
,am tường giáo lý giảng dạy cho các em nghe về Đạo Đức, về Luật
Thương Yêu và Quyền Công Chánh.Về Bát Đạo, về Giáo Lý …
Đức Hộ Pháp
dạy: "Cây cờ
cứu khổ của CAO ĐÀI là Thương Yêu và Công Chánh. Phải thực hiện hai
điều ấy thì Hòa Bình và Hạnh Phúc mới đến với chúng ta."
Từ thuở Tam
Giáo có Thích Đạo Nho. Luật Tam Giáo có Luật hình gồm cả tôn chỉ
của Tam Giáo có 2 phần:
1 / - Pháp
Chánh Hiệp Thiên.
2 / - Hình
Luật Tam Giáo.
Tại sao Ngài
Giao cho Hiệp Thiên Đài? Từ Ngôi Giáo Tông cho đến ngôi Đầu Sư, giữa có
các ngôi Chưởng Pháp.Nếu không Pháp chánh do Hiệp Thiên Đài nắm giữ
là gì?... Pháp Chánh lập quyền cho con cái Đức Chí Tôn, có hàng
phẩm quyền hành thứ tự, đẳng cấp giao cho Hiệp Thiên đài sắp đặt
không cho loạn, nếu loạn hàng thất thứ thì Đạo bị tiêu diệt…Đạo Cao
Đài không lấy nguyên chất của Tam Giáo mà chỉ lọc lược chơn truyền
của các Tôn giáo mà tổng hợp lại…
Hình luật Tam Giáo
để định án chăng? Con người chỉ quí cái Tâm và hạ sanh xuống đây ít
nữa phải có căn nguyên,mà mình không biết rõ đó thôi. Bần đạo dám
chắc, dầu cho một vị Phật đến tại thế gian này, mang thi hài xác
thịt cũng quên hết, cửa huệ quang bí lối, không tự biết mình, không
tự xét mình, không hiểu phẩm vị mình vì mang xác phàm. Duy có Đấng
toàn năng, toàn tri,toàn thiện,toàn mỹ là CHÍ TÔN mới tránh khỏi
chuyển kiếp luân hồi mà thôi. Ngoài ra không một vị Phật nào tránh
khỏi luân hồi cả.
Chí Tôn muốn
cho con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao? Phải đem cả thảy vô
đạo, tắm rửa cho sạch sẽ, làm cho thiên hạ gần nhau, phải vì thương
mến kính khen mà gần, vì tôn sùng yêu ái mà gần. Cho nên Hình Luật
Tam Giáo là nước Cam Lồ vậy…
Tội có quá
nặng, nếu mình biết ăn năn tự hối, tự tu thân, tự giác tấm thân đặng
rửa tội, mình tu một mình "Tu Chơn" dầu Hội Thánh
không biết tới, mình cũng vẫn tu vì có Đức Chí Tôn chứng giám, ngày
kia về cỏi Thiêng Liêng Chư Thần Thánh Tiên Phật đẹp dạ, hả lòng tiếp
rước trọng thể hơn nhiều. Danh vị lập được của kẻ bình thường đâu
bằng người biết ăn năn sám hối. LTĐ: ĐHPtr/106-108 .
Cho nên Đức
Chí Tôn đến ký Hòa Ước với Nhơn sanh chỉ có hai khoản thôi :
1 - Luật Thương
Yêu.
2 - Quyền Công
Chánh.
Từ thuở ta
chưa thấy cái Hòa ước nào đơn giản như thế mà nó oai quyền làm sao?
Khó có thể thực hiện đặng. Nhưng với thời gian Đạo Cao Đài làm thế
nào, tìm cách nào để đem hạnh phúc đến cho nhơn loại, tạo Hòa bình
cho thiên hạ Đại Đồng Thế Giới.?
Đạo Cao Đài
được hình tướng Thương Yêu Vô Tận. Nó có nét đẹp thiên nhiên là nhờ
câu viết Thương yêu. Quyền Đạo ngày nay do Thương yêu mà thành tướng.
Vậy Đạo đã do Luật Thương Yêu thành tướng thì không có quyền năng nào
tàn phá nó cho đặng. Vì Nó nên hình bởi sự thương yêu, Nó trưởng thành
bởi sự thương yêu. Bởi hình chất của sự thương yêu, hễ càng lớn lên
nó càng tráng kiện. Nó sẽ làm Chúa cả Thù Luật và Quyền Lực.Thù
Hằn không thể xâm lấn nó được.Và Đạo Đức trong "Bát Đức"
là giềng mối, khuôn khổ của Đạo hạnh Từ bi và lòng Bác Ái. Không
có sức mạnh nào tàn phá hay hủy hoại người có tánh hạnh Đạo đức
được. Chúng ta cần sớm thức tỉnh, hồi đầu hướng thiện tu hành: "
Hảy Tu cho thật, hành cho thật, nói cho thật thì mới đắc Đạo đặng."
“Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát”
"Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên
Tôn”.
"Nam Mô Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên
Tôn”.
Texas, ngày 20/09/2020. ÂL, 04/08/ Canh Tý.
* CTS / Nguyễn Thị Mỹ Nga
2
QUỐC ĐẠO KIM
TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO
* CTS Nguyễn Thị Mỹ Nga
Giải
nghĩa: Quốc thành hình qua nhiều thời gian, trên dưới ngàn năm trước Công-nguyên, chữ quốc là nước,
được viết chữ khẩu 口 giữa
chữ nhị 二 một giới hạn không
gian (二), trong giới-hạn đa có tồn tại
con người (口). Sau đó,
khỏang trên dưới hai ngàn năm trước
đây, chữ quốc được gắn thêm một phù hiệu nữa là qua (戈) tượng-trưng cho dáo mác, vũ-khí lực-lượng võ-trang. Rồi đến khỏang
1.500 năm trước đây, chữ quốc được gắn thêm một phù hiệu nữa, bộ vi (口), thành QUỐC 國, biểu thị sự cố định về
cương-giới, sự hoàn chỉnh của một quốc-gia, sự gắn bó của tập thể người sống trong quốc-gia đó, sự toàn vẹn và
bất khả xâm phạm của lãnh thổ đất nước.
Lý Thường-Kiệt đã nói “Nam-quốc san-hà Nam-Đế cư" Nghĩa
là sông núi nước Nam phải do vua Nam
cai-trị, để tỏ rõ khí khái của một anh hùng hào kiệt gánh trọn gánh đời.
Năm 1926. Đức Chí Tôn mở Đạo, NGƯỜI trao cái gánh Đạo nặng
oằn vai cho Đức Hộ Pháp phải Qui nguyên Tam giáo Phục nhứt Ngũ chi lập thành Quốc
Đạo đó là nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Trong bài thuyết đạo của Đức Hộ Pháp vào ngày 30-9 Đinh Hợi.
Ngài giảng rằng:
" - Hai chữ Quốc Đạo lần đầu Đức Chí Tôn viết ra làm
cho Bần Đạo mờ mịt, cũng vì hai chữ Quốc Đạo ấy mà Phạm Công Tắc chết năm 35 tuổi.
Lấy thân theo đuổi làm cho ra thiệt tướng.
" Ôi ! hai
chữ Quốc Đạo là một vật của Bần đạo tìm tàng rồi mới biết khôn, khởi điểm biết
thương nòi giống, biết thương Tổ quốc, đeo đuổi mất còn với cái muốn khát khao
từ buổi thanh xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần Đạo thấy
sao mà phải thèm lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều ấy
mà cho Bần Đạo?
Bần Đạo ban sơ
nghi hoặc,
có lẽ Đấng có quyền năng thiêng liêng biết tâm lý đang nồng nàn ao ước, đương thèm lạt khao khát, đương tìm tàng
mà đem ra cám dỗ.
" Hại thay !
Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần Đạo ăn năn quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy gì? Cả
thiên hạ nói rằng nòi giống Việt Nam không có Đạo. Lạ lùng thay! Chúng ta tự hỏi
có thật vậy chăng?
"Thật quả
có chứ ! có nhiều Đạo quá mà thành ra không có Đạo: mượn Đạo, xin Đạo của
thiên-hạ mà thôi". (ĐHP: 30-9 Tân-Hợi)
Đức Chí-Tôn lần
này giáng trần lập Đạo, Ngài không giáng thân như bao lần trước mà Ngài sai Hộ-Pháp
giáng sanh cùng với Thập-nhị Thời-quân đến, cốt yếu mở bí-pháp đặng vạn linh đoạt-vị
.
Quyền-hành của Hộ-Pháp
nắm cả ba châu là :
- Đông thắng Thần-châu.
- Tây ngưu hạ-châu
.
- Nam-thiệm bộ
châu .
Trong số bốn
châu ở cõi thiêng-liêng, còn một châu là Bắc cù lưu châu giao cho Kim-Quan-sứ
lãnh trách-nhiệm làm Giám-khảo kỳ này để khảo-duợt chư Chức-sắc Thiên-phong cho
rõ giá vàng thau lẫn-lộn.
Chính Đức Hộ-Pháp
là người đã dày công với nền Đại-Đạo từ buổi khởi đoan cho đến giai-đọan kết
thúc cuộc đời của Ngài, 35 năm vày-vã dựng xây từ tinh thần đến vật-chất, bao-nhiêu
thành-quả mà ngày nay nhân-sanh đang hưởng nhờ bởi bàn tay của Ngài, thế mà đến
lúc cỡi hạc qui Tiên vẫn còn nuối tiếc.
Lời lẽ gói tròn
trong bài thài mà Ngài đã giáng điển linh ban cho, khi xác tục chưa vào chiếc
liên-đài để lịm kín .
THI
" Trót đã ba
năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy
phút vui tươi.
Nào hay vạn sự do thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống-chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi-vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn-pháp,
Tô-điểm non sông Đạo lẫn đời."
* CTS / Nguyễn Thị Mỹ Nga.
3
NGƯỜI ĐẠO ĐỨNG
TRƯỚC NGÃ BA ĐƯỜNG.
* CTS Nguyễn Thị Mỹ Nga
Lời
dạy của Đức Hộ Pháp: Bần Đạo dắt mấy em đi đến ngã ba đường, em
nào biết thì đi, không biết đứng đó chờ Bần Đạo”.
Chúng ta định
tâm sẽ thấy Thánh ý trên đây rất rỏ ràng chúng ta đang đứng trước
ngã ba đường , chúng ta có hai con đường để lựa chọn là con đường
Chánh, con đường Tà, và một là nếu không biết đứng đó chờ Thầy.
Quan trọng là
chúng ta biết hay không biết, Đức Hộ Pháp nhấn mạnh câu nói: "…Em
nào biết thì đi,không biết đứng đó chờ Bần Đạo." Biết là phân
định rõ Chánh Tà hai lẽ. Đức Chí Tôn dạy khi mới Khai Đạo:
" Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà,
Chánh Tà hai lẽ đoán sao ra,
Sao ra Tiên Phật người trần tục,
Trần tục muốn thành phải đến Ta
".
Trên đây là 4
câu thi của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng Cơ năm 1926:
Câu 1: Lẽ
Chánh tự nhiên có lẽ Tà.
Lẽ Chánh là
chánh đáng, chánh trực ngay thẳng, chơn thật, là con đường ngay thẳng Đạo
đức, nhân nghĩa bác ái, công bình.
Lẽ Tà là cong
vạy, xéo xiên, giả dối, là con đường gian tham, độc ác xảo trá, quỉ
quyệt, vô đạo đức, không nghĩa nhân.
Câu 2: Chánh
Tà hai lẽ đoán sao ra?
Lòng người
khó đoán, Chánh Tà khó biệt phân, nên con người muốn đi ngay thẳng,
trước hết phải giữ cái tâm cho chơn chánh, ngay thật, đạo đức, tức
Chánh Tâm trước rồi mới Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ,
nghĩa là cái tâm chơn chánh theo ý thiện, nương theo Chánh Đạo, thuận
tùng Thiên lý.
Muốn giữ cái
tâm chánh là phải thành ý,tức là giữ cái ý cho thành, không để tư
tưởng buông lung phóng túng theo đường tà vạy, mới kềm giữ được ý
tưởng ấy thì định được cái tâm chánh. Tâm chánh là người có đạo
Đức, nhơn nghĩa công bình, chánh trực. Trung hiếu, trung tín biết
nghĩa, thanh cao, thanh liêm.v.v..
Đó là người
đời, còn người đạo cũng thế ,song người hành đạo phải giữ đúng
luật pháp chơn truyền của đạo,không canh cải, sửa đổi theo tà đạo, mê
tín di đoan nghịch lại với Chánh tâm "Là Tà tâm".
Tà tâm là
người vô đạo đức, bất chánh, bất nghĩa, bất trung, bội sư, phản bạn,
bội tín, lường gạt, dua nịnh, gian thần, tham lam ích kỷ, bần tiện,
xảo trá, điêu ngoa, quỷ quyệt, v.v...
Vì vậy chúng
ta phải nhận định những yếu tố trên để phân định được hai lẽ Chánh
Tà. Để chúng ta tìm tòi học hỏi chơn lý của Đạo, mà hể là Chơn lý
của Đạo thì bất biến, tức không thay đổi gọi là Chơn pháp, mà Chơn
pháp tức là Bí Pháp đó vậy.
Người Tu muốn
tìm Chơn lý trọn vẹn bất biến phải công phu rèn luyện quán chiếu
mọi hành tàng diễn biến trong không gian xuyên suốt thời gian không
gián đoạn học hỏi tìm hiểu cặn kẽ trong Tân Luật Pháp Chánh Truyền
thuộc về Bí Pháp, là chơn pháp bất di bất dịch đến Thất ức niên
của môt Hội Thánh lưởng đài là Cửu Trùng Đài và HiệpThiên Đài.
Cửu Trùng Đài
là Thể Pháp có thể bị thay đổi hình thức về phần xác, còn Hiệp
Thiên đài là phần hồn của Đạo thuộc về Bí Pháp bất biến vĩnh cửu
trường tồn. Cho nên Hiệp Thiên Đài còn là Hồn Đạo còn. Nhưng hiện nay
nền Đạo chinh nghiêng, Đền Thánh bị Tà quyền chiếm ngự, Cơ Khảo thí
dành cho các thí sinh nhập vào trường thi Long Hoa Hội, khiến cho đồng
đạo khó phân định được hai lẽ Chánh Tà, vì Đạo khai Tà khởi: "
Lẽ Chánh tự nhiên có lẽ Tà" , suy diễn thêm có chơn thật thì
mới biết sự giả dối, có thiện tự nhiên có ác,có nhơn nghĩa ắt có
bạo tàn,có người quảng đại thì có kẻ hẹp hòi, hễ có thương thì
có ghét, có người quân tử ắt có kẻ tiểu nhân…
Cho nên nơi cõi
Thiêng Liêng còn có quỉ ma lẩn lộn, huống lựa là phàm trần "
Vàng thau lẩn lộn " . vì là cơ khảo thí, Thầy đã ban cho
Kim Quan Sứ làm chánh chủ khảo kỳ thi Long Hoa đang hồi khốc liệt.
Nếu không lấy
lương tâm tinh thần trí nảo xét đoán cho sáng suốt là sẻ bị Tà mị
bủa giăng, lộng giả thành chơn, làm những điều huyễn hoặc sai trái
mà chúng ta không hay biết ,đến khi sa hầm, sụp hố, gây nên một trường
ngôn luận, nhiều tai tiếng thị phi, làm mất danh thể Đạo , và người
đạo mờ hồ không biết đâu là thật, đâu là giả, đâu là con đường về
với Cha Mẹ Thiêng liêng,thì thật là đau khổ biết bao,có công không
được thưởng mà còn mang trọng tội với Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và
các Đấng Thiêng Liêng, nặng tội hơn nữa thì bị Tận đọa Tam Đồ Bất
năng thoát tục.
Còn như biết
nhận xét, học hiểu thực hành theo thánh Ngôn, Giáo Lý, Tân Luật Pháp
Chánh Truyền, thì tiếp tục đi theo con đường về Bạch Ngọc Kinh, tức
cỏi Thiêng Liêng Liêng Hằng Sống.
Còn như không
biết, thì người tu giữ dạ trung kiên, hiếu hạnh, không vướng vào danh.
lợi, chức phẩm quyền hành, trở về Tu tại gia, Tu Tâm, hay Tu Chơn… để
chờ ngày " Giáng Linh Hộ Pháp Di Đà" Giáng cây Ma Xử đuổi
Tà trục Tinh”.Vì Ngài Cầm Quyền Chưởng Quản nhị Hữu Hình Đài, tức
Cầm Quyền Chí Tôn tại thế.Như lời Đức Hộ Pháp đã dặn dò:
"…Không biết đứng đó chờ Bần Đạo ".
“Đức Hộ Pháp
là một vị Giáo Chủ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là một Bậc Vĩ Nhân
của Thế hệ, Ngài là một trong các vị Tiền Bối Khai sáng nền Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã thực hiện trước chủ thuyết Tam lập:Lập đức,
Lập công, lập ngôn…".
" Đức
Ngài mở Cơ Quan Phước Thiện, Phạm Môn… Ngài dạy :Hiệp Thiên Đài là
gốc Đạo có Đức Chí Tôn Chủ quản nắm quyền hành thưởng phạt, tất
cả đều do mạng lịnh từ Hiệp Thiên Đài. Có nghĩa là từ tín đồ cho
dĩ chí đến Chức Sắc Thiên Phong đều phải tùng theo Pháp Chánh Hiệp
Thiên Đài, nghĩa là tùng Đấng Chủ quyền tối cao của Hiệp Thiên Đài.
Cho nên chúng
ta phải giữ vững đức tin, biết phân định Chánh tà trong buổi loạn
Đạo, quan trọng là phải giữ căn bản từ trong kinh sách, Giáo lý,
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật Pháp Chánh Truyền, Bát Đạo Nghị Định,v.v…của
Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng.
Nhất là trong
cửa Đạo, người hành đạo phải giữ cái Tâm cho ngay chánh, chơn
thật,để làm gương cho nhơn sanh, quên đi cái bản ngã thường tình và
cố gắng tu sửa phụng sự nhơn sanh, tức là quên mình lo cho người với
cái tâm trong sáng, dầu trong bất cứ cảnh ngộ nào cũng chung lưng đâu
cật, đồng cam, cộng khổ với các bạn đồng hành, dìu dẫn nhau tu học
trên bước đường Tu giải thoát kiếp luân hồi vay trả, trả vay hầu trở
về ngôi xưa vị củ nơi cỏi Thiêng Liêng Hằng sống.
Nếu như không
thể biết chơn giả thế nào,không trở về tu tại gia<đứng chờ> .
Lại cố tình theo Bàn Môn Tả Đạo, tức là về nơi Bích Du Cung "Cù
Lư Châu" của Kim Quan Sứ. Mà hại thay: " Kẻ nào làm môn đệ
của Tà Thần tinh quái thì khó làm môn đệ của Thầy".
Luật công bình
thưởng phạt một mãy lông cũng không lọt, vậy chúng ta khá cẩn trọng
giữ mình hễ có Tà, thì có Chánh, biết giả thì phải tầm chơn, cũng
không nên ngồi ở ngã ba đường chờ Tôn sư Hộ Pháp, vì chờ thì tinh
thần tu không tiến bước, mà rốt ráo không biết vàng thau, Chơn giả,
Chánh Tà thì mới đứng chờ kẽo sa chân vào đường Tà mị thì tội
nghiệp lắm thay.
Nhưng nếu
chúng ta có đức tin vững mạnh phải cố gắng tìm hiểu cho được Chơn
pháp, để chúng ta tiếp tục đi. Đi tìm Đấng đã được chơn truyền chủ
quyền Đạo là Đấng Vi chủ Bộ Công Di Lạc Tam Kỳ Độ Sanh, Đấng ấy là
Giáo chủ hữu hình thay Đức Chí Tôn khai mở Đạo giáo hóa dạy dỗ nhơn
sanh, tức ông Thầy tại thế đã để lại cho chúng ta một kho tàng Bửu
Pháp , để chúng ta học hiểu đạo mầu chính là: Tam Châu Bát Bộ Hộ
Pháp Thiên Tôn, từ Tam Thiên Thế Giới giáng lâm qua Thánh Thể Phạm Công
Tắc. Đức Ngài thay thế ngôn ngữ của Đức CHÍ TÔN, tức nhiên lời nói
Đạo của Ngài là lời nói của Đức CHÍ TÔN .Giáo hóa dìu dắt chúng
danh thấy con đường siêu thoát và tạo dựng cho chúng sanh bến bờ Bỉ
ngạn ,giải thoát kiếp luân hồi vay trả.
Như vậy con
đường này là con đường của Đức CHÍ TÔN, nếu không đi thì đi con đường
nào?...Cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh nằm trong Bí Pháp Đạo Cao
Đài là do nơi đó.
Chúng ta hảy
tự quán xét, tự chính mình tu sửa, cho ngay chánh chơn thật và phải
tự biết rõ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu là ai? Đức Hộ Pháp giảng:
" Phật Mẫu ban sơ đến Ngự Hiệp Thiên Đài làm MẸ chữ KHÍ… Phật
Mẫu đến Thế cầm quyền lập Đạo tạo khuôn viên hữu hình xong rồi giao
lại cho CHÍ TÔN… Phật Mẫu đến trước, CHÍ TÔN đến sau cầm Bí Pháp là
để muốn cho con cái mình đoạt Đạo." Là mong muốn chúng ta về
hội hiệp với Cha Mẹ Thiêng Liêng nơi cỏi Thiêng Liêng Hằng Sống đó
vậy. Kính mong thay.
* Nguyễn
Mỹ Nga.
4
LUẬN HAI CHỮ HÒA VÀ ĐỒNG.
* CTS Nguyễn Thị Mỹ Nga
1 / - HÒA: Là thuận tình , thỏa ý, hòa hiệp cùng nhau và
không tranh giành ,hơn thua, cao thấp,
giỏi dở, mạnh yếu.
2 / - ĐỒNG: là kết
bầy rập bạn, lập đoàn thể nầy ,tổ chức kia, rồi dẫn nhau đi theo một đường lối
riêng , lý tưởng riêng, phương hướng riêng.
Vã chăng, ai ai
cũng nhận thức rằng, người ta ở đời không phải một mình sống riêng mà dựng xây
nên cơ đồ sự nghiệp cho được. Giả như muốn làm một điều gì mà một mình trơ trọi,
ắt không rồi, hoặc có rồi cũng không hay. Lẽ dĩ nhiên cần có đông người trợ
giúp lẫn nhau, công lao đồng chung cọng huởng thì việc gì cũng đắc thành. Nhơn
dịp cùng chung cọng sự đó, người ta mới có cơ hội biết nhau ,thân nhau và biết
phân biệt ra ai là người quân tử, ai là kẻ tiểu nhơn;nhờ sự phân biệt hai hạng
người nầy là nhờ hai chữ HÒA và ĐỒNG.
Rút kinh nghiệm
trong đường Đời và Đạo, trong cuộc sống ,phương xử thế, giao thiệp, người ta thấy
rằng: Người quân tử Hòa mà bất Đồng, còn kẻ Tiểu nhơn Đồng mà bất Hòa.
***_Quân tử ví
như nấu một thức ăn, cần có ngũ vị chua, cay, mặn, ngọt, đắng. ngũ vị không đồng
chất , hoặc khác mùi, nhưng cả thãy được điều hòa và bổ khuyết cho nhau làm ra
thức ăn ngon lành,( hợp khẩu vị người ăn, cảm thấy sảng khoái thích thú). Nhờ tương
tế cho nhau nên Hòa thì hết sức Hòa và không vì lẽ bất Đồng chất hay bất đồng vị,
mà làm cho tương khắc, tương phản với nhau.
Cách cọng sự cửa
người Quân Tử là thế! Không phân biệt hạng người cao, kẻ hạ, người giàu kẻ
nghèo, người khôn kẻ dại. Bậc quân tử tự hạ mình ngang hàng với kẻ khác và giữ
tánh như nước. Không để mất niềm hòa khí giữa mình và thiên hạ. Làm như vậy là
đem ích lợi chung, tạo được sự HÒA tức là tạo cái yên bình cho Quốc gia và xã hội.
**Tiểu nhơn ví
như làm một, giống đồ ăn có ngũ vị, nhưng mà mặn không hòa với cay, chua không
hòa với đắng, hễ mặn thì dắt nhau thiệt mặn, cay thì hiệp nhau rất cay. Đồng
thì vẫn có đồng thiệt, nhưng mà không Hòa được. Cách cọng sự của Tiểu nhơn là
thế. Họ chỉ trọng về Tư Lợi, kẻ tiểu nhơn mượn cái lượng làm thể lực, chớ không
san bằng giá trị tuyệt đối của sự vật, cho nên trong cách xử sự, hoặc thái hóa,
hoặc bất cập, có thể đi đến bạo phát ,nhưng rồi là bạo tàn, vì chổ bất Hòa mà
ra vậy.
Người Quân Tử sự
loạn nên chuyên chữ HÒA.
Người Tiểu Nhơn
sự HÒA rồi thất lợi.
Hai tư tưởng và
hai cách xử sự chữ HÒA khác nhau . Nhưng chung qui phần thắng về Quân Tử (Quân
tử là Chánh,Tiểu nhơn là Tà. Tức Tà không bao giờ thắng Chánh.).
Trong cửa Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ là cửa hằng ngày HỘI THÁNH QUYẾT SÁCH VẬN TRÙ . Để tìm CHƠN PHÁP
trừ Mị diệt Tà, hầu dìu dẫn nhơn sanh và qui cả Thiện Lương vào nơi ĐẠI ĐỒNG
THÌ KHÔNG THỂ ÁP DỤNG CÁI THUYẾT” Đồng Nhi Bất Hòa” của Tiểu Nhơn hay “Hòa Nhi
Bất Đồng “ của Quân Tử. TRÁI LẠI, PHẢI KIÊM CẢ HÒA VÀ ĐỒNG ĐẶNG ĐÔI BÊN PHÒ TRÌ
NHAU MỚI ĐI ĐẾN ĐÍCH.
Khác với Đời là
như thế! Và được như thế mới đạt ĐẠO LÝ LÀM NGƯỜI TRONG CỬA ĐẠI ĐẠO.
Vậy phải thi
hành chánh sách gì? Tức là phải cư xử mọi việc cho CÔNG BẰNG; ẤY LÀ HÒA VÀ
THƯƠNG YÊU DUNG CHẾ CHO NHAU: ẤY LÀ ĐỒNG.
-HÒA thời thật
HÒA vì không còn so hơn tính thiệt, ganh hiền ghét ngỏ, mưu hại lẫn nhau.
-ĐỒNG thời thật
ĐỒNG coi Ta như Người, không phân giai cấp, không phân biệt sắc tóc màu da, yêu
thương nhau, không hề rời bỏ nhau cho đặng.
ĐAI ĐẠO TAM KỲ
PHỔ ĐỘ HOẰNG KHAI TRONG THỜI ĐẠI NHƠN SANH TÁC LOẠN CHỈ CÓ BẤY NHIÊU ĐÓ MÀ
THÔI: “HÒA VÀ ĐỒNG”./.
TX, Ngày 14/09/2020(ÂL, 27/07/Canh Tý)
* Tín Đồ Nguyễn Thị Mỹ Nga
5
BÍ QUYẾT ĐỂ GÌN
GIỮ CHỮ HÒA.
* CTS Nguyễn Thị Mỹ Nga
Lời
Đức Hộ Pháp:
Trong Bí pháp
Qua viết chữ “Hòa”... Qua gởi hai chữ
“Hòa Ái” nơi lòng mấy em...
Qua cầu xin mấy
em có một điều là chung sức cùng nhau đặng
tạo hạnh phúc cho nhau.
Phứ dụ cứa Đức Hộ
Pháp trong lễ Khánh thành chợ Tân dân (Qui thiện)
Từ lâu trong đời
sống gia đình và xã hội, cũng như ngay trong cửa Đạo, ai ai cũng thừa nhận rằng,
phải giữ được chữ “hòa” thì gia đình mới thịnh vượng, xã hội mớí thái bình, cơ
Đạo mới thống nhất và phát triển. Nên Đức
Chí Tôn đã dạy rằng:
" Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng chung một Đạo tức một Cha.
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau một chữ Hòa."
*
Thi văn dạy Đạo.
Bất cứ ai
cũng biết rằng chữ “hòa” là quý, nhưng rồi nhiều gia đình
vẫn xung khắc chia ly, trong xã hội vẫn đầy dẫy sự xung đột phân hóa... Ngay
trong lãnh vực Tôn giáo cũng phân chia chi phái kích bác chống đối lẫn nhau...
điều nầy có người cho là do Thiên cơ khảo đảo thử thách. Nhưng theo thiển ý chúng tôi thì cũng do sự bất hòa
mà ra.
Đức Hộ Pháp đã cảnh
báo rằng:
“Hễ một hành
tàng nào cứa chúng ta, mà làm cho con người rối loạn, ly tán, ngỗ nghịch tức
nhiên phạm tội thiêng liêng ... thì chúng ta sẽ là tội nhân đệ nhứt cứa nhân loại
vậy” (Trích thuyết Đạo đêm 14 tháng 9 Mậu
tý (1948) về sự Điều hòa Càn Khôn Vũ trụ).
Sự bất hòa nầy
không chỉ xuất hiện trong đời sống hằng ngày cứa nhân thế, mà ngay ra trong
các tôn giáo cũng đã đến mức báo
động... Về sự kiện nầy. Nhà truyền giáo Cơ Đốc Joyce Meyer đã cảnh báo rằng:
“Tinh thần bất
hòa đang phá hoại Hội Thánh, hầu như còn nhanh hơn cả việc Chúa xây dựng Hội
Thánh, đây là mưu chước cứa Quỷ vương, mà hầu hết tín đồ đều không nhận ra
nguyên nhân vì đâu mà xảy ra nan đề nầy, nhất là đối với những người đã được sự
hổ trợ che chở cứa Chúa” .
Sự bất hòa nó
đang tác hại nghiêm trọng như vậy, nhưng ít ai để tâm cái nguyên nhân do đâu ?
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân tại sao nảy sinh ra sự kiện nghiêm trọng
nầy... khiến cho sự thực hiện chữ “hòa” lại khó khăn đến như vậy. Ngay cả trong
cửa Đạo hầu như toàn là những người ít nhiều cũng đã thấm nhuần được đạo nghĩa... mà vẫn không gìn giữ được chữ hòa, để
đến nỗi xảy ra sự hình khắc chia ly, làm tan vở sự đoàn kết trong nội bộ.
NGUYÊN NHÂN XÃY RA VỤ BẤT HÒA.
Ai cũng biết Hòa
là quý, mà bởi từ đâu... và do ai... dẫn đến sự bất hòa chia rẻ nầy, sự kiện Đức
Chí Tôn đã khẳng định rằng:
“Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết Đấng Cao Đài.
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai
"
*
Thi văn dạy Đạo.
Như vậy Đức
Chí Tôn đã xác nhận rằng sự mất đoàn kết đưa đến phân chia phe phái là do từ
con người, chứ không phải là
do Thiên ý. Vì Thượng Đế tạo ra con người là một hữu thể tự
do, Ngài ban cho con người có quyền quyết định lấy số phận cứa mình, đoàn kết hay chia ly là do mình
chon lựa, Ngài duy chỉ vì thương
yêu nên ân cần dạy bảo mà thôi.
Có một nguyên
nhân rất dễ dàng nhận thấy là trong chúng ta không mấy ai chịu chấp nhận cái
nguyên lý “nhất nguyên” là âm dương tương hợp, mà cứ cố chấp vào “nhị nguyên”
xem âm là âm, dương là dương, cái phải là phải, mà trái là trái, chứ ít người
chịu nhìn nhận cái nhất nguyên: “âm dương là một, phải trái là một...”. Nên mới
xảy ra sự bất hòa, dẫn đến ly tán.
TỊNH CHẤT VÀ
NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG.
Chúng ta thừa biết
rằng theo tính chất Âm Dương, thì Dương là lửa, là nóng, là trắng, là thiện, là
quân tử, là tích cực.... Còn Âm thì trái lại là nước là lạnh, là đen, là điều
ác, là tiểu nhân, là tiêu cực v.v...
Vậy cái gì tạo
ra âm dương ? Đó là cái “một”, đây là một khái niệm quen thuộc trong triết học
Đông phương: Nên thiện luôn đi đôi với ác. Tốt luôn đi đôi với xấu, do đó tốt xấu
là một, thiện ác là một, như hai mặt cứa một tờ giấy, tương tự như trước sau,
trên dưới, tả hữu là một, ngay cả họa phước, vinh nhục cũng là một... Tất cả đều
là một, không có cái gì thoát ra khỏi cái một đó cả. Cái một đó là “Đạo” là
chân lý, người ngộ Đạo là người thấy được cái “Một”, là một thể “thống nhất âm
dương”. Tóm lại âm dương là hai mặt cứa Đạo.
Trong nguyên lý
Âm dương Đức Lão Tử đã nói rằng:
“Vạn vật phụ âm
nhi bảo dương, xung khí dĩ vi hòa” (muôn vật đều cỏng âm và ôm dương, hai khí ấy
đụng chạm nhau, nhưng hòa với nhau / Lão Tử Đạo đức kinh).
Nên chúng ta thấy
từ những đại tinh cầu trong không gian, cho đến những hạt nguyên tử ly ty trong
cơ cấu vật chất, đều hàm chứa hai lực lượng tương phản nhưng tương thành nầy.
Theo Dịch lý thì
âm dương có tính cách tương đối, không có vật gì độc âm hay cô dương mà tồn tại,
vì độc âm thì bất sanh, cô dương thì bất trưởng. Âm Dương lại hổ căn chuyển hóa
lẫn nhau, hễ Dương cực thì Âm sinh, Âm cực thì Dương sinh, trong Thái âm có Thiếu
dương, trong Thái dương có Thiếu âm ...
Nên mọi người, mọi vât, mọi hiện tượng, cũng chỉ là sự đấu tranh, chuyển hóa và
thống nhất, giữa hai mặt đối lập là âm dương. Đây là phép biện chứng cứa triết
học Đông phương.
Nên chúng ta thường
thấy trong thiên hạ, hết loạn đến trị, hết chiến tranh đến hòa bình, và ngược lại...
cứ tiếp nối lẫn nhau. Đời là vậy... Thiên hạ là vậy... Cơ Đạo cũng vậy... Nhưng
cái cốt lỏi là do Tâm cứa con người, vì Đức Phật dạy rằng: “Tâm bình, thế giới
bình”. Tâm bình là cái tâm liễu ngộ được nguyên lý Âm dương. Ngài Trần Đoàn Lão
Tổ đã nói rằng: “Nhược năng liễu ngộ âm dương lý, thiên địa đô lai nhứt chưởng
trung” (nếu liễu ngộ được nguyên lý âm dương thì trời đất gom lại trong lòng
bàn tay).
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA THIỆN -ÁC,PHẢI
TRÁI.
Theo quy luật cơ
bản cứa Đạo học thì “Âm Dương là một”, nên “thiện ác” là một, “phải trái” là một.
Mới nghe thì có vẻ phi lý, nhưng thật ra vấn đề âm dương, thiện ác, phải trái
nó chỉ có tính chất tương đối, ác là mặt trái cứa thiện, thiện là mặt trái cứa
ác, như hai mặt cứa một chiếc mề-đay, không thể rời nhau, mà nó còn lồng vào
nhau nữa.
Chúng ta thử đi
vào chi tiết thì sẽ nhận ra ngay: sự phải đối với người nầy, nhưng trái với người
khác, phải lúc nầy nhưng trái lúc khác, phải nơi nầy nhưng trái ở nơi khác. Lại
nữa, tuy cùng một thời điểm, nhưng tùy nơi sự kiện phải trái xảy ra, và vị trí,
lập trường, cũng như nhãn quan và trình độ cứa từng người, mà sự nhận định cũng
khác nhau, như trường hợp một cái cây thẳng cắm xuống nước, thì có ngưòi lại cho
cái cây ấy cong, vì dưới mắt mọi người đều thấy cái cây cong... Hơn nữa vấn đề
phải trái nó cũng hàm chứa lẫn nhau, như trong cái phải có cái trái, mà trong
cái trái có cái phải. Mặt khác, không có ác thì làm gì biết được thiện ra làm
sao? Không có trái thì làm sao biết phải là thế nào?
Sự thật quá rõ
ràng như vậy, nhưng trong chúng ta không mấy ai chịu chấp nhận cái nguyên lý ấy,
nên mới dẫn đến hình khắc chia ly.
Ở đây cần lưu ý
quan điểm cho “thiện ác là một”, không phải Đạo học cho thiện ác ngang nhau, hoặc
khuyến khích làm điều ác. Vì người Đạo thì phải luôn hành thiện tỵ ác là lẽ
đương nhiên. Nhưng có ý khuyên người Đạo nên nhìn vào thiện ác cứa nhân thế một
cách khoan dung. Theo Nho gia thì người có lòng nhân nên ẩn ác dương thiện,
nghĩa là không nên chú ý tới điều ác cứa người, chỉ nên biểu dương điều thiện cứa
họ. Còn người tách biệt thiện ác, để phỉ bán, dèm pha, là hạng tiểu nhân hiểm
ác...
Còn nếu muốn góp
ý xây dựng với ai, thì một Chơn sư khuyên rằng:
“Con tưởng rằng
kẻ nào đó làm quấy, nếu có dịp tỏ riêng, thì con phải nói cho có lễ phép với va
vì cớ nào con không đồng ý. Có lẽ con làm cho va tin được. Nhưng nhiều trường hợp
can thiệp như thế cũng không phải cách nữa. Vì con phải để cho kẻ khác được tự
do như con”. (Krishnamurti / Dưới Chân Thầy)
Kết luận.
Theo chơn truyền,
thì người tu phải thực hiện được hai chữ Hòa và Nhẫn, mới có thể nhập vào Niết
bàn, vì Đức Chí Tôn đã phán rằng:
“Phương pháp độ
rỗi, chỉ khuyên lơn các chơn linh dầu Nguyên nhân hay Hóa nhân đoạt được hai chữ
Hòa và Nhẫn mới về Niết bàn được. Dầu cho vạn kiếp sanh dày công tu luyện mà
còn ganh ghét, thì sẽ bị vào tay Chúa Quỷ, chớ không mong gì về cùng Thầy...”
(Theo Tam thập lục thiên du ký cứa Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc).
Thật vậy ngay
trong một gia đình mà trên dưới hòa thuận và nhường nhịn lẫn nhau, thì dù ở
trong túp lều tranh nhưng cũng sánh được với Động Đào nguyên rồi.
Tóm lại vấn đề
then chốt muốn đạt được chữ Hòa, chúng ta cần phải nhận chân Âm Dương là một,
phải quấy là một... không thể nào loại bỏ cái nầy để lấy cái khác. Nếu chúng ta
nhận ra cái “Một” đó, thì chúng ta ngộ Đạo, và trong xử thế mới có thể nhẫn nhục,
khoan dung, tha thứ, thương yêu, hòa hợp với nhau, và tất cả những xung đột, bất
hòa sẽ giải quyết một cách ổn thỏa. Ngay vấn đề đoàn kết nội bộ tôn giáo, cũng
sẽ thực hiện một cách dễ dàng.
Còn nếu chúng ta
cứ cố chấp, khăn khăn nhìn phải là phải, trái là trái, hễ còn cái nầy thì phải
loại bỏ cái kia, thì ngay trong một tôn
giáo với nhau, cũng đã chia năm xẻ bảy ra rồi...!!! Như vậy thì vấn đề đoàn kết
thống nhất và hòa đồng trong gia đình, ngoài xã hội, ngay trong trong cửa Đạo vẫn
còn rất xa vời, nếu không muốn nói là “ảo tưởng”. Dã Trung Tữ.
Texas,ngày 08/09/2020 ÂL 21/07/Canh Tý.
* CTS,Nguyễn Thị Mỹ Nga
6
BẤT TRI KỲ DANH CƯỜNG DANH VIẾT ĐẠO
* CTS Nguyễn Thị Mỹ Nga
Giải nghĩa: không biết gọi là gì nên miễn cưỡng gọi là Đạo.
Lời bàn: Đạo vẫn một khí không hình, không ảnh, không tiếng, không hơi, nói
rộng ra thì trên trời dưới đất, bao la vũ-trụ, san-hà, thấu đến ngoài càn-khôn
thế-giái đều hiển-nhiên. Đạo có thể lưu-hành; nói gần lại thì một sợi tóc, một
mảy lông ở người thì một hơi thở vô ra; loài cầm thú thì bò, bay, máy, cựa đều
y-nguy đạo-lý.
Đạo rất lớn, rất sâu, rất rộng mà cũng rất nông, rất kín, rất nhiệm, rất mầu,
không chỗ nào mà không có Đạo, không sự gì không có Đạo, mà cũng chẳng thấy
hình trạng Đạo ra thế nào! Có thể nói rằng ấy là một không-khí giữa trời đất,
người đối với không-khí đó chẳng biết kêu là chi nên phải chế ra chữ Đạo mà nói
cho nhơn-sanh dễ hiểu.
- Luận về Thiên-đạo thì ban ngày có mặt trời, ban đêm có mặt trăng và các
vì tinh tú. Sao Cơ chủ gió, sao Tất chủ mưa, sao Vân-hán nắng hạn đều có phần
hành riêng. Một năm chia ra làm bốn mùa:
- Mùa xuân thuộc Mộc bông hoa tươi-tốt.
- Mùa hạ thuộc Hỏa nóng-nực.
- Mùa thu thuộc Kim mát-mẻ.
- Mùa đông thuộc Thủy lạnh-lẽo.
Mỗi năm mỗi tuần-hoàn vận-chuyển. Cuối rốt rồi trở lại ban đầu, chứ thiên-đạo
không hề sai!
- Lụận về địa-đạo: núi thì cao, sông thì sâu, biển thì rộng, chỗ đất bằng
thì nhân-dân ở, cây cỏ chen lấn, châm rễ sanh chồi, thú vật sâu bọ đào hang
khóet lỗ trên mặt đất tuy chưa ra đông, tây, nam, bắc bốn phương nhưng sản vật
hình thể trên địa cầu này chỗ nào cũng đều y nhau như vậy, chứ địa-đạo không hề
dời đổi.
- Phối hợp với trời đất là Người thì nhơn-đạo rất có qui-mô rõ-rệt, dễ hiểu.
Đứng làm trai ra gánh vác non sông là trách-nhiệm của quốc-dân phải giữ
lòng chí chơn, chí chánh; Gái thì trọn nghì trinh-liệt; tam tùng tứ đức vẹn
toàn, cũng như trai tam cang ngũ thường vậy.
Thầy có dạy:
Đạo là gì? Sao gọi Đạo?
“Đạo tức là con đường để cho Thần, Tiên, Thánh, Phật đọa trần do theo mà hồi
cựu vị. Đạo là đường của các nhơn-phẩm do theo mà lánh khỏi luân-hồi. Nếu chẳng
phải do theo Đạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm.
“Đạo nghĩa-lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học
các nghĩa huyền-bí khác cho đích-xác đặng.
“Đời cũng thế, Đạo cũng thế, chẳng Đạo chẳng nên đời, đời Đạo chẳng trọn, lấy
Đạo trau đời, mượn đời giồi đạo, Đạo nên đời rạng giũ áo phồn hoa nương bóng khổ
trăm năm mãn cuộc tự thanh-cao, nếm mùi tự-tọai, dưỡng chí thanh-nhàn còn có
chi hơn ..
“Vậy là mầu, Vậy là trí” (TNII/bài 1- Bính-Dần-1926) .
Thầy cũng nhắc nhở cho nhân-sanh thấy cảnh trần sầu mà nong-nã, bởi ngày
nay Đức Thượng-Đế đã đến với một tình yêu ái vô lượng vô biên; Đời có gì để
ham, để luyến?
Chẳng qua nơi đây là trường oan-nghiệt làm nơi để tiến-hóa cho các cho các
nguyên-nhân đến đây học hỏi hoặc làm thiên-mạng, khi xong nhiêm-vụ rồi tất cả đều
phải trở về:
Vả lại Ông Thầy Trời đã ban cho dân-tộc Việt-Nam này một mối Đạo quí-hóa vô
cùng:
“Đạo đã lập thành, gót trần của phần nhiều Môn đệ hầu rửa sạch bợn, nhưng
các con phải chịu lắm nỗi gay-go mà gieo mối chánh-truyền cho đoàn hậu tấn.
Gương sáng đã giồi nên, mà con thuyền Bác-nhã phải tùy máy thiên-cơ, lắm phen lắc-lở
đắm chìm biết bao khách.
Ấy là những Môn-đệ vô phần, đã chẳng giữ nét thanh-cao lại mượn thói vạy tà
để làm cho bợn nhơ mối Đạo quí báu của Thầy đã lấy đức háo-sanh mà khai hóa.
Con đã để dạ ưu-tư về mối Đạo, đã lắm lần trêu cay ngậm đắng mà nhuộm nét nâu sồng,
mong trau rạng mảnh gương để soi chung bước đường sau mà lần đến cảnh tự-tọai
thung-dung tránh bớt muôn điều phiền-não.
Ấy là Môn-đệ yêu dấu, khá gìn mực
ấy mà đi cho cùng nẻo quanh co, cân công-quả sẽ vì phần phước mà định buổi
chung qui cho mỗi đứa.
“Còn cuối kỳ tháng sáu đây thì Thầy phải ngưng hết cơ bút truyền Đạo. Các
con sẽ lấy hết chí-thành đã un-đúc bấy lâu mà lần hồi lập cho hoàn-toàn mối Đạo.
Nầy là mấy lời đinh-ninh sau rốt khá lưu tâm. Ai vạy tà nấy có phần riêng, cứ
giữ nẻo thẳng đường ngay bước đến thang thiêng-liêng, chờ ngày hội-hiệp cùng Thầy.
Ấy là điều quí báu đó!” (TN I/ 111) Thật là cao sâu lắm vậy:
Thi Văn dạy Đạo
" Đạo cao thâm! Đạo cao thâm!
Cao bất cao, thâm bất thâm.
Cao khả xạ hề ! thâm khả điếu !
Cao thâm vạn sự tại nhân tâm."
* Nguyên Thủy.
* CTS,Nguyễn Thị Mỹ Nga.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét