Ðại Ðạo Danh Nhân - 1 /2 (HT. Trần Văn Rạng)

Lời giới thiệu Của Ngài Cải Trạng
XLTV Văn Phòng Chưởng Quản, Ban Thế Ðạo
Kính quí liệt chư tôn độc giả,
Quyển "ÐẠI ÐẠO DANH NHÂN" do vị Hiền Tài TRẦN VĂN RẠNG, Trưởng Nhiệm Văn Hóa Ban Quản Nhiệm Trung Ương Ban Thế Đạo soạn thảo, ghi lại những gương hy sinh cao cả, những đức tánh vị tha của các bậc tiền bối đã dày công khai nguyên nền Đại Đạo.
Khai Đạo giữa một lãnh thổ mà toàn dân đang bị thống trị dưới ách đô hộ,
phải chăng thiên ý muốn trưng dụng những lá gan anh tuấn, làm tiêu biểu cho cuộc cách mạng tinh thần, để cứu dân cứu nước Việt Nam này thoát ách, nước có độc lập, người có tự do, thì nền quốc túy là mãnh tâm điền để gieo trồng Thánh cốc, ấy là Đạo.

Xem lịch sử cổ kim, khi dân trí tiến bộ, nhờ các bậc hào hùng đứng lên khởi nghĩa mới tranh thủ lại chủ quyền dân tộc, nay nước Việt Nam nhờ ơn Trời chiếu hộ, dụng phương châm đạo đức tinh thần để tránh những xáo trộn đau thương, nhưng những ai đã đứng vào hàng lãnh đạo, làm sao tránh khỏi những khủng bố tù đày mà các bậc ân nhân tiền bối chúng ta có cơ hội lưu lại ngày nay những bức tranh sáng, những tấm gương trong, cho hậu tấn soi đường.

Quí độc giả sẽ có dịp xem qua torng quyển ÐẠI ÐẠO DANH NHÂN này, những đoạn thanh sử, mặc dù chưa phải đầy đủ với lịch sử của các Đấng, nhưng cũng được am tường các nét đại cương để chúng ta ghi nhớ tri ân những bậc tiền bối.
Tòa Thánh, ngày 24 tháng 10 năm Canh Tuất.
(22/11/1970)
Cải Trạng Hiệp Thiên Đài
NGUYỄN VĂN HỘI

Đề Từ của Soạn Giả.
Bất cứ một tôn giáo, một hội đoàn hay một đảng phái nào, các môn đồ, các đoàn viên đều trông theo gương hành động và sự nghiệp của giới lãnh đạo mà noi theo.
Đời sống, đức tánh của các hàng giáo lãnh còn quan trọng hơn vì lãnh đạo tinh thần của nhân sanh mà Đấng Thượng Đế tối cao phó thác. Nhằm trong ý niệm đó, mong cống hiến đồng Đạo ít nhiều các gương hy sinh, đời hành đạo của các bậc nhiều công trong việc khai nguyên Đạo Cao Đài. Tôi nguyện làm viên gạch đầu tiên để xây thành trì tiểu sử các bậc Thánh nhân, mạo muội viết thành quyển "ÐẠI ÐẠO DANH NHÂN" này. Và lòng hằng nguyện các Đấng và chư Chơn quân quá vãng giúp môn đệ có đủ thông minh và kiên nhẫn hoàn thành lời ước.

Tập sách nhỏ này chỉ tóm lược những nét đại cương cuộc đời hành giáo của chư vị tiền bối, đúng mức phải dành cho mỗi vị một quyển sách riêng.

Kính mong chư Chức sắc và quí đồng Đạo chỉ giáo cho những điểm sơ lầm. Tôi cũng thành thật cảm ơn quí vị hảo tâm đã chung góp tiền ấn tống quyển sách này.
Tam Tê Anh Vào Hạ 70
Hiền tài TRẦN VĂN RẠNG

Chương I

HIỆP THIÊN ĐÀI

Đức Hộ Pháp
PHẠM CÔNG TẮC

I/ - PHẦN ĐỜI
1/ - Thưở Thiếu Thời.
Vào tiết Đoan Ngọ (5-5) năm Canh Dần (21-06-1890), bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, thuộc làng Bình Lập, tại Tỉnh lỵ Tân An (nay là Long An), một chơn linh giáng lâm trong gia đình ông Phạm Công Thiện, một công chức. Đó là Phạm Công Tắc (1). Ngài sanh nhằm năm Thành Thái thứ hai. Lúc bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, do Pháp trực tiếp cai trị. Vì thế, Nam Kỳ coi như một phần lãnh thổ của Pháp. Phủ Thống đốc Nam Kỳ đặt tại Sài Gòn.
Ông Phạm Công Thiện kết hôn với bà La Thị Đường, sanh được 8 người con mà Ngài Phạm Công Tắc là người con thứ tám. Song thân Ngài trước ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh. Vì là công chức, ông Phạm Công Thiện về sau được đổi đến Long An.

Thưở thiếu thời Ngài Phạm Công Tắc là một thiếu niên khỏe mạnh, tư chất thông minh đĩnh ngộ. Có điều lạ, vì sanh nhằm ngày Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, cũng là ngày Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhập Thiên thai, nên thỉnh thoảng Ngài ngủ thiếp đi như người chết, linh hồn lạc khuất đâu đâu, khiến cho huyên đường lo âu, nhất là bà cụ cố tỏ vẻ buồn rầu sợ Ngài mệnh bạc.

(1) Theo giấy tờ hộ tịch thì Ngài sanh tại Bình Lập, và cũng được xác nhận trong quyển "Tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc" xuất bản năm 1954 lúc Ngài còn sanh tiền.

Cảnh trạng Ngài chết đi sống lại như thế, cả làng xã đều biết (2). Người ta cố gắng lo thuốc thang cho Ngài, nhưng vốn tiền định, lâu lâu Ngài ngủ lịm đi đôi ba giờ, có khi kéo dài nửa ngày.

Năm 1896, đến tuổi cắp sách đến trường tiểu học, có lúc học chữ Nho rồi sau theo học trường Chasseloup-Laubat (nay là trường Jean-Jacques Rouasseau, đường Hồng thập tự, Sài Gòn). Bằng hữu ai cũng thích Ngài, vì tánh tình khoan hòa, ưa hoạt động, nhất là nhiều sáng kiến, bày biện các cuộc chơi, hay đánh đổ một vài nhân vật trong lịch sử nước Pháp. Việc này khiến cho các bạn ái ngại xa lánh Ngài. Từ đó, Ngài cảm thấy cô đơn, nhiều câu tự vấn : Tại sao nước Pháp có nhiều anh hùng? Nhìn lại quê hương Việt Nam thì rách nát, Pháp phân chia để trị. Bắc kỳ và Trung kỳ là hai xứ bảo hộ, nhà vua có đó như bù nhìn. Viên Toàn Quyền Pháp là chúa tể, nắm tất cả quyền hành. Việt Nam là người, mà người Pháp cũng là người, tại sao người Nam cuối đầu nô lệ, chịu nhục. Mối hờn vong quốc bừng sôi trong huyết quản của tuổi trẻ Ngài.
 (2) Nhật báo Điện tín ra ngày 9/9/1971 có đăng tin : "Một thiếu niên 19 tuổi sau khi đỗ Tú tài thì đôi mắt tự nhiên lòa hẳn đi, kéo dài trong 1 tháng thì thiếu niên lâm trọng bịnh. Trong lúc mê sảng thiếu nêin cho cha mình biết là anh được Thiên tướng xống đưa về Thiên đình chữa bệnh. Anh sẽ chết rồi khoảng 15 ngày sau mới sống dậy, miễn đừng đem chôn và ngày ngày vẫn cho anh uống 3 lần nước lạnh vào 6 giờ sáng, 12 giờ trưa và 18 giờ tối". Dẫn chuyện xảy ra ở Tân Châu (Châu Đốc), để chứng tỏ chuyện thiếp đi của Ngài Phạm Công Tắc là một chuyện thật.

Hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ hết sức sôi động. Triều đình Huế, vua Thành Thái (1889-1907) bị phế (3-9-1907), vua Duy Tân (1907-1916) lên kế vị (8/9/1907), nhưng từ bỏ ngôi hợp với Trần Cao Vân chống Pháp và bị bắt (6/5/1916). Theo sách Việt sử của Trần Văn Rạng (ấn hành năm 1963) diễn tả lại việc Pháp bắt nhà vua như sau:

"Le Fol cất nón chào nhà vua :
- Thế nào, Hoàng Thượng ngự giá đến đây là hết rồi chứ ?
Vua Duy Tân nhún vai rồi đáp bằng tiếng Pháp :
Các ông chẳng hiểu được đâu (Vous ne pouvez pas comprendre).
Viên Khâm sứ Charles mỉm cười bắt tay Ngài :
- Bệ hạ bằng lòng cuộc du ngoạn chớ ?
Vua Duy Tân đã trả lời xẳng 1 câu bằng tiếng Pháp :
- Không, bởi vì nó đã thất bại. (Non, puisqu'elle n'a pas réussi).
Ngài giữ thái độ oai nghi lãnh đạm, cho đến khi bị đày qua đảo Rénion cùng với vua Thành Thái (13/5/1916).

Cái chí khí kiêu hùng và bất khuất của vị vua 17 tuổi, nung thêm chí căm hờn ngoại chủng của Ngài. Với khí thế tuổi trẻ, Ngài muốn vọt lên phá tan xiềng xích nô lệ, để đòi lấy quyền sống và giải thoát gông cùm ngự trị trên giống nòi. Nhưng tuổi nhỏ, Ngài đành chấp nhận hoàn cảnh, gia nhập phong trào Đông Du năm 1907, khi vua Duy Tân nối ngôi, để mong học hỏi thêm kinh nghiệm tranh đấu của nước người.

Phong trào Đông Du (1904-1907) do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm Minh chủ và hai nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng để nâng cao dân trí, bằng cách gởi các thanh niên du học ngoại quốc nhất là Nhật Bản.

Tại sài Gòn phong trào Đông Du do hai ông Gilbert Chiếu (tức Trần Chánh Chiếu) và Dương Khắc Ninh lãnh đạo. Các ông thành lập các kinh thương hội như "Minh Tân công nghệ" và khách sạn "Nam Trung" làm nơi lưu trú hội họp cho đảng viên. Ngài Phạm Công Tắc dù đang theo học năm thứ hai trường Chasseloup-Laubat cũng lén bỏ học đến họp với anh em.

Hai ông Gilbert Chiếu và Dương Khắc Ninh tập hợp các đảng viên chia nhiều nhóm để xuất dương. Ba nhóm đã sang tới Nhật, Ngài được ghi tên vào nhóm thứ tư. Lòng Ngài như mở hội, bao nhiêu mộng hải hồ viễn phương kéo lũ lượt qua võng mô Ngài. Bút nghiên tạm xếp, hành trang sẵn sàng chờ ngày lên đường. Đùng một tiếng phong trào bị khám phá. Mật thám đến tra xét cơ sở Minh Tân công nghệ. Ông Dương Khắc Ninh đã lẹ tay hành động, tiêu hủy tất cả hồ sơ và tài liệu nên không ai bị lôi thôi gì cả. Tuy nhiên, mật thám vẫn chú ý, luôn theo dõi, dò xét các nhà lãnh đạo và chính Ngài cũng bị chúng để ý và nhà trường lưu tâm. Buộc long Ngài phải nghỉ học về làng An Hòa (Tây Ninh) tạm tránh sự dòm ngó của mật thám Pháp. Khi tình hình êm dịu, Ngài lại lăn mình vào trường tranh đấu. Lần này Ngài hoạt động cẩn thận hơn, rồi tham gia viết báo như : Công luận, La Cloche fêlée (Chuông rè) của Nguyễn An Ninh, La voielibre … Tiếng nói tự do), Nông cổ Mín đàm, Lục Tỉnh Tân văn (Tờ Lục Tỉnh Tân văn của ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút). Ngài cộng tác thường xuyên với tờ này vì là đồng chí. Hơn nữa, ông Chiếu ngấm ngầm làm cơ quan tuyên truyền chống Pháp và kích động lòng yêu nước của nhân dân rất đắc lực. Các bài "Thượng bất chánh, hạ tắc loạn" (đăng ngày 12/12/1907), bài "Dân tộc đoàn kết và thời đàm" (đăng ngày 23/1/1908) là những lời thẳng thắng cảnh cáo nhà cầm quyền Pháp. Khi ông Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, Ngài lại về quê.

Vì ảnh hưởng cách mạng và các Tiên Vương, về sau, Ngài lập Báo Quốc Từ, bôn ba sang Nhật rước tro Cường Để, về Sài Gòn rước linh vị Thành Thái và Duy Tân đem thờ nơi Báo Quốc Từ (gần chợ Long Hoa). Ngoài ra cơ quan thông tin Cao Đài sưu tầm và phổ biến các hình ảnh Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học … Tất cả sự việc đó để tấm lòng nuôi dưỡng ý chí các liệt sĩ bất khuất và di dưỡng vang bóng một thời của tuổi trẻ hào hùng.

Aâu cũng là thiên thơ dĩ định, mộng Đông Du không thành, bạn bè cùng chí hướng mỗi người một ngã, Ngài chẳng lẽ ngồi đây nhìn quê hương mỗi ngày thêm tan nát, hay chỉ biết làm bạn cùng cây cỏ gió trăng. Đêm rằm tháng giêng năm Đinh Mùi, Ngài nhìn vầng trăng hư ảo mà khẽ ngâm bài "Nhân nguyệt vấn đáp", rồi tâm thần dần dần tê mê theo cơn gió nhẹ ru. Khi mở mắt ra Ngài đã lạc đến Thiên cung, rất có lợi cho cuộc đời hành Đạo của Ngài sau này.

2/ - Thời trưởng thành :
Năm 1910, vì hoàn cảnh thanh bạch, Ngài vào làm thơ ký Sở Thương chánh (Sài Gòn). Năm sau lên hai mươi mốt tuổi, Ngài vâng lệnh mẫu thân thành lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều, hạ sanh được ba (?) người con, hiện còn hai cô Phạm Hồ Cầm và Phạm Hương Tranh. Bà Hương Nhiều (tức Nguyễn Thị Nhiều) đắc vị Chánh Phối sư, chưởng quản Nữ phái Phước Thiện, và cô Hương Tranh thọ phong Giáo sư (là một phẩm chức sắc trong Cao Đài giáo).

Đời sống công chức không làm cho Ngài thích thú, còn nếp sống gia đình điều điều buồn chán không trói buộc được Ngài. Ngài đam ra mê lý tưởng hướng Đạo, "làm những việc thiện hằng ngày để giúp đỡ những kẻ cô đơn xung quanh. Ngài giàu tình thương đời, nhất là những kẻ cô đơn trụy lạc. Ngài đã làm một cử chỉ rất ý nghĩa. Đang làm công chức Sở Thương Chánh, đồng tiền chẳng được dồi dào chi lắm, vậy mà Ngài dám vay nợ đặng giải phóng một đoàn nhi nữ ra khỏi chốn thanh lâu, cho họ thoát vòng nhục nhã, được trở về đời sống lương thiện, hưởng hạnh phúc gia đình". (Theo tiểu sử Hộ Pháp PCT ấn hành 1954).

Người Pháp thấy Ngài có hành động khác thường, họ liệt Ngài vào hàng có tâm huyết nên họ tìm cách đổi Ngài đi Cái Nhum (hậu Giang) sau đó đổi ra Qui Nhơn (Trung phần), rốt cùng lại đổi về sài Gòn, để rồi những ngày sẽ tới, Ngài hiến trọn cuộc đời cho Đạo Pháp.

3/ - Ngộ Đạo :
Vào năm Aát Sửu (1925) để tìm hiểu huyền vi và bí mật Thiêng liêng, Đức Ngài cùng quý ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu … họp nhau "XÂY BÀN" tại nhà ông Sang gần chợ Thái Bình. Vong linh nhập bàn đầu tiên là cụ Cao Quỳnh Tuân (thân sinh của ông Cao Quỳnh Cư) cho một bài thi bát cú thất ngôn. Trong các chơn linh giáng xuống cho thi phú, có một vị không chịu xưng tên mà chỉ cho 3 chữ A, Ă, Â, (xin xem ÐẠI ÐẠO SỬ CƯƠNG cùng tác giả).
II/ - PHẦN ÐẠO

1/ - Thọ Thiên Phong :
mãi đến đêm 24 tháng 12 năm 1925, Ông A,Ă, mới cho biết chính Ngài là Đấng Thượng Đế đến lập Đạo tại Nam Phương để giải thoát chúng sanh, tá danh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Vào ngày 25/4/1926 (14/3/Bính Dần) tại nhà Ngài Đầu sư Thượng Trung Nhựt, Ngài thọ Thiên ân Hộ Pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, đắc vị Thiên phong trước hết. Đức Ngài là người nắm cơ mầu nhiệm của Đạo, cả luật của đời, xét xử chư Chức sắc Thiên phong và tín đồ, giữ dạ vô tư, tạo lập bí pháp đưa các đẳng chơn hồn vào Bát Quái Đài để hiệp cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật.


2/ - Hành Đạo Kiêm Biên (Kampuchia) :
Sau khi khai Đạo (14/10/Bính Dần) tại Thánh Thất Từ Lâm, xảy ra việc tà quái ngoài ý muốn, nhưng người theo Đạo mỗi ngày một đông, người Pháp dòm ngó, hăm he các Chức Sắc và lập hồ sơ đen các người theo Đạo.
"Riêng phần Bần Đạo là công chức, khi vâng lịnh Đức Chí Tôn đến chùa Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ 6 tháng đến chừng trở lại làm việc, người ta đổi Bần Đạo lên Kiêm Biên. Nơi đó Bần Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo. Riêng phần mấy anh lớn trong hàng phủ, huyện bị người ta dọa nạt đủ điều. Cả toàn con cái Đức Chí Tôn buổi nọ, còn lại có ba người. Ba người ấy là Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo. Chúng tôi nhứt tâm nhứt trí quyết làm cho Đạo thành, cho vừa lòng Đức Chí Tôn" (Trích bài thuyết Đạo ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ, 1954).

Nhờ làm việc tại Kampuchia mà Đức Ngài độ được Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng, bấy giờ làm Phòng Chưởng Khế tại đây (1927), và anh em vua Cao Miên là Sisowark qua trung gian Tổng Trưởng Sơn Điệp. Trong Hoàng Cung hiện nay vẫn còn thờ Thiên Nhãn.

3/ - Xây dựng Tòa Thánh :
Công nghiệp lớn lao của Đức Ngài là xây dựng Tòa Thánh. Đặt viên gạch đầu tiên năm 1933, qua năm 1936 mới khởi công xây cất và đến năm 1941 công cuộc kiến trúc bên ngoài vừa hoàn thành. Nhưng chưa kịp trang hoàng thì Đức Ngài bị lưu đày. Năm 1946, Đức Ngài trở về nước tiếp tục sửa sang. Năm 1954 thì hoàn tất và lễ Khánh thành được tổ chức vào đầu tháng giêng năm Aát Mùi (1955).

Đây là một công trình kiến trúc tân kỳ vĩ đại, khiến cho người ngoại quốc thầm kính phục một khối óc vĩ nhân vượt hạn. Đền Thánh dài 145 thước, rộng 40 thước, cao 36 thước về phía gác chuông Hiệp Thiên Đài, 25 thước nơi Cửu Trùng Đài và 38 thước nơi Bát Quái Đài. Công trình tạo tác đồ sộ nguy nga như thế mà Đức Ngài vẫn khiêm nhường cho rằng chỉ làm theo lịnh dạy của Đức Chí Tôn ((1) Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ).

4/ - Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài :
Sau khi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên (19/11/1934), vào ngày lễ Đại Tường (8/11/1935), một Đại Hội Đồng gồm Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh đồng bầu cử Đức Ngài cầm quyền thống nhất Chính Trị Đạo cho đến ngày có Đầu sư Chánh Vị.

Từ đó Đức Ngài Chưởng Quản Nhị hữu Hình Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài hết lòng xây dựng nghiệp Đạo và đem phương sách hay cho nhơn sanh.

5/ - Thời Pháp Nạn :
Vào ngày 23 / 7 / Canh Thìn (1940), lính mật thám Pháp vào châu vi Thánh Địa xét giấy tờ và đóng cửa Báo Aân Từ.

Ngày 25/5/Tân Tỵ (1941), Chánh phủ Pháp ra lịnh cấm công nhân tạo tác Tòa Thánh. Ngày 4/6/ năm đó, vào 8 giờ sáng, mật thám bắt Đức Ngài. Ba ngày sau họ vào Tòa Thánh đuổi hết mọi người về tỉnh, về nguyên quán. Chúng xung công tất cả Văn Phòng và chiếm đóng trong chu vi. Chúng đày Đức Ngài sang Mã Đảo (Madagascar) trên chiếc tàu Compiège vào ngày 27/7/1941 cùng 5 vị Chức Sắc. Trong chuyến tàu này ngoài Đức Ngài còn có các nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Sang … Khi đến Mã Đảo, Ngài và chư Chức Sắc bị giam đến ngày 24/11/1944, mới được ra ngoài làm lụng.

Năm 1945, phe Đồng minh thắng, De Gaulle giải phóng nước Pháp, Đức Ngài được đưa về Việt Nam ngày 1/10/1046. tính lại thời kỳ đồ lưu hải ngoại là 5 năm, 2 tháng, 3 ngày.


6/ - Việc thành lập Quân Đội Cao Đài : Khi Đức Ngài trở về Tòa Thánh thì Quân Đội Cao Đài đã lập từ năm 1945 với danh Nội Ứng Nghĩa Binh. Vì hoàn cảnh đất nước và đạo sự lúc bấy giờ, Đức Ngài phải để quân đội thành hình và xuất quân ngày 8/1 ÂL (1947).
"Quân đội các con thành lập đặng do toàn thể trụ cả năng lực trên nền tảng Nghĩa Nhân, Đạo Đức. Ngọn cờ Cứu Khổ của các con xuất hiện nơi nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải đặng các con bảo vệ, cứu khổ phò nguy mà làm rạng danh anh tuấn của non sông chủng tộc"
(trích bài huấn dụ các cấp chỉ huy Quân Đội Cao Đài của Đức Phạm Hộ Pháp đầu xuân Giáp Ngọ 1954).

Trong bản tuyên ngôn tại Phnôm-Pênh, ngày 30/4/1956 Đức Ngài viết : "Khi Đức Bảo Đạo về nước, chính Bần Đạo đã giao trọn quyền sử dụng Quân Đội Cao Đài cho Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ Quân lực Quốc gia. Khi Đức Ngài đi Pháp mới tạm giao quân lực ấy lại cho Bần Đạo. Trong lúc vắng mặt, Đức Ngài đã ra lịnh cho hai Chính Phủ Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp pháp quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài. Nhưng sự thi hành ấy kéo dài cho tới ngày Chánh Phủ Ngô Đình Diệm thọ phong toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần Đạo buộc phải nhắc nhở và cầu cho Chánh Phủ Ngô Đình Diệm quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài một cách hợp pháp. Bần Đạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với quân lực, mà chỉ dùng phương pháp Đạo Đức đặng đem hòa bình hạnh phúc lại cho giống nòi mà thôi".

7/ - Chấn chỉnh các cơ quan Đạo :
Đức Ngài lo chấn chỉnh nội bộ từ Cửu Trùng Đài, có đủ 3 sắc phái (Đạo Nghị Định số 5), hiến thân hành Đạo, cơ quan Phước Thiện thành Hội Thánh Phước Thiện có thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng. Với toàn Đạo thì Đức Ngài cho phá rừng lập chợ Long Hoa, một hình thức kiến trúc theo Bát Quái, phố xá rộng rãi đường thênh thang dự trù cho hàng trăm năm sau. Công việc đang tiến hành thì một biến động xảy đến cho Đức Ngài, niềm đau chung cho toàn Đạo.

8/ - Trên đất khách :
"Vào đầu tháng 8 năm Aát Mùi (1955), vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài, khi được Quốc gia hóa, ra lệnh thành lập Ban Thanh Trừng, bắt nhiều đạo hữu giam cầm. Một số thiếu nữ trong Đạo cũng bị câu lưu mấy tháng và bị ép buộc phải khai nhiều điều khiếm nhã cho Đức Ngài.

"Còn chính Đức Ngài cũng bị cầm lỏng tại Hộ Pháp Đường chung quanh có quân đội võ trang canh phòng, từ 20 tháng 8 Aát Mùi (1955) đến mùng 5 tháng 1 Bính Thân (1956). Vì quá đau buồn cho cảnh đồng đạo tương tàn, Đức Hộ Pháp buộc lòng cùng nhiều Chức Sắc tùy tùng rời khỏi Thánh Địa lúc 3 giờ khuya ngày ấy nhắm thủ đô Miên quốc trực chỉ". (Trích diễn văn của Đức Thượng Sanh, theo Đại Đạo nguyệt san số 5/64)

Việc ra đi được Đức Ngài tuyên ngôn như sau :
"Bần đạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần Đạo, hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thống nhứt hoàn đồ và chủng tộc là phương pháp Hòa Bình và Chung Sống".
Hành động rời Tổ Đình, không những để bảo vệ tự do cá nhân để chủ thuyết của Đức Ngài được quảng bá sâu rộng trên toàn thế giới và các giáo lãnh tôn giáo mà còn một sự hy sinh cao cả "tránh cảnh đồng đạo tương tàn" như Đức Cao Thượng Sanh thuyết. Chẳng khác nào như Đức Jésus Christ hy sinh trên Thập tự giá để cứu nhân loại. Người ta nói "Lấy nhục làm vinh. Ở đây không hề có việc đó và Đức Chúa Trời cũng không hề làm như vậy. Hy sinh mình để cứu người đó là hành động của vĩ nhân, của bậc cái thế siêu phàm, của chơn linh có nguyên động lực mạnh. Phải lấy cái nhìn của một triết nhân, của hàng cao đồ mới thấy sự ra đi của Đức Ngài ngụ nhiều ý nghĩa mà người phàm khó hiểu được (ù Xem thêm "Chân dung Hộ Pháp Phạm Công Tắc" cùng người viết).

9/ - Trở về ngôi xưa cảnh cũ :
Dù sống trên đất Chùa Pháp an toàn, nhưng lúc nào Đức Ngài cũng hướng về quê hương khói lửa, đang bị súng đạn dày vò. Lòng chịu đựng có hạn, mà đời người lại có tuổi. Mặt khác Đức Chí Tôn có lẽ định đem Đức Ngài giúp ích cho Đạo nhiều hơn. Thế nên, ngọa bịnh không bao lâu, Đức Ngài liễu đạo nhằm mùng 10 tháng 4 Kỷ Hợi (17-5-1959), hưởng thọ 70 tuổi.

Việc qui Thiên của Đức Ngài được đài Thông Thiên Học chứng nhận và thông báo trên mặt báo cho toàn thế giới biết. Ngay khi thi thể chưa liệm Đức Ngài giáng cơ cho bài thi nhiều ẩn ý sau :
Trót đã bao năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.

THIÊN TÍNH CỦA ĐỨC HỘ PHÁP

Thánh Ngôn thưở khai Đạo, Đấng CHÍ TÔN có lần hỏi Đức Hộ Pháp : "Tắc! Thầy lấy tánh đức con mà lập Đạo được chăng ?". Xem vậy, tính đức của Đức Ngài thật quan trọng tác dụng trong nền Tân Tôn Giáo.
Một Thánh nhân giáng trần có hai tính đức "một là nhân tính, hai là Thánh tính." Nhân tính là tính làm người ở thế gian vì mang thi phàm. Thánh tính là tính thiên định cho chơn linh khi lâm phàm. Dù Đức Ki Tô cũng phải mang hai tính đức đó, nên Ngài ba lần bị quỉ Satan thử thách mới đạt Đạo. Nếu không có nhân tính mà chỉ có thiên tính của Trời thì quỷ vô thường làm sao dám bén mảng tới. Trường hợp Đức Hộ Pháp cũng vậy, vì mang thi phàm mà phải chịu bao nhiêu thử thách để xứng đáng trở về ngôi xưa cảnh cũ.

Nhân tính của Đức Ngài phảng phất nhiều hương vị hiền triết của Thánh Gandhi, Socrate, Ki Tô, Khổng Tử, Nostra-Damus … Bởi Đức Ngài đã nghiên cứu về đời sống của các bậc siêu nhiên vũ trụ này. Bằng chứng là lúc còn sanh tiền, ngoài lịch kỷ niệm Đạo, Đức Ngài còn cho thiết lễ kỷ niệm các vị trên. Do đó vô hình trung con người của Đức Ngài được chung đúc qua các Thánh chất đó, trở thành bát tính sau :

1/ - Hy sinh thân thế và chịu đựng tù đày mưu tìm hạnh phúc nhân sanh:
Đức tính đầu tiên của Đức Phạm Hộ Pháp là hy sinh và chịu đựng. Hy sinh một người để cứu trăm họ, chịu đựng một mình để cứu vớt lấy sinh linh. Đó là gương hy sinh và chịu đựng của bậc Thánh nhân. về điểm này đức tính của Đức Ngài phảng phất tư chất của Thánh Gandhi (1869-1946). Thánh Cam Địa sinh ra đời thì nước Aán dưới sự đô hộ của người Anh. Ngài theo học trường Anh đỗ Tiến sĩ Luật khoa nhưng chống lại sự áp bức của người Anh. Đến thế chiến thứ I (1914-1918) trước lời hứa hẹn của chính phủ Anh, Gandhi hô hào đồng bào đầu quân giúp chính quốc. Khi chiến tranh kết liễu, Anh quên lời hứa. Gandhi đứng ra lãnh đạo phong trào quốc gia Aán, đề ra chính sách bất bạo động, bất hợp tác, năm 1919, Anh ban bố hiến chương Aán Độ (India Act), dân Aán bất mãn theo Gandhi chống Anh. Gandhi bị hạ nhục từ tháng 3/1922 tới tháng 2/1924. Cuối cùng Gandhi bị bọn quá khích ám sát chết và đất nước vẫn còn chia Aán Hồi.

Cuộc đời Đức PHAÏM HỘ PHÁP cũng hạ sanh lúc thời Pháp thuộc và chống Pháp. Đến thế chiến thứ hai (1939-1945) theo lời hứa của chánh phủ Pháp, Đức Ngài kêu gọi toàn Đạo đầu quân giúp Pháp và cũng bị Pháp cầm tù ở Mã Đảo (1941-1946) trên năm năm.

Điều phi thường là cả nhị vị không ai giữ địa vị cao trọng nào trong chính phủ và cũng không là chính khách nắm vận mệnh quốc gia. Gandhi nói : "Tất cả những nhà Tôn giáo mà tôi gặp đều là những chính trị gia trá hình. Tuy nhiên, tôi là người mang lớp áo chính trị, nhưng là một nhà Tôn giáo". Nhờ lòng tin vào tôn giáo đã thúc giục ông nhận lấy hoạt động chính trị.

Biết hy sinh và hy sinh đúng lúc là một việc hết sức khó. Nếu không chịu đựng nổi những nhục nhằn, những tiếng thị phi mà quyên sinh thì còn chi là một người. Trên năm năm chịu đựng ở Mã Đảo, mấy tháng bị thanh trừng (1956) nhục nhằn nơi Hộ Pháp Đường, nếu không là bậc Thánh nhân, vì sự liêm sĩ nhất thời, không liệu chước gỡ rối được thế tình thì danh dự của một người dù muốn hay không cũng không bị sứt mẻ.

Chủ thuyết của Thánh Gandhi như quan niệm về quốc gia của Đức PHAÏM HỘ PHÁP : Chủ nghĩa quốc gia của chúng ta không thể làm hại quốc gia khác, cũng như chúng ta sẽ không phá hoại ai, ngược lại không ai có thể phá hoại chúng ta. Đức Ngài còn đi xa hơn phác họa một thế giới đại đồng không biên giới, trong đó mọi sắc dân mọi tôn giáo sinh hoạt bình đẳng.

2/- Hành động tích cực và tận tâm :

Đức tính thứ hai của Đức PHAÏM HỘ PHÁP là hành động tích cực, quả quyết. Đề xướng một việc nhất định phải đi đến kết quả tốt và nhất định vận dụng mọi kế hoạch để thực hiện cho kỳ được, tìm việc chứ không đợi việc. Nếu không có đức tính đó thì chắc Tòa Thánh xây dựng không xong. Không tiền, không vật liệu mà công thợ phải trường chay tuyệt dục, thì thử hỏi không tận tâm và tích cực làm việc, tổ đình đồ sộ kia làm sao hoàn thành.

Thái độ tích cực này giống Théodore Roosevelt (1858-1919) Tổng Thống Hoa Kỳ. Ông là một người tích cực, hoạt động không ngừng và ăn nói hoạt bát, một người thợ đúc hình dung từ chua chát. Ông có ý kiến trong hầu hết các vấn đề trên mọi địa hạt và diễn tả với khí phách như thác lũ. Đức Phạm Hộ Pháp giống Roosevelt ở chỗ tích cực và phê kiến trong mọi vấn đề. Sự kiện này, ai có đọc tập "Lời phê của Đức Phạm Hộ Pháp" thì rõ, từ việc nhỏ như đắp dường đến việc chính trị Đạo to lớn, nơi nào cũng có Đức Ngài ghé mắt. Nhưng khác hơn Roosevelt là không bao giờ dùng ngôn từ chua chát. Trong hai tháng chấp chánh quyền Tổng Thống các công văn do Ông ký có thể nối từ Mỹ Quốc đến Việt Nam, thì Đức Phạm Hộ Pháp, sau khi tái quyền chấp chánh từ Mã Đảo về, Đức Ngài đã ban hành số Thánh lịnh và Thánh Huấn đáng kể (lưu giữ tại Ban Đạo Sử).

3/ - Óc sáng tạo huyền bí :

Một tôn giáo có hai chánh pháp: thể pháp và bí pháp. Thể pháp là hình thể bề ngoài, còn Bí pháp là huyền nhiệm thiêng liêng bên trong. Thiếu một trong hai phép đó thì không là Tôn giáo.

Đấng CHÍ TÔN lập Đạo cứ trên tính đức của Đức Phạm Hộ Pháp thì Ngài cũng giao Bí pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nơi tay Hộ Pháp. Vào năm 1948, Đức Ngài đã bỏ ra thời gian khá dài để giảng về Bí pháp của Đạo, được các ký tốc viên ghi chép và in thành tập.

Ngoài ra, Đức Ngài còn tuyên bố nhiều yếu ngôn quan trọng về nền Đạo, như về chính trị Việt Nam và Thế Giới. Những tài liệu tản mạn và có thể thu thập thành "sấm Đại Đạo". Tác giả kêu gọi những tín hữu biết hoặc giữ những tài liệu này xin liên lạc với "Nhóm Văn Hóa Đại Đạo" để hầu làm sáng đường lối của Đức Ngài.

Tập tài liệu này, nếu thành hình chẳng thua gì "Sấm Trạng Trình" của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ NGUYỄN BỈNH KHIÊM hoặc tập "Centuries" của Nostradamus (1503-1566), nhà tiên tri nước Pháp thế kỷ XVI.

Đức Ngài nắm giữ bí nhiệm các kiến trúc xây cất Tòa Thánh, Thánh Thất, Báo Aân Từ, Điện Thờ Phật Mẫu. Những chi phái đã chấp nhận giáo lý Đại Đạo cũng không thể phủ nhận về hình thể các thể thức kiến trúc. Chưa kể đến, Đạo Cao Đài được phổ quát và truyền bá trong dân chúng là do cập cơ Cao Thượng Phẩm và Phạm Công Tắc đã phong Thánh tất cả những tướng súy, những Tông Đồ đầu tiên của nền Đại Đạo.

Rồi từ đó, vì lý do này hoặc lý do khác, các Tông đồ đó lập Hội Thánh riêng, nhưng không thể chối bỏ Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, cũng do nơi cập cơ này viết ra và cũng chính Đức Phạm Hộ Pháp được lịnh Ơn Trên chú giải.

Bí pháp Đại Đạo có đâu là một trò đùa, tặng ai thì tặng, ban ai thì ban, mà phải xứng đáng địa vị cao trọng giữ mình thanh cao trong sạch. Đấng CHÍ TÔN đã giáng dạy : thà làm một tín đồ trọn nhiệm còn hơn mũ cao áo rộng mà phạm luật Thiên Điều.

4/ - Chịu nỗi thống khổ và oan nghiệt của một người.
Vì còn mang thi phàm xác thịt thì còn bao nhiêu thử thách và thọ khổ của một kiếp người. Như Đức Ki Tô bị quỉ Satan khai chiến ba lần. Lần thứ nhất Satan vấn nạn : "Nếu ông là con Thiên Chúa hãy truyền những hòn đá này trở thành bánh đi". Ngài đáp rằng: "Người ta không sống bằng bánh, nhưng bằng mọi lời, bởi miệng Thiên Chúa phán ra". Satan mở chiến dịch thứ hai : "Nếu ông là con Thiên Chúa hãy gieo mình xuống". Chúa Ki Tô đáp : "Ngươi chớ thử Chúa là Thiên Chúa ngươi" và lần thứ ba nó đem Ngài lên một núi rất cao, cho xem tất cả các nước trên thế gian với những vinh quang trần thế và bảo Ngài rằng : "tất cả những vinh quang phú quí đó ta sẽ cho Ông, nếu ông quỳ xuống lạy ta". Đức Jésus đáp : "Hỡi Satan hãy cút đi vì có lời chép rằng : ngươi sẽ thờ phượng chính Chúa là Thiên Chúa của ngươi". Kết quả là ác quỉ bỏ Ngài và Thiên Thần hiện ra hầu hạ Ngài.

Đức Ki Tô chỉ chịu đựng và truyền Đạo trong ba năm, còn Đức PHAÏM HỘ PHÁP phải chịu lắm nỗi nhọc nhằn từ năm 1926 đến năm 1959, ánh vinh quang chỉ lóe vào khoảng 1950-1955. Ngay từ ngày khai Đạo, trong bài thuyết Đạo năm 1954, nhân lễ kỷ niệm Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp nói : "Khi vâng lệnh Đức CHÍ TÔN đến Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ sáu tháng (vì công chức). Đến chừng trở lại làm việc, người ta không cho Bần Đạo ở Nam Việt nữa, đổi Bần Đạo lên Kiêm Biên. Nơi đó, Bần Đạo vừa làm việc, vừa mở đạo mục đích làm thế nào cho Đạo chóng thành tựu.
"Từ khi lập Đạo chịu khổ hạnh truân chuyên, chịu nhục nhãø, chịu mọi điều thống khổ".

Rồi đến năm 1941, Đức Ngài bị chánh phủ Pháp bắt đi an trí ở Di Linh, Sơn La, sau cùng đày sang Mã Đảo (Phi Châu) ròng rã 5 năm 2 tháng 3 ngày.

Trong thời gian đó, các Đấng có giáng cho Ngài bài thơ sau :
BÀI 1
Hòn đảo này đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám khảo thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây Man, Nhựt Bổn trừ.

BÀI II
Nô xi Lao (1), tiếng đặt buồn cười,
Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi.
Lượng thảm bủa ghềnh tình ột ạt,
Gió sầu xo đảnh ái tơi bời.
Yêu phu, điểu gọi thương cành tím,
Giọng ngạn, quyên khêu gợi buổi mơi.
Tổ quốc đon đường bao dặm thẳng,
Đưa xa thăm thẳm một phương trời.

 (NOSY-LAVA một đảo nhỏ ở về phía Tây Bắc Madagascar)

Năm 1946, Đức Ngài hồi loan, tái thủ quyền hành. Đến năm 1955 xảy ra biến cố "Số là đầu tháng 8 năm Aát Mùi (1955) vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài do chính tay Đức Hộ Pháp thành lập, khi đã được quốc gia hóa, ra lịnh lập "Ban Thanh Trừng" bắt nhiều đạo hữu giam cầm. Một số thiếu nữ trong Đạo cũng bị câu lưu mấy tháng và bị ép buộc phải khai nhiều điều khiếm nhã cho Đức Ngài.

"Còn chính Đức Ngài cũng bị cầm tại Hộ Pháp Đường, chung quanh có quân đội võ trang canh phòng, từ 20 tháng 8 năm Aát Mùi (1955) đến mùng 5 tháng Giêng năm Bính Thân (1956)". (Thuyết Đạo của Đức Cao Thượng Sanh đọc nhân ngày lễ Triều Thiên Đức Phạm Hộ Pháp năm 1964, trích theo Đại Đạo nguyệt san số 5/64).

Việc trên, chẳng khác nào Juda bán Đức Jésus cho bọn giáo trưởng Caiphe. Một lãnh tụ Tôn Giáo mà bị chính tín đồ mình bêu xấu thì thử hỏi đứng vị trí phàm nhân, thiếu độ lượng có lẽ xảy ra điều gì khác hơn là tấm lòng đại độ phản tỉnh ra đi. Một đòn hằn tâm lý hết sức cao nhã. Nếu những ai còn chút lương tri, còn chút hương vị đạo đức, chắc chắn không khỏi tòa án lương tâm xét xử. Còn được sống lâu thì càng day dứt nhiều, càng tiếc một hành động vội vàng, vị kỷ, quên hẳn nghiệp đạo chung, quên hẳn vị đại diện tôn giáo mà bao nhiêu tín hữu đang thờ kính. Kính Đạo phải kính Thầy, không Thầy thì ai giữ Đạo cho ta kính.

5/ - Người của bình dân :
Điều này quá hẳn nhiên, vì "ngày nay Thầy đã khai Đạo nơi Đông Dương là cực đông của Á Châu, mà lại khai nơi xứ Nam Kỳ là xứ thuộc địa, dân tộc yếu hèn, ngu xuẩn. Aáy là do nơi thiên cơ tiền định cả muôn năm, lại để thưởng cái lòng tín ngưỡng của người Nam từ thử". (Bài thuyết Đạo của Đức Quyền Giáo Tông năm 1933).

Đức CHÍ TÔN đã chọn hàng bình dân Việt Nam để giáo Đạo và chọn hạng trung lưu để lãnh đạo. Hạng bình dân tấm lòng trong sạch, cơ hàn đáng được đặc ân. Nhóm trí thức thì ảnh hưởng nhiều Tây Phương, phóng túng, thái quá và nhiều thủ đoạn, mưu lược. Sự hiện diện của họ nhiều khi chỉ là sự dựa thế hơn là sùng Đạo, vì Đạo mà cầu. Đức Phạm Hộ Pháp tuy xuất thân trong đám trung lưu, nhưng lại đứng về phe bình dân, Đức Ngài thường nói "Không cần người giỏi, chỉ cần biết làm và chịu làm là được". Sở dĩ, Đức Chí Tôn thay vì chọn bậc bác học thông thái để giáo Đạo, lại chọn hàng trung lưu và bình dân mà giáo, là để cho thế gian thấy rõ quyền năng của Đức Chí Tôn, bằng không đời sau với tật sùng bái cá nhân sẽ cho rằng Đạo Cao Đài do các bậc thông thái ấy bày ra chớ không phải Trời lập.

Đức Phạm Hộ Pháp còn coi các thợ hồ, nông phu là con của Thượng Đế. Trong một lời phê năm Tân Sửu, Đức Ngài viết :
"Qua đã biết trước thế nào trong mấy em cũng có đứa ngồi ngục. Gấm bị trước vì Phối Thánh Thoại muốn cho nó trả quả đối với Thánh lúc ở phàm. Đáng kiếp, Gấm đã đụng đầu xe lửa, cũng như mẹ con Út Giáp đụng đầu xe lửa Màng (cũng Phối Thánh) buổi trước vậy. Mấy em ráng cẩn thận coi chừng đừng ăn hiếp mấy ông Thánh ẩn thân bất ngờ, phải ngồi cửa Phong Đô mà khóc đa nghe". Việc này, trùng hợp với việc Thánh Gandhi nâng đỡ giai cấp paria, cùng đinh của Aán Độ, hết lòng thương họ vì họ không được Nhà nước đối xử bình đẳng, bị ghét bỏ, cho là cặn bã của xã hội. Thánh Gandhi cho họ là "Con của Thượng Đế". Nhờ đó mà xóa bỏ được thành kiến giai cấp ở Aán quốc.

Đức Phạm Hộ Pháp trong câu văn ngắn đã nhắc lại 2 lần "đụng đầu xe lửa". Thật vậy, nhóm bình dân, thợ thuyền khác nào xe lửa. Nhất là quý ông Bùi Aùi Thoại, thợ hồ đấp vẽ và Phạm Văn Màng công quả tạo tác Đền Thánh. Họ là những người như chiếc xe lửa đã định hướng, chỉ biết đi về một phía. Ai có đàn áp, chửi mắng thế nào, họ vẫn giữ lòng đạo đạo đức để làm công quả. Khi mới ra đời nhị vị này hiển Thánh. Đức Phạm Hộ Pháp mới cảnh tỉnh cho những ai lấy quyền tước, khôn ngoan khinh khi kẻ nghèo hèn bình dân, rồi thế nào cũng bị trả quả nhãn tiền.

6/ - Có hấp lực mãnh liệt :
Đức Ngài có một nhân điện mãnh liệt và một sức lôi cuốn trong thuyết Đạo. Ngoài cái khẩu khí của một chơn linh lâm phàm, Ngài còn am tường thủ thuật nói trước công chúng và "phương pháp của Socrate" là đặt những câu hỏi làm thế nào cho khách bàng quang chỉ có thể đáp có mà thôi. Chính nhờ vậy, đến ngày nay, chưa thấy ai phản đối hành động của Đức Ngài chỉ trừ biến cố thiếu suy (?) cuối năm 1955.

Nhờ có giọng nói ôn tồn mà Đức Ngài thuyết Đạo ròng rã hàng tháng về "Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống" và "Bí Pháp" vào ban đêm. Đêm nào cũng đông chật tín hữu, giờ mà mọi người ngoại Đạo đang yên giấc. Nếu không có một mãnh lực hấp dẫn lôi cuốn được người nghe, mấy ai có thể theo dõi được những đêm triền miên thuyết giảng đó.

Nhân điện của Đức Ngài mạnh đến nỗi kẻ đối diện, đừng nói đến tín đồ, ít dám nhìn thẳng tạng mặt. Lời Ngài xuống là răm rắp làm theo, dù là Chức Sắc Đại Thiên Phong đương quyền. Tất cả kính mà hành theo, chớ không phải sợ. Bởi vì kính, dù Đức Ngài đã qua đời mà không ai dám cải sửa điều gì còn nếu vì sợ mà làm theo thì khi Ngài triều Thiên chắc người ta sẽ bơi móc và chối bỏ những di sản của Đức Ngài. Sự kính trọng ấy thành khối và trở thành ấn tượng trong đầu mỗi tín hữu, coi lời Đức Ngài nói là một định đề hằng đúng.

7 / - Công bình và chính trực :
Đọc những lời phê bình của Đức Phạm Hộ Pháp về việc Đạo, ta thấy rõ đức tính công bình và chính trực. Hai đức tính này ảnh hưởng nơi Nho Giáo, cách hành xử đối với các tông đồ của Đức Khổng Phu Tử.

Ngày 17/3/Nhâm Thìn, Đức Ngài phê về việc đánh lộn như sau : "Xem rõ vụ đánh lộn đã nêu gương xấu cho đám trẻ nơi Long Hoa Thị do một vị Lễ Sanh và một Giáo viên trường Đạo Đức. hai người như thế mà làm gương như thế. Lễ Sanh Hoàng đã dạy đàn em đánh lộn võ sĩ chớ không phải một vị Lễ Sanh của Hội Thánh. Hoàng không nên phận đàn anh có đâu làm Chức sắc.

"Giáo viên Thới là một giáo viên dạy dỗ đoàn thiếu sinh trong trường Đạo Đức mà thô lỗ, không lễ nghi khiêm tốn, hỏi dạy sắp nhỏ học gì ?

"Bần Đạo định án ;
"Ngưng chức Lễ Sanh trong 6 tháng và buộc phải cầu khẩn một vị Đại Thiên Phong cho phục vụ và bảo lãnh giáo Đạo cho Hoàng trong 6 tháng mà không thuần nết thì sa thải xuống hàng tín đồ. Giáo viên Thới thì không cho dạy nơi trường Đạo Đức nữa và nếu từ nay còn sanh sự với ai nữa là bị đuổi ra khỏi Thánh Địa".

Đức Ngài lại phê về việc cầu xin chế giảm phẩm Thính Thiện và Hành Thiện thuộc cơ quan Phước Thiện :
"Đạo luật chơn pháp của Đức CHÍ TÔN đã dạy, không được phép chế sửa. Nam phái thật hành chơn pháp, đúng lý ra Nữ phái cũng tùng Nam Phái mà thật hành luật định. Nghĩ lúc ban sơ, nếu thi hành y luật thì phải thất phận, nên Bần Đạo chế giảm cho Nữ phái mà thôi".

Đức Ngài đã áp dụng đúng câu : "Tư vô tà" của Nho Giáo và nhất định hành luật Nho Tông chuyển thế tức lấy công bình chánh trực mà an trị thiên hạ.

8/ - Khoan hồng và từ bi đại độ :
Nói đến khoan hồng và từ bi là nói đến tấm lòng, nói đến cái tâm của nhà Phật. Đức Hộ Pháp chơn linh là Hộ Pháp Di Đà. Dù gặp kỳ Nho Tông chuyển thế, nhưng là một Đấng tu hành, Đức Ngài vẫn hằng thương con cái của Đức CHÍ TÔN, hạ mình mà dìu dẫn toàn chư môn đệ.

Năm 1955, Quí Ngài Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư cầu xin Đức Hộ Pháp truy phong tướng Trình Minh Thế vào phẩm Thế Đạo, Đức Ngài phê như sau : "Truy thăng Trình Minh Thế vào hàng phẩm Quốc Sĩ và đặng thờ nơi Báo Quốc Từ cùng Đức Thành Thái và Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để".

Xem vậy, không những phong tặng phẩm vị Quốc Sĩ đầu tiên Thế Đạo mà còn đặc ân cho thờ chung các vì vương thì rõ lòng yêu mến người chiến sĩ của Đức Ngài như thế nào !

Khi Hội Thánh Phước Thiện trình về việc Ông Giáo Thọ Nguyễn Văn Tường, đại diện Ông Đạo Nằm, Phật Giáo Thiền Lâm (Long Xuyên) xin về hiệp nhứt vào Phước Thiện, Đức Ngài phê :
"Cửa từ bi Phước Thiện vẫn mở rộng. Nhứt là Phạm Môn là nơi hội ngộ của Cửu Thập Nhị ức Nguyên nhân, thì có chi ngăn trở sự hiệp nhứt của các Đạo mà xin làm gì. Cứ thong dong vào cửa đặng lập vị mình.
"Bần Đạo lấy làm vui đẹp và hân hạnh mà tiếp đón họ chỉ khuyên họ đừng quá mê tín mà thôi."

Do phúc trình số 329/PT ngày 7/11/1952 dâng lên Đức Hộ Pháp về việc Thiếu Tá Khanh xin nhường chức Lễ Sanh cho thân phụ là Cựu Chánh Trị Sự Đỗ Văn Cầm, 73 tuổi, được Ngài phê :
"Phê y và tư cho quyền Ngọc Chánh Phối Sư lập Thánh Lịnh ân phong cho cụ Đỗ Văn Cầm vào hàng Lễ Sanh phái Ngọc (Hàm phong). Còn Thiếu Tá Khanh chỉ là một vị tín đồ mà thôi.
"Bần Đạo để lời khen lòng hiếu thảo của Khanh đáng ghi nơi Đạo Sử".

Đại Đạo không phải là nơi nhường tước phẩm thiêng liêng. Đây là trường hợp biệt lệ. Thứ nhất, cụ Cầm đã là Cựu Chánh Trị Sự, tức đủ điều kiện lên Lễ Sanh. Thứ hai, cụ đã 73 tuổi không biết thăng Thiên lúc nào, có thể không đợi Hội Nhơn Sanh phán xét kịp. Đây chỉ có "phụ từ, tử hiếu" lòng hiếu thấu động đến lòng Trời mà thôi.
Bát tính trên xin tóm lược bằng câu : "Tâm vô quái ngại, đại hùng, đại lực, đại từ bi".

Cao Thượng Phẩm

CAO QUỲNH CƯ

I/ - PHẦN ĐỜI

Đức Cao Thượng Phẩm quí danh là Cao Quỳnh Cư sinh năm 1887 tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh trong một gia đình thế phiệt nho phong. Đức Ngài là bào đệ của Ngài Bảo Văn Pháp Quân và bạn đời của Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu. Đạo hạnh nhu hòa và ngôn từ chúng ái.
Đức Ngài đang làm Sở Tạo tác tại Saigon thì Đức Chí Tôn khai Đạo, Đức Ngài liền phế đời hành Đạo.

II/ - PHẦN ÐẠO

NGỘ ÐẠO VÀ ĐẮC PHONG THƯỢNG PHẨM
(1925-1926)

Năm Ất Sửu (1925) là năm việc xây bàn hay "sai ma" rất thịnh hành trong các giới tại miền Nam Việt Nam, nhất là tại Thủ Đô Sài gòn.
Trước hết, vì sự háo kỳ mà ba ông bạn chí sĩ Cao Quỳnh Cư (sau đắc phong Thượng Phẩm), Phạm Công Tắc (sau đắc phong Hộ Pháp) và Cao Hoài Sang (sau đắc phong Thượng Sanh) mới nghĩ ra việc xây bàn để tiếp chuyện với những người khuất mặt, thế giới bên kia. (Theo Đạo Sử cơ bút của Trương Hiến Pháp).

Do đó, vào ngày 25/7/1925 (ngày 5/6/Aát Sửu) hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà Ngài Cao Hoài Sang bên cạnh chợ Thái Bình (phố hàng dừa Sài Gòn) để thăm viếng và hàn huyên tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya, vì thần linh thúc giục, các Ngài mới nghĩ đến việc xây bàn. Ba Ngài đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông bốn chân (bàn này hiện để tại Nữ Đầu Sư Đường) kê cho 1 chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ tối đến 2 giờ đem, có nhiều vong linh nhập bàn viêt tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ, cũng có một vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gõ khi chững chạc, khi lựng khựng, dường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do đó, các Ngài nản lòng ngưng xây bàn.

Việc xây bàn thật vất vả vì chỉ có khẩu ước với các Đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp 1 cái là "A", hai cái là "Ă" và ba cái là "Â" … Khi chân bàn ngừng lại chỗ nào thì người ngồi biên chữ ấy (người ngồi ngoài lúc bấy giờ là bà Nguyễn Thị Hiếu) rồi nhiều chữ ghép lại thành 1 tiếng, nhiều tiếng mới ghép lại thành lời văn hay câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và quen việc nên sự tiếp chuyện với các Đấng Thiêng liêng càng mau lẹ và dễ dàng.

Qua đêm thứ nhì (26-7-1925), ba Ngài lại xây bàn, đúng 24 giờ có một vong linh nhập bàn, nhập bàn ráp thành bài thi bát cú Đường luật.

THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng người.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép
Tình thương căn dặn gắng tâm đời
Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
                                                                                              Ký tên CAO QUỲNH TUÂN
                                                                                              (Thiên đình)

Cụ Cao Quỳnh Tuân là thân phụ của Ngài Cao Quỳnh Cư qua đời đã 25 năm, Ngài đọc tới câu thứ 7 quá ngậm ngùi, nên thưa :
Thưa Thầy, ngày mai con xin nấu mâm cơm cúng, con kính thỉnh Thầy về chứng lòng thảo của con.

Vong linh của cụ Tuân liền chuyển cái bàn gõ hai cái, tỏ ý nhận lời.
Đến đêm 30/7/1925 (10-6-Aát Sửu), ba Ngài lại họp nhau tại nhà Ngài Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm ấy có 1 nữ vong linh giáng bàn cho thi :

THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư quằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai ?
                                                           Ký tên ĐOÀN NGỌC QUẾ

Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi :
- Hồi tại thế xứ ở đâu ?
- Ở chợ Lớn.
Ngài Phạm Công Tắc hỏi :
- Cô học ở đâu ?
- Học trường Đầm.

Tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là tên mượn (tá danh) tên thật của cô là Vương Thị Lễ, cháu ông Vương Quan Kỳ (theo Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống). Nhưng tầm nguyên còn nhiều bí hiểm hơn nữa.

Theo lời của Đức Hộ Pháp thuật lại thì tiền kiếp của cô Quế là một vị công chúa con một vị vua. Trong triều có một vị quan thầm yêu cô nhưng thấp hèn, vì lẽ môn đăng hộ đối không được ngôi phò mã nên cô thất tình sầu muộn mà chết.

Đến kiếp này, cô đầu thai vào gia đình Tổng Đốc Phương là bên ngoại của cô. Đến tuổi cập kê cô lâm bịnh trầm kha, chạy đủ thầy đủ thuốc mà không hết bịnh. Thân mẫu cô mới nói, ai cứu được cô thì bà gã cô cho.

Lúc bấy giờ một ông thầy thuốc Tây học ở hà Nội (Médecin Indochinois) chưa vợ mới bổ đến Sài gòn. Gia đình cô rước đến chữa bệnh cho cô. Thoạt nhiên, cô mạnh. Nên biết vị lương y này là ông quan trẻ tuổi thầm yêu cô trước kia vì tiền duyên mà hai người cùng đi đầu kiếp để nên nghĩa đá vàng.

Nào ngờ, thân mẫu cô quên lời hứa cũ, chỉ trả tiền cho người thầy thuốc rồi thôi. Còn cô giữ dạ keo sơn âm thầm nhớ thương vị lương y mà "phủi nợ xuống tuyền đài".

Ba người đều có họa bài thi trên, riêng bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như vầy :

HỌA VẬN
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ người quốc sách lẫn thiên tài.
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các
Xót bạn tri âm cõi dạ đài.
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước.
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.

Giữa
ĐỆ TỬ THỨ MƯỜI MỘT : PHẠM CÔNG TẮC (1890-1959)
Trái
ĐỆ TỬ THỨ MƯỜI HAI: CAO QUỲNH CƯ (1887-1929)
Phải
ĐỆ TỬ THỨ MƯỜI BA: CAO HOÀI SANG (1900-1971)
sẽ bổ túc sau )

photo
CAO THƯỢNG PHẨM, sẽ bổ túc sau)

(Hình Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, sẽ bổ túc sau )


Cũng đêm đó, Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi cô bệnh chi mà chết, cô đáp bằng hai bài thi như vầy :

THI
Trời già đành đoạn nợ ba sinh
Bèo nước chia hai một gánh tình
Mấy bữa nhăn mày lăm chước quỉ
Khiến ôm mối thảm tại Diêm Đình.
Người thời Ngọc mà với Kim đàng
Quên kẻ dạ đài nỗi thảm mang
Mình dặn lấy mình, mình lại biết
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.

Nhờ tìm được mộ cô Vương Thị Lễ nên ba Ngài càng tin (1). Hôm sau Ngài Cao Quỳnh Cư mời hai Ngài Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang qua tư gia mình để xây bàn, mời cô Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Nhân tiện ba Ngài hỏi cô Quế về Thượng giới, cô tiết lộ đôi điều khiến các Ngài thêm mê học hỏi. Rồi cô gọi Ngài Cao Quỳnh Cư là anh cả, Ngài Phạm Công Tắc là Nhị ca, Cao hoài Sang là Tam ca, còn cô là Tứ muội.

Đến ngày 3/8/1925 (15/7/Aát Sửu) thiết đàn xây bàn, các Ngài được cô Đoàn Ngọc Quế báo tin có một Đấng đến tiếp xúc.

 ( Chỉ có mộ cô Lễ chớ không có mộ cô Quế vì Đoàn Ngọc Quế là tên mượn.)

THI
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại
Aân bòn chẳng chịu tấp theo ai.
                                                           A-Ă-Â

Ngài Phạm Công Tắc nghe dứt bài thơ lấy làm khó chịu. Ngài Cư hiểu ý liền nói với Ngài Phạm Công Tắc rằng :

- Ấy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em.
Ngài Cao Quỳnh Cư liền hỏi :
- Ông A-Ă-Â mấy chục tuổi ?
Đấng A-Ă-Â gõ bàn hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Ngài Cao Quỳnh Cư sợ không dám hỏi nữa. Ngài Phạm Công Tắc hỏi ông ở đâu, thì được cho bài thi :

THI
Tròi trọi một mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần,
Bố hóa người đời gây mối đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào đất dậy trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

Đến 18/8/1925 (1/8/Aát Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng:
-Em còn có chị em nào nữa biết làm thi, xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi.
Cô Đoàn Ngọc Quế nhịp bàn trả lời :
-Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm. và cô lại thêm:
-Ba anh muốn cầu thì ngày đó : ba anh phải ăn chay, mới cầu được.
Ba Ngài lãnh ý cô Đoàn Ngọc Quế , ngày cầu ba ông ăn chay.

Đến ngày 25/8/1925 (8/8/Aát Sửu), Đấng A-Ă-Â giảng dạy ba ông, vào rằm tháng 8 đó thiết tiệc chay thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đến 14 âm lịch thì Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng giáng cho thơ mời các Ngài họa.

THI
Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng
Non sông dạo khắp lối đem xuân.
Ông Cao Xuân Lộc liền giáng họa nguyên vận :
Sống thác từ xưa đã có chừng,
Nơi trần mẫn tính trọn nhơn luân
Đò đưa phút chịu vùi ba tấc,
Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.

Bài của Ngài Cao Quỳnh Cư họa như vầy :
Cõi thọ là đâu khó độ chừng
Aån tàng lội lạcbậc kinh luân,
Buổi già ước đặng đem thân gởi,
Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.

Đến ngày 15/8/Aát Sửu (1/9/1925) tại nhà Ngài ở số 134 Bourdais (nay là Calmette, Sài gòn), giữa nhà lập bàn hương án, chưng các hoa thơm và xông trầm trọn ngày. các Ngài mặc quốc phục quì trước bàn hương án cầu nguyện xin các Đấng Tiên Nương đến dự tiệc, lễ bái xong các Ngài ngồi vào bàn tiệc. Bà Nguyễn Thị Hiếu (tức bà Cao Quỳnh Cư) gắp đồ ăn để vào chén cho chín vị và trên bàn thờ Đức Phật Mẫu. Đó là thể pháp tượng trưng cho bí pháp của Đạo Cao Đài, mà hằng năm về sau đến ngày tháng này Tòa Thánh Tây Ninh đều tổ chức lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.

Sau đó các Ngài xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng cho bài thi rồi đến Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương mỗi vị đều giáng cho thêm 1 bài (1) và mời ba Ngài làm thi liên ngâm.

LỤC NƯƠNG :
Trót đã mang cái nợ đời.
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.

CAO. Q. CƯ :
Oằn vai thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.

PHẠM. C. TẮC :
Thương hải tang điền xem lắm lúc
Công danh phú quí nhắm trò chơi

CAO. H. SANG :
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.

 (Xem Đại Đạo Sử Cương quyển I trang 35)

LỤC NƯƠNG :
Ở thế sao chê tiếng thế buồn
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong ?

CAO-Q-CƯ :
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.

PHẠM-C-TẮC :
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy
Phồn hoa mờ mệt giấc quỳnh lương

CAO-H-SANG :
Bờ đương chừ đặng phong trần rảnh
Quảy gánh thơ đờn dạo bốn phương.

Nhờ tình thân mật đó Lục Nương cho ba vị biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.

Đêm 14/9/1925 (29/8/Aát Sửu), khi xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng, ba vị hỏi sao lâu quá không đến. Ngài đáp rằng vì tiết lộ thiên cơ cho ba vị nên bị Ngọc Hư bắt tội. Ba Ngài phải lập hương án giữa trời để chịu tội thay cho Đấng A-Ă-Â. Ngài Cao Thượng Phẩm có làm bài thi đọc trước hương án như vầy :
Vái van xin quí Cửu Thiên Nương,
Tâu với Ngọc Hư rõ ngọn nguồn
Vì nghĩa Ă-A mang trọng tội,
Nghĩ tình đồng đạo để tình thương.
Đến ngày rằm năm đó Đấng A-Ă-Â giáng cho một bài thi :

THI
Một tòa thiên các ngọc làu làu
Liên bắc cầu qua nhắp nhóa sao.
Vạn trượng then cài ngăn Bắc Đẩu
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi.
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

Việc xây bàn của các Ngài lan rộng trong quần chúng kẻ hiếu kỳ đến xem cho biết, người không tin muốn thử coi chân giả. Một phật tử hỏi Đấng A-Ă-Â làm thế nào để phân biệt thiệt giả. Đấng A-Ă-Â nhịp bàn cho thi :
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương
Hiền ngõ rủi sinh thời bạo ngược
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.

Người Phật tử ấy hỏi tiếp : "Làm sao biết được chánh tà?". Đấng A-Ă-Â đáp :
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra
Sao Tiên Phật người trần tục
Trần tục muốn thành phải đến ta.

Cũng hôm ấy (14/11/1925) ông Nguyễn Trung Hậu (Sau đắc phong Bảo Pháp) đến tìm hiểu hư thực, được Đấng A-Ă-Â giáng cho thi :
THẦN văn chất ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Gặp thời búa Việt, giục cờ Mao.

Ông Trương Hữu Đức (sau đắc phong Hiên Pháp) cho các bạn thơ cố ý giả ngộ chơi. Thế nên về nhà đem bàn ra một mình đặt tay lên, miệng vái các chơn hồn ứng hiện. Tức khắc có vong linh của lịnh huynh ông giáng cho hai vị thuốc trị ông lành bịnh. Rồi có vị Minh Nghĩa Tiên Ông giáng cho thi :
THI
Minh đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn ao ước cái không hay.
Mừng câu Aâu Á càng thêm mặt,
Mừng cậu côn đồ đã chịu chay.

Từ đó ông Đức hết sức tin tưởng và ăn chay trường luôn. Còn ông Hậu vì điểm danh đúng bút hiệu nên xin làm đệ tử Đấng A-Ă-Â.

Đến ngày 12-12 năm đó (27/10/Aát Sửu), Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng dạy :
"Mùng 1 tháng 11 này tam vị đạo hữu VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO"

Bà thăng rồi, ba Ngài hội ý vẫn không hiểu cầu đạo là thế nào. Thế nên hôm ba Ngài mới cầu Thất Nương hỏi.
- Thất Nương dạy dùm cầu đạo là gì ?
Thất Nương đáp :
- Không phải phận sự của em, xin hỏi ông A-Ă-Â giáng dạy.
"Ngày 1/11 này (16/12/25) tam vị phải VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO.
Tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa trời cầm chín cây nhang mà vái rằng : ba tôi là
- Cao Quỳnh Cư
- Phạm Công Tắc
- Cao Hoài Sang
Vọng bái Cao Đài Ngọc Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.
Tịnh tâm quỳ đến tàn hết chín cây nhang mới vào, rồi đến nhà (ông) Tý mượn đại ngọc cơ, học cách dùng để Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng.

Thế là việc xây bàn đến đây chấm dứt và việc cầu cơ bắt đầu để khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nghĩa là thời khai nguyên dẫn dắt vào đường Đạo đã cáo chung.

Khi ba Ngài Vọng Thiên cầu đạo, ngoài đường kẻ qua người lại dập dìu, nào xe cộ lượn qua, nào người người đi coi hát về, họ hiếu kỳ DỪNG CHÂN LAÏI COI BA Ngài cúng vái ai mà quì ngoài sân. Bỗng đâu có thi sĩ Bồng Dinh (tức Giáo Sỏi) đến vịn cái bàn chỗ ba Ngài quì mà ngâm thi. Mọi người càng đến coi đông hơn. Nhưng các Ngài cũng tâm nguyện, chờ cho 9 cây nhang tàn mới vào nhà, đoạn thiết đàn cầu cơ :

Đấng Cao Đài giáng viết :
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Oâng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo Đạo Nam Phương.
THI
Thiên đàng nhứt thế biến lôi âm
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm,
Chánh giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi hiệp nhứt đạo tam kỳ.
                                                                       CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ

Các Ngài không thông suốt được bài thi nên thỉnh Đấng A-Ă-Â xin giải nghĩa, được giải như vầy : Ngọc Hoàng Thượng Đế là Trời, viết là dạy rằng : Cao Đài chỉ Nho giáo, Tiên ông chỉ Đạo giáo, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Thích giáo, giáo đạo Nam Phương là dạy Đạo ở phương Nam. Nghĩa là Trời giáng trần qui Tam giáo Nho Thích Đạo dạy Đạo ở phương Nam".

Vì có nhiều vị chưa vững đức tin đêm mồng 8/11/Aát Sửu (23/12/1925), Lục Nương giáng giải đáp thắc mắc cho các Ngài. Sở dĩ chỉ có Thất Nương, Lục Nương và Bát Nương thường giáng đàn là vì các Tiên Nương khác có nhiệm vụ riêng (1). Sau đó Huệ Mạng Trường Phan (thầy tu núi Bà Đen) giáng :
1/ - Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy
Nào dè có đặng buổi hôm nay
Gìn lòng tu niệm cho bền chí
Đông đảo ngày mai đặng hiệp vầy.

2/ - Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn,
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.

- Xin chư vị gắng tu, thấp thỏi như tôi nhờ trọn tin Trời Phật, còn được ân thưởng Huệ mạng Kim Tiên, huống hồ chơn linh cao trọng như quí vị, nếu chịu tu ngày sau phẩm vị còn cao đến bực nào.

Lời báo tin mai của Huệ Mạng làm, cho các ông nửa mừng nửa sợ, nên đêm sau thiết đàn để thỉnh Đấng A-Ă-Â về giáng dạy. Lục Nương giáng đàn báo phải chỉnh đàn nghiêm để rước Đấng Cao Đài Thượng Đế.
THI
Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên
Đạomầu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn tuổi muôn tên giữa trọn biên.
                                               CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ

"Đêm nay, 24 Décembre phải vui mừng vì là ngày Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe).

"Ta rất vui lòng mà độ đệ tử kính mến ta như vậy. Nhà này (nhà ông Cư) sẽ đầy ơn ta, giờ ngày gần đến đơi lịnh Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính Ta hơn nữa".

(Xem "Công đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật")

Nên biết thưở đầu việc xây bàn cầu cơ phần lớn thiết lập ở nhà Ngài Cao Quỳnh Cư. Vì thế, khi đi làm việc về, Ngài Phạm Công Tắc thường ghé luôn ở đây ăn cơm xong rồi cầu cơ thỉnh Tiên. Các Ngài muốn mau biết việc Thượng giới nên đi làm việc chỉ mong mau tối để về thiết đàn.

Cũng đêm ấy, Đức Lý Thái Bạch giáng đàn cho thi :
Đường trào hạ thế hưởng ma quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Chén rượu trăm thi đời vẫn nhắc
Non tiên vạn kiếp thế chưa tàn.
Một bầu nhựt nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan
Bồng đảo còn mơ khi múa bút,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
THÁI BẠCH TIÊN TRƯỞNG

Đêm 31/12/1925 (15/11/Aát Sửu) Đấng A-Ă-Â giáng:
Ba con thương Thầy lắm hả ?
Con thấy đặng sự hạ mình của A-Ă-Â như thế nào chưa ? Con thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa ? Người quyền thế lớn nhất như vậy có thể hạ mình bằng A-Ă-Â chăng ?

A-Ă-Â là Thầy, Thầy đến các con thế ấy, con thương Thầy không ?
Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy múng gì chưa ? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.

Sự cao kỳ của Lục Nương, con có đặng mảy múng gì chưa ? Học sự cao kỳ ấy.

Sự nhân đức của Thất Nương, con có chút đỉnh gì chưa ? Phải học sự nhân đức của Thất Nương.

Tình nghĩa yêu mến của các con có bằng Bát Nương không ? Phải hocï.

Phải học tình nhân ái, trung tín cứu giúp của Cửu Thiên Nương (tức Đức Phật Mẫu) ba con có đặng như vậy chăng ? Phải học gương.

Sự kính nhượng của ba con bằng Cửu Nương chăng? Phải học.

Hạ ngươn tận diệt, Thầy sai Thần Thánh, Tiên Phật và chính mình Thầy, vì thương chúng sanh cũng hạ mình đến với các con, mượn việc xây bàn đùa giỡn với các con, để các con vui mà học Đạo, hầu khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt chúng sanh"

Tuyên ngữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đến nay mới được khải chúng. Năm 1920, Đấng Thượng Đế đến dạy Đạo ông Ngô Văn Chiêu ở Phú Quốc chỉ xưng là Cao Đài Ngọc Đế. Nhưng các Ngài lúc bấy giờ chưa rõ mối Đạo lớn thế nào và giáo lý ra sao hay lấy giáo lý các tôn giáo đã có.

Thế nên, đêm 2/1/1926 (13/11/Aát Sửu) Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng dạy :

"Cư, Tắc hai con đừng lấy làm việc chơi nghe. Thầy dặn hai con một điều : nhứt nhứt phải đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tư riêng mà phán đoán nghe.

Phận sự hai con, trách nhiệm hai con Thầy đã định trước, song ngày giờ chưa đến, phải tuân lời Thầy nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy Đạo".

Ngày 2/1/1926 là ngày lịch sử trong khoảng đời tâm linh của Ngài Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư, vì từ đây Đức Chí Tôn mới thực sự dạy Đạo cho Ngài. Vì vậy các Ngài gặp điều gì khó khăn thì triệu thỉnh các Đấng Thiêng liêng. Đêm mồng 4 tháng đó, Đức Chí Tôn giáng cơ quở rằng :

"Thầy đã nói A-Ă-Â là Thầy, còn cung Diêu Trì là cung Diêu Trì, các Thánh đều có quả. Aáy là những Đấng Thầy sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu thường vì mỗi vị đều có phận sự riêng.

Chư Tiên và chư Thánh đều có quả, song đừng triệu về mà chơi, kỳ dư có điều gì học hỏi".

Đến ngày 9/1/1926 (25/11/Aát Sửu), Đấng Thượng Đế giáng cơ dạy các Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến đường Quai Testard (Chợ Lớn) độ ông Lê Văn Trung, Ngài Phạm Công Tắc có vẻ không bằng lòng vì :

"Buổi nọ ông Lê Văn Trung làm Thượng Nghị Viện Hội Đồng Thượng Nghị viện đời Pháp lớn lắm. Oâng là người Nam làm đến bực đó thôi. Oâng là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm (tức ông Cao Quỳnh Cư) không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm điều đó được. Một ông quan trong thời mất nước không thể tả hết.

"Khi chúng tôi ôm cái cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà thú thật Ngài rằng : "Chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà anh Phò loan cho Đức Chí tôn dạy Đạo". Oâng biết Đấng đó hơn chúng tôi (1). Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi phò loan, rồi bắt ông nhập môn.

"Trong nhà có 1 người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12 tuổi, hai cha con kiếm được cơ đâu không biết, vái rồi cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngũ, ông thì thức. Cơ chạy hoài ông hỏi thi Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Từ đó ông mới tin có Đức Chí Tôn". (Theo bài thuyết Đạo đêm Giáp Ngọ của Đức Phạm Hộ Pháp)

Dù đã theo học Đạo với Thầy Trời, nhưng tấm lòng thương dân yêu nước vẫn chưa nguôi. Khi chánh quyền Pháp đàn áp các phần tử ái quốc, dòng máu cách mạng của Ngài lại bừng sôi. Bà Thất Nương giáng cơ đêm 27/1/1926 (13/12/Aát Sửu) khuyên:

"Em xin quý anh coi lại đời là thế nào ? Bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn kiếp con người. Vì dù nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà lúc sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để khổ mà thôi, dù sống trăm tuổi chưa 1 điều đắc chí, rồi chết. Cái đời này đúng là 1 khổ hải.

"Em xin quí anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nỡ bỏ đi. Em tiếc dùm đó thôi.

"Đã vào đường chánh, cứ do đó, theo đó bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng".

 (Vì vào 15/5/Aát Sửu (6/6/1927), tại Chợ Gạo (Chợ Lớn) có thiết đàn thỉnh Tiên, ông Nguyễn Hữu Đắc cố đưa ông Lê văn Trung đến hầu đàn nhiều lần. Khi ông Trung ngộ Đạo thì Chợ gạo bị bế. Nghĩa là dù ai có cầu các Đấng vẫn không giáng).

Từ lúc chấm dứt việc xây bàn thay vào phò cơ thì hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc làm đồng tử, nên tất cả những bài từ trước của các Đấng giáng cho đều do cặp nguyên thủy này viết ra. Vì vậy, Ngài Cao Hoài Sang thấy mình hơi thừa, rồi lần lần ít chịu đi hầu đàn. Các Ngài mới xin với Đấng Cao Đài để lời dạy bảo. Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng rằng :

"Nó thật thà, vả lại nó còn mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn, các con chỉ cho Thầy coi?"

Các Ngài đã thọ làm môn đệ Đấng Cao Đài đã lâu nhưng chưa thờ vì chưa biết cách thức thờ thế nào, nên mới xin cách dạy để thờ, thì Đấng Cao Đài Thượng đế dạy "Đến Chiêu xem cách thức nó thờ Thầy, bảo nó hiệp một với các con"

Vâng lịnh Đấng Cao Đài, các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến nhà ông Ngô văn Chiêu ở số 110 đường Bonard (nay là Lê Lợi, Sài gòn) để quan sát cách thờ. Oâng Ngô Văn Chiêu thờ Thầy rất kỹ, tận trên cao và ngay chính giữa nhà, thật kín đáo. Có ai đến chơi nhà, không chỉ khó mà biết được vì ông là người rất dè dặt không phải là bạn tu thì không bao giờ chỉ dẫn".

Vào năm 1921 lúc làm chủ quận Phú Quốc, một buổi sáng lối 8 giờ tối, Đức Chí tôn đã hiện con mắt (Thiên nhãn) nhiều lần và buộc ông phải thờ. Năm 1924, ông đổi về Sài Gòn thì cũng tiếp tục thờ Thầy (Thiên nhãn) và tự đơn như trước. Kịp đến khi Đức Chí Tôn chuyển cơ phổ độ cho nhóm Ngài Phạm Công Tắc thì các Ngài đến đây để quan sát cách thờ phượng về tuyền bá trong đạo hữu.

Vì nhà Ngài Lê Văn Trung rộng rãi, ngày 15/12/1Aát Sửu, Ngài thượng Thánh tượng Thiên Nhãn có mời các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản, Nguyễn Văn Hoài, Trương Hửu Đức, Võ Văn Sang, Lê Văn Giảng, Lý Trọng Quí, Lê Thế Vĩnh … Đấng Cao Đài giáng cơ dạy :

-Thầy vui thấy các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn các con như vậy hoài. Aáy là lễ hiến cho Thầy rất trang trọng.
Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một Đạo tức một cha
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa.
                                                                       CAO ĐÀI TIÊN ÔNG

Đêm 30/12/Aát Sửu (12/2/1926) quan phủ Ngô văn Chiêu đi với hai Ngài Cư , Tắc đến nhà một vị đặng mừng xuân. Đến nhà ai thì cặp cơ Cư -Tắc phò loan, trước hết là nhà ông phán Võ Văn Sang, sau cùng là Ngài Lê Văn Trung. Mỗi người đều được một bài tứ tuyệt mà bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như vầy :
Sắp út thương hơn cũng thế thường
Cái yêu cái dạy ấy là thương
Thương không nghiêm trị là thương dối
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

Khuya mồng 1 Tết, Đấng Cao Đài giáng dạy : "Hôm nay là ngày trọng đại Thầy chính thức khai Đại Đạo tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt 92 ức nguyên nhân đang bị đọa trầm luân :
Phụng gáy non Nam Đạo trổ mòi
Trổ mòi nhân vật bốn phương trời,
Trời Aâu, biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi.
                                                                       CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ

Đó là ngày Khai Đạo Cao Đài về cơ Phổ hóa.

Qua đến mồng 9/1 nhằm vía Đức Chí Tôn, ông Vương Quan Kỳ thiết đàn tại nhà riêng ở số 80 đường Lagrandière (nay là đường Gia Long). Đức Thượng Đế giáng cơ :
Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức
Bền lòng son sắc đến cùng ta.

Quan phủ Ngô Văn Chiêu xin Đức Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử mà cho bài thi. Đức Thượng Đế thuận cho :
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
Quờn Minh Mân đáo thủ đài danh.

12 chữ lớn trong ba câu đầu là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên, vì hai ông Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang điểm chung một tên.

Tùy theo Đạo nhưng các ông còn ngỡ ngàng trước cách lễ bái, đạo phục, nhất là cách thờ Thiên Nhãn. Ngày 12/1/Bính Dần (24/2/1926), Đấng Cao Đài giáng dạy :

"Thập Nhị khai thiên là Thầy, chúa tể cả càn khôn thế giái, nắm trọn Thập nhị Thời thần trong tay. Số 12 là số riêng của Thầy.

"Chưa phải hồi con biết đặng tại sao phải vẽ Thiên Nhãn mà thờ Thầy. Song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh :
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quan chủ tể
Quang thị thần
Thần thị thiên
Thiên giã ngã giã

"Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này, Thầy cho Thần hiệp tinh khí đặng hiệp đủ tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh".

Lần lần khách bàng quang hiểu được chủ đích của Cao Đài giáo là qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi, người ta trích điểm lập chi Đạo mới cho thêm khó khăn phiền toái. Đức Cao Đài giáng dạy ;

"Vốn từ trước Thầy lập Ngũ chi Đại Đạo là : Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gây chánh giáo, là trước càn vô đắc khán khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại chỉ có hành Đạo nơi tư phương mình mà thôi.

"Còn nay thì nhơn loại đã hợp đồng, càn khôn dĩ tận thức thì lại bị phần nhiều Đạo, mà nhơn loại bị nghịch lẫn nhau nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lạ nữa, Thầy giao Thánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà lập ra phàm giáo".

Oâng Vương Quan Kỳ bạch :
-Bạch Thầy, anh cả (ông Ngô Văn Chiêu) bảo Thầy giao cho ảnh làm chủ mối Đạo dạy dỗ chư môn đệ, mà ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, thì làm sao ?

"Chẳng ai dưới thế này được phép nói thế quyền Thầy mà trị phần hồn nhơn loại được.

Ai có hạnh lớn mới mong được Thầy ban thưởng ngôi vị. Chiêu có công tu, lại là môn đệ trước tiên của Thầy. Thầy định ban chức Giáo tông cho nó, nhưng nó không giữ lời nguyền với Thầy lại sợ tà quyền mà xua đuổi môn đệ của Thầy, chẳng còn xứng đáng làm anh cả của các con".

Các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … và chư môn đệ đồng quì xuống xin tội cho Ngô Văn Chiêu.

Đến ngày 25/4/1926 (15/3/Bính Dần) thì thiết lễ Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, Thầy dạy :
"Cư nghe dặn : con bảo Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông trầm hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón, cười …

"Đáng lẽ nó phải sắm khôi giáp giống như hát bội mà mắc nó nghèo nên Thầy không bảo. Bắt nó lên đứng trên ngó mặt vô ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đấp mặt nó lại, biểu Đức Hậu đứng gần, kẻo nó xuất hồn té tội nghiệp.

"Lịch, con viết một lá bùa Gián Ma xử cho Tắc cầm. Hai con mặc đồ thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ lôi và Hộ Pháp về rồi. Thầy biểu mặc Thiên phục vô mới mặc, thế mới đặng".

Hôm ấy, có các vị được thọ phong là Ngài Phạm Công Tắc thọ phong Hộ Pháp, Ngài Cao Quỳnh Cư thọ phong Thượng Phẩm, Ngài Lê Văn Trung thọ phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngài Lê Văn Lịch thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Các vị sau đây được phong vị để phò cơ :
Đức, Hậu phong Tiên Đạo phò cơ Đạo sĩ
Cư phong Tá cơ Tiên hạc Đạo sĩ
Tắc phong Hộ giá Tiên đồng Tá Cơ Đạo sĩ.

"Hai ông Thượng Phẩm và Hộ Pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp Cơ Phong Thánh, truyền giáo, lập Pháp chánh truyền và Tân luật, tức là Hiến chương của nền Đạo hiện giờ.

"Chúng ta phải nhìn nhận đầu công của hai ông này vào bực nhứt. Trước hết và trên hết, Đức Chí tôn mượn tay và thần lực của hai ông mà lập thành Đại Đạo cho đến ngày nay. Nếu không có bàn tay xây dựng của hai ông thì:

-Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
-Đâu có chức sắc Thiên phong nam nữ
-Đâu có Hội Thánh và các cơ quan trong Đạo
-Đâu có Pháp chánh truyền và Tân luật
-Đâu có đại nghiệp hiện giờ cho nhân sanh thừa hưởng" (theo Đạo sử cơ bút của Trương Hiến Pháp)

Ngoài cặp cơ Cư - Tắc còn có cặp cơ: Sang - Diêu, Hậu - Đức, Nghĩa - Tràng, Tươi - Chương, Kim - Đãi, Mai - Nguyên, Mạnh - Phước, Thân - Vĩnh.

Cầu cơ là phò loan gồm có hai vị đồng tử, ngồi hai bên cái giỏ cơ, tay cầm vào miệng cơ. Một lát sau điển các Đấng giáng rồi Ngọc cơ tự động mà viết ra. Chính vì đó, người ta có thể nhờ người bên trái hay bên phải viết ra. Thế nên, cơ bút có thiệt mà cũng có giả. Người trong cuộc mới hiểu rõ được việc đó.

Dưới đây là danh tánh các Đấng giáng cơ giúp việc khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, từ năm Aát Sửu đến khi Ngài Thượng Phẩm được đắc phong.

1/ - Xuất Bộ Tinh Quang, 2/- A-Ă-Â, 3/- Cửu Vị Tiên Nương, 4/- Cửu Thiên Huyền Nữ, 5/- Thiên Hậu, 6/- Liên Huệ Tiên, 7/- Đại Tiến Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, 8/- Nhàn Aâm Đạo Trưởng, 9/- Quan Thánh Đế Quân, 10/- Thần Sơn Quan Diệu Võ Tiên ông, 11/- Đỗ Mục Tiên, 12/- Minh Nguyệt Tiên ông, 13/- Bách Nhẫn Đại Tiên, 14/- Thánh Pierre, 15/- Huệ Mạng Trường Phan, 16/- Tả quân Lê Văn Duyệt, 17/- Quí, Cao, 18/- Thổ Địa Tài Thần, 19/- Lý Thái Bạch, 20/- Oâng Môn, 21/- Cao Xuân Lộc, 22/- Cao Quỳnh Tuân, 23/- Cao Hoài Aân.

Vì có nhiều cặp cơ, hơn nữa Đàn Cầu Kho không cung ứng cho hoàn cảnh, nên có thêm 5 đàn nữa là Chợ Lớn, Tân Kim (Cần Giuộc), Lộc Giang, Thủ Đức và Tân Định mà cặp cơ Cư - Tắc phò loan ở đây. Chính đàn này đã thâu được ông Lê Thiện Phước (sau đắc phong Bảo Thế).

Để việc phổ độ chúng sanh khỏi bị ngăn trở, các Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … tất cả 28 vị đứng tên đưa tờ Khai Tịch Đạo lên Thống Đốc Nam Kỳ là ông Le Fol (nhằm triều Bảo Đại) vào ngày 7/10/1926. vì nằm trong chế độ cai trị của Pháp bấy giờ, Tờ Khai Tịch Đạo coi như thông báo chánh thức rồi hành giáo và truyền giáo chớ không đợi phúc văn của Pháp. Thế nên, không có văn kiện nào trả lời hoặc cho phép về Tờ Khai trên cả.

*  *  *
Nơi tu tịnh của Đức Cao Thượng Phẩm gọi là Thảo Xá Hiền Cung, rút từ cơ của Bà Thất Nương giáng cho năm 1925, sau khi Ngài bị cơn khảo của Tư Mắt (xem chữ Hán nơi trang 51).

Thảo xá tuỳ nhơn ngu muội bần cùng nghinh nhập thất.
Hiền cung trạch khách thông minh phú quý cấm lai môn.

Nhà này vốn của cụ Cao Quỳnh Tuân (đắc vị Xuất Bộ Tinh Quân), thân sinh của Đức CTP. Sau khi dời chùa Từ Lâm Tự về chùa Mới thì Đức CTP chọn nơi đây làm Tịnh Thất. Sau đó hiến làm Thánh Thất châu đạo Tây Ninh. Một phần vẫn dùng làm TXHC. Đầu năm 1992, vì tu sửa nới rộng Thánh Thất Thị xã nên TXHC được tách rời thành một ngôi thờ riêng biệt.

XÂY DỰNG NỀN TẢNG ÐẠO
(1926-1928)

Sau khi lập tờ Khai Tịch Đạo với chánh phủ Pháp, thì việc phổ độ các tỉnh bắt đầu từ tháng chín Bính Dần. Ngài và quí Ngài Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc đi phổ độ trong các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ (nay là Phong Dinh), Sóc Trăng, Bạc Liêu (nay là Ba Xuyên), Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá (nay là Kiên Giang). Nhóm thứ hai truyền đạo các tỉnh Tiền Giang. Nhóm thứ ba các tỉnh miền Đông.
Đêm 14 rạng 15 tháng 10 năm Bính Dần (18/11/1926) là đêm chánh thức khai Đạo Cao Đài tại Gò Kén (Tây Ninh) và lễ khánh thành Thánh Thất Từ Lâm đầu tiên của nền Đại Đạo. Đêm hôm ấy vì quá đông, nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Đức Chí Tôn chỉ để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp tà quái nhập vào 1 nam và nữ bổn đạo mà quấy phá. Họ mạo xưng là Tề Thiên Đại Thánh và Quân Aâm Bồ Tát.

Vịn vào việc đó, một số đồ đệ của Như Nhãn xúi đòi chùa lại. Hội Thánh phải hẹn trong ba tháng (tức đến ngày 15/1/Đinh Mão) sẽ trả chùa lại. Dù vậy, ngay đêm khai Đạo, Thầy vẫn giáng cơ lập tịch đạo nữ phái.
Hương tâm nhứt phiến cận càn khôn
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Aâm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.

Đêm 16/10 (20/11/1926) thì lập Pháp Chánh Truyền (tịch đạo Nam phái cho mồng 9/8/1926 tại Vĩnh Nguyên Tự)
Thanh Đạo tâm khai thất ức niên,
Thọ như địa huyền thạnh hòa thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.
Đạo dưới thời Lý Giáo Tông thì Nam phái lấy chữ Thanh, Nữ lấy chữ Tâm. Khi nào hết tịch đạo thì Đấng Chí Tôn sẽ giáng cơ cho tịch đạo khác. Lớn nhỏ, trước sau nhờ chữ tịch đạo này mà phân biệt.

Vào ngày 2/11/Bính Dần (6/12/1926) Đức Chí Tôn ra lịnh hội chức sắc thành lập Tân luật. Để tiếp cho trọn bộ Pháp Chánh Truyền. Đến ngày 13/2/1927 (12/1/Đinh Mão), Đức Chí Tôn giáng cơ thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.

Sở dĩ, việc thành lập các cơ chế Đạo có nhiều khoảng trống thời gian vì cặp cơ Cư -Tắc còn bận làm việc tại Sài gòn, ngày nghỉ cùng nhau lên xe Ngài Lê Văn Trung mới về Gò Kén hành pháp.

Tuy đáo hẹn trả chùa mà vẫn chưa tìm được đất mới nên chư vị chức sắc được Đức Lý dạy rằng : "mai này chư hiền hữu lên đường dây thép (tức đường route haute) nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ (hồi đó chưa có đường vào trường Nữ Trung Học) coi như hiền hữu có thấy đặng chăng ?"

Qua ngày sau quý vị lên xe đi tìm đất, khi chạy tới khoảng cửa số 2 ngày nay, cạnh góc ngã ba có cây vừng, Đức Cao Thượng Phẩm ngó thấy trên cây này có 1 tấm bảng treo đề tên Cao Văn Điện, một người bạn học của Ngài thuở nhỏ. Đức Cao Thượng Phẩm nói với chư vị chức sắc rằng :
- Để tôi đi tìm ông Cao Văn Điện, nhờ chỉ dẫn giùm chủ đất này.

Oâng Điện mới cho biết đất này của ông Aspar, Kiểm lâm người Pháp. Đêm hôm ấy chư vị cầu Đức Lý thỉnh giái Đức Lý dạy : "Phải đó tưởng chư hiền hữu không thấy. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh địa, sâu hơn 30 thước như con sông, giữa trung tâm đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con rồng đoanh châu. Nguồn đất ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là lục long phò ẩn. Ngay miếng đất ấy có 3 đầu: một đầu ra giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia".

Về khuôn viên Tòa Thánh tạm thì Đức Lý dạy : "Thánh Thất tạm thời phải cất ngay miếng đất trống. Còn Hiệp Thiên Đài phải trước Thánh Thất tạm. Đạo hữu phải khai phá đám rừng, cách miếng đất trống chừng ba thước rưỡi, đóng 1 cây nọc, đo Hiệp Thiên Đài như vầy, ngoài Bàu Cà Na đo vào chừng 50 thước đóng một cây nọc. Aáy là khuôn viên Tòa Thánh".

Lúc khởi công để phá rừng, người Miên, Tà Mun xuống cả ngàn người làm công quả. Viên Chánh Tham Biện người Pháp nghi ngờ, nên mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Tòa bố (tức Tòa hành chánh), hỏi rằng :
- Ông làm cái gì mà đông đảo như vậy ?

Đức Cao Thượng Phẩm trả lời:
- Tôi mua miếng đất đó đặng trồng cao su.
- Trồng mấy mẫu ?
- Tôi trồng hết sở đất tôi mua, phá tới đâu tôi trồng tới đó.

Vì lúc đó việc trồng cao su đang thịnh hành và là một nguồn lợi lớn cho Pháp, nên họ làm lơ. Các cây cao su còn lại nơi vùng Bá Huê Viên hiện nay là di tích của Đức Ngài.

Đến ngày 20/2 năm đó (23/3/1927) mới thỉnh Thánh Tượng, Chư Phật về đất mới thuộc làng Long Thành. Khó khăn nhất là việc di cốt Phật Tổ cỡi ngựa Càn Trắc. Đức Cao Thượng Phẩm phải tập trung nhiều người để đưa cốt lên chiếc xe bò, kết lại. Viên Chánh Tham Biện cho một toán lính mặc đồ đen núp ngoài mương ruộng chờ có gì khác thường là bắn. Khi rõ thật sự thỉnh cốt Phật thì họ rút lui êm.

Đức Ngài đứng trên xe bò vịn cốt Phật Tổ, khởi hành lúc 18 giờ đến 2 giờ sáng mới đến Thánh Thất tạm. Khi đến khoảng cửa Hòa viện ngày nay, bị một cái mương lớn quá, Đức Ngài phải khó nhọc tìm thế lót ván để xe qua, thì đã mệt lữ, Đức Ngài ném mình xuống đống lá khô trong rừng mà nghỉ. tất cả chức sắc cũng nằm xuống đó. Bà Nguyễn Thị Hiếu điều động nữ phái khiêng cháo và nước đến cho mọi người ăn để lấy lại sức. Sau đó, cốt Phật Tổ được an vị giữa hai cụm rừng gần cây ba nhánh (tức chỗ an vị hiện nay).

Đức Ngài tiếp tục xây cất Tòa Thánh tạm, nào Hậu điện, Đông lang, Tây lang, trường học, Trù phòng. Tất cả đều bằng tranh rồi đào giếng nước, tức mấy cái giếng gần Tòa Nội chánh hiện nay.

Biết được chủ đích việc làm của Đức Ngài, Viên Chánh Tham Biện làm khó đủ điều. Họ buộc phài rào xung quanh Tòa Thánh lại, không ai được vào lễ bái. Trong chánh điện chỉ có Lễ sanh Thượng Xường Thanh hành lễ mà thôi. Ai muốn cúng thì phải quỳ ở ngoài mà lạy vô bửu điện. Họ còn làm tình làm tội Đức Ngài, gọi ra Tòa bố ngày một. vì lúc này Đức Ngài đã bỏ sở mà phế thân hành đạo trước nhất. Dù vậy Đức Ngài vẫn một lòng giữ đạo, yêu sanh chúng. Nhận thấy công phá rừng đau yếu, Đức Ngài cầu nguyện Đức Chí Tôn ký pháp nước âm dương tạo thành cam lồ thủy trị bịnh cho mọi người. Tuy bị ngăn cản không có 1 nơi tôn nghiêm để hành pháp các Thổ nhơn đem ve chai để trên sạp cầu xin nước Thánh. Lạ một điều chỉ có một thứ nước mà trị bá bịnh. Nhờ sự huyền diệu này , tiếng đồn vang xa, các làng xã, nhơn sanh tấp nập kéo tới làm công quả, thỉnh nước Thánh càng đông giúp cho việc phá rừng tạo tổ đình càng được dễ dàng.

Có lẽ vì chuyện này, một số báo Pháp ngữ xuyên tạc là Cao Đài Tây Ninh lấy nước suối ở núi Điện Bà về bán. Rồi người này chuyền miệng người kia "tam sao nhất bổn" đem đến sự khó khăn hành đạo của Đức Ngài về sau.

MÙA PHÁP NẠN
(1928-1929)

Đời hành đạo của Đức Ngài tuy có kham khổ nhọc nhằn vì phải xây dựng nền tảng đầu tiên cho nền Tân Tôn giáo, nhưng cũng được an ủi tinh thần qua nét mặt tươi vui của chư tín hữu nhất là số tín đồ theo đạo ngày càng đông.
Bổng đâu đất bằng sóng dậy. Vào tháng 3 năm mậu Thìn một nhóm người từ Thủ Đức do ông Tư Mắt tức Nguyễn Phát Trước dẫn dụ về Tòa Thánh đặt điều nước lã khuấy nên hồ. Họ đuổi Đức Ngài ra khỏi Tòa Thánh trong 24 giờ, nếu không đi cột trong rừng mà bắn. Ngài quá uất ức nhưng không thể giải bày cho những người bạo hành rõ được nỗi oan khiên của mình. Đức Ngài quá buồn, kẻ lo đạo không mấy người, phá đạo lại đông., thật đúng câu "Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng" Đức Ngài ngọa bịnh phải về thảo xá Hiền cung (tức Thánh Thất Tây Ninh ngày nay). Nhớ ngày nào, Đức Ngài nguyện làm con tế vật cho Đức Chí Tôn sai khiến, mà trò đời quá cay nghiệt để lỡ bước đường hành đạo. Đức Ngài thống khổ mà nảy ra bài tự thán như sau :
THI
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng
Nay Bửu đình hiu quạnh lụy nhìn
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

Thông cảm được nỗi oan khiên của Đức Ngài, Đức Cao Thượng Sanh đã họa bài thi trên như vầy :
HỌA VẬN
Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay gió rập rình
Trước ngõ lơ thơ vài đạo hữu
Sau hiên meo mốc mấy pho kinh
Rừng xơ vẻ thắm chim không đỗ
Cảnh lợt màu tươi khách biếng nhìn
Xây dựng là ai, ai phá hoại
Sụt sùi để bước khó làm thinh.

Thất Nương Diêu Trì Cung cũng giáng cho Ngài bài thi để an ủi :

THI
Nghĩ giận mà ra bắt nực cười
Nhờ ai an vị lại an nơi
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời,
Phẩm Phật ngôi Tiên an dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời,
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Đến cửa thiêng liêng ngó mặt trời.

Nỗi oan tình đó, không những Diêu Trì Cung rõ thấu mà thi phàm mắt thịt của toàn đạo bấy giờ ai cũng biết. Mọi việc là do bà Nguyễn Thị Hiếu (do bà kể lại lúc sanh tiền). Bà thấy những người công quả bị chói nước, ăn không tiêu, bà có bổ thuốc tiêu để bán lại cho ngừơi làm công quả phá rừng. Những kẻ ganh tị cho bà làm tiền chư tín hữu.

Việc thứ hai, một buổi sáng trên cầu ván nơi Thảo xá Hiền cung bà để một số hàng bông rau cải, để đem ra chợ bán. Một ít người đi qua thấy không biết cho là hàng bông của chùa.

Việc thứ ba, bà có lấy một số chai nước tương rỗng đem về Thảo xá Hiền cung để đựng nước cho Đức Cao Thượng Phẩm uống vì sợ chói nước (Tây Ninh thuở trước nước rất độc). Người ta cho bà lấy chai còn nước tương.

Ba việc ấy khiến cho kẻ kém vị tha làm đơn thưa lên Hội Thánh. Việc này chưa ngã ngũ thì một vài người đưa tin này về Sài Gòn, thêu dệt thêm này nọ. Rồi họ kéo lên Thủ Đức xúm lập vi bằng. Trong đó có ông Nguyễn Phát Trước tính nóng nảy, nhứt quyết đưa một số người về Tòa Thánh vấn nạn. Hậu quả của việc bạo hành đó, ông Trước sau khi về Sài gòn, một thời gian bị đèn Manchon phựt xăng cháy, người ông bị thiêu.

Nguyễn Phát Trước tự Tư Mắt mà các tay giang hồ thời bấy giờ quen gọi là anh Tư Đại Ca. khi ông được tin nhà ông Đốc học Đoàn Văn Bản có đàn cơ thỉnh tiên ông đến xem thực giả. Chính Đàn Cầu Kho này đã thâu nhận ông là môn đệ của Đức Cao Đài (1926).

Một hôm ông viết một cái khải (sớ không ai được đọc) vái rồi đốt tại Thánh Thất Cầu Kho (nhà ông Bản). Thình lình có ông Trần Văn Tạ (sau đắc phong Hộ Đàn Pháp Quân) một nhân viên chính quyền bước vào. Oâng Tư Mắt sợ cơ về trả lời bức mật khải thì ông nguy tính mạng. Vì trong cái khải ấy ông xin giết De la Chevrotière, Thượng nghị viện đồng thời với ông Lê Văn Trung. Điều lo lắng của ông không xảy ra vì cơ không đáp mà ông Trần Văn Tạ đã là đạo hữu đến hầu đàn chớ không phải với tư cách mật thám.

Tính khí ông ngang tàng, là trùm du đãng vùng Sài gòn - Chợ Lớn, chính quyền Pháp cũng nể vì ông. Cũng có điều lạ, ông rất sợ Đức Chí Tôn sau khi theo đạo ông lập Thánh Thất Chợ Lớn tại nhà ông, trên lầu thờ Thầy, dưới dùng làm nhà ở và tiếp khách. Đạo hữu đến cúng kiến tại Thánh Thất của ông rất đông, có lẽ họ dựa vào ông để được che chở khỏi bị các tên du đảng bắt nạt hay một lý do huyền nhiệm nào khác. Sau khi khai đạo ở Gò Kén (15-10-Bính Dần) Ông được ân phong Lễ sanh Mắt Mục Thanh (phái Thái). Ông vâng mệnh Ngài Thượng Đầu Sư lập Thánh Thất trước Lý Minh Đài. Tại đây, quyển "Đại Thừa Chơn Giáo" ra đời (1936), làm nền tảng cơ vô vi gốc từ CĐ phổ độ mà ra.

Vì tính khí ngang tàng mà nhiều lần ông đã đề nghị với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt với sự hậu thuẫn của Đạo nổi lên chống Pháp và chiếm phủ Toàn quyền. Vì là một bậc chân tu, Ngài Đầu Sư từ chối. Ông Tư Mắt tuyên bố hành động một mình, sẽ giết toàn quyền Alexandre Varenne (1925-1928). Với tính nóng nảy, thiếu kế hoạch và trì chí, rốt cuộc mọi lời tuyên bố của ông đều trôi qua.

Nghe tin đồn Ngài Cao Quỳnh Cư lạm dụng, ông vốn nóng nảy bồng bột vội về Tây Ninh bạo hành. Hậu quả cách đó không lâu Đức Chí Tôn đem ông về. Cái chết của ông thật thê thảm. Lúc bấy giờ ở Chợ Lớn các nhà sang trọng dùng đèn Manchon treo giữa nhà nhưng cái bơm hơi chuyền xuống đất, ông lại nằm gần cái bơm hơi này, quấn chăn. Không rõ vì lẽ nào, cái bơm phát nổ, đèn phựt cháy luồn xuống cái bơm bắt lửa qua cháy cái khăn. Hạ bộ của ông bị phỏng nặng hỏa nhập, nên vừa đến bệnh viện thì ông chết (1929).

Ngài Thượng Đầu Sư có đến phúng điếu và chia buồn cùng bà Nguyễn Phát Trước và có nói câu "Thầy đem em Tư về sớm là cái hay cho cơ Đạo". Ngay đêm hôm đó, đồng tửTrần Văn Hoằng (con ông Trần Văn Tạ) chấp bút. Thái Mục Thanh nhập đàn, tỏ vẻ hối tiếc những việc làm đã qua và ông khuyên gia đình nên tu niệm.

Nhằm tạo một giải pháp danh dự cho Đức Cao Thượng Phẩm, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đề nghị bỏ thăm kín việc ở lại Tòa Thánh hay về Thảo xá Hiền cung của Đức Cao Thượng Phẩm. Trong 45 chức sắc nam nữ có mặt : 27 thăm chống ở lại, 15 thăm thuận và 3 thăm trắng. Đức Hộ Pháp tuyên bố : "Dù 3 thăm trắng nhập vào 15 thăm thuận vẫn ít hơn 27 thăm chống. Vậy Anh Tư nên về TXHC". Chính Đức Hộ Pháp cũng đi an dưỡng nơi Thánh Thất Thủ Đức, đàn cơ 26/2 Mậu Thìn (1928), Đức Chí Tôn giao cho Thượng Đầu Sư chưởng quản Tòa Thánh dàn xếp cơ khảo đạo vì Tư Mắt là người do Ngài Thượng phổ độ nên rất kính trọng Ngài.

Nỗi oan khiên của Đức Cao Thượng Phẩm được đồng đạo đến thăm và chia xẻ nỗi buồn. Trong số đó có Phồi Sư Thượng Tông Thanh - người Trung Hoa tặng Đức Ngài hai bức khảm xà cừ có chạm bài thơ tứ tuyệt. Trong bài thơ có ba chữ "Độc huyên nghiên" (hoa mai đơn độc) hợp với tâm sự nên Đức Cao Thượng Phẩm cho treo tại TXHC. Nội dung như sau :

                        Nguyên văn:
Chúng hoa dao lạc độc huyền nghiên
Chiêm đoán phương tình nội tiểu viên
Sơ ảo hoành tà thiểu thanh đạm
Aùm hương phù động nguyệt hoàng hôn.

                        Dịch thơ:
Ngàn hoa rơi, đóa hoa đẹp còn vương
Lặng ngắm vườn con tình ngát hương
Bóng nhạt khẽ mơn làn nước lạt
Hương thầm khơi nhẹ trăng chiều hôm.

Bài thơ này của Lâm Bô (967-1028) đời Tống, nguyên bản là bài Bát cú. Phối sư Tông chỉ chọn 4 câu đầu có sửa 5 chữ "Chiếm tận phong tình hưởng" và "thanh thiển" ra "thanh đạm" (xem nguyên bản trang 4)

Một hôm, Đức Ngài cùng Đức Phạm Hộ Pháp phò loan được Đức Chí Tôn dạy : "Nếu con không rét thì có yếu như vậy đâu. Con ráng nhịn cơm chừng ba bốn bữa nữa đặng Thầy dùng huyền diệu pháp mà trị cho con thiệt mạnh, lần này mới dứt bịnh, miễn đừng ăn món chi nó phạt tì thì thôi". (Đức Ngài đau bao tử).

Một đàn cơ đêm kế, Đức Chí Tôn cho biết bịnh của Đức Ngài là cơ thử thách : "Phải, con có bịnh vậy đặng trừ bớt thử thách của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị của mỗi đứa."

Thầy thấy con bịnh phổi và bao tử, nên cho huyền diệu pháp cho con khỏi ăn đôi lúc để thiệt mạnh. Hai cơ khí ấy vốn là hình chất, nên khó lấy huyền diệu mà trị nó theo lẽ thường Thầy buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng hườn nguyên.

Không ăn mà sống. Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng. Không khí chứa đầy vật chất tiếp dưỡng (Matières nutritives) của xác trần vì nhờ nó biến hóa chúng sanh đặng.

Vật chất phải tiêu, mà khí pháp vẫn còn, tỷ như đá núi xay ra bột làm ciment mà khí phách đá vẫn còn giữ tánh cứng của nó, trộn nước cho đóng khô lại thì nó hườn như đá thường. Thảo mộc dầu phải chặt rã ra thì khí phách cũng vậy. Con tưởng xác chôn rồi, trong xác ấy cho hườn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng không khí chăng ?

Các khí con hớp hằng ngày ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy. Thầy chỉ sửa cơ khí phàm các con, nhứt là bao tử cho nó có huyền diệu pháp mà tiếp cho đặng cái khí phách ra làm vật thực nuôi nấng lấy mình. Vì vậy, nhiều đứa phàm xác vẫn còn mà đắc Đạo tại thế, tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào"

Bịnh của Đức Ngài là tâm bịnh, từ khi về Thảo xá Hiền cung thân thể ngày càng mòn mỏi, sắc diện âu sầu. "Sự nhận thức có lẽ Ngài bị bịnh thất chí, vì hành đạo không được y theo sở nguyện nền đạo trong buổi sơ khai, lo truyền giáo phổ độ chúng sanh, mà Ngài lại an ổn tại tư gia nên Ngài bực tức vì Đạo vì Thầy mà lo họ ngăn trở bước đường hành Đạo.

Thiết tưởng, người có đủ đức tin nơi Chí Tôn, thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được. Huống chi Đức Cao Thượng Phẩm là môn đệ tin Đức Chí Tôn Đức Phật Mẫu đầu tiên.

Khi Đức Chí Tôn giáng trần khai Đạo, cũng giáng huyền diệu cơ bút thâu môn đệ, dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà Ngài (tức sau khi quan sát cách thờ phượng nhà ông Ngô Văn Chiêu), nên lòng thành kính Đạo thật đầy đủ. Các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Đạo, thì Đức Cao Thượng Phẩm cùng Đức Hộ Pháp phò loan. Hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều hơn hết.

Đến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc phải lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh lương y khó phương điều trị" (Theo Đạo sử xây bàn của Bà Nguyễn Đầu Sư).

Vì lẽ ấy mà Hội Thánh lập một Tịnh Thất nơi cụm rừng gần Báo Aân Từ ngày nay, để rước Đức Ngài về tịnh luyện hầu di dưỡng tinh thần qua cơn khảo đảo. Bảy giờ sáng ngày 15/10/Mậu Thìn (1928) một đoàn xe hơi gồm chư chức sắc Đại Thiên phong đến Thảo Xá rước Đức Ngài về nhập Tịnh Thất.

Vào tịnh thất một thời gian, bịnh trạng không thuyên giảm lại biếng ăn, mất ngủ. Thế nên 18 giờ ngày 26 tháng 12 năm đó, bà Giáo sư Hương Hiếu và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa đưa Ngài trở lại Thảo xá Hiền cung, vì Ngài không muốn cho Hội Thánh hay.

Đến 11 giờ ngày 1-3 Kỷ Tị (1929) Đức Ngài cho mời Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu (tức bào huynh của Ngài), Bà Giáo sư Hương Hiếu, Giáo hữu Thiện Trí Thanh, Giáo hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ sanh Thượng Ngươn Thanh, đức Ngài nhìn Đức Phạm Hộ Pháp mà trối rằng :

-Nay Qua về chầu Đức Chí Tôn, em ở lại hiệp với chư chức sắc chung lo nền Đạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.

Kế day qua nói với người bạn đời của Ngài :
-Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như sự còn.

Đức Ngài nói xong tuôn hai hàng nước mắt rồi xuất hồn êm ái, nét mặt cũng như người đang ngủ. Có điều lạ thường là lời trối của Ngài có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Chư chức sắc có mặt đều bùi ngùi cảm động.

ĐẮC VỊ KIM TIÊN
(1-3-Kỷ Tỵ)

Thi thể của Đức Ngài được liệm trong liên đài hình bát quái, quàng tại Thảo xá trong ba ngày. Chư chức sắc và đạo hữu nam nữ đến tế lễ rất đông.
Trong lúc tang lễ, chư chức sắc Hiệp Thiên Đài cầu cơ, Đức Ngài giáng đàn tỏ vẻ vui mừng, được bái mạng Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh và Đức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung. Thiên đình đã nhận công tròn quả mãn trong buổi đầu khai nguyên của nền Đại Đạo của Ngài. Đức Ngài cho một bài thi tứ tuyệt.
THI
CAO thanh miệng thế mặc chê khen
THƯỢNG trí màn chi tiếng thấp hèn,
PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.

Ngày 3-3-Kỷ Tỵ (1929), Hội Thánh rước liên đài Đức Ngài về Tòa Thánh, đông đủ chư chức sắc từ Đức Hộ Pháp, Thượng Sanh, chư vị Thập Nhị Thời Quân đến chức việc đạo hữu đi thỉnh vong dài đặc. Thuyền bát nhã đến Đền Thánh mà đoạn chót còn ở Thảo xá đường dài trên 4 cây số.

Đến ngày 8 lúc 8 giờ thì đi lên đài nhập bửu tháp. Đại diện chức sắc Hiệp Thiên Đài đọc ai điếu, đến Ngài Thượng Đầu Sư Cửu Trùng Đài trạng tỏ công nghiệp, sau hết là điếu văn tỏ lòng cảm mến của Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, đại diện Nữ phái.

Khi liên đài ra bửu tháp, Đức Ngài có giáng cho hai bài thi mà ngay nay dùng để thày dâng lễ.
THI
Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Đài,
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách thiên thai.
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một ngày.
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
Cõi Thiêng mừng đặng dứt dây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt.
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phi,
Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

Vào đêm 7-3-Kỷ Tỵ (16-4-1929) Đức Chí Tôn giáng cơ dạy :
"Thầy đã nói rõ : Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng hại thay, vì biếng nhác, các con không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.

Đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại Thiêng liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa Thiên giùm đó con. Lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế này về phần đời còn phần Đạo cũng có đôi đứa con mới đặng.

Con đừng phiền mà trách mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng : Chúng nó giết Thượng Phẩm nghe. Vì Thiên cơ đã định, các con biết chi mà hờn trách lẫn nhau.

Con phải xây cái tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day mặt về đông, giống như ngó vào điện mà hầu Thầy vậy. Song ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của Đường nhơn vậy.

Đừng làm như tháp của Bảo Đạo, vì hai đức phẩm vị khác nhau. Chung quanh Bát Quái Đài phải làm như hình có cột tại chính giữa tháp phải có lỗ cho nhựt quang rọi vào tới liên đài".

Xem thế việc qui thiên của Đức Ngài là thiên thơ dĩ định. Tuy hành Đạo ngắn ngủi có 4 năm nhưng công nghiệp Đức Ngài đáng nêu vào Đạo sử cho người sau noi dấu.

1/- Nhà Đức Ngài là nơi phát tích xây bàn để tiếp nhận những thiên điệp đầu tiên của Bạch Ngọc Kinh. Thế nên, vào đêm 25-12-1925 Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế phán rằng : "Nhà này (nhà Ngài) sẽ đầy ơn Ta, giờ ngày gần đến đợi lịnh. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa".

Lễ Hội Yến đầu tiên, lập đàn cầu đạo, giai đoạn xây bàn cũng ở tại nhà Đức Ngài.

2/- Đức Ngài phế thân hành Đạo trước nhứt và vững niềm tin hơn cả. Chính Đức Phạm Hộ Pháp đã thố lộ trong bài thuyết Đạo đêm 17-8-Quí Tỵ như vầy : "Bần Đạo không có đức tin gì hết, nghe nói Tiên giáng đi theo nghe thi chơi". Còn Đức Cao Thượng Sanh thường ít đi hầu đàn vì không tin. Một hôm xây bàn, Ngài Cao Quỳnh Diêu thưa với chơn linh cụ Cao Hoài Aân (thân sinh Ngài Cao Hoài Sang) rằng : "Anh đề thi mà khuyên dạy nó (ông Diêu là chú ông Sang) và lấy vận voi, mòi, còi, roi, thoi của bài Tứ Thứ qui Tàu mà họa lại". Chơn linh cụ Aân cho thi :
THI
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm nở,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruỗi đường hòa khá nhọc roi.
Nín nằm chờ qua cơn bỉ cực
Thìn lòng chứng có lượn đôi thoi.

3/ - Kiểu mẫu áo mão đầu tiên làm tại nhà Đức Ngài do bà Nữ Đầu sư Hương Hiếu (bạn đời của Ngài cắt may).
4/ - Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung cũng nhập môn theo Đạo tại nhà Ngài vào 11-1-1926.
5/ - Đức Chí Tôn mượn đôi tay của Ngài chấp nhang để trục thần của Ngài Phạm Công Tắc ra để chơn linh Hộ Pháp nhập vào đêm 13/5/Bính Dần tại nhà Ngài Lê Văn Trung.
6/ - Cất Tòa Thánh (tạm) đầu tiên bằng tranh, di cốt Phật Tổ và an vị nơi Đại Đồng Xã.
7/ - Bàn tay Đức Ngài đã dựng các cơ chế Đạo, Đức Ngài qui là cơ Phong Thánh đã gãy.

"Cái cơ Phong Thánh, cơ lập thánh cơ truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ này, thảng có cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn. Cái tiếc của Bần Đạo có hay chăng là ở điều đó". (Theo lời thuyết minh của Đức Phạm Hộ Pháp ngày 1-3-Canh Ngọ, 1930).

Trong bài ai điếu của Đức Hộ Pháp đọc trong buổi chung qui của Đức Cao Thựong Phẩm đã nói lên tấm lòng thương tiếc ấy qua bài thi.
THI
Thượng Phẩm ôi, hỡi anh ôi
Chưa xong trách nhiệm vội về Trời
Bốn năm công quả vun nền Đạo
Mấy đoạn chông gai chịu nước đời
Ngọn bút Thần cơ Trời nở đoạn
Nắm xương Thánh chất lấp chôn vùi
Mực hòa huyết lệ đề câu điếu,
Thượng Phẩm ôi, hỡi anh ôi.

8/- Nhìn tượng Bát Tiên, ta thấy có một vị cầm Long Tu Phiến (quạt) đó là Hớn Chung Ly ngươn linh của Đức Cao Thượng Phẩm . Đức Hộ Pháp giải thích tại sao thờ Đức Cao Thượng Phẩm tại Báo Aân Từ như sau : "Nguyên căn của Hớn Võ Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập quốc gia. Kỳ Hạ ngươn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành quốc Đạo nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn".

Đến năm 1945 Đức Ngài có giáng cho một bài thơ ý tứ súc tích :
Đường mây sẵn lối gặp may duyên,
Nặng gánh xa thơ sửa mối giềng
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh trời giữ tạc đài liên.
Hồn về nước cũ đời nương thế
Hạc lại tùng xưa đức lập quyền.
Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.

Cao Thượng Sanh

CAO HOÀI SANG

I/ - Giai Đoạn (1900-1925)

Đức Cao Thượng Sanh quí danh là Cao Hoài Sang, sinh ngày 11/9/1900 tại xã Thái Bình, tỉnh Tây Ninh. Thân sinh là cụ Cao Hoài Ân, một vị Thẩm Phán đầu tiên tại Miền Nam, và thân mẫu là Bà Hồ Hương Lự (được ân phong Nữ Đầu Sư). Đức Ngài là con út trong gia đình có ba anh em. Người anh cả là Ngài Cao Đức Trọng. Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài và chị là Giáo Sư Cao Hương Cường (Giám đốc Cô nhi viện Tây Ninh).
Sau khi thi đỗ bằng thành chung, Đức Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh (tức Quan thuế Sài gòn) cho đến chức Tham Tá Thương Chánh rồi hồi hưu. Thuở thanh niên, Ngài lập gia đình hạ sinh 9 người con, năm trai và bốn gái. Người con đầu lòng là Hiền tài Cao Hoài Hà và người con út là Cao Minh Tâm.

Trong thời gian làm viên chức, Ngài còn là một nhạc sĩ tài hoa của trường Quốc Gia Aâm Nhạc Saigon. Ngươn linh Ngài vốn là Lữ Đồng Tân thổi tiêu, một người thích tiêu dao với thiên nhiên cùng tiếng nhạc dìu dặt. Ngài đã mời nhiều đoàn nghệ sĩ về Thánh Địa diễn các vở tuồng do Ngài biên soạn được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt.

Suốt quãng đời làm viên chức Nhà nước, Đức Ngài nổi tiếng là thanh liêm dù làm nganh quan thuế có nhiều cám dỗ. Vào những năm 40 của thế kỷ này, nhiều du khách Việt Nam thường sang Pháp rồi về, trong số đó có một bà ở Đakao, từ Paris về Saigon có mang về nhiều hàng quí nhưng khai báo không rành, nên bị quan thuế giữ lại. Bà này được một người bạn của Đức Ngài giới thiệu và nhờ giúp đỡ. Ngài vui lòng chỉ dẫn thủ tục và lấy được kiện hàng êm xuôi. Vài hôm sau, Bà đó tìm đến nhà Ngài, có mang tặng Ngài một tượng Phật bằng đồng cao độ hai tấc. Ngài cảm ơn và nói rằng:
-Bà tặng cho tôi tượng Phật là điều hợp với lý tưởng của tôi đang theo. Nhưng một người đã quyết tụng Kinh niệm Phật thì trong lòng phải "rổng" sạch, tiền bạc không ham, danh lợi không màng.

Tượng Phật bằng đồng giá không đáng là bao nhiêu, nhưng trong ruộc nó, Bà kia đã để một cuộn tiền trong đó, vì Bà sợ đưa thẳng thì Ngài khó nói và chắc chắn Ngài không nhận. Tuy bà đã để tiền kín và trét đít tượng Phật lại, mà Ngài vẫn biết, từ chối một cách khéo léo. Bà kia phải xin lỗi và đem tượng Phật ra về.

Một lần kia, Ngài xét duyệt đơn khiếu nại của một số hồ sơ, trong đó có một đơn với lời khai không thành thật, nên ở giữa có kèm tiền. Ngài gọi đơn sự lại trả đơn và nhắn nhủ :

-Tôi làm "quan" cần hai tiếng thanh liêm, anh làm dân đối đãi với nhân dân cần hai tiếng thành thực, nếu giúp cho anh mà thiệt cho người khác thì lương tâm tôi không bao giờ cho phép, còn giúp cho anh có lợi khác mà không thiệt hại cho ai, tôi sẵn sàng giúp mà không cần sự cầu báo vì đạo người đã ghi tạc nơi lòng tôi như vậy.

Xem thế ta nhận rõ bản chất Ngài là người có tinh thần đạo đức cao độ, biết thương người, giúp đỡ người mà không cần người trả ơn. Những người bạn đồng thời với Ngài cùng làm quan thuế ai cũng nhà cao cửa rộng, riêng Ngài trước sau vẫn ở một hẻm tại đường Cô Bắc (Saigon), sống một cuộc đời đạm bạc thanh cao.

Bởi lẽ, Đức Ngài quan niệm rõ ràng về người tu sống giữa xã hội như vầy : "Người tu hành phải thành thật, nagy thẳng, trước là tự thành thật với mình, rồi mới có thể thành thật đối với bạn đạo và đồng loại … Người tu sĩ Cao Đài phải biết vì đời mà chịu khổ, thật thành chủ nghĩa vị tha, dám quên mình mới thực là xả thân cầu Đạo, đem đời sống hiến trọn cho Đạo và cho nhơn sanh". Sự quả quyết hy sinh do nơi lòng trắc ẩn trước mọi đau khổ thế gian. Tình thương phải được lan tràn vây kín đám nhơn sanh. Nhứt là đám dân bần hàn khốn khổ để thực hiện câu : đem đạo cứu đời, nếu thiếu lòng thương yêu, không làm được những điều Đức Chí Tôn dạy bảo.

"Bởi thế, luật thương yêu không phải một đề nghị, một ý kiến có thể chấp nhận hay không. Luật thương yêu là một thế mạnh linh thiêng mà chúng ta phải nhận lãnh vô điều kiện. Vì sự thương yêu đưa chúng ta đến gần với Đức Chí Tôn và sự ghét đưa chúng ta vào hàng tôi tớ của quỉ vương…"

"Thầy Tăng Tử xưa là một bậc hiền triết mà còn "Nhứt nhựt tam tĩnh ngộ thâu", tức là hằng ngày xét mình trong ba điều. Một là lo việc cho người không hết lòng bằng việc mình có thế chăng ? Hai là giao du với bạn bè mà đem lòng giả dối, có vậy chăng? Ba là nghe lời Thần dạy bảo mà hay lãng xao, có thế chăng ? Ước mong hằng ngày của ta chỉ xét mình một điều duy nhứt thì nên Đại Đạo lấy làm may mắn mà nhơn sanh cũng lấy làm hữu phước …"

Đức Phật Thích Ca dạy rằng : "Ngươi hãy tự kiểm ngươi". Theo ý Đức Phật thì ngươi hãy suy nghĩ và xét mình đặng biết mình là ai, mình thật biết mình rồi mới biết định giá trị của người khác. Thường người ta chỉ lo tìm kiếm những điều ở ngoài mình, chớ không tìm kiếm những cái ở trong con người của mình.

"Thế nên dây oan kết mãi, nghiệp chướng càng mang nặng, biết chừng nào mới tỉnh ngộ đặng phân bổn hườn nguyên ?" (Lời thuyết Đạo của Đức Cao Thượng Sanh đêm 23 tháng 12 năm Canh Tuất, DL : 19-1-1971) tại Đền Thánh.

Đức Ngài có quan niệm khắc khe với bản thân như vậy, vì dù còn ở thế, làm việc cho chính phủ mà trong thâm tâm lúc nào cũng nghĩ mình là hàng giáo lãnh của một tôn giáo, phải là tấm gương sáng.

II/ - NGỘ ÐẠO VÀ ĐẮC PHONG THƯỢNG SANH
(1925-1937)

Vào hạ tuần tháng 7 năm 1925 các ông Cao Quỳnh Cư (chú Ngài), ông Phạm Công Tắc thư ký sở Thương Chánh cùng Ngài họp tại nhà Ngài tại phố Hàng Dừa (chợ Thái Bình Saigon) họp nhau xây bàn theo lối Thông Linh học Tây Phương. Đêm đầu tiên không kết quả, qua đêm sau cũng họp mặt tại nhà Ngài, một chiếc bàn được đem đặt ra ngoài sân, các ông để tay lên, bàn nhịp lia lịa. Ôâng Cao Quỳnh Cư mới nói rằng:
-Nếu có vong hồn xin khoan đi để cho hỏi ít lời, mật ước với nhau, nếu "ừ" (oui) thì xin gõ hai cái, nếu "không" (non) thì xin gõ một cái.

Ông Cư nói vưa dứt, cái bàn gõ hai cái tỏ ý chịu. Các vong nhập đàn viết đủ thứ tiếng, họ giành nhau làm bàn xao động. Đến ngày 6-6-Aát Sửu (26-7-1925) Cao Quỳnh Lượng, gọi ông Cư bằng chú, nhập vào bàn rồi Cao Quỳnh Tuân, thân sinh ông Cư cũng nhập bàn cho thi (2).

Thứ bảy tuần sau (30/7/1925) các ônglại tập hợp nhà Ngài để xây bàn. Đến chín giờ rưỡi bàn gõ "thác vì tình" và xưng tên là Đoàn Ngọc Quế (trùng tên với một người bạn thân của ông Cao Quỳnh Diêu, hiện có mặt trong buổi xây bàn). Các ôn đều nhìn ông Diêu mà cười, rồi ông Cư xin cho thi tự thuật. (3)

 (2) & (3) Xin xem thêm "Tiểu sử Đức Cao Thượng Phẩm" cùng soạn giả. )

Vào thượng tuần tháng 8 năm 1925, các ông cũng xây bàn. Cô Quế về nhập bàn. Các ông xin kết tình bằng hữu với cô. Cô đồng ý và gọi ông Cư là Trưởng ca, ông Tắc là Nhị ca và Ngài (Cao Hoài Sang) là Tam ca, còn cô xưng mình là Tứ muội. Sau khi kết nghĩa các ông năn nỉ cho biết tên thật của cô, bàn gõ ba chữ tắt "V.T.L".

Các ông khó khăn lắm mới tìm được mộ cô. Nơi nhà bia có khắc hình cô, dưới đề tên Vương Thị Lễ. Các ông xây bàn, cô xác nhận là các ông đã tìm đúng ngôi mộ cô. Nhờ đó các ông càng phấn khởi xây bàn. Ngài Cao Hoài Sang ra đề "tiễn biệt tình lang", bàn liền gõ không ngừng :
Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẻ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thanh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Đêm bật đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lữa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xui ai thấu nỗi đinh ninh.
*Sầu dài ngày vắn dễ chi vui
Toan tính thâu canh ruột rối nùi.
Ngược sóng thuyền đầy cơn gió dập
Xuôi dòng nước lớn dạt bèo trôi
Bước đường danh lợi thêm gay trở
Ngoảnh lại tang thương luống ngậm ngùi.
Lần lữa xuân hè năm tháng lụn,
Thôi thôi, đến thế, thế thì thôi.

            Cô Đoàn Ngọc Quế nhập bàn và họa nguyên văn :
Chung tình đoạn gánh khó làm vui,
Lần lữa chưa xong chỉ rối nùi.
Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt chứng,
Hương thề nay thả giữa dòng trôi.
Kim rời cải rụng lòng ngao ngán,
Đá nát vàng phại dạ ngậm ngùi.
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi.

Một hôm, các ông xây bàn, ông Cao Hoài Aân thân sinh ông Cao Hoài Sang giáng. Oâng Cư xin vong linh lấy vận Từ Thứ mà nhắn nhủ ông Sang, vong linh cụ Ân nhập bàn cho bài thi :
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đẽ thấy mòi,
Vườn cúc hôm nay muôn cụm rở,
Rừng tòng buổi trước một cây còi,
Hồng nương dậm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruỗi đường hòe há nhọc nhọc roi
Níu nẳm cho qua cơn bĩ cực.
Thìn lòng chứng có lượng đôi thoi.

            Kế đó Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng giáng cho thi :
Chiêu tập hồn thi bước đạo điều,
Non xưa chớp cánh nhạn trông theo.
Trời thanh khách gắng lần qua suối,
Đêm rạng trăng soi lướt khỏi đèo
Mây khỏa đảnh Tần màu gió cuốn
Thuyền khơi sông Bích cánh bườm treo
Giang san một giản nên chung dựng
Biển cả chi nao ít mái chèo !

Xem thế, từ những bài thi tình tứ, đấng vô hình lần đưa các ông vào đường Đạo. Những sự kiện này được Đức Cao Thượng Sanh xác nhận như sau :

"Trước thời kỳ chức sắc Hiệp Thiên Đài được lịnh dùng Đại Ngọc Cơ trong việc truyền giáo, thì chỉ là một giai đọan chơi giải trí của ba vị, cùng kết bạn đồng tâm để vui thú cầm thi trong khi nhàn rỗi.

Cuộc chơi giả trí từ đó là việc "Xây bàn" và ba vị nói trên chính là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang. Vốn là các nhà thi sĩ chất chứa nơi tâm nỗi căm hờn vì nước nhà bị đô hộ, ba vị này mượn thú xây bàn, mời vong linh những người quá vãng để cầu hỏi về vận mạng tương lai của Tổ quốc, hoặc làm thi, hoặc xướng họa chơi cho tiêu khiển.

Lúc ơ khởi gặp nhiều khó khăn, vì trong đêm đầu ba vị đốt nhang khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9 giờ tới 2 giờ khuya mà không có kết quả chi hết, cố tâm nhẫn nại ba vị ngồi thêm đem thứ nhì (nhằm ngày 26/7/1925) thì đúng 12 giờ khuya có một vong linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi Đường luật.

Thấy sự hiển linh và huyền diệu trong sự tiếp xúc với cõi vô hình, ba ông tích cực say mê việc xây bàn đêm nào cũng hợp nhau ngồi cho tởi hoặc 4 giờ sáng.

Từ đó đến sau thì các vị Tiên Thánh thường nhập bàn, khi thì cho thi phú hoặc luận về vận mạng nước nhà, đánh trúng chổ yếu điểm tâm hồn ba ông, khiến cho cả ba đều ngây ngất trong niềm vui sướng.

Tiếp được bài thi nào hay thì khi dứt cuộc xây bàn ba ông nán lại : hai ông rao đờn, một ông ngâm thi, rồi cùng nhau mượn chung rượu để gợi hứng niềm hoài cảm. Nhờ chơi xây bàn mà ba ông Cư, Tắc, Sang học hỏi đạo lý trau dồi trí thức cho tới ngày Đức A-Ă-Â dạy ba ông vọng Thiên bàn ngoài sân quỳ giữa trời mà cầu Đạo" (4).

Đến ngày 3/8/1925 (15/7/Aát Sửu) các ông thiết đàn xây bàn được cô Quế báo tin có một Đấng đến tiếp xúc :
THI
Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ân bòn chẳng chịu tấp theo ai.
                                                           A-Ă-Â

Ngài Phạm Công Tắc nghe dứt bài thơ lấy làm khó chịu, Ngài Cao Quỳnh Cư hiểu ý liền nói với Ngài rằng :
-Ậy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị này không phải tầm thường đâu em.
Ngài Cao Quỳnh Cư liền hỏi :
-Ông A-Ă-A mấy chục tuổi ?
Đấng A-Ă-A gõ bàn hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái cũng không thôi. Ông Cư sợ không dám hỏi nữa.
Tròi trọi mình không mới thiệt bần
Một nhàn sen trắng náu nương chân
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần
Bố hóa người đời gây mối đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào đất dậy trời thay xác
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

Đến ngày 18/8/1925 (1-8-Aát Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng:
- Em còn có chị em nào nữa biết làm thi xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi.

Cô Quế nhịp bàn trả lời : "Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm" và cô lại thêm "Ba anh muốn cầu thì ngày đó ba anh phải ăn chay mới cầu được".

Đến ngày 25/8/1925 (8-8-Aát Sửu), Đấng A-Ă-Â giảng dạy ba ông, vào rằm tháng 8 năm đó, thiết tiệc chay thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đúng ngày ước hẹn, các Ngài xây bàn, Đấng A-Ă-A giáng cho thi, rồi đến Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Riêng bà Lục Nương thì giáng cho thêm một bài (5) và mời ba Ngài làm thi liên ngâm :
LỤC NƯƠNG :
Trót đã mang cái nợ đời.
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.

CAO. Q. CƯ :
Oằn vai thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.

PHẠM. C. TẮC :
Thương hải tang điền xem lắm lúc
Công danh phú quí nhắm trò chơi

CAO. H. SANG :
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.

LỤC NƯƠNG :
Ở thế sao chê tiếng thế buồn
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong ?

CAO - Q - CƯ :
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.

PHẠM - C - TẮC :
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy
Phồn hoa mờ mệt giấc quỳnh long

CAO - H - SANG :
Bờ đương chừ đặng phong trần rảnh
Quảy gánh thơ đờn dạo bốn phương.

((5) Xem Đại Đạo Sử Cương (quyển I, 1970) trang 35)

Nhờ tình thân mật đó Lục Nương cho ba vị biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.

Việc xây bàn của các Ngài lan rộng trong nhân quần, kẻ hiếu kỳ đến xem, người không tin muốn thử coi chân giả. Một Phật tử hỏi Đấng A-Ă-Â làm thế nào để phân biệt thật giả. Đấng A-Ă-Â nhịp bàn cho thi :
THI
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương
Hiền ngõ rủi sinh thời bạo ngược
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.

Người Phật tử ấy hỏi tiếp : "Làm sao biết được chánh tà?". Đấng A-Ă-Â đáp :

THI
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra
Sao Tiên Phật người trần tục
Trần tục muốn thành phải đến ta

Sau đó có nhiều nhân vật tò mò đến tìm hiểu hư thực việc xây bàn thỉnh Tiên như các ông Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Lê Thế Vĩnh, Phạm Minh Kiên lần lược đều là đệ tử Đấng A-Ă-Â.

         
      Home       [ 1 ]  [ 2 ]  


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét