ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM TRONG BÍ PHÁP TỊNH LUYỆN CỦA ĐẠO CAO ĐÀI. * Từ Chơn.

G
IỚI THIỆU
Vào 1/3 âm lịch hàng năm Hội Thánh Cao Đài kỷ niệm ngày Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư trở về cõi thiêng liêng hằng sống.
Ngài là một trong những vị tiền bối đã mở đường khai phá vào những ngày đầu thành lập đạo Cao Đài. Sử đạo còn ghi lại lòng tin tuyệt đối của Ngài đối với Đức Chí Tôn Thượng Đế. Khi nghe lịnh mở đạo, Ngài lập tức từ bỏ cuộc sống sung túc, không ngại thiếu thốn, dấn thân làm người đi đầu mở đạo cho Đức Chí Tôn. 
Đến nỗi bạn bè phải khuyên can “Thầy Tư, sao thầy quá tin dị đoan. Con còn đang học bên Pháp, mà Thầy đi như vậy thì việc học của con phải dở dang sao ?” Xét kỹ tình cảnh của Ngài thì mới thấy đức tin này quả thực là rất hiếm có đối với một người bình thường dù là trong xã hội thuộc Pháp ngày xưa hay thậm chí ngày nay cũng vậy.
Đọc sử đạo, hầu như mọi tín đồ Cao Đài đều biết tiểu sử và công nghiệp của Ngài và người bạn đời là Bà Đầu Sư Hương Hiếu mà tín đồ thường gọi bằng một từ thân thương là Bà Tư, vì vậy trong bài viết này, chúng tôi không nhắc lại chuyện đó, mà chỉ xin thảo luận thêm về vai trò rất quan trọng của Ngài trong Bí Pháp Tịnh Luyện của Đạo Cao Đài.
 
NHỮNG DẤU ẤN THIÊNG LIÊNG
Trước hết, xin nói về những dấu ấn thiêng liêng mà Đức Ngài còn để lại cho những thế hệ trẻ Cao Đài. Chỉ xin nhắc những dấu ấn có liên quan đến Bí Pháp Tịnh Luyện thôi, bởi vì phần lớn các tác giả trước đây chỉ bàn lướt qua nên chúng ta không thấy hết sự quan trọng của những dấu ấn này.
Là một đồng tử quan trọng Chỉ riêng tại Đền Thánh, vốn là biểu tượng ở thế gian của Bạch Ngọc Kinh tức là trung tâm điều hành vũ trụ của Đức Chí Tôn, chúng ta đã thấy một điều hiếm có, nếu điểm qua các vị tiền bối thời kỳ mở đạo. Đó là Ngài được tạc tượng đến hai lần. Một là tượng toàn thân đứng trên ngai của Ngài, bên phải của ngai Hộ Pháp trong Hiệp Thiên Đài. Hai là tượng bán thân đắp nổi trên trần Cung Đạo.
Tượng Ngài đứng trên ngai, tính chung với tượng Đức Hộ Pháp, tượng Đức Thượng Sanh, chữ Khí sau lưng Đức Hộ Pháp và ngai Thất Đầu Xà (ngai hình rắn 7 đầu), là hướng dẫn cho pháp môn tịnh luyện xuất chơn thần của Cao Đài. Mọi người ai cũng có thể quan sát, nghiên cứu thể pháp này để tìm ra bí pháp cho riêng mình. Nếu ai quan sát mà không tìm ra được điều gì hoặc cảm thấy không thích, thì người đó chưa đủ căn quả để đi vào con đường thứ ba của đại đạo (tịnh luyện). Đường thứ nhất là tham gia làm chức sắc Cửu Trùng Đài, đường thứ hai là làm chức sắc Phước Thiện. Xin nói thêm, những vị chưa phù hợp để tịnh luyện thì không nên cố gắng tìm cách làm cho được vì sẽ rất khó thành công. Tuy nhiên, những vị đó không phải là không có cơ hội khác để đắc đạo. Trong đạo Cao Đài còn vô số pháp môn (cách tu tập) khác và nếu tìm ra được cách thích hợp cho bản thân thì ai cũng có thể đắc đạo cả. Tính từ ngày mở đạo đến nay nhiều vị tiền bối đã đắc đạo mà không thông qua tịnh luyện, chỉ nhờ làm công quả
thôi, như Phối Thánh Phạm Văn Màng, Phối Thánh Bùi Ái Thoại, Thánh Phi Châu (Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển) v.v...
Còn về tượng bán thân trên trần Cung Đạo, có người nói là của Hồng Quân Lão Tổ, vị Thánh tối cao của Đạo Lão, nhưng xét chủ đề của bức phù điêu là nói về những cách thông công giữa con người và các đấng thiêng liêng thì nói như vậy là chưa ổn lắm.
 
Tương truyền Đức Hộ Pháp bảo ông Tá Lý Bùi Ái Thoại lấy hình ảnh của Đức Thượng Phẩm làm mẫu khi đắp tượng này. Từ đó, trước hết, chúng tôi đoán tượng này có mục đích nhắc nhở mọi người về vai trò đồng tử rất quan trọng của Đức Thượng Phẩm trong buổi khai đạo. Bởi phần lớn các buổi “xây bàn” là diễn ra ở nhà Ngài và những bài cơ quan trọng có liên quan đến Tân Luật Pháp Chánh Truyền (Hiến Pháp Cao Đài) đều do Ngài và Đức Hộ Pháp phò loan (làm đồng tử cầu cơ). Đức Ngài cũng chính là người cầm Đại Ngọc Cơ khi Đức Chí Tôn trục thần Đức Hộ Pháp.
Nên nhớ là trong toàn bộ các đệ tử đầu tiên việc trục thần chỉ áp dụng duy nhất cho Đức Ngài Phạm Công Tắc. Tất cả các vị đệ tử còn lại trong số 12 vị đầu tiên đều không có thủ tục trục thần, chỉ quỳ tuyên thệ mà thôi. Đức Thượng Phẩm là một đồng tử quan trọng đến nỗi, sau khi Ngài bỏ xác phàm để về trời, ngày 1-3 Canh Ngọ (1930), Đức Hộ Pháp đã nói, “Cái cơ Phong Thánh, cơ lập thánh, cơ truyền giáo Ngài (Đức Thượng Phẩm) đã đem theo, nên ngày giờ này, thảng có cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn. Cái tiếc của Bần Đạo có hay chăng là ở điều đó".
Theo lời Bà Đầu Sư Hương Hiếu thì chỉ khi Đức Hộ Pháp và Đức Thượng Phẩm cầm cơ thì Đức Chí Tôn mới giáng. Do đó, Đức Hộ Pháp nói từ ngày Đức Thượng Phẩm mất đi, không có người cầm cơ để Đức Chí Tôn phong chức và dạy đạo nữa, phải nhờ Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng tạm cầm cơ thay thế.
Ngoài ra, tượng bán thân trên trần Cung Đạo còn ẩn dụ một điều nữa. Đó là Đức Ngài còn một nhiệm vụ trọng yếu nữa đối với Bí Pháp Tịnh Luyện Xuất Chơn Thần. Điều này sẽ được trình bày trong phần sau.
 
Vai trò quan trọng trong Hội Yến Diêu Trì Thứ đến, ngày nay khi vào Báo Ân Từ lạy Phật Mẫu, chúng ta thấy hình ảnh của Đức Thượng Phẩm quỳ dưới tượng của Mẹ và Cửu Vị Nữ Phật. Vậy là trong Nội Ô Thánh Địa, Đức Ngài được tạc tượng tới lần thứ ba! Theo truyền thuyết Trung Hoa, Hán (Hớn) Vũ Đế là người đầu tiên được tiếp kiến Phật Mẫu và Đức Hộ Pháp dạy rằng, "Nguyên căn của Hớn Võ Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập quốc gia. Kỳ Hạ Ngươn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành Quốc Đạo nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn".
Nghĩa là, tướng Chung Ly Quyền, một trong tám vị Tiên trong truyền thuyết Trung Hoa, giáng sanh là Hán Vũ Đế và ngày nay giáng sanh là Đức Thượng Phẩm. Hán Vũ Đế tiếp Phật Mẫu tại cung điện của mình còn Hội Yến Diêu Trì đầu tiên tổ chức tại nhà Đức Cao Thượng Phẩm. Vậy nên tạc tượng Thượng Phẩm đón Mẹ là dựa vào sự kiện này. Đức Hộ Pháp nhiều lần giải thích rằng Hội Yến Diêu Trì hàm chứa bí pháp giải thoát của đạo Cao Đài. Vì vậy vai trò của Đức Thượng Phẩm trong kỳ ba này là cực kỳ quan trọng mà các chơn hồn cần học hỏi để tự mình giải thoát khỏi vòng quay luân hồi sanh diệt triền miên.
 
VAI TRÒ TRONG BÍ PHÁP TỊNH LUYỆN
Chưởng quản các Tịnh Thất Theo Luật Cao Đài (Tân Luật Pháp Chánh Truyền) Thượng Phẩm chưởng quản các Tịnh Thất, nghĩa là Ngài trực tiếp chăm sóc việc tu tập tại đây. Tất cả các tín đồ vào tịnh luyện đều phải thực hành Bí Pháp Tịnh Luyện theo hướng dẫn của Ngài. Lúc mới mở đạo, Hội Thánh đã lập Tịnh Thất đầu tiên tại cụm rừng gần Báo Ân Từ mục đích là cho Ngài tĩnh dưỡng sau vụ khảo đảo của ông Tư Mắt (Nguyễn Phát Trước). Ngày 15/10/Mậu Thìn (1928) Hội Thánh đã đến Thảo Xá Hiền Cung rước Đức Thượng Phẩm về nhập Tịnh Thất này. Đến nay thì không còn nghe nhắc gì đến Tịnh Thất này nữa. Vậy người nhập Tịnh Thất Cao Đài đầu tiên chính là Đức Thượng Phẩm, cũng là người chưởng quản.
 
Tính cho đến nay thì Đạo Cao Đài dự kiến có ba tịnh thất là Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung (hiện làm nhà dưỡng lão) và Vạn Pháp Cung. Vạn Pháp Cung chưa xây dựng chính thức, nhưng một nhóm tín đồ Cao Đài đã tự động thành lập ở chân núi Bà Đen, không rõ có thông qua Hội Thánh hay không. Từ khi ban hành Tân Luật (1926) cho đến 700,000 năm nữa, các Tịnh Thất Cao Đài vẫn thuộc về quyền chưởng quản của Đức Thượng Phẩm cho dù Ngài không có mặt tại thế gian. Xin nhớ cho rằng, theo Tân Luật Cao Đài, chức vụ Giáo Tông có thể bầu cử người thay thế, nhưng Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh thì không. Chức sắc Hiệp Thiên Đài chỉ bầu cử từ chức vụ thấp nhất đến chức vụ cao nhất là Thập Nhị Thời Quân. Chức vụ Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh không có bầu cử người khác thay thế.
Vậy thì, hiện nay ba Tịnh Thất vẫn chưa hoàn chỉnh và Hội Thánh cũng chưa có tổ chức tịnh luyện chính thức. Tuy nhiên, ngày 1-2 năm Đinh Hợi (1947) Đức Hộ Pháp đã nói, “Chúng ta đạt pháp do chúng ta có ba thể tương liên. Đừng tưởng chúng ta không đạt được. Chúng ta hễ đi được thì đi hoài, đâu cũng có đường hết thảy. Song muốn đạt được pháp thì phải luyện. Ban sơ mới khai Ðạo chúng ta phải thi hành thể pháp. Nếu sau nầy không đạt được chơn pháp thì cũng như con người có quần mà không có áo vậy”.(Quyển 1 Bài 15 Thuyết Đạo ĐHP - Ban Tốc Ký). Nghĩa là, muốn đắc đạo phải phối hợp ba thể Tinh Khí Thần bằng cách luyện đạo. Nhưng lúc mới mở đạo thì phải lo thể pháp (nghi lễ cúng lạy) nhiều hơn còn về sau phải vừa lễ nghi cúng lạy vừa tịnh luyện song hành mới đúng. Như vậy, dư luận bấy lâu nay bảo rằng Đức Chí Tôn cho “miễn” tịnh luyện thậm chí là “cấm” tịnh luyện trong kỳ ba này là không có cơ sở.
Suy cho cùng, theo ý riêng chúng tôi, phải chờ vài trăm năm nữa, khi có Hàn Lâm Viện gồm Thập Nhị Bảo Quân đầy đủ, Hội Thánh mới định hình được Bí Pháp Tịnh Luyện và lúc đó mới tổ chức chính thức cho mọi tín đồ tham gia. Hiện nay (năm 2021) cũng có nhiều tín đồ tự mình tịnh luyện tại nhà theo những hướng dẫn riêng. Đó là những chơn linh cao trọng đáng tôn quý. Những vị này khi nhìn các bửu pháp ở Đền Thánh họ biết ngay là mình phải làm gì hoặc có khi các đấng thiêng liêng giáng tâm (truyền thẳng vào tư tưởng) cho họ cách tịnh luyện. Miễn là những vị đó làm đúng hướng dẫn và giữ đúng Tân Luật Pháp Chánh Truyền Cao Đài thì Đức Thượng Phẩm sẽ hỗ trợ cho họ được thành công. Lưu ý là người bình thường như chúng ta khó mà biết được những vị này vì họ không bao giờ nói ra cho mọi người biết.
Hỗ trợ sau khi xuất chơn thần Đức Thượng Phẩm còn giữ một vai trò rất quan trọng trong Bí Pháp Tịnh Luyện. Đó là giúp cho chơn thần di chuyển sau khi ra khỏi thể xác. Chắc mọi người còn nhớ ngày 24/8/1934, Đức Thượng Phẩm đã giáng cơ nói rằng, “Hồi em còn ở thế, sức giận của em đến đỗi, nếu em được thiêng liêng vị tức cấp (cho phép), thì có lẽ cây quạt của em đã đưa họ trụm vào Phong Đô (Địa Ngục) không sót một ai”. Từ đó có thể suy ra sức mạnh của Long Tu Phiến hay chính xác hơn là quyền năng của Ngài trên cõi thiêng liêng hằng sống rất lớn, có thể giúp các chơn thần đến bất cứ đâu trong vũ trụ của Đức Chí Tôn.
Còn trong quyển Bí Pháp Luyện Đạo, Bát Nương Diêu Trì Cung dạy rằng, trong khi luyện đạo, nếu chơn thần ra khỏi cơ thể được, hành giả muốn đi đâu thì cầu nguyện với Đức Thượng Phẩm, Ngài sẽ dùng Long Tu Phiến để đưa đi. Việc này khiến chúng ta nhớ lại và hiểu vì sao Đức Hộ Pháp bảo ông Tá Lý Bùi Ái Thoại đắp hình đầu người trên trần Cung Đạo theo ảnh Đức Thượng Phẩm để tượng trưng cho thể pháp thông công xuất chơn thần.
Nếu không có Đức Thượng Phẩm thì chúng ta chỉ lẩn quẩn quanhc hỗ mình ngồi sau khi xuất chơn thần mà thôi, không thể tiếp xúc với các đấng thiêng liêng để học đạo. Xin nhắc lại rằng trong Bí Pháp Tịnh Luyện của Cao Đài, xuất chơn thần chưa phải là đắc đạo, mà người tịnh luyện chỉ được gặp các đấng thiêng liêng để học đạo thêm nữa, tuỳ theo duyên phần của mình. Thường thì bên Thiền Tông Phật Giáo gọi là gặp minh sư, Cao Đài gọi là gặp chơn sư. Sau đó khi xuất tịnh (ra khỏi Tịnh Thất) sẽ tiếp tục hành đạo theo lời dạy cho đến khi đắc đạo.
Giúp đỡ trong việc trở về ngôi vị cũ Không những đối với những hành giả tịnh luyện mà với những tín đồ thực hành các pháp môn khác, như làm công quả, làm từ thiện v.v... thì quyền năng của Ngài cũng rất lớn. Hãy nghe Đức Ngài nói tiếp, “Nhưng chừng bỏ xác phàm, được nhãn huệ quang rồi, em lại thương đau thương đớn, dường như sợ cho họ sái đường lạc nẻo, thì phải mất một bạn thiêng liêng rất quí trọng vậy. Thành thử, phải dìu dắt, chìu theo tâm phàm họ cao thấp mà sửa từ bước, độ từ chặng, mà nếu rủi dìu họ không được thì phải tận tụy với trách nhiệm, làm thế nào cho họ đừng sa đọa Phong Đô, để cầu với Tam Giáo Tòa cho tái kiếp mà chuộc căn quả”. Như vậy, Ngài luôn sẵn sàng dạy dỗ và giúp đỡ mọi người tuỳ theo căn cơ của từng người. Thậm chí đối với kẻ tội lỗi, Ngài cũng tìm cách giúp cho họ không bị trừng phạt và xin cho họ đi đầu thai để chuộc tội. Chúng ta cũng đã thấy Ngài giáng cơ dạy đạo sau khi qua đời qua tác phẩm Luật Tam Thể.
Còn nữa, đêm 7-3-Kỷ Tỵ (16-4-1929) Đức Chí Tôn giáng cơ dạy:“Thầy đã nói rõ, Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng hại thay, vì biếng nhác, các con không đọc Thánh Ngôn của Thầy mà kiếm hiểu. Đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại thiêng liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa Thiên giùm đó con”.
Từ thánh ngôn nêu trên, có thể suy ra Đức Ngài có nhiệm vụ rất quan trọng trong việc đón tiếp và sắp xếp ngôi vị trên cõi thiêng liêng hằng sống cho các chơn hồn trở về sau khi chết. Và Đức Ngài luôn chờ đợi để giúp đỡ mọi chơn hồn bằng tình anh em bao dung. Biết được như vậy mọi người sẽ an tâm hơn khi trở về cảnh cũ. Ta có thể tạm hiểu Đức Ngài giống như là Phụ Trách Khen Thưởng trên trời đó vậy.
 
KẾT LUẬN
Tóm lại, mặc dù Đức Thượng Phẩm chỉ hành đạo có 4 năm ở thế gian, nhưng trọng trách của Ngài hiện nay trên cõi thiêng liêng hằng sống rất lớn. Đó là giúp đỡ các chơn hồn trở về có được ngôi vị xứng đáng và đặc biệt giúp những vị nào thực hành bí pháp tịnh luyện của Cao Đài thành công. Chơn thần của những vị này sẽ được Ngài đưa đến gặp chơn sư. Từ đó sẽ được dạy dỗ đến khi đắc đạo.
* Từ Chơn
Sài Gòn 11/4/2021
 
Tham khảo.
* Cao Thượng Phẩm-Luật Tam Thể-Nữ Đầu Sư Hương Hiếu-* Hiền Tài Trần Văn Rạng 1972.
* Đạo Sử I - Nữ Đầu Sư Hương Hiếu.
* Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I và II.
* Tự Điển Cao Đài (online) - Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét