LỄ dĩ địa trần minh định nhơn gian tôn trật tự,
NHẠC do Thiên tác tuyên thông thế giới chủ điều hòa.
"
禮 以 地 塵 明 定 人 間 尊 秩 序
樂 由 天 作 宣 通 世 介 主 調 和 "
(Hai Câu
liễn đặt trước cổng Bộ nhạc trung ương
Tòa-Thánh)
Nói về LỄ NHẠC đã minh định tôn chỉ và lập trường đến một mức độ thật
quan trọng vô cùng:
- LỄ xuất phát từ nơi cõi
trần này để làm sáng tỏ đức độ của con người phải biết tôn trọng sự trật tự, lớn
nhỏ phân minh
- NHẠC do thiên nhiên tác
động để truyền bá rộng rãi khắp toàn cầu với mục đích duy nhất là sự điều hòa.
Ngày nay Đức Chí Tôn mở Đạo
Cao Đài lấy NHO TÔNG chuyển thế mà Đạo Nho lấy LỄ NHẠC làm trọng LỄ NHẠC Là HỒN
Đạo phải được xem là yếu trọng vậy.
THAY LỜI TỰA
Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân nói
về Lễ Nhạc:
Năm Đinh-Mão (1927) Ngài
Cao Quỳnh Diêu thọ phong Tiếp Lễ Nhạc Quân, có phận sự sắp đặt Lễ nghi và Âm nhạc
trong việc cúng tế trong Đạo.
Đầu năm 1929, Ngài Tiếp-Lễ
Nhạc-Quân Cao Quỳnh Diêu vâng lịnh Hội-Thánh, đặt ra 3 Bài Dâng Tam Bửu (Dâng
Hoa, Dâng Rượu, Dâng Trà), có dâng lên Bát Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ chỉnh
văn lại, để thay thế 3 bài Dâng Tam Bửu cũ đã dùng lúc mới mở Đạo. Đồng thời
Ngài cũng vâng lịnh Đức Hộ Pháp viết bài Tán tụng công đức Diêu-Trì Kim-Mẫu.
Năm này, trong lúc Ngài
Cao-Quỳnh-Diêu còn ở phẩm Tiếp-Lễ Nhạc-Quân, Ngài viết quyển “NGHI TIẾT ĐẠI ĐÀN
& TIỂU ĐÀN” với mục đích chỉnh đốn Lễ Nhạc trong các Đàn Cúng Vía Đức
Chí-Tôn và các Đấng Thiêng liêng cho đúng theo qui cách tốt đẹp, đạt được sự
trang nghiêm để áp dụng thống nhứt trong Đạo Cao-Đài, dâng lên Đức Hộ Pháp duyệt
xét rồi chuyển qua Hội Thánh.
Hội-Thánh xem xét đồng ý
và Đức Quyền Giáo Tông ban hành, kể từ ngày 17-6 Canh-Ngọ (dl 12-7-1930) áp dụng
thống nhứt cho tất cả các Thánh-Thất.
Trong quyển “Nghi Tiết Đại
Đàn & Tiểu Đàn” nầy, Ngài Tiếp-Lễ Nhạc-Quân Cao Quỳnh Diêu hiệu là Mỹ Ngọc,
có viết Lời tựa như vầy:
“LỄ là một việc rất trọng
hệ, vì là cái hình thể của nền Đạo phô bày ra trước mặt người.
Chư Đạo-hữu cần phải để
công xem sóc nhắc nhở nhau mà gìn giữ tư cách trong mỗi khi hành Lễ cho trang
hoàng, hầu tỏ tấc lòng thành kỉnh của mình cùng Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật
Thánh Thần, lại cũng là một phương châm về đường Phổ-độ nữa Mỗi khi chúng ta
hành Lễ, thì người ngoại Đạo sẵn ý xem vào mà phân biệt Tà Chánh một ít của nền
Đạo trong đó, vì Đạo là việc nhiệm mầu huyền bí rất sâu xa, người ngoài nào thấu
đặng? Duy có chăm nom cách cử chỉ của chúng ta trọng kỉnh các Đấng thế nào, thì
đủ cho người vẽ ảnh Đạo ra thế nấy mà thôi.
NHẠC cũng là một việc cần
yếu, vì là phương làm cho đầm ấm tao nhã cốt để dìu dẫn giúp cho thành Lễ ra vẻ
long trọng, vì đã che lấp các việc xao động trong cơn hành Lễ, trên thì hiến
cái vẻ tiêu tao phù trầm cho các Đấng, dưới là làm cho chúng ta, vì nghe đặng
cái giọng tao nhã, nhặt khoan, hoặc có lúc vì tiếng nhạc trổi mà lòng ta vẫn
hân hoan mà quên bẵng cái mỏi mệt trong cơn hành Lễ hoặc có khoản vì cái thức
phù ba của giọng đờn mà làm cho ta yên tịnh, mới có thể thiền tâm vọng cầu các
Đấng cho thấu đáo.
Có câu phương ngôn của bậc
hiền triết miền Âu châu rằng: “La musique adoucit les moeurs” lại có nói Nếu muốn
biết sự tấn hóa của một sắc dân, sau sẽ trở nên thế nào, thì duy có xem trong
nét văn-chương và nghe giọng Nhạc của sắc dân ấy cũng đủ hiểu trước.
Huống chi Đấng Chí-Tôn ra
công khó nhọc khai sáng cho ta một nền Đại-Đạo như vầy, lại dìu dẫn ta từ bước,
mà ta lại chẳng để hết tâm chí chấn-chỉnh nghề Nhạc cho hoàn toàn hầu gìn giữ
đường tấn hóa cho nền Đạo sao?
Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 20-4-Kỷ Tỵ (1929)
Tiếp Lễ Nhạc Quân Mỹ Ngọc
Đầu năm Canh Ngọ (1930),
Ngài Cao Quỳnh Diêu được thăng phẩm Bảo Văn Pháp Quân chánh vị đặng chỉnh đốn Lễ
Nhạc cho hoàn toàn, cho tới ngày thành Đạo.
Chương I
1 - THÁNH-LỊNH cho CHỨC SẮC BỘ NHẠC
(Đức Hộ Pháp đã để lời phổ
hóa trong cuộc phát THÁNH-LỊNH cho CHỨC SẮC BỘ NHẠC đi hành Đạo Nam, Trung, Bắc
và Kiêm-Biên Tông đạo ngày 18-7 Quí Tỵ - 1953.)
Đức Hộ Pháp Thuyết:
"Thưa cùng Chư Vị cầm
quyền các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.
Hôm nay Bần-Đạo đến dự lễ
nầy trọng yếu đặng mừng cho cả Chức sắc Bộ Nhạc lãnh sứ mạng chỉnh đốn cả Lễ-Nhạc
y theo chơn truyền của Đạo.
Các Em, mấy đứa nhỏ, Thầy
lấy làm vui mừng thấy cả tâm đạo của mấy Em biết chọn một con đường lập thân
danh khéo léo. Qua thường nói với mấy em rằng: Nếu một nền Tôn-giáo mà không có
LỄ, không có NHẠC thì cả cái mỹ pháp của nó, dầu Thể Pháp, Bí Pháp cũng vậy, chẳng
hề khi nào đặng tốt đẹp hoàn mỹ.
Qua có giảng cho mấy em biết,
vì cớ nào Nhạc là Lễ, mấy em biết khuôn khổ của Nhạc do tinh thần xuất hiện,
Qua chỉ rõ một bằng chứng, dầu cho cả thảy mấy em trong Nhạc-Sĩ cho tới chức lớn
của Bộ Nhạc là Tiếp Lễ Nhạc Quân, mấy em cầm một cây đờn mà đờn thì không có đứa
nào giống đứa nào hết, bởi cả tinh thần ra trong ngón đờn của mấy em, đó là cá
nhân của mấy em đó vậy.
Ấy vậy, Nhạc nó sản xuất
trong tinh thần, mà tinh thần là gì? Tinh thần mới thiệt là Đạo.
Tại sao Nhạc là Lễ?
LỄ ngoài đời mấy em ngó thấy một bằng cớ hiển
nhiên, là khi mấy em đờn hòa cùng nhau, tuy ngón đờn của mấy em mỗi đứa đều
khác, hay dở đặc biệt mỗi đứa đều không giống nhau, nhưng mà cái nhịp trường canh mấy Em phải theo nó mà thôi, nếu không tùng nó thì mấy Em chẳng hề
khi nào hòa NHẠC cùng kẻ khác được.
Ấy vậy trong khuôn khổ HÒA với nhau, ấy là LỄ.
Vì cớ cho nên Qua giảng tiếp cho mấy Em hiểu, LỄ
NHẠC do âm thinh đó vậy.
Ngộ nghĩnh thay! Giờ phút nầy Qua cho mấy Em biết,
chỉ có dân tộc Việt-Nam về văn hóa Nho-Tông của chúng ta mới có đặng một cái NHẠC
là đều do nơi âm thinh và điều Qua đương nói với mấy Em, cái kinh dinh của các
sắc dân trên mặt địa cầu nầy, cả các quốc dân xã hội đều nhận điều đó. Nước
Trung Hoa hay các sắc dân chịu ảnh hưởng cái văn minh tối cổ của Nho-Tông chúng
ta mới có NHẠC, âm thinh ấy là LỄ.
Bằng cớ hiển nhiên, chính Qua đọc một tờ nghị
luận tại nơi Liên-Hiệp-Quốc, họ luận rằng: Nếu cả thảy các dân tộc nơi mặt địa cầu nầy mà đặng gìn giữ cho còn LỄ cũng như nước Tàu đã được LỄ tối cổ của họ, cả những điều nghịch hẳn cùng nhau, khởi hấn cùng
nhau giữa hội nghị của Liên Hiệp Quốc chẳng hề khi nào xảy ra, nếu có xảy ra là
tại họ vô lễ cùng nhau mà chớ.!
Do nơi vô lễ ấy mà nhơn loại
chịu thống khổ hai phen Đại-chiến hoàn cầu. Mấy Em nghĩ, họ vô lễ cùng nhau cho
đến nước họ đập bàn ghế ra khỏi Hội-nghị của Quốc-tế là tại họ thiếu LỄ, mà LỄ
là NHẠC. Qua lấy một bằng cớ rõ ràng, người Pháp đã nói:“La Musique Adoucit les
Moeurs”.
NHẠC làm cho phong hóa
luân lý tốt đẹp dịu dàng, mà không phải một mình nước Pháp mà thôi, cả các liệt
quốc Âu Châu đều cũng nói.
Ấy vậy, giờ phút nầy Qua
ký Thánh Lịnh cho mấy Em đi các nơi, cốt yếu đặng mấy Em đem cái ngôn ngữ điều
hòa, lấy một ống tiêu mà Trương-Lương đã làm cho tan vỡ một đạo binh hùng tráng
của Hạng Võ, đánh tan nát cơ nghiệp của Sở, thâu đạt cơ nghiệp ấy đem lại cho
nhà Hớn duy có ống tiêu Trương-Lương mà thôi.
Giờ phút nầy Qua giao cho
mấy Em một sứ mạng làm sao cho thiên hạ nghe ống tiêu Thiêng Liêng của mấy Em đặng
tinh thần nòi giống mấy Em đứng dậy định tương lai vinh-quang cho mình với cái
giọng ngọt dịu của mấy Em, làm cho thiên hạ thức tỉnh, diệt tiêu bớt hung hăng
bạo ngược, trái lại đem đến một con đường hòa hưỡn, cao quí, tốt đẹp, êm dịu,
đem lại cái đạo đức tinh thần chiến thắng để cứu vãn sanh mạng loài người.
Bởi giờ phút nầy họ đang
đi đến con đường diệt vong mà chớ”.
2 - Bài Huấn Dụ của Đức Thượng Sanh về NHẠC
BÀI HUẤN DỤ của Đức Thượng
Sanh đọc trong buổi Lễ Bổ nhiệm Chức sắc và nhơn viên Bộ Nhạc Trung Ương Tòa
Thánh Tây Ninh. Ngày 29-6-Canh Tý (dl 24-5-1960).
Kính thưa chư Chức sắc Hiệp
Thiên và Cửu Trùng, chư Đạo hữu.
Hôm nay, Hội Thánh Hiệp
Thiên-Đài lấy làm hài lòng đến chứng kiến Ban Cai Quản Bộ Nhạc Trung ương nhơn
dịp ông Tiếp Lễ Nhạc Quân ban hành Huấn Lịnh của Hội Thánh giao phó trách nhiệm
cho mỗi chức phẩm và nhơn viên của Ban nầy.
Riêng tôi, tôi lấy làm vui
và mãn nguyện được thấy một sự tiến bộ khả quan và tôi hy vọng vị Tiếp Lễ Nhạc
Quân và Chức sắc cùng nhơn viên của Bộ Nhạc, cũng như Bộ Lễ, sẽ tận tâm chung sức
nhau để trau giồi và nâng cao nền LỄ NHẠC của Hội Thánh về hình thức cũng như về
tinh thần.
Mỗi Chức sắc và mỗi vị đều
rõ biết, LỄ NHẠC là rất quan hệ và trọng yếu cho đời và cho con người, cũng chẳng
khác chi món ăn và thức mặc vậy. Các Đấng Thánh nhân thời cổ tìm cái căn nguyên
cao xa và tôn quí của LỄ NHẠC ở trong đạo tự nhiên của Trời Đất và cho rằng: LỄ
là cái trật tự của Trời Đất, NHẠC là cái điều hòa của Trời Đất.
Võ trụ nhờ có LỄ NHẠC mà tồn
tại, vạn vật trong Trời Đất nhờ có LỄ NHẠC mới có trật tự phân minh, thời tiết
thuận lợi, Âm Dương luân chuyển, khí tính điều hòa mà giúp cho cơ sanh hóa.
Nói cách khác, LỄ NHẠC của
Trời Đất tức là cách sắp đặt của Đấng Tạo hóa, làm cho vạn vật được có vị trí
phân minh không sai đường, không đổi hướng: hết Xuân qua Hạ, Thu mãn kế Đông về,
mưa nắng tùy theo mùa, gió sương tùy theo tiết, hết ngày tới đêm, hết tối tới
sáng, nhựt nguyệt tuần tự chuyển luân, phân phối Âm Dương điều hòa, ấm lạnh thế
nào cho cỏ cây được sởn sơ, mùa màng được kết quả.
Cơ quan sanh hóa của người
và vật nhờ đó mà tồn tại và tiếp diễn mãi. Cái trật tự và cái điều hòa làm cho
vạn vật sanh tồn. Đó tức là LỄ NHẠC của Trời Đất vậy.
Thánh nhơn mới nhơn đó chế
ra LỄ NHẠC để làm căn bản trong sự dạy người và trị thiên hạ, khiến người ta cư
xử hành động sao cho hợp Nhơn đạo, tức là hợp với Thiên lý.
Vì lẽ đó, đối với các bậc
Đế Vương đời trước, LỄ và NHẠC có cái địa vị rất là trọng yếu về đường chánh trị.
“LỄ tiết dân tâm, NHẠC hòa dân thạnh”, là dùng Lễ để tiết chế lòng dân, dùng Nhạc
để hòa thanh âm của dân.
Cái hay của LỄ là làm cho
có sự cung kính, giữ trật tự phân minh. Cái hay của NHẠC là tạo sự điều hòa khiến
cho tâm tánh tao nhã. Nhạc và LỄ phải dung hòa với nhau thì mới được hoàn toàn,
vì nếu có LỄ mà không có NHẠC thì người ta đối xử với nhau phân biệt, mất tình
thân ái; còn có NHẠC mà không có LỄ thì thành ra thiếu trật tự, khinh lờn nhau.
Vậy có LỄ tức phải có NHẠC
để kềm chế nhau cho có điều hòa và phân biệt.
Đức Khổng-Tử tin sự dùng Lễ
Nhạc có công hiệu rất lớn, nên Ngài nói rằng: “Quân tử minh ư Lễ Nhạc, cử nhi
thố chi nhi dĩ” có nghĩa là: người quân tử biết rõ Lễ Nhạc, chỉ đem thi thố ra
là đủ. Vì Lễ thì khiến sự hành vi bên ngoài, Nhạc thì khiến tâm tình bên trong.
Cái cực điểm của Nhạc là hòa, cái cực điểm của Lễ là thuận. Nếu bên trong mà
tính tình điều hòa, bên ngoài sự hành vi thuận hợp nghĩa lý, thì cái tà tâm vọng
niệm thế nào còn chen vào được lòng người ta nữa.
Trái lại, nếu Lễ mà không
kính, Nhạc mà không hòa, thì dầu bề ngoài có giữ đủ các lề lối thì cũng không
có ích lợi cho sự tiến hóa của con người.
Lập nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
lúc ban sơ, Đức Chí-Tôn lấy Lễ Nhạc làm gốc. Đức Chí Tôn chỉ dạy từ bước chơn
đi LỄ phải thế nào, cho tới hòa tấu những bản Nhạc nào mà thường nhắc nhở Chức
sắc nếu Cúng Đàn mà Lễ Nhạc không nghiêm thì chỉ để cho tà quái xung nhập, chứ
các Đấng thiêng liêng không chứng.
Vậy các Chức sắc và nhơn
viên trong Bộ Nhạc cũng như Bộ Lễ, nên hết lòng sốt sắng với nhiệm vụ, gắng lo
trau giồi nghệ thuật cho tới chỗ tận thiện tận mỹ, để nâng cao tinh thần của nền
Đạo.
Nơi một Đàn cúng mà Lễ Nhạc
được trang nghiêm thì Đàn cúng được bao trùm, có thể nói là một bầu quang tuyến
thiêng liêng huyền diệu, khiến cho chúng ta tưởng tượng là có Đức Chí Tôn và
các Đấng Tiên Phật giáng đàn để chứng kiến lòng thành của chúng ta và ban ơn
cho chúng ta.
Trái lại, nếu LỄ không
nghiêm, NHẠC không hòa, thì Đàn cúng dường như có cái tâm trạng hỗn loạn, nô
đùa, khiến người quì cúng có cái tâm trạng xao xuyến, bần thần, bất mãn. Lập
Đàn cúng như vậy, chúng ta chẳng những thất lễ mà còn đắc tội với Đức Chí Tôn.
Ngoài ra, có người ngoài
hay người của các Tôn giáo khác dự kiến, chúng ta lại làm hạ phẩm giá nền Đại Đạo,
đó là chúng ta chất thêm tội lỗi nữa.
Thành thử, nhiệm vụ của Chức
sắc và nhơn viên Bộ Nhạc cũng như Bộ Lễ lấy làm quan trọng và công quả của mấy
vị đối với Đức Chí-Tôn là một công quả cao quí, chẳng phải tầm thường.
Đức Chí-Tôn có nói và tôi
cũng thường nhắc nhở chư Đạo hữu về mặt Đạo, không có công quả nào cao, công quả
nào thấp. Kẻ chịu lao tâm, người chịu lao lực, lao tâm hay lao lực đều hướng về
một mục tiêu là giúp ích cho Đạo, làm nên cho Đạo. Thế thì sự phục vụ dầu về
phương diện nào và dưới hình thức nào, đều có cái giá trị Thiêng liêng duy nhứt
của nó. Cao hay là thấp là do nơi cái tâm của ta, do nơi có sự thành thật hay
không mà thôi.
Ấy vậy, hướng về tiền đồ đại
nghiệp của Đạo, tôi xin toàn thể Chức sắc và nhơn viên Bộ Nhạc và Bộ Lễ lấy hết
chí thành thi hành phận sự đắc lực để phục vụ Đức Chí Tôn và phụng sự cho nền
Chánh giáo, hầu ngày sau để tên tuổi nơi sử Đạo và lập vị xứng đáng ngày công
viên quả mãn.
Tòa Thánh, ngày 29 tháng 4 Canh Tý (dl 24-5-1960).
THƯỢNG SANH
CAO HOÀI SANG
3 - LỜI ĐIỀU TRẦN:
Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân Cao
Quỳnh Diêu có viết
LỜI ĐIỀU TRẦN để dạy các học
sinh học Nhạc Lễ nơi Lễ Nhạc Đường vào năm Nhâm Thìn (1952) như sau đây:
Yếu lý thuộc về Giáo khoa
Lễ Nhạc hầu thành lập Chương trình để un đúc tinh thần cho học sinh, tượng
trưng phép điều hòa nơi cửa Đại Đạo.
NHẠC: vốn là một Đạo pháp
rất thâm u, đã có trước buổi Khai Thiên, vẫn là một từ khí thông công với luồng
điện-thoại truyền tấu khắp Càn Khôn chiêu tụ chơn hồn cả vạn vật.
Khi thành lập các địa giới,
biến sanh đủ muôn loài, rồi thì vạn linh hấp thụ lấy năm âm của thức nhạc mà tỏ
vẻ Hỉ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Dục riêng của mỗi loại. Nhưng do theo luật công bình
thiêng liêng thì buổi sơ sanh của vạn loại cả thảy đều tự khởi với cái giọng đớt-đát
thô-bĩ. Chừng tìm hiểu được cái lẽ nhiệm mầu của Trời Đất, nhơn loại mới lần hồi
trau luyện sửa đổi cho ra thanh tao trong giọng nói, giúp thêm tinh vi cho
khuôn lễ, tiến hóa cho đến khi phù hạp tánh cách thiên nhiên với nhau mới có cộng
hưởng phép điều hòa, mà xây dựng nền phong hóa riêng của mỗi quốc dân; hồn nước
do nơi đó mà phân định cao thấp. Ấy là Đạo pháp để gầy nên cơ hiệp chủng y theo
triết lý của Lễ Nhạc đã cạn giải.
Nguồn cội của phép điều
hòa đã tìm được mà tin dùng văn từ buổi cổ thời do nơi Đức Hiên Viên Huỳnh Đế.
Khi Ngài ngự chế ra Lễ Nhạc,
Ngài để ý nghe thấy sự hỗn hợp của Bát hồn: Bào, Thổ, Cách, Mộc, Thạch, Kim,
Ty, Trúc, tuy là khác giống nhau mà có thể tỏ ra vẻ hòa âm. Từ ấy, Ngài cứ bình
tâm định trí để tìm hiểu lẽ nhiệm mầu của luật thiên nhiên. Chừng rõ thấu cơ mầu
của Trời Đất, Ngài mới tùy nơi hình thể của thức hồ cầm (tục gọi là đờn tỳ bà)
có vẻ trạng thái Thiên triều: đôi bên tả hữu có dây văn dây võ, trên có Tứ
Thiên Vương, dưới có Thập Điện Quân. Ngài nương theo kiểu mẫu ấy gầy nên quốc vận,
như Ngài đã thành lập một quốc gia.
Về nội dung: nơi triều
đình có văn biền để bỉnh chánh, nơi biên cương có võ bị để ngừa loàn, xây dựng
nên một quốc thể đủ vẻ nghiêm trang, thuần túy.
Về ngoại dung: Ngài đào tạo
nên tổng, làng, hương đảng có đủ tánh tình ôn hậu để giáo hóa lê dân với tư
cách điều hòa. Toàn trong nước, cả quan dân đều cộng hưởng thái bình, thành thử
trong buổi nọ, nhờ nơi đó mà Kinh Lễ và Kinh Nhạc xuất hiện, mà hễ hai bộ Kinh
Lễ và Kinh Nhạc được ra mặt dìu đời tức là Nho-Tông đã sáng lập.
Tiếp theo là phép an dân của
Đức Hiên Viên Huỳnh Đế, về sau có vua Nghiêu vua Thuấn là hai bậc Thánh Đế đều
noi theo gương ấy mà làm cho cuộc thế rất nên điều hòa, cả lê thứ thảy đều được
an cư lạc nghiệp. Từ ấy đến nay, thời gian đã trải qua trên bốn ngàn năm mà
nhơn vật trong thế kỷ 20 nầy vẫn còn để tâm hoài vọng cho thời cơ điều hòa của
phép Lễ Nhạc buổi nọ được tái vãng.
Như thế thì buổi hiện thời,
trong hàng trí giả còn có ai là chẳng biết rằng LỄ NHẠC vốn là hai quan điểm đặc
sắc để khởi dẫn bước đầu tiên cho nhơn loại, lần hồi gầy mối cảm tình nhau mà
đoạt được phép điều hòa, nhứt là trong buổi loạn lạc nầy, cả nhơn loại toàn cầu
đều chịu thống khổ nguy nan, còn có chi hay để cải sửa cơ đời cho bằng phép ấy.
Các Đấng thiêng liêng hay gợi nhắc chúng ta nên dùng pháp mầu của Nho-Tông để
chuyển thế là bởi đó.
Luận giải dường ấy thì
chúng ta đủ rõ thấy rằng: nét hưng vong của một quốc vận, nhục vinh của một chủng
tộc, suy thạnh của một gia đình, nên hư của một cá nhân, cuộc cờ đời biến đổi
trở day đều do nơi đó cả thảy. Hà tất chúng ta nơi cửa Đạo Trời, vẫn có nhiệm vụ
thật hành phép điều hòa trong cửa Đại Đạo để làm khuôn mẫu trước hết cho nòi giống
Việt Thường theo bước, hầu gây nên Quốc Đạo theo mấy câu văn của Đức Chí Tôn đã
dạy:
QUỐC ĐẠO kim triêu thành Đại Đạo,
NAM-PHONG thử nhựt biến Nhơn phong.
An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn,
Văn hóa tương lai lập Đại đồng.
Vậy thì hai quan điểm của Lễ Nhạc, chúng ta cần phải giồi trau cho có vẻ
thuần túy, để tượng trưng phép điều hòa thế nào cho xứng đáng một gương trong để
soi sáng vẻ Đạo hạnh cho toàn cả Việt dân dõi chước, làm cho vạn bang nhìn nhận thì Quốc Đạo
chúng ta tự gầy nên rồi Đại Đạo tùy đó mà hoằng khai trong các nước.
Muốn giải rõ hơn nữa thì
thức Nhạc của hiền xưa đã gầy nên vốn để trạng thái vẻ thanh âm của phép điều
hòa cho nhơn loại làm gương soi mình, hầu giồi mài trong lời lẽ cho có âm giọng
thuần hòa thanh tao âm điệu. Vậy thì trước nhứt mấy em Lễ sĩ, Nhạc sĩ cần phải
sẵn có học biết nhiều ít về văn chương, ngôn ngữ mới có đủ hầu sắp đặt theo thứ
tự khép và lâm giọng của Nhạc-pháp, ngôn từ mới âm điệu, lời lẽ mới thanh tao,
mà nói năng cho vừa lỗ tai người trong khi giao tiếp với nhơn quần xã hội để tượng
trưng phép điều hòa y theo nguyên pháp của Đại Đạo.
Vì LỄ NHẠC là Đạo-pháp điều
hòa của Đấng Hóa công đã gây nên để un đúc tinh thần cho nhơn loại hầu khêu gợi
gieo rắc sự cảm hóa với nhau mà lập thành cơ hiệp chủng, cũng vì đó quốc-dân
Pháp thường nói: La musique adoucit les moeurs. Nghĩa là: Âm nhạc để giúp đời
được thuần phong mỹ tục.
Dường ấy thì những Chức-sắc
có trọng trách dìu dẫn Nhạc sĩ và Lễ sĩ, chúng vẫn là đoàn em sẽ có nhiệm vụ thể
hình Lễ Nhạc, chư vị cần phải do theo trình độ cao thấp của chúng mà gây nên, cần
nhứt là tùy phương châm mà tạo lập lấy chương trình Nhạc Lễ cho có mục văn
chương, trạch cử một vị Giáo-sư để dạy về văn từ, nhưng phải liệu lượng thế nào
cho vừa với trí não của đoàn em mà dẫn lối, chúng nó mới có đủ tinh thần mẫn đạt
mà tập rèn hầu lần hồi tiến bước vào nghệ thuật cho có vẻ thanh cao.
a/ - Về NHẠC PHÁP:
Vậy thì cứ thể hình Nhạc
pháp hai phương Văn Võ khác nhau: các thức đờn đều thuộc về Văn ban, vì có sẵn
bản của hiền xưa đã sắp đặt. Trong mỗi bản đều có lớp có lang tùng theo nhịp
nhàng nội ngoại ứng biến mà diễn tả bài Nhạc của nghệ sĩ thế nào cho có đủ câu
Âm câu Dương đúng với niêm thức của bản, mới có thể hòa âm với các giống đờn
khác, chẳng khác nào như các nhà văn sĩ cần chủ tâm, tùy nơi âm vận, niêm, luật,
phá, thừa, trạng, luận, chuyển, kết, cho đúng mà hành văn mới tác thành những
áng thi phú văn từ đáng giá.
Hơn nữa, Nhạc sĩ cần phải
thấu hiểu rằng: tuy nhà văn sĩ đã chung họa thi văn với nhau trong một đề chủ,
nhưng tinh thần trong bài văn đều do nơi khí phách riêng của mỗi người, tùy nơi
tâm chí cao thấp mà biến tướng, nhờ đó mà ngoại nhân rõ thấy tài hay dở của văn
sĩ. Nghệ thuật của Nhạc sĩ cũng vẫn dường ấy, vì cũng do nơi giọng đờn thanh
cao tao nhã hay là thô bỉ sượng sùng mà người nghe hiểu được trình độ tiến hóa
của Nhạc sĩ là thế nào.
Khó hơn nữa là dầu cho thức
đờn hay dở thế nào cũng đều phải khép vào khoảng mau chậm của nhịp do nơi lá
phách của ban võ lược, tức là cặp trống và đồ ngang đã ra ni, mới có vẻ rập
ràng của các giống đờn.
Cặp trống Nhạc và các món
như: mõ, bạc, trống cơm, bồng, kèn, v.v..., tục gọi là đồ ngang, đều đứng vào
ban Võ lược vì cả thảy đối chọi với nhau mà xây dựng nên nhịp, mỗi món vẫn có
phận sự riêng, khi thì minh, lúc lại ẩn, phải tùy cơ ứng biến cho đúng phép mà
làm cho rập ràng nhau mới vững đặt nhịp nhàng.
Nói tóm tắt là cả hai bên
Văn ban, Võ bị đều phải tương đắc với nhau, giọng hòa Âm của thức Nhạc mới có
thể trợ giúp vẻ trang nghiêm cho cuộc lễ.
b/ - Về LỄ PHÁP:
Theo Lễ pháp thì Lễ sĩ phải
thấu hiểu rằng: Lễ đã dạy kỹ, bước bằng chữ Tâm 心 tức là giữ trọn tấm lòng thành, đi đứng có mực thước, tùy theo nhạc chầu 7
lá phách mới bước vào một bước, ấy là trạng thái bước LỄ đi đứng có vẻ tề chỉnh,
còn hiến dâng Tam bửu: Bông, Rượu, Trà, tức là tạm dùng ba món để thể hình:
Tinh, Khí, Thần, nghĩa là chúng ta hiến lễ cho Đấng Chí-Tôn với tấm lòng chí
thành thường chứa ba tôn chỉ của Tam giáo là: Bác ái, Công bình và Điều hòa,
tương tự như nơi cơ bí truyền có thể hình tam giác đóng khuôn bao quanh lương
tâm (huệ nhãn).
Tóm tắt cả ý nghĩa là
trong mỗi cuộc Lễ hiến cho Đức Chí-Tôn hoặc các Đấng thiêng-liêng hay là các bậc
Tiền Hiền đã quá vãng, cả hành vi của mấy em Lễ sĩ và Nhạc sĩ biểu diễn vốn để
tượng trưng cái phép cư xử theo LỄ cho nhơn loại dõi chước.
Nếu muốn yên vui với nhau
nơi cõi tạm nầy, nhơn loại cần phải cộng sự với nhau bằng tấm lòng thành thật,
tâm hằng giữ vững ba món báu là:
- Yêu đương với nhau,
- Đoan chánh với nhau,
- Hòa nhã với nhau, hầu được
tránh khỏi mọi nỗi sai lầm với nhau trong bước đường đời. Ấy là đúng theo Thánh
ý của Đức Chí Tôn, vì Chí Tôn đã có dạy chúng ta nhiều lần với câu Thánh giáo nầy:
- “Chẳng cần chi hơn là Thầy
thấy các con để tâm hòa nhã với nhau. Đó mới thật là Lễ long trọng các con hiến
cho Thầy”.
Mà đó cũng là ba tôn chỉ của
Nho, Thích, Đạo, do nơi thi văn Đức Kim Mẫu đã dạy rằng:
THI
Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,
Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Đường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Đạo tầm.
Những yếu điểm nầy, chẳng
những để cho Nhạc sĩ, Lễ sĩ tìm hiểu đặng trau luyện nghệ thuật, mà toàn người
trong Đại Đạo cũng cần phải chú tâm về đó, hầu giồi mình cho đắc pháp mới đáng
gọi là Môn đệ của Đức Cao Đài Thượng Đế.
c/ - KẾT LUẬN:
Lời lẽ Tiểu Dẫn nầy, tuy
sơ lược, song cũng có nhiều ít ý nghĩa nhiệm mầu của phép Lễ Nhạc. Vẫn có thể
được dễ hiểu cho các Chức sắc và mấy em học sinh nơi Lễ Nhạc Đường.
Vậy xin chư vị nên ký tâm
về mấy lời vắn tắt nầy. Nếu muốn cho đoàn hậu tấn học tập Lễ Nhạc cho rập ràng
thì rất dễ, còn trau luyện nghệ thuật cho ra vẻ thanh cao (nghĩa là được thanh
tao và cao thượng) để dẫn lối thuần phong mỹ tục cho Việt chủng là việc rất
khó, ta cần phải un đúc đoàn em về văn từ cho nhuận thấm thì nghệ thuật của
chúng mới trở nên thuần túy mà biểu diễn trong các cuộc lễ, mà cũng vẫn có đủ
tánh cách nho nhã cho mấy em, trong khi ra ngoài tương tiếp với nhơn quần xã hội,
đáng mặt một học sinh nơi Lễ Nhạc Đường của Đại Đạo, vì Lễ Nhạc là hai quan điểm
đặc sắc của Nho tông để đoạt phép điều hòa nâng cao hồn nước.
Chư vị phải để ý cẩn thận
về đó cho lắm mới khỏi hổ lòng với lời Thánh giáo của các Đấng thiêng liêng đã
dạy câu: Nho tông chuyển thế nơi cửa Đại Đạo.
Làm tại Trung Tông Đạo Tòa Thánh Tây Ninh.
Ngày 1 tháng 8 Nhâm Thìn (dl 19-9-1952).
BẢO VĂN PHÁP QUÂN
Cao Quỳnh Diêu (ấn ký)
4 - LỄ NHẠC là hai điều trọng hệ của Đức Chí-Tôn.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết đạo tại
Bộ Nhạc-Lễ đêm 16- 09 Canh Dần (1950) lúc 8 giờ 40 tối. Trong buổi tiệc của Nhạc
sĩ Tân-Khoa.
“LỄ NHẠC là hai điều trọng
hệ của Đức Chí-Tôn. Khi Ngài đến vẫn chú ý về hai điều ấy, chúng ta cũng vẫn biết,
nền Đạo Cao-Đài là Nho-Tông chuyển thế, thì tức nhiên của toàn cả xã-hội nhơn
quần nơi mặt địa cầu này nhờ Đạo Nho sửa đoan chỉnh đốn thiên hạ lại, chúng ta
thấy xã hội tinh túy đạo đức của họ dường như đảo ngược lại khủng hoảng tinh thần
mà ra vậy.
Nho đạo đã lập xã hội ở Á
Đông từ Tam Hoàng qua tới nhà Châu rồi Ngài Châu Công chỉnh đốn Tân Dân.
Lễ Nhạc sản xuất do nơi Huỳnh
Đế với Châu Công; Ấy vậy mình phải biết Nhạc khi nào cầm cây đờn, năm mười cây
hòa lại nó một giọng thì tức nhiên chữ Hòa do nơi Nhạc sanh ra vậy.
Lễ Nhạc do nơi âm thinh, bởi
thế nên chúng ta thấy Vạn Quốc giờ phút nầy, dầu văn minh thế nào mà hiểu đặng
nền tăng tiến của Trung-Hoa thì đều khen ngợi. Từ thử đến giờ, trên mặt địa cầu
này, có nước Tàu là do Đức Khổng-Phu-Tử chỉnh đốn hoàn bị nên Lễ Nhạc có phương
thế làm môi giới, làm khí cụ cho toàn vạn quốc đương buổi nầy. Lấy tư cách lễ độ
làm ngoại giao, tưởng chắc không nghịch nhau, chúng ta thấy tấn tuồng của vạn
quốc họ đều thất lễ ấy, mà thế giới khởi chiến tranh.
Mấy em Nhạc tự biết mình
chẳng phải làm nghề sơ lược của bọn đờn thổi ngoài đời như họ vậy, thành ra hèn
hạ, còn nếu muốn biết tánh cách quan trọng của nó thì dở lịch sử ra xem mới biết,
dầu nước văn minh nào ở mặt địa cầu nầy cũng không thể cải bỏ Nhạc được.
Mấy em phải biết cái tinh
túy mà người ta có thể đo lường Nhạc cao thấp mà hiểu được, vì cớ cho nên mỗi
nước có bản Quốc-thiều. Qua nói cùng mấy em rõ, giờ phút nầy mấy em cầm cây đờn,
giữ giá trị riêng để tự trọng lấy mình. Qua nói rõ hồi lúc Qua học đờn tài tử,
Qua đờn không cần ai khen, không sợ ai chê, hễ cầm cây đờn lên giọng đều như
nói chuyện về tinh thần với cây đờn của mình, nhứt là Đức Cao Thượng Phẩm sanh
tiền buổi nọ, lấy cây đờn mà làm bạn thiết, hết thảy ngôn ngữ thường tình đều
khinh rẻ. Qua nghe từ ngôn ngữ của Nhạc, Qua biết nó là bạn tri âm, tri kỷ, cao
thâm hoạt bát của nó, nên lấy trí luận thì từ trước kia Bá Nha là bạn tri âm của
Tử Kỳ, biết tri kỷ đặng để làm gương. Hễ cầm cây đờn thì phiêu phi ở giữa lừng
trời. Nhiều khi tiếng đờn hợp với tinh thần, thấy dường như tượng trưng ra khỏi
xác thân để giúp tinh thần cường liệt vô đối, cái năng lực của cây đờn là ấy vậy,
kẻ ngoài bàn luận, phê bình tánh cách hòa nhã mà thôi, mình biết tinh túy của
mình, trọng hay khinh là do nơi mình, nếu mình biết trọng thì họ trọng, nếu
mình biết khinh thì họ khinh, mấy em tưởng tượng nghe đờn của mấy em, giờ phút
nầy mấy em có thể nghĩ nó có giới hạn và có thể làm bạn với ta.
Từ thượng cổ, từ bực yếu
trọng, họ nói là bạn với nó vậy, chí hướng tự trọng của nó, từ trước kia những
bực tiền nhân của chúng ta là bạn thế nào, thì ngày nay chúng ta cũng làm bạn
như thế ấy. Mấy đứa thi đậu kỳ nầy, con đường Thánh Thể của Đức Chí-Tôn đã mở rộng
cho mấy em cứ khoan thai bước tới. Qua để hy vọng tương lai kẻ nào cầm vận mạng
của nó phải biết giá trị và tánh chất hòa hợp với tiếng đờn yểu điệu, hiền từ,
lịch lãm, khí khái của mấy em đã đào tạo. Ngày kia nó có giá trị và ảnh hưởng
cho cả Quốc hồn là cây đờn của mấy em, nó sẽ là tương lai vận mạng của nước, nhớ
từ đây sắp về sau phải biết tự trọng lấy mình, mà biết tự trọng lấy mình thì
sau thiên hạ mới trọng mình vậy”.
5 - Hôm nay Bần Đạo giảng về ý nghĩa Lễ Nhạc.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Từ thử ai cũng cho âm
thanh sắc tướng là tà mị, mà căn bản của Đạo Nho là Lễ Nhạc mà chính Đạo Tam Kỳ
là Nho Tông chuyển thế thì phải truy tầm nguyên lý của nó mà xác nhận cho đúng
nghĩa là thế nào?
Đôi phen chúng ta không hiểu
được cho uyên thâm khi dâng lễ cho Chí-Tôn lúc Nhạc Tấu Quân Thiên, hết lớp trống,
qua đến Bảy bài thì lâu quá có khi phải chồn chân rồi nản chí, chính Bần Đạo
cũng vậy vì nghĩ rằng: Chí Tôn tư vị quốc dân Việt Nam nên tiền định chi chi
cũng làm gương mẫu cho toàn Đại-đồng Thế giới mà có Lễ Nhạc nầy luôn luôn khi
dâng Lễ thì ý nghĩa ấy ắt cao trọng lắm là phải.?
Bởi cớ nên khi mới Khai Đạo,
Bần-Đạo đến tại Thánh Thất Thủ Đức của ông Thơ tạo lập, Bần Đạo không tin nên hỏi
Đức Lý Giáo Tông, Ngài dạy rằng, trên Ngọc Hư Cung có hai câu liễn:
Phía hữu: Bát hồn vận chuyển
ca Huỳnh Lão.
Phía tả: Vạn vật đồng
thinh niệm Chí Tôn.
八 魂 運 轉 歌 黃 老
萬 物 同 聲 念 至 尊
Bần-Đạo cũng không hiểu là
gì, lần lần Bần-Đạo hỏi nữa, Bần-Đạo lại được dạy mà hiểu rằng:
“Kể từ phôi thai Càn Khôn
vạn vật nầy, Chí Tôn là khối sanh quang, biến thành hai khối sanh khí, hai khối
ấy trụ lại thành một khối lớn tương hiệp nhau mới nổ sanh tiếng Âm, người ta gọi
là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Đạo Phật sửa lại thành Úm (Úm ma ni bát rị hồng )
nhờ tiếng nổ ấy Bát hồn mới vận chuyển biến sanh vạn vật và loài người.!
Tiếng ấy bay ra nghe đến
đâu thì khí sanh quang đến đó tức là có sự sống đến, bằng chẳng nghe được thì
nơi ấy tiêu diệt nghĩa là chết mất mà thôi. Bởi cớ nên dùng những vật Bát âm,
nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn là tấm da trâu đã chết mà với sự khôn
ngoan của loài người nó mới có tiếng kêu được tức là làm cho nó sống lại được,
nghĩa là Bát hồn ấy vận chuyển sống lại mà đảnh lễ Đức Chí-Tôn, vì cớ nên khi
nghe Nhạc Tấu Quân Thiên là có âm thinh sắc tướng, song hiểu xác lý: Khi dâng lễ
Chí Tôn qui pháp định, thấy và nghe cả Bát Hồn vận chuyển dâng cái sống cho
Ngài.
Nên chi từ đây, khi Nhạc Tấu
Quân Thiên chúng ta xem quí hơn dâng Tam Bửu, dầu phải lỡ đi nửa chừng trong Đền
Thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn xộn thì lễ ấy giảm điều
kính trọng dâng cho Chí-Tôn mà không nên.
Khi ấy là vận chuyển Bát hồn
đảnh lễ Đức Chí Tôn, vì cớ Lễ Nhạc hiểu rõ lại thì Chí-Tôn không phải là tư vị
nước Việt-Nam mà chính nghĩa là làm cho sống lại Bát hồn và Ngài vẫn vui nhận lễ
ấy. Ấy vậy mới có thể làm chủ và làm gương cho toàn nhơn loại được, thì danh ấy
không phải là quá đáng.
Xin khuyên toàn Đạo từ đây
nên để trọn tâm mà kính trọng khi Nhạc Tấu Quân Thiên”.
6 - NHẠC TẤU QUÂN THIÊN 樂 奏 壎 天
Đức Hộ-Pháp giảng giải rằng:
Bên Á Đông, trong nền Đạo
Cao Đài có trống có chuông, còn bên Âu Châu có chuông mà không có trống là tại
sao? Tại sao Á Đông dùng trống còn Âu Châu dùng chuông?
Trống là âm thinh của Đạo.
Thuở chưa có càn khôn vũ trụ, Đạo giáo có dạy: Hai lằn nguơn khí đụng lại nổ ra
khối lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái Cực. Chủ ngôi Thái Cực là Đức Chí Tôn. Khi
nào Trời sét nổ, chúng ta nghe sao? An Nam mình kêu “Ầm” còn theo Đạo pháp kêu
“Ùm”, vì cớ phép Phật sửa lại là “úm” (Úm ma ni bát rị hồng) câu ấy đọc có
nghĩa là nắm cả quyền năng vũ trụ quản suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra
sao? Khi nổ rồi còn nghe tiếng bay xa, nguyên căn của tiếng nổ là tiếng trống,
còn giọng ngân là tiếng chuông.
Ấy vậy nguyên căn của Đạo
Giáo do bên Á Đông nầy, có tiếng trống ngân bay qua Âu Châu, nên các Đạo giáo
Âu Châu đều là hưởng ứng theo Phật Giáo mà Phật Giáo xuất hiện nơi Á Đông. Vì vậy
mà các nền tôn giáo phụ thuộc không đúng theo nguyên tắc căn bản.
Còn tại sao khi vô làm lễ,
lúc “Nhạc Tấu Quân Thiên” tức là lễ hiến dâng sự sống cho Đức Chí Tôn là Thầy của
cả càn khôn vạn vật, Bần Đạo thường nhắc nhở tất cả phải đứng ngay ngắn, nghiêm
chỉnh. Nhạc là hưởng ứng của cả khối sanh quang, của càn khôn vạn vật đồng
thinh. Nơi Á Đông có câu “Biều, Thổ, Cách, Mộc, Thạch kim dữ Tư Trước nãi bát
âm”.
Các vật vô năng mà nói đặng
có trật tự niêm luật hòa nhau là đạt đạo, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là
âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc Hư Cung
có đôi liễn:
“Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão.
“Vạn vật đồng thinh niệm Chí Tôn.”
Khi nhạc trổi, cả thảy phải
im lặng, hiến cả âm thinh sự bí mật ấy gọi là Phi Tướng Lễ, chủ ý là trình tấu
với Đức Chí Tôn rằng :Các con biết được mầu nhiệm nguyên căn của Cha lành muốn
cho các con nối nghiệp theo một khuôn phép trường tồn. Lễ đó trọng hệ như dâng
Tam Bửu vậy. (TĐII/80)
7 - Quyền hành Tiếp Lễ Nhạc Quân.
Tiếp Lễ Nhạc Quân là một
phẩm Chức sắc cao cấp, thay quyền cho Bảo Văn Pháp Quân, Chưởng quản về Nhạc và
Lễ, Khách Đình và Nhà thuyền.
(Tiếp: Nhận lấy, đón nhận,
tiếp rước. Lễ Nhạc: lễ nghi và âm nhạc trong cúng tế. Quân: người, ông)
Phẩm Nhạc Sư, phẩm cao cấp
nhứt trong Bộ Nhạc, sau 5 năm công nghiệp đầy đủ, được cầu thăng lên phẩm Tiếp
Lễ Nhạc Quân khi phẩm nầy bị khuyết.
Phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân được
cầu thăng lên phẩm Bảo Văn Pháp Quân khi phẩm Bảo Văn Pháp Quân bị khuyết.
Nhạc Sư đối phẩm Giáo-Sư Cửu-Trùng-Đài,
còn Tiếp Lễ Nhạc Quân thì đối phẩm với Phối Sư Cửu-Trùng Đài.
Chú giải Pháp Chánh truyền
có dạy:
“Ngoại Pháp-Chánh-Truyền,
dưới quyền Hộ-Pháp thì còn Bảo-Văn Pháp-Quân (Art et Belles Lettres), trước Thầy
phong đỡ làm Tiếp Lễ Nhạc Quân, nay đã vào chánh vị, đặng chỉnh đốn Lễ Nhạc lại
cho hoàn toàn cho tới ngày thành Đạo”.
Phận sự của Tiếp Lễ Nhạc
Quân được Đức Phạm Hộ Pháp ấn định trong Thánh Lịnh số 23 ngày 22-4 Quí Tỵ (dl
14-5-1953) khi thăng cấp cho Nhạc Sư Võ Văn Chở lên làm Tiếp Lễ Nhạc Quân.
Đây nguyên văn Thánh Lịnh
nói trên:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Nhị thập bát niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
HỘ PHÁP ĐƯỜNG
Văn phòng
---ooo---
Số: 23
THÁNH LỊNH
HỘ PHÁP Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp
Chánh Truyền;
Chiếu y Đạo Luật ngày 16
tháng Giêng năm Mậu Dần (Dl 15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho
Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị.
Chiếu y Thánh Lịnh số 23,
ngày 27 tháng 1 Nhâm Thìn (Dl 22-2-1952) ân tứ cho Nhạc Sư Võ Văn Chở được
thăng phẩm Tiếp Lễ Nhạc Quân.
THÁNH LỊNH
Điều thứ 1: Phận sự của Tiếp
Lễ Nhạc Quân Võ Văn Chở được gia tăng như sau nầy:
1 . Chưởng quản Khách
Đình.
2 . Cai quản Ban Tổng Trạo
và toàn nhơn viên Đạo Tỳ.
Điều thứ 2: Người trọn quyền
sắp đặt và phân công trong các Ban Lễ, Nhạc và Trạo cho mỗi vị, các tư kỳ phận.
Tiếp Lễ Nhạc Quân là chủ sự
tang tế thì mỗi khi có Lễ, Lễ Viện Hành Chánh và Lễ Viện Phước Thiện phải cho
người hay liền.
Điều thứ 3: Tiếp Lễ Nhạc
Quân được phép giữ tài chánh của Lễ Nhạc Viện và cầm sổ sách thâu xuất cho phân
minh mọi khoản. Sổ nầy mỗi cuối tháng phải có Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh và Lễ
Viện Phước Thiện chấp thuận và ký tên mới đủ lẽ.
Điều thứ 4: Quyền Ngọc
Chánh Phối Sư, Chưởng quản Phước Thiện, Tiếp Lễ Nhạc Quân, Phụ Thống Lễ Viện
Hành Chánh, Phụ Thống Lễ Viện Phước-Thiện, Cai quản các Ban Lễ, Nhạc và Trạo,
các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 22 tháng 4 Quí Tỵ (14-5-1953).
HỘ PHÁP
(ấn ký)
Trong quyển LỜI PHÊ của Đức
Hộ Pháp, nơi trang 15, Đức Phạm Hộ Pháp có phê như sau:
“Lễ sĩ, Giáo nhi, Nhà thuyền
với nhơn viên Nhà thuyền là thuộc quyền của Tiếp Lễ Nhạc Quân quản suất, còn
đào huyệt thuộc về phần nhơn viên dưới quyền Nhơn Quan Đạo tỳ.”
Nhiệm vụ của Tiếp Lễ Nhạc
Quân được Đức Phạm Hộ Pháp qui định là:
- Cai quản các Ban, Bộ: Bộ
Nhạc, Ban Lễ sĩ, Ban Giáo nhi và Đồng nhi.
- Chưởng quản Khách Đình.
- Cai quản Ban Nhà Thuyền,
Ban Tổng Trạo và toàn nhơn viên Ban Đạo Tỳ.
Tiếp Lễ Nhạc Quân là chủ về
Tang Tế nên được phép giữ tài chánh của Lễ Nhạc Viện, làm sổ thâu xuất phân
minh.
CHƯƠNG II
I - Thánh giáo Thầy dạy về Nhạc Lễ.
Ngày 18-5-Bính Dần.
(dl 27-6-1926)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI
GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG
Nhơn, con phải khởi sự kể
từ ngày nay cho tới bữa Ngọc Đàn Vĩnh Nguyên Tự, tập Nhạc đủ lại hết. Như nhập
Lễ thì đừng đánh trống Bát Nhã, mà đánh Ngọc Hoàng Sấm, nghĩa là mỗi hồi 12 tiếng,
đổ xuống đủ 12 hồi, 3 lần như vậy.
Bạch Ngọc Chung cũng dộng ấy.
Khi nhập Lễ xướng “Khởi Nhạc”
thì phải đánh trống và đờn Bảy bài cho đủ.
Chừng hiến Lễ, phải đờn
Nam Xuân ba bài, vì Lễ Sanh phải hiến lễ bảy lái, đi chữ Tâm 心. Tới khi thài, thì đờn “Đảo Ngũ Cung”, rồi con lại bắt đầu đờn lại, cho
chư Môn đệ tụng kinh.
Lịch, Tân-Luật con lập có
Thầy giáng đủ Lễ hết. Vậy con truyền cho chư Môn đệ đặng chúng nó y theo mà
hành lễ.
Nghĩa, con phải học xướng
cho thuộc làu.
Biểu, Đức cũng vậy. Ba con
phải nhớ lời Thầy dặn cho kỹ nghe.
Mấy đứa con là: Nghĩa, Hậu,
Đức, Tràng, Cư, Tắc, Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo thứ lớp như vầy:
Nghĩa, Đức đứng xướng
ngoài, là tại bàn thờ Hộ Pháp; rồi Hậu, Tràng đứng cập kế đó; kế ba con sau rốt
hết: Tắc giữa, Cư mặt, Sang trái.
Còn ba bàn thờ trong thì
biểu Lịch lập như vầy:
- Giữa Thượng Đàn,
- Hữu Ngọc Đàn,
- Tả Thái Đàn.
Còn Thánh vị của chư Môn đệ
đã dĩ vãng thì tùy theo phái nó mà sắp kế theo bàn thờ Thầy.
Kỳ, Kim hầu xướng nội, là
bàn thờ trong, biểu chúng nó đứng như vầy:
Kỳ bên mặt, Kim bên trái.
Còn Bản, Giỏi, một cặp Lễ
Sanh đầu, đi giữa với một cặp nữa là Tỷ với Tiếp.
Tả thì Nhơn với Tương, hữu
thì Giảng với Kinh.
Lập ngoài cho đủ ba bàn vọng,
đều để chư Lễ Sanh hầu.
Chừng nào nội xướng, thì để
cho Lễ Sanh điện lễ, cúng vật thì để sẵn ngoài ba bàn; chừng Lễ Sanh xướng, thì
đem vô cho mấy vị chức sắc hiến lễ.
Trung, con phải cậy hai vị
Lão thành Minh Đường hầu trong đặng tiếp lễ Thượng Đàn, Ngọc Đàn thì Kinh và
Chương, còn Thái Đàn ngày ấy Thầy lựa.
Cười...
Minh, Thầy sẽ dạy nó đến.
Cười...
Ba bàn ngoài, thì mỗi bàn
phải có hai viên chức sắc hiến lễ.
Tương và Tươi tại giữa Thượng
Đàn.
Muồi và Vân bên Ngọc Đàn,
còn Thái Đàn ngày ấy Thầy định.
Cười...
Bản, đứng dậy. Thầy vẽ đi
chữ Tâm là sao, rồi Thầy mới dạy tiếp đặng.
(Phết trước mấy dấu ngón
chơn mặt, giơ lên, phết qua một cái đặng làm cái chấm... Đứng hai chơn cho
ngang nhau... Con phết đi, đứng thụt lại.)
Cư, con đi cho nó coi con.(1)
Các con coi Thầy đi đây nè.!
Hiểu lấy nước, con.
Con đi thế nào thành hai
chữ Tâm lộn ngược như vậy. Cư đi trúng, đi lại nữa con.
Cư, giỏi con, phải vậy,
như con muốn cho ra bộ lịch sự, thì khi chấm gót, con nhún bộ xuống một chút.
Cười...
Giỏi, Bản ... Thầy tiếp.
Đọc lại Nghĩa.
Như ngoại xướng điện
“Trà”, “Quì”, Chức sắc đồng quì dưng Trà lên khỏi đầu.
Một cặp Lễ Sanh đầu ở giữa
hầu đặng cầm song đăng bước lên. Khi xướng “Quì”, thì cũng phết chơn trái đá
chơn mặt, quì xuống cho đều với ba cặp Lễ Sanh kia; chừng trống nhạc đổ, thì lần
lần đứng dậy cho đều, day mặt vào Bửu Điện.
... Phải vậy con... Hễ đứng
dậy rồi, xây mặt vào Chánh Điện, để song đăng và cúng vật xuống ngay ngực; chừng
trống đổ lần thứ nhì, cung lên; nhạc lại khởi, thì xem nhịp mà đi bảy lái; chừng
ấy Thầy dặn Nhơn nó nhịp lại cho các con đi.
Cười...Con Trung, con phải
giữ y như Tân Luật mà hành Lễ.”
(1) Đây là điểm mà Ngài Bảo-Văn nói Đức Chí-Tôn nhập
vô xác Đức Thượng-Phẩm dạy Ngài Cư đi Lễ chữ Tâm.
II - LỄ NHẠC ĐẠI- ĐẠO 禮 樂大道
* Nhạc hành lễ
* Nhạc Đại đàn và Tiểu đàn
tại Đền Thánh
* Nhạc cúng Tứ thời tại Đền
Thánh
* Nhạc cúng Đại đàn tại
Báo Ân Từ
* Nhạc cúng Tứ thời tại
Báo Ân Từ
A- Nhạc hành lễ 樂 行 禮
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Lục Thập Bát Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Kính gởi : Chư vị Chánh Phó trưởng phiên Nhạc
1,2,3.
Chức sắc, chức việc và
nhân viên thuộc ban Nhạc Tòa-Thánh.
Chánh yếu
Về việc cúng Đại Đàn, Tiểu
Đàn và Tứ thời hai nơi Đền-Thánh và Báo-Ân-Từ.
Xin nhắc lại để đồ theo
khuôn mẫu Lễ-nghi của các bậc Đại Đức tiền nhân ra công dạy dỗ Nhạc, Lễ, Kinh kệ
buổi sơ khai, hôm nay chúng ta phải gia tâm chỉnh đốn cho y khuôn mẫu để khỏi
phần thất lễ.
Nhạc hành lễ là âm nhạc diễn
tấu trong Đại đàn và Tiểu đàn khi cúng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Sau đây là bài của Nhạc Sư
Trần Thiện Niệm, cai quản Ban Nhạc Tòa Thánh, gởi cho các Chánh Phó Trưởng
Phiên Nhạc, Chức sắc và nhân viên Bộ Nhạc, để thi hành về phần Âm nhạc trong Đại
đàn, Tiểu đàn và Tứ thời khi cúng Đức Chí Tôn tại Đền Thánh và cúng Đức Phật Mẫu
nơi Báo Ân Từ.
B - Nhạc Đại đàn và Tiểu đàn tại Đền Thánh:
1 - Toàn thể Chức sắc Chức
việc tới Đàn vía phải mặc phẩm phục Chức sắc của mình. Đại đàn thì mặc Đại phục,
Tiểu đàn thì mặc Tiểu phục, không có phẩm cấp thì không được ngồi vào băng Bán
nguyệt, khi lên lầu Hiệp Thiên Đài đảnh lễ xong là 11 giờ 35 phút.
2 - Gần tới giờ hành lễ,
ban Nhạc phải ngồi vào băng Bán nguyệt, là nơi hành lễ trước 15 phút mà lo chu
đáo các món Nhạc khí của mình. Đại đàn thì ở Nghinh Phong Đài và lầu Bát Quái
Đài, Tiểu đàn thì tại lầu Hiệp Thiên Đài.
3 - Khi Chức sắc và toàn
thể nhập đàn đến Hiệp Thiên Đài thì Nhạc không khua động, chuyện vãn, thử kèn
chi cả, do lễ đài báo hiệu.
4 - Nhạc chấp sự các môn
chánh phải là vị Chức sắc quan trọng hơn, nghiêm chỉnh thi hành, vì trước Đại
điện Chí-Tôn, Chức sắc phải trọng vọng khiêm cung đảnh Lễ.
5 - Trống Tiếp Giá phải là
vị Trưởng ban y căn bản thủ vĩ phân minh. Các môn phụ phải tế nhị khiêm nhường,
giọng kèn oai linh không lệch lạc. Tới đờn 7 bài, hay 5 bài, hay 3 bài, cần
thúc lẹ.
6 - Từng Hương, không đờn
quá lơi và không đờn lớp trống Xuân, tới kinh Niệm Hương và Khai Kinh, đừng đờn
cho đọc kinh lơi quá, lệch chữ Kinh cùng ảnh hưởng đến toàn thể mỏi mệt và giảm
tinh thần Tín ngưỡng. Đờn Nam xuân cho đọc Kinh Ngọc-Hoàng và Tam giáo, đờn giữ
mức trung bình, lẹ quá mất giọng Xuân, cũng không đờn lớp trống xuân, vì lớp trống
xuân, Đức Chí-Tôn đã tiền định rồi.
7 - Trống lập ban: đổ trống
nhuyễn nhẹ ngắn, chờ gài thủ các môn phụ mới tiếp vào để không lấp câu xướng
cũng không trễ lạy (nhứt là chờ nơi Lễ đài báo hiệu).
8 - Trong ba tuần Dâng Tam
bửu, không đổi người nhằm thủ vĩ bất động phách. Đàn nội tôn nghiêm gìn tiền hậu
luật y nhứt mẫu khiến đàn nội không bị phóng tâm.
9 - Thượng Tấu Sớ Văn: câu
sớ quan trọng, điểm trống tỏ ý uy linh, kính cẩn hơn; câu trung bình thì điểm
trung bình. Phần sớ (đốt sớ) có uy linh, trống chuyển qua thét.
10 - Trống lập ban: ba lạy
xong gài trống vô đờn lớp trống xuân tụng kinh Ngũ Nguyện, lạy xong dứt trống lập
ban.
11 - Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài
nhập Nội nghi và Hộ Đàn Pháp Quân, Tả Hữu Phan Quân nhập Nội nghi, bái xong dứt
trống lập ban, trở thét trung bình. Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài đi về tới chỗ, tiếng
kiểng đổ, toàn thể đứng lên xá, rồi bày ban đứng chờ.
12 - Toàn thể nghe tiếng
chuông bãi đàn, nhạc gài thái bình, tiền bần hậu phú, tiễn bước Chức sắc đi ra,
Nhạc dứt, tịch, ấy là đàn tràn viên mãn.
C - Nhạc cúng Từ thời tại Đền Thánh:
1 - Khi lên từng lầu Hiệp-Thiên-Đài
thì ban nhạc đảnh lễ một lượt cho rập ràng. Còn 10 phút trước khi khởi lễ thì
ngồi vào băng bán nguyệt, soạn lên dây đờn nhỏ nhẹ, cần nghiêm túc thủ lễ tỏ sự
tôn kính vì là trước đại điện.
2 - Đúng giờ hành lễ,
chuông nhứt, nhạc rao đờn, Chức sắc, Chức việc và toàn đạo tới cấp Hiệp-Thiên-Đài
thì nhạc đờn bài Hạ.
3 - Kế tiếp chuông nhì, Chức
sắc, Chức việc đồng xá, vào ngồi thì dứt bài Hạ. Nhạc liền ra Ai, chuông thỉnh
Thánh vừa xong là khởi đờn Nam ai, Giáo nhi và đồng nhi tụng kinh Niệm Hương. Lạy
xong, tiếp tụng bài Khai Kinh. Hai bài giọng Nam ai nầy, đừng đọc kinh lơi quá,
khiến tiếng kinh lệch lạc không đúng chữ Kinh và không đúng giọng nếu đờn lơi,
cũng không đờn lớp mái Nam ai trong đờn kinh nầy.
4 - Tới đờn Xuân, Giáo nhi
và đồng nhi tụng bài Ngọc Hoàng Kinh và luôn trong các bài kinh giọng Xuân nầy,
không lẹ quá mà mất phù ba của giọng xuân, cũng không xen lớp trống xuân vì lớp
trống xuân thể pháp đờn cho Năm câu nguyện, đặng dứt thời cho cúng đàn mà thôi.
5 - Tới đờn Dâng Tam bửu,
Giáo nhi đồng nhi chờ qua nhịp mới thài, đều đúng câu đờn nào cũng vậy. (Lời dạy
của Đức Phạm Hộ Pháp vì chánh pháp môn nhịp điệu).
6 - Thời cúng có Dâng Sớ,
khi mãn thài thì đờn bài Hạ, tùy mau chậm, dứt để đọc sớ. Khi phần sớ, nhạc rao
xuân, lạy 3 lạy xong thì nhịp vô lớp trống xuân đọc Ngũ Nguyện, dứt thì trở đờn
bài Hạ. Nếu có Chức sắc Hiệp Thiên-Đài lên Nội nghi lạy thì chờ, khi về tới chỗ
thì đứng lên bài ban, Nhạc và Giáo nhi đồng nhi lạy. Nghi lễ kệ chuông bãi đàn.
7 - Cúng thời Ngọ, Nhạc
còn đờn để Giáo nhi và đồng nhi tụng kinh Tuần Cửu, khi dứt kinh đến niệm Câu
chú của Đức Chí Tôn, nhạc không được đờn nhái theo mà được đờn xuân tới cho ăn
nhịp mà thôi.
8 - Mỗi thời cúng Đức Chí
Tôn, Phật Mẫu, mỗi nơi có Chức sắc Bộ Nhạc để ủng hộ chư nhân viên trong thời
cúng được nghiêm túc, tôn kính của Nhạc Thánh đường, đối với lòng tín ngưỡng của
toàn đạo trong thời cúng, ấy là gương mẫu Nhạc của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vậy.
9 - Riêng về Chức sắc, Chức
việc cúng thời Tý tại Đền Thánh phải mặc áo Tiểu phục cho nghiêm trang hơn.
Mong chư Chức sắc Chức việc
chú ý khoảng nầy cho được chu toàn thiện mỹ.
D - Nhạc cúng Đại đàn tại Báo Ân Từ:
1 - Tới 11 giờ 35 phút,
ban nhạc lo chuẩn bị trước, nhứt là lo chỉnh soạn các môn nhạc khí và nhân viên
của mình.
Còn 15 phút đến 12 giờ thì
đến lễ bái mà ngồi vào băng bán nguyệt, so dây đờn nhỏ nhẹ, nhứt là kèn và trống
cơm, muốn thử kêu rõ ràng thì phải tại cơ sở của mình, còn đến giờ cúng thử nhỏ
cho biết ăn giọng âm thanh với đờn mà thôi.
2 - Lên trước Đại Điện
không được hút thuốc, nói chuyện ồn ào mất vẻ trang nghiêm, vì là nơi tất cả tịnh
tâm đảnh lễ, còn hút thuốc cũng là trược đối với thiêng liêng, hơn nữa khi đi
cúng cũng đã súc miệng sạch rồi.
3 - Các môn chánh của nhạc
phải là người có phẩm lớn và đạo hạnh mà làm chuẩn hướng.
Nhạc Tấu Quân Thiên, trống
gài đầu trung bình, bạc không phép lướt trống, vì thúc lẹ thì lớp và âm thanh
không phân minh, làm giảm uy hùng của Tiếp Giá. Còn đờn 3 hay 5 bài thì cần đờn
lẹ lên, nhớ tôn Thánh ý Đức Phạm Hộ Pháp, không hối thúc Tiếp Giá mà hối thúc đờn.
4 - Tới từng Điện Hương: đờn
xuân điện không đờn lơi, cũng không đờn lớp trống xuân. Khi lễ quì, toàn thể
nghe chuông thỉnh Thánh, nhạc rao đặng vô đờn Nam ai. Giáo nhi đồng nhi đọc
kinh Niệm Hương, đừng đờn đọc kinh lơi vì trong giọng kinh quá trầm, chữ kinh lệch
lạc, bổn đạo mỏi, giảm tín ngưỡng. Tới bài Khai Kinh cũng giọng Nam ai, hai bài
nầy cần thúc nhịp lại.
5 - Trống lập ban: trống
nhỏ ngắn gọn, các môn tum bạc kèn và phụ chờ gài thủ vô sau nghe đúng pháp, còn
đổ ồn lên một lượt làm lấp mất tiếng câu xướng của lễ sĩ, đổ kéo dài thời gian
làm mất một lạy của tập thể.
6 - Tới đờn Xuân, Giáo nhi
đồng nhi đọc Phật Mẫu Chơn Kinh, giữ mức trung bình, lẹ quá mất giọng Xuân,
cũng không đờn lớp trống xuân (vì như đã nêu ở phần trên), dứt, trống lập ban,
lạy.
7 - Lễ điện Tam bửu: qua
những lớp bài Hạ và trống thét, lớp trống thét không đánh mỏ, bạc lẹ quá mất điệu
thuần hậu trung dung, tới gài Đảo ngũ cung, giữ mực trung bình. Lễ tới Nội
nghi, tới thượng Tam bửu, Lễ sĩ đổi sang thì nhạc thúc mực trung bình mà thôi,
lẹ quá giảm giá nhịp điệu Nhạc Thánh đường.
8 - Trống lập ban, lạy, một
mình trống đổ nhỏ gài thủ thì các môn phụ lập vô thủ nhịp sau, còn đổ rầm lên lấp
xướng, trễ lạy lụp chụp có khi lễ phải chờ vì Lễ hưng Nhạc tác.
9 - Đến Thượng Tấu Sớ văn,
từ xây tá đến thét ngắn. Lưu ý tới câu sớ quan trọng thì điểm trống, tôn kính
uy linh hơn (đổ ro roi điểm ba), câu trung bình thì điểm trung bình (không ro
mà điểm ba). Tới phần sớ, đổ trống phần sớ có vẻ tôn nghiêm dâng uy hùng, tiếp
thét luôn. Lạy 3 lạy.
10 - Đến Ngũ Nguyện, gài
trống vô đờn, chừng mức hồi khởi đầu không lẹ không chậm (như đờn Xuân và Tiếp
Giá mới vô nhịp ban đầu) tới đây mới đờn lớp trống xuân với năm câu Nguyện, cuối
cùng tận tâm cầu đảo của toàn thể đặng mãn đàn. Khi 3 lạy xong, nghe chuông,
toàn thể đứng lên xá và đứng lưỡng ban.
11 - Nhạc còn trổi đều,
cho Lễ sĩ, Giáo nhi, đồng nhi, Trật tự, Kiểm đàn lạy, còn Nhạc khi mãn Năm câu
nguyện thì lo thi nhau mà lễ bái, đến đây đồng chờ tiếng kiểng và ba tiếng
chuông.
12 - Lễ sĩ xướng: Lễ
thành, nhạc đổ trống gài lớp thái bình, tiền bần hậu phú rồi dứt, tịch, mãn lễ.
E - Nhạc cúng Tứ thời tại Báo Ân Từ:
1 - Còn 20 phút tới giờ
cúng, Nhạc phải ứng trực sẵn, đến chừng còn 10 phút, Nhạc vô bái lễ, xong vào
băng bán nguyệt ngồi lên dây đờn nhỏ gọn và không nói chuyện ồn ào pha lẫn, thủ
lễ nghiêm túc.
Tới giờ, Chuông nhứt, rao
đờn vô bài Hạ. Chuông nhì, vô quì, dứt đờn bài Hạ, toàn thể nghe chuông thỉnh
Thánh, nhạc rao đờn vô Nam ai, Giáo nhi đồng nhi đọc kinh Niệm Hương (đừng vô đờn
và đọc kinh quá lơi). Dứt bài Niệm Hương, lạy 3 lạy. Tiếp đọc bài Khai Kinh.
Hai bài Nam ai nầy đọc quá lơi sẽ có nhiều chữ kinh lệch lạc.
2 - Dứt bài Khai Kinh, tiếp
đờn Nam xuân cũng không quá lẹ, Giáo nhi đồng nhi đọc Phật Mẫu Chơn Kinh, nếu lẹ
sẽ mất giọng phù ba của hơi xuân, nhạc cũng không đờn lớp trống xuân (như đã
nêu ở phần trên), dứt bài xuân, lạy 3 lạy.
3 - Nhạc rao Xuân nữ, vô đờn
Xuân nữ, đờn mức trung bình, nhứt là thuần túy thung dung pháp Nhạc Thánh đường
(chớ không phải cải lương sân khấu), Giáo nhi đồng nhi cũng không nên tụng bài
kinh Tán Tụng Công Đức Phật Mẫu kéo dài, ngược lại vì kinh đọc cúng không phải
nói lối của sân khấu mà tưởng sân khấu là phi pháp. Phi pháp là phi lễ.
4 - Mãn bài kinh đờn giọng
Xuân nữ, nhạc rao giọng Đảo, lạy 3 lạy xong, nhạc vô đờn bài Đảo, Giáo nhi đồng
nhi chờ qua một nhịp mới khởi thài. Ấy là ý thức của Đạo nghiệp.
5 - Ba lạy xong chờ gõ vô
nhịp trở đờn lớp trống xuân một lớp, Giáo nhi đồng nhi tụng Ngũ Nguyện, dứt bài
Ngũ Nguyện liền đờn bài Hạ, lạy 3 lạy xong, toàn thể đàn nội đứng lên. Nhạc dứt
đờn. Toàn thể đứng lưỡng ban. Giáo nhi đồng nhi và Nhạc đi lạy, nghi lễ đánh
chuông.
Lạy xong trở về vị trí.
6 - Nghi lễ kệ chuông bãi
đàn, bái mãn đàn.
III - Những phẩm tước về NHẠC tại Tòa-Thánh:
(Nhạc: Âm nhạc, âm thanh
có tiết tấu hòa nhau nghe êm tai, để nói lên một ý nghĩa. Sĩ: Học trò. Sư: thầy).
Nhạc Sĩ 樂 士 là người chuyên về Âm nhạc.
Nhạc Sư 樂 師 là bực thầy về Âm nhạc.
Nhạc Sĩ và Nhạc Sư là hai
phẩm Chức sắc trong Bộ Nhạc. Phẩm thấp nhứt là Nhạc Sĩ, phẩm cao nhứt là Nhạc
Sư. Nhạc Sĩ đối phẩm Chánh Trị Sự và Nhạc Sư đối phẩm Giáo Sư.
Muốn được vào phẩm Nhạc
Sĩ, người học nhạc phải qua một kỳ thi do Hội Thánh tổ chức và phải đậu kỳ thi
nầy, có cấp bằng của Hội Thánh. Khi đủ công nghiệp, Nhạc Sĩ phải thi lên Bếp Nhạc.
Thể thức thi Nhạc Sĩ: Biết
cầm một cây đờn và trọn hiểu nhạc khi có Tiểu đàn và Đại đàn, Nhạc trống Tiếp
Giá.
Thể thức thi Bếp Nhạc là:
Biết trọn nghi lễ và nhạc nghệ về tài tử.
A - BỘ NHẠC 部樂
A : Department of Music.
P : Département de Musique.
Bộ là một ngành. Nhạc: Âm nhạc. Bộ Nhạc là cơ quan chuyên môn đào tạo các Nhạc sĩ cổ nhạc của Đạo và tổ chức các Ban Nhạc
trong việc cúng tế và lễ nghi trong Đạo.
Bộ Nhạc và các phẩm Chức sắc
của Bộ Nhạc được chánh thức thành lập theo Thánh Lịnh số 25 của Đức Phạm Hộ
Pháp ký ngày 29-3-Tân Mão (dl 4-5-1951).
B - Nguyên văn Thánh Lịnh:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Nhị Thập Lục Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
HỘ PHÁP ĐƯỜNG
Văn phòng
---ooo---
Số: 25
THÁNH LỊNH
HỘ PHÁP Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp
Chánh Truyền;
Chiếu y Đạo Luật ngày 16
tháng Giêng năm Mậu Dần (15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ
Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị.
Chiếu y Sắc Lịnh số 51
ngày mồng 9 tháng 11 Bính Tý (22-12-1936) định phần phong thưởng cho Lễ Sĩ và
Giáo Nhi đầy đủ 5 năm công nghiệp;
Nghĩ vì Ban Lễ đã định phận
thì Bộ Nhạc cũng được hưởng đặc ân của Hội Thánh đặng tiến bước lập vị.
THÁNH LỊNH
Điều thứ 1: Trong Bộ Nhạc của Tòa Thánh có 9 phẩm ân phong như sau nầy:
1 - Nhạc sĩ 2 - Bếp Nhạc 3 - Cai Nhạc
4 - Đội Nhạc 5 - Quản Nhạc 6 - Lãnh Nhạc
7 - Đề Nhạc 8 - Đốc Nhạc 9 - Nhạc sư
Điều thứ 2: Bộ Nhạc chuyên chú về tài năng nghệ thuật thì từ hạ phẩm đến thượng phẩm,
mỗi cấp đều có khoa mục đặng tuyển chọn danh nhơn để điều khiển nội Ban.
Trong mỗi kỳ khoa mục, vị
nào đủ tài ứng thí thì được phép xin thi và mỗi khi thi đậu là mỗi lần được
thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thí vượt bậc.
Điều thứ 3: Nếu thi rớt vì không đủ tài thì ở lại phẩm cũ, chờ đủ 5 năm công nghiệp mới
được cầu ân phong.
Phẩm Nhạc Sư đủ 5 năm công
nghiệp thì thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân nếu có khuyết.
Điều thứ 4: Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với 9 phẩm của HIỆP-THIÊN-ĐÀI hay các phẩm
khác của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện.
Điều thứ 5: Chư vị: Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo, Khai Pháp Chưởng quản Bộ Pháp
Chánh, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Thượng Thống Lại Viện, Đạo Nhơn Chưởng quản
Phước Thiện, Phụ Thống Lễ Viện Hành Chánh, Phụ Thống Lễ Viện Phước Thiện, Nhạc
Sư Bộ Nhạc, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh, ngày 29 tháng 3 Tân Mão. (4-5-1951).
HỘ PHÁP
(ấn ký)
(*) Ghi chú:
Chỗ đối phẩm của Nhạc Sư trong Điều thứ 4 của Thánh Lịnh
nầy, có điều chỉnh lại đúng theo lời dạy của Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ trong
Đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 25-6-Nhâm Tý (dl 4-8-1972), xin xem bên dưới.
Khi trước, Điều thứ 4 trong Thánh Lịnh ghi là: Nhạc Sư
đối phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn (HTĐ), Phối Sư (CTĐ), Hiền Nhơn, Thánh Nhơn (CQPT).
Điều nầy trái với Điều thứ 3 bên trên: "Nhạc Sư có đủ 5 năm công nghiệp mới
được cầu thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân nếu có khuyết."
Vì có sự không khớp nhau giữa Điều thứ 3 và Điều thứ 4
trong cùng một Thánh Lịnh như thế, nên trong Đàn cơ tại Cung Đạo Đền Thánh đêm
25-6-Nhâm Tý (dl 4-8-1972) hồi 20 giờ 15 phút, Phò loan: Hiến Pháp và Khai Đạo,
Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa bạch cùng Đức Phạm Hộ Pháp: "Theo Thánh Lịnh số
25/TL, Điều thứ 3 định phẩm Nhạc Sư sau 5 năm công nghiệp được cầu phong vào phẩm
Phối Sư, nhưng qua Điều thứ 4, Nhạc Sư cho đối phẩm Phối Sư và Hiền Nhơn, Thánh
Nhơn bên Phước Thiện. Hai điều đó không phù hợp nhau. Xin Đức Ngài chỉ dạy.
Đức Phạm Hộ Pháp giáng cơ đáp: Cho đối phẩm Giáo Sư,
sau 5 năm được đối phẩm Phối Sư”.
Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với 9 phẩm của HIỆP-THIÊN-ĐÀI
hay Cửu Trùng và Phước Thiện.
C - Đạo phục của các Chức sắc Bộ Nhạc:
“Ngày 22-8 Đinh-Hợi (6-10-1947)
quí ông Nhạc Sư Võ Văn Chở, Đốc Nhạc Đinh Văn Biện và Đề Nhạc Hồ Văn Sai có
Văn-bản thỉnh giáo Đức Hộ Pháp về Đạo phục của Chức sắc Bộ Nhạc, được Đức Hộ-Pháp
bút phê, nguyên văn như sau:
“Bần-đạo đã dạy trước rằng,
mặc sắc phục hồng (màu đỏ), áo đỏ, quần trắng, như các vị Võ sĩ cựu, có viền
kim tuyến bạc nơi cổ, nơi tay, ngay ngực có mang ba màu Đạo, chính giữa thêu
hình cây Đờn Tỳ-bà. Dưới cây đờn thì để chức tước của vị Chức sắc ấy, áo cụt khỏi
trôn mà thôi. Từ Nhạc-Sĩ trở lên tới Quản-Nhạc viền kim tuyến bạc, từ Đề Nhạc đổ
lên viền kim tuyến vàng”.
Ngày 27-11 Kỷ-Sửu
(15-1-1950) Ngài Bảo-Thế, Thừa quyền Hộ-Pháp, có sao lời phê trên gởi cho Ông
Phụ Thống Lễ Viện Phước-Thiện và Nhạc Sư Võ Văn Chở qua Đạo thư số 84.
Như vậy, Chức sắc Bộ Nhạc
đều mặc Đại phục y như nhau theo lời dạy trên, chỉ phân biệt ở tước phẩm ghi
phía dưới cây Đờn Tỳ-bà trên Tam sắc Đạo thêu nơi ngực và màu kim tuyến viền
nơi cổ và tay. Đức Hộ-Pháp không có dạy về Mão và Tiểu phục của Chức sắc Bộ Nhạc,
nhưng trên thực tế thì Chức sắc Bộ Nhạc đội Mão và mặc Tiểu phục như sau:
a) Mão đại phục: Gọi là Hỗn-Nguơn-Mạo có hình dáng như mão Ngưỡng-Thiên của Giáo-Hữu phái
Ngọc nhưng thấp hơn một chút (cao khoảng 12 cm ), giữa Mão, ngay trước trán có Tam sắc Đạo, gác xéo một cây Đờn Tỳ bà.
b) Tiểu phục: Từ Nhạc Sư đổ xuống Nhạc Sĩ đều mặc áo tràng trắng, có thắt ngang lưng một
sợi dây nịt trắng như Tiểu phục của Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài từ phẩm Cải Trạng đổ
xuống Luật Sự. Đầu đội Bán Nguyệt Mạo như cái calot trắng (giống Mão của Đầu
Phòng văn), ngay giữa trán có huy hiệu hình chữ nhựt bằng kim khí, trên có Tam
sắc Đạo và cây Đờn Tỳ-bà gác xéo”.
Năm 1952, Đức Phạm Hộ-Pháp
ra Thánh Lịnh mở khóa thi tuyển Nhạc Sĩ và Bếp Nhạc đặng bổ khuyết cho đủ số ứng
dụng trong Đạo. Nguyên văn Thánh Lịnh ấy chép ra dưới đây:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Nhị Thập Thất Niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
HỘ PHÁP ĐƯỜNG
Văn phòng
---ooo---
Số: 13
THÁNH LỊNH
HỘ PHÁP Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng
Chiếu y Tân Luật và Pháp
Chánh Truyền;
Chiếu y Đạo Luật ngày 16
tháng Giêng năm Mậu Dần (Dl 15-2-1938) giao quyền Thống Nhứt Chánh Trị Đạo cho
Hộ Pháp nắm giữ đến ngày có Đầu Sư chánh vị.
Nghĩ vì cần mở Khoa thi Nhạc
Sĩ và Bếp Nhạc đặng bổ khuyết cho đủ số ứng dụng trong cửa Đạo.
Do theo lời phê của Hộ
Pháp ngày 6 tháng 10 Tân Mão phân định thể thức khoa mục Nhạc Sĩ và các cấp
trong Bộ Nhạc.
THÁNH LỊNH
Điều thứ 1: Khoa thi Nhạc Sĩ và Bếp Nhạc sẽ mở tại Tòa Thánh ngày rằm tháng chạp năm
Tân Mão tại Báo Ân Từ đúng 3 giờ chiều. Những đơn xin thi phải đệ lên Văn phòng
Hiệp-Thiên-Đài ngày 14 tháng chạp Tân-Mão là ngày chót.
Điều thứ 2: Thể thức thi Nhạc Sĩ là: Biết cầm một cây đờn và trọn hiểu Nhạc khi có Tiểu
đàn và Đại đàn, Nhạc trống tiếp giá. Thể thức thi Bếp Nhạc là: Biết trọn nghi lễ
và nhạc nghệ về tài tử.
Điều thứ 3: Ban Giám khảo trong cuộc thi nầy là:
* Bảo-Thế Tổng thơ-ký
Chánh trị đạo: Chủ tọa
* Nhạc sư Võ văn Chở:
Giám-khảo
* Giáo-Hữu Thái-Hưỡn
Thanh: Giám khảo.
* Chí-Thiện Lê-văn-Phuông:
Giám khảo.
Điều thứ 4: Vị Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo và Chức sắc có danh sách trong Ban
Giám khảo, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh nầy.
Lập tại Tòa Thánh, ngày 9 tháng 12 Tân Mão. (dl. 5-1-1952).
HỘ PHÁP
(ấn ký)
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn 接引道人
Có hai trường hợp:
1 - Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
là một phẩm Chức sắc cao cấp
Hiệp-Thiên-Đài, kế dưới Thập nhị Thời Quân (Tiếp: Nhận lấy, đón nhận, tiếp rước.
Dẫn: dẫn dắt. Đạo Nhơn: người đạo).
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn: đối phẩm
với Phối Sư của Cửu Trùng Đài. Nhiệm vụ, quyền hành, thăng thưởng và Đạo phục của
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn được qui định trong Hiến Pháp Chức sắc Hiệp Thiên-Đài.
Vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn đầu
tiên của Hiệp Thiên Đài là ông Gabriel Gobron, người nước Pháp, là một nhà văn
và nhà báo, có viết hai quyển sách về Đạo Cao Đài bằng Pháp văn để truyền bá Đạo
Cao Đài nơi ngoại quốc là:
- Histoire du Caodaïsme (Lịch
sử Đạo Cao Đài), xuất bản năm 1948 tại Paris.
- Histoire et Philosophie
du Caodaïsme (Lịch sử và Triết lý của Đạo Cao Đài), xuất bản năm 1949 tại
Paris.
2 - Tiếp Dẫn Đạo Nhơn là vị Phật cõi Cực-Lạc
Thế Giới: Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn là một vị Phật cầm phướn Tiếp Dẫn, tiếp rước các chơn hồn đắc đạo đến Cực
lạc Thế Giới.
Trong Kinh Tam Nguơn Giác
Thế, Đức Phật Tiếp Dẫn Đạo Nhơn có giáng cơ cho một bài Thánh giáo sau đây:
Ngày 2 tháng 2 năm Nhâm Thân (1932).
THI:
Tiếp độ hiền lương bước thuận đàng,
Dẫn vào cửa Phật tránh thương tang.
Đạo thành muôn kiếp nhàn vui hưởng,
Nhơn sự màng chi cuộc trái oan.
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
Diễn dụ:
Bần tăng tiếp đặng chiếu
chỉ lâm đàn cho cả thiện nam tín nữ ít lời diễn dụ: Khuyên sớm lo tu hành, lo bồi
âm chất, sửa mình cho vẹn vẻ, tam cang ngũ thường đừng sót.
Phàm muốn gần đặng Tiên Phật
thì phải trì tâm học đạo, hiếu nghĩa vi tiên, tình sư nghĩa đệ vuông tròn, hóa
nhơn mới thuận.
Cái Hội Long Hoa hầu gần,
thi người đạo đức, thưởng phạt công minh, chừng ấy kẻ có căn Tiên thì Tiên rước,
người có duyên Phật thì Phật đưa, còn những người vô đạo vô đức, Thần Tiên cũng
thương xót nhưng không thể độ.
Nay Hội Tam Nguơn tuần
hoàn sửa dựng, vớt bực hiền lương, đưa hàng thiện sĩ, phong cương sửa trị, lập
hội thái bình, khuyên thiện nam tín nữ lo tu: trước tròn nhơn đạo, rồi mau tính
tu hành, ngõ nhờ phước lớn, vượt qua khổ hải, sẽ gặp Thiên đàng, chớ tưởng cuộc
thế gian là quê cũ, mê đắm gây việc trái oan, sau khó trở về Cực Lạc.
THI
Tang điền thương hải chẳng bao xa,
Khuyên thế lo tu kịp tuổi già.
Danh lợi đường đời như cụm khói,
Công thành cửa Phật tợ liên hoa.
Lăng xăng mặt đất lo không cửa,
Thanh tịnh vườn Tiên khỏe vạn nhà.
Nhớ tới Long Hoa gần sắp đặt,
Bần tăng vội vã dắt thoàn qua.
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
THĂNG.
D - Cảm tưởng của Ngài Ngọc Chánh Phối Sư trong
ngày Khánh thành Bộ nhạc
Ngày 25-10 Mậu-Thân (dl
14-12-1968) Bộ Nhạc khánh thành HỌC ĐƯỜNG BỘ NHẠC TRUNG ƯƠNG để đào tạo nhơn
tài cho Bộ Nhạc và cũng để gìn giữ và phụng sự nền Âm nhạc cổ truyền của dân tộc
Việt Nam.
Trong dịp nầy, Ngài Ngọc
Chánh Phối Sư có đọc lời Cảm Tưởng, trích ra sau đây:
“Bởi truyền thống của mối
Đạo là Nho-Tông Chuyển Thế, Đức Chí-Tôn dùng Nhạc để chế ngự lòng phàm, hóa
lòng người, khiến cho được chí thiện chí mỹ. Trên sở năng hoát truyền Lễ Nhạc,
người Nhạc sĩ nên ghi nhớ lời dạy của Đức Chí Tôn như sau: Ngày nào Lễ Nhạc được
hoàn toàn thì Đạo mới mong thành lập, mà Lễ Nhạc tức nhiên Hội Thánh của Đức Khổng
Phu Tử đó vậy.
Ấy vậy, Nhạc sản xuất
trong tinh thần, mà tinh thần mới thật là Đạo và trong Nhạc biểu tượng cho sự Lễ,
như chúng ta đã thấy một bằng cớ là khi hòa đờn cùng nhau, mặc dù ngón đờn của
mỗi người đều khác, sự hay dở, song cái nhịp trường canh là qui củ phải nương
theo, nếu không tùng, chẳng khi nào hòa nhạc cùng nhau được, bởi khuôn khổ của
Nhạc là hòa, ấy là Lễ vậy. Trong tương lai, nơi nầy sẽ là chỗ đào luyện tinh thần
Lễ Nhạc điều hòa của Nho-Tông Chuyển Thế, vì Nhạc có thế lực rất mạnh về đường
đạo đức để sửa lòng người cho ngay chính hòa thuận”.
E - Đức Thượng Sanh Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài
ban Huấn Từ
Cũng trong dịp nầy, Đức
Thượng Sanh Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài ban Huấn Từ, trích ra đây:
“Học Đường của Bộ Nhạc đã
hoàn thành, đó là một công quả đáng ghi của Chức sắc Bộ Nhạc. Giờ đây, vị Chưởng
quản và Chức sắc Bộ Nhạc phải gắng công đào luyện đàn em cho thành tài, đồng thời
trau luyện nghệ thuật mình cho đến chỗ tận thiện tận mỹ, trước để phụng sự nền
Đạo, sau để nâng cao phẩm giá của Âm nhạc là môn học rất trọng yếu của Khổng
giáo.
Khi mới khai sáng nền Đạo,
Đức Chí Tôn rất trọng Nhạc và Lễ, vì cái hay của Lễ là giữ trật tự bên ngoài,
cái hay của Nhạc là tạo sự điều hòa để kềm chế tâm tình bên trong cho khỏi vọng
niệm.
LỄ và NHẠC cùng hợp nhau
và nếu giữ đúng nề nếp thì đàn cúng mới nghiêm chỉnh, được bao trùm một bầu
không khí huyền diệu thiêng liêng khiến chúng ta cảm tưởng là có Đức Chí Tôn và
chư Tiên Phật giáng ngự để ban ơn cho toàn Đạo.
Trái lại, nếu Lễ không
nghiêm, Nhạc không hòa, thì đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người
đến lễ bái có một tâm trung xao xuyến, tinh thần bất định. Đó là một sự thất lễ
đối với các Đấng thiêng liêng, và như vậy Đức Chí Tôn không khi nào giáng đàn,
tà quái có thể thừa dịp xung nhập gây nên điều rắc rối. Trong nhiều đàn cúng
lúc ban sơ, Chức sắc thường bị Đức Chí Tôn giáng cơ quở trách vì đàn không
nghiêm, Lễ Nhạc còn khuyết điểm.
Trong năm Ất Tỵ (1965), Đức
Hộ Pháp cũng có giáng cơ tại Đền-Thánh dạy Chức sắc Bộ Nhạc nên trau luyện Nhạc
điệu vì nghệ thuật còn kém. Sự kém cỏi đó, có lẽ một phần do NHẠC SĨ thiếu tập
duợt, hoặc có thụ huấn mà chưa nhuần nhã.
Tôi ước mong mỗi Chức sắc
Bộ Nhạc nên lưu tâm để tự mình trau luyện cho đúng mức độ nghệ thuật. Thưởng thức
một bài đờn hay như nghe một bài thi sắc sảo, một câu đờn tao nhã điêu luyện
như một câu thi tuyệt bút, có mãnh lực gợi cảm làm xúc động tâm hồn.
Vì vậy thời xưa, các Đấng
Đế Vương dùng NHẠC để cảm hóa lòng người trong đạo trị dân, vì NHẠC có thể khiến
cho dân trở nên thuần hậu và có thể di phong dịch tục.
Nhạc là món ăn tinh thần đứng
đầu trong bốn thú phong lưu của Thánh Hiền thời xưa: Cầm, Kỳ, Thi, Họa, và các
bậc Thánh Hiền đã dùng NHẠC để đạt đến lý tưởng cao siêu, giúp ích cho sự an
bang tế thế, xây dựng nước nhà. Vì Nhạc có cái thế lực quan trọng như vậy, nên
Đức Khổng Tử soạn ra Kinh Nhạc và cho đứng vào hàng Ngũ Kinh là: Kinh Dịch,
Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Nhạc. Về sau, Ngài làm bộ sách Xuân Thu, nhập
với năm bộ sách trước gọi là Lục Kinh.
Sau khi Đức Khổng Tử mất,
kế đến nhà Tần có việc đốt sách thì những Kinh ấy bị thiêu hủy hoặc thất lạc ít
nhiều, nhứt là Kinh Nhạc thì mất gần hết, chỉ còn lại có một thiên, sau đem nhập
vào bộ Lễ Ký đặt tên là thiên Nhạc Ký, thành thử trong sáu bộ Kinh chỉ còn lại
có Ngũ Kinh là: Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Tánh của Đức Khổng Tử hay
ưa thích đàn hát. Lúc Ngài ở nước Tề ham học Nhạc Thiều, trong ba tháng say mê
cho đến đỗi ăn không biết mùi vị. Ngài nói: Ta chẳng ngờ học Nhạc vui đến như
thế (Bất đồ vi Nhạc chi chí ư tư dã.)
Khi Ngài châu lưu khắp
thiên hạ thì bên mình không khi nào rời cây đàn Ngũ huyền cầm. Quan niệm của
Ngài là tiếng đàn thanh nhã có thể nâng cao tinh thần và trụ vững tâm chí siêu
nhân của người quân tử. Lúc Ngài bị vây giữa khoảng nước Trần và nước Sái, bảy
ngày không nấu ăn, chỉ ăn rau luộc suông, các đệ tử như Tử Lộ, Nhan Hồi, Tử Cống
, vv... đều băn khoăn lo sợ cho Ngài, nhưng Ngài vẫn ung dung ngồi đàn hát.
Chúng ta thấy rõ Thánh
nhơn trọng dụng Âm nhạc như vậy vì Nhạc nghệ là một bộ môn văn hóa cao đến tột
độ và Nhạc Thiều có mãnh lực huyền bí cao siêu, giúp an dân trị nước, cải hóa
xã hội.
Du Bá Nha đập nát Dao cầm,
thề không đờn nữa vì người bạn tri âm là Chung Tử Kỳ đã mất thì không còn ai biết
nghe tiếng đờn của mình. Khổng Minh Gia Cát Lượng mượn tiếng đờn mà lui giặc Tư
Mã Ý. Trương Tử Phòng nhờ có giọng tiêu ai oán mà trong một đêm giải tán tám
ngàn đệ tử của Sở Bá Vương tại Cửu Lý San để cho Lưu Bang diệt được kẻ thù
chung của thiên hạ, lập nên cơ nghiệp nhà Hớn hơn 400 năm.
Công dụng của Nhạc Thiều thời
xưa thì cao thượng như vậy. Ngày nay, người ta dùng Âm nhạc làm công cụ cho chủ
nghĩa con buôn trên sân khấu, khiến nên Nhạc sĩ vì kế sanh nhai phải bán rẻ tài
nghệ, làm cái giá trị của Quốc Nhạc phải bị hạ thấp đến cực điểm.
Trong cửa Đại Đạo, chúng
ta phải nâng đỡ ngành Âm nhạc, phải bảo tồn nhạc điệu cổ truyền để lưu lại cho
đất nước tinh hoa của một nghệ thuật thuần túy, mặc dù cái tinh hoa ấy nay chỉ
còn phưởng phất chút dư hương do sự phế cựu hoán tân của giới nhạc sĩ trong nước.
Đi ngược với trào lưu thoái bộ đó, chúng ta không nên coi thường môn Âm nhạc và
phải cố tâm gìn giữ cái chơn giá trị của nó. Dù Nhạc Lễ hay Nhạc điệu tài tử cổ
truyền, mỗi môn đều có cái hay riêng đặc biệt. Nếu học Nhạc dù là môn nào, phải
cố gắng học đến chỗ cùng cực uyên thâm, năng luyện tập trau giồi để ngày càng
thêm tiến triển mới đáng gọi là biết yêu nghệ thuật.
Từ đây, Bộ Nhạc Trung Ương
đã có một ngôi Học Đường làm nơi đào tạo nhơn tài, Chức sắc đàn anh trong Bộ Nhạc
phải ra công dìu dắt Nhạc Sĩ thế nào cho khỏi mang tiếng hữu danh vô thực.
Với sự mong ước nói trên,
Tôi xin cầu chúc vị Chưởng quản và Chức sắc Bộ Nhạc thành công mỹ mãn để phục vụ
cho nghệ thuật và cho nền Đại Đạo”
Nay kính.
THƯỢNG SANH Cao Hoài Sang
F - BÁ NHA - TỬ KỲ
Trong làng nhạc thì ai
cũng biết qua đôi tâm hồn cảm kích nhau vì họ hiểu được nhau qua tiếng đờn. Đôi
tri âm đó là Bá Nha và Chung tử Kỳ. Nhưng khi Chung Tử Kỳ mệnh bạc thì Bá Nha đờn
trước mộ của Chung Tử Kỳ lần cuối, xong rồi đập vỡ đờn và nguyền rằng không bao
giờ đờn nữa vì không còn một ai nghe được tiếng đờn. của mình.
Chạm
khắc trước Đền Thánh)
Trong văn chương Việt-Nam
câu chuyện Bá Nha, Tử Kỳ đã trở thành một điển cố cho là tri âm, tri kỷ để nói
lên tình bạn thâm thiết, nghĩa là tình thân mật của một người Bạn hiểu được
lòng mình, nghe được cả tâm tư như chính mình vậy.
Truyền thuyết cho rằng
Bá-Nha là một tay đờn điêu luyện, Chung Tử Kỳ nghe được và cảm được tiếng đàn ấy.
Bá-Nha người đời Tống làm
quan đến chức Thượng đại Phu, có tài chơi đàn rất giỏi. Thường phàn nàn trong
thiên hạ không ai có thể thưởng thức được tiếng đàn của mình. Một đêm trăng
sáng, nhân đi sứ ở nước Sở về, lại có gió mát, cảnh vật nên thơ, gợi hứng.
Bá-Nha liền cho quân ghé thuyền vào bờ Hàm Dương lấy đàn ra khảy. Trên bờ sông,
bấy giờ Tử kỳ vừa đốn củi về, nghe tiếng đàn trầm bổng liền đứng dừng lại trộm
nghe. Cung đàn đang réo rắt đàn lại đứt dây. Bá Nha cho rằng nơi này vắng vẻ,
non núi chập chùng, chắc là có bọn trộm đạo chi chăng, liền cho quân sĩ lên bờ
tìm bắt. Tử Kỳ vội lên tiếng đáp:
- Tôi là người đốn củi, chợt
đi ngang qua đây nghe Đại nhân gảy khúc đàn hay nên trộm lắng tai nghe chớ
không phải là người bất lương!
Bá Nha không tin một gã tiều-phu
trẻ tuổi lại biết thưởng thức tiếng đàn tuyệt diệu của mình. Liền hỏi:
- Ta đàn bản gì ban nãy
đó?
Tử Kỳ không chút ngần ngại
đáp:
- Ngài đàn bản Đức Khổng-Tử
thương tiếc Thầy Nhan Hồi.
Bá Nha có ý trọng người am
hiểu tiếng đàn của mình, liền mới xuống thuyền và lên dây gảy một bản đàn khác,
tâm trí nghĩ mình đang ở chốn non cao. Tử Kỳ khen hay:
- Tiếng đàn cao vút, chí của
Ngài vòi vọi ở chốn non cao (Nga nga hồ, chí tại cao sơn)
Bá Nha lại đàn một bản đàn
khác, tâm trí lại nghĩ mình đang ở trên dòng nước chảy, Tử Kỳ lại khen hay:
- Chí của Ngài cuồn cuộn
như dòng nước chảy (dương dương hồ, chí tại lưu thủy).
Bá Nha nhìn nhận Tử Kỳ là
người Bạn tri âm của mình, biết thưởng thức tiếng đàn của mình, nên rất quí mến.
Cả hai cùng đàm đạo rất thân mật và rất là tương đắc. Bá Nha mời Tử Kỳ về Kinh
đô nước Tống để chung hưởng sang giàu. Tử-Kỳ từ chối vì còn cha mẹ già phải phụng
dưỡng, không thể trái đạo làm con. Cả hai cùng hẹn nhau đến sang năm cùng hội
ngộ ở nơi này.
Y hẹn, qua năm sau, Bá Nha
vào triều xin với Vua về thăm quê hương, đến chỗ cũ đem đàn ra khảy, nhưng
không thấy Tử-Kỳ đâu, tiếng đàn lại nghe như oán, như than. Bá Nha sinh nghi liền
tìm đến nhà Tử Kỳ hỏi ra mới biết Chung-Tử-Kỳ đã chết. Bá Nha thương tiếc vô
cùng, xin đến mộ để viếng thăm người Bạn xấu số một lần cuối
Đến phần mộ Tử Kỳ, Bá Nha
đem đàn ra khảy một bản đàn điếu nghe ra bi thảm, bày đồ tế lễ trước mộ Tử Kỳ.
Bá Nha khóc than thảm thiết, đàn xong liền đập vỡ cây đàn, thề trọn đời không
đàn nữa vì thiếu bạn tri âm.
Về sau, người ta dùng hai
chữ “Tri âm” để nhắc đến Bá-Nha Tử-Kỳ. Tri âm có nghĩa là biết tiếng, biết thưởng
thức tiếng đàn của mình.
Trong bài “Gửi phường hậu
tử” làm trong phút sắp lâm chung; nhà Cách mạng Phan Bội Châu có câu:
Đàn Bá-Nha mấy kẻ thưởng âm?
Bỗng nghe qua khóc trộm lại thương thầm,
Chung-Kỳ chết ném đàn không gảy nữa.
G - Đức Hộ-Pháp giải rõ về chỗ hòa-hiệp: Nhạc là
Hòa
“Chỉ hòa mới hiệp, hiệp mới
có định; mà hễ có định mới có an, bằng chẳng vậy sẽ có phản-động-lực. Hễ không
hòa tức giục cho phải nghịch, hễ nghịch phải ly, mà ly tức nhiên động; hễ động
tức nhiên phải loạn. Dầu cho chúng ta quan-sát về đạo-lý-học, triết-lý-học,
tâm-lý-học, cách trí-học, ta thấy quả quyết cơ quan taọ đoan hữu-hình trước mắt
ta nếu không tùng khuôn luật điều hòa: Bần Đạo tưởng càn-khôn vũ-trụ này đã
tiêu diệt. Dầu cho về đạo-lý-học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái nguơn-linh của Đức-Chí-Tôn
không hòa-hợp với nguơn-âm của Phật-Mẫu thì Thái-cực chưa ra tướng; Hễ Thái-cực
chưa ra tuớng tức nhiên càn-khôn vũ-trụ naỳ không ra gì hết.
“Chúng ta ngó thấy hành
tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân thể và triết-lý đạo-giáo
ta biết rằng: nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh quang thiêng liêng kia đặng
tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây: nói gần hơn nữa nhứt
điểm tinh-thần của Cha ta không hiệp với huyết bồn của Mẹ ta, thì tức nhiên
không có sự hiệp-hòa cả khuôn luật tạo đoan này.
“Ấy vậy chúng ta nương nơi
hòa khí đặng hay không? Cả cơ bí-mật của ta dầu cả hình thể tạo-đoan, ta ngó thấy
con vật trước mắt ta nếu không hòa thì không có cảm-ứng, không hòa chắc cơ thể
tạo-đoan không có nam nữ; cốt yếu sanh nam nữ đặng hiệp-hòa nhau tức nhiên sanh
sản loài người. Ngoài ra nữa ta đã ngó thấy, nếu như không có điển-lực điều-hòa
do thiêng-liêng định; tức nhiên Bần-Đạo dám chắc chưa có Thánh-Đạo. Bởi có ai
thuận với ai đâu! Các chủng-tộc cũng nương theo khuôn luật hiệp-hòa ấy mới tồn-tại,
mới hiệp chủng tộc được.
“Về triết-lý-học chúng ta
ngó thấy nhiều phản-ảnh nó không thế gì in nhau được. Hễ hiểu đặng quyền-năng của
Đạo tỷ như: lửa và nước, hai món ấy không thế gì gần nhau được, như chúng ta thấy
máy tàu, trước khi đã tìm ra năng-lực của nước, hiểu được như hơi nước, nó sẽ
có cái quyền lực xô đẩy cả sức nặng 30.000 tấn; quả nhiên trước mắt chúng ta thấy,
hiện tượng không thể chối đặng.
“Cái điển-lực thiên-nhiên,
ta thấy khí âm đụng với khí dương thành ra sấm sét, lửa sét ấy do nơi điển
dương đụng với điển âm biến ra khối lửa. Nó mạnh thế nào chúng ta ngó thấy
không thế gì tưởng-tượng được. Đem điển âm để riêng ra cách bức điển dương, hai
cái đụng nhau dữ dội lắm. Ta thấy áp-lực của hơi nước thế nào, tức nhiên ngày
nay ta thấy không phải là điển-lực. Bây giờ ta có phương-pháp thâu đặng, thâu
chúng lại làm ngọn đèn sáng-suốt.
“Cả tinh-thần quốc-gia
xã-hội hay là Đạo-giáo, thiên-nhiên cũng vậy. Cái khuôn luật hòa là cái khuôn
luật tạo ra càn khôn vũ trụ, có nhiều cơ-quan phản-khắc nhau. Ta có quyền nào
làm cho nó hiệp lại thì cơ-quan tạo-đoan nắm trong tay, cũng như chúng ta ngó
thấy, không thế tưởng-tượng hai khối sức mạnh thiêng-liêng làm ra ngọn lửa. Ngọn
lửa ấy nó soi-sáng trong tâm-tình hiện tượng.
“Khi xưa xã-hội nhơn-quần
trên mặt địa-cầu này ta ngó thấy, các bộ-lạc tàn-bạo cùng nhau. Tại sao? Tại
nơi cơ thể hữu hình không làm thỏa mãn loài người.
“Hại thay! Cơ-quan hữu
hình không làm thoả mãn tâm lý loài người, từ thuở đến giờ với tinh-thần ấy chỉ
có nương theo Đạo-giáo và biết thật thi, biết định hướng, biết tự chủ, biết định-phận
mình trong thân sống; ngày nay Đạo-giáo trên mặt địa-cầu này hết quyền-năng vi
chủ, hoàn cảnh quá khổ não của lòai người, tuồng đời thảm khổ càng tấn tới, thấy
cái sống càng khó-khăn, nền văn minh càng tiến lên một bước, thì khối thảm khổ
của loài người càng thêm nữa. Hồi đương buổi bây giờ, ngó các chủng-tộc đối nại
nhau, tranh sống với nhau, phản khắc nhau.
“Bần-Đạo đã nói hồi nãy, nếu
không hòa nhau đặng, tất nhiên phải nghịch, hễ nghịch tất nhiên phải ly; hễ ly
tất nhiên phải xao động; hễ xao động tất có loạn lạc.
“Bây giờ hỏi muốn tìm giải-pháp
để cứu tình thế, chúng ta để thử tinh thần, trí não suy đoán xem ta thấy rằng:
không hòa mới có nghịch, mới có ly, như không đồng tâm, đồng chí, đồng sống
cùng nhau thì tức nhiên có xao động. Bần-Đạo nói cả vạn quốc đó vậy;Động tức
nhiên phải loạn.
“Bây giờ muốn tìm
phương-pháp trị loạn đặng phải phương chiêu an nơi đương động, mình phải giải
thoát nó; đương ly cách mình tìm phương hội hiệp; bây giờ nó đương nghịch, mình
tìm phương-pháp hòa nó vậy”.
IV - NHỮNG ĐIỀU TRỌNG YẾU
A - Lễ Nhạc là gì?
A: The rites and music.
P: Les rites et la musique
(Tham khảo thêm tài liệu của Hiền tài Hồng ba
tiết 1, 2, 3)
Lễ Nhạc 禮樂 là Lễ nghi và Âm nhạc (Lễ là cách bày tỏ sự tôn kính
bằng cử chỉ hay bằng cúng tế, cuộc lễ có nghi tiết. Nhạc: âm nhạc)
Lễ và Nhạc trong Đạo Cao Đài được Đức Chí-Tôn
xem rất quan trọng, cho nên ngay từ khi mở Đạo, Đức Chí Tôn đã nhiều lần giáng
cơ dạy về Lễ và Nhạc.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên
cứu từng phần một.
1 - LỄ 禮
Chữ Lễ, trước tiên dùng với
ý nghĩa là các hình thức cúng tế, cầu Thần linh ban phước và cúng tế Tổ Tiên.
Sau đó, chữ Lễ được dùng rộng ra bao gồm những phép tắc phù hạp với phong tục
và tập quán của dân chúng trong việc quan, hôn, tang, tế. Sau nữa, chữ Lễ có
nghĩa thật rộng, gồm cả quyền bính của vua và cách tiết chế các hành vi của dân
chúng cho thích hợp lẽ tự nhiên của Trời Đất.
Thế nên, Kinh Lễ của
Nho-giáo viết rằng: “Lễ giả, Thiên chi tự” Nghĩa là: Lễ là cái trật tự của Trời.
Do đó, Nho giáo rất chú trọng về Lễ và dùng Lễ vào 4 mục đích sau đây:
1/ - Dùng Lễ để hàm dưỡng
tánh tình.
Dùng Lễ để tạo thành một
không khí đạo đức trang nghiêm, dần dần biến thành một tập-quán tốt, khiến người
ta làm điều phải một cách tự nhiên mà không cần suy nghĩ.
Vào nơi đền chùa, thấy
khung cảnh cúng bái trang nghiêm, tự nhiên sanh lòng tôn kính.Vào chỗ đám tang,
thấy cái không khí ảm đạm thê lương, tự nhiên sanh lòng bi ai.
Vậy nhờ Lễ mà con người được
khơi dậy những tình cảm tốt đẹp cao thượng.
2/ - Dùng Lễ để giữ tình cảm
thích hợp đạo Trung dung.
Dùng Lễ để giữ tình cảm của
mình không cho thái quá mà cũng không cho bất cập, theo đúng đạo Trung Dung. Nhờ
vậy, thể xác và tinh thần của con người được quân bình, hành động lúc nào cũng
được sáng suốt và chừng mực.
Đức Khổng Tử bảo Nhan Uyên
là người đã hiểu rõ đạo Nhân hơn người là do Lễ: “Phi lễ vật thị, phi lễ vật
thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”. Nghĩa là không phải Lễ chớ nhìn, không
phải Lễ chớ nghe, không phải Lễ chớ nói, không phải Lễ chớ làm.
3/ - Dùng Lễ để định rõ lẽ
phải trái, tình thân sơ và trật tự trên dưới phân minh. Nhờ Lễ mà ta phân biệt
được kẻ thân người sơ, kẻ nhỏ người lớn, vì Lễ qui định sự đối xử khác nhau rõ rệt.
Do đó không còn chỗ hiềm nghi, định rõ lẽ phải trái.
Nhờ Lễ mà định được Chính
danh, có Chánh danh mới định phận cho thích hợp. Do đó có tôn ti trật tự, phép
tắc luân lý từ gia đình đến xã hội, tạo nên một xã hội trật tự thái bình.
4/ - Dùng Lễ để tiết chế
lòng dục.
Dục vọng của con người thì
không cùng và lúc nào nó cũng đòi hỏi phải làm cho nó thỏa mãn. Nếu không dùng
Lễ để chế giảm, tất dục vọng sẽ làm con người hư hỏng. Dùng Lễ để chế giảm mà
còn hướng dẫn dục vọng vào chỗ cao thượng nữa.
Lễ và Pháp luật đều có mục
đích ngăn chận sự hư hỏng và tội lỗi của con người. Nhưng Lễ có ưu điểm là nó
có thể ngăn cản những việc lầm lỗi chưa xảy ra, còn dùng pháp luật là để trừng
trị những việc tội lỗi đã xảy ra rồi. Do đó, Thánh nhân trọng Lễ hơn trọng hình
phạt. Pháp luật tuy phải đặt ra, nhưng dùng sự giáo hóa về Lễ mà ngăn chận trước
sự phạm tội mới là ưu việt.
Tóm lại: chữ Lễ trong
nghĩa rộng có bao hàm tính chất pháp luật. Nhưng Lễ chú trọng về mặt giáo hóa
và ngăn ngừa sự hư hỏng, phạm tội; còn Luật pháp thì chú trọng trừng phạt những
hư hỏng và phạm tội đã xảy ra.
Lễ thì dạy người ta nên
làm điều gì, không nên làm điều gì và tại sao như thế. Còn Luật pháp thì cấm
không cho làm việc nầy, việc nọ, hễ vi phạm thì bị trừng phạt.
Người làm trái Lễ thì bị
chê cười, có tính cách trừng phạt về mặt tinh thần, người làm trái pháp luật
thì bị trừng phạt về thể xác.
Thánh giáo:
Lễ là hạnh nết của Thần Tiên,
Phải giữ lễ nghi thật vững bền.
Trước mắt phàm tuy trông chẳng thấy,
Chín từng lồng lộng Đấng bề trên.
2 - NHẠC:
Nhạc là sự hòa hợp của các
thứ âm thanh mà tạo thành, thể hiện sự rung cảm của lòng người đứng trước ngoại
vật, hay nói khác đi, chính sự rung cảm trong lòng người mới tạo thành tiếng Nhạc.
Khi người buồn thì tiếng
nhạc có âm điệu bi ai; khi người vui-vẻ phấn chấn trong lòng thì tiếng nhạc
nhanh, dồn dập, vui tươi; khi ngoại cảnh sanh lòng yêu mến thì tiếng nhạc hòa
nhã dịu dàng. Ngược lại, tiếng nhạc có thể cảm hóa lòng người, khiến người nghe
rung động theo nó, như khi nghe nhạc réo rắc thanh tao thì người nghe có ý nghĩ
cao thượng, khi nghe nhạc giựt gân, dâm ô thì người nghe có ý nghĩ thấp hèn.
Nhạc có thế lực rất quan
trọng như thế nên bực Đế Vương thời xưa như vua Thuấn dùng Nhạc để hóa dân, khiến
dân trở nên lương thiện.
Sách Nhạc Ký có viết: Nhạc
là cái vui của Thánh nhân, mà có thể khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể
cảm lòng người rất sâu và làm cho phong tục dời đổi được.
Cho nên Tiên Vương mới đặt
ra việc dạy Nhạc.
Nhạc cũng phải giữ lấy đạo
Trung dung, dẫu vui cách mấy cũng không làm mất cái chánh, dẫu buồn cách mấy
cũng không làm mất cái hòa. Như thế Nhạc mới điều hòa tánh tình của con người.
3 - SỰ PHỐI HỢP NHẠC và LỄ:
Nhạc và Lễ đều có cái chủ
đích chung là sửa đổi tâm tánh con người cho ngay chánh, bồi dưỡng tình cảm cho
thuần hậu. Nhưng mỗi bên có cách thức riêng biệt.
- Lễ cốt ở sự cung kính để
giữ cho trật tự phân minh,
- Nhạc cốt ở sự điều hòa
khiến cho tâm tánh được tao nhã.
Do đó, Lễ và Nhạc cần phải
phối hợp với nhau thì mới thành tựu mục đích tốt đẹp. Nếu có Lễ mà không có Nhạc,
tức là có Kính mà không có Hòa, thì nhơn quần ở với nhau có sự phân biệt thái
quá, nên chia rẽ xa cách. Nếu có Nhạc mà không có Lễ, tức là có Hòa mà không có
Kính, thì thành ra dễ dãi khinh lờn.
Vậy nên, có Lễ phải có Nhạc,
có Nhạc phải có Lễ, để cho cái nầy bổ khuyết cái kia thì mới tạo được sự điều
hòa tốt đẹp và một trật tự ổn định trong xã hội.
Lễ và Nhạc có ý nghĩa rất
sâu xa và có tác dụng mạnh mẽ về đường đạo đức, vì một đàng khiến cho tâm tánh ở
bên trong và một đàng khiến cho sự hành động ở bên ngoài, cốt cho trong ngoài
hòa thuận. Trong hòa là làm cho tâm tánh được điều hòa, ngoài thuận là làm cho
hành vi cử chỉ thuận theo đạo lý, hợp lòng người. Trong và ngoài được như thế
thì cái tà tâm và dục vọng không có cơ hội phát triển và dần dần sẽ biến mất,
nhường chỗ cho Thánh tâm và những dục vọng thanh cao.
Nhưng Đức Khổng Tử lại
nói: “Nhơn nhi bất nhơn như lễ hà? Nhơn như bất nhơn như nhạc hà?” nghĩa là:
Người mà không nhơn đức
thì làm sao dùng Lễ được?
Người mà không nhơn đức
thì làm sao dùng Nhạc được?
Ý của Đức Khổng Tử nói rằng:
Dầu Lễ và Nhạc có hay đến bực nào đi nữa mà người dùng Lễ và Nhạc không có lòng
nhơn đức thì cũng không có hiệu quả gì. Có nhơn đức tức là có tình cảm dồi dào,
có trực giác mẫn huệ, rồi lấy Lễ Nhạc mà khiến thì công dụng của Lễ Nhạc rất
hay; còn nếu không có nhơn đức mà đem dùng Lễ Nhạc thì chỉ là cái hư văn kiểu
cách trống rỗng mà thôi, không có tác dụng gì.
Đức Khổng-Tử chủ trương Lễ
Nhạc cũng phải trung dung, không nghiêng hẳn về bên Lễ, cũng không nghiêng hẳn
về bên Nhạc, vì: Nhạc thắng hóa bừa bãi, Lễ thắng hóa chia lìa. Khiến thích hợp
tánh tình, phục sức và dung mạo là công việc của Lễ Nhạc.
Lễ Nhạc còn có địa vị trọng
yếu trong phép trị nước và được đặt ngang hàng với Hành chánh và Hình pháp.
Lễ để chỉ đạo ý chí, Nhạc
để điều hòa thanh âm, Hành chánh để thống nhứt hành động, Hình pháp để ngăn ngừa
tội ác. Lễ Nhạc, Hành chánh, Hình pháp có mục đích cuối cùng là một, tức là thống
nhứt lòng dân để thực hiện nền thạnh trị”.
Ý của Đức Khổng Tử và các bậc
Thánh xưa dùng Lễ Nhạc cao siêu như thế, nhưng lần lần, từ đời nọ qua đời kia,
Nhạc và Lễ biến đổi theo tình đời và trở nên sái hết cả.
Lễ thì biến ra thêm phiền
toái mà không giữ được sự Kính làm gốc, Nhạc thì biến ra đủ thứ đủ loại mà
không giữ được sự Hòa làm gốc. Con người không được Nhạc Lễ hướng dẫn và kềm chế
nên đã bị dục vọng vật chất lôi cuốn đến chỗ thấp hèn, đang tiến vào hố sâu vực
thẵm.
May mắn thay cho nhơn loại! Nhứt là hữu hạnh
cho dân tộc Việt Nam, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế khai sáng Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ tại nước Việt-Nam, Đức Chí-Tôn rất chú trọng về Lễ Nhạc, nên Đức Ngài đến
để chỉnh đốn Lễ Nhạc lại cho hoàn toàn.
Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển,
Đức Chí Tôn dạy về Lễ Nhạc rất kỹ, đôi khi Đức Chí Tôn phải giáng linh vào Cao
Thượng Phẩm để biểu diễn về Lễ cho các Môn đệ nhìn thấy tận mắt rõ ràng mà học
tập làm theo.
Lễ và Nhạc do Đức Chí Tôn
lập ra, trên nền tảng cái cũ là Cổ lễ và Cổ nhạc của Nho giáo, để làm ra cái mới,
khiến cho cũ và mới hoàn toàn dung hợp nhau, làm cho Lễ Nhạc trong Đạo Cao Đài
có những nét độc đáo, sử dụng có hiệu quả nhứt, để đưa nhơn loại trở về con đường
đạo đức chơn chánh.
Nơi Văn Phòng Lễ Nhạc Đường
trong Nội Ô Tòa Thánh có đôi liễn Lễ Nhạc:
LỄ dĩ địa trần minh định
nhân gian tôn trật tự
NHẠC do Thiên tác tuyên
thông thế giới chủ điều hòa
禮 以 地 陳 明 定 人 間 尊 秩 序
樂 由 天 作 宣 通 世 界 主 調 和
- Lễ lấy sự bày ra trên mặt
đất mà chế thành, định rõ phẩm bực con người nơi thế gian, kính trọng sự trật tự,
- Nhạc do Trời làm ra, bày
tỏ cho thế giới thông hiểu nhau, chủ yếu là sự điều hòa.
B - Thanh âm và tiết điệu của Nhạc:
1 - NHẠC (Fr : MUSIQUE)
là thanh âm có tiết điệu dễ
nghe Như hát, đàn, trống, kèn. Một âm LẠC là vui mừng. Đủ thấy Nhạc là một sự
thoải-mái, vui hứng trong lòng.
NHẠC là một trong Ngũ-Kinh: THI, THƯ, LỄ NHẠC, DỊCH, XUÂN THU nhưng qua thời đại của Tần Thủy-Hoàng với chánh
sách « Phần thư khanh Nho» tức là đốt sách chôn học trò, nên ngọn lửa
Tần đã thiêu rụi tất cả chỉ còn lại bộ KINH DỊCH mà thôi, vì nhà Tần cho rằng
đây chỉ là sách bói toán, không đáng quan ngại.
Thật ra:
“Bộ kinh NHẠC của KHỔNG-TỬ đã san định, nay chỉ
còn có một ít trong thiên Nhạc-Ký, chép ở trong bộ Lễ Ký. NHẠC được hiểu theo ý
của cổ-nhân: NHẠC là do ÂM mà sinh ra. Cho nên mới hình ra ở cái THANH, những
thanh tương ứng cùng nhau rồi biến ra thành phương, tức là
thành cung bực, trong, đục, cao, thấp, gọi là ÂM..
Âm chia ra làm năm bực là:
Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ (Năm âm ấy theo luật Hoàng-cung gọi là năm chính
thanh và hai biến thanh là biến Cung và biến Chủy, có khi gọi là thanh Văn và
thanh Vũ, gồm tất cả là bảy thanh, nhưng khi nói ÂM-NHẠC thì thường chỉ 5 âm
chính, chứ không nói bảy thanh. Đem các âm so vào những Nhạc-khí để đánh ra tiếng:
Kim, Thạch, Ty, Trúc: những đồ múa là Can 干 (khiên), thích 戚 (búa), vũ 羽 (lông chim sẻ), mao 旄 (lông đuôi bò) và những
thi phú ca vịnh, gồm tất cả gọi là NHẠC.
Vậy nghĩa chữ NHẠC nói
chung cả chuông trống, đàn địch, múa hát và văn thơ.
NHẠC với lòng người cảm-hóa
lẫn nhau:
- Một là bởi lòng người cảm
xúc ngoại cảnh mà thành ra tiếng NHẠC.
- Hai là tiếng NHẠC cảm
lòng người rồi khiến lòng người theo tiếng NHẠC mà biến đi, như:
- Khi ngoại cảnh đau đớn
thì lòng người thương xót, trong lòng đã thương xót thì thanh âm nghe tiêu-sái.
- Khi ngoại cảnh tốt lành
tất là trong lòng vui-vẻ thì thanh-âm nghe thong-thả, êm-đềm.
- Khi ngoại cảnh thỏa
thích, trong lòng hớn-hở thì thanh âm nghe hể-hả.
- Khi ngoại cảnh có điều
không lành, trong lòng tức giận thì thanh âm nghe thô-thiển dữ tợn.
- Khi ngoại cảnh trông thấy
tôn-nghiêm thì thanh âm nghe chánh-trực, nghiêm-trang.
- Khi ngoại cảnh làm cho
sanh ra lòng yêu mến thì thanh âm nghe dịu dàng, hòa nhã .
2 - NHẠC LÀ HÒA
Nhân-lọai hòa không theo định-luật
của vũ-trụ và vạn-vật.
Vì ở đây không phải trạng-thái
Âm Dương. Hòa để sanh-hoá. Nhân-loại hòa để thuận; hòa nhưng vẫn giữ nguyên sắc-thái
riêng nên gọi là Tập-thể-hòa.
Trạng-thái tập-thể-hòa giống
như sự hòa đàn, hòa nhạc (Hòa âm, lập ngôn). Trong dàn nhạc, mỗi Nhạc-sĩ tự do
phát huy tài-nghệ; nhạc-cụ tự-nhiên trổi giọng thanh tao, nhưng đồng theo nhịp
nhàng trầm bổng, tạo nên một bản hòa tấu êm tai, phấn chí.
“Thầy nói: Vạn vật trong
càn-khôn vũ-trụ có tác dụng tương-đối nhau. Vật nầy ảnh-hưởng đến vật kia một
cách mật-thiết cho đến đỗi trước mắt Thầy tất cả là một bản nhạc đại-hòa tòan
năng toàn thiện, để riêng rẻ thì không một vật nào hoàn-toàn, nhưng hợp nhất lại
thành một khối linh-diệu vô cùng. Lẽ Đạo là như thế.
“Giữa các con và một hạt
cát, chưa một vật nào hơn một vật nào. Vạn-vật thảy đều có cái lý riêng của nó.
Càng phân-tích lại càng chia rẻ, mà càng hòa-hiệp lại càng qui nhứt. Cười! Lý Đạo
nhiệm-mầu như thế, con hãy rõ cái lý chơn thật để suy gẫm.
“Một mùa Xuân không phải
chỉ gồm có mây lành, trăng sáng, hoa đẹp, gió trong mà gồm cả những đám hoa gai
gốc, những ánh nắng gay-gắt lẫn dịu-dàng, những dòng sông uốn khúc, những tấm
lòng hớn-hở cũng như những nỗi-niềm đau thương. Xuân là tất cả những hương sắc
của đất trời hòa-hợp lại. Xuân là tất cả những nét đẹp và xấu hòa lẫn nhau
trong đó thể hiện sâu xa nhất cái đẹp vĩnh-cữu và ngự trị trên ấy một ánh dương
quang. Tóm lại Xuân là khoảng thời-gian thịnh sáng của một chu-kỳ thời gian lẫn
không gian. Đó lý Đạo nhiệm-mầu là thế.
“Trong tốt có xấu, trong xấu
có tốt, nhiều cái xấu tạo nên cái tốt, nhiều cái tốt tạo nên cái xấu mới lại do
những cái gọi là xấu ấy hòa-hiệp nhau thành điểm tốt hoàn-toàn.
“Còn phân tán là còn luân
lạc ra đi, khi hòa-hợp là lúc đầm-ấm trở về. Đi, về mãi mãi cho cùng tận
càn-khôn để chơn-linh mãi cao-trọng đó là lý chơn-chánh nhất của Đạo-mầu.
“Tôn-giáo ở địa-cầu tuy nhiều
như thế và dường phản-khắc nhau nhưng sự thật vẫn hòa-hợp lẫn nhau. Nếu không
có sáo, không trống, không kèn, không đàn, không nhịp phách, không dễ chi tạo bản
Đại-hòa.
Nhiều chơn linh tấn-hóa
không đồng đều thì có nhiều Tôn-giáo mở ra để thích hợp cho trình-độ của họ, Thầy
cho mở Đạo cùng khắp các nơi không khác nào Thầy cho nhiều trẻ đi học từng phần,
từng cách xử-dụng nhạc cụ, để một ngày nào đó họp lẫn nhau lập thành một phiên
Đại-Nhạc-hội.
- Phiên Đại-hội ấy ngày
nay chính là Hội Long-Hoa.
- Bản Hòa-tấu ấy là bản Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ Độ.
- Nơi Đại-hòa-tấu ấy là
Tòa-Thánh Tây-ninh tại nước Việt-Nam của các con”.
Ngày nay, Đức Chí-Tôn mở Đạo
dùng cả Âm, thinh, sắc, tướng, để cảm hóa nhân-tâm không gì bằng Âm-nhạc. Lại nữa
linh-hồn của Đạo phải kể đến: Nhạc, Lễ và Đồng-nhi, tức là hồn của thi thơ đó vậy.
Lời tựa trong kinh Thi đã diễn-tả được tinh-thần ấy:
“Khi hoài-bão còn ở trong
tâm của người là Chí, phát ra lời là Thi.
Tình động ở trong mà diễn
ra bằng lời, lời thấy chưa đủ thì ta ta-thán. Ta-thán thấy chưa đủ, thì ta ca vịnh.
Ca vịnh thấy chưa đủ, thì bất-giác tay ta múa, chơn ta nhảy.
Tình cũng phát-động ở
trong mà diễn ra bằng âm thanh. Âm-thanh thành bài gọi là âm-nhạc:
- Nước trị thì âm-nhạc yên
và vui, chánh-trị được điều-hòa,
- Nước loạn thì âm-nhạc
oán và nộ, chánh-trị bị ngang trái,
- Nước mất thì Âm-nhạc buồn
và rầu, dân-tình khốn đốn.
Bởi vậy, chính-đính còn
hay mất, làm động đến thiên địa, cảm đến quỉ thần, không gì bằng Kinh Thi”.
Từ khi mới mở Đạo, Đức Hộ-Pháp
đã chú-ý đào luyện cho bộ Nhạc về môn Âm-nhạc cổ-truyền, Đức Ngài ban Thánh-lịnh
cho Chức-sắc Bộ Nhạc để đi hành Đạo địa-phương và giải-thích về giá-trị cần-thiết
của Nhạc:
Nhạc 樂 là cái gì đặt bên trên
âm-thanh.
Thanh 聲 là một tiếng kêu nào bất cứ. Khi tiếng kêu đó có văn-vẻ, tiết-điệu thì gọi
là Âm 音. Khi âm đó đưa tới Đức gọi là Nhạc.
“Thanh văn chi vị âm, đức âm chi vị nhạc”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét