Thi Ca Ái Dân & Ái Quốc. * Biên khảo, HT / Huỳnh Tâm.

C
ui thế k 18, đu thế k 19. Có hai nhân vt bút danh Ái Dân và Ái Quc mượn thi ca luận tư duy chính khí. Đặc biệt vần thơ so cao thấp tài năng, đức hạnh, và thể hiện nguyện vọng.
         . Ái Quốc tên thật là Hồ Chí Minh (Lãnh đạo đảng Cộng sản Hà Nội), Ái Quốc tôn thờ vô thần Cộng sản, lợi ích tập trung, cai trị độc đảng, chỉ biết duy vật, nói theo nghĩa rộng nhất, là sự "thiếu vắng" niềm tin. Theo nghĩa hẹp hơn, chủ nghĩa vô thần là sự bác bỏ niềm tin thần linh. Theo nghĩa hẹp hơn nữa, cụ thể chủ nghĩa vô thần có quan điểm cho rằng không hề có thần linh. Chủ nghĩa vô thần đối lập với chủ nghĩa hữu thần.
 
         . Ái Dân tôn thờ hữu thần Tự do, lợi ích chia đều. dựa trên nền kinh tế qua mối quan hệ khăng khít. Chủ nghĩa hữu thần, trong lĩnh vực tôn giáo học so sánh, là thuật ngữ đối lập với vô thần, dùng để chỉ chung những niềm tin vào sự tồn tại của một hay nhiều vị thần. Theo cách nói phổ thông, hoặc khi so sánh tương phản với thần giáo tự nhiên, thuật ngữ này thường được dùng để mô tả quan niệm cổ điển về Chúa Trời được thấy trong các tôn giáo độc thần hoặc đa thần; một niềm tin vào một hoặc nhiều vị thần mà không hề chối bỏ phép mặc khải, và xem nó là một đặc tính của đức tin tự nhiên.
         . Vô Thần và Hữu Thần phục vụ nhân sinh khác nhau, hai điểm này không chạy trên một đường ray. Cho thấy Vô thần giao lưu buổi ban sơ không thuyết phục được Hữu thần, bởi không có tính đại lượng khiêm cung.
         . Ngày 20 tháng 4 năm 1946. Ái Quốc (Hồ Chí Minh) là người đại diện, gửi đến Ái Dân (Đức Phạm Công Tắc) một bài thơ "Thất ngôn bát cú", với âm hưởng nặng nề của người Cộng sản, lời lẽ thiếu văn hóa ứng xử chân thành, cho thấy thơ thiếu chất vận chuyển vào lòng đồng sinh. Thơ của Ái Quốc đậm đặc nồng độ khiêu khích, vốn tố chất thô bạo, hành động hung hăng, bịt kín công luận, chống lại người khác, với ngụ ý đe dọa Đức Phạm Công Tắc, phải nên lấy quyết định theo Cộng sản, qua lời của Ái Quốc thơ như sau:
" Tôi mới biết ông, ông với tôi
Hai vai oằn oại khó đi đôi.
Lỡ sanh Nam Bắc chung bờ cõi,
Cùng một ông cha một giống nòi.
Đành chịu cờ tàn thua nửa ngựa,
Cho hay miệng thế mới mười voi.
Mấy lời nhắn gởi xin ông nhớ,
Nước ngược buông câu cá chọn mồi."
* Ái Quốc (Hồ Chí Minh)
 
         . Ngày 26 tháng 4/1956. Ái Dân (Đức Hộ Pháp) không ngần ngại hồi âm qua bài thơ "Họa Vận" gửi đến Ái Quốc (Hồ Chí Minh), rằng:
Họa Vận
" Ông hướng ông, tôi hướng tôi.
Đạo Đời hai hướng khó đi đôi.
Lỡ sanh đồng chủng đồng tai mắt,
Chẳng nở ngồi yên bỏ giống nòi.
Vì chúng dấn thân vào miệng hổ,
Liều mình đánh cọp cứu đàn voi.
Cờ tàn mới biết tài cao thấp,
Nào phải như ai cá chọn mồi."
                                                        * Ái Dân (Đức Hộ Pháp)
 
         Quả nhiên, ý thơ Đạo-Đời của Đức Hộ Pháp vừa kín đáo, suy tư về đất nước chứa đầy tinh thần khẳng khái, ẩn trong câu thơ lời lẽ một nhân cách, của thành viên dân tộc Việt Nam, hiển hiện chất người nhân văn một nhà Đạo đức phi thường, vừa bảo cổ, vừa canh tân Đạo-Đời. Biểu lộ rõ ràng thái độ kiên cường với tinh thần vô lượng, và Ái Dân dứt khoát không có sự nhập nhằng hoặc pha trộn lưỡng lự Quốc-Cộng.
         Nội dung của hai bài thơ đối đáp, hiện rõ khí chất của mỗi tác giả:
. Hai từ "Ái Quốc" cho thấy tính khí "bản ngã" to hơn cái ôm, bởi chỉ một Hồ Chí Minh mới Ái Quốc, cho nên tác giả nói rằng:
" -  Tôi mới biết ông, ông với tôi "
         Ái Quốc phát biểu như thế hoàn toàn không am tường về những người làm cách mạng Việt Nam thời 1900. Trong đó có hai cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Khi Đức Phạm Công Tắc viết báo làm thơ thuở 23 tuổi (1890-1913).
          Đức Ngài dùng phương tiện đấu tranh bất bạo động, bằng khả năng viết những thiên Công luận, Thời đàm, Trào phúng, Nghị trường với chủ đề " Dân Tộc Ðoàn Kết & Thời Ðàm". Những báo chí đồng loạt loan tải như Lục Tỉnh Tân Văn, và Công Luận do chủ nhiệm Trần Chánh Chiếu điều hành. Nội dung kêu gọi Dân tộc Việt Nam đoàn kết.
         Đặc biệt, Đức Ngài viết thiên phóng sự, chủ đề "Thượng Bất Chánh, Hạ Tắc Loạn", loan tải trên tờ báo La Cloche Fêlée, do chủ báo Nguyễn An Ninh điều hành.
         Bút hiệu Ái Dân được đồng bào cả ba miền Bắc, Trung, Nam hưởng ứng, đồng tình xem như lời hiệu triệu trước Quốc dân.
         Đức Ngài tiến xa hơn, bằng cây bút Tây Sơn Đạo (Phạm Công Tắc), đem nghệ thuật tiếng cười vào phê phán chế độ Pháp Thuộc. Điều nổi bật khai thác sâu sắc tình huống mâu thuẫn giữa người Pháp và đồng bào Việt Nam, thông qua loạt bài trào phúng.
         Dùng từ ngữ, câu văn thay cho lời nói phê phán thói rởm của chế độ Pháp thuộc. Nghệ thuật Trào phúng luôn hướng tới việc tạo ra tiếng cười châm biếm, đả kích chế độ Pháp thuộc cai trị độc tôn.
         Tác giả Tây Sơn Đạo sử dụng cây bút sắc bén làm vũ khí, khả năng châm biếm, phê phán, đấu tranh với kẻ thù quá những bài viết ấn tượng sâu sắc. Thuở bấy giờ cây bút chuyên về Trào phúng rất hiếm hoi, nhất là viết điêu luyện, có tác dụng tư tưởng mạnh mẽ, bởi vậy người Nhà Pháp Thuộc tìm kiếm Tây Sơn Đạo để tiêu diệt.
         * Thuở ấy Ái Quốc chỉ là anh bồi bếp, thế má tác giả Ái Quốc tự cho mình:
" -  Tôi mới biết ông, ông với tôi "
         Cho thấy tác giả Ái Quốc mở lời đầu giao lưu đã không lấy gì khiếm nhã đối với mọi người.
         Trong văn hiến kim cổ của dân tộc Việt Nam có dạy, luôn coi trọng lời ăn tiếng nói, cách ứng xử, giao tiếp, và tương khính. Vì thế trong dân gian ta đã được lưu truyền những câu nói ngắn gọn nhưng lại giàu ý nghĩa tiêu biểu, như câu "Lời chào cao hơn mâm cỗ".
        * Ái Dân vốn Trời sinh có khí phách cứng cỏi và kiên cường, không chịu khuất phục bất cứ ai, liền họa vận:
" - Ông hướng ông, tôi hướng tôi."
         Tác giả Ái Dân mở lời hồi âm với Ái Quốc, đã xác định điểm đứng của mình không thể nào chấp nhận những ai thiếu văn hóa ứng xử, lại tự cho mình trên thiên hạ "Cha già dân tộc", thái độ ngạo mạn, trịch thượng thay vì không nên.
         * Tác giả Ái Quốc cho rằng:
" - Hai vai oằn oại khó đi đôi."
         Tác giả Ái Quốc thừa nhận, cho rằng cả hai đều có lòng với đất nước và dân tộc, dù đang oằn oại đau đớn trên vai. Thế nhưng khó thuyết phục được Thầy tu Ái Dân để chấp nhận đường hướng Chủ nghĩa Xã hội như Ái Quốc đang cơn khao khát. Thực chất của Ái Dân vì dân tộc Việt Nam, còn Ái Quốc vì Chủ nghĩa lệ thuộc Đế quốc ngoại bang "khó đi đôi" cũng phải thôi!
         * Tác giả Ái Dân thẳng thắn không e ngại, họa lại rằng:
" - Đạo Đời hai hướng khó đi đôi."
         Ở thế gian này, Đạo-Đời khó cùng hiệp lực mà từ cổ chí kim vẫn thế. Trong Đại Đạo cũng đã chỉ rõ chân lý, rằng: "Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền".
         Tác giả Ái Dân, nói lên đặc thù Đạo-Đời. Đạo chủ trương dâng hiến, phụng sự đồng sinh, còn Đời chủ trương cai trị, vơ vét theo sở thích của chế độ. Tác giả Ái Dân hiểu thấu điều này, cho nên phát biểu " - Đạo Đời hai hướng khó đi đôi ", dù Đạo cần đời, nhưng đời bị trị.
         Khổ nỗi đất nước Việt Nam vào thời này, lắm nhọc nhằn không được ân hưởng Thiên thời, Địa lợi, đôi điều trên không xa lắm chỉ cần bỏ xuống mọi dị biệt và tham lam sẽ hòa nhân, hiệp quần. Nhưng làn sóng Xã hội Chủ nghĩa xuất hiện tại miền Bắc, đẩy đưa Việt Nam có những lời thơ bất hợp tác như Ái Quốc phát biểu. Cho nên, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên danh nghĩa thống nhất đất nước, nhưng lòng nhân dân cả nước bất phục, vẫn âm ỉ chưa hề thống nhất lòng dân. Tác giả Ái Dân tiên tri, năm (5) từ rằng " hai hướng khó đi đôi ". 
         * Tác giả Ái Quốc rùng mạnh toàn thân một cách bất ngờ, cho rằng:
"Lỡ sanh Nam Bắc chung bờ cõi,"
         Ái Quốc có thái độ trách đất nước Việt Nam "lỡ sanh", tuy rằng "Nam Bắc chung bờ cõi" ngoài ý muốn. Phải nói rằng đất nước và dân tộc có sự liên kết tự nhiên thành nguồn sống không thể "lỡ sanh", thay vì đa tạ. Nếu trách thân phận không phùng thời, có thể chấp nhận được.
         * Ái Dân rất khẳng khái họa vận:
"Lỡ sanh đồng chủng đồng tai mắt,"
         Trái lại tác giả Ái Dân cũng trách "lỡ sanh" con người "đồng chủng" có đầy đủ "đồng tai mắt". Theo luận ngữ cho rằng dù con người có "lỡ sanh" bất phùng thời cũng cần có "tai" để nghe mà nhận thức sự việc hầu trải nghiệm trên cõi đời này, giá trị của "tai" là thính giác nhờ đó mới nhận biết các âm thanh.
            Con người có khả năng nhận biết khoảng tần số 16 - 20.000 Hz. Nếu tần số này không tương ứng với "Tai" sẽ biến bất thường. "Tai" cho phép con người phân tích mọi sự việc qua nhận biết. Cộng với bộ não phát triển của người nghe và hiểu ý nghĩa của lời nói để thực hiện theo hướng dẫn âm thanh. Nếu nghe sai lệch con người ấy mất thăng bằng. Vậy muốn biết "Tai" của Ái Quốc có vấn đề hay không hãy quan sát hành động tức thì biết được tư tưởng.
         "Mắt" cũng không kém quan trọng, bởi hệ thị giác, bao gồm cơ quan cảm giác, một phần của hệ thống thần kinh, cho phép hình thành một số chức năng phản ứng. Muốn nhìn thấu suốt phán đoán mọi việc, được coi là biểu tượng sự nhìn của con người.
         "Mắt" có nhiệm vụ phát hiện và giải thích thông tin từ ánh sáng "khả kiến" để xây dựng một hình ảnh thể hiện môi trường xung quanh. Hệ thống thị giác thực hiện một số nhiệm vụ phức tạp, bao gồm tiếp nhận ánh sáng, và hình thành các cấu trúc khác nhau, nhận thức chuyển động, hướng dẫn những liên quan đến các đối tượng nhìn thấy.
         Thế thì, nếu "mắt" của Ái Quốc bị có vấn đề do suy tưởng về đất nước Việt Nam theo hình thể khác. Cho nên tác giả Ái Dân báo động, theo nghĩa đen "tai mắt" là hệ thống cai trị công an mà Ái Quốc đang kiểm soát nhân dân miền Bắc, Việt Nam.
         * Tác giả Ái Quốc cho rằng:
"Cùng một ông cha một giống nòi."
         Ái Quốc tự nhận hay "Thấy người sang bắt quàng làm họ" cho đến nay chưa ai rõ Ái Quốc từ đâu đến. Lý do nào câu một (1) " Tôi mới biết ông, ông với tôi" đến câu thứ bốn (4) Ái Quốc nhận rằng "Cùng một ông cha một giống nòi." Xem chừng tư duy có ít nhiều mâu thuẫn. Có tính cách hạ mình cầu lợi hay chăng ? Hay Ái Quốc tâm bất ổn, sử dụng câu này, để hạ hỏa đối phương, xem như chiêu thức vừa đánh vừa hòa.
         * Tác giả Ái Dân khẳng khái họa vận:
"Chẳng nở ngồi yên bỏ giống nòi."
         Lời thơ của Ái Dân quách thước hơn, nói về tình hình đất nước, nghĩa vụ của một công dân không thể ngồi yên, bỏ mặc gốc rễ, tổ tiên giống nòi. Ái Dân quan tâm đến sinh tồn của đất nước không ngồi yên mà nhìn thấy những ai kia chuyển nhượng đất nước cho ngoại bang bằng nhiều hình thức khác nhau.
         Tác giả Ái Dân bộc trực, nghỉ sao nói vậy, một cách thẳng thắn không bẻ cong mình chịu nhục trước người khác để cầu xin điều gì, hay quỵ lụy trước mọi bạo lực. Cho nên mạnh mẽ thể hiện khí chất, qua câu một (1) " Ông hướng ông, tôi hướng tôi."  Và nối tiếp câu bốn (4) " Chẳng nở ngồi yên bỏ giống nòi ", tạo thành ngôn ngữ dân gian cũng là câu đối [1] tuyệt tác, thuộc thể loại văn biền ngẫu, gồm hai vế đối nhau nhằm biểu thị ý chí, quan điểm, tình cảm của tác giả trước hiện tượng hay sự việc nào đó trong đời sống cộng đồng và dân tộc. Cho thấy Ái Dân, vì dân, vì nước mà không vì người.
         * Ái Quốc thâm tận cùng đáy:
"Đành chịu cờ tàn thua nửa ngựa,"
         Tác giả Ái Quốc thiếu bình tĩnh, trước tình thế không làm chủ được hành động của mình, bởi một Ái Dân. Dùng mọi tình cảm cũng không thuyết phục được ai, lại thêm bối rối. Vốn đương sự có tính hung thần mạnh mẽ, nổi cơn "tam bành" của Bành Cư, Bành Kiêu, Bành Chất ở bên Tàu nhập vào Ái Quốc. "Đành chịu", có ý nghĩa thua đối tượng, cũng là hai từ buông xuôi, bỏ mặc không can thiệp đến, để cho sự việc tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu.
         "Cờ tàn" là giai đoạn cuối cùng của ván cờ đối thoại phân rõ cao thấp. Cuộc đối thoại này sử dụng Thi ca diễn ra như một bàn cờ, đôi bên tiêu hao khí lực, đơn giản là "thua nửa ngựa". Giai đoạn quyết định cuối cùng, đó là tàn cuộc.
         "nửa ngựa" có ý nghĩa nói về mã lực của 1 con ngựa, hôm nay "Đành chịu" biến thành xác khô, Ái Quốc cố ý đe dọa nhưng nói lên được nửa lời, xem như một ẩn dụ chết người.
         * Ái Dân lấy quyết định khẳng khái với lòng mình, hồi âm:
"Liều mình đánh cọp cứu đàn voi."
         Tác giả Ái Dân vốn đã có thiện chất đạo đức, quan điểm đúng đắn, một mình chấp nhận đứng lên giải quyết cho lẽ phải của đồng sinh. Tác phong can trường này "Liều mình" cứu đồng sinh, há sợ chi nguy hiểm, cho dù con cọp rừng xanh (Chiến khu Việt Bắc) mạnh đến đâu cũng phải đem thân " đánh cọp ", hy sinh tính mạng để giải thoát cộng đồng, xã hội. Đứng trước thách thức của đối thủ nào hề ngao ngán sợ ai. Ái Dân biết lượng mình và tự tin, quan trọng hàng đầu cần phải giải "cứu đàn voi" với đôi vai trách nhiệm không hề lui.
         * Ái Quốc phán rằng:
" Cho hay miệng thế mới mười voi."
         Tác giả Ái Quốc cảnh cáo "Cho hay", ngụ ý bảo Ái Dân phục tùng ta, đừng dại mà thiệt thân, bởi "miệng thế " của ta có sức mạnh hơn "mười voi ".
         Nếu ai không bình tĩnh đọc lời thơ này ắc nhiên phát lạnh rét dù ngoài trời 40°c. Không sai, người ta đã nói "thơ nào người đó". Lời thơ chỉ dấu ác một thì ngoài đời ác ngàn lần hơn!
         * Ái Dân không ngần ngại họa vận, rằng:
" Vì chúng dấn thân vào miệng hổ,"
         Tác giả Ái Dân không nao núng, gửi đến Ái Quốc một thông điệp "Vì chúng", đứng lên thực hiện chân lý sống "vì chúng" (đồng sinh). Chấp nhận "dấn thân", lao "vào miệng hổ" bất chấp gian nan, và nguy hiểm. "Dấn thân" không chỉ đòi hỏi phải có kiến thức mà còn cả cách sử dụng kiến thức, không chỉ đòi hỏi phải có bản lĩnh mà còn phải biết thể hiện bản lĩnh đúng mức và đúng chỗ, đúng thời điểm, và thực hiện đúng cơ bản vào vụ việc.
         Tất nhiên, Ái Dân có những sở trường sở đoản lao "vào miệng hổ", đối phó trước tình thế dù biết bất lợi cũng vì cứu đồng sinh.
         * Ái Quốc khuyên rằng:
" Mấy lời nhắn gởi xin ông nhớ,"
         Tác giả Ái Quốc có quá đáng hay không mà nhắc nhở Ái Dân "xin ông nhớ", cụm từ này như lời răng đe không kém, bởi Ái Quốc có mục đích riêng không muốn ai hơn mình, mới sinh nông nỗi tuôn lời nghĩa ý đe dọa, bởi tình cảnh, sự thế không được như ý muốn của Ái Quốc, v.v...
         * Ái Dân lồng lộng khí phách, đáp:
" Cờ tàn mới biết tài cao thấp,"
         Tác giả Ái Dân kiên cường, chuyển mình vươn vai, khí thế mạnh mẽ, nói lớn trận chiến Quốc-Cộng chưa phân "Cờ tàn", rồi đây lịch sử mai sau nhất định không tha thứ "nồi da xáo thịt" hay "rước voi giày mả tổ". Hậu thế phê phán minh bạch, khi ấy "mới biết tài cao thấp", còn hôm nay sự kiện đất nước, dân tộc Việt Nam chưa kết thúc trận chiến Quốc-Cộng chưa "tàn", bởi thời gian mới có đáp số.
         * Ái Quốc dùng mưu trí đánh lừa thời đại, cho rằng:
" Nước ngược buông câu cá chọn mồi."
         Tác giả Ái Quốc dùng mánh khoé, lời lẽ để dụ người khác vào tròng. Ái Quốc sử dụng chiêu thức Cộng sản lội dòng "nước ngược", khuyên Ái Dân "buông câu cá chọn mồi". Tác giả Ái Quốc quá khôn ngoan, muốn bắt cá lớn, chỉ còn lừa lọc một cách khôn khéo, nhất định Ái Dân khó chạy khỏi vì mưu lợi mà mất đi bình tĩnh không còn phân biệt Quốc-Cộng !
         * Ái Dân khẳng khái, họa lại rằng:
" Nào phải như ai cá chọn mồi."
         Tác giả Ái Dân, xem thường những ai đánh mất tính tự trọng, vì vậy Ái Dân vẫn bỏ xuống sự phiền giận, kiên cường trong ôn hòa, dũng mãnh lòng tha thứ, và ánh mắt nhìn lên trời mây trắng. Trách gã kia "Nào phải như ai" vẫn là kẻ phong tình đã quen hành vi không tốt, đối với đất nước Việt Nam.
         Ái Dân biết gã là người thợ nhuộm đỏ, liền mượn ba tử cuối "Cá chọn mồi" lập lại lời nói của Ái Quốc để xác định đương sự đã tiêu hóa "mồi" Cộng sản, những kẻ này khó tin, bởi Ái Quốc đã "chọn mồi" cắn câu Thủy Hử, một trong những phiên bản mà Ái Quốc cũng như Mao Trạch Đông áp dụng cho đảng Cộng sản Á Châu.
         Bút hiện Ái Dân và Tây Sơn Đạo, tên họ đầy đủ Phạm Công Tắc, Đạo danh Hộ Pháp của Đạo Cao Đài, đã tỏ rõ khí phách, khẳng định không ai có thể khuất phục được Ái Dân, bởi chính khí này chỉ để phục vụ đồng sinh không vì ai hay Cộng sản. Cho nên Đức Phạm Công Tắc mở lời đầu câu thơ, rằng: " - Ông hướng ông, tôi hướng tôi", và câu thơ kết " Nào phải như ai cá chọn mồi ". Đức Hộ  Pháp xác định tinh thần Quốc gia không thể ăn nhầm mồi cộng sản.
         Đọc thơ của tác giả Ái Quốc cảm nhận được âm hưởng gờn gợn, lời thô nhẵn, có quá nhiều vết nứt trong câu thơ. Gọi là thơ mắc nghẹn viên chè xôi nước, khó trôi qua khỏi thực quản! Cũng may đọc tiếp lời thơ của tác giả Ái Dân bỗng nhiên nhẹ thân, như dòng bạch thủy, thần dược, kéo trôi viên chè xôi nước, bằng không có thể chết ngạt !
         Ngày 21/6/1956. Sau khi Ái Quốc nhận được bài thơ hồi âm của Ái Dân.
         Hồ Chí Minh
         Nguyên văn điện thư của Hồ Chí Minh:
         " Thư gửi Hộ Pháp Phạm Công Tắc (21/6/1956).
         Kính gửi Hộ Pháp Phạm Công Tắc,
         Nôrođôm - Phnôm Pênh,
         Tôi cảm ơn bức điện Cụ gửi cho tôi ngày 26/4/1956. Và thành thật hoan nghênh Cụ đã tỏ ý mong muốn nước Việt Nam ta được hòa bình, thống nhất. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, toàn dân ta từ Bắc chí Nam, trong nước và ngoài nước đều đang kiên quyết và bền bỉ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của dân tộc, là làm cho đất nước Việt Nam ta được hòa bình, thống thất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Cuộc đấu trang hiện nay của nhân dân ta tuy khó khăn và phức tạp, song toàn dân ta đoàn kết một lòng, kiên quyết phấn đấu, cho nên quyết định sẽ thắng lợi.
Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 1956.
Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Hồ Chí Minh." [2]
Vài tháng trước, Ái Quốc cư xử bằng lời trịch thượng "Tôi mới biết ông, ông với tôi", đối với Ái Dân. Trái lại, hôm nay, Ái Quốc gọi Ái Dân bằng "CỤ" rất tương kính, bởi Ái Quốc bị một trận đòn thi ca nên thân, nhờ nguyên nhân này Ái Quốc tỉnh ngộ, vội gọi Ái Dân bằng "CỤ", hóa ra Ái Quốc vốn không minh bạch, đưa đến tình trạng muộn màng.
         Thực chất Ái Quốc không hiền, đã từng ra lệnh cho Cao Triều Phát đến Nam Vang ám sát Ái Dân (Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc), nếu thành công sẽ được Hồ Chí Minh phong danh hiệu Giáo Tông Cao Dài. Nhưng nào được toại nguyện bị Ái Dân thuyết phục, cuối cùng Cao Triều Phát tay không về lại Hà Nội, không bao lâu nhận lãnh cái chết một cách không minh bạch.
       
         Kết luận:
      . Trong thi ca trong sáng, minh bạch của tác giả Ái Dân, chuyên chở tâm tư "Hữu thần", nói lên khí chất của một "Lượng từ đạt lý", thể hiện con người và Đức tin cùng một thể, dùng ngôn ngữ lượng thứ bởi mục đích phía trước đầy tràng chân lý. Trái lại tác giả Ái Quốc đậm nét ám khói của "Vô thần", sử dụng thi ca vì mục đích "Lường từ đoạt lý", dùng ngôn ngữ hành vi gian dối để cướp chân lý đời sống xã hội.
     Vào năm 1940, Ái Dân đã có tiên tri rằng: " - Ngày hôm nay, có một con sâu bọ đỏ, nếu không diệt được, tương lai sẽ có triệu triệu con gặm nhấm đất nước Việt Nam, khi ấy sẽ bị chúng tàn phá khủng khiếp".
* HT/Huỳnh Tâm
 
Tham Khảo:
[1]  Đức Phạm Hộ Pháp Một Nhân Cách Vĩ Nhân. Huỳnh Tâm.
[2] Câu đối là một trong những thể loại của Văn học Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, và Hàn Quốc.

[3] Hồ Chí Minh viết ( Thư gửi Hộ pháp Phạm Công Tắc (21-6-1956) https://tennguoidepnhat.net/2012/05/16/thu-gui-ho-phap-pham-cong-tac-21-6-1956/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét