Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Sinh Lộ Cho Nhân Loại - 3 /3 (Chánh Kiến Cư Sĩ)

6 . CƠ THỬ THÁCH & GẠN ĐỤC KHƠI TRONG (1975-20…)
Đạo Cao Đài trở thành một tôn giáo lớn có khoảng năm triệu tín đồ đang hoạt động tích cực tại Việt nam và trên khắp thế giới. Cơ sở Trung ương đặt ở tỉnh Tây-ninh gọi là Tòa Thánh Tây-ninh. Từ một khu rừng rậm hoang vu chỉ có 96 mẫu, sau đó nhờ mua thêm và khai khẩn, đến nay đã rộng 20.363 mẫu.
Về mặt tôn giáo, nơi đây đã trở thành một Thánh địa với đô thị đông đúc trù phú, chia thành 18 Phận Đạo.

Tôn giáo Cao Đài có một hệ thống tổ chức hành chánh Đạo khá chặt chẽ, từ Trung-ương đến địa-phương gồm có 5 cấp, chia ra Trấn-Đao (gồm có nhiều tỉnh), Châu Đạo (tỉnh),Tộc Đạo hay Họ Đạo (quận, huyện), Hương Đạo (Xã). Để truyền giáo các nước thì  trước đây có Hội Thánh Ngoại-Giáo (Mission Étrangère) đặt tại Phnom-Penh (Cambodge). Vì nhìn thấy sự tổ chức chặt chẽ nầy, mà từ khi được thành lập, các chính quyền đều lo ngại Cao Đài là một tổ chức chính trị, mưu đồ lập một quốc gia trong một quốc gia! Sau sự áp bức của thực dân Pháp, từ năm Ất Mùi (1955) cho đến nay, Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tiếp tục trải qua những cơn thử thách nặng nề. Niềm ưu tư đè nặng lên trái tim của những tín đồ trung kiên bởi “ khoa thi dường như kéo dài vô tận”.

8 . 6 . Ất Mão ( 16.7.1975) Chính quyền đóng cửa ra vô vùng Nội ô Tòa Thánh. Sau đó, do có phái đoàn quốc tế đến tham quan nên cho mở cửa lại.

23. 4 . Bính Thìn ( 21. 5.1976) Nguyễn văn Phú và Trương Ngọc Anh, đại diện Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc khám xét văn phòng Ban Đao sử. Sau đó, đến 29.11.1976, Ty Công an tỉnh Tây Ninh khám xét Ban Đạo sử lần hai, Ban Thế Đạo, Y viện Phước Thiện, Thư viện.

20 . 7 . 1977 ( 5.6 Đinh Tỵ) Trương Ngọc Anh thay mặt chính quyền Tỉnh Tây Ninh hỏi mượn trụ sở Ban Thế Đạo, Viện Đại học Cao Đài, văn phòng Khâm Thành Thánh địa, cùng văn phòng các cơ quan khác ở ngoại ô.

14.1.1978 ( 8.1 Mậu Ngọ) chánh quyền ra lịnh đổi giờ cúng lễ Vía Đức Chí Tôn từ thời Tý ( 12 giờ khuya) thành giờ Ngọ và chỉ cho người nào được phép cư ngụ trong Nội ô mới được đi cúng.

9.3.1978 ( 1.2 Mậu Ngọ) chính quyền khám xét Đền Thánh, buộc mở cứa hầm dưới Bát Quái Đài và khám xét các nơi thờ phượng tôn nghiêm khác. Sau đó, chính quyền ra lịnh tịch thu tài sản của Đạo: tất cả xe cộ, điện thoại, máy đánh chữ, máy quay ronéo, hồ sơ, tài liệu…kế đến là tịch thu dinh thự, đất đai, cơ sở sản xuất

Từ 1.11 đến 4.11.1978 ( Mùng 1.10 đến 4.10. Mậu Ngọ) chức sắc các cấp phải tập trung lại để học tập cái gọi là “ Bản án Cao Đài”, sau đó viết bài “ thu họach”.

20.11.1978 ( 20.10 Mậu Ngọ) 124 Chức sắc, Chức việc và tín đồ bị mời đi học tập tại Bến Kéo.

12.2.1979 ( 16.1 Kỷ Mùi) Hội Thánh ban hành thông tri số 001/HT/TT xin được trích đăng như sau: “…Vậy, Hội Thánh thông tư cho Chức sắc, Chức việc và toàn Đạo được rõ…
· Về đường lối hành Đạo: Hội Thánh kêu gọi tất cả hãy vì quyền lợi tối cao của dân tộc Việt Nam, vì đại nghiệp Thiêng liêng của Đạo mà hướng theo tiếng gọi của Hội Thánh, quyết tâm gột rửa mọi nhận thức sai lầm, suy nghỉ nông nổi đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, do một số người cầm đầu trong Đạo trước đây đã gieo rắc… Hãy nhìn thẳng lên ngọn cờ độc lập chính nghĩa của dân tộc mà đặt vững lòng tin với sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt nam…, để mãi mãi xứng đáng một thành viên trung thành trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam...?
· Điều chỉnh cơ cấu hành Đạo gọn nhẹ: Hội Thánh thành lập một tổ chức hành Đạo gọi là Hội Đồng Chưởng Quản hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Hội Đồng gồm có:
- 1 Chưởng Quản, 1 Phó Chưởng Quản
- 1 Từ Hàng, 1 Phó Từ Hàng
- 8 Hội viên…

1.3.1979 ( 4.2 Kỷ Mùi):  một Đạo lịnh giải thể toàn bộ các cơ cấu tổ chức Chính Trị Đạo, từ trung ương đến địa phương do chư vị sau đây thay mặt Hội Thánh ký:
- Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa.
- Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh.
- Ngọc Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh

Nhận định:
Đạo Cao Đài ra đời đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của người Việt Nam. Tuy có sẵn những tín ngưỡng bản địa, những tôn giáo cổ truyền như Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo nhưng trong tâm hồn của người Việt, nhất là những người dân sống trên vùng đất Nam Kỳ vẫn có nỗi trống vắng của một nhu cầu tâm linh chưa trọn vẹn và họ mơ ước có một sắc thái tâm linh nào đó mới mẽ, sâu sắc mà không giáo điều. Sự ra đời của Đạo Cao Đài đã đáp ứng điều mơ ước đó:
- Đạo Cao Đài tổng hợp giáo lý của các nền tôn giáo lớn
- Đạo Cao Đài có tinh thần nhất nguyên, đại đồng, bình đẳng vì cùng nhìn nhau là anh em, tất cả đều là con của Thượng Đế.
- Đạo Cao Đài có triết lý sâu sắc về vũ trụ và nhân sinh.
- Đạo Cao Đài có tinh thần xã hội, quan tâm đến đời sống của mọi người và tinh thần cộng đồng bền chặt. Từ tổ chức Phước thiện, người tín đồ có Viện Dưỡng Lão, Viện Cô Nhi, trường học, nhà thương thí, sở dạy nghề…đến tổ chức Ban Tri sự là cấp hành chánh thấp nhất ở hương, ấp để lo cúng Liên Gia, Quan hôn tang tế hay hòa giải khi có xích mích.
- Kinh lễ, giáo lý của Đạo Cao Đài dùng tiếng Việt nên dễ nhớ, dễ hiểu.
- Giáo dục thế hệ trẻ biết giữ gìn di sản văn hóa dân tộc, đền thờ Miếu Đình, Tông Đường; biết kính trọng Tổ Tiên, hiếu thảo với Cha Mẹ, sống một cuộc đời lành mạnh và có ý nghĩa.

Chính vì thế, chỉ trong thời gian ngắn số tín đồ đã lên đến hơn hai triệu người. Các tín đồ Cao Đài đều tự hào nói rằng: Đạo Cao Đài là tôn giáo của Việt Nam. Sự gắn bó Đạo Pháp và dân tộc là điều được coi trọng trong tâm thức của người tín đồ.

Đức Chí Tôn đã dạy từ khi mới lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: " Chánh trị với Đạo chẳng buổi nào tương hiệp cùng nhau…" Thật vậy, chánh trị vốn của người phàm, được tạo ra từ thuở có xã hội loài người tới nay thành một quốc sách, đủ mưu đồ, đủ thứ xảo thuật, dám dùng mọi biện pháp để biện minh cho chủ đích. Đạo thì trái ngược hẳn, phải chơn thật, minh chánh, công bình và bác " phép lạ, sự mặc khải, sự Linh Thiêng " đã có từ các tôn giáo nguyên thủy và không ai dám cho đó là mê tín dị đoan. Đời sống là một thế giới đa dạng và con người có vô vàn câu hỏi từ thế giới hữu hình đến thế giới vô hình. Ngày nào còn con người, ngày đó còn tôn giáo vì đó là sức mạnh nội tâm, chiều cạnh tâm linh của con người; nếu sống chỉ biết có vật chất và khoa học thì thật là một thiếu sót lớn lao.

Dù ý phàm không hiểu nỗi ý Trời, muốn hay không muốn, dù bị phá hoại đủ kiểu thì “Cái gì của Chúa phải trả lại cho Chúa”. Thánh ý của Đức Chí Tôn sẽ đặt Thánh-địa Cao-Đài trở thành một nơi Quốc-tế-hóa như Thánh địa Vatican (Ý) của Giáo hội Thiên Chúa giáo La-mã, một Thánh Thị vô phòng thủ và không chịu sự thúc phược của bất cứ một quyền lực đời nào. Một số người nhận định Đạo Cao Đài chỉ là một phong trào xã hội bộc phát, sẽ mất đi khi xã hội phát triển, những thế hệ sau sẽ không còn ai biết đến Cao Đài! Hiện nay, hệ thống hành-chánh-đạo chỉ còn có hai cấp là Tòa Thánh Tây Ninh và hương xã. Từ vật chất đến tổ chức của Đạo tuy bị thu hẹp ở trong nước, nhưng sau biến cố 1975, trong số làn sóng người Việt Nam di tản có những tín hữu mang theo niềm tin và giáo lý Cao Đài truyền bá khắp nơi. Hội Đồng Chưởng Quản ở Tây Ninh không quản lý số tín đồ nước ngoài, nhưng có Cơ quan Truyền giáo Hải ngoại lo việc truyền giáo và liên giao với các tôn giáo bạn. Tổ chức này đã được cơ quan Liên Hiệp Quốc thừa-nhận và đã cử đại diện tham gia các hội nghị quốc tế về tôn giáo. Ngoài ra, còn có các Thánh Thất, các Hội Tín Hữu Cao Đài ở Hoa Kỳ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Úc Đại Lợi, Nhật Bản …

Trong thế giới phẳng hiện nay, mọi người dễ dàng tìm hiểu và chia sẻ thông tin với nhau. Vì thế, mọi sự không có gì bưng bít được. Làm ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại là làm chậm bước tiến hóa của chính mình. Xã hội nào càng có nhiều người biết lo tu hành, xã hội đó càng ổn định và ít tệ nạn xã hội. Hãy biết quý trọng hồng ân của Đức Thượng Đế đã dành cho dân tộc Việt Nam khi Khai Đạo tại một nước nhỏ bé nghèo khổ này. Đó mới thực sự là khôn ngoan và sáng suốt của người lãnh đạo.
Hảo Nam bang ! Hảo Nam bang !
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.

Đức Phạm Hộ Pháp nói rằng: chúng ta mới chỉ là những người cắm hoa tiêu mà thôi. Tôn giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ còn trường tồn đến thất ức niên  (700.000 năm).

TRIẾT LÝ ĐẠO CAO ĐÀI
Vũ trụ quan và nhân sinh quan của Đạo Cao Đài  dựa trên nguyên lý VẠN VẬT ĐỒNG NHỨT THỂCàn khôn vũ trụ và chúng sanh đều từ Đức Thượng Đế sanh hóa tạo ra và theo quy luật “Sanh, Thành, Hoại, Diệt”, tất cả rồi sẽ trở về hiệp nhứt cùng Thượng Đế. Thật vậy, theo nghiên cứu của các nhà khoa học và theo lời dạy của các Đấng Thiêng liêng, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều điểm tương đồng phù hợp với nguyên lý này.  
CHƯƠNG I

VŨ TRỤ QUAN

Vũ trụ quan là một hệ thống tư tưởng trình bày về sự hình thành của vũ trụ, và những biến đổi của nó.Theo Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài thì Vũ trụ hiện hữu của chúng ta có hai phần:  phần Hữu hình thấy được và phần Vô hình không thấy được.

 

TIẾT 1: PHẦN HỮU HÌNH CỦA VŨ TRỤ


I . VŨ TRỤ & TÔN GIÁO
Trong Đạo Cao Đài, sự hình hành Vũ trụ được Đức Chí Tôn giảng dạy ngắn gọn trong các đoạn Thánh Ngôn sau:
Thầy đã nói với các con rằng : Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì Khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng, mới lập ra Càn khôn Thế giới. Thầy lại phân Tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : Vật chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm, gọi là chúng sanh.”
(TNHT hợp nhứt, B 140)

“ Nếu không có Thầy thì không có chi trong Càn khôn Thế giới nầy, mà nếu không
có Hư Vô chi Khí thì không có Thầy.” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 22)

       

“Đứng bực Đế vương nơi trái địa cầu nầy chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy, cái quí trọng của mỗi địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới đệ nhứt cầu, Tam Thiên Thế Giới, qua khỏi Tam Thiên Thế Giới thì mới đến Tứ Đại Bộ Châu, qua Tứ Đại Bộ Châu mới vào đặng Tam Thập Lục Thiên, vào Tam Thập Lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc Kinh, là nơi Đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.”

       
A . HƯ VÔ CHI KHÍ
Thời nguyên thủy, cả không gian có một chất khí Hồng Mông hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, hiện hữu mà không biết được nguồn gốc có từ hồi nào và do đâu. Khí ấy được gọi là Hư Vô chi Khí. Khí Hư Vô ấy còn được gọi bằng nhiều danh từ khác nữa: Khí Hồng Mông, Khí Vô Vi, Khí Tiên Thiên, Khí Hạo Nhiên.
        Phật giáo gọi Khí Hư Vô là Chơn Như.
        Lão giáo gọi khí ấy là Đạo.
        Nho giáo gọi khí ấy là Vô Cực.

B . THÁI CỰC
Khí Hư Vô  lần lần ngưng kết, đông tụ lại với nhau lâu đời nhiều kiếp, chừng đúng ngày giờ thì nổ ra một tiếng lớn rúng động cả không gian, sanh ra một khối Đại Linh Quang phát ra hào quang chiếu diệu. Khối Đại Linh Quang ấy là Đại Hồn của Đấng Thượng Đế, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, tuyệt diệu tuyệt huyền, biến hóa vô cùng, nắm trọn quyền hành tạo hóa. Vũ trụ từ đây mới bắt đầu có ngôi Thái Cực, đấng Sáng tạo, tuyệt đối, duy nhất.

A.     LƯỠNG NGHI- TỨ TƯỢNG- BÁT QUÁI
Ngôi Thái Cực phân định ra Lưỡng Nghi : Nghi Âm và Nghi Dương. Hai Nghi ấy chính là Khí Dương quang và Khí Âm quang, là hai khối năng lượng vĩ đại vô cùng vô tận mang hai tánh chất đối nghịch nhau, nhưng lại có ái lực với nhau. Đấng Thượng Đế chưởng quản khí Dương quang, còn khí Âm quang chưa có ai chưởng quản, vì lúc bấy giờ chỉ có duy nhứt một Đấng Thượng Đế được hóa sanh ra trước tiên mà thôi. Ngài liền hóa thân ra Đức Phật Mẫu và giao cho Đức Phật Mẫu chưởng quản khí Âm quang.Vũ trụ từ đây bắt đầu có hai khí: Dương quang và Âm quang do hai Đấng đầu tiên chưởng quản là Đức Thượng Đế và Đức Phật Mẫu. (Đức Phật Mẫu chỉ là một hóa thân của Đức Thượng Đế).
Hai khí Dương quang và Âm quang xoay chuyển không ngừng, đun đẩy cho rộng lớn thêm ra mãi để tạo thành Tứ Tượng. Tứ Tượng là bốn tượng : Thái Dương, Thái Âm, Thiếu Dương, Thiếu Âm. Tứ Tượng tiếp tục xoay chuyển, càng rộng ra thì tốc độ xoay chuyển càng lớn, tạo thành Bát Quái. Bát Quái tiếp tục xoay chuyển, càng rộng thêm ra, tốc độ quay càng lúc càng lớn, để rồi đun đẩy va chạm nhau, phát sanh nhiệt độ rất lớn, tạo nên Càn Khôn vũ trụ và sau khoảng thời gian rất dài mới tạo nên vạn vật.

II . VŨ TRỤ & KHOA HỌC
Vũ trụ của chúng ta đã bắt đầu như thế nào? Các tiến bộ khoa học đã làm thay đổi một cách căn bản quan niệm về nguồn gốc của chúng ta. Lịch sử về nguồn gốc chúng ta trải dài khoảng 14 tỉ năm, trong một không gian rộng lớn mênh mông – bán kính của vũ trụ quan sát được khoảng 14 tỉ năm ánh sáng ( vận tốc của ánh sáng là 300.000 km/giây).

A .  VŨ TRỤ KHÔNG CÒN VĨNH HẰNG & BẤT BIẾN.
Ngày nay, chúng ta biết rằng nó được sinh ra trong một vụ nổ kinh hoàng có tên là Big Bang. Trái cầu lửa tỏa rộng ra, rồi  từ nhiệt độ cao kinh khủng nguội dần tạo nên khối vật chất gọi là vũ trụ mà ta biết. Hàng tỷ tỷ các phân tử nguội đi, xoay cuộn lại nhau theo lực hút và tạo thành các tinh tú, các hành tinh. Nó đã sinh ra hàng trăm tỉ Thiên Hà, mỗi Thiên Hà chứa hàng trăm tỉ mặt trời. Bị cuốn đi bởi sự giãn nở của vũ trụ, chúng có khuynh hướng chạy ra xa nhau, nhưng  bị giữ lại bởi định luật hấp dẫn.

A .   HẰNG HÀ SA SỐ
Một trong hàng trăm tỉ Thiên Hà này có tên là Ngân Hà. Trong dãy Ngân hà, có một ngôi sao mang tên Mặt Trời và một mang tên địa cầu của chúng ta. Dải Ngân hà chứa vài trăm tỉ ngôi sao. Nó có dạng một đĩa rất mỏng, đường kính khoảng 100.000 năm ánh sáng và dày khoảng 1000 năm ánh sáng.       
Từ khi sinh ra cách đây 4,55 tỉ năm, mặt trời đã thực hiện được 20 vòng quay quanh tâm của Ngân Hà, mỗi vòng mất 220 triệu năm. Thành phần hóa học của các ngôi sao và các Thiên hà hầu như không đổi: đó là khoảng 1 phần 4 là Heli, 3 phần 4 là Hydro về khối lượng. Điều này phản ánh một nguồn gốc chung nào đó: chúng phải được sinh ra trong những khoảnh khắc đầu tiên của vũ trụ. Chính các ngôi sao, bằng lò luyện nguyên tử của chúng, đã tạo ra các nguyên tố cần thiết cho sự sống. Những thí nghiệm hóa sinh đã khẳng định những phân tử hữu cơ- mầm mống của sự sống trên Trái đất cũng được hình thành từ những phân tử hữu cơ có trong vũ trụ. Suy ra, có thể có sinh vật ngoài vũ trụ! 

B.   HỆ MẶT TRỜI ( solar system) hay THÁI DƯƠNG HỆ:
Gồm 1 ngôi sao là Mặt Trời cùng 9 hành tinh chính với 156 vệ tinh đã biết của chúng; ngoài ra, còn có các tiểu hành tinh, sao chổi và các thiên thạch. Theo Kepler, quỹ đạo của các hành tinh không phải hình tròn mà có hình bầu dục (elip). Chuyển động của các hành tinh không đều mà tăng tốc khi tiến gần mặt trời và giảm tốc khi xa mặt trời. Galileo nghiên cứu chuyển động của các vật thể trên trái đất và tin rằng vạn vật phải được chi phối bởi cùng một số định luật tự nhiên. Tiếp nối, Isaac Newton đã tìm ra định luật vạn vật hấp dẫn giúp chúng ta giải thích chuyển động của các vật thể, cái gì giữ các hành tinh trên quỹ đạo mà không rơi, vì sao Mặt Trăng là nguyên nhân gây nên thủy triều trên trái đất….Công cuộc nghiên cứu đã giúp các nhà khoa học đi đến kết luận là các chuyển động ở mặt đất và trên trời đều được quyết định bởi những định luật toán học chặt chẽ và chính xác.                                               

Số phận của vũ trụ phụ thuộc vào hai lực đối lập: lực của vụ nổ khởi thủy làm cho vũ trụ giãn nở và lực hấp dẫn của vật chất chống lại sự giãn nở. Các thiên hà, ngôi sao, chúng ta đều được sinh ra từ các vật chất thông thường như Proton, Neutron và Electron. Nhưng chúng chỉ chiếm một phần rất nhỏ ( 0,5% tổng lượng vật chất của vũ trụ). Như vậy còn có rất nhiều vật chất tối, không phát ra bất cứ thứ ánh sáng nào. Bàn chất của năng lượng tối này hiện vẫn còn là điều bí ẩn. Thật vậy, sau vụ nổ đầu tiên, vũ trụ còn chìm trong bóng tối… Mãi đến gần 1 tỉ năm sau, các phôi Thiên hà phát sáng ở tâm của chúng và bắt đầu khoan thủng bóng tối bằng các tia sáng do chúng phát ra. Nhưng chỉ 2% vật chất ( ở những nơi đậm đặc nhất )của vũ trụ phát sáng, 98% còn lại  còn ở trong bóng tối. Những ngôi sao đầu tiên rất  nặng (gấp 100 đến 1000 lần khối lượng của Mặt Trời) và rất nóng ( gấp 17 lần nhiệt độ của bề mặt Mặt Trời) vì được cấu tạo từ các đám mây nguyên tử Hydro và Heli. Khoảng 6 triệu năm sau, các ngôi sao nhẹ hơn ( 100 đến 200 lần khối lượng Mặt Trời) được tạo thành. Lực hấp dẫn hợp nhất 2 phôi Thiên hà. Mỗi một sự hợp nhất đó sẽ cho ra đời những ngôi sao mới.
Các ngôi sao nặng của thế hệ thứ nhất khi chết sẽ co lại thành các lỗ đen  có lực hút rất mạnh. tất cả các vật ở gần xung quanh đều bị cuốn hút vào trong như rơi vào trong một  vực thẳm không đáy vậy. Trong dãy Ngân hà có một lỗ đen nặng gấp 3 triệu lần khối lượng Mặt trời
                   
CÁC SỐ LIỆU CHUNG VỀ THÁI DƯƠNG HỆ

Thái Dương Hệ của chúng ta chỉ là một “ gia đình thường thường bậc trung” trong đại gia đình vũ trụ. Tìm hiểu các thành viên của hệ Mặt trời này sẽ cho ta một nhận thức về các thiên thể.  Theo thứ tự từ gần đến xa Mặt Trời, ta có:

1 . MẶT TRỜIĐây là một quả cầu khí có đường kính lớn gấp 100 lần đường kính trái đất ( độ 700.000 km), và có khối lượng gấp 300.000 lần Trái đất; thành phần hóa học chủ yếu là khí Hydro (92,19% số nguyên tử) và khí Heli (7,8 % số nguyên tử). Bề mặt Mặt trời chuyển động ngùn ngụt lửa, được đốt nóng tới 5500 độ C nhờ nhiệt lượng của lò luyện hạt nhân ở trung tâm (nhiệt độ trung tâm khoảng 15 triệu độ C). Ngôi sao của sự sống này mỗi giây phát ra một lượng năng tương đương với 100 tỉ quả bom nguyên tử. Sở dĩ các đại họa không xảy ra cho Trái đất  vì  thể tích Trái đất rất nhỏ, chỉ nhận khoảng 1 phần của 1 tỉ khối năng lượng này. Sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào sự sống còn của Mặt Trời.
Nhưng nếu không có đủ chất đốt cung cấp, ngọn lửa hạt nhân ở trung tâm sẽ tắt, lục bức xạ sẽ không còn có thể đương đầu với lực hấp dẫn được nữa, Mặt trời sẽ co lại và khi đó sẽ là tận thế thực sự. 
2 . THỦY TINH (Mercury): đây là hành tinh gần mặt Trời nhất và quay nhanh nhất trên quỷ đạo, không có khí quyển.

3 . KIM TINH (Venus), thường gọi là sao Hôm và sao Mai, sao Thái Bạch (tên Hán Việt). Đây là hành tinh gần trái đất nhất, có kích thước tương đương nhưng có khí quyển 100 lần đặc hơn Trái đất ( 96,5% khí carbonic và 3,5% khí Nitơ).Khí quyển của Kim tinh để cho ánh sáng mặt trời đi qua nhưng không cho quay ngược trở lại nên nhiệt độ ở đây rất cao (460 độ C). Kim tinh xoay quanh trục chậm nhất và là 1 trong 2 hành tinh xoay ngược chiều với Mặt Trời (Kim tinh mọc ở đàng tây và lặn ở đàng đông ). Trên đây có những dãy núi dài hàng trăm km và dấu hiệu phun trào của những núi lửa mới (chưa tới 500 triệu năm).

4 . TRÁI ĐẤT (Earth) là hành tinh duy nhất có nước trên bề mặt nên còn gọi là hành tinh xanh. Trái đất có bán kính trung bình 6371km, có từ trường vì nhân cấu tạo bởi sắt và niken. Khí quyển chứa 78% Nitơ, 21% Oxy, một lượng rất nhỏ Agon, khí carbonic. Trái đất có 1 vệ tinh lớn là Mặt trăng. Mặt trăng giữ vai trò quan trọng vì giúp trục quay của Trái đất ổn định, cho phép sự sống xuất hiện trên hành tinh chúng ta, đồng thời làm các đại dương dâng sóng và gây ra các đợt thủy triều. Chỉ ở Trái đất, nước mới ở thể lỏng. Đó là vì quỹ đạo của Trái đất nằm chính xác ở khoảng cách thích hợp so với Mặt Trời: khoảng cách đến Mặt Trời từ 147 đến 152 triệu km. Nếu xa hơn 15 triệu KM nữa, trái đất trở thành băng đá, còn gần hơn 15 triệu km, nước sẽ ở thể hơi làm cho Trái đất nóng lên thành hỏa ngục, khiến sự sống không thể xuất hiện. Thật vậy, trái đất là 1 hành tinh sống động. Trong lòng nó thì sôi sục, còn bề mặt thì không ngừng thay đổi theo thời gian. Cách đây 200 triệu năm, có 1 siêu lục địa gồm tất cả các lục địa hiện nay ghép lại. Siêu lục địa này sau đó vở thành nhiều mảnh (10?). Các mảng lục địa này rời xa nhau tạo nên các đáy biển mới, ngược lại nếu chúng đụng nhau sẽ tạo nên những trận động đất kinh hoàng.

5 . HỎA TINH ( Mars) thường được gọi là hành tinh đỏ vì bụi oxit sắt  màu đỏ bị gió cuốn lên khiến bầu trời có màu hồng, không có từ trường. Khí quyển rất giống với khí quyển của Kim tinh. Hỏa tinh có bán kính bằng ½ bán kính Trái đất và có khối lượng nhỏ hơn 9 lần. Những núi lửa lớn nhất của hệ Mặt Trời đều nằm trên Hỏa tinh.Yếu tố chính khiến người ta nghĩ trên Hỏa tinh đã từng có sự sống là sự hiện diện của nước chảy trên bề mặt của nó trong quá khứ. Ngày của Hỏa tinh kéo dài 24,6 giờ nhưng năm của Hỏa tinh kéo dài đến 687 ngày. Trục quay của Hỏa tinh nghiêng 24 độ về phía Mặt trời nên có các mùa như trái đất, tuy nhiên nhiệt độ trung bình rất lạnh (âm -63 độ). Lên đó thì trọng lượng ta chỉ còn có 1 phần 3 vì Hỏa tinh có lực hấp dẫn yếu.

6 . MỘC TINH (Jupiter), còn gọi là Tuế Tinh vì có chu kỳ quay xấp xỉ 12 năm. Đây là hành tinh lớn nhất và nặng nhất trong hệ Mặt Trời, có thể tích gấp 1400 lần trái đất và lớn gấp 318 lần về khối lượng;  từ trường mạnh gấp 12 lần trái đất. Vì ở xa Mặt trời nên nhiệt độ rất thấp; khí quyển dầy đặc và chu kỳ tự quay rất nhanh (10 giờ) nên mây mù kéo dài thành từng dãi song song với xích đạo, lớp sáng lớp tối.

7 . THỔ TINH (Saturn), nổi tiếng vì có vành đai sáng gồm 7 vành đai chính và có từ trường mạnh gấp 500 lần trái đất. Trong các vệ tinh thì Titan là mặt trăng lớn nhất của Thổ tinh và có bầu khí quyển dầy. Người ta cho rằng nó có thể chứa sự sống nguyên thủy.

8 . THIÊN VƯƠNG TINH (Uranus), xoay ngược từ đông sang tây, khí quyển gồm Hydro (85%), Heli (12%),Mêtan(3%). Mây mêtan bị gió thổi hấp thu các tia sáng phản chiếu làm hành tinh có màu xanh ngọc; từ trường mạnh gần bằng Trái đất.
       
9 . DIÊM VƯƠNG TINH (Pluto), hánh tinh ngoài cùng của hệ Mặt trời có chu kỳ quay 1 vòng quanh Mặt trời kéo dài đến 248 năm. khối lượng của nó chỉ bằng 1/2000 khối lượng Trái đất  nên sau này người ta coi nó như 1 tiểu hành tinh
Chuyển động quanh các hành tinh còn có các vệ tinh- các Mặt trăng. Trái đất có 1 mặt trăng (Mộc tinh có đến 16 Mặt trăng). Mặt trăng với ánh sáng dịu mát là nguồn cảm hứng vô tận của bao thi nhân thực ra chỉ là một thiên thể lạnh lẽo, khô cằn, không có không khí. Mặt trăng chuyển động quanh mình và quanh trái đất trọn 1 vòng mất 27,32 ngày đêm.  Lực hút của Mặt trăng nhỏ hơn nhiều so với Trái đất nên nếu con người lên đó sẽ dễ dàng nâng cao vật nặng hàng tạ hoặc nhảy qua ngôi nhà lầu vài tầng. Theo lời dạy của Đức Hộ Pháp, Mặt trăng hay Nguyệt cầu là nơi dừng chân của các vị trong Bạch Vân động trước khi xuống thế gian. Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Ðộng (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng bên Âu châu, mệnh danh là Loge Blanche (Bạch Ðộng).

* * *
TIẾT 2:  ĐỊA VỊ ĐỊA CẦU CHÚNG TA
          
Vũ trụ hữu hình, theo lời dạy lúc lập quả Càn khôn để thờ, phần chúng ta có thể hiểu được gồm có: Tam thiên Thế giới (3000 Thế giới ) và Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu).Vũ trụ nầy được tượng trưng bằng Trái Càn Khôn thờ nơi Bát Quái Đài của Tòa Thánh Tây Ninh, mà Đức Thượng Đế dạy Ngài Giáo Sư Thái Bính Thanh làm, trong bài Thánh Ngôn sau đây :
“Bính ! Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không ? Cười . . . Một trái như Trái Đất tròn quay, hiểu không ?  Bề  kính  tâm 3 thước 3 tấc, nghe con, lớn quá, mà phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, sơn màu xanh da trời, cung Bắc Đẩu và Tinh tú vẽ lên Càn khôn ấy.
Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất thập nhị Địa và Tam thiên Thế giới đều là Tinh tú. Tính lại 3072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ.
        Con giở sách Thiên văn tây ra coi mà bắt chước. Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu  cho rõ ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu  chăng?Đáng lẽ trái ấy phải bằng chai, đút trong một ngọn đèn cho nó thường sáng. Ấy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại Càn khôn Thế giới đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì con tùy tiện làm thế nào cho kịp Đại Hội, nghe à !” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 33)

Các Địa cầu trong dãy Thất thập nhị Địa được đánh số từ 1 đến 72, số 1 thì thanh nhẹ nhứt và số 72 thì nặng trược nhứt. Địa cầu của nhơn loại chúng ta là Địa cầu số 68. Càng đi lên thì càng tiến hóa hơn.
“Đứng bực Đế Vương nơi trái Địa cầu 68 nầy, chưa đặng vào bực chót của Địa cầu 67. Trong Địa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy. Cái quí trọng của  mỗi Địa cầu càng tăng thêm hoài, cho tới Đệ nhứt cầu (Địa cầu số 1),  Tam thiên thế giới . . . ” (TNHT. I. 74)
*   *  *
TIẾT 3: PHẦN VÔ HÌNH CỦA VŨ TRỤ

Sự xoay chuyển của Tam thiên thế giới và Thất thập nhị Địa luôn luôn được điều hòa, không ngừng nghỉ, không bao giờ va chạm nhau. Có được như thế là do sự điều khiển của các Đấng thiêng liêng vô hình. Để điều khiển các sự vận chuyển của các tinh cầu và Địa cầu, cũng như điều khiển cuộc tiến hóa của cả Càn khôn, Đức Thượng Đế phải lập ra một guồng máy vô hình điều khiển theo các quy luật, có các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật để giúp cho Đức Thượng Đế. Phần Vô hình  không thể thấy được mà chúng ta biết được là do Đức Thượng Đế giảng dạy qua Cơ bút, gồm:                                                                        

I . TAM THẬP LỤC THIÊN:
là 36 từng Trời, thuộc về Vũ trụ vô hình. Đây là phần cao nhất, tinh khiết nhứt, thanh nhẹ nhứt.Trong một bài thuyết đạo, Đức Hộ Pháp thuật lại lời Đức Chí Tôn dạy về Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài như sau:
- Thái Cực sanh Lưỡng Nghi tức là Tam Thiên Vị.
- Dưới ba ngôi ấy có Tam thập tam Thiên (33 từng Trời), cộng với 3 ngôi trên là 36 từng Trời nên gọi là Tam thập lục Thiên. Trong mỗi từng, Thầy chia chơn linh, có một vị Thiên Đế chưởng quản. Chỗ Thầy ngự là Bạch Ngọc Kinh toàn ngọc trắng, rộng cao vòi vọi, ngoài có Huỳnh Kim Khuyết, là cửa ngõ bằng vàng cực kỳ mỹ lệ.
- Dưới 36 từng Trời, còn có một từng nữa  gọi là Cảnh Niết Bàn.
- Chín từng nữa gọi là Cửu Thiên Khai Hóa, tức là chín phương Trời, cộng với Niết Bàn là mười, gọi là Thập phương chư Phật. Gọi chín phương Trời, mười phương Phật là do đó.
Tóm lại: tất cả các từng Trời đều là phần vô hình của Càn Khôn Vũ Trụ.Trong 33 từng Trời kế tiếp có từng Hư Vô Thiên do đức Phật Nhiên Đăng chưởng quản và Ngọc Hư Cung là nơi Đức Chí Tôn điều hành tất cả hoạt động trong Càn Khôn Vũ trụ.  Đức Phật Di Lặc chưởng quản từng Hỗn ngươn Thiên và Hội ngươn Thiên. Dưới Tam thập lục Thiên là Niết Bàn Cảnh, là cõi của chư Phật ngự. Đây chính là cõi Cực Lạc Thế giới, có Lôi Âm Tự do Đức Phật A Di Đà chưởng quản.
- Dưới Niết Bàn Cảnh là Cửu Trùng Thiên, tức là 9 từng Trời, mà từng Trời thứ 9 gọi là Tạo Hóa Thiên có Diêu Trì Cung, do Đức Phật Mẫu chưởng quản.  Theo Di Lạc Chơn Kinh, dưới tầng Tạo Hóa Thiên có:
·    Phi Tưởng Thiên, do Đức Từ Hàng Bồ Tát chưởng quản.
·    Hạo Nhiên Thiên do Đức Chuẩn Đề, Đức Phổ Hiền Bồ Tát chưởng quản..vv.

II . TỨ ĐẠI BỘ CHÂU:
Có 2 Tứ Đại Bộ Châu:
-  Tứ Đại Bộ Châu cai quản Tam thiên thế giới, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Thượng.
-  Tứ Đại Bộ Châu cai quản Thất thập nhị Địa, gọi là Tứ Đại Bộ Châu Hạ, gồm :
             * Bắc Cù Lư Châu.                   * Nam Thiệm Bộ Châu
            * Tây Ngưu Hóa Châu               * Đông Thắng Thần Châu
Địa cầu 68 của nhơn loại chúng ta ở trong Nam Thiệm Bộ Châu.

*  *  *

TIẾT 4: LUẬN VỀ VŨ TRỤ

 

I. VŨ TRỤ CÓ VÔ THỈ VÔ CHUNG?

Vô thỉ hay Vô thủy là không có chỗ bắt đầu, tức là không có nguồn gốc. Vô chung là không có chỗ tận cùng. Vũ trụ là một thực thể nên cũng phải nằm trong định luật: thành, trụ, hoại, không, giống y như các thực thể khác. Hễ có sanh thành ắt phải có lúc hoại diệt trở về không, để rồi sau đó được tái tạo trở lại, rồi sau một thời gian thì bị hủy diệt, và cứ thế tiếp diễn mãi trên con đường tiến hóa vô cùng tận. Nhưng trong khoảng thời gian từ lúc sanh thành cho đến lúc bị hoại diệt, lâu hay mau là tùy theo thực thể. Đối với một Vũ trụ thì khoảng thời gian ấy rất dài, có thể đến hằng tỷ năm, khó có thể tưởng tượng nổi, nên  có nhiều người cho rằng Vũ trụ nầy là Vô thỉ Vô chung. Thật ra, như trong phần trình bày trên, Vũ trụ có khởi đầu, và mức khởi đầu đó là Đấng Thượng Đế, tức là ngôi Thái Cực, bởi vì chính Đấng Thượng Đế ấy đã tạo hóa ra Càn khôn vũ trụ và vạn vật hiện hữu.
Ai sanh ra Thượng Đế? Đáp: Khí Hư Vô sanh ra Thượng Đế.
Đến đây, sự tìm hiểu của chúng ta phải dừng lại, vì nếu tiếp tục hỏi nữa thì không có cách nào giải đáp được.Chúng ta, cả Vũ trụ của chúng ta đang đi trên con đường tiến hóa, tiến hóa mãi cho đến vô tận vô biên. Sự tiến hóa được xem như trên đường thẳng chứ không phải chúng ta đi trên đường tròn (không có điểm đầu tiên và không có điểm cuối cùng). Tóm lại, Vũ trụ quan của Đạo Cao Đài quan niệm rằng Vũ trụ không phải là Vô thỉ, vì nó có khởi đầu. Điểm khởi đầu đó là Đấng Thượng Đế, vì Đấng ấy đã tạo dựng ra Càn khôn Vũ trụ và vạn vật. Vũ trụ cũng không phải là Vô chung (không có mức cuối cùng), vì  theo qui luật “ Sinh, thành, hoại, diệt”, Vũ trụ có lúc tự hủy diệt ( từng phần), để rồi sau đó được tái tạo, khởi đầu hình thành một Vũ trụ mới tiến hóa hơn, và cứ thế tiếp diễn mãi trên con đường Tiến hóa vô cùng tận.

II . VŨ TRỤ & KHOA HUYỀN BÍ HỌC
Thái Dương hệ là một chòm hành tinh xây chung quanh một mặt trời, lấy mặt trời đó làm trung tâm và thâu hút ánh sáng, sự sống và khí lực của mặt trời đó.  Đó là một trường tấn hóa bao la, bát ngát do một vị Chúa tể điều khiển. Ngài sanh ra chất dĩ thái của vũ trụ hay là chất Nguơn khí, Ngài đem sự sống của Ngài thấm nhuần nó và Ngài lấy nó làm ra thể xác của Ngài. Ngài cho tuôn ra một nguồn khí lực lưu thông khắp cả hệ thống cũng như máu huyết của Ngài để bảo tồn sanh mạng của muôn loài vạn vật.
Khoa Pháp môn dạy rằng mỗi Thái Dương Hệ đều được chưởng quản bởi một Đức Thái Dương Thượng Đế (Logos d’un système solaire). Còn Đấng Chí Tôn sanh hóa hết thảy các Đức Thái Dương Thượng Đế, người ta gọi là Ông Trời, Đấng Tạo Hóa hay là Thái Cực Thánh Hoàng. Ấy là Đấng không sanh mà có, Pháp lực vô biên, Toàn năng, Toàn thiện, trí con người không tưởng tượng nỗi.

A . BA NGÔI CỦA ĐẤNG TẠO HÓA
Khoa Triết học bí truyền dạy: khi Đấng Tạo Hóa muốn sanh hóa vũ trụ thì Ngài chia làm ba ngôi.
* Ngôi thứ nhứt: Brahma hay Đức Chúa Cha ( Dieu le Père ), Đấng Sáng Tạo.
* Ngôi thứ nhì: Vishnou hay Đức Chúa Con ( Dieu le Fils ), Đấng Bảo tồn.
* Ngôi thứ ba: Shiva hay Đức Chúa Thánh Thần ( Dieu le Saint- Esprit), Đấng Hủy Diệt.
Nhà Thần bí học Hébreux gọi ba ngôi là:  Chochmah, Binah và Kether.
Người Thông Thiên Học gọi là: Ngôi thứ Nhứt (Premier Logos), Ngôi thứ Nhì (Deuxième Logos) và Ngôi thứ Ba (Troisième Logos), vì dùng theo danh từ xưa của người Hy lạp là “Le Verbe” (Ngôi Lời) để ám chỉ Đức Thượng Đế đã hiện ra.
       
Mỗi bầu hành tinh đều có một bài học cho mỗi loài. Vì vậy cho nên 7 loài phải ở trên mỗi hành tinh trong một thời gian theo Thiên ý đã định để học hỏi và kinh nghiệm. Đi giáp một vòng 7 bầu thì gọi là hết một cuộc tuần huờn (une ronde). Hết 7 cuộc tuần huờn thì có sự thay hình đổi dạng. Tại sao phải có sự thay hình đổi dạng? Bởi vì linh hồn thuộc về tinh thần, còn xác thân thuộc về vật chất. Tinh thần và vật chất vẫn đi đôi với nhau luôn luôn. Không có tinh thần thì vật chất phải chết, còn không có vật chất thì tinh thần không thể hiện ra được. Hễ tinh thần tiến hóa thì vật chất phải tiến hóa. Hình dạng nào mà chịu không nổi với sự phát triển của tinh thần thì bị tinh thần thảy bỏ đặng lấy hình dạng khác tốt đẹp hơn và cân xứng hơn. Vì thế luôn luôn có sự thay hình đổi dạng. Sự Luân hồi của con người cũng do lẽ trên đây mà ra. Hết cuộc tuần huờn thứ 7, dãy Trái đất nầy tan rã. Dãy Trái đất mình ở bây giờ đây là dãy thứ tư. Dãy thứ nhứt và dãy thứ nhì tan rã đã lâu, dãy thứ ba gọi là dãy Nguyệt tinh (chaîne lunaire) vì nó để lại di tích là mặt trăng bây giờ.

B . GIẢI THÍCH CUỘC SÁNG TẠO CỦA TRỜI ĐẤT
Theo triết lý Đạo Cao Đài thì đầu tiên trong Vũ Trụ chỉ có Khí Hư Vô.  Khí Hư Vô là Khí có sẵn trong Trời Đất cùng với Lý là huyền năng vô biên nên không có danh từ nào để gọi cho đúng và Đức Lão Tử tạm dùng chữ TAO (Đạo) để đặt tên. Khí Hư Vô tượng trưng là vòng tròn, giống như tượng trưng của cái trứng, giữa vòng tròn lại có một điểm ở giữa tức là Thái Cực. Trong lúc TỊNH, thì Thái Cực là Một, nhưng khi ĐỘNG lại chia Vô Cực ra hai phần  Dương và  Âm. Tất cả mọi vật trong Trời Đất đều từ Âm và Dương mà được sanh hóa ra. Muốn hoá sanh các nguyên tử khác thì phải có sự va chạm. Sự nổ đầu tiên là sự phân Thái Cực ra Thái Dương và Thái Âm. Theo khoa học, gọi là BIG BANG hay vụ nổ nguyên tử đầu tiên trong Vũ Trụ như trái bom nổ dây chuyền và Đấng Thái Cực từ vầng lửa vĩ đại xẹt ra, nhân loại gọi Ngài là Đấng Sáng Tạo hay Đức Chí Tôn hay Đức Thượng Đế.
Ngài phân Ngài ra Lưỡng Nghi và từ Lưỡng Nghi sanh ra Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh ra Bát Quái, 16,32,64 ... Quái và vạn vật trong Càn Khôn Thế giới. Những gì biến dịch trong giai đoạn đầu tiên gọi là Tiên Thiên, được diễn tả trong Tiên Thiên Bát Quái. Những gì được hoá sanh và có sự sống thuộc Hậu Thiên được diễn tả trong Hậu Thiên Bát Quái.
Các định luật phối hợp các nguyên tử của Ngũ Khí tạo thành 7 cõi  khác nhau. Về mặt bản thể, cõi là một trạng thái tâm thức (state of conscience) chứ không phải là một vị trí ( locality).

CHƯƠNG II

NHÂN SINH QUAN

Nhân sinh quan là hệ thống tư tưởng triết học xem xét về nguồn gốc của con người, sự sống sự chết, mục đích và ý nghĩa của đời sống con người. Nhân sinh quan của Đạo Cao Đài thuộc về triết học Duy Linh Duy Nhất, vượt lên trên triết học Duy Tâm và Duy Vật, đồng thời dung hợp được hai quan niệm nầy. Nhân sinh quan của Đạo Cao Đài sẽ giải đáp một cách minh bạch các vấn đề sau đây :
        - Nguồn gốc của loài người. Con người từ đâu tới?
        - Con người có Linh hồn không? Sau khi  chết, linh hồn xuất ra đi đâu?
        - Con người đầu thai xuống cõi trần để làm gì ?
        - Quỉ vương là ai?  Thiên đàng và Địa ngục?

TIẾT 1: NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI & LUẬT TIẾN HÓA

I . NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI
Ba phần tư bề mặt của hành tinh chúng ta được bao phủ bởi nước. Nước đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của sự sống trên Trái đất. Do khả năng hòa tan mạnh nên nước của các đại dương đã hòa tan rất nhiều phân tử, nơi kết hợp tuyệt vời của các tế bào. Cách đây khoảng 800 triệu năm, sự sống đã chuyển từ giai đoạn đơn bào sang giai đoạn đa bào trong các đại dương nguyên thủy.
Giáo lý Đạo Cao Đài xác nhận rằng sinh vật có sự sống đầu tiên bắt đầu từ vật chất; vật chất kết hợp thành đất đá; đất đá theo thời gian sinh ra thảo mộc; thảo mộc theo thời gian tiến lên động vật; động vật tiến hóa từ lớp nhỏ nhất đến lớp cao nhất; và loài người nguyên thủy có được là từ sự tiến hoá của loài khỉ vượn, dã nhân thuộc lớp động vật cao cấp mà thành. Điều nầy được chứng minh bằng định luật Tiến hóa của chúng sanh và của Bát hồn.

II . LUẬT TIẾN HÓA
Chúng sanh bao gồm các loài sanh vật, tức là các loài vật có sự sống được sanh ra trên mặt Địa cầu nầy, gồm: Vật chất, Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại.
- Loài Kim thạch có sự sống chưa thể hiện rõ rệt, nó chỉ là sự liên kết của các tế bào tạo thành tinh thể rắn chắc. Loài kim thạch hoàn toàn không có tri giác.
- Loài Thảo mộc, được Thượng Đế ban cho một điểm nguyên hồn để làm Sanh hồn, tạo nên sự sống. Điểm nguyên hồn nầy được Đấng Thượng Đế rút ra từ khối Đại hồn (Đại Linh Quang) của Ngài. Loài Thảo mộc chỉ có sự sống mà chưa có tri giác. Chúng có chung một hồn khóm. Như thế, chúng đã có chút ít tri giác nhưng rất thô sơ, gần như chỉ là những phản xạ tự nhiên. 
- Tiến lên là loài Động vật, được Thượng Đế ban thêm cho một điểm nguyên hồn nữa để làm Giác hồn, tạo ra sự hiểu biết, như đau đớn biết la, sợ hãi biết chạy trốn, biết đi tìm thức ăn thích hợp, biết tìm chỗ ẩn trú an toàn, biết nuôi con, có chút ít trí nhớ nhưng rất sơ sài. Khi giới thú vật đã đến trình độ cao hơn hết thì mỗi tiểu bộ chót của hồn khóm chỉ nuôi có một con thú mà thôi; đến lúc cuối cùng nó sẵn sàng tiếp đón “Sự sống Thiêng liêng”. Đây là sự sanh hóa Linh hồn con người và từ đó sự tấn hóa về trí thức của bản ngã khởi sự.
- Tiến lên đến phẩm Nhơn loại, nhờ có linh hồn, con người có được sự suy nghĩ, phán đoán biết hướng đời sống đến một mục đích nào đó và có tánh linh.
Trong số gần 7 tỉ con người, không một ai trong số chúng ta giống hoàn toàn với một người khác. Không chỉ hành trang di truyền khác nhau mà thế giới nội tâm của chúng ta cũng biến thiên vô tận, muôn màu muôn vẻ. Các công trình nghiên cứu khoa học đã chứng minh nguồn gốc của sự sống gắn bó chặt chẽ với nguồn gốc của vũ trụ.Thế mới kính phục bàn tay sáng tạo tuyệt vời của Đức Thượng Đế là dường nào!

Tất cả chơn linh trong Càn khôn vũ trụ, gọi là Vạn linh, được chia làm 8 bực tiến hóa cao thấp khác nhau, gọi là Bát hồn hay Bát phẩm Chơn hồn, kể từ thấp lên cao:
1 . Kim thạch hồn.                    5 . Thần hồn.
2 . Thảo mộc hồn.                     6 . Thánh hồn.
3 . Thú cầm hồn.                       7 . Tiên hồn.
4 . Nhơn hồn.                            8 . Phật hồn.
             
  Sự Tiến hóa trong giai đoạn đầu từ Kim thạch hồn lên Nhơn hồn là sự Tiến hóa tự
nhiên, do sự thúc đẩy của Luật Tiến hóa, không có sự nhảy cấp và cũng không có sự thoái cấp.
Sự Tiến hóa trong giai đoạn tiếp theo của Nhơn hồn là do sự tu luyện của Nhơn hồn, có thể tiến rất nhanh và có thể thoái bộ. Khi tiến hóa đến Phật hồn rồi cũng chưa phải là đến mức cao nhất của nấc thang tiến hóa. Phật hồn còn phải tiếp tục tu luyện để tiến lên mức tối cao là Thiên hồn, tức Đại hồn của Thượng Đế.

Tới đây là đi giáp một chu trình tiến hóa của Bát hồn, bởi vì Bát hồn xuất phát từ Đại hồn ( Đại Linh Quang), đi giáp một vòng tiến hóa, trở về hiệp nhập vào Đại hồn.

Luật tiến hóa của Bát hồn
(1)  Sự Tiến hóa trong giai đoạn đầu từ Kim thạch hồn lên Nhơn hồn là sự Tiến hóa tự nhiên, do sự thúc đẩy của Luật Tiến hóa
(2) Sự Tiến hóa trong giai đoạn tiếp theo của Nhơn hồn là do sự tu luyện.

III . LỜI GIẢNG VỀ NGUỒN GỐC & SỰ TIẾN HÓA
Đức Hộ Pháp giảng: Bần Ðạo đã vấn nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn một vấn đề khó giải… Bần Ðạo hỏi nguyên căn của Ðức Chí Tôn và quyền năng của Người, thì Ðức Chưởng Ðạo có tả một bài văn chữ Pháp dịch ra Quốc Ngữ; nhưng chính Ðức Nguyệt Tâm cũng đã thú thật rằng: Không biết nguyên do của Chí Tôn là thể nào, chỉ biết quyền năng vô đối của Người mà thôi. Nay thuyết về vấn đề ấy, Bần Ðạo chỉ nói: Ðấng Chí Linh hằng hữu ấy là Ðức Chí Tôn, là Cha cả chơn linh vạn vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy khối linh ấy thế nào hơn hết. Biết bao nhiêu Ðấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh tâm cao trọng hơn cả vạn vật? Tìm tòi với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Ðạo. Nhìn biết và hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét có vật tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì, từ trước đến giờ loài người tìm kiếm mãi nguyên do của nó.
Tiếp khai các nền Tôn Giáo hiện hữu, không một nền Tôn Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao siêu hơn là Phật Giáo, nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa xuôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm linh chúng ta có quan sát cả chơn lý của Phật Giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng: Chúng ta có một Tôn Giáo mà Tôn Giáo ấy là Chúa Tể các nền Tôn Giáo khác, vì bởi nó là nguyên căn của Tôn Giáo và chính nó là một Tôn Giáo tự hữu, từ buổi Trời Ðất biến sanh đã có. Cái khối chơn linh ấy là Cha của các chơn linh, Cha của nhứt điểm linh quang. Làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ trước Ðức Chí Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa hiểu rõ cái nguyên căn ấy.
Phật Giáo nói: Cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn vật, khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Ðấng thứ nhì Shiva chủ về Pháp. Ðức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo đoan. Pháp vận hành mà sanh khí nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là Khí, vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ Khí là sự sống của vạn vật, do Khí là Pháp biến tướng ra vạn vật. Nên Ðấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2è Logos" thuộc Âm ấy là Phật Mẫu chưởng quản cả cơ quan tạo đoan nầy vậy. Như chúng ta thấy cơ quan sanh hóa vạn vật và loài người là do âm dương phối hợp mà biến tướng, Phật chiết tánh biến ra Pháp là Ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy là khí âm dương phối hiệp biến hình, mà Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy? Vì bởi Phật Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được.
Khí biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió, rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn vật, đi từ Hổn ngươn khí, Hư vô khí đến Huyền ảnh khí rồi mới biến ra vạn vật, tức là Huyền ảnh khí biến ra nhơn hình vậy. Khí mà khoa học gọi là Nguyên tử khí (Atome). Nguyên tử khí có năng lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chớ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên tử chất và dùng được cái Nguyên tử khí ấy là cái khí sanh của vũ trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ Nguyên tử khí ấy mà qui nguyên Thánh Thể. Thử hỏi Ðức Chí Tôn cho nhơn loại đoạt Nguyên tử khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền vi bí mật ấy, mà dầu cho Ðạo Giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay Nguyên tử khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử hườn sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử.
Vì bởi Nguyên tử khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn vật, vì cớ mà con người đối với vũ trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn Khôn làm Ðại Thiên Ðịa và lấy con người mà làm Tiểu Thiên Ðịa… ( Thuyết Đạo Q1)
“Ðại Từ Phụ là Cha cả Vạn Linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ hưởng phần hữu hình tại thế mà thôi, Ngài lại còn dành một phần quí trọng hơn là nhứt điểm linh quang, nhờ đó mà từ vật chất tiến đến thú cầm nhơn loại, mới tiến đến Phật vị mà ngang phẩm cùng NgàiÐức Từ Phụ là Phật, Ngài muốn cho con cái cũng thành Phật đặng đạt quyền năng bí mật như Ngài, rồi lập ra một Càn Khôn Thế Giới khác.Luật thiên nhiên một ông Cha tạo nghiệp, thì con theo nghiệp Cha mà tạo ra sự nghiệp khác nữa...

TIẾT 2: CÂY SỰ SỐNG & PHÂN LOẠI CON NGƯỜI
    
I . CÂY SỰ SỐNG
Mỗi người trong chúng ta đều có 2 cha mẹ, 4 ông bà, 8 cụ cố, và cứ như thế tăng lên…Mỗi thế hệ trung bình cách nhau 25 năm và nếu tính ngược 2000 năm về trước thì số tổ tiên của chúng ta sẽ lên đến triệu tỉ tỉ. Rõ ràng đây là con số không chấp nhận được; chứng tỏ trong quá khứ, vào một thời điểm nhất định những dòng phả hệ của chúng ta phải gặp nhau. Như vậy, khi lần ngược về quá khứ xa mới thấy chúng ta đều là anh em xa gần của nhau. Bởi vì dân số giảm dần khi ngược về cội nguồn nên kết luận tất yếu rút ra là tất cả những người có măt trên trái đất hôm nay đều xuất thân từ một tổ tiên chung. Đáng ngạc nhiên hơn là khi giải mã bộ gen người và các loài sinh vật khác, kết quả cho thấy sự hội tụ các cây phả hệ về một cây duy nhất không chỉ liên quan đến con người, mà còn liên quan tới tất cả loài sinh vật khác. Thật vậy, bằng chứng thuyết phục nhất về sự tồn tại của một tổ tiên chung là tính phổ quát của mã được sử dụng bởi tất cả các cơ thể sống để truyền những thông tin di truyền, đó là mã được ghi trong chuỗi xoắn kép của các phân tử AND. Tóm lại, ngành sinh học phân tử nói với chúng ta một cách rõ ràng rằng: tất cả các cơ thể sống trên Trái đất- con người, con vật, côn trùng, cỏ cây- hết thảy đều xuất thân từ cùng một Tổ tiên. ( Trích “Nguồn gốc” của Trịnh Xuân Thuận )

II . CÓ MẤY HẠNG NGƯỜI
Theo Cao Đài giáo, nhơn loại được chia làm ba loại người, căn cứ vào nguồn gốc của linh hồn: đó là Nguyên nhơn, Hóa nhơn, Quỉ nhơn.
        ■ Nguyên nhơn là những người mà linh hồn được sanh ra từ lúc Khai Thiên.
        ■ Hóa nhơn là những người mà linh hồn do sự tiến hóa từ loài thú cầm đi lên.
        ■ Quỉ nhân là những người mà linh hồn đã bị đọa vào quỉ vị, nay đầu kiếp lên làm người

A . NGUYÊN NHƠN ( Man of original soul )
Nguyên nhơn là người mà chơn linh được Đức Chí Tôn sanh ra từ lúc Khai Thiên, tức là lúc mới tạo dựng Trời Đất, những linh hồn nầy rất trong sạch vì chưa nhiễm bụi trần. Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, trong bài giải thích Thuyền Bát Nhã, có một đoạn nói về 100 ức Nguyên nhơn đầu kiếp xuống trần như sau: "Đức Diêu Trì Kim Mẫu vâng lịnh Đức Thượng Đế nhóm ngự triều, đại hội nơi Kim Bàn, phòng định cho 100 ức Nguyên nhơn xuống trần. Đức Diêu Trì Kim Mẫu  ban cho mỗi vị một cái túi gọi là Vạn Bửu Nang, trong đó có 8 món báu là: HIẾU, ĐỂ, TRUNG, TÍN, LỄ, NGHĨA, LIÊM, SĨ.

Bên khối đối lập có Kim Quang Sứ, thấy Đức Phật Mẫu cho chơn linh xuống trần thì ông cũng xuống trần với sự trợ lực của:
KIM là tiền, MỘC là sắc đẹp,THỦY là rượu, HỎA là sự nóng giận, THỔ là nha phiến.

B . HÓA NHƠN ( Man of impure soul )
Hóa nhơn là những người do sự tiến hóa của vật loại lên đến phẩm nhơn loại mà thành. Họ bắt đầu đi từ Kim Thạch, tiến hóa dần lên Thảo mộc, rồi lên Thú cầm, rồi sau rốt tiến hóa lên phẩm Người. Phần lớn nhơn loại đều là Hóa nhân. Nguyên nhơn và Hóa nhơn khác nhau ở điểm nào?
- Nguyên nhơn có linh hồn từ lúc Khai Thiên, có sẵn ngôi vị nơi cõi thiêng liêng, trực tiếp đi từ cõi thiêng liêng giáng sanh xuống cõi phàm trần, nên Nguyên nhân rất khôn ngoan sáng suốt, có nhiệm vụ hướng dẫn nhơn sanh (tức là hướng dẫn các Hóa nhân) tiến hóa trên đường đạo đức và văn minh, lập được nhiều công quả hầu được trở về ngôi vị cũ và gia tăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.
- Hóa nhân là do Thú cầm tiến hóa đi lên phẩm Người nên còn ít nhiều thú tánh. Nhờ Đức Chí Tôn ban cho một điểm linh hồn nên dần dần được khôn ngoan, tiến hóa, sau rất nhiều kiếp nếu giác ngộ tu hành thì cũng đắc đạo, đạt được ngôi vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng.

C . QUỈ NHƠN: ( Man of perverse soul)
Quỉ nhơn là quỉ hồn đầu kiếp lên làm người nơi cõi trần. Đó là linh hồn của các Nguyên nhơn, Hóa nhân phạm tội đại ác hoặc phạm Thiên điều bị đọa vào quỉ vị. Các quỉ hồn đều chịu dưới quyền của Quỉ vương sai khiến. Quỉ vương cho các quỉ hồn đầu kiếp làm người đặng tạo thành các bài học về chướng ngại, thử thách cho các Nguyên nhơn và Hóa nhơn học hỏi, đồng thời khảo dữ dội để phân Thánh lọc phàm.

Theo lời dạy trong Chú giải Pháp Chánh Truyền: "Nhơn loại có Hóa nhân, Quỉ nhân và Nguyên nhân; ấy là có phân đẳng cấp. Nếu Thầy dùng huyền diệu thiêng liêng mà làm cho nhơn loại cả thảy đều thấy đặng cơ mầu nhiệm của Đạo, đồng đặng đắc kiếp thì phẩm vị thiêng liêng cũng không còn trật tự.
Trong chúng sanh có: Nguyên sanh, Hóa sanh, và Quỉ sanh. Nguyên sanh là gốc từ khai Thiên đã có. Hóa sanh là khai Thiên rồi mới biến hóa ra. Quỉ sanh là hai phẩm kia phạm Thiên điều bị sa đọa. Tỷ như Nguyên nhơn, là khai Thiên rồi thì đã có chơn linh ấy, còn Hóa nhơn là chơn linh vật loại đoạt đến phẩm vị nhơn loại, còn Quỉ nhơn là hai chơn linh kia xu hướng ác hành mà bị đọa đày vào Quỉ vị.”
Trong thời kỳ Đại Ân Xá nầy của Đức Chí Tôn, dầu Nguyên nhân, Hóa nhân hay Quỉ nhân, nếu biết lo tu hành, lập công bồi đức thì đều đắc đạo:

III . NHỮNG GIỐNG DÂN TRÊN ĐỊA CẦU.
Nhơn loại trên mỗi hành tinh trên dãy Trái đất mình chia ra 7 giống. Mỗi giống chia ra 7 nhánh lớn. Mỗi nhánh lớn chia ra 7 nhánh nhỏ nữa. Nhơn loại đi qua bầu hành tinh nào thì xác thân phải làm bằng chất khí của bầu hành tinh đó.Trái đất mình làm bằng đất cát, nên con người mới có xác thịt nầy. Ngày nào nhơn loại qua bầu thứ sáu làm bằng chất Thanh khí thì xác thân cũng phải làm bằng chất Thanh khí vậy v..v...

* Giống thứ ba gọi là giống Lemuria (Lémuriens). Ấy là tổ tiên giống da đen bây giờ. Ban sơ có một con mắt ở chính giữa trán, sau hai con mắt sanh ra ở hai bên, con mắt ở chính giữa thụt vô trong thành ra hạch trán hay là tùng quả tuyến (glande pinéale). Người ta tưởng lầm là các giống dân tộc ban đầu thì dã man rồi sau lần hồi mới văn minh tiến bộ. Sự thật thì mỗi khi giống dân tộc nào mới sanh ra thì luôn luôn Đức Bàn cổ của giống dân đó cho những vị thánh nhơn xuống đầu thai đặng dạy dỗ đạo đức và mở mang trí hóa về đủ các phương diện.
* Giống thứ tư là giống Atlantis: tổ tiên giống da vàng, da đỏ bây giờ. Giống thứ tư có 7 nhánh. Trong 7 nhánh duy có nhánh thứ ba Toltec đáng cho ta chú ý hơn hết. Hình thù vậm vỡ, cao lớn, da thịt cứng hơn đá Nhờ Tiên Thánh dạy dỗ cho nên giống Tôn-téc cực điểm văn minh, thế kỷ 20 nầy có chỗ vẫn chưa sánh kịp. Các  giống dân Trung quốc, Nhật, Mông cổ, các chủng tộc xa xưa ở Nam Mỹ thuộc nhóm này.
* Giống thứ năm là giống Aryens sanh ra đã một triệu năm rồi. Ấy là tổ tiên người da trắng bây giờ. Giống thứ năm cũng có 7 nhánh. Trong đó, nhánh thứ sáu  sẽ mở được trực giác, thần nhãn, giàu lòng bác ái, diệt được tánh ích kỷ chia rẽ, làm việc với tinh thần tổng hợp và thật hiện được câu Huynh đệ, Đại đồng. Nhánh thứ bảy sẽ tiến hóa hơn nhánh thứ sáu.

Trong Cao Đài giáo, Đức Hộ Pháp gọi tên hai nhánh sáu, bảy là giống dân Thần Thông nhơn và giống dân Chí Linh.
***
TIẾT 3: QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI
       
Người ta thường nói rằng con người có một linh hồn. Kết quả của sự nghiên cứu đã hoán chuyển và cho biết

CON NGƯỜI LÀ MỘT LINH HỒN CÓ MỘT THỂ XÁC.

Có ba chân lý tất yếu và bất biến, giản dị và vĩ đại nhưng có lúc bị bỏ quên vì không có tiếng nói nào để tuyên bố chúng:
- Linh hồn con người thì bất diệt, trường tồn và tương lai của nó là tương lai của một điều mà sự phát triển và sự huy hoàng không có giới hạn.
- Nguồn gốc của sự sống ngự ở trong ta và ngoài ta. Nó không thể được thấy, nghe hay cảm xúc, mà  chỉ được nhận thức bởi người nào muốn có sự cảm nhận.
- Một cách tuyệt đối, mỗi người đối với tự mình là người ban ra sự vinh quang và sự  tăm tối, người trọng tài về sự thưởng phạt của chính mình.
Nói một cách thông thường, con người là bất tử, và con người gặt hái những gì nó đã gieo. Tất cả đều được điều khiển dưới quyền của một hệ thống nhất định, dưới sự kiểm soát của một chỉ huy thông minh và hoạt động dưới những định luật bất di bất dịch. Con người có một vị trí trong hệ thống đó và sống dưới các luật đó. Nếu nó hiểu các luật đó và hợp tác với chúng, nó sẽ tiến bộ mau chóng và sẽ hạnh phúc. Nếu nó không nắm được tầm quan trọng của chúng và cố ý hay vô tình vi phạm các luật ấy, nó sẽ đau khổ và tự làm chậm trễ sự tiến bộ của chính mình. Trong đời sống, thể xác phải chịu nhiều thay đổi liên tục. Người ta phải cung cấp cho nó lương thực để tiêu hóa, không khí để nó thở và sinh lực để nó hấp thụ.
Trong xác thể hồng trần này có bảy trung tâm sinh lực:
   1 - ở phần chót xương sống            2 - ở tùng thái dương nằm gần rún
   3 - ở lá lách                                     4 - ở trên trái tim       
   5 - ở cuống họng                             6 - ở giữa hai chơn mày
   7 - ở đỉnh đầu.
       
Con đường tiến hóa  phát triển bằng cách giáng xuống nhập vào vật chất trọng trược và trở lên mang theo kết quả của những kinh nghiệm mà con người đã thực hiện. Con người  còn phải trải qua nhiều kiếp sống như thế nữa trước mặt. Mỗi một kiếp sống có thể coi như một ngày đến lớp học. Chơn linh khoác vào mình chiếc áo xác thịt và đến trường của thế giới vật chất đặng học một số bài. Trọn đời sống hồng trần này, nó học được hết các bài hoặc nó không học được gì cả, hoặc nó chỉ học được một phần nào đó. Nó sẽ lột bỏ chiếc áo xác thịt và trở về nhà. Khi bắt đầu kiếp sống mới, nó tiếp tục bài học của nó đúng vào chỗ đã ngừng lại hôm qua. Rồi, khi được trang bị đầy đủ kiến thức, nó ra khỏi trường và trở về đời sống thực của nó ở các cõi cao; các kiếp sống trước chỉ là những bước chuẩn bị. Ở trường học này không có học trò thi rớt. Tất cả đều đến đích một cách chắc chắn.
Vấn đề là thời gian cần để tự hoàn thiện và chuẩn bị các cuộc thi cao hơn nhanh hay chậm tùy thuộc hoàn toàn vào nó. Con người sử dụng phàm nhơn để phục vụ sự phát triển của Chơn Linh. Cho nên khi  phải chọn giữa hai con đường, chúng ta sẽ tự hỏi: đường nào làm lợi cho phàm nhơn tôi nhất và đường nào giúp cho sự tiến bộ của Chơn Linh tôi nhất. Lần lần con người không chỉ biết nhận vào mà còn biết  ban ra. Tới chừng đó, con người mới học đủ bài học của Ðấng Christ. Ðó là kết cuộc huy hoàng của việc hi sinh sự sống mình để làm nhẹ bớt đau khổ của đồng loại. Ở giai đoạn tiến hóa này, chúng ta sẽ thấy rõ rằng: tất cả cái gì hướng về sự hợp nhất và về tâm linh phù hợp với kế hoạch của Thượng Ðế, đều hữu ích cho chúng ta; còn cái gì hướng về sự chia rẽ và về vật chất đều không tốt.
Trong những tư tưởng và tình cảm thật xấu, cái trội nhất là lòng ích kỷ. Trái lại, trong các tư tưởng và tình cảm tốt, cái trội nhất là lòng vị tha.
Ðó là chỉ dẫn quí nhất cho sự sống mà chúng ta phải theo. Người nào muốn hợp tác với Thượng Ðế phải tránh xa những gì thuộc về quyền lợi và sự vui thích cá nhân, dành tất cả cố gắng để thực hiện ý muốn của Thượng Ðế bằng cách làm việc cho điều thiện và cho hạnh phúc của kẻ khác.
       
Có 3 bước ngoặc vĩ đại trong cuộc tiến hóa của con người:
· bước thứ nhất là lúc con người tự cá thể hóa, từ bỏ loài cầm thú, thụ đắc thượng trí để thành người.
· bước thứ nhì là cái mà người Thiên chúa giáo gọi là sự cải hóa, tin Chúa; Ấn độ giáo gọi là đắc sự phân biện; còn người Phật giáo gọi là mở tâm.
· bước thứ ba là bước to lớn hơn cả, vì  người đã đắc đạo. Từ đây, người đạo đồ không giây phút nào quên phụng sự Thiên ý. Người tiến đến trình độ này được Thiên chúa giáo gọi là người được tuyển lựa, được cứu rỗi; Phật giáo gọi là người nhập lưu. Đây được gọi là bậc siêu nhân loại.            
Sự tiến hóa của con người có hai chiều:
-  Chu kỳ Nhất bổn tán vạn thù: từ số MỘT là từ cái lớn ( Đại Linh Quang) phân chia hay nẩy nở thêm, đi thuận chiều là đi xuống hay từ thanh xuống trược.
-  Chu kỳ vạn thù qui nhất bổn: Con người hay Tiểu linh quang của Đức Thượng Đế nếu biết lo tu hành sẽ được  hiệp nhứt với Trời làm MỘT trở lại. Sự trở về của linh hồn theo con đường nghịch chuyển, tức từ trược tiến lên thanh.
       
Tóm lại, quan niệm về đời sống của người tu hoàn toàn khác với quan niệm của người thường. Muốn đắc Đạo, phải chết Đời mới sống Đạo. Ðiều này có nghĩa: người tu không  sống theo tiền bạc, danh vọng và quyền thế; không bị những thú vui trần tục quyến rũ. Mục đích của những người này là tận tâm với nhân loại bằng sự hi sinh quên mình vì lý tưởng. Con đường Đạo này rất khó theo. Những người đi con đường ấy thường sẽ bị đồng loại không hiểu, bị nói xấu, vu khống đủ điều, việc làm bị vong ân bội nghĩa và mặc dù kết quả chắc chắn, nhưng không ai đoán được thời gian bao lâu mới đạt được.Thời gian để con người tiến đến sự hoàn thiện thì vô tận; nhưng được hoàn thiện sớm chừng nào thì càng hữu ích và càng hạnh phúc chừng nấy.
Người chết là chết phần thể xác, còn phần Linh hồn thì siêu thăng. Với quan niệm đó, Đạo Cao Đài không chủ trương tu phải tìm nơi hẻo lánh, trốn tránh việc đời. Tu là cứu rỗi linh hồn nhưng ngoài việc tu tâm dưỡng tánh còn phải biết lập công quả bằng cách phụng sự chúng sanh để thể hiện lòng từ ái và chuộc lỗi do những nghiệp xấu đã gây ra ở kiếp này hay từ những kiếp trước. Vì vậy, Đạo Cao Đài chủ trương nhập thế và trong khi nhập thế phải lo tu thân, giữ Tâm công chánh, hành xử đúng đạo thánh hiền. Sau giai đoạn lập công, lập đức, lập ngôn người đệ tử mới nghĩ đến việc xuất thế, tịnh luyện.
Chánh Kiến Cư Sĩ
Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét