1 . Pháp Chánh Truyền do
chính Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho:
Theo Cao Đài Từ Điển của HT
Nguyễn Văn Hồng:
"Pháp Chánh Truyền
là pháp luật chơn chánh mà Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế truyền dạy để làm
căn bản lập giáo, tổ chức và điều hành nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Pháp Chánh Truyền được Đức
Chí Tôn giáng cơ ban cho ngay sau khi làm Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm đặt tại
Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén) Tây Ninh. Đó là đêm 15 rạng 16 tháng 10 năm Bính Dần
(dl 20-11-1926), phò loan: Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh
Cư.
" Theo lời thuật lại
của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu thì đêm đó, Đức Chí Tôn giáng cơ viết rất nhanh, điển ký là
ông Giáo Hữu Son chép không kịp, Đức Chí Tôn bảo ông Hậu chép tiếp".
Chúng ta biết cặp cơ phò
loan do Đức Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm là cặp cơ quan trọng nhứt gọi là cặp
cơ Phong Thánh. Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức có thuyết giảng như sau: "Theo
lời Đức Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm là chơn linh Hớn Chung Ly, một vị Đại Tiên
trong Bát Tiên, lãnh sứ mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền tôn giáo tại thế nầy.
Người cùng Đức Hộ Pháp hợp thành cặp cơ Phong Thánh, lập Pháp Chánh Truyền và
Tân Luật để làm hiến chương cho nền Quốc Đạo".
Kế đến là việc khi Đức Chí
Tôn giáng cơ ban cho Pháp Chánh Truyền thì cơ viết rất nhanh mà một người chép
không kịp, đây là một huyền diệu để chúng ta thêm tin tưởng rằng đây quả là
Thiên ý chớ không mảy may có phàm ý xen vào.
2 . Pháp Chánh Truyền chú giải:
Pháp Chánh Truyền do Đức Chí
Tôn ban cho rất ngắn gọn chớ không có diễn tả chi tiết nên đến ngày mùng 3
tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp ban hành Đạo Nghị
Định thứ sáu, có đoạn sau:
"Nghĩ vì, Pháp Chánh
Truyền, Lão đã dạy Hộ Pháp chú giải, chẳng thi hành từ thử, làm cho Cửu Trùng
Ðài và Hiệp Thiên Ðài phản khắc Ðạo quyền, gây nên rối loạn Chánh Giáo Chí Tôn.
NGHỊ ÐỊNH
Hai vị Thiên Phong Giáo
Tông và Hộ Pháp phải điều đình Hiến Pháp, sửa trị Ðài mình cho hiệp Pháp Chánh
Truyền, nên đồng ký tờ nầy mà ước hẹn".
Do Đạo Nghị Định nầy Đức Hộ
Pháp chú giải, tức là giải nghĩa từng câu trong Pháp Chánh Truyền và sau đó Đức
Lý phê duyệt lại và từ đó chúng ta có Pháp Chánh Truyền chú giải.
3 . Pháp Chánh Truyền được Đức
Chí Tôn và Đức Lý ban cho qua nhiều bài Thánh giáo.
Pháp Chánh Truyền ấn định sự
phân quyền, phân nhiệm, phẩm phục cũng như phương pháp công cử của tất cả chư
chức sắc, chức việc... tức là tổ chức cơ quan quyền lực của Đạo nên Pháp Chánh
Truyền được mệnh danh là bộ hiến pháp của Đại Đạo. Theo lời giải thích của các
bậc tiền bối thì hiến pháp nầy thuộc cang tính hiến pháp tức là không thể sửa đổi
và có giá trị đến thất ức niên.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,
Đức Chí Tôn có dạy: "Thầy tưởng chẳng cần nói, nếu ai là đạo đức, đọc đến
cách lập pháp của Thầy mà chẳng mừng dùm cho nhơn loại".(15- 4-1928)
Pháp Chánh Truyền được ban
cho qua nhiều bài Thánh giáo trong nhiều ngày khác nhau, chúng ta có thể kể
như:
- PCT Cửu Trùng Đài nam phái
do Đức Chí Tôn ban cho ngày 16-10-Bính Dần, tức là ngày thứ hai trong lễ khai đạo
tại Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén).
- PCT Hiệp Thiên Đài do Đức
Chí Tôn ban cho ngày 21-1- Đinh Mão (13-2-1927).
- PCT Cửu Trùng Đài nữ phái
do Đức Lý Giáo Tông ban cho (không thấy ghi ngày tháng).
- Riêng về các phẩm trật chức
việc Bàn Tri Sự do Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp lập thành chớ buổi ban sơ
không có trong Pháp Chánh Truyền CTĐ.
Thực ra nếu cho PCT là bộ Hiến
pháp của Đạo Cao Đài thì phải bao gồm cả: Hành pháp, lập pháp và tư pháp. Chúng
ta biết cơ quan lập pháp của Đạo là ba Hội lập quyền vạn linh tức là Hội Nhơn
Sanh, Hội Thánh, và Thượng Hội. Mà ba hội nầy được thành lập do bài Thánh giáo
Đức Chí Tôn ban cho vào ngày 23-12-1931 như sau:
Thầy, các con
Thầy lấy làm vui được gặp
các con đủ mặt ngày-nay mà hầu Thầy.
Các con nghe lời dặn cần-yếu
nầy, mà làm phận-sự các con cho vẹn vẻ cùng Thái-Bạch.
Các con phải nhớ rằng toàn
Thế-giới Càn-khôn, chỉnh có hai quyền: trên là quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, dưới
là quyền-hành của sanh-chúng. Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh
của Ðại-Ðạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy
cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh, còn các con cả thảy đều đứng
vào hàng sanh-chúng, dưới quyền-hành chuyển thế của đời, nghĩa là toàn nhơn-loại
đồng quyền cùng Thầy, mà tạo-hóa vạn-linh vốn là con-cái của Thầy, vậy thì vạn-linh
cũng có thể đoạt-vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
Trong quyền-hành ấy có nhiều
đẳng-cấp, nên khỏi phải chịu phẩm Người: ấy vậy Người là chủ-quyền của vạn-linh.
Thầy nói rõ: quyền Chí-Tôn là Thầy, quyền Vạn-linh là sanhchúng, ngày nào
quyền-lực Chí-Tôn đặng hiệp một cùng Vạn-linh thì Ðạo mới ra thiệttướng. Thầy
đã ban quyền-hành Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là Giáo-Tông
cùng Hộ-Pháp. Vậy thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông
cùng Hộ-Pháp hiệp một.
Còn cả nhơn-loại thì là quyền
lực Vạn-linh. Quyền hành Chí-Tôn của Thầy, duy có quyền-hành Vạn-linh đối-phó
mà thôi.
Thái-Bạch hằng giận các con
rằng: mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ-Pháp mà banhành, thì các con lại còn
khi lịnh mà xem rẻ-rúng. Vậy thì từ đây hễ có mạng-lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ-truyền
thì các con phải hội đủ nhơn-sanh Hội-Thánh và Thượng-Hội mà xét nét cho cặn-kẽ
phân-minh, đặng thi hành phận-sự.
Thái-Bạch đã hứa cùng Thầy rằng,
qua ngày Tòa Tam-Giáo nữ-phái rồi, thì nó sẽ phong Thánh thêm nữa, Các con rán
mà chìu theo lòng nó nghe.
Thầy ban ơn cho các con. * Thăng.
Đây là bài Thánh giáo rất
quan trọng mà từ bài nầy mới có Ba Hội Lập quyền Vạn Linh: Hội Nhơn Sanh, Hội
Thánh và Thượng Hội. Và qua bài thánh giáo nầy ĐCT ban quyền Chí Tôn tại thế
cho 2 vị Giáo Tông và Hộ Pháp gộp lại.
Nên sau nầy chúng ta có thể
thỉnh cầu Hội Thánh cầu xin ĐHP chú giải thêm bài Thánh giáo nầy và thêm vào
PCT chú giải.
4 - Một số điểm đặc biệt của
Pháp Chánh Truyền:
- Tam đầu chế: tức là một phẩm
nhưng có đến 3 người quyền hành ngang nhau, đó là các phẩm: Chưởng Pháp, Đầu Sư
và Chánh Phối Sư. Đây là điểm ít thấy trong các nền chánh trị Đạo hay đời xưa
nay…Dĩ nhiên một việc gì ba người họp lại quyết định thì vẫn hay hơn một người…
- Trên hết là hai vị Giáo
Tông và Hộ Pháp, một người cầm quyền chánh trị và một người về luật lệ chớ
không phải một người nên tránh được nạn độc tài, độc đoán.
- Tuy nhiên trong trường hợp
cần quyền thống nhất thì hai vị Giáo Tông và hộ Pháp sẽ giao vào tay ba vị Đầu
Sư như trường hợp loạn Đạo thì ba vị Đầu Sư cầm quyền thống nhất để đối phó,
xong rồi thì giao lại cho Giáo Tông và Hộ Pháp như cũ…
- Buổi Tam Kỳ nữ phái được
nâng đỡ rất nhiều do vậy nữ phái cũng được vào hàng chức sắc Thiên phong như
nam phái song không được nắm quyền ở hai phẩm cao nhất là Giáo Tông và Chưởng
Pháp. Tuy nhiên về cấp số mỗi phẩm thì vô giới hạn chỉ trừ phẩm nữ Đầu Sư và nữ
Chánh Phối Sư thì chỉ một vị.
- Về Cơ Quan Lập Pháp gồm có
ba Hội là Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội, tức là Tam Viện chế (ngoài đời
thì Quốc hội chỉ có một Viện hay hai Viện mà thôi).
- Chánh trị đời theo chính
thể dân chủ hiện tại thường áp dụng nguyên tắc Tam quyền phân lập nghĩa là các
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp độc lập với nhau. Còn Chánh trị Đạo Cao
Đài các nghị viên trong Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội đều là chức sắc
chức việc đương quyền nghĩa là người của cơ quan hành pháp cũng là cơ quan lập
pháp…Điều nầy có lợi điểm là các vị nầy nhìn thấy được sự khó khăn trong khi
thi hành luật pháp và thấy được nhu cầu của nhơn sanh cần những luật lệ gì để lập
nên…Nhưng không phải vì vậy mà đưa đến độc tài vì ngay trong nội bộ cơ quan đã
có sự giám sát như Hội Thánh anh thì có phẩm Chưởng Pháp là người của HTĐ nằm
trong CTĐ; còn ở Hội Thánh em thì có phẩm Thông Sự có quyền giám sát hành tàng
của Chánh Trị Sự và Phó Trị Sự…Và bên cạnh còn có Pháp Chánh HTĐ giám sát việc
hành Đạo ở từng địa phương Trấn, Châu, Tộc Đạo…
- Hai phẩm Giáo Tông và Đầu
Sư có thể so sánh với Vua (hay Tổng Thống) và Thủ Tướng theo quyền đời. Theo
chính thể dân chủ thì Tổng Thống trong hoàn cảnh đặc biệt khẩn trương của đất
nước có thể được ban hành các sắc luật mà không cần quốc hội biểu quyết…Trong Đạo
Cao Đài Giáo Tông và Đầu Sư được quyền lập luật nếu thấy cần thiết cho nền Đạo…
5 - Ba phương cách lập luật
trong chánh trị Đạo Cao Đài:
a . Ba hội: Hội Nhơn Sanh, Hội
Thánh và Thượng Hội là Cơ Quan Lập Pháp chính yếu của Đạo. Ba Hội nầy được gọi
là ba Hội Lập Quyền Vạn Linh. Theo quyển Chánh Trị Đạo của Ngài Khai Pháp: "Trong
chánh thể trị Đạo, quyền dân được đặc biệt tôn trọng. Coi như Hội Nhơn Sanh,
trên có hai hội Hội Thánh và Thượng Hội hiệp lại làm cơ quan của quyền Lập
pháp, tức quyền Vạn Linh. Nguyện ước của Nhơn sanh sau khi được ba hội thảo luận
và đồng ý kiến chấp thuận được dâng lên quyền Chí Tôn phê chuẩn thành luật ban
hành"… Về cách biểu quyết nơi Thượng Hội: "Các điều ước nguyện
của Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh; những điều nào hoặc của Hội Nhơn Sanh mà Hội
Thánh đánh đổ, hoặc của Hội Thánh mà Hội Nhơn Sanh đánh đổ thì không được phép
đệ lên Thượng Hội, trừ khi nào có đơn của hai ông Nghị Trưởng kêu nài"…
"Khi đã bàn cải xong rồi, Hộ Pháp và Giáo Tông có ý kiến chi thì mới tỏ
bày sau rốt, rồi Nghị Trưởng (Giáo Tông) định cho bỏ thăm, vẫn lấy đa số thăm
làm qui tắc. Quyền của Giáo Tông và của Hộ Pháp hiệp lại là quyền Chí Tôn tại
thế, cho nên hai vị Đại Thiên Phong nầy khong có bỏ thăm . Nếu cả 3 Hội phản khắc
nhau thì quyến Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại chỉ định thế nào thì chánh trị Đạo
phải đi theo thế ấy. Thảng Giáo Tông và Hộ Pháp phản khắc nhau thì cả thảy ý kiến
chánh trị và nguyện ước của chúng sanh đều hủy bỏ. Chừng ấy, Hội Nhơn Sanh Hội
Thánh và Thượng Hội phải nhóm lại để thảo luận lần thứ hai nữa".
b . Hai vị Giáo Tông và Hộ
Pháp hiệp lại là Quyền Chí Tôn tại thế:
Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn
ngày 23-12-1931:
"Thầy đã ban quyền-hành
Chí-Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội-Thánh là GiáoTông cùng Hộ-Pháp. Vậy
thì quyền-hành Chí-Tôn của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một".
Đây là trường hợp Bát Đạo
Nghị Định do ĐHP và Đức Lý Giáo Tông ký ban hành vào ngày mùng 3 tháng 10 năm
Canh Ngọ (1930) và ngày Rằm tháng bảy năm Giáp Tuất (1934).
Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ
Pháp còn ban hành một số Đạo Luật khác như Đạo Nghị Định số 48 ban hành ngày 19
tháng 10 năm Mậu Dần (1938) thành lập Thập Nhị Đẳng Cấp Phước Thiện và ấn định
sắc phục cho chư vị nầy…
Ngoài ra Đức Hộ Pháp và Đức
Quyền Giáo Tông cũng ban hành một số Đạo luật điển hình như Đạo Luật tổ chức
Thượng Hội ban hành ngày 22 tháng Giêng năm Nhâm Thân 1932…
c . Đạo Luật do chư vị Giáo
Tông, Đầu Sư và Chưởng Pháp thành lập:
Pháp Chánh Truyền chú giải
nơi quyền hành Chưởng Pháp :
"Giáo Tông có quyền
lâp luật, ấy là quyền cao trọng của các Đấng Thiêng Liêng cùng Chí Tôn ban cho
nắm giữ, và Đầu Sư là người thay mặt cho cả nhơn sanh, ấy là quyền cao trọng của
cả nhơn sanh ban cho, hai đàng phải tương đắc mới bền vững cơ tạo thế Trời người
hiệp một…
Một Đạo luật nào của Giáo
Tông truyền xuống mà nghịch với sụ sanh hoạt của nhơn sanh, Đầu Sư đã định quyết
không thể thi hành đặng thì chính mình Đầu Sư phải đệ lên cho Chưởng Pháp mà cầu
người sửa cải.
Còn như Giáo Tông tiếp đặng
một Đạo luật nào của Đầu Sư dâng lên mà phạm phép Thiên điều thì chính mình
Giáo Tông cũng phải truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét, hai bên không đặng ỷ
quyền bỏ luật, làm cho thất thể đôi đàng; phải phải phân phân, để cho Chưởng
Pháp định liệu. Như quyết định mà hai đàng không thuận, thì người phải dâng lên
cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Đài cầu Thầy sửa lại, hay là Hộ Pháp luận ý đôi bên
mà lập lại…"
Ấy vậy Chưởng Pháp có quyền
xem xét luật lệ trước buổi thi hành. Luật lệ nào không có ba ấn Chưởng Pháp thị
nhận và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn thì cả chư Tín Đồ của Thầy không tuân mạng".
Trong Pháp Chánh Truyền, phần
quyền hành Đầu Sư cũng có đoạn:
"Ba vị Đầu Sư không
ai lớn, không ai nhỏ, Hay (1) quyền vốn đồng
quyền, Luật Lệ nào của Giáo Tông truyền xuống hay là của nhơn sanh dâng lên mà
đã có Chưởng Pháp và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn, thì dầu cho một người trong ba
mà chịu vâng mạng thì Luật Lệ ấy cũng phải buộc ban hành. Hay..(1) Trừ ra khi nào ba người đồng không thể tuân
mạng lịnh đặng, thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông; buộc Giáo Tông phải
truyền xuống cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa"…
6 - Tính cách Dân Chủ trong
chánh trị Đạo Cao Đài:
1) - Quyền ứng cử và bầu cử
vào các phẩm BTS nơi thôn xã:
Các phẩm trật BTS nơi thôn
xã được tổ chức bầu cử và ứng cử công khai và dân chủ để điều hành sinh hoạt Đạo
trong địa phương.
Trích Pháp Chánh Truyền: "Thông
Sự là người đồng thể cùng Phó Trị Sự trong địa phận của Phó Trị Sự cai quản,
song người có quyền về luật lệ chớ không có quyền về chánh trị.
Thông Sự là người của Hiệp
Thiên Đài để tùng quyền Chánh Trị Sự. Phận sự của người thì phải xem xét, kiểm
dượt cử chỉ hành đạo của Phó Trị Sự. Moi việc chi làm cho mất lẽ công bình nơi
địa phận của Phó Trị Sự cai quản mà Hội Thánh không rõ thấu, thì Thông Sự phải
chịu phần trách cứ.
Những điều chi sái luật Đạo,
chẳng y theo lịnh Hội Thánh tư truyền, hoặc sửa cải Tân Luật, hoặc cải lịnh
hành chánh, nếu chẳng có phép của Chánh Trị Sự truyền dạy mà Phó Trị Sự tự
chuyên thi hành, Hội Thánh lại không hay biết chi hết, thì tội tình ấy về phần
Thông Sự.
Tuy người phải chịu dưới
quyền Chánh Trị Sự mặc dầu, song đặng quyền sửa lỗi của Chánh Trị Sự. Thảng như
đã thấy lẽ vô Đạo hiển nhiên của Chánh Trị Sự, thì Thông Sự đặng phép can gián
sửa lỗi; nếu đã nhiều phen mà Chánh Trị Sự chẳng nghe và đã có tư tờ về Cửu
Trùng Đài mà Cửu Trùng Đài yêm ẩn, thì người đặng phép chạy tờ về Hiệp Thiên
Đài mà cầu xin sửa trị. Người phải chăm nom, binh vực những kẻ cô thế, bất câu
người có Đạo hay là ngoại Đạo, hoặc là bị tai nạn thình lình, hoặc bị nghèo nàn
đói khó, hoặc bị bịnh hoạn cô thân, hoặc phải bị tha hương lữ thứ, hoặc bị yếu
tha già thải, người đặng trọn quyền buộc Phó Trị Sự phải liệu phương giúp đỡ.
Bất kỳ Chức Sắc nào, dầu
lớn nhỏ cũng vậy, khi Thông Sự có gặp việc cần dùng gắp rút trong khi hành
chánh của Đạo thì buộc phải giúp đỡ binh vực.
Những kẻ nào mà Thông Sự
đã nhiều phen trách cứ về tánh cường ngạnh, không chịu giúp sức người trong cơn
gắp rút đã đủ chứng cớ thì Hiệp Thiên Đài sẽ xin Hội Thánh trừng trị…"
Đọc qua đoạn Pháp Chánh Truyền
nầy chúng ta vô cùng thích thú bởi vì Thông Sự là một chức việc cấp thấp nhất
nhưng quyền hành rất rộng lớn. Tiếp theo sau đây là quyền hành vị CTS cũng lớn
lao không kém:
Pháp Chánh Truyền ban quyền
cho phẩm CTS, có đoạn sau:
"Theo Thánh ý Đức Lý
Giáo Tông, thì quyền hành Chánh Trị Sự như vầy: Chánh Trị Sự phải chăm nom,
giúp đỡ sự sanh hoạt của Môn Đệ Thầy đã chịu dưới quyền người điều khiển, giúp
khó, trợ nghèo, coi cả Tín Đồ như em ruột, có quyền xử đoán, nhứt là việc bất
bình nhỏ mọn xảy ra trong phần Địa phận của mình, song phải tùng lịnh Giáo Hữu
và Lễ Sanh cùng người Đầu Họ.
Người Tín Đồ mà phạm luật
Đạo, thì Chánh Trị Sự phải khuyên nhủ răn he, ít nữa là đôi lần, thảng như
không biết ăn năn chừa cải, thì tư tờ về Thánh Thất sở tại cho Giáo Hữu, đặng
người đòi đến mà dạy dỗ răn he.
Như Giáo Hữu đã dạy dỗ
răn he rồi, mà còn tái phạm, thì Chánh Trị Sự có quyền đệ tờ lên cho người Đầu
Họ mà cầu xin Hội Thánh trừng trị hay là trục xuất, chiếu theo Tân Luật. Tờ nầy
phải làm ra hai bổn, một bổn tư về Hiệp Thiên Đài, và một bổn về Cửu Trùng Đài.
Như có điều chi sái luật
Đạo, mà Chánh Trị Sự đã nhiều phen tư tờ cho Cửu Trùng Đài, song Cửu Trùng Đài
yêm ẩn, thì Chánh Trị Sự đặng phép tư tờ thẳng lên Hiệp Thiên Đài, kêu nài định
đoạt".
Chúng ta chưa thấy một cơ chế
hạ tầng nào được hay đến nhu vậy, CTS là anh cả trong hương thôn lấy tình
thương yêu lo lắng cho chư tín đồ như anh ruột lo cho em. Cái hay ở chỗ nếu gặp
sự im ẩn theo hệ thống hành chánh Đạo thì các vị nầy có quyền tư tờ thẳng về Hiệp
Thiên Đài là cơ quan bảo vệ luật pháp tối cao của Hội Thánh…
Bây giờ xét đến quyền hành
và trách vụ của Hội Nhơn Sanh cũng gồm các đại biểu nhơn sanh từ Lễ Sanh, BTS
và chư tín đồ:
2) -Trách vụ tuyển cử:
"Nhơn sanh tuyển chọn
Chức sắc của Ðạo trong hàng Tín đồ. Bắt đầu cho chọn vào phẩm vị Chức việc Bàn
Trị Sự rồi mỗi khi thăng cấp, phải có sự công nhận của quyền Vạn Linh, hay nói
trước hết của Hội Nhơn Sanh". (trích Chánh Trị Đạo, Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa) Chúng ta nên biết Nhơn sanh có mặt ở khắp mọi nơi, cho nên hành tàng của
chư Chức sắc không thể nào qua mắt được nhơn sanh, thảng như vị đó trong quá
trình hành Đạo phạm phải lỗi lầm gì trọng hệ dầu Hội Thánh không biết nhưng thì
khi cầu phong sẽ đưa ra HNS duyệt xét trước, nếu HNS bác thì tên người đó sẽ bị
loại ra khỏi danh sách cầu phong…
3) - Quyền ủy nhiệm quyền
hành: "Thường những quyền nào trong nền Chánh Trị Ðạo đã khuyết mà
không người thay thế, vì nó có tánh cách quan hệ, cơ quan Chánh trị trao cho Hội
Nhơn Sanh để Hội nầy giao lại cho người nào và trọn ủy nhiệm cho người đó hành
sự. Ví dụ như: Quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo thuộc về Ðầu Sư mà trong Ðạo khuyết
phẩm Ðầu Sư nên Hội Nhơn Sanh năm Mậu Dần (1938) ủy nhiệm quyền thống nhứt cho
Ðức Hộ Pháp cầm cho tới ngày nào có Ðầu Sư chánh vị".
4) - Xem xét công việc đã
thi hành và kết quả của nó:
"Mỗi năm, kỳ Ðại Hội
Nhơn Sanh, Hội Thánh trình bày công việc của mình sắp sửa làm, đang làm hoặc đã
làm, và trình bày kết quả của nó giữa Hội và sẽ được Hội Nhơn Sanh thừa nhận
hay là khong".(trích Chánh Trị Đạo)
5) - Thể thức dân chủ trực
tiếp: Mỗi năm đầu tháng chạp âm lịch thì vị Nghị Trưởng HNS sẽ gởi chương trình
nghị sự xuống Châu Đạo, và vị Khâm Châu Đạo sẽ tổ chức HNS trong tỉnh mình gồm
tất cả Đầu Tộc Đạo, tất cả CTS, tất cả PTS, tất cả TS để bàn thảo các vấn đề
nêu ra rồi đúc kết quyết định của tỉnh nhà sau đó giao cho chư vị nghị viên
mang về HNS ở Tòa Thánh. Đây có thể nói là hình thức dân chủ trực tiếp có thể
phản ảnh nguyện vọng của nhơn sanh khắp nơi không thiếu nơi nào dầu xa xôi nhất…
Một nền dân chủ quá hay…
6) - Nền dân chủ hướng thượng:
Hội Nhơn Sanh đưa ra những luật lệ chìu theo phàm ý, dục vọng của nhơn sanh.
Sau đó dâng lên Hội Thánh, và Hội Thánh sẽ lọc lừa, sửa đổi lại các điều nhơn
sanh đưa ra để phù hợp với Thánh chất. Sau cùng trình lên Thượng hội và Thượng
Hội sẽ duyệt lại lần nữa để chắc rằng luật lệ ấy khong rời xa Thiên ý…
Cho nên chúng ta có thể nói
luật lệ Cao Đài theo thể thức dân chủ nhưng là nền dân chủ hướng thượng…Cho nên
xã hội sẽ luôn tiến triển theo chiều hướng đạo đức chớ khong bị sa đọa tội lỗi…
7) - Quyền Vạn Linh ngang bằng
quyền Chí Tôn:
Quyền Vạn Linh là quyết định
chung của ba Hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội. Còn quyền Chí Tôn tại
thế Thầy ban cho hai vị Giáo Tông và Hộ Pháp hiệp lại. Đức Chí Tôn dạy tiếp:
"…quyền-hành Chí-Tôn
của Thầy đặng trọn-vẹn khi Giáo-Tông cùng Hộ-Pháp hiệp một. Còn cả nhơn-loại
thì là quyền lực Vạn-linh. Quyền-hành Chí-Tôn của Thầy, duy có quyền-hành Vạn-linh
đối-phó mà thôi".
Đây là nói chung toàn cả
nhơn loại, còn nói riêng trong phạm vi một quốc gia, nếu áp dụng theo thể chế
Cao Đài thì quyền hành của toàn dân ngang bằng với quyền hành của vua hay nhà cầm
quyền. Như vậy sẽ không còn giai cấp thống trị và kẻ bị trị. Đây là điều nhức
nhối xưa nay người ta đi tìm kiếm một thể chế công bằng không còn cảnh người bốc
lột người, thì nay Đức Chí Tôn đã đem đến cho nhân loại điều đó…
7 - Quyền Thống Nhất của Đầu
Sư.
Trong Pháp Chánh Truyền chú giải
phần quyền hành Đầu Sư: "QUYỀN THỐNG NHỨT: Khi minh thệ rồi, Đầu Sư đặng
cầm quyền luôn cả và Chánh Trị cùng Luật Lệ. Nhờ quyền lớn lao này; Đầu Sư sẽ
có đủ thệ lực mà ngăn ngừa tà quyền hại Đạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba
Chánh Phối Sư không đủ sức chống ngăn, thì Đầu Sư đặng dùng quyền thống nhứt ấy
mà điều khiển Hội Thánh. Cả Chức Sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải phục
mạng, dầu cho Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy".
Nghĩa là khi bình thường Đầu
Sư phải tùng lịnh của Giáo Tông và Chưởng Pháp mà hành sự, nhưng khi cầm Quyền
Thống Nhứt thì Người có toàn quyền quyết định (sau khi minh thệ và được Giáo
Tông và Hộ Pháp chấp thuận). Trong quyển Chánh Trị Đạo của Ngài Khai Pháp có giải
nghĩa về Quyền Thống Nhứt như sau: "Trong Chánh Trị Ðạo tuy rằng tôn trọng
dân quyền một cách đặc biệt, không phải là không độc tài. Trong buổi loạn Ðạo
mà GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP phản khắc nhau, không thể gì nắm vững nền Chánh Trị Ðạo
cho khỏi xáo trộn, hoặc vì tà quyền lẩn lộn, thì GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP ủy nhiệm
cho ÐẦU SƯ cầm quyền thống nhứt Chánh Trị Ðạo, nghĩa là nắm cả chánh trị và luật
lệ trong tay, tự do sử dụng, tùy nghi thế nào để dẹp yên mối loạn. Khi đó GIÁO
TÔNG và HỘ PHÁP cũng phải cúi đầu vâng mạng lịnh của quyền thống nhứt. Khi hết
loạn thì ÐẦU SƯ phải giao quyền thống nhứt lại cho GIÁO TÔNG và HỘ PHÁP".
8 - Đức Hộ Pháp chưởng quản
Nhị Hữu Hình Đài. Tình hình Đạo rối loạn từ năm 1933, một số các vị chức sắc
cao cấp tổ chức Hội Vạn Linh tại Tòa Thánh nhằm đánh đổ Đức Quyền Giáo Tông
nhưng bất thành, sau đó đến giữa năm 1934, hai ông quyền Đầu Sư Thượng Tương
Thanh và Ngọc Trang Thanh về Thánh Thất An Hội Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo…
Tình hình còn đang gay go
thì đến ngày 13-10-Giáp Tuất (1934) Đức Quyền Giáo Tông đột ngột đăng tiên. Lễ
an táng nhập bửu tháp vào ngày 26-10-Giáp Tuất, cũng trong ngày nầy Hội Thánh
lưỡng đài họp phiên đặc biệt giao cho Đức Hộ Pháp đảm nhận luôn quyền Giáo Tông
(phần xác) của Đức Quyền Giáo Tông vừa đăng tiên tức là chưởng quản luôn Cửu
Trùng Đài.
Quyết định nầy của Hội Thánh
lưỡng đài sau đó được Đức Lý chấp thuận qua bài thi:
" Hộ giá Chí
Tôn trước đến giờ.
Pháp luân thường chuyển máy Thiên cơ,
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị,
Quản xuất càn khôn định cõi bờ.
Nhị kiếp Tây Âu cầm máy Tạo,
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ,
Hình hài thánh thầ chừ nên tướng,
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ. "
Bài thi khoán thủ các chữ đầu
câu họp lại thành: Hộ Pháp Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài. Từ đó Đức Hộ Pháp dùng
danh xưng nầy trên các văn kiện ban hành.
Sau đó, bởi vì không còn ba
vị Đầu Sư và trong tình hình loạn Đạo. (hai vị Đầu Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc
Trang Thanh tách rời Tòa Thánh còn vị Đầu Sư Thái Thơ Thanh thì về nơi tư gia
an dưỡng), nên đến năm 1938, Hội Nhơn Sanh năm Mậu Dần (1938) đã ủy nhiệm quyền
thống nhứt của chư vị Đầu Sư cho Ðức Hộ Pháp cầm cho tới ngày nào có Ðầu Sư
chánh vị.
Như vậy thời kỳ nầy Đức Hộ
Pháp nắm luôn quyền Giáo Tông và Quyền Thống Nhứt của ba vị Đầu Sư. Và Đức Lý
Giáo Tông vẫn còn cầm quyền Giáo Tông Thiêng Liêng.
9 - Vấn đề đối phẩm.
Pháp Chánh Truyền chú giải,
phần quyền hành Chánh Phối Sư có đoạn:
"Trong Cửu Trùng Đài
có Đầu Sư thì đối với phẩm Địa Tiên, Chưởng Pháp thì đối với phẩm Nhơn Tiên,
Giáo Tông thì đối với phẩm Thiên Tiên: Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Phật vị tại
thế nầy. Ấy vậy, các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng Trọn Lành của Bát Quái Đài.
Giáo Tông giao quyền cho Đầu Sư, Đầu Sư lại phân quyền cho Chánh Phối Sư, lập Đạo
đặng độ rỗi nhơn sanh; cũng như Hộ Pháp giao quyền cho Thượng Sanh và Thượng Phẩm;
còn Chánh Phối Sư và Phối Sư đối phẩm Thiên Thánh, Giáo Sư đối phẩm Nhơn Thánh,
Giáo Hữu đối phẩm Địa Thánh, Lễ Sanh đối phẩm Thiên Thần, Chánh Trị Sự, Phó Trị
Sự và Thông Sự đối phẩm Nhơn Thần, Chư Tín Đồ đối phẩm Địa Thần. Ấy vậy, các vị
ấy đối phẩm vào hàng Thánh của Bát Quái Đài là cầm quyền lập Đạo".
Tuy nhiên, người chức việc,
đạo hữu muốn được đối phẩm phải được Hội Thánh công nhận và làm tròn trách vụ của
mình. Ngoài ra người chức sắc Đại Đạo còn phải được Quyền Chí Tôn phê chuẩn.
Trước năm 1975, việc cầu phong vào hàng chức sắc CTĐ do Đức Lý Giáo Tông phê
chuẩn, còn chức sắc HTĐ và Phước Thiện do Đức Hộ Pháp phê chuẩn.
Như vậy ngày nay nơi Hải ngoại
chúng ta công cử BTS để hành Đạo nhưng chưa được Hội Thánh (đúng chơn truyền)
công nhận thì việc đối phẩm cũng không chắc được. Và các chức sắc chưa được cơ
bút chấm phong thì cũng vậy…
10 - Vấn đề Tịch Đạo.
Tịch Đạo nêu lên Thánh danh
của chư chức sắc CTĐ, mỗi đời Giáo Tông thì dùng Thánh danh khác nhau để phân
biệt từng thời kỳ mỗi vị Giáo Tông.
Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho
Tịch Đạo nam phái:
"Thanh Đạo tam khai
thất ức niên,
Thọ như địa huyển thạnh
hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh
khí,
Tại vạn cổ đàn chiếu Phật
duyên. "
Và Tịch Đạo Nữ phái:
" Hương Tâm nhứt phiến
cận Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo
mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ
sanh tồn."
Về Tịch đạo, Pháp Chánh Truyền
chú giải phần quyền hành Nữ Đầu Sư có giải thích về Tịch Đạo như sau:
"Đương đời này của Đức
Lý Giáo Tông, thì Nam lấy chữ "THANH" Nữ lấy chữ "HƯƠNG"
làm tịch, tức là cả Đạo Hữu Nam Nữ từ Tín Đồ chí Thiên Phong đều trong đời Đức
Lý Giáo Tông hành chánh đứng vào tịch Thanh, Hương. Qua đời Giáo Tông khác thì
Nam sẽ lấy chữ "Đạo" Nữ chữ "Tâm".
Rồi cả chư Đạo Hữu Nam Nữ sẽ
lấy Tịch: Đạo, Tâm; như vậy nối truyền hoài cho hết Tịch Đạo thì Thầy sẽ giáng
cơ cho Tịch Đạo khác nữa. Lớn nhỏ, sau trước nhờ chữ Tịch Đạo ấy mà phân biệt.
Tức là mỗi chữ trong hai bài
thi trên tương ứng với một Tịch đạo, mỗi bài thi gồm 28 chữ, vậy trải 28 đời
Giáo Tông mới hết, và Đức Chí Tôn sẽ giáng cơ ban cho Tịch Đạo tiếp theo…
11 - Nếu áp dụng luật công cử
thì còn cầu cơ bút không ?
Pháp Chánh Truyền chú giải về
luật công cử chư chức sắc CTĐ nam nữ như sau:
"Cả Chức Sắc Cửu
Trùng Đài Nam Nữ, đều phải thọ phong nơi Hiệp Thiên Đài hoặc bởi cơ bút hoặc bởi
khoa mục hoặc bởi công cử. Nên khi công cử phải có mặt Chức Sắc Hiệp Thiên Đài,
giữ lẽ công bình cho khỏi điều tư vị, lại còn có phương thế hỏi Đức Giáo Tông
cùng Thầy, coi người đắc cử có phải chánh vị hay chăng? nên trước khi thọ sắc
phải do nơi Đức Giáo Tông cùng Thầy mới đặng".
Chúng ta nên để ý câu cuối: "trước
khi thọ sắc phải do nơi Đức Giáo Tông cùng Thầy mới đặng", tức là sau
khi công cử phải cầu cơ bút để Đức Lý Giáo Tông hoặc Đức Chí Tôn chấp thuận mới
được…
12 - Phần kết:
Pháp Chánh Truyền là bộ hiến
pháp do chính Đức Chí Tôn và Đức Lý ban cho. Sự phân quyền phân nhiệm giữa các
cơ quan, các phẩm trật nhằm thực hiện được: luật thương yêu và quyền công
chánh. Một xã hội thực hiện được điều nầy sẽ tốt đẹp biết bao.
Pháp Chánh Truyền áp dụng
nguyên tắc Trời người hiệp nhứt hay Quyền Vạn Linh hiệp nhứt cùng Quyền Chí
Linh, loài người tiến hóa thuận theo Thiên ý thì thế giới sẽ thăng hoa theo chiều
hướng tốt đẹp chớ không còn sa đọa tội lỗi nữa…
Sau cùng chúng tôi xin mượn
lời thyết Đạo của Đức Hộ Pháp để kết luận bài nầy:
"...Bây giờ nhơn loại
đương chạy kiếm chủ quyền, chủ quyền ấy dầu nó thế nào cũng không thể tồn tại
được." Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn
đến, Đức Ngài nói: "Phương pháp tạo quyền của nhơn loại không thể gì bền
vững được, Ta coi các người đập phá tan tành hết; Ta đến cho lại, Ta chỉ đường
cho.
Đường Đức Chí Tôn chỉ
là con đường Pháp Chánh vậy. Ngày giờ nào trên mặt địa cầu nầy quốc gia, xã hội, nhơn quần biết tìm chủ quyền
đặc sắc vĩnh cữu, công chánh; tức phải đồ theo Pháp Chánh của Đạo Cao Đài, tạo
hình tướng Thánh Thể quốc gia, có lẽ ngày giờ đó Thiên hạ mới thấy chủ quyền của
Đạo Cao Đài định thật quyền cho quốc gia và toàn thể nhơn loại...
Ấy vậy ngày giờ nào nhơn
loại trở lại con đường đạo đức đặng giải kiết, gầy dựng phương pháp sống mới, sống
vinh quang sống ôn tồn hạnh phúc. Ngày giờ nào tiêu diệt được quả kiếp hung tàn
trở lại con đường đạo đức, ngày giờ ấy quốc gia mới yên ổn, ngày giờ ấy thiên hạ
mới hưởng được hồng ân đặc biệt của Đức Chí Tôn ban cho".
(Trích Con Đường Thiêng
Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp thuyết tại Đền Thánh đêm mùng 8 tháng 10 năm Mậu
Tý (11-1948)
HT/Mai Văn Tìm (8-2021)
GHI LẠI MỘT SỐ CÂU THẢO LUẬN ĐỀ TÀI PHÁP CHÁNH TRUYỀN:
1 - Pháp Chánh Truyền là bản Hiếp pháp của Đạo, diễn tả
cách tổ chức, phân quyền trong Đạo, vậy người tín đồ có cần phải học hỏi cho
thông suốt Pháp Chánh Truyền không ?
Người tín đồ cũng cần phải thông hiểu Pháp Chánh Truyền
để có thể chọn con đường lập công bồi đức, hành Đạo ở cơ quan nào cho thích hợp
với khả năng, hoàn cảnh của mình, thí dụ như hành chánh, Phước Thiện, Tu chơn,…
Có khi người chức sắc, chức việc không làm đúng chức
năng hoặc hướng dẫn Đạo đi sai đường, mình là người tín đồ phải biết để kịp thời
can ngăn, không ủng hộ việc làm sai trái…
2 - Xin giải thích ý nghĩa đoạn Thánh giáo sau đây:
"Thầy đã lập hình-thể hữu-vi của Thầy, nghĩa là Hội-Thánh
của Ðại-Ðạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền-hành trọn-vẹn của Thầy
cho hình-thể ấy, đặng đủ phương tận-độ chúng-sanh (1),còn các con cả thảy đều đứng
vào hàng sanh-chúng, dưới quyềnhành chuyển thế của đời (2), nghĩa là toàn
nhơn-loại đồng quyền cùng Thầy (3), mà tạohóa vạn-linh vốn là con-cái của Thầy,
vậy thì vạn-linh cũng có thể đoạt-vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.(4)"
(Trích TNHT, Q. 2).
Bốn câu trên có thể giải thích như sau:
(1) Hội Thánh là hình thể hữu vi của Thầy tại thế, Hội
Thánh gồm chức sắc từ phẩm Giáo Hữu trở lên đến Giáo Tông còn gọi là vào hàng
Thánh thể. Chức sắc Hội Thánh đã hoàn toàn phế đời hành Đạo. (về phương diện lập
pháp thì phải kể cả 2 Hội là: Thượng Hội và Hội Thánh). Thầy ban cho Pháp Chánh
Truyền ấn định quyền hành mỗi phẩm chức sắc.
(2) Hàng sanh chúng hay chúng sanh gồm cả Kim thạch,
thảo mộc, thú cầm và nhơn loại. Nhơn loại hay nhơn sanh là phẩm đứng đầu của
chúng sanh. Còn Lễ Sanh là làm đầu nhơn sanh (theo định nghĩa Hội Nhơn Sanh).
Trong Hội Nhơn Sanh phẩm người là đại biểu cho cả
chúng sanh, nghĩa là đại biểu cho cả kim thạch, thảo mộc và thú cầm, Hàng nhơn
sanh còn sống trong xã hội nên còn chịu ảnh hưởng của quyền đời.
Hàng sanh chúng thì còn trong vòng luân hồi chuyển kiếp.
(3) Cả ba Hội: Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh
hợp lại là Quyền Vạn Linh theo Thánh giáo cho phép đồng quyền cùng quyền hành
Chí Tôn. Ba hội nầy đại diện toàn cho nhơn loại.
(4) Vạn linh là gồm cả Bát hồn từ vật chất (kim thạch)...
cho đến Phật vị. Ý nghĩa câu Thánh giáo nầy là các chơn hồn Kim thạch, Thảo mộc
và Thú cầm không cần qua phẩm người cũng có thể đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật
đặng.
3 - Kể từ sau ngày Hội Thánh bị giải thể (1979) đến
nay việc hành Đạo nơi Tòa Thánh Tây Ninh có đúng với Pháp Chánh Truyền không ?
Hiện nay chức sắc HTĐ không còn thực thi sứ mạng bảo
thủ chơn truyền và thông công với Bát Quái Đài, nên đây là điều khiếm khuyết…
Để trả lời câu hỏi nầy xin hãy đọc lại bài tường thuật
về tiên tri của ĐHP sau đây:
"Thời Đức Hộ Pháp còn sanh tiền, cứ mỗi ngày vào
buổi sáng và buổi trưa mọi người tu chơn của phạm môn tụ tập uống trà ở chiếc
bàn bằng đá dưới bóng cây bên cạnh Tòa Nhà Trí Huệ Cung, uống trà xong mọi người
mới chia tay ai nấy các tư kỳ phận làm công quả.
Một hôm Đức Hộ Pháp ở trên Tòa Nhà Trí Huệ Cung đi xuống
và đến ngồi uống trà chung với mọi người tu chơn, mọi người tập trung vào uống
trà để được nghe Ông nói chuyện.
Đức Hộ Pháp dạy: Người tu là phải buông bỏ hết tất cả
mà tại sao Qua lại phải giữ cây roi giáng ma xử trong tay, đời có luật pháp của
đời để trừng trị tội phạm, Đạo có luật pháp của Đạo để trừng phạt kẻ phạm pháp
của Đạo, cây roi giáng ma xử, nói đúng hơn là một lá bùa giáng ma xử, còn cây
roi nầy là cây roi đả Thần Thánh Tiên, còn lá bùa giáng ma xử Qua nắm giữ trong
tay là một chiếu chỉ của Đức Chí Tôn ban, là một hiệu lịnh trọn quyền trừng phạt
kẻ gian tà lợi dụng Đạo để làm hại chúng sanh và kẻ trung thành bị xúi giục
trở lòng phản phúc, cây roi nầy Qua có quyền đánh không tha.
Đạo Cao Đài đến lúc sau này phải nhường chỗ cho anh
Kim Quang Sứ nắm trọn quyền để độ quày các đệ tử của Anh do luật Thiên Điều chấp
thuận, lúc đó mấy em nào không phải trong hàng để đệ tử của Anh thì ngồi êm đó
mà nhìn và an phận tu thân mà chờ đợi Qua.
Qua nói cho biết trước để đừng trách Qua hay trách Đức
Chí Tôn, khi quyền hành vô tay người nào thì người đó có quyền sắp xếp và thay
đổi, chính Qua cũng phải đứng đó mà nhìn họ làm, nhưng việc gì cũng có Đức Chí
Tôn chứng kiến, luật pháp của Thiên Điều không tư vị một ai, làm gì thì Thiên
Điều vẫn là Thiên Điều.
Cho nên đứa nào là đệ tử của Anh Kim Quang Sứ thì hãnh
diện đắc lực, đắc ý còn đứa nào là con cái của Đức Chí Tôn thì vô phương phụng
sự cho Đạo, khổ lắm, mà chịu khổ được cúi đầu ngó thẳng đi tới là đắc Đạo còn
đứa nào chịu đựng không nổi xé rào leo tường hoặc ngó lại đằng sau thì đừng
trách Qua.
Ở đằng sau cây roi đã Thần Thánh Tiên Qua đang nắm giữ
trong tay, Qua sẽ đánh từng đứa không tha, không phải học trò của Hộ Pháp hay
con cái của Đức Chí Tôn mà được bao che để thoát khỏi tội lỗi đâu, chưa kể là
còn bị đòn nhiều hơn nữa là khác, có trừng phạt như vậy mới gạn lọc đời thánh đức,
để khi Anh Kim Quang Sứ trả quyền lại cho Đức Chí Tôn thì Đạo mới tồn tại Thánh
Đức.
Thôi! Mấy lời nhắc nhở cho mấy em hiểu về cơ nghiệp của
Đạo Sau này là vậy, khổ lắm đa ! Phải giữ gìn đức tin cho thiệt thọ mới được
đó, tất cả đi làm đi. Phạm công Tắc chết chớ Hộ Pháp là luôn ở bên cạnh con cái
của Đức Chí Tôn để trừng phạt đó, nhớ mà liệu giữ mình cho lắm đa". (Tài
liệu Phạm Môn)
4 - Chánh Trị đời khác với chánh trị Đạo như thế nào ?
Chánh trị đời nhằm mang lại danh, lợi, quyền cho những
người cầm quyền của một nước nên các đảng phái chánh trị tranh nhau để đoạt thủ
quyền hành vào tay mình. Có khi họ dùng những thủ đoạn vô đạo đức miễn nắm được
quyền hành. Khi củng cố được quyền hành một số ít người biết đạo đức còn nghĩ đến
quyền lợi, đời sống người dân, còn những nhà độc tài thường bắt nhân dân phụng
sự cho những tham vọng của họ…
Chánh trị Đạo dùng luật thương yêu, quyền công chánh để
tạo nên một xã hội công bằng, bác ái. Trong đó mọi người dân được hưởng một đời
sống ấm no, hạnh phúc cùng phát huy đạo đức tu hành. Người cầm quyền Đạo lấy
tinh thần vị tha, phụng sự nhơn sanh chớ không vì quyền lợi bản thân mình mà
phương hại đến xã hội nhơn quần…
5 - Là người tín đồ thì tu sao cho đúng với Pháp Chánh
Truyền:
Ý kiến 1: Phương pháp tu hành của người tín đồ căn bản
là tuân theo những điều qui định trong Tân Luật như giữ ngũ giới cấm, tứ đại điều
qui, ăn chay, cúng kiếng, …còn hàng phẩm chức sắc, chức việc mới thực hành theo
Pháp Chánh Truyền…
Ý kiến 2: Tu theo tinh thần Pháp Chánh Truyền là đào
luyện các đức tính giống như chức sắc từ thấp lên cao như: trau giồi hạnh đức
(lễ Sanh), làu thông giáo lý, kinh sách Đạo (Giáo Hữu), thương yêu, chăm sóc đời
sống nhơn sanh (Giáo Sư), đào luyện tinh thần thanh tịnh của tiên gia (Đầu Sư)…
Ý kiến 3: Tu theo tinh thần Pháp Chánh Truyền là tập
luyện được tâm thương yêu xử sự công chánh (luật thương yêu, quyền công chánh)…
Ý kiến 4: Là người tín đồ muốn tu đúng theo Pháp Chánh
Truyền, mình phải biết quyền lợi và bổn phận của người tín đồ như:
- Tham gia tích cực vào việc ứng cử và bầu cử các phẩm
chức việc như Thông Sự, Phó Trị Sự khi có khuyết cần bầu lại.
- Tham gia ứng cử và bầu cử các phái viên từ hàng đạo
hữu vào Hội Nhơn Sanh. Lựa chọn những người có khả năng, hạnh đức để đại diện
cho mình trong Hội Nhơn Sanh…
- Khi có cuộc công cử lựa chọn phẩm Giáo Tông, thì nhiệm
vụ của người tín đồ rất quan trọng nên phải sáng suốt tham gia bầu cử.
- Giúp đỡ tạo nên sự đoàn kết, thương yêu nơi thôn
xóm…
- Khi thấy những đạo hữu khác làm sai luật Đạo mà BTS không biết, mình có thể báo lại BTS để khuyên giải người anh em mình…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét