Ðức
Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài ngày 12-01-Ðinh Mão (dl:
13-2-1927): “Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền thiêng liêng mối Ðạo.
Hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn. Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo bị qui phàm
là vì khi trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo
mà lập ra Phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con
mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa. Lại nữa, Hiệp Thiên
Ðài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế
giới, Lục Thập Bát Ðịa cầu, Thập Ðiện Diêm Cung, mà cầu siêu cho cả nhơn loại.
Thầy đã nói sở
dụng thiêng liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
Hiệp Thiên
Ðài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm…”.
Sơ Đồ Hình Cổng Chánh Môn Tòa Thánh Tây Ninh Của Đức
Hộ Pháp
Đức Chi Tôn lúc
tiền khai Đạo, lập Thập Nhị Thời Quân trước khi mở Đạo. Thập Nhị Thời Quân chia
làm ba Chi:
1 . Phần của HỘ PHÁP
chưởng quản về PHÁP thì:
- HẬU là Bảo
Pháp, (Nguyễn Trung Hậu)
- ÐỨC là Hiến
Pháp, (Trương Hửu Đức)
- NGHĨA là Khai
Pháp, (Trần Duy Nghỉa)
- TRÀNG là Tiếp
Pháp, (Trương Văn Tràng)
Lo bảo hộ Luật đời
và Luật Ðạo, chẳng ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết.
2 . THƯỢNG PHẨM
thì quyền về phần ÐẠO:
- CHƯƠNG là Bảo
Ðạo, (Ca Minh Chương)
- TƯƠI là Hiến Ðạo,
(Phạm văn Tươi)
- ÐÃI là Khai Ðạo, (Phạm Tấn Đãi)
- TRỌNG là Tiếp
Ðạo, (Cao Đức Trọng)
Lo về phần Ðạo
nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất, đều xem sóc chư môn đệ Thầy, binh vực chẳng cho
ai phạm Luật đến khổ khắc cho đặng.
3 . THƯỢNG SANH thì lo
về phần ÐỜI:
- Bảo Thế thì
PHƯỚC (Lê Thiện Phước)
- Hiến Thế thì MẠNH
(Nguyễn văn Mạnh)
- Khai Thế thì
THÂU (Thái văn Thâu)
- Tiếp Thế thì
VĨNH (Lê Thế Vĩnh)
Thầy khuyên các
con lấy tánh vô tư mà hành đạo.
Thầy cho các con
biết trước rằng: Hễ trọng quyền ắt trọng phạt.
Thầy ban ơn cho
các con”.
Tại sao chi Đạo
và chi Pháp Thầy lại để tên của chức sắc trước, phẩm tước sau? Riêng chi Thế
thì phẩm tước trước, tên chức sắc sau?
Đây cũng là truyết
lý Âm Dương thuận nghịch đó vậy.
Chi Đạo (Dương),
chi Thế (Âm - Đời của Đạo). Âm Dương tương hiệp. Chi Pháp là cơ Hòa. Ba Chi Đạo,
Thế, Pháp hiệp đủ Tam Tài (Thiên Địa Nhân). Vai trò nầy củng thấy rỏ nơi quyền
hạn của ba vị Thái, Thượng Ngọc Chưởng Pháp Cửu Trùng Đài ghi trong Pháp Chánh
Truyền (rất là hay huyền bí và siêu việt vô cùng).
Xem cách Thầy
ban Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài chúng ta cũng đã nhận thấy cái lý Âm Dương
trong ba Chi Pháp Đạo và Thế rồi vậy. Hai chi Pháp và Đạo (thuộc về Đạo) thì Thầy
đặt tên các vị ở trước, đặt phẩm tước sau; chỉ duy chi Thế là Đời, nên đặt tước
phẩm ở trước và tên các vị ở sau. Ấy là ngay trong một cơ quan Đạo cũng phải đủ
truyết lý Âm Dương tương hiệp. Có nghĩa rằng Đạo thì lo tô bồi Nhơn tước (Thế Đạo)
để khi đến với Thiên Đạo thật sự chỉ là một sự hợp thức hóa, mượn Thiên Tước
làm con đường trở về Thiêng liêng vị mà thôi.
Còn Đời trọng
cái Thiên Tước mà ít khi trau giồi Nhơn Tước. Nếu bản thân không tự trau giồi,
thì khi có Thiên Tước rồi, cái Nhơn Tước không trau giồi kịp.
Pháp Chánh Truyền
dạy: Thượng Sanh thì lo về phần Ðời.
Mỗi sự chi thuộc
về Đời thì về quyền của Thượng Sanh, Chưởng Quản chi Thế.
Dưới quyền của
Thượng Sanh có bốn vị Thời Quân là: Tiếp Thế, Khai Thế, Hiến Thế, Bảo Thế. Bốn
vị Thời Quân chi Thế đặng cùng quyền cùng Thượng Sanh, khi người ban lịnh hành
chánh; song mỗi vị có mỗi phận sự riêng, quyền hành riêng.
Thượng Sanh là
cây cờ của Thế, tức là Ðời, ấy vậy Đời nơi nào thì Thượng Sanh nơi đó. Người có
quyền xem xét kẻ hành đạo coi Thánh Ðức có đắc nhơn tâm cùng chăng, nhược bằng
kẻ ấy thể Ðạo không đủ tư cách, thì người có quyền dâng sớ cầu xin thuyên bổ.
Chơn linh các
nguyên nhân bị đọa trần, quỉ nhơn chuộc tội hay là hóa nhân thăng cấp đều nhờ
Thượng Sanh độ rỗi (ấy là Thế Độ). Nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Ðạo, nắm luật
Thế nơi tay, mà dìu dắt cả chúng sanh vào cửa Ðạo.
Thượng Sanh đối
quyền với Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Ðài.
Hiệp Thiên Ðài
là luật lệ, mà Thượng Sanh lại là Chánh Trị, ấy vậy là người của Cửu Trùng Ðài
nơi Hiệp Thiên Ðài.
Trong Huấn Từ
nhân lễ tấn phong Hiền Tài ngày 08-02-Canh-Tuất (dl: 15-03-1970), Đức Thượng
Sanh nói:
“Các bậc hiền
(thánh hiền) thời xưa đựơc có cái tiết tháo như vậy là nhờ biết phân biệt cái
Tước của Trời cho và cái Tước của Người cho: Nhân Nghĩa, Trung Tín, vui làm điều
lành không mỏi là cái Tước của Trời cho, tức là Thiên Tước.
Công khanh, đại
phu là cái Tước của người cho, tức là Nhơn Tước.
Người xưa
(các bậc Thánh Hiền) lo sửa cái Thiên Tước thì cái Nhơn tước theo sau và được bền
bĩ. Người đời nay chỉ lòe mình có cái Thiên Tước để cầu lấy cái Nhơn Tước; khi
đã được cái Nhơn Tước rồi thì dẹp bỏ cái Thiên Tước không nói đến nữa. Như thế
thì thật là qúa nông nỗi vì rốt cuộc thành ra mất hết, cái Nhơn Tước cũng không
giữ được bao lâu”.
Ban Thế Ðạo là
cơ quan thuộc về phần Đời, bắt nguồn và phát xuất từ cửa Ðạo, làm dây nối liền
cho Ðạo Ðời tương liên tương đắc, ngỏ hầu tạo lập đời sống thanh bình cho nhơn
loại trong thời Chuyển thế. Như vậy, nhiệm vụ của Ban Thế Ðạo là tuân Thế Luật
của Ðạo, đem công đức và giáo lý Đạo hướng dẫn nhơn sanh trở về nguồn cội Ðạo,
tô điểm cho nền Ðại Ðạo mỗi ngày một thêm huy hoàng.
Ban Thế Ðạo
thành lập do Thánh Lịnh số 01/TL ngày 28 tháng 2 năm Ất Tỵ (dl: 30-3-1965) của
Ðức Thượng Sanh thể theo Thánh Giáo của Ðức Lý Ðại Tiên đêm mùng 3 tháng 12 Quý
Tỵ (dl: 7-1-1954) và Thánh Giáo Đức Hộ Pháp ngày mồng 9 tháng 2 năm Ất Tỵ
(1965), cơ quan nầy trực thuộc Hiệp Thiên Đài (HTĐ), dưới quyền Chưởng Quản của một vị Thời Quân
chi Thế do Hội Thánh ủy nhiệm (Chưởng Quản HTĐ).
Ngài Bảo Thế Lê
Thiên Phước là vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài đầu tiên được giao nhiệm vụ đặc
trách Ban Thế Đạo:
- Ngày 21-2 Ất-Tỵ
(dl 23-3-1965) Trưởng Ban Thế Đạo.
- Thánh Lịnh số
04/TL của Đức Thượng Sanh ngày 3-12-Đinh Mùi (dl 2-1-1968) sửa đổi danh từ Trưởng
Ban Thế Đạo lại là Chưởng Quản Ban Thế Đạo.
Ngài Bảo Thế qui
vị ngày 17-3 Ất-Mão (dl 28-4-1975) ngay vào lúc đất nước thay đổi (ngày
30-4-1975). Bảo Thế là giữ đời, nhưng một khi Đời đã mất thì Ngài cũng ra đi. Ấy
là môt bí pháp rất nhiệm mầu của chư vị Thời Quân đó vậy.
Đàn cơ đêm 18-3 Ất-Mão
(dl 29-4-1975) tại Cung Đạo Đền Thánh, Đức Hộ Pháp giáng cơ cho Bài Thài tế lễ
Ngài Bảo Thế: “Bài thài chúng ta đã thấy "Bảo Thế Cứu Nước" đã
trúng lúc, vậy cứ dùng bài thài ấy cúng tế BảoThế”.
Đức Hộ Pháp ban
bài thi "Bảo Thế Cứu Nước" được xem như ấn chứng vai trò và
trách nhiệm của Ngài Bảo Thế. Nguyên vào năm 1960, Đức Hộ Pháp giáng cơ tại
Giáo Tông Đường, có khen Ngài Bảo Thế bằng bài thơ khoán thủ “Bảo Thế Cứu Nước”.
Giờ đây là Bài Thài hiến lễ Ngài Bảo Thế:
BẢO trọng vạn linh hiệp Chí Linh,
THẾ nguy chuyển loạn lập hòa bình.
CỨU đời mở Đạo kinh luân sẵn,
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.
Phải chăng 15
năm trước, Đức Hộ-Pháp đã trù liệu Bài Thài này dành cho ngày hôm nay cho Ngài
Bảo Thế chăng? Đây là trường hợp đặc biêt nhứt mà trong 12 vị Thời Quân Hiệp
Thiên Đài chưa một ai được như vậy.
Ngày 6-2-Ất Tỵ
(dl 8-3-1965) Đức Phạm Hộ-Pháp cũng có giáng cơ cho Ngài Bảo Thế bài thi khoán
thủ:
Quyền Chưởng
Quản Hiệp Thiên Đài Thừa Mạng
" QUYỀN uy nhờ bởi giữ Chơn truyền,
CHƯỞNG đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.
QUẢN quán chúng sanh tu cội phúc,
HIỆP hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.
THIÊN môn mở rộng nguyên nhân đến,
ĐÀI nội tuyển thăng Thánh đức lên.
THỪA thế chuyển nguy an Thánh địa,
MẠNG Trời đâu để quỉ hành quyền."
Dưới quyền lãnh
đạo của vị Thời Quân chi Thế Chưởng Quản Ban Thế Ðạo, một Ban Quản Nhiệm Trung
Ương được thành lập để điều hành công việc của Ban Thế Ðạo.
Ban Thế Ðạo đặt
Văn phòng Trung Ương tại Tòa Thánh Tây Ninh, và những Văn phòng địa phương tại
các Châu và Tộc Ðạo.
Chức sắc trong
Ban Thế Ðạo có nhiệm vụ độ Đời nâng Đạo, hành sự trực tiếp với Cửu Trùng Đài
(CTĐ) về mặt chuyên môn trong xã hội, trực thuộc HTÐ chi Thế về mặt chơn truyền
và luật pháp, và tuân theo Thế Luật của Ðạo.
Vị Thời Quân chi
Thế Chưởng Quản Ban Thế Ðạo chiếu theo Tân Luật Pháp Chánh Truyền (hay các Luật
Đạo) ban hành các Quyết Định về Ban Thế Đạo. Tổng Quản Nhiệm Ban Thế Đạo không
được quyền chiếu Pháp Chánh Truyền, Tân Luật hay các Luật Đạo ban hành các Quyết
Định về Ban Thế Đạo (điều nầy vi phạm và lạm dụng luật pháp chơn truyền của Đạo).
Chức sắc Ban Thế
Đạo (Đời), cũng như tất cả các tín đồ, nhưng được thêm cái Nhơn Tước (như Hiền
Tài, Quốc Sĩ, …) để có cơ hội lập vị trong đường Đời và đường Đạo hầu vun bồi,
mượn cái Thiên Tước để qui hồi cựu vị (hay phản bổn hoàn nguyên, con đường “trở
về”, hay Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống).
Chức sắc Ban Thế
Đạo cũng như tất cả tín đổ đều phải tùng Thế Luật. Riêng chức sắc Ban Thế Đạo,
khi phế Đời hành Đạo, sẻ được Đức Lý Giáo Tông phong phẩm chức sắc bên Cửu
Trùng Đài như Giáo Hửu, Giáo Sư hay Phối Sư, v.v.v... phái Thái, Thượng hay Ngọc.
Sau khi nhận phẩm phế Đời hành Đạo, các vị chức sắc nầy phải tuân theo Tân Luật
Pháp Chánh Truyền.
Trong Thánh Ngôn
ngày 12-01-Ðinh Mão (dl: 13-2-1927 ), Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp
Thiên Ðài và phong phẩm vị chánh thức cho Thập Nhị Thời Quân mà trước đây (trước
khi mở Đạo), Ðức Chí Tôn thâu nhận và chỉ tạm phong là Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ.
Ðêm 25 rạng mặt
26 Avril 1926 (al: ngày 14 rạng mặt rằm tháng ba, năm Bính Dần):
Ngọc Hoàng
Thượng Ðế Viết Cao Ðài
Tiên Ông Ðại
Bồ Tát Ma Ha Tát
Giáo Ðạo Nam
Phương
“Kim triêu dĩ đảo Thiên Trung Quang,
Ám hiểu thế tình tánh đức nan;
Chỉ đải thời lai Quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, Hữu ban mang.
Ðức, Hậu, phong vi tiên đạo phò cơ Ðạo Sĩ.
Cư, phong vi Tá Cơ Tiên Hạt Ðạo Sĩ.
Tắc, phong vi Hộ giá Tiên đồng tá cơ Ðạo
Sĩ.
Trung, Lịch, đã thọ sắc, cứ tước vị mà
theo lịnh sắc mạng Ta.
Kỳ, phong vi Tiên Sắc Lang Quân Nhâm Thuyết
Ðạo Giáo Sư.
Bản, phong vi Tiên đạo Công Thần Thuyết Ðạo
Sư.
Cư, tuân theo lời Thầy truyền mà thi hành”.
Theo tài liệu
sưu khảo (Ðạo Sử), để dự bị Thập Nhị Thời Quân, Ðức Chí Tôn lập 6 cặp Phò loan,
phong là Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo sĩ, gồm:
1 - Trương Hữu Ðức
- Nguyễn Trung Hậu: Phò loan tại đàn Cầu Kho (nhà của Ông Ðoàn Văn Bản).
2 - Trần Duy
Nghĩa - Trương Văn Tràng: Phò loan tại đàn Lộc Giang (Phuớc Long Tự Chợ Ðệm, sư
trụ trì: Yết Ma Giống)
3 - Phạm Văn
Tươi - Cao Minh Chương: Phò loan tại đàn Tân Kim (nhà Hội Ðồng Nguyễn Văn Lai,
xã Tân Kim, Cần Giuộc)
4 - Nguyễn
Thiêng Kim - Phạm Tấn Ðãi: Phò loan tại đàn Long Thành Tự ở gần Chợ Rạch Kiến,
Cần Ðước.
5 - Huỳnh Văn
Mai - Võ Văn Nguyên: Phò loan tại đàn Thủ Ðức (nhà của Ông Ngô Văn Ðiều, gần Chợ
Thủ Ðức).
6 - Nguyễn Văn Mạnh
- Lê Thiện Phước: Phò loan nhiều nơi, không rỏ và nhất định.
Khi lập Pháp
Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài, ba vị Phò loan: Nguyễn Thiêng Kim, Huỳnh Văn Mai,
Võ Văn Nguyên không đến dự, nên ba vị nầy không được phong vào Thập Nhị Thời
Quân Hiệp Thiên Ðài.
Ðức Chí Tôn
phong cho ba vị khác là: Thái Văn Thâu, Lê Thế Vĩnh, Cao Ðức Trọng.
Ngài Cao Ðức Trọng
được Ðức Chí Tôn phong sau cùng khi Ðức Chí Tôn bảo Ðức Hộ Pháp lên Nam Vang mở
đạo. Tại Nam vang, Ðức Hộ Pháp phò loan cùng Ngài Cao Ðức Trọng, để Ðức Chí Tôn
giáng cơ thâu môn đệ.
Đi
thâu Thập Nhị Thời quân rồi Đức Chí Tôn mới mở Đạo.
Đức
Chí Tôn dạy: “Thầy lại nhắc cho các con hay rằng: trong Thập Nhị Thời Quân, đâu
đó đều có sắp đặt, nếu không phải mấy đứa phò loan của Thầy đã định thì các
Thánh Ngôn do nơi khác mà ra đều là không phải lời của Thầy nói. Con phải đề phòng cẩn thận, nghe à!
Thầy hằng nói
cho các con biết, việc Cơ Bút là việc tối trọng, nếu không có Chơn linh quí trọng
thì thường có Tà quái xung nhập mà khuấy rối làm cho thất nhơn tâm….
Thầy nói cho các
con hiểu bậc Chơn Thánh mà phải đọa trần nếu không đủ tánh chất để dìu dẫn nhơn
sanh thì cũng chưa xứng đáng cầm bút cho Thầy truyền Đạo”.
Đức Chí Tôn
thâu Thập Nhị Thời Quân trước, xong rồi mới mở Tam Kỳ Phổ Độ. Thập Nhị Thời
Quân là gì?
Ngày 15-10-Bính
Dần (dl: 19-11-1926) chính thức Khai Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại Từ Lâm Tự (Gò kén,
Tây Ninh), Đức Chí Tôn phong phẩm tước cho Thập Nhị Thời Quân. Đúng ra phải 12
vị nhưng thực tế chỉ có 11 vị thôi, trong đó khuyết phẩm Tiếp Đạo.
Công việc điều
hành phải lo xây cất Đền Thánh tạm ở làng Long Thành thì do Đức Cao Thượng Phẩm,
còn Đức Phạm Hộ Pháp thì sau khi nghỉ phép sáu tháng để lo Lễ Khai Đạo, xong trở
lại công sở thì người Pháp đổi Ngài đi Campuchia. Nhưng khi sang đây thì Ngài bắt
đầu mở Đạo ra nước ngoài, thành lập Kim Biên Tông Đạo, rồi từ đó truyền giáo ra
ngoại quốc, mở và phát triển Hội Thánh Ngoại Giáo.
Trong đàn cơ đêm
29-6-Đinh Mão (dl: 27-7-1927) tại Thánh Thất Nam Vang do Đức Hộ Pháp và ông Cao
Đức Trọng phò loan, Đức Chí Tôn ân phong Ngài Cao Đức Trọng vào chức Tiếp Đạo
Hiệp Thiên Đài. Ngài là vị Thời Quân được Đức Chí Tôn phong sau cùng trong số
Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài.
Ở Nam Vang, lúc
đó thì ông Cao Đức Trọng đang làm việc tại Văn phòng Chưởng Khế. Tức nhiên là
quyền năng Thiêng liêng dành cho con Gà (ông Trọng tuổi Đinh Dậu) đi gáy xứ người
(truyền Đạo hải ngoại), một Bí pháp Đạo nhiệm mầu làm sao người phàm rõ thấu được.
Pháp Chánh Truyền
dạy: Thượng Phẩm thì quyền về Ðạo.
Dưới quyền có:
Tiếp Ðạo, Khai Ðạo, Hiến Ðạo và Bảo Ðạo.
Bốn vị Thời Quân
của chi Ðạo, đồng quyền cùng Thượng Phẩm khi người ban quyền hành chánh, song mỗi
vị có phận sự riêng, quyền hành riêng.
Hễ bước chơn vào
cửa Ðạo, thì là có Thiên Phẩm, mà hễ có Thiên Phẩm rồi thì Thầy lại đem lên cho
tới Thượng Phẩm mới trọn nghĩa Phổ Ðộ.
Các chơn linh dầu
nguyên nhân hay là hóa nhân đều nhờ Thượng Phẩm gìn giữ binh vực cho ngồi đặng
an ổn địa vị mình, giúp đỡ cho đức hạnh trổi thêm cao cho khỏi phạm luật lệ;
xem sóc ngôi thứ chẳng cho giành giựt lẫn nhau, ắt giữ cho Cửu Trùng Ðài đặng
hòa nhã êm đềm, khép cửa Thiên Môn, cấm đường không cho các chơn linh thối bước.
Phẩm trật nhờ người mà đặng thăng lên, hay là bị người mà phải hạ. Thượng Phẩm
là chủ của Thiên Đạo.
Thượng Phẩm là
cây cờ của Ðạo. Hễ Ðạo nơi nào thì Thượng Phẩm nơi ấy.
Thượng Phẩm đối
quyền với Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Ðài.
Hiệp Thiên Ðài
là luật lệ mà Thượng Phẩm lại là Chánh Trị, ấy vậy Thượng Phẩm là người của Cửu
Trùng Ðài nơi Hiệp Thiên Ðài.
Tiếp Ðạo là người
tiếp cáo trạng án tiết thì phải quan sát trước coi có oan khúc chi chăng, đáng
ra binh vực thì phải dâng lại cho Khai Ðạo.
“Nơi cõi vô
vi (Thiêng Liêng) phải có Thập Nhị Khai Thiên dùng Chơn Linh biến ra mười hai đấng
gọi là Thập Nhị Thời Thần mỗi vị lo phận sự trong một phần mười hai của thời gian sáng tạo chia làm Thập Nhị Địa
Chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, v.v... phối hợp nhau để tạo nên cung Trời, thì ở
mặt thế (hữu hình) này đối tượng của Thập Nhị Thời Thần là Thập Nhị Thời Quân
cũng phải phối hợp cùng nhau để giúp tạo thành hình tướng của Tam Kỳ Phổ Độ (Đạo Cao Đài).
Cho nên Đức Chí
Tôn có nói (TNHT):
"Thập Nhị
Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào
tay. Số 12 là số riêng của Thầy.
Chư Tiên Phật
là các Đấng thọ thiên chức Khai hóa “Cửu Trùng Thiên”, nên đứng vào hàng “Cửu Thiên Khai Hóa”.
Đức Hộ Pháp có
giải thích trong bài Diễn văn ngày 14-2-Mậu Thìn (1928):
" Hội
Thánh hiệp nhau lập Tân Luật, cũng như cả Thập Nhị Khai Thiên lập Luật.
Thập Nhị Khai
Thiên lập Luật giao lại cho Thầy; còn Hội Thánh lập Luật cũng giao lại cho Thầy.
Vậy thì Tân
Luật với Thiên Điều cũng đồng giá trị."
"Luật Đạo
thành ra Thiên Điều thì Hội Thánh là Ngọc Hư Cung tại thế. Hội Thánh hiệp nhau
lập Luật Đạo thì cũng như chư Thần, Thánh, Tiên, Phật hội lập Thiên Điều.
Vậy thì Hội
Thánh và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng đồng một thể."
Thập Nhị Thời
Quân ở hữu hình chính là Thập Nhị Thời Thần ở vô vi nên số tuổi của các Ngài thể
hiện con số Thập Nhị Địa Chi (12 con Giáp) của Đạo Trời, vì vậy mà tuổi của 12
vị Thời Quân mỗi người đứng đầu một con Giáp không ai trùng hợp với ai mà lại
còn có sự đặt định một cách khít khao, huyền nhiệm vô cùng.
Chư vị Thập Nhị
Thời Quân có mặt trong buổi đầu gọi là Thập Nhị Chơn Quân, Tuổi các vị Thời Quân
và ngày giờ được ghép bởi Thập Thiên Can và Thập Nhị Địa Chi còn gọi là Thập Nhị
Thời Thần. Đúng như lời Kinh Cúng Đức Phật Mẫu:
“Thập Thiên Can bao hàm vạn Tượng
Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”.
(Ý nghỉa như vầy:
Mười (Thập) Thiên Can bao gồm muôn hình trạng.
Mười (Thập)
Thiên Can tùng theo Thập Nhị (mười hai) Địa Chi sanh thành và làm rộng lớn
Càn Khôn Vũ Trụ).
Trong số 12 vị
Thời Quân nầy, người được Đức Chí Tôn chọn đầu tiên là Ngài Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa (Bính Dần, 1926), và người được chọn sau cùng là Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng
(29-6-Đinh Mão, dl: 27-7-1927).
Người lớn tuổi
nhất trong Thập Nhị Thời Quân là Ngài Bảo Đạo Ca Minh Chương tuổi Canh Tuất
(1850), nhỏ tuổi nhất là Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh tuổi Quí Mão (1903),
đứng cuối hàng
Thiên Can mang chữ Quí. Theo thứ tự thì một vị ở đầu bảng và một vị ở cuối bảng
Thập Nhị Thời Quân. Quả là một cơ Đạo mầu nhiệm của tạo hóa.
Đàn cơ tháng 8
-1928 (al: tháng 7-Mậu Thìn): Ngài Bảo Pháp hỏi Thầy về Thiên Mạng của Thập Nhị
Thời Quân ra sao?
Đức Chí Tôn trả
lời:
“Trọng lắm! Mà
bây giờ chưa có chi cho lắm, chớ Thập Nhị Thời Quân ngày nào có công việc rồi,
các con sẽ thấy công việc của các con lớn lao là dường nào! Rất đỗi ở thế một
viên chức nhỏ như Chủ tỉnh còn nhiều quyền hành rộng lớn thay! Huống chi các
con là BẢO, HIẾN, KHAI, TIẾP cả toàn cầu, thì trách nhậm phải làm sao thì các
con cũng hiểu. Nhưng Thầy chưa phân định vì các con chưa tới kỳ hành sự đó”.
Xin ghi chú thêm
về lời dạy của Đức Chí Tôn bên trên: BẢO, HIẾN, KHAI, TIẾP là 4 phẩm vị của 3
chi Pháp Đạo Thế trong Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài.
Bảo: là giữ
gìn; Hiến: là dâng; Khai: là mở, bày ra; Tiếp: là
rước.
Cũng xin giải
thích rõ thêm là:
Thập Thiên Can
là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Thập Nhị Địa Chi
là 12 con Giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo (Mão), Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Theo thứ tự người
ta ghép một Can với một Chi như: Can thứ nhất với Chi thứ nhất là khởi Giáp Tý.
Sau đó, mãn chu kỳ mười Can thì tiếp tục phối hợp Can thứ nhất với Chi thứ mười
một, ví như chu kỳ mới của vòng Thiên Can thứ nhì là: Giáp Tuất, Ất Hợi. Rồi
Can thứ ba với Chi thứ nhất... cứ tuần tự như vậy lại đến năm Giáp Tý là đáo tuế.
Trong một chu kỳ, tên mỗi Can xuất hiện sáu lần (60: 10 = 6) và tên mỗi Chi xuất
hiện năm lần (60: 12 = 5). Chu kỳ này, ta gọi là Lục Thập Hoa Giáp hay biểu
Giáp Tý. Một Lục Thập hoa giáp (chu kỳ 60 năm). Mãn chu kỳ ấy sẽ khởi lại như
ban đầu nữa.
Chư vị Thập Nhị
Thời Quân là đồng tử trung gian giữa Trời và Người. Nếu không có Thập Nhị Thời
Quân thì cũng không có Đạo, vì chư vị là những thiên sứ phò cơ nhận lời của Đức
Chí Tôn và Phật Tiên dạy. Từ trước Hiệp Thiên Đài đã có qui định 4 cặp cơ là:
- Qúi ông Tắc,
Cư (Phạm Công Tắc, Cao Huỳnh Cư): cơ lập giáo .
- Qúi ông Hậu ,
Đức (Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức): cơ lập pháp.
- Qúi ông Sang,
Diêu (Cao Hoài Sang, Cao Huỳnh Diêu): cơ truyền giáo .
- Qúi ông Nghĩa,
Tràng (Trần Duy Nghĩa, Trương Văn Tràng): cơ bí pháp Cơ bút là bí pháp mầu nhiệm
và quyền lực của Thiêng Liêng của Đạo. Thánh ngôn chỉ có giá trị khi cầu ở Cung
Đạo (Đền Thánh) và đồng tử là người được ơn trên chỉ định. Còn những ai khác, cầu
nơi khác thì chỉ để học hỏi không có giá trị truyền rao (phổ biến).
Đức Hộ Pháp có
giải thích như sau:
“Cả toàn
Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu: trong 12 vị Thời Quân của 12 con
giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào có lẽ cả tinh thần của toàn thể
con cái Đức Chí Tôn đều hiểu thấu”.
Thập Nhị Thời
Quân là mười hai vị Thánh bên Hiệp Thiên Đài dưới quyền của Hộ Pháp, Thượng Phẩm,
Thượng Sanh Chưởng Quản. Tổng cộng 15 vị (12 + 3= 15).
Đức Hộ Pháp nói:
“Còn nhứt Phật,
nhị Tiên, thập nhị Thánh (15 vị) tại Hiệp Thiên Đài thì là các Đấng hầu hạ bên
Thầy lúc trước, nay tuy xuống thế cũng cứ giữ phận hầu Thầy mà thôi”.
Thập Nhị Thời
Quân đây là thuộc về cơ quan Hiệp Thiên Đài, là một trong ba cơ quan trọng yếu
của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Bởi:
“Hiệp Thiên Đài
là nơi chuyên về Đạo pháp, bảo hộ luật Đời và luật Đạo, như Ngọc Hư Cung nắm
Thiên Điều tức là Ngọc Hư Cung tại thế mà Hộ Pháp là Chưởng Quản.
“Hiệp Thiên Đài
chính là cửa Trời đó vậy. Hiệp là chung với, Thiên là Trời; hiệp cùng Trời tức
là cửa vào đường Trời, cái thang bắc cho phàm đến cùng Trời.
Con số 15 là
thành quả của Ma Phương số, là tâm của Bát Quái Cao Đài.
Vùng Nội Ô Toà
Thánh có cả thảy 12 cửa. Điều đặc biệt là nhân sanh không thấy cửa số 5, nhưng
vẫn có đủ số 12, bởi vì cửa số 5 là Ngũ trung, tức nhiên ở vào chính giữa thì
làm sao làm cửa cho được, nên xem như không có cửa hữu hình, mà cửa số 5 chính
là ngôi Điện Thờ Đức Phật Mẫu, Đức Diêu Trì Phật Mẫu là Mẹ chử Khí, là Chưởng
Quản Hiệp Thiên Đài. Tuy nhiên đã có Cổng Chánh Môn trước ngôi Đền Thánh cũng đủ
số 12 cửa vậy. Vị trí và phương hướng của Tòa Thánh cũng là phương vị của Bát
Quái Đồ Thiên.
12 Cửa chính Nội
Ô Tòa Thánh là hình tượng Thập Nhị Thời Thần ứng với Thập Nhị Thời Quân hửu
hình của Hiệp Thiên Đài.
Cửa Chánh Môn được
xây dựng như một cổng tam quan với 3 lối đi, một cổng chánh và hai cổng phụ hai
bên. Ðức Hộ Pháp có chỉ dẫn Ban Kiến Trúc của Ðạo vẽ họa đồ Cửa Chánh Môn trên
nóc đắp mái ngói có để Cổ Pháp Tam Giáo (là Cổ Pháp Hộ Pháp).
Ngày mùng
8-Giêng-Giáp Thìn (dl 20-2-1964), Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước đảm nhận Quyền Chưởng quản HTĐ kiêm Thống Quản Hội
Thánh Phước Thiện. Cửa Chánh Môn hiện nay do Ngài Bảo Thế phối hợp với Tỉnh trưởng
Tây Ninh là Thiếu Tướng Lê văn Tất xây dựng theo bản đồ mới do Ty Kiến Thiết
Tây Ninh đề nghị trên nóc đắp thêm hai Rồng phò hay tranh Cổ Pháp (hai Rồng được
thêm vào). Họa đồ nầy được Ngài Bảo Thế chấp thuận. Tại sao nói hai Rồng tranh
Cổ Pháp? Vì bản tánh của Rồng là “Long năng biến hóa”, hình Rồng hả miệng, mình
uốn khúc là Rồng tranh Châu thời Phong Kiếm Xuân Thu; nay đem tranh Cổ Pháp, đó
là việc làm của Thời Quân Chi Thế.
Rồng đứng đầu
trong hàng Tứ Linh: Long, Lân, Quy, Phụng. Nhắc về khi làm 7 cái Ngai cho 3 vị
Đầu Sư, 3 vị Chường Pháp và Giáo Tông Cửu Trùng Đài, Thầy cũng bảo chạm Tứ
Linh, nhưng ngai của Giáo Tông “chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng” ấy là
lý Âm Dương biến hóa vô cùng.
“Thập Nhị Thời
Quân không phải quyền tại thế gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao Đài này, cũng
không phải tại đây nữa. Đức Hộ Pháp nói: đây là quyền Đạo Cao Đài cả Thiêng
Liêng Hằng Sống”. (ĐHP: 1-9-Kỷ-Sửu).
Nhiệm vụ của Thập
Nhị Thời quân được Ngài Khai Pháp giáng cơ ngày 2-2-Giáp Thìn (dl: 4-1-1965)
xác nhận: “Ngày Bần Tăng về Chí Tôn mới rõ quyền năng Thiên Triều vô biên.
Chính Bần Tăng rón rén bước vô Bạch Ngọc Kinh phải nhờ chơn linh Vi Hộ dẫn tấn.
Từ đây mới biết Chí Tôn phần nào và được thấu đáo nhiệm vụ của Thời Quân, chẳng
những nơi thế gian này mà còn nơi cõi Thiên nữa. Như thế mới khiếp sợ trách vụ
mình.
Nếu quí vị được
thấy thì tưởng không còn muốn ở cõi trần nữa làm gì. Vậy Bần Tăng ước mong quí
Bạn Thời Quân dòm về hướng Chí Tôn để rộng quyền làm tròn Thiên soái mạng”.
Các chơn linh đến
bực nào cũng phải do nơi ấy mà xuất hiện, như Thầy nắm trọn Thập Nhị Thời Thần
vào tay rồi mới khai Thiên lập Địa tạo Càn Khôn Vũ Trụ:
- Thiên khai ư
Tý.
- Địa tịch ư Sửu.
- Nhơn sanh ư Dần.
Khi đề cập tới
vũ trụ và nhân sinh, người tín đồ Đạo Cao Đài thường lưu truyền câu Thiên khai
ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần nghỉa là: Trời mở mang ở Hội Tý, Đất mở rộng
thêm ở Hội Sửu (tịch là mở), Người sanh ra ở Hội Dần. Các hội tiếp theo là sự
tiến hóa của trời, đất, người và vạn vật đến chỗ hoàn hảo. Đó là nói theo chu kỳ
tạo đoan của vũ trụ.
Xem như trên thì
Tam đầu chế Hiệp Thiên Đài tức là ba vị Thượng Phẩm, Thượng Sanh, Hộ Pháp có tuổi
lần lượt là Tý, Sửu, Dần; tức là đứng đầu ba con giáp. Trong 12 vị Thời Quân
cũng vậy, có ba vị: Khai Pháp (Tý), Khai Đạo (Sửu), Hiến Pháp (Dần) cũng đứng đầu
ba con giáp, tạo thành Tam Âm họp với Tam Dương của Tam Đầu chế Hiệp Thiên Đài
để điều hòa máy Âm Dương của Trời Đất. Tuổi tác các vị này quan hệ đối với cơ Đạo
cũng như thời tiết bốn mùa trong một năm vậy. Tất nhiên rất là trọng-yếu.
Các chơn linh dầu
nguyên nhân hay là hóa nhân, hễ chịu hữu sanh thì đều nơi tay Thập Nhị Thời
Quân mà siêu đọa, cũng như Thần, Thánh, Tiên, Phật nhờ Thập Nhị Thời Thần mà
thăng giáng. Thập Nhị Thời Quân tức là Thập Nhị Thời Thần tại thế. Thập Nhị Thời
Quân dưới quyền Hiệp Thiên Đài, chia ra làm ba chi: Pháp, Đạo, Thế.
Đức Chí Tôn dạy
"Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập Nhị
Thời Thần vào tay”.
Thay lời kết,
xin trích gởi đến bài thi của Đức Chí Tôn dạy trong “Thi Văn Dạy Đạo”, Thánh
Ngôn Hiệp Tuyễn:
Mở rộng đường mây rước khách trần,
Bao nhiêu tình gởi nhắn nguyên nhân.
Biển mê cầu ngọc liền phàm tục,
Cõi thọ sông ngân tiếp đảnh Tần.
Chuyển nổi Càn-Khôn xây Võ-Trụ,
Nhẹ nâng Nhựt-Nguyệt chiếu Đài-vân.
Cầm gươm huệ chặt tiêu oan-trái,
Dìu-độ quần-sanh diệt quả nhân.
Midland MI USA ngày 16 tháng 11, 2020
QS TS Nguyễn Thanh Bình
Ban Thế Đạo
ĐĐTKPĐ/TTTN
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I &
II, (1972).
2. Thánh Ngôn Sưu Tập, Quyển I-IV, Nguyễn
Văn Hồng Sưu Tập.
3. Bí Pháp và Thế Pháp Phật Pháp Tăng, QS
TS Nguyễn Thanh Bình (2019)
4. Thập Nhị Thời Quân (2009)
5. Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài (1932)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét