Con vật mới biết thanh mà chưa biết âm (tạm nói theo thông lệ). Người thường
chỉ biết âm mà chưa biết nhạc. Chỉ có bậc quân-tử mới biết được Nhạc tức là cái
đức của âm-thanh. Cái Đức đó là Hòa.“Nhạc dữ thiên địa đồng hòa” 樂 與 天 地 同 和
Cái chính cốt của Nhạc là ở
chỗ Hòa với thiên-điạ. Muốn cho “chí đức” “chí Hòa”
thì phải thấu triệt cả cái
hòa hàng ngang cũng như hòa hàng dọc. Chính là chữ thập 十 đó vậy.
3 - LỄ NHẠC là phần trọng-yếu của Khổng-Giáo
LỄ-NHẠC quan hệ đến
luân-lý, phong-tục và chính-trị rất mật-thiết lắm, cho nên các Nho gia tìm cái
căn nguyên ở trong đạo tự-nhiên của trời đất.
- LỄ là trật tự của Trời Đất
- NHẠC là cái điều-hòa của
Trời Đất.
Hai bên dung-hòa nhau thì
mới hòan-toàn được. Nếu có LỄ mà không có NHẠC thì nhân quần ở với nhau thành
ra phân-biệt thái-quá nhân tình bất thông; có NHẠC mà không có LỄ thì thành lưu
đãng, khinh nhờn.
Vậy nên có LỄ phải có NHẠC,
để cái nọ chế cái kia thành điều-hòa. Vì một đường thì khiến tâm-tình ở trong,
một đường thì khiến sự hành-vi ở ngoài, cốt cho trong HÒA ngoài THUẬN.
- Cái cùng-cực của NHẠC là
HÒA
- Cái cùng-cực của LỄ là
THUẬN
Nếu trong lòng mà
tính-tình điều-hòa và ở ngoài mà hành-vi thuận hợp nghĩa-lý thì cái tà-tâm vọng
niệm còn vào thế nào được lòng người ta nữa.
Vậy nên Thánh-Nhân dạy người
cốt lấy LỄ-NHẠC làm trọng (ĐHP)
4 - Lời Thỉnh giáo:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Tam Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Kính Đại-Huynh Tiếp-Pháp Hiệp-Thiên-Đài.
Tệ-sĩ Tiếp Lễ Nhạc-Quân
trân trọng giải đáp 3 câu hỏi của Đại-Huynh sau đây.
1 . Dàn-Trống-Quan nghĩa là gì?
2 . Tại sao từ Phối sư trở xuống đưa linh-cữu có Dàn Bắc?
3 . Tại sao có khác nhau?
Xin giải đáp:
1 - Dàn-Trống-Quan là môn Võ-Quốc-Thiên tối cổ của
Việt Nam.
Đời thì từ Đế vương trở xuống
Tam-Công
Đạo thì từ Đầu-Sư trở lên
đến Giáo-Tông và Hộ Pháp được ngự hưởng bài Trống Quan
Định nghĩa của Dàn-trống-Quan
dùng trong nghi lễ đưa và rước.v.v...
2 - Từ Phối-Sư đổ xuống khi qui vị phải còn hành
nghi lễ chèo-hầu và chèo đưa.
Khi chèo đưa, những tổng-trạo
và Dàn-đờn trên thuyền Bát-Nhã thay cho Dàn-Nam, đó vậy. Dàn-Bắc là tiền phong
hướng đạo.
3 - Chỗ khác nhau
là từ Đầu-Sư trở lên khi
qui vị kỵ Long-Mã, không chèo hầu, không chèo-đưa phải có dàn Nam thay cho Tổng
Trạo v.v...
Từ Phối-sư trở xuống còn
chèo-đưa nên không được dùng Dàn-Nam, để tránh sự gây rối thinh âm giữa Dàn-nam
và Dàn đờn trên thuyền Bát-Nhã.
Thưa Đại huynh,
Lời Lẽ Tệ sĩ biện minh
trên đây là chính mình Đức Hộ-Pháp khi xưa đã dạy Tệ-sĩ với khẩu lịnh.
Bởi, từ ấy đến nay tuân
theo khẩu lịnh Đức Ngài mà thi hành chớ không có Văn chỉ truyền ký.
Thành thật kính đệ Ngài ngự
lãm.
Nay Kính, Tòa-Thánh, ngày 20-09-63
TIẾP LỄ NHẠC QUÂN
(Ký tên đóng dấu)
C - CHỈNH ĐỐN CÁC THỨC LỆ CÚNG KIẾN
Đạo Sử của Bà Hương-Hiếu
có ghi:
CHÚ GIẢI: Ngoài các thức-lệ
chỉnh đàn hành-lễ phải cho y một kiểu vở, phải định thêm lễ-nghi về quan, hôn,
tang, tế, buộc các nơi phải tùng theo một luật-lệ, pháp giải-oan, phép tắm-thánh
cũng vậy
Về NHẠC cũng phải chỉnh-đốn,
nhứt là giọng đọc kinh của đồng-nhi phải phân biệt ba giọng: Ai, Xuân và Đảo
Ngũ Cung. Hơi đọc kinh có ảnh-hưởng nhiều về sự HÒA-BÌNH êm-tịnh và phát thạnh
của THÁNH-THẤT sở tại, cứ tụng một hơi ai-oán thì không khác nào cầu sự khổ não
cho THÁNH-THẤT mình (Đạo sử II).
Thầy dạy:
“LỄ NHẠC chẳng hoàn-toàn,
nhiều đứa cậy tài học giỏi lượm-lặt sách xả rác hủ Nho, mong bài bác đặng vinh
mặt. Thầy bây giờ chỉnh để phúc Thiên-Điều hành luật, ai biết nguồn cội vội sửa
mình mới mong thoát khỏi tà ma, mà đi cho cùng bước Đạo.
Uổng thay! Nền Đạo chẳng
phải hư, ngày nay không phương tái lập, THẦY giao cho mấy đứa, vì Đạo vì đời
khá hiệp trí chung lo, họa may mới với người đặng muôn một.
Con được phép cho mấy anh…
coi Thánh giáo của THẦY. Thầy cho các con hay rằng: Đại-Lễ TÒA-THÁNH chẳng hoàn
toàn theo cách thức dạy trước đây thì khá biết rằng: có tà-quái chứng mà thôi
nghe! (9-1 Canh Ngọ)
Bảo-Văn-Pháp Quân bạch:
...
- Được! nhưng còn sơ sót,
món nào liệu chẳng có ích, thì nên chế giảm, trừ ra NHẠC phải giữ cho toàn, đi
LỄ cho có vẻ nghiêm-nghị, ấy là hai món đại khái đó.
“NHẠC còn chưa đủ thể
cách, đờn để rước chư TIÊN THÁNH không phải vậy là đủ, người Nhạc-công phải ăn
mặc tinh-khiết. Sắp đặt vào khởi NHẠC phải có thứ lớp phân minh, chớ chẳng phải
muốn đờn bài chi cũng đặng, ấy là trái Thánh-ý đó. Phải sắp đặt lại nghe à!
Nơi Đàn nào mà khác hơn
Thánh-giáo và bày biện nhiều trái cách thì Đạo hữu không phép tham-dự. (TNHH
18-7-1928 )
“Từ thử đến giờ, trên mặt
địa cầu này có nước Tàu là Đức KHỔNG PHU TỬ chỉnh-đốn hoàn bị nên LỄ NHẠC có
phương thế làm môi giới, làm khí cụ cho toàn vạn quốc đương buổi này” (ĐHP)
“NHẠC LỄ là phép nhà NAM,
THẦY muốn giữ gìn sao cho trọn vẹn, các con hiểu ?” ( 21-8 Bính Dần ĐCT)
“LỄ NHẠC là hai điều trọng
hệ của ĐỨC CHÍ TÔN, khi Ngài đến vẫn chú ý hai điều ấy (ĐHP).
Nhứt là Đức CAO THƯỢNG PHẨM
sanh tiền buổi nọ, lấy con Đờn mà làm bạn thiết, hết thảy ngôn ngữ thường tình
đều khinh rẻ (ĐHP)
LỄ NHẠC sản xuất do nơi HUỲNH
ĐẾ với CHÂU CÔNG (ĐHP)
Chính cái tác-dụng mãnh-liệt
của NHẠC đó mà cổ nhân đã giáo dục con người bằng cách chế ra “NHẠC”. NHẠC là
cái vui của Thánh-Nhân mà khiến cho lòng dân trở nên tốt lành; có thể cảm lòng
người rất sâu và di phong dịch tục được, cho nên Tiên-Vương mới đặt ra dạy NHẠC.
“Từ hàng CHƯỞNG-PHÁP đổ
lên mới đặng “NHẠC CÔNG KHỞI NHẠC”, còn từ Đầu Sư đổ xuống, lễ xướng “CHỨC SẮC
TỰU VỊ”, lễ xướng “giai quì” thì nhạc khởi.
NHẠC SĨ là một chức phẩm của
Bộ Nhạc trong nền ĐẠO CAO-ĐÀI, NHẠC SĨ là phẩm cấp sau cùng về nhạc, đối phẩm với
CHÁNH-TRỊ SỰ bên CỬU TRÙNG-ĐÀI”
NHẠC là hưởng ứng của cả
khối sanh quang của càn khôn vạn-vật đồng thinh. Nơi Á-Đông có câu: "Biều,
thổ, cách, mộc, thạch, kim, dữ ty, trước nãi Bát âm”. Các vật vô năng mà nói đặng,
có trật-tự niêm luật hòa nhau là đoạt ĐẠO, hiệp lại với tiếng Kinh mình đọc là
âm thinh nghĩa là con người cùng vạn-vật đồng thinh hiến lễ”
“Mấy Em phải biết cái
tinh-túy mà người ta có thể đo lường NHẠC cao thấp mà hiểu được.
Mình biết tinh-túy của
mình, trọng hay khinh là do nơi mình; nếu mình biết trọng thì họ trọng, nếu
mình khinh thì họ khinh” (ĐHP).
“Ta nói cho chúng sanh biết:
gặp TAM-KỲ PHỔ ĐỘ này mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi.
Tại đây là một nơi ta khởi
chế sự TẾ LỄ THỜ PHƯỢNG lại” (TNHH).
Ý nghĩa hai câu liễn về Bát hồn:
Hai câu liễn này xuất xứ
trên Ngọc-Hư Cung, từ phía tả qua phía hữu của Ngôi Trời, nói lên tinh thần của
Lễ Nhạc.
BÁT HỒN VẬN CHUYỂN CA HUỲNH LÃO
VẠN VẬT ĐỒNG THINH NIỆM CHÍ TÔN
八 魂 運 轉 歌 黃 老
萬 物 同 聲 念 至 尊
Giải nghĩa:
Câu 1: Bát hồn tức là tám
phẩm cấp chơn hồn là: vật-chất-hồn,thảo-mộc-hồn, thú-cầm-hồn, nhơn-hồn, Thần hồn,
Thánh-hồn, Tiên-hồn và Phật hồn, luôn luôn có sự vận chuyển để tiến-hoá, đều ca
tụng danh của Đức Thượng-Đế (Huỳnh-Lão) là Đấng mở Đạo vàng (bởi Cao Đài là Phật
Giáo chấn-hưng).
Câu 2: Cả muôn loài vạn-vật
đều đồng niệm danh Thầy tức là Chí Tôn Đại-Từ-Phụ, Chúa tể vạn-vật trong càn
khôn thế-giới.
D - Vì sao Đạo Cao-Đài ngày nay dùng cả Trống và
Chuông?
Đạo Cao-Đài ngày nay là Cơ
Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn, nên Ngài đến độ cả xác lẫn hồn, độ sanh và độ tử, độ
cả Nữ và Nam, nói chung là cả Cơ Âm Dương Tạo-hóa. Thế nên tiếng Trống tượng
cho Dương, mà tiếng Chuông tượng cho Âm. Bất cứ nền Tôn-giáo nào có đủ Âm Dương
thì Tôn-giáo đó mới tồn tại, mới lâu dài được.
Đạo Khổng dạy: “Tác ư Lễ,
hưng ư Thi, Thành ư Nhạc” tức là hình thức làm tác động đến cảm quan của con
người không gì bằng LỄ, làm hưng khởi phấn chấn cõi lòng không điều gì hay hơn
THI và sự thành công chính là ở NHẠC. Do vậy mà ngày nay Đức Chí-Tôn đến mở Đạo
đã:
“Khởi chế sự Tế lễ thờ phượng
lại, mọi hình thức lễ nghi điều chỉnh do nơi Đức Chí-Tôn sắp đặt thật trang
hoàng”
Vì vậy, Đạo Cao-Đài có ba
bộ môn chính yếu là “LỄ, NHẠC, ĐỒNG NHI” để phục vụ, điều hành việc Hôn, Tang,
Tế-sự theo nghi thức của Đại-Đạo. Nghi thức Tôn giáo thì có đủ Chuông và Trống:
- Tiếng trống để Giác mê
chúng sanh qui bổn thiện.
- Tiếng chuông để cảnh tỉnh
nhơn tâm hướng thiện.
- Thời Nhứt kỳ Phổ-độ: Phật pháp thịnh hành nên nhà Chùa dùng trống. Tiếng trống để phá tan bức
màn vô minh cho dân tộc Á-Châu này.
- Qua thời-kỳ thứ hai: Phật pháp lại phát triển mạnh thêm như Đức Phật Thích Ca Chưởng giáo Đạo
Phật, mà Phật giáo phát xuất từ Ấn Độ, Châu Á. Kế đến Khổng, Mạnh, Lão, Trang…đều
phát xuất từ Trung-Hoa cũng là châu Á. Tuy nhiên để làm quân bình cán cân Đạo
pháp, cũng là ảnh hưởng của văn-minh tinh thần từ Á-châu lan rộng qua khắp
Âu-châu, như giọng ngân của tiếng chuông làm Âm-hưởng nên Đức Chúa Trời (Đức
Thượng đế) mới phái Đức Chúa Jésus Christ đến Âu-châu để lập thành Thiên-Chúa-Giáo
hầu thức tỉnh dân tộc Âu châu biết nhìn nhận chân lý tuyệt đối của đạo-mầu,
chính Ngài là Đức Chúa con đã đến đây thi hành mệnh lệnh. Từ đó nơi Nhà thờ là
nơi qui tụ con Chiên của Chúa chỉ dùng tiếng Chuông để cảnh tỉnh nhơn sanh mà
thôi. Đó là “Tiếng chuông Giáo Đường”.
- Nay qua thời Tam-Kỳ Phổ-Độ: tức là giáp một vòng của trời đất gọi là “Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục
thủy” thì trở lại điểm ban đầu. Đức Chí-Tôn cảm cái Nghĩa của những Tín-đồ
trung kiên của Phật, Tiên,Thánh, Thần, của những con chiên trung thành của
Chúa, mới mở cơ tận độ Kỳ ba nên đấy là lúc âm-thanh vang rền của Chuông Trống
đồng vang vọng lên như thôi thúc tất cả đều hướng về Thượng-Đế để được cứu rỗi
trong thời mạt pháp này. Vì hầu như thời gian làm cho nền Chánh giáo của Đông
Tây cũng bị lệch lạc cho đến thất kỳ truyền.
1 - Đặc biệt là nghi thức cúng Đàn dâng Lễ Chí-Tôn
đờn bảy bài
Trong các thời Đại-đàn
dâng lễ Đức Chí Tôn có đờn bảy bài, do Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dạy về ý-nghĩa của
bảy bài đàn ấy, bởi trong các bài đàn này là thể hiện đủ tám món Nhạc khí của
dân-tộc Việt-Nam. Chỉ duy hiến lễ cho Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế mới có bảy
bài ấy là:
1 - Xàng xê là khi trời đất
mới sơ khai, chưa phân thanh trược, thuở còn hỗn độn.
2 - Ngũ Đối thượng hay là
bài Thượng, là khí thanh bay lên làm trời.
3 - Ngũ đối hạ hay là bài
Hạ, là lúc khí trược lắng xuống thành đất .
4 - Long đăng là mặt nhựt
chiếu sáng, sức nóng làm cho nước bốc lên thành mây.
5 - Long ngâm là lúc mây gặp
khí lạnh nên tụ lại thành mưa, từ trên trời rơi xuống.
6 - Vạn giá là muôn vật đã
định rồi, ấy là lúc nước hợp với đất biến sanh, khiến sản-sanh ra vạn-vật, gọi
chung là chúng-sanh.
7 - Tiểu khúc là những vật
nhỏ-nhít đều có định luật của nó, khi đất biến ra ngũ-hành sanh ra kim-thạch,
thảo mộc, thú cầm đến loài người …
Đức Hộ-Pháp thỉnh giáo: Vì sao phải đờn bảy bài?
Đức Chí-Tôn dạy:
“Thầy thích nghe những bản
ấy, vì nó có ý-nghĩa của sự Tạo thiên lập địa, là buổi mới có Trời đất. Còn Đảo
ngũ cung có ý-nghĩa là qui trở lại, tức là qui cổ: đó là Vạn thù qui nhất bổn”.
Đức Hộ-Pháp bạch tiếp:
Nếu lấy những bài đó hiến
lễ thì Thầy tư-vị dân tộc Việt-nam sao?
Đức Chí-Tôn phán dạy rằng:
“Trên thế-gian này chưa có
nền Âm-nhạc cổ nào để rước Thầy mà đủ ý-nghĩa như âm-nhạc cổ của Việt-Nam; nên
Thầy chọn nó làm tiêu-biểu cho toàn cầu, cho nhân loại noi theo” (18-5-Bính-Dần
1926)
Xin lập lại một lần nữa lời
Đức Hộ-Pháp nói:
“ĐẠO CAO ĐÀI là nền Đạo
qui pháp cả cái sống của Bát hồn mà dâng lễ trả cái sống. Khi mới phôi thai càn
khôn do nơi hai khối khí mà tạo thành, ngày nay lại dâng lễ trọng cho CHÍ-TÔN tức
là qui pháp cho khối sanh-khí ấy, tức là CHÍ-TÔN vui và duy nhứt mà thấy sự sống
trả lại cho Ngài.
Toàn đạo nên trọn tâm xét
hiểu nhiệm mầu đạo lý ấy mà lần lần đạt cho được chơn pháp của CHÍ-TÔN.
NHẠC là hưởng ứng của cả
khối sanh-quang của càn-khôn vạn-vật đồng thinh. Nơi Á-đông có câu “Biều, thổ,
cách, mộc, thạch, kim dữ tư, trước nãi bát âm”. Các vật vô năng mà nói đặng, có
trật-tự niêm luật hòa nhau là đạt ĐẠO, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm
thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến-lễ." (TĐII/80)
Chú thích
▪ Bát âm là tám loại âm
thanh phát ra từ tám nhạc khí cổ ở đông phương. (Bát: Tám, thứ tám. Âm: Tiếng,
âm thanh. Tám thứ âm thanh vang ra từ Nhạc)
Bát âm tương ứng với Bát
Quái, là:
1 . Kim:
Tiếng chuông thuộc cung Đoài.
2 . Thạch:
Tiếng khánh thuộc cung Cấn.
3 . Ty: Tiếng
dây đàn thuộc cung Ly.
4 . Trúc:
Tiếng sáo tre thuộc cung Khảm.
5 . Bào:
Tiếng sinh, kèn thuộc cung Tốn.
6 . Thổ:
Tiếng trống đất thuộc cung Khôn.
7 . Cách:
Tiếng trống da thuộc cung Càn.
8 . Mộc: Tiếng mõ cây thuộc cung
Chấn.
Bát âm là chỉ âm nhạc nói
chung.
▪ Bát âm là tám thứ tiếng
về nhạc: Biều 瓢 (tiếng sên), Thổ 土 (tiếng trống đất), Cách 革 (tiếng trống da), Mộc 木(iếng mõ gõ), Thạch 石 (tiếng đá), Kim 金 (tiếng chuông đồn), Ty 絲 (tiếng dây đàn), Trúc 竹 (tiếng ống sáo tre) (dữ là cùng với. Tiếng Pháp là Avec)
2 - Cúng phải nghiêm trang:
Đức Hộ-Pháp cũng ân cần dặn
dò:
“Khi vô Đền-Thánh, Đền nầy
gọi là Đền-Thánh, thì thế nào mấy em phải hiểu. Qua đứng trên Ngai lấy hết tư
tưởng của mấy em cái giọng của mấy em cầu kinh Qua ôm hết dâng lên cho Đức
Chí-Tôn. Dâng đây, không phải là tiếng thường, ấy là cái Thiên-thiều; Ngài hưởng
rồi, Ngài trả lại cho mấy em cái Thiên-tinh. Có như vậy thì địa cầu nầy mới an
tịnh, mới thái bình được. Mấy em ôi! Nếu cúng mà giọng đọc thô bĩ, không đồng một
nhịp nhàng thì mong gì cái thiều-quang của Càn Khôn Vũ Trụ điềm-tĩnh đặng an hưởng”.
E - Nguồn gốc Đạo học của Lễ Nhạc:
LỄ NHẠC sản-xuất do nơi Huỳnh-Đế
với Châu Công. Thế nên Đạo Cao-Đài ngày nay Đức Chí-Tôn lập ba ban: Lễ, Nhạc, Đồng-nhi
cốt lấy chữ hòa làm gốc, cũng là pháp qui Tam-bửu qua hình-thức:
- Lễ thuộc về TINH để thể
hiện chữ TÂM.
- Đồng-nhi đọc kinh hòa giọng
là KHÍ.
- Nhạc là THẦN.
Nói chung đây là hồn Đạo.
Do vậy mà Thể-pháp là tượng hình của Bí-pháp, phải chỉnh-đốn các thức lệ cúng
kính, không được chế cải.
1 - Đức Chí-Tôn mở Đạo
dùng cả Âm, thinh, sắc, tướng, để cảm hóa nhân-tâm không gì bằng Âm-nhạc
Ngày nay, Đức Chí-Tôn mở Đạo
dùng cả Âm, thinh, sắc, tướng, để cảm hóa nhân-tâm không gì bằng Âm-nhạc. Lại nữa
linh-hồn của Đạo phải kể đến: Nhạc, Lễ và Đồng-nhi, tức là hồn của thi thơ đó vậy.
Lời tựa trong kinh Thi đã diễn-tả được tinh-thần ấy:
“Khi hoài-bão còn ở trong
tâm của người là Chí, phát ra lời là Thi.
Tình động ở trong mà diễn
ra bằng lời, lời thấy chưa đủ thì ta ta-thán. Ta-thán thấy chưa đủ, thì ta ca vịnh.
Ca vịnh thấy chưa đủ, thì bất-giác tay ta múa, chơn ta nhảy.
Tình cũng phát-động ở
trong mà diễn ra bằng âm thanh. Âm-thanh thành bài gọi là âm-nhạc:
- Nước trị thì âm-nhạc yên
và vui, chánh-trị được điều-hòa.
- Nước loạn thì âm-nhạc
oán và nộ, chánh-trị bị ngang trái,
- Nước mất thì âm-nhạc buồn
và rầu, dân-tình khốn đốn.
Bởi vậy, chính-đính còn
hay mất, làm động đến thiên địa, cảm đến quỉ thần, không gì bằng Kinh Thi”.
Từ khi mới mở Đạo, Đức Hộ-Pháp
đã chú-ý đào luyện cho bộ Nhạc về môn Âm-nhạc cổ-truyền, Đức Ngài ban Thánh-lịnh
cho Chức-sắc Bộ Nhạc để đi hành Đạo địa-phương và giải-thích về giá-trị cần-thiết
của Nhạc
“Qua lấy một bằng cớ
rõ-ràng, người Pháp đã nói: “La Musique adoucit les Moeurs”
Nhạc làm cho phong-hóa,
luân-lý tốt đẹp dịu-dàng, mà không phải một mình nước Pháp mà thôi, mà các liệt
quốc Âu-Châu đều cũng nói.
Nhạc 樂 là cái gì đặt bên trên âm-thanh.
Thanh 聲 là một tiếng kêu nào bất cứ. Khi tiếng kêu đó có văn-vẻ, tiết-điệu thì gọi
là Âm 音. Khi âm đó đưa tới Đức gọi là Nhạc.
“Thanh văn chi vị âm, đức
âm chi vị nhạc”
聲 聞 之 謂 音 德 音 之 謂 樂
Con vật mới biết thanh mà
chưa biết âm (tạm nói theo thông lệ). Người thường chỉ biết âm mà chưa biết nhạc.
Chỉ có bậc quân-tử mới biết được Nhạc tức là cái đức của âm-thanh. Cái Đức đó
là Hòa.“Nhạc dữ thiên địa đồng hòa” 樂 與 天 地 同 和.
Cái chính cốt của Nhạc là ở
chỗ Hòa với thiên-điạ. Muốn cho “chí đức” “chí Hòa” thì phải thấu triệt cả cái
hòa hàng ngang cũng như hòa hàng dọc. Chính là chữ thập 十 đó vậy.
2 - Hai câu liễn về Lễ Nhạc:
Hai câu liễn về LỄ NHẠC đã
minh định tôn chỉ và lập trường của LỄ NHẠC quan trọng đến mức độ nào rồi.!
LỄ xuất phát từ nơi cõi trần
này để làm sáng tỏ đức độ của con người phải biết tôn trọng sự trật tự, lớn nhỏ
phân minh.
NHẠC do thiên nhiên tác động
để truyền bá rộng rải khắp toàn cầu với mục đích duy nhất là sự điều hòa
LỄ dĩ Địa trần minh định nhơn gian tôn trật tự
NHẠC do Thiên tác tuyên thông thế giới chủ Điều Hòa
禮 以 地 塵 明 定 人 間 尊 秩 序
樂 由 天 作 宣 通 世 介 主 調 和
Ngày nay Đức Chí Tôn mở Đạo
Cao Đài lấy NHO TÔNG chuyển thế mà Đạo Nho lấy LỄ NHẠC làm trọng yếu. Thế nên
ba ban LỄ, NHẠC, ĐỒNG NHI là bộ phận chủ yếu của NHẠC Đại-Đạo ngày nay.
3 - Những âm-thanh trong vũ-trụ tạo thành Tam-bửu của
Nhạc:
Cái vi-diệu của Nhạc là
HÒA. Cái gốc hòa phát nguyên từ trời, đất và người, gọi là Thiên, địa, nhân làm
cái gốc của vạn-vật:
- Trời sinh ra vạn-vật,
- Đất nuôi vạn-vật,
- Người làm thành vạn-vật.
Người cảm-thông cái nghĩa
của đất trời mà lý hội:
* Trời sinh ra vạn-vật bằng
hiếu đễ.
* Đất nuôi vạn-vật dưới
hình-thức ăn uống.
* Người hoàn-thành bằng LỄ
NHẠC.
Tuy nhiên làm sao thấy được
nhạc?
Vì nó từ trong lòng vũ-trụ,
Từ trong lòng vạn-vật,
Từ trong lòng mọi người.
Nếu cả tiếng côn-trùng
không tấu lến làm sao nghe được âm-thanh rộn-rã. Tiếng gió không khua động cành
lá làm sao nghe được rì-rào? Lòng người không cảm hoài, vui buồn ai-oán thì làm
sao có được khúc nhạc lòng.
Tất cả hòa thành Nhạc của
vũ-trụ vạn-vật. Nếu được tinh-ba chắc lọc hòa-đồng với vũ-trụ sẽ thành Thiên
thiều.
Sự tinh-ba đó là điều-hòa
nên mới sinh ra Lễ tức là trật-tự, ngăn-nắp, khiêm-cung, hòa-ái.
LỄ NHẠC là hai điều trọng-hệ
của Đức Chí-Tôn. Khi Ngài đến vẫn chú-ý đến hai điều ấy.
Thầy nhấn mạnh: Nhạc Lễ là
pháp nhà Nam. Thầy muốn giữ-gìn sao cho được trọn vẹn, các con hiểu?”
CHƯƠNG III
A- VŨ TRỤ và ÂM NHẠC
Đức Hộ-Pháp giải:
1 - VŨ-TRỤ-QUAN nói về phần ÂM-NHẠC:
Ngày 16 tháng 4 năm Giáp
Ngọ (1954) tại văn phòng Tiếp Lễ Nhạc Đường.
“Đây là Dịch-Lý qua Thái-cực
đồ thuyết: lấy ý mà hội chớ không thể lấy lời mà truyền.
Vũ-trụ lúc đầu là khí hồng-mông
mờ-mờ, mịt mịt, u u, minh minh, đào độn qua lại, lại qua, có lúc lặng lẽ vô vi,
thanh trược hỗn-hợp gọi là Vô-vi chi-khí.
Trong khí Hư-Vô có phát hiện
ra một vầng quang minh linh-diệu vô cùng tức là THÁI-CỰC. Song THÁI CỰC Đơn Nhứt
tuyệt đối ẩn, không rõ ra cho nên không sinh hóa được, muốn sinh-hóa được phải
có đôi, phải có tương đối, có điều hòa. Vậy nên Thái cực biến hóa thành ra Âm
và Dương. Âm dương theo lẽ điều hòa mà sanh hóa Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ để biểu thị cái chất đã thành hình.
Lúc Âm Dương phân định thì
khí khinh thanh lên làm trời, khí trọng trược xuống làm đất.
Âm Dương được điều hòa với
nhau mà sinh hóa muôn vật, vật nào bẩm-thụ khí sanh quang đặng nhiều làm Phật,
Tiên, Thánh, Thần. Vật nào bẩm-thụ ít thì làm người hay các loài khác như côn
trùng, thảo mộc, thủy tú, sơn xuyên.
Tóm lược thực thể:
“Vô cực nhi Thái cực”.
Thái-cực động sinh hóa ra khí Dương lại bình tĩnh. Bình tĩnh lại động sinh hóa
ra khí Âm.
Một lần động, một lần
tĩnh, hỗ-tương quan hệ, gốc chung phân hóa ra một Âm Dương là hai cách cơ bản
thiết lập: Dương biến, Âm hợp vào mà sinh hóa ra Thủy, Hỏa, Kim, Thổ, Mộc là
năm nguyên khí phân bố có thứ-tự, bốn mùa thời tiết của một năm vận hành.
Hỗn độn mà thành vũ-trụ lấy
nguyên-lý sinh động là cơ bản ấy là khí, vô hình phi chất, biểu hiện ra hữu
hình và trở nên vạn-vật.
Cái siêu hình mà không rời
hiện thực, cái dòng thực tại toàn diện siêu nhiên và tự nhiên duy nhứt.
Các bậc Thánh-nhân hiểu rõ
nguyên lý uyên thâm nên hòa mình vào cảnh sắc thiên-nhiên cùng một thể chung
cùng một cảm thông.
Đức vua Phục-Hy quan sát
trời, đất để biết. Biết để ứng-dụng vào đời, điều-lý tâm linh, vạch ra tám quẻ
để thông cái thịnh-đức của Trời và bày tỏ cái tình của vạn vật.
Thừa kế cái chí thành của
Thánh nhân, nên Tôn giáo CAO-ĐÀI với nghi lễ, với cơ bản vận dụng sinh động món
nhạc khí: Bào, Thổ, Cách, Mộc, Thạch, Kim, Tơ, Trúc.
Tiết tấu: Thanh, Kỳ, U,
Nhã, Bi, Tráng, Du, Dương gọi là Bát âm để biểu thị cho Bát hồn và làm cho Bát
hồn sống dậy.
Trên Bạch-Ngọc-Kinh có đôi
liễn:
“Bát hồn tư mặc ca Huỳnh-Lão
“Vạn vật đồng thinh niệm Chí-Tôn”
Lòng chí thành để bày tỏ
thịnh đức rộng lớn “HƯ VÔ CHI KHÍ” Vô cực nhi Thái cực là mẹ cha của vũ trụ.
Để điển lưu điệu thiên
phong văn võ nhạc thời xưa, Nghiêu Thuấn với nghi nhạc thời nay.
Nhạc tấu Quân thiên và tiết
tấu bảy bài gọi là ghi nhớ thuở hồng mông mở mang trời đất.
Bảy bài đàn hiến lễ Đức
Chí-Tôn:
1 . Xàng xê: biểu thị thuở hồng mông đào độn
2 . Ngũ đối thượng: biểu thị lúc phân chia khí Dương
3 . Ngũ đối hạ: biểu thị lúc phân chia khí Âm
4 . Long đăng: biểu thị phân ra khí thanh làm Trời
5 . Long ngâm: biểu thị phân ra khí trược làm đất
6 . Vạn giá: biểu thị sinh hóa muôn loài
7 . Tiểu khúc: biểu thị thủy tú sơn xuyên
Đức Hộ-Pháp dạy tiếp:
“Mấy em được nghe rõ lời dẫn
giải nêu trên: VŨ TRỤ và ÂM NHẠC.
Trong khi Nhạc Tấu Quân
Thiên và tiết tấu bảy bài, nếu có lỡ bước phải dừng lại thành kính tưởng niệm.”
2 - TINH THẦN LỄ NHẠC
“LỄ giả biểu tượng
thiên-lý chi tiết-văn, thật hiện nhơn sự như chi tắc.
“NHẠC giả ứng hiệp Ngũ
hành chi sanh hóa, tuyên thông bát phong chi hòa khí”
Ý nghĩa:
- LỄ là nêu rõ hình tượng
tiết-văn của Trời, như là tiết Xuân, tiết Hạ, tiết Thu, tiết Đông, cùng là mặt
nhựt, mặt nguyệt, các vì tinh-tú đều vận chuyển bốn mùa, không khi nào ngưng trệ
hay là xâm phạm nhau.
Còn đối xử với việc người
đều có uy nghi và phép tắc phân-minh đẳng cấp, tôn-ti thượng hạ, không khi nào
loạn hàng thất thứ.
- Nói về NHẠC là ứng hiệp
sự sanh hóa của Ngũ hành: KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ và tuyên bố thông truyền
không khí điều hòa cả bốn phương, tám hướng, nên sách lễ-ký có nói rằng:
- “LỄ giả thiên địa chi trật tự,
- NHẠC giả thiên địa chi điều hòa”
Ý nghĩa: LỄ là khuôn viên
trật tự của Trời đất, NHẠC là không khí điều hòa của Trời đất.
Vì lẽ cho nên Thánh hiền
xưa nghị chế ra Lễ để bình phục lòng dân không cho rối loạn, còn tác Nhạc để
dung hòa tiếng nói của dân không cho hỗn-hào, là sở dĩ hiệp đồng lòng dân mà lập
ra đạo trị nước, hóa dân cho tất cả đều biết cung kỉnh khiêm nhượng và thuận
hòa thân ái, gây ảnh hưởng đi đến chỗ trung thứ Đại Đồng.
Vậy nên phép hành Lễ được
điều hòa tức thị là NHẠC. Phương tấu nhạc có trật tự tức thị là Lễ. LỄ NHẠC phải
tương đắc cùng nhau mới cảm-kích Thần minh báo ứng phước lành.
Từng xem cổ sử, thấy đời
thượng cổ có vua Thuấn Đế dĩ NHẠC hóa dân, nghĩa là Ngài dùng NHẠC tiêu thiều
ca bài “Nam phong” cảm hóa lòng dân. Ca bài Nam phong là có ý nghĩa “Nam phong
trưởng dưỡng vạn vật”, mong cầu cho dân chúng đều thịnh-vượng mùa-màng, an cư lạc
nghiệp, nhờ ảnh-hưởng của ngọn Nam phong mà tự nhiên quốc gia thịnh-trị,
thiên-hạ thái-bình.
Trải đến thời Trung cổ có
vua Văn-Vương “dĩ LỄ hóa dân”, nghĩa là Ngài dùng LỄ-NGHI pháp độ cảm hóa lòng
dân. Hễ khi nào người dân có phạm lỗi thì Ngài vẽ vòng mà phạt cho biết cải-hóa
ăn năn tự mình giác ngộ, trau giồi trở nên Hiền Thánh. Nhờ ảnh hưởng của Lễ
Nghi mà tự-nhiên nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm của rơi.
Nhận xét cho chí lý thấy
vua Thuấn-Đế và vua Văn-Vương chỉ dùng NHẠC-LỄ để cảm hóa lòng dân là chủ tâm cầu
khẩn cho dân mình đều trở nên Hiền-Thánh.
Nay đến thời kỳ chuyển thế
tái tạo qui cổ, may duyên gặp Đấng Chí-Tôn đến khai Đạo lập Giáo, dùng phương
pháp dung hòa hiệp nhứt cả NHẠC-LỄ của Thuấn-Đế và Văn-Vương đặng cảm hóa toàn
thể chúng sanh đều trở nên đời Thánh đức cộng hưởng thuần phong mỹ tục thạnh-trị
thái bình.
Chiếu trong Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển về Khoản thi văn dạy đạo, rằng:
THI
Đời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,
Thương Đời nên mới đến đem đường.
Đường dài vó ngựa tua bền sức,
Sức yếu lòng người khéo để gương.
Gương Đạo noi theo đời Thuấn-Đế,
Đế dân vẹn giữ lối Văn-Vương.
Vương hầu lê thứ ai là chí?
Chí quyết làm cho thế khác thường.
Qua bài thơ trên, ĐẤNG CHÍ
TÔN chỉ dạy rõ rệt, duy chỉ có hai câu luận làm cho chúng ta chú ý, rằng:
“Gương Đạo noi theo đời Thuấn Đế,
“Để dân vẹn giữ lôí Văn-Vương.”
Nhận thấy xưa kia vua Thuấn
Đế dùng Nhạc Tiêu thiều cảm hóa lòng dân, đến thời kỳ này ĐẤNG CHÍ TÔN lại dùng
Nhạc tiêu-thiều ca tụng Nam xuân cảm hóa toàn thể chúng sanh đều được hòa thuận
thương yêu.
Còn luận đến pháp hành-lễ
thì ĐẤNG CHÍ-TÔN dùng pháp Nhựt-dụng thường hành lễ bái cảm hóa toàn thể chúng
sanh đều phát khởi Đạo-tâm, biết cung kỉnh khiêm nhượng, hiển nhiên rằng
tinh-thần của LỄ NHẠC rất quan hệ cho việc trị quốc an dân bình phục tâm-lý
toàn thể thiên hạ đều hiệp kỉnh, đồng hòa không còn tranh chấp hơn thua hay là
kỳ thị chủng tộc và tất cả xem nhau như anh em một nhà.
Bởi cớ cho nên Tiên nho có
nói “Văn huyền ca nhi tri nhã” ý nghĩa là người có chí hướng vì nước, vì dân,
nghe đến tiếng đờn, tiếng ca hay tiếng tơ, tiếng trúc, thì người có thể quyểt
đoán quốc gia thạnh-trị hay là suy vong
Vậy nên người biết phép
hành Lễ và hiểu phương tấu nhạc, phải sáng suốt nhận định lợi hại như thế nào.!
Sự thật là một triệu chứng
hiển-nhiên. Đấng Chí Tôn đến chấn hưng cổ Lễ và cổ Nhạc của tổ tiên Việt-Nam
chúng ta bốn ngàn năm về trước là chủ yếu nâng đỡ tinh thần đạo đức cho dân tộc
Việt-Nam, phải tôn-trọng nền Nho-Tông thuần-túy cổ-truyền, để làm gương mẫu cho
thế giới dân tộc đều cảm hóa noi theo (Thông Tin Đại-Đạo 7)
3 - NGUỒN GỐC và SỰ VI DIỆU CỦA NHẠC
Đời Tam Hoàng chế CHỮ tượng
theo hình và dấu chân chim, chân thú, thì NHẠC lại theo tiếng chim kêu hoặc tiếng
động của sự vật mà chế.
Vua Phục Hi do tiếng chim
phượng kêu, ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi âm
thinh phát ra giống tiếng chim phượng gáy.
Thứ lớn gọi là Nhã-tiêu
ghép liền 23 ống, dài một thước bốn tấc (thước ta). Thứ nhỏ gọi là Tụng tiêu
ghép liền 16 ống dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi là tiêu quản. Còn thứ
không đáy là đồng tiêu.
Về sau vua Hoàng-Đế sai
Linh-Luân lấy trúc ở Côn khê chế ra ống Địch, ống Địch có bảy lỗ cầm ngang mà
thổi, cũng giống như tiếng chim phượng, trông giản tiện lắm, người đời sau thấy
ống tiêu-quản rườm-rà mới chỉ dùng ống Địch cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là
Tiêu, thứ ngắn gọi là Địch.
Ống sinh do Bà NỮ-OA nghe
tiếng chim Loan mà sáng chế. Vua truyền cho ông Vĩnh-Viễn đúc 12 cái chuông
đánh lên hòa với giọng tiêu.
Còn trống do tiếng sấm mà chế.
Lịnh truyền cho ông Thái-Dung đặt ra nhiều bản: như bản Hàm-Trì, bản Thừa-Vân,
bản Vân-Môn , Nam Phong….
Điệu phân làm bốn:
- Thanh thương
- Thanh dốc
- Thanh chủy
- Thanh vũ
Đến vua Thuấn, chim phượng
bay đến múa và gáy, nhơn đó mới chế khúc nhạc thiều.
Đờn cầm năm dây (Ngũ huyền
cầm) ứng theo năm cung; tượng Ngũ hành, xuất phát âm cung ngũ khí: Cung (thổ),
Thương (kim), Giốc (mộc), Chủy (hỏa), Vũ (thủy).
Cầm tức là cấm, nghĩa là cấm
chỉ những sự dâm-tà mới giữ được Chánh đạo. Vua Văn-Vương và Vũ-Vương do theo Cầm-lý
dẫn-giải cho cái đạo trị nước an dân là từ gia-đình đến triều-chánh, chánh lịnh
nghiêm minh mới thái-hòa.
Cuối Ân có Sư Điêu chế ra
khúc nhạc My-my, vua Trụ nghe lấy làm thích lắm, bởi khiêu gợi dâm đãng kiêu
sa. Đến khi vua Vũ-Vương đánh Trụ mất nước. Sư Điêu ôm đàn chạy về phía Đông,
nhảy xuống sông Bạch-Thủy, tục truyền về sau có ai thích âm nhạc mà đi qua đây,
ban đêm nghe văng-vẳng tiếng đàn ở dòng sông.
Đức Khổng-Tử là bậc
Thánh-sư, lúc ở nước Tề học nhạc Thiều Ngài hiểu đến chỗ nguyên-lý tinh-thâm vi
diệu của Nhạc, trong ba tháng say mê ăn không biết mùi-vị
Ngài nói: ta chẳng ngờ học
NHẠC vui đến thế “Bất đồ vi nhạc chi khí ư tư giả”.
Khi Ngài châu lưu khắp
thiên hạ thì bên mình không khi nào rời cây đàn Ngũ-huyền-cầm. Quan niệm của
Ngài là tiếng đờn thanh-nhã có thể nâng cao tinh thần và trụ vững tâm-lý siêu
nhiên của người quân-tử. Lúc Ngài bị vây giữa nước Trần và nước Sái, bảy ngày
không ăn, chỉ ăn rau luột suông. Các Đệ-tử như Tử-Lộ, Nhan Hồi, Tử-Cống… đều
băn-khoăn lo sợ cho Ngài, nhưng Ngài vẫn ung dung ngồi đàn hát.
Bực Thánh nhân còn trọng dụng
Âm nhạc như vậy, vì Nhạc-nghệ là một bộ môn văn hóa cao đến tuyệt độ của Nhạc
Thiều có cái mãnh-lực huyền bí cao siêu giúp nước trị dân, cải hoán xã hội.
BÁ-NHA đập nát cây đàn thề
không đờn nữa vì người bạn tri-âm là CHUNG TỬ-KỲ đã mất thì không còn ai biết
nghe tiếng đờn của mình.
KHỔNG MINH GIA CÁT mượn tiếng
đờn mà lui giặc TƯ MÃ Ý.
Trương Tử-Phòng nhờ có giọng
tiêu ai oán mà một đêm giải tán tám ngàn đệ tử của Sở Bá Vương tại Cửu-lý San.
Công dụng của NHẠC-THIỀU hồi
xưa Thánh-hiền đã dùng NHẠC để đặt ra cái lý cao siêu, giúp cho sự kinh bang tế-thế.
Thế nên Nhạc được liệt vào hàng Ngũ-kinh là Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh
Lễ và Kinh Nhạc.
4 - LỄ NHẠC LUẬN
LỄ: Trong việc lập đàn thiết
Lễ, muốn tỏ lòng thành kính nên phải thiết lễ lập đàn, lập Lễ tất phải có Nhạc
Cái sở dụng của NHẠC, LỄ
là thế nào?
Lập LỄ thì phải có người Lễ
Sĩ, áo mão chỉnh tề, hết lòng thành kính, hai tay nâng cúng vật lên ngang mày
theo nhịp-nhàng của Âm-nhạc, từ từ điện lễ đi lên, tỏ vẻ rất là tề chỉnh, đi bộ
trang nghiêm, ấy để khiến người bàng quan sanh lòng tôn kính, cho nên tinh thần
LỄ là tôn kính.
NHẠC: trống, chuông, đờn,
kèn, ống tiêu và nhiều thứ âm thanh khác nhau.
Trống dẫn đầu khai NHẠC,
trống có hai cái âm dương khởi động văn vũ, sấm động thấu suốt cùng trời đất.
Trống là sấm: Sấm CHẤN ở
phương đông (là mặt nhựt) kế đến là đờn nguyệt ở phương Tây, theo nhịp sống mà
khải hòa đông tây, âm dương hòa thuân).
Kế đến đờn Nhị (đàn cò),
gáo, chờ ba nhịp mà cùng hòa, tức là Thủy Hỏa đồng Ký-tế, rồi đó các khí cụ
khác đồng hòa theo một loạt do trống điều khiển cho đúng nhạc lý thành thuận, đồng
thời dấy lên một lượt (tức đều đủ) rất là êm dịu, hòa thuận buổi lễ chen lẫn tiếng
lớn, tiếng nhỏ, giọng phù trầm nghe như nhường nhịn lẫn nhau rất là hòa điệu, để
cho mỗi nhạc khí thung dung phô diễn sở năng của nó, cho nên tinh thần nhạc là
HÒA .
LỄ NHẠC: Nguyên ngày xưa
tiền nhân đã quan sát vũ trụ nhận thức được luật vũ trụ, nhận thức được luật trật-tự
và điều hòa của TRỜI, ĐẤT rồi theo đó mà chế ra LỄ NHẠC cho nên nói rằng :
- LỄ giả thiên địa chi tự
- NHẠC giả thiên địa chi
hòa.
Tiền Thánh đã dụng ý chế
ra LỄ NHẠC rất là hay mà cái sức mạnh tinh thần ấy có thể uyển-chuyển kích động
lòng người đến chỗ cao xa, lòng Tín-ngưỡng xúc động mà hoài bão đến sự siêu
thoát của tinh-thần.
Cũng như sức mạnh của tinh
thần ấy LỄ NHẠC có thể cảm hóa được lòng người về đường đạo đức.
Kính là vâng thuận, có
vâng thuận mới có hòa thuận.
Vậy LỄ NHẠC thường phải đi
đôi với nhau mới có kết quả mỹ mãn.
LỄ mà không có NHẠC hay có
NHẠC mà không có LỄ thì buổi lễ ấy mất tôn nghiêm hòa kính.
Kính và hòa là nhơn tâm và
thế sự luôn luôn phải hòa mình với nhau cùng trời đất Càn khôn vũ trụ.
Nếu Kính mà không hòa phải
ly tán, Hòa mà không kính thì lòng người phải loạn: như hội họp nhiều người mà không
có điều lễ, biết kỉnh nhường để làm cho có trật tự trên dưới lớn nhỏ.
Người lớn mà khinh thường
kẻ nhỏ, hành động nói năng không lễ độ. Kẻ nhỏ mà hỗn ẩu, không kiêng nễ người
lớn. Trật tự không có thì chung qui phải giải tán.
HÒA mà không KÍNH tức là loạn
KÍNH mà không HÒA là phản nghịch
Than ôi! Gia đình ly tán,
xã hội loạn lạc thì than ôi làm thế nào quần tụ để giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống
của con người. Xem đó cũng đủ hiểu LỄ và NHẠC rất là tương quan mật thiết của
người trong việc hàm dưỡng tánh lành trong đời sống của con người ở trên mặt thế
này vậy.
Vậy có LỄ phải có NGHĨA mà
có NGHĨA cũng phải có LỄ là trật-tự và hòa bình để dâng hiến mà hiệp cùng vũ trụ:
THIÊN. ĐỊA. NHƠN nên vạn vật hóa THUẦN
5 - THIỂU HỌC LÝ TÍCH CƠ NHẠC
Về cơ-nhạc xuất hiện cũng
tại lý Âm Dương của trời-đất mà tác thành CƠ-NHẠC, vì kể từ hỗn độn sơ khai thì
nhứt Thái-Cực sanh Lưỡng-Nghi, phân Tứ-Tượng rồi biến thành Bát-Quái mà tạo
thành càn-khôn vũ-trụ, rồi có NGŨ-HÀNH hầu hóa sanh nhơn-loại và vạn-vật.
Nên vì đó mà các Đấng
Tiên-Vương, kể từ Đức PHỤC-HY, THẦN-NÔNG, HUỲNH-ĐẾ, ĐẾ NGHIÊU, ĐẾ THUẤN, rồi tiếp
nối vua Thang, vua Võ, chánh thức mở mang là CHÂU-CÔNG, KHỔNG-TỬ.
Đức PHỤC-HY bậc chí Thánh,
Tiền-Vương thông thiên-văn, định địa-lý, tiếp xem Bát quái Hà Đồ mà rõ việc nhiệm-mầu
của Đấng Tạo-Hóa, đặng thống danh chánh đạo về Bát âm, Ngũ thanh và Lục Luật
cho CƠ NHẠC cổ thời sơ khai.
Về Bát-Âm là Cơ-Năng của
Bát-Quái: CÀN, KHẢM, CẤN, CHẤN, TỐN, LY, KHÔN, ĐOÀI.
Ngũ thanh là cơ-năng của
ngũ-hành là: KIM, MỘC, THỦY, HỎA, THỔ.
a/ - Lục-Luật
là cơ năng của con số 12 của
sanh quang khí, bậc Tiên-Vương minh định Bát âm là: Bào, Thổ, Cách, Mộc, Thạch,
Kim, Ty, Trước. Nên các Đấng mới tạo ra ống Luật, ống Lữ, Ngọc thạch, Tỳ bà và
đờn cầm, đờn sắc, các loại NHẠC này đều lượng theo thể thiên pháp địa, bốn mùa
tám tiết, ngũ hành lục hiệp, quân thần tá sứ chi nghĩa, văn võ đẳng cấp chi
nhân, chúng sanh hiếu hòa trung tiết đễ. Ấy là giữ phong hóa nhơn-luân cho
chánh nghĩa, khai thông pháp tam-tài vậy là: THIÊN, ĐỊA, NHƠN.
Còn hiện nay Văn Bát âm
là: Tam, Tiêu, Tranh, Đản, Kiềm, Tỳ, Cò, Độc.
Bát âm võ là: Bồng, trống,
kèn, chiêng, tum, mỏ, đẩu, bạc.
Vì có trống sơ khai nên có
câu chú: “Úm ma ni bát ri hồng”
Còn câu kinh Phật-Mẫu rõ
hơn :
“Bát hồn vận chuyển hóa
thành chúng sanh”
Nhớ hồi ĐẠO CAO ĐÀI sơ
khai, ĐỨC CHÍ TÔN dạy bậc Thiên-phong phải học NHẠC-LỄ thì Đức Hộ Pháp có ý thắc
mắc bạch với ĐỨC CHÍ TÔN:
Đời đã chê Âm-thanh sắc tướng
sao ĐỨC CHÍ TÔN còn buộc chức sắc học NHẠC-LỄ làm chi?
ĐỨC CHÍ TÔN dạy rằng: Trên
Bạch-Ngọc-Kinh có đôi câu liễn, đặt hai bên tả, hữu:
“ BÁT HỒN TƯ MẬT CA HUỲNH
LÃO
“ VẠN VẬT ĐỒNG THINH NIỆM
CHÍ TÔN”
Từ đây về sau Đức Hộ-Pháp
không còn thắc mắc nữa.
b/ - Về NGŨ THANH:
Cung Thanh-Cung làm chủ
cho bốn mùa: Trung ương, Mồ, Kỷ, Thổ.
Cung Thanh-Thương làm chủ
ba tháng về mùa thu Tây phương, Canh, Tân, Kim.
Cung Thanh-Giốc làm chủ ba
tháng về mùa xuân: Đông-phương, Giáp, Ất, Mộc.
Cung Thanh-Chủy làm chủ ba
tháng về mùa Hạ: Nam-phương, Bính, Đinh, Hỏa.
Cung Thanh-Vũ làm chủ ba
tháng về mùa Đông: Bắc-phương, Nhâm, Quí, Thủy .
Trong mỗi cung có một
Tiên-Hoàng làm chủ:
- GIỐC Long MỘC Tiên hiệu
Hoàng Bá
- CHỦY Long HỎA Tiên hiệu
Hoàng-Trọng
- THƯƠNG Long KIM Tiên hiệu
Hoàng-Thúc
- VÕ Long THỔ Tiên hiệu Hoàng-Thiếu.
Đây là NGŨ-CUNG và NGŨ-HÀNH gắn liền với Thập-Thiên-can và Thập-Nhị địa
chi.
Thập-nhị Địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất,
Hợi.
Kinh Phật-Mẫu hằng ngày tụng đọc rằng:
“ Thập thiên can bao hàm vạn-tượng
“ Tùng địa chi hóa trưởng
càn-khôn.”
Ấy là tạo hóa có 10 thiên
can và 12 địa chi cùng tương liên với Lục Luật và Lục Lữ mà lưu hành trong một
năm được điều-hòa, nhơn-loại và vạn vật tồn sinh, tiến hóa theo luật thiên
nhiên của trời đất.
c/ - Về Lục căn, Lục Lữ:
Nguyên vì ống Luật và ống
Lữ có 6 bậc Âm và 6 bậc Dương :
- Lục Luật về dương là: Huỳnh
chung, Thái thốc, Cổ tẩy, Nhuy tân, Duy tắc, Vô dịch.
- Lục-Lữ về âm là: Đại lữ,
Giáp chung, Trung lữ, Lâm chung, Nam lữ, Ưng chung.
Thành số định là 12 vì
trong một năm có 12 tháng, 6 tháng thuộc Dương là lục Luật, 6 tháng Âm thuộc về
lục Lữ để huân bố các khí hậu trong càn khôn vũ trụ mà trưởng-dưỡng vạn vật cho
tiến-hóa lên.
Buổi cổ thời Đức Hiên-Viên
dạy ông Linh-Quản đến phía Tây Chấn (đại hạ) sau núi Côn-Lôn lấy tre nơi hang
Giải cốc, lấy ba lóng chia làm hai ống.
Đức Ngài dạy phân bậc, dùi
lỗ rồi dạy thổi hầu khải tấu cung Huỳnh chung. Về sau các bậc Thánh Đế, kế tiếp
chế ngự ra 6 ống, 12 ống và 36 ống, có ống dài, ống ngắn cắm vào trái bầu để
hòa với tiếng chim phụng trống, kêu là Hoàng, thuộc dương Lục Luật, chim mái
kêu là Phụng thuộc âm Lục Lữ, hầu sánh tấu cung Huỳnh chung để cầu được sự
an-lành, sanh sanh hóa hóa và nhơn-tâm chẳng cho phóng-túng mà sai việc cang
thường, luân-lý, đạo đức, nghĩa nhân là bẳng căn Luật Lữ, làm cho vạn pháp do
theo điều hòa vạn loại trong càn khôn vũ trụ.
Trong Thánh giáo ĐỨC CHÍ
TÔN dùng nhạc-lý mà dạy ĐẠO rằng :
“ Trong tám tiếng phân tường giai cấp,
“ Vọng CUNG THƯƠNG cao thấp tùy nhau.
“ GIỐC CHỦY võ hiệp thanh-tao,
“ Lục-căn Lục Lữ phân sao cho đều.”
Xét lại Cơ Nhạc có căn nguyên tông tích lịch sử từ thuở sơ khai, càn khôn phân định, nguyên thủy khai hóa dục tấn nhơn-loại giữ đạo
đức nghĩa nhân ghi ân-thâm từ đời Tam-Hoàng Ngũ-Đế. Tuy có khoản thạnh suy
nhưng không thất chánh, đến đời Châu-Công, Khổng-Tử gia tâm chỉnh-đốn hoàn bị đủ
Ngũ-Kinh Tứ Truyện, đến đời Tần Thỉ-Hoàng “khanh sĩ phần-thơ” tức là đốt sách,
chôn học trò nên KINH NHẠC bị mất chỉ sót còn một thiên ghép vào kinh LỄ cũng
có phần giảng-giải các kinh truyện như trong bộ khai-tịch diễn nghĩa, thiên Nhạc-ký
và tự-điển giải-nghĩa, thì NHẠC có lắm điều mật thiết sâu xa, đối với nhân loại
và cơ nhiệm mầu của tạo hóa.
Cũng vì thời-kỳ quá ư
văn-minh cực điểm, đem nhiều điều dễ theo cho nhơn loại khiến sai chơn truyền đạo
nghĩa của Thánh trước Hiền xưa. Để rồi chuyên chế, khinh khi, ganh ghét, hiếp lẫn,
thù hằn, chiến tranh làm cho phong di tục diệt, kinh kệ xem thường, nghĩa-nhân
che lấp đạo đức, lễ-nghi âm nhạc lần lần coi là loại tình thường lệ tục.
Hôm nay ĐỨC CHÍ-TÔN hoằng
khai Đại-Đạo Tam kỳ Phổ-Độ là NHO TÔNG chuyển thế, Phật giáo chấn hưng, như vậy
BỘ NHẠC HỘI-THÁNH rất cần, về tinh thần, hình thức, bản bài của nghệ thuật; nhạc
khí, nhạc lý, nhạc điệu phải được ra vẻ là thuần-túy, hầu đáp ứng với nhơn sanh
trong nền Đại-Đạo.
Nên nhớ lại lời phổ hóa của
Đức Hộ-Pháp rằng:
“THI THƠ, LỄ NHẠC là căn-bản
chơn truyền pháp NHO TÔNG, BỘ NHẠC là của chính mình Đức Chí-Tôn đã lập với BỘ
LỄ, dầu dở hay Bần-Đạo không quyền luận biện, chỉ làm theo ý muốn của Đức
Chí-Tôn mà thôi”.
Và Ngài nói :
“Dầu nước nào có văn minh
cực điểm tới đâu nữa, cũng không thể cải bỏ NHẠC được. Nên có câu: “HƯNG Ư THƯ,
TÁC Ư LỄ, THÀNH Ư NHẠC” ấy là lời trong NHO GIÁO vậy”.
Thiểu học lý tích cơ nhạc
xin vắn tắt trên đây.
Bộ nhạc, ngày 6 tháng 7 năm Quí Sửu
Chưởng quản Bộ Nhạc Trung-ương (dl: 4-8-1976)
Phó Chưởng quản Bộ Nhạc Trung ương
Nhạc sư
TRẦN-VĂN-NIỆM
Phê kiến:
Nhạc Sư
VÕ THÀNH TƯƠI
Tóm lại:
"Dầu nước văn minh
nào ở trên mặt địa cầu này cũng không thể bãi bỏ NHẠC được“. (ĐHP).
"Ấy vậy, mình phải biết
NHẠC. Khi nào cầm cây đờn, năm mười cây hòa lại có một giọng thì tức nhiên CHỮ
HÒA do nơi NHẠC mà sanh ra vậy”. (ĐHP).
6 - BẢY BÀI đờn “NHẠC TẤU QUÂN THIÊN”
Khi hiến lễ CHÍ-TÔN (Đại
đàn) phải đờn bảy bài.
Thầy dạy:
“Khi nhập, lễ xướng KHỞI
NHẠC thì phải đánh trống và đờn bảy bài cho đủ”. (TNII/24)
Ghi thêm kỹ niệm của Tiếp-Lễ
Nhạc-Quân giải thích có sự hội ý của Ngài Bảo Đạo năm 1979. Khi hỏi về ý nghĩa
bảy bài đờn:
“Con người được xem là tiểu
thiên địa vì có những phần liên quan với TRỜI ĐẤT, được đứng vào phẩm tam tài:
THIÊN, ĐỊA, NHƠN.
Vì:
- Trời có Tam bửu Ngũ khí.
- Đất có Tam bửu Ngũ hành.
- Người có Tam bửu Ngũ tạng.
Trước khi luận qua về mỗi
thể ta thử tìm biết đại cương về bảy bài đàn cúng CHÍ-TÔN trong thời Đại-đàn.
Vì phần nhạc lý, nhạc pháp có liên quan đế sự vận hành của Trời đất.
Tuân y Thánh-Giáo đã dạy:
Cúng CHÍ-TÔN đờn đủ bảy bài. Bảy bài gồm có: Xàng xê, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ,
Long đăng, Long ngâm, Vạn giá, Tiểu khúc.
Về ý nghĩa:
1/ - Xàng xê: là qua lại,
lại qua của thời kỳ sơ khai hỗn độn.
2/ - Ngũ Đối Thượng: Ngũ
khí thanh phù giả vi thiên năm khí nhẹ bay lên làm Trời.
3/ - Ngũ Đối hạ: Ngũ khí
trược trầm giả vi địa (năm khí nặng rơi xuống làm đất) là lúc phân ra khí Âm.
4/ - Long đăng: biểu thị
lúc phân ra khí thanh: Trời.
5/ - Long ngâm: Biểu thị
lúc phân ra khí trược: Đất .
6/ - Bản vạn giá: Biểu thị
sanh hóa muôn loài. (Người).
7/ - Bản Tiểu khúc: Biểu
thị thủy tú sơn xuyên.
7 - NHẠC TẤU QUÂN THIÊN so sánh ý nghĩa Lễ BÁT MAN
TẤN CỐNG.
LỄ “Bát-Man tấn cống” có từ
đời nhà Châu. Nhà Châu có bốn chư hầu lớn là: Tây Bá Hầu, Đông Bá Hầu, Nam Bá Hầu,
Bắc Bá Hầu. Còn 800 chư hầu nhỏ khác đều bị xem như chư Hầu Man Rợ. Mỗi năm các
chư hầu nhỏ phải đem cống một vật nạp cho chư hầu lớn, để rồi bốn chư hầu lớn nạp
lại cho Châu Vương.
800 chư hầu nhỏ khi dâng cống
sứ có bản Nhạc đặc sắc để tiếp Vua và dâng lễ Cống, nên gọi là “Bát-Man tấn cống.”.
Bản “Bát Man Tấn cống” được
phổ biến trên đài phát thanh Sài-gòn thời Nguyễn văn Thiệu vào chiều thứ Tư mỗi
tuần, mở đầu cho chương trình Phổ thông Giáo lý. Bản Nhạc này do Đức Cao Thượng-Sanh
viết lời.
Bàn tới Lễ “Nhạc tấu Quân
Thiên” tức là bản nhạc tiếp Đức Thượng Đế nó có tánh cách tương tợ như bản nhạc
của 800 chư hầu hiến vua thời nhà Châu.
Lễ “Chỉnh sát cúng phẩm”
cũng mường tượng với lễ của Chư hầu nhỏ đến dâng lễ Cống. Vua sai một quan Lễ bộ
ra xem coi vật hiến có xứng đáng không, có đồ giả không? Có đầy đủ theo ước hẹn
không? Nếu đủ điều kiện thì Quan Lễ Bộ mới nhận.
Còn nay một chức sắc Hiệp-Thiên
Đài thay mặt Hội-Thánh đến xem xét Tam Bửu coi có tinh khiết không?, coi có
Bông tốt, Rượu mới, Trà thơm không? Lại còn trấn Pháp vào đó để biến Bông thường
làm “Tiên Hoa”, Rượu thường làm “Tiên Tửu”, Trà thường làm “Tiên Trà” để tượng
trưng thể xác, trí não và linh hồn của sanh chúng làm báu vật dâng lên Đại-Từ-Phụ.
Còn 6 vị Lễ sĩ cầm đèn
Vàng, xanh, Đỏ để đưa hộp đựng Tam Bửu lên vị chánh tế là :
- Cặp đèn phái Thái là đại
diện cho phái Phật
- Cặp đèn phái Thượng là đại
diện cho phái Tiên
- Cặp đèn phái Ngọc là đại
diện cho phái Thánh (phái Nho) để dâng Tam bửu cho Đức Chí-Tôn. Tam bửu phải
qua vị Chánh tế, cũng như xưa các chư hầu đại diện cho dân chúng nơi địa phận
mình dâng cho 4 chư hầu lớn, rồi 4 chư hầu lớn dâng lên vua, nên khi đến vị
Chánh tế, ta phải nhờ 4 vị Lễ sĩ nhịp theo nhịp trống tiếng đờn làm Lễ trọng mà
hiến cho Đại-Từ-phụ.
Cái hộp đựng Tam Bửu có
tên là “Tam bửu Ngọc Hàm”. Vậy từ “Nhạc Tấu Quân Thiên” đến “Chỉnh sát Cúng phẩm”,
rồi Lễ cầm đèn Thái, Thượng, Ngọc đem “Tam bửu Ngọc Hàm” đến vị Chánh tế, tiếp
thu lễ điện của Lễ-sĩ dâng Bông, Rượu, Trà lên Đức Chí-Tôn, tất cả gọi là lễ
“Bát Man Tấn cống”.
Câu : Bát hồn tư mặc ca Huỳnh
Lão,
Vạn vật đồng thanh niệm
Chí-Tôn
Là câu liễn nơi Ngọc Hư
Cung, giải thích thêm rõ nghĩa là: “Bát Man tấn Cống” nói trên.
Chú thích:
Chữ “Quân” trong câu “Nhạc tấu Quân Thiên” buối trước
đã dùng, có lẽ do theo điển tích trên đây. Nhưng phần đông trong Thuyết đạo lại
còn viết “Huân Thiên”
(Bài này của ông Sĩ-tải Huỳnh-văn Hưởng lúc sinh thời,
Anh đã viết tay trao cho Tôi, bảo tôi ghi vào quyển Nhạc mà Tôi đang soạn. Thế
mà nay đã 17 năm trôi qua. Giờ đây đã ra người thiên cổ. Tập Nhạc này mới được
ra đời)
8 - NGUỒN GỐC Thần bí của LỄ NHẠC:
Theo quan-niệm cổ-nhân dù
ĐÔNG hay TÂY thì NHẠC cũng có một nguồn gốc rất thần-bí.
Người Ấn-Độ cho rằng NHẠC
do vị Nữ-Thần Saraswati, con gái của thần sáng tạo vũ-trụ Brahmâ chế tạo ra,
còn các raga (điệu nhạc) chánh thì do thần Mahadev và vợ là Nữ-Thần Parviti
sáng tạo. Người Ấn-Độ lại còn tin rằng điệu raga megh là điệu nhạc thuộc hành
thủy khi nào hát lên thì trời mưa nên trong những năm hạn hán, họ thường thỉnh
cầu các ca sĩ danh tiếng đàn hát lên điệu nhạc ấy để cầu mưa.
Đối với dân Trung Hoa thì
NHẠC do các vị Thánh vương chế tạo ra khi nghe tiếng chim phụng, chim loan, tiếng
sấm. Người đầu tiên làm việc ấy chính là vua Phục Hi, nghe tiếng chim phụng kêu
Ngài đã làm ống tiêu bằng trúc theo hình chim phụng. Khi thổi lên, ống tiêu
phát ra những âm thanh giống như tiếng hót của chim phụng. Đến đời Hoàng Đế,
nhà vua đã chế ra một loại ống thổi gọi là kèn dốc mà khi âm thanh phát ra thì
tạo thành thanh “GIỐC” giống như tiếng hai con chim phụng cùng kêu lên hay hai
con rồng cùng ngâm lên. Theo Đức KHỔNG TỬ thì NHẠC do âm sinh ra “Nhạc giả âm
chi sở do sinh dã”.
Mà ÂM có năm bậc: CUNG,
THƯƠNG, GIỐC, CHỦY, VŨ. Vả lại NHẠC có một nghĩa rất rộng gồm cả đàn, hát, văn
thơ, chuông trống.
9 . SỰ QUAN TRỌNG CỦA NHẠC
Vì NHẠC có một nguồn gốc
thần-bí như thế nên NHẠC có thể làm điều-hòa Trời Đất; hòa chung với Trời đất.
Ngoài ra NHẠC còn có thể cảm hóa lòng người vì tình dục con người thì do ngoại
cảnh sinh ra trong khi tính tình thì do Trời phú cho: phàm là người ai cũng có
cái tính bởi huyết khí, tâm trí sinh ra mà cái tình AI, LẠC, HỈ, NỘ thì không
thường. Sự ứng cảm khởi ở ngoại vật mà động rồi cái tâm thuật mới hình rõ ra.
Thật vậy, khi nghe âm thanh thong-thả êm-đềm thì lòng người cảm thấy vui-vẻ mà
khi nghe âm thanh trầm buồn thì lòng người thương cảm xót xa hay khi nghe âm
thanh chính-trực thì lòng người cũng trang nghiêm, tôn kính. Vì NHẠC cảm hóa
con người một cách sâu xa nên có thể biến cải tâm-tánh con người khiến con người
trở nên hiền lương nhân hậu hoặc độc ác, tàn bạo, dâm đảng.
Nhạc thanh thiện khiến người
làm điều thiện, NHẠC thanh ác khiến người làm điều ác. Như vậy, tác dụng của NHẠC
còn để di dưỡng tính tình con người nhờ những âm thanh tao nhã. Đức KHỔNG PHU TỬ
nói rằng: “Xét cho cùng các lẽ về NHẠC để trị lòng người thì cái lòng giản dị,
chính trực, từ ái, thành tín, tự-nhiên phơi phới mà sinh ra”.
Chính vì cái tác-dụng
mãnh-liệt của NHẠC đó mà cổ-nhân đã giáo-dục con người bằng cách chế ra NHẠC .
“NHẠC là cái vui của
Thánh-nhân mà khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất
sâu và di phong dịch-tục được cho nên Tiên-Vương mới đặt ra dạy Nhạc”.
10 . SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA LỄ VÀ
NHẠC
Như vậy chủ đích của NHẠC
cũng tương tự như chủ đích của LỄ là vừa tiết-chế tánh-tình mà cũng vừa hàm-dưỡng
nó, nghĩa là vừa bắt buộc tính-tình phải tuân theo qui-luật vừa bồi dưỡng để
nhân-tính càng ngày càng phát triển hầu tiến đến chỗ chí-thiện.
Trong thiên NHẠC-KÝ (sách
Lễ ký) chép rằng:
“Người ta sinh ra vốn
tĩnh, đó là tính Trời, cảm với vật ở ngoài mà động là cái muốn của tính. Vật đến
thì cái biết của mình biết, nhiên-hậu cái ưa, cái ghét mới hình ra. Cái ưa cái
ghét mà không được tiết-chế ở trong, cái biết của mình bị ngoại vật dẫn dụ, cứ
thế mà không nghĩ lại thì thiên-lý tiêu-diệt vậy.”
Xem thế, ngoại vật có thể
làm mất cái thiên-tính của người ta đi, bởi vì:
"Cái thường tình của
hạng người trung-nhân hễ có thừa thì xa-xỉ, không đủ thì bỏn xẻn, không ngăn cấm
thì dâm đảng, không theo tiết độ thì sai lầm, buông thả lòng dục thì hư-hỏng.
Cho nên ăn uống phải có hạn-lượng, y phục phải có tiết chế, cửa nhà phải có
pháp độ, súc tụ phải có số thường, xe cộ và đồ dùng phải có hạn-chế, đó là đề
phòng cái nguồn loạn vậy”, vì lẽ đó nên mới “ theo thường tình của người ta mà
đặt ra LỄ để ngăn giữ người ta khỏi làm bậy”. Như vậy thì “LỄ tiết chế cái
tình, cấm sự loạn sinh ra cũng như bờ đê giữ nước khỏi tràn và nếu nói rằng đê
cũ không dùng chi mà phá nó đi thì sẽ bị nước tràn ngập, nói LỄ cũ không dùng
đi mà bỏ nó đi thì ắt có rối loạn.”
Nếu LỄ đã đủ cái chủ-đích
như thế nào thì NHẠC cũng được cổ-nhân đặt ra với chủ-đích như thế ấy hay nói
khác đi LỄ-NHẠC được các Thánh-Nhân tạo ra là để chế ngự-tình người mà nếu bỏ
đi thì lấy gì đè-nén dục-vọng xấu-xa nữa. Sách LỄ-KÝ viết rằng: “Ngoại vật khiến
người cảm-xúc không cùng, vậy thì cái ưa cái ghét của người mà không được tiết
chế thì khi vật đến người bị cảm mà hóa theo giống như điều mình ưa muốn. Người
mà hóa theo giống như vật mình ưa muốn thì thiên-lý Trời phú cho sẽ bị tiêu diệt
và có thể thực hành tất-cả những cái dục-vọng xấu xa. Đã như thế ắt có cái tâm
bội nghịch, trá ngụy, có những hành vi dâm dật, tác loạn. Vì đó mới sinh ra những
việc kẻ mạnh hiếp người yếu, số đông tàn-bạo với số ít, kẻ có trí thì lừa dối
người ngu, kẻ can đảm làm khổ kẻ nhát gan rồi kẻ đau ốm không được nuôi dưỡng,
người già, con trẻ, kẻ cô độc không được an thân, ấy là cái đường đi tới đại-loạn
vậy. Vì thế mà Tiên-Vương chế ra LỄ NHẠC để tiết chế cái tình của người: “Dây
rơm, mũ mấn, khóc lóc là để điều chỉnh lễ tang, chiêng trống, đồ dùng, ca vũ là
để định cái giới-hạn cho sự biểu-lộ cái tình trong những lúc vui-vẻ; lễ cưới, lễ
quan (lễ đội mũ), lễ cài trâm là để phân biệt con trai, con gái, tiệc liên
quan, giỗ chạp là để làm cho sự giao tiếp giữa các hạng người được thích đáng,
đứng đắn.
Đức Khổng-Tử cũng rất chú
trọng đến việc học thi, học LỄ, học NHẠC để sửa đổi tâm-tính đúng-đắn ngay
chính.
- “Hưng khởi cái chí khí là ở THI.
- “Sửa sang phẩm cách cho đứng đắn là ở LỄ
- “Điều hòa tính tình cho hoàn toàn là ở NHẠC”
Do câu:
“HƯNG Ư THI, TÁC Ư LỄ,
THÀNH Ư NHẠC”
Do đó nếu thiếu NHẠC thì
xã hội không điều hòa mà vũ trụ cũng chưa hoàn-hảo. LỄ-NHẠC quả thật rất cần
thiết cho xã hội, cho loài người. Trong “Xuân thu phồn lộ” Đổng Trọng-Thư, người
đời Hán, viết rằng:
Trời đất và người là cái gốc
của vạn vật, Trời sinh ra vạn vật, đất nuôi vạn-vật, người làm thành vạn-vật.
Trời sinh ra vạn-vật bằng hiếu đễ, đất nuôi vạn vật bằng ăn mặc, người hoàn
thành bằng LỄ NHẠC.
Tuy nhiên, dù LỄ NHẠC giống
nhau về chủ đích nhưng lại khác nhau về căn nguyên.
“Trời cao đất thấp, muôn
việc khác nhau cho nên nhân đó mà đặt ra LỄ CHẾ để phân tôn-ti, trật tự. Trời đất
và vạn-vật lưu hành không nghĩ rồi hội họp khí tính cho điều hòa để hợp đức mà
sinh ra dục thế mới thành ra có NHẠC”.
Như vật LỄ là làm cho Trời
đất trật tự.
NHẠC là làm cho Trời đất
điều hòa.
Trong Trời đất, muôn vật
khác nhau thì về nhân sự phải có LỄ phân ra trật-tự khác nhau để cho vạn-vật có
thứ-tự phân minh. Trong Trời đất, vạn vật tuy có khác nhau nhưng cũng đồng một
thể, cùng theo một lẽ điều hòa mà sinh-hóa nên chế ra NHẠC để hợp đồng lại làm
một.
Nhưng LỄ NHẠC phải luôn
luôn hòa hợp nhau, bổ túc nhau, cái nọ chế cái kia thì mới hoàn toàn được:
NHẠC làm cho hợp đồng, LỄ
làm cho phân biệt. Hợp đồng thì tương thân nhau, phân biệt thì tương kính nhau.
Dùng NHẠC quá thì thành ra lưu đảng, dùng LỄ quá thì phân-ly cách biệt mất cái
tình thân-ái, thích hợp tính-tình, trang sức dung mạo là việc của LỄ NHẠC vậy.
Ngoài ra về phương diện đạo
đức, LỄ-NHẠC có một ý nghĩa sâu xa, một tác động rất mãnh liệt vì:
- NHẠC là động ở trong, LỄ
là động ở ngoài.
- Cái cùng cực của NHẠC là
HÒA
- Cái cùng cực của LỄ là
THUẬN.
Nhưng thế nào là hòa, thế nào là thuận?
Hòa là làm điều hòa
tính-tình trong lòng, còn thuận là làm cho cái hành-vi ở ngoài luôn luôn thuận
hợp với điều hay, lẽ phải và nhờ đó con người có thể diệt mất cái lòng tà của
mình đi.
Mặc dù LỄ-NHẠC quan trọng
như thế nhưng phải được thực-hiện cho đúng tôn chỉ của LỄ là kính, NHẠC là hòa
mới được, nếu LỄ-NHẠC mà không kính cũng không hòa thì ôi! Dùng LỄ NHẠC phải có
ích lợi gì? Đức Khổng-Tử đã quan niệm rằng đồ lụa cùng chuông trống là những vật
cần-thiết cho LỄ cho NHẠC nhưng nếu LỄ NHẠC không kính không hòa thì dùng các vật
ấy làm gì nữa. Bởi thế, Ngài than rằng:
“Lễ vậy! Lễ vậy! Ngọc lụa
vậy hay sao?
“Nhạc vậy! Nhạc vậy!
Chuông trống vậy hay sao?
Xem thế, LỄ-NHẠC có một mối
tương quan mật thiết với nhau nên trong các buổi tế lễ tại Đền-Thánh Tây Ninh,
NHẠC chiếm một địa-vị hết sức quan-trọng và làm cho buổi tế-lễ được thêm phần
trang-nghiêm.
11 - Phật Shiva thổi ống tiêu để thức tỉnh quần
linh:
Đức Shiva-Phật mình trần
quay về chánh Bắc, đứng trên Thất-đầu-xà tức là Thần hủy diệt, ngó qua phía hữu,
ấy là ngôi thứ nhì tượng trưng phần Âm Dương, cơ sanh hoá cũng là cơ hủy diệt, ấy
là ngôi Bảo tồn.
Phật Shiva cũng như Hộ
Pháp ngự trên Thất Đầu Xà để trừ bốn mầm độc trong bản thân nhơn loại, đó là
Ai, Nộ, Ố, Dục. Nhìn vào thực tại Đấng đó cũng là hiện thân của Hộ Pháp, nhưng
thổi ống tiêu để thức tỉnh quần linh, hướng miệng ống tiêu để đưa sinh khí vào
cung Chấn chánh Đông tức là cung Pháp, nơi tụ nguơn Thần. Nếu những tư tưởng quấy
ở con người có dấy lên sẽ bị ngự trị phần Ai Nộ Ố Dục của nhơn sanh để giữ còn
cái nguơn Linh của Thượng Đế,
Ống tiêu có bảy lỗ tượng
cho Thất tình, nếu con người khéo tu biến thành thất bửu cũng thể hiện cho thất
khiếu sanh quang, nhưng đắc pháp rồi thần khí phục hồi mở được Cửu khiếu nhờ kết
tụ Tam diệu sẽ chiếu ngần ánh Xá lợi. Nên Thích Lão định danh là Mâu Ni Bửu
Châu hoặc Thử Mễ Huyền Châu hay Cửu Khúc Minh Châu
Diêu-Trì-Cung là nơi ngự của
Đức Phật-Mẫu, ngày nay Ngài đến tại mặt thế gian này đã tượng-trưng bên Ấn Độ:
Phật-Giáo Ấn-Độ gọi Ngài là Shiva Phật, là cái hình ở trên Bát-Quái-Đài chúng
ta để trên nóc, thấy có “Tinh Nhũ” nơi ngực của Ngài đó.
Hồi buổi Chí-Tôn phân định,
phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái “Linh-Pháp”của Ngài biến
tướng ra Phật-Mẫu. Phật-Mẫu thuộc về Âm, Chí-Tôn thuộc về Dương, Âm-Dương hiệp
lại mới biến hóa Càn Khôn Vũ-Trụ, sanh ra vạn-vật.
12 - GIÁ TRỊ ÂM-NHẠC CỔ TRUYỀN VIỆT-NAM trước QUỐC
TẾ.
Lời Tòa soạn đăng trong tuần
báo Việt báo số 18:
Luận về NHẠC, chúng tôi
xin chân thành nói lên cùng quí vị nào có ý coi thường bộ môn ÂM-NHẠC CỔ TRUYỀN.
Quí vị có ngờ đâu, cách
đây 21 năm (vào năm 1970) với Nhạc khí thô-sơ. Một cây Cò, cây Tranh mà ông TRẦN
VĂN KHÊ đã góp danh dự cho nước nhà trong kỳ Đại nhạc hội quốc tế tại Budapest,
được vẻ vang với hạng nhì so cùng 70 nước khắp Năm-châu.
Thiết nghĩ danh dự ấy đủ cảnh
tỉnh những ai hướng ngoại mà cũng đánh thức quí vị Nhạc sĩ lão thành rằng thế
giới còn biết thưởng âm, quí vị không đến đỗi phải ném cây Cầm không khảy nữa,
còn với quí bạn hậu-học, hãy cố gắng để gìn giữ sắc thinh cổ truyền của Tổ tiên
Việt Nam, hoặc phát huy nó đến tuyệt-mỹ với lý uyên thâm của bộ môn ÂM-NHẠC CỔ
TRUYỀN, đừng để lu-mờ mà phải tội cùng các vị tiền nhân đã đem danh dự về cho Tổ
quốc chúng ta.
Để quí vị được thưởng lãm,
chúng tôi xin trích lục nguyên văn bức thư của ông TRẦN-VĂN-KHÊ từ Budapest gởi
về, đăng trong tuần báo VIỆT BÁO số 18. Từ 17 đến 24-09-1949 phát hành tại
saigon, do Lê Thọ Xuân làm giám đốc (bức thư đăng nơi trang 4,5 và 23) nguyên
văn như sau:
Tại Đại Nhạc Hội BUDAPEST trước hàng 70 nước khắp
Năm-Châu bạn TRẦN VĂN KHÊ
Đã lãnh giải II cho VIỆT NAM CỔ-TRUYỀN.
(Bài của Nhạc sĩ Trần văn
Khê)
Vẫn biết rằng nhờ toàn dân
Việt Nam đang anh dũng tranh đấu, nhờ những lý do chính trị, họ phải để cho Việt
Nam có một hai kết quả gì, nhưng tôi sung sướng vì đã được đem chút tài mọn mà
phụng sự tổ quốc: Nước Việt Nam yêu quí của chúng ta.
Tại ..
Gởi những anh chị em quen
biết
Budapest, 25-8-1949
Tôi gởi thư này để các Bạn
chia vui với Tôi và để khoe với các Bạn rằng trong kỳ thi Đàn cổ với các nước tại
Budapest, tôi đã đem giải nhì cho Việt Nam ngang hàng với Mông cổ, thua Nga và
hơn Lô-ma-ni và Hung-Gia-Lợi Hôm tôi được mời lại phòng văn hóa của Đại Nhạc Hội
Budapest để bàn về những cuộc tranh tài về NHẠC và KHIÊU-VŨ, tôi đã nói với những
nhân viên phòng văn hóa rằng: Nước Việt Nam đã xa xôi lại còn đang tranh đấu
giành tự do thành ra các nhân tài vì nhiệm vụ kháng chiến không thể dự Hội nghị.
Chúng tôi là những sinh viên ở Âu Châu, bất tài, chỉ cố gắng trình bày một phần
nào của văn hóa Việt Nam. Vì nó là bổn phận của chúng tôi chớ ra mà tranh tài với
các nước thì chúng tôi không dám.
Nhưng nhân viên phòng văn
hóa nói rằng: Nếu Việt-Nam không tranh tài về các môn đờn Piano hay Violon thì
ít ra Việt Nam cũng có một lối nhạc cổ đặc biệt và các nước như Mông-cổ,
Hung-gia-lợi cũng sẽ đem những cây đàn cổ thô-sơ ra dự thi, anh cố gắng để Việt
Nam có thể góp mặt với các nước chớ!
Bảo tôi ra tranh tài thì
tôi không dám, nhưng bảo tôi ráng dự-thí để Việt-Nam được góp mặt với các nước
thì tôi khó thể chối-từ. Thế là tôi nhận lời .
Về nhà tôi nói với anh em
.
“Chắc chắn thế nào mình
cũng hạng chót, nhưng ít ra trong lúc dự thí và khi có kết quả dầu hạng chót đi
nữa mình cũng làm cho tên tuổi Việt-Nam được người ta để ý thêm một chút. Tôi kỳ
thật là liều mạng già, làm lì ra dự thí để cho tên Việt-Nam được nhắc nhở đến .
Tuy nghĩ thế nhưng lòng vẫn
phập-phòng. Và chiều ngày 17-8-1949 tôi ôm cây đàn cò “chết nhạc” của tôi lại,
gắn cục tòng chỉ cho ngay, thay dây mới và phủi bụi cây đàn tranh và nhấn dây
cho nó êm dây. Đúng 4 giờ chúng tôi lại Magyar sinhaz mà dự thí .
Trong lúc chờ đợi, tôi
nghe người giới thiệu đọc bằng tiếng Nga, pháp, Anh, Hung rằng hôm nay có những
nước Tiệp-Khắc, Hung gia-Lọi, Lỗ-ma-Ni, Bảo gia Lợi và Việt Nam dự thí về Nhạc
và Khiêu vũ theo xưa, tôi đâm ra lo.
Đoàn Tiệp-Khắc ra sân khấu
với trên 80 thanh niên nam nữ hát những bài hát cổ và múa những điệu đặc biệt
theo đồng quê.
Đoàn Bảo-Gia-Lợi đem trên
100 thanh niên hợp xướng những bản xưa và nhảy múa rầm rộ, lại thêm có giàn nhạc
violon đờn theo điệu Tziganes. Mặc dầu Trời không nóng lắm mà tôi toát mồ hôi.
Trời ơi ! Người ta đi dự thí với hàng trăm người, với bao nhiêu bài hát, điệu
múa với cả giàn nhạc, mà tôi đơn thân với hai cây đàn quèn này tôi sợ làm xấu hổ
cho Việt Nam quá. Tôi nhớ lại ân hận rằng không cố năn nỉ anh Tư Huyện mượn cây
đàn Cò cẩn để cây đàn Cò bạch chảng của tôi ra sân khấu dự thi coi kỳ quá .
Nhưng kìa đoàn Hung-gia-Lợi
ngoài nhiều lối khiêu-vũ theo xưa còn có thêm một giàn nhạc xưa với cây đàn giống
như Tam thập lục với mấy ống sáo bằng đồng, bằng cây.
Đoàn Lỗ-Ma-Ni lựa ra hai
người kỳ tài: một em bé 13 tuổi thổi ống sáo năm lỗ những điệu nhạc xưa giống
như tiếng sáo của mấy mục đồng đuổi trâu về xóm. Một thiếu nữ chỉ dùng một lá
cây mà thổi một điệu Nhạc xưa, tiếng kêu tương tự như giọng kèn tiểu của nhạc
ta. Rồi giàn đờn gồm có mấy cây đờn tam thập lục, đàn hình bầu dục như cây
tì-bà. Thêm vào đấy bao nhiêu điệu múa tưng bừng .
Chết tôi rồi ! Áo tôi ướt
đầm cả mồ hôi khi bỏ màn, người giới thiệu ra nói, bây giờ đến phần anh VĂN KHÊ
biểu diễn cổ nhạc Việt Nam.
Trái lại với quang cảnh
tưng bừng đầy màu sắc, rầm rộ với những điệu khiêu vũ trên sân khấu mênh mông
đơn thân và độc mã với cây đàn Cò xấu xí .
Màn kéo lên.
Khán giả hơi ngạc nhiên vì
từ 4 giờ đến bây giờ toàn những ban nhạc, những đoàn khiêu vũ, bây giờ lại chỉ
có một người ngồi với một cây đàn dị kỳ.
Phóng viên các báo chụp
hình. Ánh Magnésium làm chóa mắt tôi.
Khi lên dây xong, định thần
lại, tôi thấy trên lầu 8 người Giám khảo ngồi trước tám tờ giấy trắng. Thính giả
lặng thinh. Tôi nghe tim tôi đập mạnh .
Cầu xin ông Tổ Nhạc giúp
cho tôi trong phen này
Những bàn tay lỗi lạc như
sáu Tửng, Tư Huyện, Sáu Quí, Chín Kỳ.. Các anh ở đâu để tôi lãnh trách-nhiệm nặng
nề là thay mặt cho Cổ-nhạc Việt-Nam đây?
Tôi bắt đầu rao ít câu.
Tôi không rao theo các điệu cải lương. Tôi phỏng theo điệu sa mạc rồi đặt ngay
ra nhiều câu với nhiều ngón run, ngón vuốt.
Hôm nay tôi để cả tâm hồn
tôi vào đấy, tôi đàn bực trên rồi xuống bực dưới. Cả rạp im lặng nghe .
Dạo đàn trong 5 phút tôi
ngâm 6 câu sa mạc vừa ngâm vừa đàn phụ họa theo. Dứt bài tiếng vỗ tay vang dậy
cả rạp và họ vỗ mãi trong gần hai phút không ngừng. Tôi hơi vững lòng lên tinh
thần lấy đàn tranh ra. Tôi nhấn trên một sợi dây đến chín chữ đàn khác nhau.
Phóng viên các báo lại chụp hình một lần nữa. Tôi rao đàn tranh trong 5 phút lại
bắt đầu ca bản Bắc cung ai, lại cũng vừa đàn vừa ca. Trước khi ca tôi có cắt
nghĩa sơ bằng tiếng Anh và tiếng Pháp ý nghĩa bài hát một thiếu phụ than thân
trách phận.
Tôi cố diễn lại sự đau đớn
của thiếu phụ bằng giọng ngâm, bằng chữ nhấn, bằng nét mặt và khi dứt bài một
tràng pháo tay vang dậy. Tôi phải trở ra chào thính giả mấy lượt. Nhưng tôi
nghĩ rằng đó chẳng qua là lối xã giao chớ so với các giàn nhạc kia tôi còn cho
mình kém quá . Nhưng tôi đã rán hết sức tôi và tôi đã thành công, tôi đã làm được
một số thính giả cảm động vì bài hát .
Nhiều phóng viên các báo:
Hung, Tiệp, Lỗ đến hỏi tôi về cây đàn Cò và đàn Tranh và họ nói rằng đây là lần
đầu tiên trong lịch sử mà cây đàn Tranh và đàn Cò lên tiếng tại kinh đô nước Hung
.
Cùng đi với tôi, Anh Nguyễn
Ngọc Hà đờn bản Thiên thai bằng Guitare électrique, nhưng khi nhà báo đến hỏi
cây đàn gì anh Hà bảo là cây đàn Lục huyền cầm Hạ Uy-di cho nó có cái tên Việt
Nam. Anh Hà rất được hoan nghênh với cây đàn và có điều lạ là dân chúng Hung
chưa nghe Guitare Hawaienne lần nào cả và rất thích giọng đàn uốn éo.
Làm xong phận sự, chúng
tôi ra về sung sướng ở chỗ Việt Nam cũng đã góp mặt với các nước khác trong cuộc
tranh tài này.
Vài hôm sau, nước Nga với
một Nhạc công danh tiếng biểu diễn Balalaika và những cây đàn cổ khác . Nước
Mông cổ với cây đàn Tam, lúc khảy lúc kéo. Nhạc sĩ Mông cổ đã kéo rất hay như
tiếng violon- cellle.
Đến bữa 24-8-1949, sau khi
ban Giám khảo cộng điểm lại thì cô thông ngôn hối hả chạy cho tôi hay: Anh Khê
này! 4 giờ chiều anh lại Âm-nhạc-viện mà lãnh thưởng. Phòng văn hóa vừa cho hay
anh được giải thưởng về Nhạc. Anh thay đồ đi mau. Tôi có mấy lời khen anh đấy.!
Thay đồ đi mà tôi vẫn nghĩ
rằng có lẽ mình hạng chót nhưng họ cho giải an-ủi hoặc một cấp bằng danh dự chi
chi chớ chẳng lẽ mình hơn người ta.
Đến Âm-nhạc-viện thấy bao
nhiêu đại biểu các nước ngồi chật, trên bàn danh dự có chủ tịch thanh niên thế
giới, chủ tịch sinh viên thế giới, mười bốn viên giám khảo, các nhạc sư, nhạc
trưởng các nước.
Hôm ấy, Nga được 50 giải
thưởng đàn violon, đàn piano, hợp xướng, độc xướng, kèn trompette... các anh nhạc
sĩ Nga hạng nhứt cả.
Đến phiên Cổ nhạc, hạng nhứt
Garayev (Nga), hạng nhì Biemian (Mông cổ), và tôi (Việt Nam) hạng ba Plorilkia
(Lỗ ma ni) và Beres ( Hung gia Lợi)
Khi kêu đến tên tôi, tôi
đi lên sân khấu và trong lúc chủ tịch phiên nhóm bắt tay tôi và cả rạp vỗ tay,
phóng viên các báo chụp hình, tôi sung sướng vì đại biểu các nơi không phải
hoan nghinh cá nhân tôi mà hoan nghinh cả một nền Cổ nhạc Việt-Nam. Tôi sung sướng
vì tôi đã không làm hổ mặt Việt Nam.
Và nói ra chắc các bạn cười
tôi sao yếu tánh chớ trong những trường hợp thế này tôi thấy mặt tôi nóng bừng
và nước mặt từ đâu tuôn dài theo má khi tôi trở về chỗ ngồi. Lúc đứng trên sân
khấu tôi cố dằn và rán cười nhưng khi về đến chỗ ngồi lại thấy nước mắt đâu nó
tuôn ra như thế?
Dở quá bạn nhỉ ? Nhưng Nhạc
sĩ nào lại chẳng dễ xúc cảm hơn người.
Hôm nay khi các báo đăng kết
quả, khi các đài phát thanh loan báo tin các cuộc tranh tài, nhiều bạn nhạc sĩ
các nước tìm tôi hỏi thăm về Âm nhạc Việt-Nam, về những cây đàn cổ, tiếc rằng
không có những cây đàn sến, đàn kiềm, đàn tì bà, đàn độc huyền để cho họ biết
thêm, vì khi qua Pháp tôi chỉ có đem được hai cây đàn cũ, mua lại của người ta.
Nhưng hiện giờ tôi quí hai cây đàn ấy lắm. Chúng nó đã giúp tôi khi tôi trình
bày Cổ Nhạc Việt-Nam vào hôm 24-08. Có lẽ tôi đã sống được một phút cảm động nhứt
trong đời Nhạc của tôi.
Vẫn biết rằng nhờ toàn dân
Việt-Nam đang anh dũng tranh đấu, nhờ những lý do chính trị họ phải để cho Việt
Nam có một hai kết quả gì, nhưng tôi sung sướng vì đã được đem chút tài mọn mà
phụng sự Tổ quốc.
Nước Việt Nam yêu quí của
CHÚNG TA .
B - ĐẠO DỊCH TRONG NGHI THỨC CAO-ĐÀI
I - Luận Đạo
1 - Đạo là Dịch:
Không một ai phủ nhận,
nhưng khi vào nghệ thuật như Âm nhạc Việt-Nam, hay nói chung là Nhạc Dân tộc cổ
truyền thì không thể thiếu tinh-thần Dịch lý để điều-hòa từ Âm thanh đến tiết tấu.
Càng không thể không biết Dịch, khi Thánh-nhân chế tác các loại đờn đã áp dụng
Dịch-học vào nghệ thuật một cách sâu sắc.
Xưa Vua Phục-Hi là một nhà
thông-minh huệ trí, ngẩng lên thì ngắm Thiên-văn, cúi xuống thì xét lý Âm
Dương, chẵn lẻ, vì cớ đó mới vạch thành nét: Một nét liền tượng Dương một nét đứt tượng Âm (Đây cũng là do theo lý tính của người mà
phân biệt Âm Dương, Nam Nữ. Chỉ một Âm, một Dương làm đầu mối cho muôn ngàn sự
vật trong cõi đời này. Cả thế-giới hữu hình lẫn vô hình, chính hai ngôi này làm
khởi thuỷ, như cha và mẹ trong gia-đình; vạn-vật là đực cái, trống mái.
Người dân-tộc Campuchia
hay Chàm họ cũng biết đến hai ngôi này, họ cũng lấy vật Tổ để thờ gọi là Cái
“Linga” tức là hình ảnh “chày đặt lên cối” cũng là hình ảnh Âm Dương, nhưng
suy-nghĩ của họ còn nằm trong thời ấu-trĩ, tức là còn bán khai, chưa tiến-hoá.
Dịch-học gọi là Lưỡng-nghi
(Lưỡng nghi tức là hai ngôi Âm Dương), cũng gọi là Kiền khôn.
Hai ngôi tác-dụng lên nhau
thì có biến-hoá. Sự biến-hoá ấy giống như một tế-bào cứ tăng gấp đôi lên: một
sinh hai, hai sinh bốn, bốn sinh tám. Khoa-học gọi là theo luật song tiến-số. Dịch-học
gọi là Lưỡng-nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát quái, Bát-quái biến hoá vô
cùng mới thành ra Kiền-Khôn thế giái.
Biến-hoá lần này là qua
hai giai-đoạn: thêm âm, thêm dương lên ngôi Dương thành ra hai nét dương
gọi là Thái-dương số 1, lấy Dương làm gốc,
cho một âm đặt lên dương nữa sẽ có dạng làgọi Thiếu-âm số 2.
Bấy giờ đến ngôi Âm biến-hoá
cũng như trên, lấy âm làm gốc, thêm dương lên sẽ có một dương một âm gọi là Thiếu-Dương số 3, tiếp-tục thêm âm sẽ
có hai âm gọi là Thái Âm số 4. Lưỡng-nghi
sanh Tứ-tượng là lần biến-hoá ở giai đoạn này, tức nhiên hai nghi sinh được 4
tượng là Thái dương số 1, Thiếu-âm số 2, Thiếu dương số 3, Thái-âm số 4. Gọi là
tượng, tức là tượng hình, mỗi tượng chỉ có hai vạch thôi.
Vạn-vật biến-hoá không ngừng,
thế nên Tứ tượng cũng biến-hoá theo qui-tắc như trên. Tức nhiên lần này Tứ tượng
biến Bát-quái, gốc Tứ-tượng vẫn đặt ở dưới, Ví như:
Thái-dương qua hai lần
thêm dương, thêm âm lên trên thành ra lần đầu có 3 nét dương tạo thành quẻ KIỀN Kiền vi Thiên (Kiền là trời) là quẻ số 1.
Lần sau thêm lên nét âm
thành quẻ ĐOÀI tức là có một Âm trên hai
Dương. Đoài vi Trạch số 2. Trạch là hồ, đầm, ao…
Thiếu-âm cũng qua hai lần
thêm dương, thêm âm thành ra quẻ LY Số
3, Ly vi hoả (ly là lửa), tiếp theo là quẻ Chấn vi Lôi số 4, CHẤN là sấm.
Thiếu-dương cũng qua hai lần
biến sẽ có quẻ số 5 là TỐN Tốn vi phong
(Tốn là gió). Quẻ số 6 là Khảm vi thuỷ, KHẢM (Thuỷ là nước).
Bát-quái là Kiền, Đoài,
Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Vì sao phải học dịch, vì
Càn Khôn là hai cánh cửa để đi vào Đạo Dịch. Kinh Đại-Đạo ngày nay luôn hiển hiện
hai chữ CÀN KHÔN:
Lại nữa những phương pháp
chế tác Nhạc cũng như tạo ra các Nhạc khí, nhạc cụ đều dùng đến cách án Tam
tài, Bát phương, Bát hướng… đâu đâu cũng hiển hiện tinh thần Dịch-lý trong đó.
Dịch là trọng yếu của môn Âm Nhạc Cổ truyền Việt-nam đó vậy..
Kinh Phât Mẫu:
Càn Khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.
……
Càn khôn tạo hóa sánh tài,
Nhứt triêu, nhứt tịch kỉnh bài mộ khang.
II - NGHI THỨC CHỈNH ĐỐN LÒNG NGƯỜI TRƯỚC ĐÃ
LỄ là những phép tắc qui củ
được đặt ra hay là tập quán của xã hội. Nghĩa rộng Lễ còn là quyền chính của
nhà vua cùng cách tiết chế của nhân dân và cả những việc thích-hợp với cái lẽ
công chính-đính của đạo-lý và lẽ thích-nghi của sự-lý.
LỄ còn là cái thực của
Nghĩa. Lễ tự đối với từng người là những qui củ đặt ra buộc thân-xác phải theo
để tới mục-đích chính-đính và bền-bĩ của mình. Lễ còn là những cái tự khắc-phục
chính thân mình để khỏi ra ngoài tập-quán của cái Lễ thi-hành, để hàm-dưỡng cái
tính-tình của đồng-loại, giữ mực trung mà xử-kỷ tiếp-vật, tức là tự xử với mình
và tiếp người vậy.
Thế nên, Thánh-nhân mới đặt
ra Lễ để ngăn giữ cái tình cảm của người ta cho có chừng mực, không nên có lúc
thái-quá, lại có khi bất-cập.
Khổng-Tử nói rằng: “Cung
nhi vô lễ tắc lao, thận nhi vô lễ tắc tứ, dũng nhi vô lễ tắc loạn, trực nhi vô
lễ tắc giảo.” Nghĩa là: Cung kính không có Lễ thì nhọc, cẩn thận không có lễ
thì khiếp sợ, Dũng mà không có lễ thì loạn.
Tính thẳng mà không Lễ thì
ngang-ngạnh, nên kẻ vũ-dũng mà không có Lễ ắt là kẻ vũ-phu mà làm loạn. Trong
cuộc mạnh lớn mà không có Lễ thì ắt lắm điều càn bậy nên người Quân-tử coi cuộc
mạnh-mẽ to lớn mà không phải Lễ thì không bước chân vào vậy.
Phu-Tử lại nói rằng: “Phi
lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động.” Tức nhiên:
không phải Lễ chớ trông, không phải Lễ chớ nghe, không phải Lễ chớ nói, không
phải Lễ chớ động.
Như ở đây nói rõ là: Không
phải Lễ chớ bước vào.
Người Quân-tử trong lúc thời
mình đang mạnh-mẽ lớn-lao như vậy, tài đức lớn lao thì tới đâu hay thi-hành gì
ai mà chẳng phục, chẳng hanh-thông? Những nơi không phải Lễ thì không bước chân
vào. Trong cuộc Đời, người Quân-tử xử-kỷ, tiếp-vật như vậy tỏ rõ là có một nghị-lực
tự-chủ mạnh-mẽ to lớn biết là dường nào! Có thể ngăn-cản ép mình theo ý-muốn của
mình mà không bao giờ phóng đãng theo vật-dục. Như những kẻ vũ-phu có cái lực
năng cử đỉnh, sức đánh muôn người, ra trận thì bách chiến bách thắng mà tâm
mình vẫn chưa được chính. Như Nã-phá Luân cứng mạnh thế mà cũng thành mềm-yếu
bên cạnh nàng Joséphine. Trụ-vương sức địch muôn người mà cái trí chỉ xiêu về với
nàng Đắc-Kỷ.
Thử hỏi lỗi ấy do ai? Do
nàng Joséphine chăng? Do nàng Đắc-Kỷ chăng? Ngẫm cũng buồn cười: Người ta đẹp,
người ta quyến rũ với sắc nước hương trời ấy thì mặc người ta, can chi tới
mình, mà đắm, mà lụy rồi đổ cho tại “Đàn bà”! Chỉ có thắng mình không được mà tự
làm lụy cho mình, mà làm cho “Ngửa nghiệng chín bệ, gập-ghình ba châu” là tại
các Ông chứ sao lại đổ là tại Đàn bà đẹp?
Cái vũ-dũng của những đấng
nhân-quân đó cũng chỉ là những sức mạnh đè-ép được người mà chưa có thể tự đè
ép được mình, cho nên mới bị cái nạn vong-quốc.
Cái sức mạnh to lớn không
chính-đính có thể mất được mà cái trí óc của đứa thất-phu khó lòng cướp nỗi.
Cho nên cái trí của đấng Quân-tử to-lớn mạnh-mẽ lắm thay, không cần trị người
mà tự trị mình được thì ắt người phải trị được. Ôi! những lời răn của
Thánh-nhân cao xa lắm thay!
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét