Ngài
Lý Thái Bạch, Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Lễ vía của Người mỗi năm
vào ngày  L:18-8. Ngài inh năm 701. Lý Thái Bạch chào đời
tại làng Thanh Liêm huyện Chương Minh, tỉnh Tứ Xuyên, miền Tây Vực, là quê
hương Tổ Phụ của Thân Mẫu, nay là một tỉnh của lục địa Trung Hoa. Ngài sinh
cùng thời Võ Tắc Thiên cướp ngôi nhà Ðường . Truyền thuyết nói rằng: Thân Mẫu
Ngài nằm mộng thấy sao Trường Canh rồi sinh ra Ngài rất là đỉnh ngộ, nên lấy
tên là Lý Thái Bạch, sanh nhằm năm Trường An nguyên niên đời Ðường Trung Tông .
Gia phả là hậu duệ của Lý Quản đời
Hán, là cháu chín đời của Vũ Chiêu Vương nước Lương, cuối đời Tùy khoảng năm
610 .
Vào một hoàn cảnh nào đó Thân Phụ
và cả gia đình phải bỏ trốn sang Tây Vực sinh sống, mãi đến khi Triều đại của
Võ Tắc Thiên suy sụp, cả gia đình của Ngài mới trở lại Lục địa, vào lúc Ngài vừa
lên bảy tuổi .
Năm 707. Ngài Lý Thái Bạch học tại
núi Hoa Sơn được mấy năm, nhưng đèn sách không thông chữ nghĩa, bởi cá tính học
đâu quên đó, Ngài Lý Bạch bỏ lại chiếc ghế nhà trường, chào Thầy từ giã bạn học
ra về không vui, trên đường về dọc theo triền núi Hoa Sơn gặp một cụ Bà đương
ngồi mài một cái chày tay bằng sắt. Ngài Lý Bạch đi ngang qua hỏi, cụ Bà không
thèm để ý đến tình đời thế sự đang ở chung quanh và cũng chẳng màng ngó lại .
Ngài Lý Bạch hỏi cụ Bà:
" Xin lỗi Bà, vậy chớ Bà
mài chày sắt làm chi mà có vẻ chăm chỉ miệt mài lắm vậy ?.
Bà cụ liền trả lời:
" Ta ở nơi đây xa chợ búa, lại chẳng có tiền để mua
kim .
Dụng ý ta mài chày này để làm kim, khâu vá áo quần "
Miệng vừa trả lời, tay không ngừng
nghĩ có vẻ chăm chỉ với một tốc độ quyết liệt mài chày sắt hơn trước và cũng chẳng
buồn ngó đến ngài thư sinh .
Ngài Lý Thái Bạch hỏi thêm :
" Thỏi sắt thì to như thế,
mà cụ Bà mài như vậy biết bao giờ cho thành kim được ? .
Cụ Bà đáp rằng :
" Nay không rồi thì mai rồi và cứ tiếp tục mãi như thế
.
Ta cứ cố chí mài mãi như vầy thì một ngày kia sẽ thành kim
" .
Ngài Lý Thái Bạch hiểu nghĩa ý của
cụ Bà và xin từ giã .
Ngài vội vã trở lại trường, từ ấy
Ngài đem hết tinh thần đặt vào sự học như Bà cụ mài kim, khối phép lạ thông
minh ấy đến với Ngài như mở ra một chân trời rực rỡ .
Vài tháng sau Ngài đọc dược Lục
giáp. đến 10 tuổi Ngài thông hiểu Thi Thư và thường xem sách Bách gia, vào tuổi
thiếu thời Ngài đã lừng danh thông kinh sử .
Năm 715. Ngài Lý Thái Bạch xem kiếm
pháp là một nghệ thuật và thường làm các bài phú mô phỏng cố nhân, gởi thơ đến
Hàn Kinh Châu và bài phú ngạo Tư Mã Tương Như .
Năm 716. Ngài Lý Thái Bạch cùng với
Ðông Nham Tử đi ở ẩn tại phía Nam núi Dân Sơn .
Năm 720. Ngài Lý Thái Bạch trở
thành mẫu người lừng danh hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài, trọng chí anh hùng
hào hiệp, có lúc Ngài cùng làm việc dưới trướng của Thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được
Tô Dĩnh ca ngợi là Thiên tài, có thể sánh ngang hàng với Tư Mã Tương Như .
Năm 723. Ngài Lý Thái Bạch ngao
du nhiều nơi danh lam thắng cảnh miền Ðông Nam như :
Tương Hán, Ðộng Ðình, Kim Lăng,
Dương Châu, Nhữ Hải .
Năm 725. Năm Khai Nguyên thứ 23,
Ngài Lý Thái Bạch đi đến miền Thái Nguyên [1], xin tha cho Quách Tử Nghi đang bị
giam trong quân ngũ .
Rồi chu du Tề, Lỗ, và trú ngụ tại
Nhiệm Thành. Nơi đây, Ngài với Khổng Sào, Phủ Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Ðào Cái,
Trương Thúc Minh cùng đến núi Tố Lai ngao du, say sưa tại Trúc Khê, kết
tình thi phú đặt hiệu là " Trúc Khê lục dật " ( sáu nhà ẩn dật
ở Trúc Khê ) .
[1] Không phải tỉnh Thái Nguyên
miền Bắc Việt Nam ngày nay .
Năm 726. Ngài Lý Thái Bạch đến
Vân Ðông vịnh thơ trường ca sông núi và lập gia thất cùng với cháu gái của Hứa
Tướng Công, sinh hạ được 4 người con, 3 trai và 1 gái .
Năm 730. Ngài Lý Thái Bạch bắt đầu
tiếng tăm lừng lẫy, thơ kỳ tài, tuyệt bút được vang danh một vùng trời Trung
Hoa, ở vào triều đại Thịnh Ðường, qua nhiều bút hiệu như :
Lý Thái Bạch, Trường Canh, Thanh
Liêm Cư Sĩ và Lý Trích Tiên .
Năm 735. Ngài Lý Thái Bạch đến đất
Quảng Lăng gặp được Ngụy Hạo .
Cải hai thi nhân cùng xuôi thuyền
vào sông Tần Hoài, rồi đến Kim Lăng .
Tháng 11/735, An Lộc Sơn làm phản
ở phía Bắc Trường Giang, Lý Thái Bạch vào Lư Sơn, ẩn dật tại Bình Ðiệp .
Năm 740. Ngài Lý Thái Bạch trở về
quê hương sống với cuộc đời trăng gió, tiêu dao ngày tháng, uống rượu làm thơ,
thật là nhàn tản .
Năm 742. Niên hiệu Thiên Bảo,
Ngài Lý Thái Bạch cùng với nhà đạo sĩ Ngô Quân đi chơi ở Cối Kê ngụ tại Thiểm
Trung .
Rồi Lý Thái Bạch theo Ngô Trung về
ngụ ở Trường An. Nơi đây Lý Thái Bạch gặp Hạ Tri Chương đang tại chức Thái Tử
tân khách .
Hạ Tri Chương nói rằng :
" Lý Thái Bạch là một Trích Tiên giáng trần ".
Từ đó, Lý Thái Bạch và Hạ Tri
Chương trở thành đôi bạn thơ rượu, ngày tháng đối ẩm ngâm thơ vịnh phú. Hạ Tri
Chương tiến cử Lý Thái Bạch với Vua Ðường Minh Hoàng, vua Ðường Minh Hoàng mời
vào điện Kim Loan phụ trách việc thảo thư, và dâng lên nhà vua thiên :
" Tuyên Ðường hồng do
" và thảo tờ " Ðáp Phiên thư
".
Ngài giúp Vua Ðường Minh Hoàng thảo
tờ thư " Ðáp Phiên Thư " bằng tiếng Tây Vực, là nhờ thuở nhỏ Ngài sống
nơi quê Mẹ, được dạy dỗ thông thạo tiếng miền Tây Vực .
Ngài Lý Thái Bạch rất được sự tin
dùng và quý trọng của Vua Ðường Minh Hoàng, Vua ban rượu quí và phong chức Hàn
Lâm Học Sĩ, chuyên giữ việc tín mật. thời gian ở Trường An Ngài kết giao rất
nhiều thi hữu như :
Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi,
Vương Tiến, Tô Tấn, Trương Húc, Tiều Toại, Lý Thích Chi và lấy hiệu là " Tửu
trung bát tiên " (Tám vị tiên rượu ) .
Ngài Lý Thái Bạch rất ưa rượu, rượu
vào thơ sản sinh những tuyệt tác, cho nên những thi hữu đương thời tặng cho
Ngài bút hiệu Tửu Trung Tiên .
Ở Trường An, Lý Thái Bạch làm thơ
rất nhiều, có thể đúc kết thành thời kỳ sáng tạo của Trích Tiên :
- Theo Tập tự của Ngụy Hạo, một
hôm Lý Bạch đang say. Vua triệu vào, sai thảo tờ xuất sư chiếu, ông không thảo
mà trái lại viết thành sách Quốc sử của Lý Thiệu, có lần ông đang ở Hàm Lâm .
Lý Bạch uống rượu say quá đà, nhà
vua phải sai quân cận vệ phun nước vào người cho tỉnh để soạn nhạc từ .
Ngài tỉnh lại, vẩy bút viết luôn
mười chương không suy nghĩ .
- Theo Tùng Song Lục của Vi Duệ,
có lần vua Ðường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi đi dạo và ra thưởng hoa mây gió
.
Vì muốn làm vui lòng Dương Quý
Phi nên vua liền cho mời Ngài Lý Thái Bạch đến và sai làm tân từ nhạc khúc tấu
.
Ðang lúc say lúy túy, vẩy bút viết
một mạch thành ba bài " Thanh Bình Ðiệu ". Và cho nhạc khúc tấu, hát
hay tuyệt vời, rồi cũng vì bài " Thanh Bình Ðiệu " ấy, mà Ngài Lý
thái Bạch bị trở ngại trên bước quan trường.
Có lần vua thấy Ngài mang giày cũ
và truyền cho giày mới,
Ngài Lý Thái Bạch liền giơ chân
cho Cao Lực Sĩ, bảo phải cởi giày cho Ngài. Cao Lực Sĩ không dám cãi lời rồi
làm theo. Nên sau này Cao Lực Sĩ trả thù, lấy ý gièm pha trong bài " Thanh
Bình Ðiệu " bởi có hai câu thơ ví Quý Phi với Triệu Phi Yến, một cung nhân
thất sủng ngày xưa, tấu với Quý Phi và có lần Vua Ðường Minh Hoàng ý định phong
quan cho Ngài, sung chức cao thì đều bị Quý Phi ngăn cản và bàn ra .
- Cũng theo sách của Ngụy Hạo,
Ngài Lý Thái Bạch không tiến thân trên con đường hoạn lộ được là bởi sự gièm
pha của Trương Ký .
Năm 745. Ngài Lý Thái Bạch vì
chán ngán nơi Trường An nên xin về quê cũ và được Vua Ðường Minh Hoàng ban tặng
rất nhiều vàng bạc. Từ đó Ngài ngao du khắp chốn như :
Phía Bắc : nước Triệu, Ngụy,
Tề và Tấn .
Phía Tây : đất Bân, Kỳ,
Thương, Ư và Lạc Dương .
Phía Nam : Sông Hoài, sông Tứ và
Cối Kê .
Ngài thường đi lại miền Tề, Lỗ (
vì nơi đây gia đình Ngài đang sinh sống ) .
Năm 745-755. Ngài Lý Thái Bạch
làm cánh chim thơ phiêu bạt được
10 năm, ở các miền Lương, Tống và
kết thân rất nhiều thi nhân văn sĩ, vang danh cùng thời như: Cao Thích, Sầm
Tham, Ðỗ Phủ " Ðỗ Phủ kém Lý Thái Bạch 12 tuổi ".
Năm 758. ( Năm Càn Nguyên nguyên
niên đời Túc Tông ) Ngài Lý Thái Bạch vì nể lòng thương bạn hữu là Vĩnh Vương
Lân, nên chiều ý ra giúp bạn tại Phủ Ðô Ðốc, đến khi Vĩnh Vương Lân tạo phản bỏ
trốn, Ngài Lý Thái Bạch cũng trốn theo bạn và bị khép vào án tử hình. Nhờ Quách
Tử Nghi nhớ ơn Ngài Lý Thái Bạch giúp ngày xưa, xin giải quan chuộc tội cho
Ngài .
Ngài Lý Thái Bạch được giảm tội tử
hình và phải bị đi đày Ngài được tha tội tại Vụ Sơn, vừa vào tuổi 59 chủng bị
cho lục tuần, Ngài ra khỏi tù vỗ cánh bay thẳng đến Hán Dương .
Năm 760. Ngài Lý Thái Bạch đến đất
Trì Châu, An Khánh ( thuộc tỉnh An Huy ), để tìm chất liệu thi phú cuối cùng của
một đời lãng mạn đi tìm núi non, mây, trăng, gió và rượu .
Năm 761. Ngài Lý Thái Bạch đến
Kim Lăng, Tuyên Thành rồi Lịch Dương để sống những ngày vật lộn với tuyết
sương .
Năm 762/ Ngài Lý Bạch đến
Ðang Ðồ, rồi ở trọ tại nhà người cùng họ tức Lý Dương Băng, đang tại chức huyện
lệnh Ðang Ðồ .
Ðến tháng tư thì Vua Ðại Tông lên
ngôi, có ý mời Ngài Lý Thái Bạch ra làm quan và phong chức Thập Di .
Năm 11/762. ( Nhằm năm hiệu Bảo Ứng
nguyên niên ) Ngài Lý Thái Bạch mang trọng bệnh qui Thiên, hưởng thọ 62 tuổi.
Theo Ðỗ Phủ, Vương Ðịnh Bảo và Hồng
Dong Trai, thì Lý Thái Bạch chết đuối tại sông Thái Thạch ( thuộc huyện Ðang Ðồ
) trong lúc tửu nhập say thơ .
Tục truyền rằng: Ngài Lý Thái Bạch
đang say cúi mình xuống dòng sông bắt lấy bóng trăng, do đó bị đắm chìm và chết
đuối .
Trên dòng sông Thái Thạch người
sau có dựng lên một ngôi đài lấy tên là Tróc Nguyệt đài ( đài bắt trăng ).
Sau khi Ngài Lý Thái Bạch qua đời,
Lý Dương Băng gom góp thơ Ngài lại, thấy rằng trong số 20.000 bài Ngài làm
trong lúc sinh thời chỉ còn lại 1/10. Phần nhiều thơ Ngài bị thất lạc và mất
mát vào thời loạn An Lộc Sơn .
Năm 1080 Sung Minh Chiu mới thu
lượm và gom góp lại một lần nữa được hơn 1800 bài .
Ngài Lý Thái Bạch được người đời
vinh danh ca tụng Trích tiên qua nhiều thi phẩm tuyệt tác, đến đời nay chúng ta
xin trích và đọc lên những vần thơ ấy của Người, để kỷ niệm ngày qui Tiên của
Người như sau :
I - ỨC ÐÔNG SƠN
" Bất hướng Ðông Sơn cửu, (1)
Tường Vi kỷ độ hoa ?
Bạch vân hoàn tự tán.
Minh nguyệt lạc thùy
gia."
Nghĩa
là : Nhớ núi Ðông Sơn, Lâu ngày không đến núi Ðông Sơn, thi sĩ tự hỏi cây tường
vi từ ngày ấy đến nay đã mấy lần nở hoa ? Ðám mây trắng có còn bay tản mát như
xưa ? Vầng trăng sáng thuở trước có còn không hay đã rụng xuống nhà ai rồi ? .
(1)
Ðông Sơn: Tên một ngọn núi ở phía Tây Nam huyện Thượng Ngu, tỉnh
Chiết Giang .
Phiên
dịch :
NHỚ ÐÔNG SƠN
Lâu nay không đến Ðông
Sơn ,
Cây tường vi đã mấy lần
nở hoa ? .
Mây xưa tan tác bay xa ?
,
Trăng xưa rơi rụng xuống
nhà, nhà ai ? .
TƯƠNG TIẾN TỬU
" Quân bất kiến
Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai ,
Bôn lưu đáo hải bất phục
hồi .
Quân bất kiến cao đường
minh cảnh bị bạch phát ,
Triêu như thanh ti (1) một
thành tuyết .
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan ,
Mạc tử kim tôn không đối nguyệt .
Thiên sinh ngã tài tất khả dụng ,
Thiên kim tán tận hoàn phục lai .
Hội tu nhất ẩm tam bách bội ,
Sầm phu tử (2) Ðan khâu sinh (3).
Tương tiến tửu bôi mạc đình ,
Dử quân ca nhất khúc .
Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính ,
Chung cổ soạn ngọc (4) bất túc quí .
Ðản nguyện trường túy bất nguyện tỉnh ,
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch .
Duy hữu ẩm giả lưu kì danh ,
Trần vương (5) tích thời yến Bình Lạc (6).
Ðẩu tửu thập thiên tứ hoan hước ,
Chủ nhân hà vị ngôn thiểu tiền .
Kỉnh tu mô thủ đối quân chước ,
Ngũ hoa mã (7) thiên kim cừu (8) .
Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu ,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu ."
(1) Thanh ti: là tơ xanh ,
(2) Sầm phu tử: là Sầm Tham .
(3) Ðan khâu sinh: là Ðan Nguyên
Khâu ,
(4) Soạn ngọc: là thực đơn cao
lương mĩ vị .
(5) Trần Vương: là Trần tư Vương,
Tào Thực ,
(6) Bình Lạc: là tên của một tửu
lầu .
(7) Ngũ hoa mã: là loại ngựa quý
,
(8) Thiên kim cừu: là áo lông cừu
.
Phiên dịch:
SẮP KÈO RƯỢU
" Anh có thấy sông Hoàng hà ,
Con sông hùng vĩ nước sa lưng Trời .
Dòng sông cuồn cuộn ra khơi ,
Ngược về nguồn núi có đời nào đâu .
Lại có thấy tóc bạc đầu ,
Nhà cao gương sáng âu sầu vì ai .
Ban mai tóc mướt xanh dài ,
Chiều về trắng xoá như đài tuyết sương .
Ðời người lắm lúc lên hương ,
Rượu ngon chớ để chén không Trăng cài .
Trời sinh ra nếu có tài ,
Chắc có chỗ đứng có hoài công đâu .
Ngàn vàng tiêu hết không lo ,
Vàng sẽ trở lại trước sau với mình .
Trâu dê giết, chén linh đình ,
Ba trăm ly nóc thỏa tình thì thôi .
Sầm Ðan hai bạn cũ ơi !
Rượu ngon cứ rót chớ thôi ngại ngần .
Vì anh hát khúc phân trần ,
Xin anh hãy chúc một lần vì ta .
Trống chuông rượu ngọc mới là ,
Say cho thỏa mãn tỉnh mà
làm chi ? .
Xưa nay Hiền Thánh có gì
,
Riêng người uống rượu
muôn thì lưu danh .
Trần Vương thuở trước
rành rành ,
Yến tiệc Bình lạc ngàn
bành rượu tiên .
Chủ nhân đừng ngại thiếu
tiền ,
Mua thêm nhiều nữa cho
duyên đậm đà .
Áo cừu ngựa gấm đem ra ,
Rượu ngon hãy đổi cho ta
một bầu .
Cùng anh tiêu vạn cổ sầu
!..."
Nghĩ
là: Lời thơ nhập tửu đã vượt ra ngoài vòng xoáy thi sĩ rồi từ ấy tiêu giao trên
đất nước hùng vĩ Trung Hoa. Người say trong ý thức và làm đẹp cho muôn đời sau
.
II . - TÙNG PHU NHÂN
" Thanh sơn hoành bắc
quách ,
Bạch thủy nhiễu đông
thành .
Thử địa nhất vi biệt ,
Cô bồng vạn lý chinh .
Phù vân du tử ý ,
Lạc nhật cố nhân tình .
Huy thủ tự tư khứ ,
Tiêu tiêu ban mã minh ."
Nghĩa là :
(Tiễn bạn về rặng núi xanh vắt
ngang quách bắc. Dòng sông trắng lượn quanh thành đông. Một lần từ biệt đất
này, bạn như nắm cỏ bồng lẻ loi đi xa muôn dặm. Ý du tử như đám mây nổi chóng
tàn. Tình cố nhân giống như mặt trời lặn. Bạn vẫy tay ra đi từ nay. Tiếng con
ngựa lìa đàn nghe rất buồn thương ) .
Phiên
dịch :
TIỄN BAN
" Núi ngang ải bắc xanh xanh ,
Dòng sông trăng trắng luợn quanh đông thành .
Lần này từ biệt đất lành ,
Cỏ bồng muôn dặm một mình xa xôi .
Ý du tử : đám mây trôi ,
Tình cố nhân : bóng mặt trời chiều hôm .
Bạn đi, tay vẫy, hiu buồn ,
Lìa đàn, ngựa hí đau lòng từ đây ."
III - ÐẠI TỬU
" Khuyến quân mạc cự bôi ,
Xuân phong tiếu nhân lai .
Ðào lý như cựu thức ,
Khuynh hoa hướng ngã khai .
Lưu oanh đề bích thụ ,
Minh nguyệt khuy kim lôi .
Tạc lai chu nhan tử ,
Kim nhật bạch phát thôi .
Cức sinh Thạch Hổ điện , (1)
Lộc tẩu Cô Tô đài . (2)
Tự cổ đế vương trạch ,
Thành khuyết bế hoàng ai .
Quân nhược bất ẩm tửu ,
Tích nhân an tại tai
!"
(1) Thạch Hổ điện : điện của Thạch Hổ. Ðời Hậu
Triệu, Thạch Hổ bày rượu tổ chức yến tiệc khao đãi quần thần tại điện Thái Vũ.
Phật
Ðồ Trừng lên điện vừa đi vừa ngâm rằng : " Ðiện ơi ! Ðiện ơi ! Cây gai
thành rừng, làm nát áo người ". Thạch Hổ cho xeo tảng đá lên thì thấy
phía dưới quả cây gai mọc.
(2)
Cô Tô đài: Tên một cái đài bên Trung Hoa ngày xưa.
Phiên dịch :
TRƯỚC RƯỢU
" Khuyên bạn đừng
chê rượu ,
Gió xuân cười cợt người
.
Ðạo lý bạn quen cũ ,
Nghiêng hoa nở vì ai .
Cành biết chim oanh hót
,
Chén vàng trăng sáng soi
.
Bữa trước mặt non dại ,
Hôm nay tóc bạc rồi .
Gai lan Thạch Hổ điện ,
Hươu chạy Cô Tô đài .
Xưa nay cung vua chúa ,
Thành khuyết ngập trần
ai .
Bạn sao không uống rượu
,
Người xưa nay còn ai ?
".
IV . - NGUYET HẠ ÐỘC CHƯỚC
[I]
" Hoa gian nhất hồ
tửu ,
Ðộc chước vô tương thân
.
Cử bôi yêu minh nguyệt ,
Ðối ảnh thành tam nhân .
Nguyệt ký bất giải ẩm ,
Ảnh đồ tùy ngã thân .
Tạm bạn nguyệt tương ảnh
,
Hành lạc tu cập xuân .
Ngã ca nguyệt bồi hồi ,
Ngã vũ ảnh linh loạn .
Tỉnh thời đồng giao hoan
,
Túy hậu các phân tán .
Vĩnh kết vô tình du ,
Tướng kỳ mạc Vân Hán ." (2)
(1) Tác giả có làm đến 4 bài "
Nguyệt hạ độc chước ". Thứ tự từ bài 1 đến bài 4.
(2) Vân Hán : tức là sông Thiên
Hà, nơi cao siêu trên trời.
Phiên dịch :
DƯỚI TRĂNG UỐNG RƯỢU MộT MÌNH
" Trong hoa một bầu
rượu ,
Mình ta lúy túy say .
Cất chén mời trăng sáng
,
Với bóng thành ba người
.
Trăng không hay thú rượu
,
Bóng theo chân ta hoài .
Tạm cùng trăng với bóng
,
Xuân đến cứ vui tươi .
Ta ca : trăng bồi hồi ,
Ta múa bóng linh loạn .
Lúc tỉnh cùng xum vui ,
Say rồi đều phân tán .
Vô tình kết bạn chơi ,
Hẹn gặp nơi Vân Hán
."
NGUYỆT HẠ ÐỘC CHƯỚC
[II]
" Thiên nhược bất
ai tửu ,
Tửu tính bất tại thiên .
Ðịa nhược bất ái tửu ,
Ðịa ưng vô tửu tuyền .
(1)
Thiên địa ký ái tửu ,
Ái tửu bất qui thiên .
Dĩ văn thanh tỉ thánh ,
(2)
Phục đạo trọc như hiền .
Hiền thánh ký dĩ ẩm ,
Hà tất cầu thần tiên ?
Tam bôi thông đại đạo ,
Nhất đẩu hợp tự nhiên .
Ðãn đắc thúy trung thú ,
Vật vi tỉnh giả truyền
."
(1)
Tửu tuyền : suối rượu. Cũng là một tên của một quân đời Hán, vị trí ở đông bắc
huyện Tửu Tuyền (vì nước ở đây có vị nồng như rượu, nên người ta dùng tên này để
đặt tên quận), thuộc tỉnh Cam Túc .
(2) Hai câu 7 và 8 : Ðiển : Ðời Ngụy, Từ Mạo
say rượu. Tiên Vu Bộ nói rằng : " Lúc bình thời khách say gọi người uống
rượu mà trong (thanh) là thánh nhân, người uống rượu mà đục (trọc) là hiền nhân
". Hai chữ [ thanh, trọc ] dùng để chỉ người uống rượu .
Phiên dịch :
DƯỚI TRĂNG U-NG RƯợU MộT
MÌNH
" Nếu trời không
thích rượu ,
Sao rượu ở chi trời ? .
Nếu đất không thích rượu
,
Suối rượu ở chi đời ? .
Trời đất đã thích rượu ,
Thích rượu không thẹn trời
.
Ðã nghe trong như thánh
,
Lại nói đục như hiền .
Thánh hiền đều uống rượu
,
Thôi cầu chi thần tiên ?
.
Ba bôi thông dạo lớn ,
Một chén hợp tự nhiên .
Cốt được thú trong rượu
,
Kẻ tỉnh mặc ai khen ?
."
NGUYỆT HẠ ÐỘC CHƯỚC
[III]
Tam nguyệt Hàm Dương
thành , (1)
"Thiên hoa trú như cẩm
.
Thùy năng xuân độc sầu ,
Ðối thử kính tu ẩm .
Cùng thông dữ tu đoản ,
Tạo hóa túc sở bẩm .
Nhất tôn tề tử sinh ,
Vạn sự cố nan thẩm .
Túy hậu thất thiên địa ,
Ngột nhiên tựu cô chẩm .
Bất tri hữu ngô thân ,
Thử lạc tối vi thậm
."
(1)
Hàm Dương : tên một huyện thuộc tỉnh Thiểm Tây, ở phía Bắc huyện Trường An .
Phiên dịch :
DƯỚI TRĂNG UỐNG RƯỢU MộT
MÌNH
" Tháng ba thành
Hàm Dương ,
Ngàn hoa đẹp như gấm .
Ai kẻ riêng sầu xuân ,
Uống rượu mà suy ngẩm .
Cùng thông với ngắn dài
,
Tạo hóa đà định sẳn .
Sống chết một bôi thôi ,
Muôn việc khôn lường
đoán .
Say rồi quên đất trời ,
Ôm gối ta say đắm .
Không biết có thân ta ,
Vui ấy thật vui lắm ."
NGUYỆT HẠ ÐỘC CHƯỚC (IV)
" Cùng sầu thiên vạn đoan ,
Mỹ tửu tam bách bôi .
Sầu đa tửu tuy thiểu ,
Tửu khuynh sầu bất lai .
Sở dĩ tri tửu thánh ,
Tửu hàm tâm tự khai .
Từ lúc ngọa Thủ Dương , (1)
Lũ không ư Nhan Hồi .
(2)
Ðang đại bất lạc ẩm,
Hư danh an dung tai ! .
Giải ngao tức kim dịch ,
Tao khâu thị Bồng Lai .
(3)
Thả tu ẩm mỹ tửu ,
Thừa nguyệt túy cao đài
."
(1)
Thủ Dương : tên một ngọn núi, nơi Bá Di, thúc Tề ở ẩn, sau chết đói. Có người
cho rằng ngọn núi này ở tỉnh Hà Bắc, nhưng cũng có thuyết nói rằng thuộc tỉnh
Sơn Tây hay thuộc tỉnh Hà Nam .
(2)
Nhan Hồi : tức thầy Nhan Hồi, đệ tử của đức Khổng Phu Tử, nhà nghèo nhưng lúc
nào cũng vẫn vui với đạo lành và vui vẻ .
(3)
Bồng Lai : Một ngọn núi tiên ở, tương truyền ở bể Bột Hải .
Phiên dịch :
DƯỚI TRĂNG UỐNG RƯỢU MộT
MÌNH
" Sầu cùng muôn vạn
mối ,
Rượu ngon ba trăm bôi .
Sầu nhiều rượu tuy ít ,
Uống rượu cho sầu lui .
Uống rồi biết thánh rượu ,
Say rồi lòng phơi bày .
Chê thóc nằm núi Thủ ,
Thường đói bụng Nhan Hồi
.
Người đời không thú rượu
,
Danh hão có hơn ai ? .
Có cua cùng rượu ngọt ,
Gò rượu là Bồng Lai .
Rượu ngon ta hãy uống ,
Ðài cao nương trăng say ."
V - XUÂN NHẬT TÚY KHỞI NGÔN CHÍ
"Xử thế nhược đại mộng
,
Hồ vi lao kỳ sinh ? .
Sở dĩ chung nhật túy ,
Ðồi nhiên ngọa tiền
doanh .
Giác lai miện đình tiền
,
Nhất điểu hoa gian minh
.
Tá vấn thử hà nhật ? ,
Xuân phong ngữ lưu oanh
.
Cảm chi dục thán tức ,
Ðối chi hoàn tự khuynh .
Hạo ca đãi minh nguyệt ,
Khúc tận dĩ vong tình
."
Phiên dịch :
NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU SAY
TRỞ DY NÓI CHÍ MÌNH
"Ðời như giấc mộng lớn ,
Nhọc mình mà làm chi ? .
Suốt ngày say lúy túy ,
Trước hiên nằm li bì .
Tỉnh dậy trong sân trước ,
Bụi hoa chim hót vang .
Hôm nay ngày nào nhỉ ? ,
Trong gió tiếng oanh vàng .
Cảm xúc ta than thở ,
Ðối cảnh ta nghiêng bình.
Hát vang đợi trăng sáng ,
Hết khúc đã quên tình .
Trong " Cung oán ngâm khúc
" có câu :
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý ,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương .
Trong " Chiến tụng Tây Hồ phú
" cũng có câu :
Trăng lặn xuống đáy hồ trong vằng vặc,
Tưởng rằng ông Lý cỡi kình mô
."
Lý Thái Bạch Giáo Tông Ðại Ðạo, Thái Bạch Kim Tinh, Bần Ðạo
chào chư hiền đệ hiền muội.
Thi:
" Tiên Phật là chi hởi khách
trần ?
Chỗ nào khác với hạng phàm nhân ?
Bến Mê bờ Giác chia đôi ngã.
Chẳng giác không mê sẽ
được gần. "
Chư hiền đệ hiền muội đã có lòng thành tầm Tiên, Phật để
học Ðạo, đó là rất tốt, Bần Ðạo chỉ cho thế giới Phật Tiên và thế giới phàm trần.
Từ xưa nay, người đời lầm tưởng rằng cách xa diệu vợi,
non nước muôn trùng, hoặc từ chốn Tây Phương Cực Lạc quốc, hoặc từ nơi chín từng
mây xanh thăm thẳm, hoặc trên chóp Hy Mã Lạp Sơn,v.v....Sự thật không phải vậy,
hai thế giới đó chỉ cách có một lằn ranh, Ðó là con sông Nhược Thủy. Tiếng nói
là con sông, nhưng chiều rộng của nó không bằng 1/4 sợi tóc. Con sông Nhược Thủy
này có hai ven bờ. Bên bờ này sông gọi là bờ mê, bên kia ven sông gọi là bờ
giác.
Phía bên bờ mê, có những người tự cho mình đã giác, cho
nên khôn hơn thiên hạ, từ công danh đã cao, phú quý đã nhiều, đỉnh chung cũng lắm,
bả danh lợi cũng không vừa. Hễ buông ra trường tranh giành, thì đủ mưu cao kế
tuyệt, chước quỷ mưu thần. Vì thế nên đã tạo cái duyên khổng lồ, chính ví cái
duyên ấy, tự trói trăn ràng buộc suốt đời này sang kiếp khác. Còn hể đến lãnh vực
đạo đức tu hành thì họ cũng giác hơn thiên hạ, mở miệng ra thì thao thao bất
tuyệt, Thiên cơ thời sự tiên tri, nào là ngày tận thế, mai lập đời mới, mấy
tháng nữa sẽ có gì xuất hiện và mấy năm nữa sẽ có Thánh Chúa ra đời? v.v...Những
cái giác nơi đây là cái giác vành môi, khóe miệng, nhưng từ cổ trở vô vẫn trống
không như cái mõ đình.
Than ôi! Ðó là mê chớ phải nào đâu là giác, như vậy người
tìm Ðạo để tu hành sẽ phải căn cứ vào đâu để làm tiêu chuẩn cho đời mình, nếu
cái chi khả dĩ gọi rằng tiêu chuẩn, thì đó cũng chỉ là danh từ tạm mượn để gọi
mà thôi.
Bởi vì Ðạo là cái gì không hình, không tướng, không tên
không màu sắc, không giới hạn, không biên cương. Người tu tập buổi ban đầu có
thể tạm dựa vào các tiêu chuẩn sau đây để làm hàng đôi tập viết, hoặc là cái
khuôn đổ bánh.
Lòng mình
phải luôn chơn thành, hướng thiện bằng mọi cách, mọi giá, việc làm trong đời sống
luôn luôn phải chân thành, lương thiện. Kế đó là phải tập cho mình có một đức
tin rằng mình không phải chỉ là một tấm thân nhục thể, chỉ sống được mấy mươi
năm rồi tan rả như các loài vật khác, mà phải tin rằng ngoài tấm thân hình hài
ô trược đó, nó còn có một phần vô hình siêu đẳng nửa. Chính cái phần vô hình
siêu đẳng ấy là mầm sống bất diệt của Thượng Ðế phát ban là chủ sử sai khiến
xác thịt. Phần ấy nếu người biết trui rèn, giồi luyện, tập tánh kiên nhẫn qua
nhiều thời gian để cho nó được trưởng thành mẩn tuệ, tinh khiết. Thức ăn của nó
là tình thương, là lòng từ bi, bác ái, không chấp trước, không phiền não, sân
si, đồ mặc của nó là nơi thanh tịnh lặng lẽ. Muốn thấy nó không thể dùng quang
tuyến hoặc kiến hiển vi, mà phải dùng huệ nhản hướng nội. Muốn có những điều kiện
cho nó ăn và mặc, thì người phải tạo cho nó một đời sống đơn giản, lương thiện,
thanh tịnh, từ ái, tinh khiết.
Phật Tiên xưa cũng theo đường ấy mà từ phàm nhân trở nên Thánh nhân và Siêu nhân. Thế nên đừng cầu kỳ mà tìm Ðạo hay tìm Phật Tiên ở chổ phù chú, hô phong hoán võ, hú gió kêu mưa, chỉ đá hóa vàng và cũng đừng tìm Ðạo ở nơi âm thanh sắc tướng, mà phải tìm Ðạo từ nơi trong mỗi người đã có sẵn rồi, nhưng nó đã bị vùi lấp dưới những mớ tro tham, sân, si, dục, hỉ, nộ, ái, ố... * Thăng.
* Biên Khảo.
HT / Huỳnh Tâm
Tham khảo : http://caodaitv.free.fr/archivetv1/0029ly%20bach.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét