Báo Quốc Từ - 2 / 2 (Nữ Soạn giả Nguyên Thủy)


Kế hoạch tấn công được duyệt lại. Lực lượng xung kính chính, để chiếm Kinh thành sẽ là 3.000 lính mộ. Thực dân sẽ tập trung tại Huế để luyện tập, chờ ngày đưa vào Đà-Nẵng xuống tàu sang Pháp. Theo tin tình báo thì mộ binh từ Quảng Bình, Quảng Trị sẽ được đưa vào Huế, vào trung tuần tháng 4 dương lịch. Và tàu vận tải nhà binh Pháp sẽ cập bến vào thượng tuần tháng 5 dương lịch. Ước lượng theo hai yếu tố đó, ngày khởi binh được ấn định
vào đêm 3 tháng 5 năm 1916. Hiệu lịnh động binh sẽ được phát ra từ trường Quốc học, bằng cách đốt hai dãy nhà tranh của trường ấy.
            “Mưu sự tại nhân thành sự tại Thiên” mà bại sự chắc chắn cũng là tại nhơn…

            Công việc dự bị được xúc tiến trong vòng bí mật cho đến giờ phút chót. Cơ mưu bị bại lộ ngay trước giờ xuất quân, vừa tối trời ngày 3 tháng 5 dương lịch Tôn Thất Để và Nguyễn Văn Siêu phò Đức Vua đi ra khỏi Hoàng thành, tại đây ông Trần Cao Vân và Thái Phiên đã chực sẵn trong một chiếc thuyền.

            Thế là Đức Vua vĩnh biệt ngai vàng, từ đây quyết hy sinh cuộc đời vàng ngọc cho Tổ quốc. Có sách chép, khi Ngài cải trang ra đến bờ sông Hồng giang định cùng hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên đi vào Quảng Nam, thì có một đảng viên bình nhựt có tiếp xúc với Ngài trông thấy và chính đảng viên này đi tố cáo với thực dân.

            Dầu thế nào trong ba ngày lùng kiếm khắp nơi, mật thám Pháp vẫn không dò ra tung tích. Mãi đến chiều ngày thứ ba, chúng nó mới tìm thấy Ngài trong một ngôi chùa trên núi Ngũ Phong. Thực dân sai một đám triều thần lên đó tâu xin Ngài hồi loan, có kẻ dùng lời nói quỉ mị ứa hai hàng nước mắt mà năn nỉ, nhưng Ngài nhứt định không nghe, thà để cho thực dân bắt. Đức Vua bị bắt và bị cầm giữ tại đồn Mang Cá của quân Pháp.

            Lúc bấy giờ, thực dân rất bối rối vì nhiều lẽ: nước nhà của chúng đang lâm nguy, quân Đức đã chiếm cứ vùng Đông Bắc. Khẩu hiệu Cách mạng đã lan tràn trong đại chúng Việt Nam. Đức Vua được thần dân vô cùng ngưỡng mộ. Toà Khâm sứ Trung Việt sợ, nếu không liệu thế thu hẹp câu chuyện lại thì hoá ra cơ quan mật thám của chúng bất lực, trong khi công việc chính của chúng thám thính động tịnh. Cho nên chúng nó đấu dịu với Ngài.
            Mặt khác ông Trần Cao Vân lo sợ Ngài có mệnh hệ nào dưới độc thủ của bọn thám tử Pháp.
Trong lời cung khai, ông nhận hết tội lỗi, không khai ra một lời gì để cho thực dân có thể dựa vào đó mà buộc tội Đức Vua.

Nhưng khi thực dân hỏi đến Đức Ngài, thì Ngài lại không đổ lỗi cho ai khác, mà lại dụng ý che chở cho những kẻ cộng sự, tự nhận tất cả âm mưu đánh đuổi ngoại xâm khôi phục đất nước.

Do đó Ngài bị đồ lưu qua Đảo Réunion. Các lãnh tụ VIỆT NAM QUANG PHỤC HỘI đều bị kết án tử hình và bị hành quyết tại An Hoà, gần Kinh thành. Một số người khác có liên can đều bị tù đày.

Vua DUY TÂN năm ấy 17 tuổi trị vì được mười năm. Ngài là một thanh niên ưu tú, Ngài không thể ăn không ngồi rồi, nên phải đi học thêm và 28 năm sống thừa, phải hoạt động theo sở thích của mình: nào nghiên cứu khoa học, khảo lự Âm nhạc cổ kim, nào vui say theo nghề Phi công cho qua ngày tháng.

Đức DUY TÂN tử thương trong một tai nạn máy bay, trong khi tấm thân còn trong vòng ly tiết, nơi đất khách quê người, hưởng thọ 45 tuổi.

Cả một cuộc đời hy sinh cho tự do độc lập mà từ khi lên bảy cho đến khi chết, Ngài không được hưởng một ngày tự do độc lập. Nỗi căm hờn buồn tủi của Ngài nơi tuyền đài kể làm sao xiết!

Nhưng anh linh của Ngài mà toàn thể Tín đồ Đại Đạo Cao Đài và những khách hành hương khác, hiện diện trong buổi Lễ ngày 16 tháng 8 vừa qua, đều thành kỉnh tưởng niệm đến, sẽ đời đời phưởng phất trong tâm trí của thần dân, luôn luôn nhắc nhở cho chúng ta tinh thần bất khuất của dân tộc.(Trích Báo Quốc Từ của Ô. Hiển Trung)           

            Hoàng Tử Vĩnh San. Ông Vua ấy lại sinh vào một hoàn cảnh xã hội đến lúc điêu tàn, đen tối nhứt trong lịch sử. Bao nhiêu nỗi bầm gan, tím ruột, tủi nhục, ích kỷ, bất công bao trùm đầy nghẹt chẳng những riêng cho nhà Vua mà cả một dân tộc bấy giờ. Nào những biến cố trong hoàng triều: từ Vua Tự đức nhắm mắt lìa trần, triều đình ngày một khuynh đảo, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn văn Tường tự quyền phế lập, bỏ Vua Dục Đức lại còn bắt hạ ngục bỏ đói cho chết.

            Vua Hiệp Hoà lên nối ngôi được bốn tháng rồi cũng bị hạ ngục, ép phải uống thuốc độc mà chết. Vua Hàm Nghi phải bỏ ngôi! Đến Đức Phụ-Hoàng (vua Thành Thái) của nhà vua cũng bị đày! Trước bao tấn thảm kịch thê lương đã diễn ra tưởng trong lịch sử của Hoàng tộc chưa bao giờ có, thì bảo sao vì Vua trẻ tuổi không đau khổ đến ngần ấy cho được!

Lớn lên Vua DUY TÂN tỏ ra là một thanh niên tuấn tú, hiên ngang, lỗi lạc và cũng như Vua Cha có ý bài Pháp. Tất nhiên lúc đó đã có người bí mật liên lạc với Ngài để trình bày nông nỗi Vua Cha bị người Pháp đày và áp bức, triều thần phản bội và sự khổ nhục của quốc dân từ ngày mất nước, do đó mà tâm trạng của Ngài bị kích thích,  rồi Ngài hay đòi ra ngoài lấy cớ chốn Cung điện quá tù túng. Người Pháp cho làm nhà thừa lương ngoài cửa Tùng (Quảng Trị) để Ngài ra nghỉ mát và tiêu khiển. Thực ra, Ngài ra ngoài xem xét dân tình và để bắt liên lạc với nhân sĩ trong nước. Ngài đã gặp Khoá Bảo là một nhà Cách mạng và một số nhân sĩ ái quốc tại địa phương này.

            Một hôm Ngài chơi cát ngoài bãi biển, một cận thần lấy nước cho Ngài rửa tay. Vừa rửa tay, Ngài hỏi:
Tay bẩn lấy gì mà rửa?
 - Tay bẩn lấy nước mà rửa.
Thế nước bẩn lấy gì mà rửa ?
-  Nước bẩn lấy máu mà rửa!

Được biết Ngài khảng khái và yêu nước thương dân, nhiều lãnh tụ phong trào Hậu Văn Thân bí mật tìm đến Ngài để cùng gây phong trào cứu quốc nối tiếp sự nghiệp của Vua Hàm Nghi và Thành Thái.

Thế là nhiều cuộc phản động nổi lên nhưng không được toại ý. Sau cùng vào một đêm rạng ngày 2 tháng 4 năm Duy Tân thứ 10 (dl 3-5-1916) vua Duy Tân định lẻn ra khỏi Hoàng thành, không may lại gặp tên mật thám Nguyễn Văn Trứ làm Thông Phán toà Khâm. Liền đó, Vua bị lính đuổi theo. Túng thế, nhà Vua phải gói Ấn bỏ lại trên cầu Tràng Tiền rồi đánh lừa quân lính mà theo Thái Phiên và Trần Cao Vân lẫn trốn. Toà Khâm phái Phan Đình Khôi mang quân đi tầm nã, bắt được Thái Phiên ở Chùa Thiên Mụ, đưa về Huế và nhốt vào đồn Mang cá.

Trần Cao Vân cũng bị bắt ở làng Hà Trung  thuộc huyện Phú Lộc (Huế).

            Ngày 17 tháng 5 năm 1916, các Ông Trần Cao Vân, Thái Phiên và hai tên thị vệ bị đem ra chém tại An Hoà, còn Vua Duy Tân sau 10 ngày bị bắt nhốt ở Đồn Mang cá, Pháp liền đưa Ngài sang Đảo Réunion ở Phi Châu.

            Cuộc Cách Mạng của phong kiến lại một phen nữa đổ nhiều xương máu và vô cùng uổng phí. Rồi từ đó gọng kìm Đế quốc siết chặt hơn bao giờ hết vào giới quan liêu và trí thức Việt Nam.

            Vua Duy Tân rời khỏi nước thì Ông Hoàng Bửu Đảo con Vua Đồng Khánh lên ngôi lấy hiệu là Khải Định vào năm 1916. Vua Khải Định trị vì đến năm 1926 thì mất

CUỘC KHỞI NGHĨA DUY TÂN
(Phỏng theo  tài liệu Trung Thiên Dịch &Trung Thiên Đồ của Cụ Trần Công Định)

Sau cuộc khởi nghĩa Duy Tân (ngày 4-5-1916) là một cuộc Cách mạng có đông đủ quần chúng tham gia tích cực, quân dân hợp tác, binh sĩ một lòng, tất cả  đều nhiệt liệt hưởng ứng cuộc khởi nghĩa ngày 3-5-1916 nhằm lật đổ chế độ thống trị của thực dân Pháp để giành lại quyền độc lập tự chủ cho quốc gia tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Vì vận nước thời dân, cuộc khởi nghĩa Duy Tân hoàn toàn thất bại.Cụ trần Cao Vân và bao nhiêu chiến sĩ Cách mạng đã đi vào lịch sử gây ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần yêu nước của đồng bào ta và dư luận khắp trên Thế giới.

A - Đối với đồng bào trong nước:
Cuộc khởi nghĩa Duy Tân là một tiếng súng vang trời thức tỉnh đồng bào ta lên đường chống thực dân pháp, nói lên tinh thần quân dân hợp tác, binh sĩ một lòng. Bởi thế các tỉnh miền Trung đã nhất tề hưởng ứng cuộc khởi nghĩa này, làm cho thực dân Pháp khiếp vía kinh hồn. Vụ binh biến của Đại Tá Harmandes hưởng ứng theo phong trào khởi nghĩa đã làm cho quân sĩ Pháp bỏ mạng rất nhiều trong cuộc biến động tại Trấn Bình Đài (Mang Cá) vào ngày 02-5-1916.

            Sau cuộc khởi nghĩa Duy Tân đã gây cho dân ta một sự căm thù, phẫn uất trước những hành động dã man của thực dân Pháp; càng căm thù chán ghét càng siết chặc thêm hàng ngũ, nung nấu thêm tim gan, học tập thêm kinh nghiệm quyết chiến thắng thực dân để khôi phục nền tự  chủ cho Tổ quốc, để rửa thù cho tiên liệt và xây dựng cho thế hệ tương lai. Bởi thế cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn tại Thái Nguyên (1917) tiếp diễn để trả lời cho chính sách phi nhân vô đạo của thực dân Pháp cùng với những lời nguyền rũa khóc than ai oán trong dân chúng. Trước thảm cảnh con mất cha, vợ mất chồng với bao thảm hoạ tím ruột bầm gan vì hành động bạo tàn chém giết tra tấn, lưu đày của thực dân Pháp đối với dân ta thời đó.

Đọc bài “Khuê Phụ thán” sau đây ai lại không xúc cảm trước những lời ai oán xót thương trong cảnh biệt ly của một người vợ mất chồng, người mẹ mất con, mà cả chồng và con đều bị lưu đày biệt xứ. Đấy là lời than vãn của một Bà Hoàng Hậu, vợ Vua Thành Thái, mẹ Vua Duy Tân, cả hai vị anh quân nhiệt tâm thương dân yêu nước, quyết khôi phục giang san cho Tổ quốc, đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng đại sự bất thành, đành phải xa lìa xứ sở  thân yêu, sống nơi chân trời góc biển:
Chồng hỡi chồng! Con hỡi con !
Cùng nhau xa cách mấy năm tròn.
Bên trời góc biển thân chim cá,
Dạn gió dầy sương tủi nước non.

Càng buồn tủi cho nước non càng căm thù bọn thực dân vô đạo, rồi chỉ biết đem tâm sự ấy hỏi Trời. Tại sao tạo hoá gây chi cảnh bất bình tang thương như thế?
Bớ bớ Xanh kia sao chẳng đoái?
Tấm lòng  uất tức một canh thâu,
Canh thâu chưa ngủ hãy còn ngồi.
Gan ruột như dầu sục sục sôi !
Non nước xanh xanh trời một góc,
Chồng hỡi chồng! Con hỡi con ơi !
Con ôi! Ruột mẹ bấn như tương,
Bảy nổi ba chìm rất thảm thương!
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương…!

Cũng chính vì cuộc khởi nghĩa Duy Tân đã nói lên lòng nhiệt thành yêu nước của dân tộc Việt Nam từ vua, quan đến các bậc sĩ phu, trí thức, binh lính, nông dân, cả đến các chiến sĩ hữu danh hay vô danh đều đoàn kết quyết tâm, nguyện chiến đấu  và hy sinh cho Tổ quốc.

Để tưởng nhớ đến các vị anh hùng dân tộc đã hy sinh vì sự nghiệp Cách mạng quốc gia, mà trong Thi Tù Tùng thoại của Cụ Huỳnh Thúc kháng đã ghi lại những bài thơ sau đây, nêu rõ từng nhân vật trong công cuộc khởi nghĩa Duy Tân (ngày 04-05-1916).

Đây là Vua Duy Tân, một  nhà vua trẻ tuổi, nhưng Người có chí khí phi thường, biết qui tụ những bậc anh hùng yêu nước để mưu đồ đại sự, quyết tâm cứu vãn nước nhà thoát vòng nô lệ của thực dân Pháp. Chính Ngài đã cầm đầu và hạ lịnh tổng khởi nghĩa Duy Tân (3-5-1916):
Nhục thực dinh đình nhãn để không,
Ám trung thảo dã kiết anh hùng.
Sổ hàng y đới tùng thiên hạ,
Thần quỉ tiềm hào vạn hác  phong.

                                   Dịch nghĩa:
Đầy nhà chung đỉnh mặc ai,
Đồng quê thầm kết những tay anh hùng.
Chiếu Trời ban xuống đôi hàng,
Thần reo quỉ khóc muôn hang gió lồng.

Tuy đại sự bất thành, nhưng chí khí phi thường, mưu lược và hùng tâm Cách mạng của Vua Duy Tân không kém gì những bậc anh hùng nổi danh như Williams (Ý) và Minh Trị Thiên Hoàng (Nhựt) nhưng khác nhau chỉ ở sự thành công  hay không mà thôi:
Càn tuyền Khôn chuyển thử hà thần,
Minh Trị, Duy Liêm nhất bối nhân.
Sự  nghiệp bất thành hùng đoán tại,
Vô tầm niên hiệu hoán Duy Tân.

漸年

                                   Dịch nghĩa:
Xoay trời chuyển đất ra tay,
Duy Liêm, Minh Trị bậc này nhường ai?
Việc hư hùng đoán còn hoài,
Duy Tân niên hiệu mấy ai sánh bằng?

Khi cuộc khởi nghĩa Duy Tân thất bại mang theo sự đổ vỡ công nghiệp của nhà Vua. Gần 10 năm ở ngôi mà ngày nay coi như không còn nữa. Khi nước nhà gặp cảnh ly loạn lâm nguy, mới thấy được ai là người trung nghĩa thuỷ chung vì dân, vì nước như Cụ Trần Cao Vân, cụ Thái Phiên đã quyết cùng Vua sống chết.

            Khi Vua Duy Tân xuống tàu từ Long Hải (Ô Cấp – Vũng Tàu) đưa sang đảo Réunion, lần này là lần cuối cùng sẽ từ biệt quê hương yêu dấu, sống nơi hoang đảo thê lương. Tuy người ra đi nhưng hùng khí Cách mạng của dân tộc Việt Nam vẫn còn mãi mãi như gào thét phải quyết chiến và quyết thắng thực dân Pháp để sống còn.

            Một phần anh em trong hàng ngũ quân đội Pháp cũng quyết tâm hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Duy-Tân. Tất cả đều sẵn sàng lau gươm lắp súng và đợi lệnh là xung phong diệt địch đã làm cho thực dân Pháp khiếp vía. Cuộc khởi nghĩa Duy Tân dân chúng tham gia đông đảo, phần lớn là những người đã từng đấu tranh quyết liệt qua các phong trào khất sưu, kháng thuế tại các Tỉnh miền Trung. Rồi tiếp tục tham gia vào cuộc Duy Tân khởi nghĩa (3-5-1916)đa số là người thiện chiến anh dũng phi thường, quyết tâm phục vụ cho quốc gia dân tộc. 
Cuộc khởi nghĩa Duy Tân là một cuộc Cách mạng biểu hiện tinh thần bất khuất của dân tộc ta, quyết tâm đoàn kết chống Pháp, giành độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng vì vận nước thời dân, cuộc khởi nghĩa Duy Tân thất bại, tiền nhân ta đành phải đem cái chết để đền bồi cho nợ non sông tổ quốc. Điều đó là một bài học “kinh nghiệm xương máu” vô cùng cao quí đáng cho chúng ta quan tâm suy nghĩ về tiền đồ tương lai của dân tộc.

B - Đối với dư luận thế giới:
Sau cuộc khởi nghĩa Duy Tân, thực dân Pháp cố ý che đậy dã tâm xâm lược và tội ác tày trời của chúng tại Việt Nam. Chúng còn âm mưu cấu kết với bọn gian manh, chủ trương làm tay sai xuyên tạc sự thật của quân dân ta với sự thiệt hại của chúng để đánh lừa dư luận Thế giới. Chúng cho rằng “Cuộc khởi nghĩa Duy Tân ngày 4-5-1916 chỉ là cuộc mưu đồ của nhà vua trẻ tuổi, chưa trị vì, còn đương ở dưới sự bảo trợ của Hội dồng nhiếp chánh. Ngài trốn khỏi Cung điện để gặp nhóm phiến loạn.Cuộc khởi nghĩa của Ngài đã bị thất bại một cách thảm hại. Dân chúng An Nam từ 30 năm nay đã ưa chuộng nền bảo hộ tốt lành, nhân đức của nước Pháp, nên họ trung thành với chánh quốc, không đáp lại lời kêu gọi của nhà vua”.

            Cả đến bọn quan lại tư bản thực dân Pháp tại Đông dương cũng đồng loã và cố tình che dấu sự thật, tuyên truyền lấp liếm bằng cách klhoa trương cuộc thanh bình giả tạo ở Đông Dương. Chúng cho rằng “Cuộc khởi nghĩa Duy Tân chỉ là việc làm của một vị ấu vương An nam, thấy trong nước mênh mông rộng rãi của mình chỉ có 180 người lính Pháp canh giữ, nghe những lời bàn nhảm định khôi phục lại nước nhà tưởng là điều dễ lắm. Nhưng quần thần đều từ chối cho nên vị ấu vương bị mất ngai vàng.”

            Thực ra cuộc khởi nghĩa Duy Tân (1916) làm cho thực dân Pháp tại Đông dương phải núng thế, càng lo sợ hơn là phong trào xin xâu, chống thuế (1908) tại các tỉnh miền Trung. Vì đây là một cuộc Cách mạng có chủ trương đường lối rõ rệt và đông đảo quần chúng tham gia trong tinh thần quân dân hợp tác, để chống thực dân Pháp giành lại quyền tự chủ cho quốc gia, đem lại hạnh phúc tự do cho dân tộc. Bởi vậy sau cuộc khởi nghĩa Duy Tân, chánh phủ Pháp đã phái Toàn quyền M.Albert Sarraut sang Đông dương (ngày 22-11-1927) để thực thi một cuộc cải cách đứng đắn của chánh phủ Pháp tại Việt Nam.

Chính nhà Sử học Thế giới Philippe viết về Việt Nam đã nhận định:
“Cuộc khởi nghĩa Duy Tân do chủ trương của một Hội kín: Việt Nam Quang Phục Hội, khắp trên toàn quốc.  Đoàn thể này từ đây sẽ điều động các lực lượng của các hội kín, nhất là ở miền Nam Việt Nam, đang trong thời kỳ hoạt động mạnh mẽ, nhiều cuộc phá rối, khởi loạn. Cũng có những cuộc nội loạn thực sự vào năm 1913-1916.

Ở Bắc Việt, tướng du kích thời 1892-1896 là Đề Thám đã tiếp tục chiến đấu trở lại vào năm 1909 và bị hạ vào năm 1913. Cuộc biến động lan tràn đến Huế. Vua Duy Tân trẻ tuổi có một tinh thần hăng hái, đã được các đoàn thể quốc gia thuyết phục tháng 5-1916. Nhà Vua trốn Cung điện cầm đầu một cuộc khởi nghĩa không lớn lắm,  đó là hội kín gây nên. Bị bắt, nhà vua bị truất ngôi và đày ở cạnh Cha gần Alger.

Và chính cũng vì cuộc khởi nghĩa Duy Tân mà một Giáo sư Sirdar Ikbal Ali nghiên cứu về Triết học văn học viễn đông đã cho rằng: Cuộc khởi nghĩa Duy Tân là một cuộc Cách mạng. Sirdar Ikbal Ali đã nói:

“Hoàng Tử Vĩnh San niên hiệu Duy Tân, nhà Vua trẻ tuổi, khi đầy đủ trí thông minh sáng suốt, đã nhận thức rõ, dưới quyền cai trị của người Pháp, dân Việt không có hạnh phúc gì cả. Sự thành tín giao hảo với văn hoá cổ truyền tốt đẹp từ xưa của người Việt Nam đã được minh chứng qua những hành động của thực dân Pháp đối với việc khai quật lăng vua Tự Đức để tìm vàng và châu báu. Người Pháp không còn chạy chối được hành động này. Bất thình lình cuộc đại chiến thứ I bùng nổ. Nhà vua trẻ tuổi cầm đầu một cuộc Cách mạng, nhưng vì thế yếu, bị đày sang đảo Réunion Island với Phụ Hoàng 1916.”       

“The lad of  eight years of age Prince Vinh san was given the royal name of Duy Tân. This youth was sufficiently mature in mind to see that  his people were  not happy  under French ascendancy. He was too, enraged,

according to Vietnamese historians, to discover that the grave of Tự Đức was dug up by the French not for any archaeological interest but for the sake of the gold and jewels that were to be found in it . The French of course denied  this fact.

             Matters took a sudden turn on the outbreak  of the first world war, when the young ruler managed  to raise a revolt, but the effort failed and he was exiled to Réunion Island like his father  1916”.

            Tóm lại:
            Tất cả các yếu tố thực tế và hiển nhiên  như thế, dù cho thực dân Pháp cố tình che dấu cũng chỉ là vô ích. Đó là ảnh hưởng sau cuộc khởi nghĩa Duy Tân đối với đồng bào ta, là một bài học kinh nghiệm vô cùng quí giá  trong công cuộc chống ngoại xâm. Và cũng làm cho thế giới biết rõ chánh sách đô hộ bạo tàn của thực dân Pháp đối với dân ta trên 30 năm đô hộ.Cuộc khởi nghĩa Duy Tân (4-5-1916) là cuộc cách mạng chủ trương lật đổ một chế độ thống trị thối nát lỗi thời, để lập nên một chế độ văn minh và nhân bản. Than ôi, dù có KẾ HOẠCH KHỞI NGHĨ, nhưng không thành:

            1 - Tổng phát động khởi nghĩa toàn diện, đúng giờ Tý ngày mùng 2 tháng 4 năm Bính Thìn. Khởi điểm tại Kinh Đô Huế, sẽ bắn súng thần công báo hiệu lịnh cho hai tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình đồng thời ở đèo Hải Vân cũng nổi hiệu cho hai Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi.

2 - Huy động các đạo quân Thừa Thiên, hưởng ứng trợ  oai cho các đội binh sĩ chiếm lấy kinh đô Huế.

3 - Thu cả toàn lực Quảng Nam, Quảng ngãi, dân chúng hợp lực với binh sĩ chiếm giữ cửa đà Nẵng để mở đường giao thông với Đức. Ngoài ra các tỉnh khác cũng theo kế hoạch bạo động cướp chánh quyền như thế.

4 - Vạn nhất tấn công không thắng lợi, thì đạo quân Quảng Nam rút về phía Tây chiếm vùng rừng núi Bà-Nà, đạo quân Quảng Ngãi kéo lên miền Gió Rứt, là những địa  điểm hiểm trở  làm hậu thuẫn cho những cuộc phản công

Do sự uỷ nhiệm của việt nam quân chánh phủ, các yếu nhân Cách mạng mỗi người đều có công tác phụ trách điều khiển mỗi Tỉnh do Cụ Trần Cao Vân, Thái Phiên điều động chiếm thủ Kinh đô và phụ trách rước Vua Duy Tân ra khỏi Hoàng thành, chờ cuộc hỗn loạn bình định và chánh quyền vãn hồi sẽ tôn nhà vua trở lại ngôi.

Kế hoạch đã quyết định và phâ n phối hoàn bị, chỉ còn chờ ngày thi hành…Nhưng …CƠ MƯU BẠI LỘ…
Vua Duy-Tân ngày 05-9-1907

Vua DUY-TÂN  19-09-1907

ẤU CHÚA DUY TÂN

4 - KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ ĐIỆN HẠ
(1871-1951) 
KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ ĐIỆN HẠ sanh tại Thuận Hoá (Trung Việt) ngày 11 tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (niên hiệu Tự Đức thứ 33) dương lịch 28-02- 1882. Qui vị tại Đông Kinh (Nhựt Bổn) ngày 01-03 năm Tân Mão (Dl 6-4-1951). Hưởng thọ được 80 tuổi. Người  là con của Hàm Hoá Hương Công, cháu năm đời của Tinh Duệ Hoàng Thái Tử (Đức Hoàng Tử Cảnh) sanh tại Huế Điện Hạ được tập Tước Kỳ-Ngoại-Hầu nhưng không xuất sĩ.

Sanh ra giữa cơn binh lửa, giang san xã tắc cơ đồ sụp đổ, khôn lớn trong lúc quốc hận, nợ nước thù nhà tràn ngập non sông. Người đã nghe được tiếng nói căm hờn của dân tộc, đã thấy được nỗi đau khổ của đồng bào dưới sự áp chế của bọn xâm lăng. Những danh từ Tổ quốc, Tổ nghiệp, cứu nước, cứu dân, đã ăn sâu vào trí non nớt của Ngài. Rồi như số trời đã định, sẽ luôn luôn thúc giục và trong hơn nửa thế kỷ về sau sẽ là phương châm và mục đích duy nhất của cuộc đời Cách mạng của vị Hoàng Thân tận tuỵ với Tổ quốc dân tộc.

            Khi mới 13 tuổi, Người đã có cơ hội để Phụng sự đại nghĩa. Năm ấy (1895) đảng Văn Thân Cần Vương  Nghệ Tĩnh do Cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo, phái người  vào Kinh rước Hàm Hoá Hương Công ra làm Thủ lãnh, để tăng cường thể lực cho lực lượng kháng chiến đang gặp lúc khó khăn. Nhưng tự xét tuổi già sức yếu, Hương Công bèn cử Điện Hạ đi thay. Chẳng may sứ giả của cụ Phan vào đón Người lại lâm bịnh, chết giữa đường, rồi không bao lâu cụ Phan cũng mất và ngay sau đó, tổ chức Cần Vương Nghệ Tĩnh bị quân thù đánh úp tan vỡ.

            Giáo dục của Người được sớm chuyển từ cựu học qua tân học. Không học từ chương khoa cử cũ, mà học Sử ký, Địa dư, Người ham đọc những Tân thơ và Chánh trị, kinh tế của những nhà Tân học danh tiếng Trung Quốc.

Đến khi Người trở thành một thanh niên trí thức, trong khoảng từ 17 đến 21 tuổi, hai cớ khác để hiển thân cho nước, lại kế tiếp đến thực dân định truất phế Đức Thành Thái và tôn Người lên thay ngôi. Nhưng Người cương quyết từ chối, tuy nói rằng lấy nghĩa quân thần làm trọng, nhưng thiệt ra Điện Hạ quyết không hợp tác với Quân chủ.

Năm 1903 nhà đại cách mạng Phan Bội Châu và Việt Nam Quang Phục Hội  tại Quảng Nam, Phan tiên sinh bí mật hội kiến với Người, trình bày mục đích của đảng Cách mạng đánh đuổi thực dân, khôi phục độc lập và rước người làm Hội Chủ. Bởi Ông thuộc dòng dõi của Hoàng Tử Cảnh, con trưởng của Vua Gia Long, có tinh thần Cách mạng và được Việt Nam Quang Phục Hội tôn làm Hội chủ

Cá nước gặp Rồng mây, Điện Hạ nhận lời ngay và từ đó nghiễm nhiên trở thành vị lãnh tụ của Đảng Cách mạng đầu tiên của dân tộc với nhiệm vụ  Phục quốc an dân.

            Được quốc dân Nam, Trung, Bắc hưởng ứng, Quang Phục Hội chuẩn bị tiến hành ngay kế hoạch khởi binh đánh Pháp, nhưng vấn đề khí giới khó mà giải quyết được tại trong nước.

            Năm 1905, Ông Phan Bội Châu được cử đi ngoại quốc tìm mua súng đạn và cầu viện các quốc gia đồng văn, đồng chủng. Qua đến Nhựt Bản, ông được tiếp đón ân cần,  song dân tộc Bảo-Hoàng Phù Tang yêu cầu trực tiếp giao thiệp với Hoàng Thân lãnh tụ mới bàn đến việc viện trợ.

            Tháng 2 năm Bính Ngọ (1906) Cường Để Điện Hạ từ giã ra đi. Bước chân ra đi như cỡi tấm lòng, Hoàng Thân xiết bao hy vọng. Hy vọng nơi tình huynh đệ của dân tộc Phù Tang. Hy vọng nơi sự chiến thắng vẻ vang của Hoàng quân trong trận Nhật Nga đại chiến vừa qua. Hy vọng nơi sự thành công của mình: ngoại viện có, súng đạn có, ngày khởi nghĩa không xa mà Cách mạng sẽ thành công! Than ôi! Càng hy vọng nhiều, sự thất vọng càng nặng nề.

            Đến Hoành Tân – Đông kinh, Điện Hạ tiếp xúc được ngay với những yếu nhân Nhật: như Bá tước Đại-Ôi lãnh tụ Đảng Tiến bộ; ông Khuyển Dưỡng Nghị (sau này là Thủ Tướng nước Nhật). Các ông đều tỏ ý hoan nghinh và vui lòng chiếu cố, nhưng khi đề cập đến vấn đề viện trợ, đến khí giới, thì họ khuyên hãy chờ cơ hội!

Bao nhiêu hy vọng của các nhà lãnh tụ cách mạng đều xây dựng trên cảm tình, lý tưởng. Nhưng đến khi đụng chạm với thực tế, những hy vọng ấy trở thành thất vọng.

Trên đường Quốc tế, cảm tình, lý tưởng đều phải nhượng bộ cho điều kiện ngoại giao.Tuy đại thắng Nga La-Tư, nước Nhựt còn phải hưu dưỡng quốc lực, nhứt là về mặt quân sự và kinh tế. Quyền lợi ngoại giao của Nhật Bản còn phải gây cảm tình với các cường quốc Âu châu, 
nhứt là nước Pháp và nước Anh. Đó là thực tế, nó không cho phép nước Nhật ủng hộ cách mạng Việt Nam chống Pháp được.

Ngày tháng qua, mối thất vọng của vị Thủ lãnh Quang Phục Hội lại càng chua chát, khi nghe tin tại quốc nội một số lớn đảng viên chờ đợi lâu ngày không thấy súng đạn về đều chán nản, lại một vài đồng bào trí thức phát động chiến dịch diễn thuyết bài xích chủ trương cách mạng  bạo động của Quang Phục Hội.

Nhưng tuy thất vọng dồn dập, Điện Hạ không bỏ phí thời giờ trong khi chờ đợi cơ hội.

Vài tháng sau, khi đến Đông Kinh, Người đã lo việc giáo dục cho chính mình và cho những đồng bào thanh niên lục tục xuất dương qua Nhựt theo con đường Phụng sự của Người. đó là kế hoạch bồi dưỡng nhân tài..

Sinh viên Việt Nam phần nhiều được nhập học các trường Đại học Đông kinh, một số sau này trở nên Cán bộ của đảng, năm, bảy người sẽ cọng sự, chia sẻ đắng cay bùi ngọt với Điện Hạ cho đến ngày cùng.

            Cụ Cường Để đã từng theo học trường Chấn Võ Lục Quân Đông Kinh (Nhựt) năm 1906.

Qua năm 1908, Cụ học ở trường Đaị học Waseda. Cuối tháng 10 năm 1909  vì có lịnh nước Nhựt trục xuất những nhà Cách Mạng Việt Nam, Cụ phải sang Trung Hoa lánh nạn, qua Xiêm, sang Âu Châu và đã có lần về miền Nam Việt Nam với mục đích cổ động Phong Trào Đông du cầu học và hoạt động Cách mạng Cứu quốc.
Thời gian lo buồn toan tính, ngày tháng thoi đưa mà công việc chưa tiến được Điện Hạ sực nhớ đến nước Xiêm nơi Đức Cao-Hoàng ngày xưa lập căn cứ,dưỡng tinh sức nhuệ. Người bèn lìa Nhựt sang Xiêm với một hy vọng mới. Nhưng sau ba tháng quan sát, hy vọng cũng tiêu tan !

Nước Xiêm tiếng là độc lập, nhưng vẫn còn chịu thế lực của Anh, Pháp. Ngoại giao Pháp đã chận đường vận động của Cách mạng Việt Nam tại Xiêm. 

Người lại trở qua Nhật vào khoản 1908-1909, đoàn thể Việt Nam lưu trú tại Đông Kinh có trên 200 người, Chánh phủ Pháp dùng thủ đoạn ngoại giao yêu cầu Chánh phủ Nhật dẫn độ Điện Hạ và giải tán sinh viên Việt Nam. Tuy không đến nỗi áp dụng biện pháp dẫn độ, Chánh phủ Nhật phải chiếu theo Hiệp ước Nhật –Pháp 1907, áp dụng biện pháp “cưỡng bách xuất cảnh” đối với Người.

Khi tiễn chân Người từ giã đất Phù Tang, một ông bạn Nhật tặng cho Người một khẩu súng lục, để nếu không may lọt vào tay người Pháp, thì, súng này liệu với thân này  chứ không chịu nhục.

Từ ngày đặt chân trên xứ Mặt Trời mọc với biết bao hy vọng, đến ngày lủi thủi sắp lưng ra đi, vừa ba năm rưỡi, công bất thành danh bất toại, tâm trí của Người lúc bấy giờ

buồn tủi biết bao! Nhưng may cũng có một điều an ủi: Chánh phủ và những người bạn Nhật thật tình che chở, không để cho Người bị nhục trong tay bọn Pháp quyết tình bắt cho được Người.

Bước chân khỏi đất Nhật, Người phải hết sức đề phòng. Khi xuống tàu đi Thượng Hải, Người phải giả làm bồi tàu, làm đầu bếp. Khi đến Thượng Hải lại phải cạo trọc đầu, gắn đuôi sam, cải trang ra người Mãn Châu để che mắt bọn thám tử và cũng để cho người Tàu khỏi lầm là người Nhật mà họ đang ghét.

Thượng Hải, Hồng Kông,Quảng Châu đều là những căn cứ của Quang Phục Hội, nhưng lại cũng là những đất Tô giới Âu Mỹ. Trong khi lưu trú cũng như những lúc di chuyển, Người phải đổi tên, trốn tránh, có khi phải ở nhà những người bạn Tàu.Có chỗ chỉ những đồng chí thân-cận mới biết nơi cư ngụ.

            May thay! Trong khi cách mạng Việt Nam đang lâm vào cảnh lén lút thì Cách mạng Trung Hoa bừng dậy đánh phá Đế quốc Mãn Châu. Nhơn khi tình thế nước Tàu lộn xộn, Quang Phục Hội lại hoạt động ráo riết, đầy hy vọng. Một số vũ khí mua được, nhưng không có phương thế nào chở về nước được, vì người Pháp bưng bít tất cả đường lối, đành phải đem giúp Trung Quốc Đồng Minh Hội do nhà đại Cách mạng Tôn Văn lãnh đạo

            Tháng 10 năm 1911, Cách mạng Trung Hoa thành công, ông Tôn Văn được bầu lên chức đại Tổng Thống. Những lãnh tụ khác, ngày trước có tiếp xúc với Điện Hạ và cụ Phan Bội Châu, ngày nay đều giữ chức vụ quan trọng trong Chánh phủ Dân quốc.

            Điện Hạ đi Thượng Hải hội kiến với Tân Đô đốc Thượng Hải Trần Kỳ Mỹ, đi Nam Kinh gặp gỡ Hoàng Hưng, Tân Tổng-Giám-Nhân của Chính phủ Nam Kinh. Ông Phan Bội Châu thì đi Quảng Đông yết kiến Hồ Hán Dân Tân Đô đốc Quảng Châu. Tay bắt mặt mừng các ông đều là người tốt, đều có ý viện trợ, nhưng đều khuyên hãy chờ cơ hội, vì họ cũng chưa tổ chức được nền thống trị mới. Nhơn chánh phủ Dân quốc ra lịnh giải tán một số bộ đội tại hai Tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Phan tiên sinh nghĩ ngay đến kế hoạch lợi dụng những lực lượng võ trang ấy và liên lạc với những nhóm Thổ phỉ Tàu, kéo quân về chiếm đất Bắc, hiệp lực với quân Cần Vương của ông Hoàng Hoa Thám; một mặt từ Yên Thế đánh ra; một mặt từ biên giới đánh xuống. Kế hoạch này không phải là phiêu lưu. Nghĩ vậy, ông Phan Bội Châu với một sách lược đầy đủ đi Hồng Kông bàn tính với Điện Hạ..

            Người phân tách lợi hại: “Mình không có thực lực mà dùng quân Tàu ô hợp, không tướng tài, không kỷ luật, bọn Thổ phỉ còn tệ hơn, thì dầu có đánh đuổi được quân Pháp, gỡ cho ra cái hoạ quân Tàu sẽ là một trách nhiệm lịch sử vô cùng nặng nề cho  chúng ta. Lợi bất cập hại vậy”. Phan Tiên sinh bái phục, kế hoạch đành bãi bỏ.

Tháng 5 năm 1912, Việt nam Quang Phục Hội được cải tổ, ông Phan Bội Châu được bầu làm Tổng Lý thay quyền Hội Chủ chấp chánh công việc. Từ đây gánh nặng lãnh đạo được thư thả hơn trước.

Công việc vận động tại nước Tàu không tiến hành như ý muốn, Người bèn nghĩ đến một nơi khác.

Phải tạm gác ra ngoài hai nước Nhật và Xiêm, vì ngoại giao Pháp đã chận hẳn lối đi của Người. Vậy thì đi đâu để vận động cho có hiệu quả.?

Được tin quốc nội, các đồng chí chuẩn bị một cuộc bạo động tại Bắc Kỳ và thực dân dự bị đem quân lính  miền Nam ra đánh dẹp miền Bắc. Người không ngần ngại, quyết định về nước vận động một phen. Định vận động cho đồng bào các giới, khi nghe tin ngoài Bắc khởi nghĩa thì hưởng ứng, gây một phong trào chống Pháp phổ biến toàn quốc, vận động cho quân lính Nam, Trung bị đưa ra Bắc, sẽ trở súng bắn lại quân Pháp.

Chuyến đi này chẳng khác nhập hổ huyệt. Đầu tháng 2 năm 1913, Người cùng hai đồng chí xuống tàu, từ Hồng Kông đi Tân-Gia-Ba vô sự. Từ Tân-Gia-Ba về Sài gòn lại nguy hiểm vô cùng. Người phải ăn mặc và van lơn như một chú cu-li, đi làm ăn tha phương nay bịnh hoạn tìm về xứ sở. Một người bồi tàu có từ tâm, dấu Người vào một cái phòng dưới đáy tàu. Bốn ngày sau, khi tàu cập bến, lại phải chờ cho hành khách và lính Mã-tà lên hết, người bồi mới đem Người lên bờ.

Tại Sài-gòn, Chợ-lớn, Mỹ tho, Vĩnh long, người gặp lại một số đồng chí ngày trước hoạt động ở Đông Kinh Tái ngộ xiết bao mừng rỡ, nhưng ai cũng lo sợ cho Người, vì lúc đó ở Sài-gòn vừa xảy vụ “Tạc đạn”, Mã-tà Pháp hoạt động ngày đêm, lùng bắt tất cả những đồng bào bị tình nghi chống Pháp.Thấy đồng chí lo sợ cho mình Người lại e ngại cho đồng chí, nên không dám ở nhà ai, chỉ ở đò, mỗi ngày đổi một chiếc, đậu một nơi.

            Đảng viên mới cũ, lần lượt đến thăm hỏi và lãnh chỉ thị vận động. Một số đảng viên thanh niên phụ trách hộ vệ.

Một  hôm đi tàu thuỷ từ Chợ lớn đến Vĩnh long, Người nghe hai hành khách nói chuyện với nhau: Có tin Đức Cường Để mới lén về Sài-gòn, nhà nước treo giải thưởng ai bắt được Đức ông sẽ bổ cho làm Đốc Phủ.

Đến Vĩnh long, một đồng chí Xã trưởng sở tại rước Người về nhà, tại một làng gần Châu thành, liền nghe trống đánh vang dậy, đồng chí ra đường nghe ngóng, thì ra thanh niên trong làng đánh trống nhóm làng loan tin “Vua Ta đã về”. Thế là Người phải từ giã đồng chí, vội vã đi nơi khác và tính việc xuất dương lại. Nhờ một số đồng chí tận tâm hoạt động, chuyến hồi hương này, than ôi ! Cũng là lần cuối cùng Điện Hạ đặt chân trở lại đất nước quê nhà, đem lại một kết quả khả quan về phương diện chánh trị, cũng như tài chánh.

Tháng 5 năm 1913, Người đáp tàu đi Hồng Kông, lần này chỉ phải nằm dưới gầm tàu từ Sài gòn ra Ô-Cấp thôi. Trở lại đất Tàu, Điện Hạ thấy tình thế thất lợi cho mình. Tại Quảng Đông đảng Cách mạng Tàu đã thất thế,

phong trào phản cách mạng bành trướng khắp nơi. Các đồng chí đều phải xa lánh, mỗi người một ngã. Lại nghe có nhiều đồng chí khác bị bắt giữ tại Cảnh sát cuộc Hồng Kông, Người vội đến hỏi thăm tin tức, rồi cũng bị bắt đó luôn. May nhờ một đồng chí mướn thầy kiện và nộp 2.000$ thế chân Người mới được tại ngoại, sau 8 ngày ở trong lao lý. Lúc bấy giờ Chánh phủ Hồng Kông, thể theo lời yêu cầu của chánh phủ Pháp, đã quyết định bắt để trục xuất cảnh tất cả đảng viên cách mạng Việt Nam. Lối trục xuất của họ không khác gì dẫn độ. Những nhà cách mạng  họ chú trọng, có thể bị chở tới tô giới Pháp.Về phần Điện Hạ trường hợp này chắc chắn sẽ xảy ra. Vì vậy, tuy số tiền thế chân là lớn, Người phải đành hy sinh nó mà xa chạy cao bay cho kịp thời, không thể không khỏi sa vào tay người Pháp.

            Nguyên lúc về nước, đồng bào có quyên góp một số tiền hai vạn đồng (20.000$00). Người giao một phần cho một nhóm đồng chí ở Sài-gòn để lập cơ sở thông tin gởi qua Xiêm, còn bao nhiêu thì gởi vào ngân hàng chuyển qua Hồng Kông. Có số tiền này, người định đi Âu châu quan sát tình hình (theo kế hoạch đã định trước, thì phái đoàn đi Âu châu để khảo cứu về chánh trị, kinh tế, quân sự là 10 người, nhưng vì tài chánh eo hẹp nên chỉ còn chỉ ba đồng chí trí thức được chọn đi theo Người).

Hành trình vô sự, tàu ghé Marseille, Naples, rồi theo đường xe hoả đi Berlin ở lại vài tuần, lại qua Londres.

Tại Londres, Điện Hạ tiếp được một bức thư của ông Albert Sarraut, Toàn quyền Đông Dương, đang ở Paris, mời Người về nước hiệp tác với chánh phủ Pháp.

Điện Hạ trả lời đại ý yêu cầu Chánh Phủ Pháp bỏ Chánh sách bóc lột, ngu dân cũ, mà thi hành một chánh sách khai hoá đứng đắn, khi ấy không gọi Người cũng vui lòng về nước…

Tháng 4 năm 1914, Người lại nhận mật hàm của đồng chí từ nước Tàu gởi sang báo một tin mừng quan trọng: do Tướng Đoàn Kỳ-Thuỵ, Lục-Quân-Bộ Tổng Trưởng đề nghị Tổng-ThốngViên-Thế-Khải đã chấp thuận viện trợ tài chánh cho Cách mạng Việt-Nam. Tướng Đoàn Kỳ-Thuỵ  mong được hội kiến với Điện Hạ tại Bắc Kinh.

Người chấm dứt ngay cuộc Tây du, đáp tàu trở lại Trung quốc. Người đã từng tiếp xúc với Đoàn-Kỳ-Thuỵ, biết ông rất có thế lực lại là một vị Tướng tài, thanh liêm, biết trọng đạo nghĩa, có quan niệm rõ về vấn đề Việt Nam.

Đến Bắc Kinh, Điện Hạ được đại diện Lục-Quân Bộ đón rước trọng thể, lấy một phủ đệ làm nơi tiếp đãi Người.

Ôi ! Hy vọng, phen này chắc được Trung Hoa Dân Quốc viện trợ một cách thiết thực.

Than ôi ! Đến khi hội đàm với Đoàn-Kỳ-Thuỵ xong  thì nỗi thất vọng của Người không còn biết tả làm sao được ! Số là trong khoản hai tháng sau khi ông Tướng Tàu  mời Người đến Bắc Kinh hội kiến, Tổng Thống Viên-Thế Khải lại ký với Pháp một hiệp ước gọi là “Tá khoản”  trong ấy có điều khoản Pháp – Hoa thân thiện, buộc nước Tàu phải tôn trọng quyền lợi của Pháp tại Đông Dương.

Để an ủi Người, Ông Lục-Quân-Bộ Tổng Trưởng nói: vì tình thế chưa thực hành kế hoạch viện trợ được, chứ không phải bãi bỏ, xin Hoàng Thân nhẫn nại. Lời nói của ông Đoàn-Kỳ-Thuỵ thành thật. Song nó cũng lại là một lời hứa, thêm vào biết bao lời hứa khác!

Trận Âu-Châu Đại chiến bạo phát ngày 27-8-1914  đem lại cho Quang Phục Hội tại quốc nội cũng như Hải ngoại một nguồn hy vọng mới. Đảng lại hoạt động đêm ngày, cũng có hàng ngũ, lực lượng võ trang, chuẩn bị thừa cơ kéo quân về nước. Sự liên lạc giữa Điện Hạ và Tổng Trưởng Đoàn-Kỳ-Thuỵ cũng được nối lại.

Đến năm 1915, Người tiếp được thơ của ông này ấn định kế hoạch viện trợ:

1 - Thời Kỳ chuẩn bị: chánh Phủ Dân Quốc viện  trợ cho Cách mạng Việt-Nam một ngân khoản. Số bạc ứng trước là 50 vạn, sẽ do Tổng Thống Viên-Thế-Khải trao tay cho Điện-Hạ trong một buổi hội kiến định vào tuần lễ sau.  

1 - Thời Kỳ thực hành: Dự định đến năm Dân Quốc bát niên (ba năm sau) Chánh phủ Trung Hoa sẽ viện trợ quân sự cho cách mạng Việt-Nam, thi hành kế hoạch đánh đuổi quân Pháp, khôi phục độc lập.

            Giấy trắng mực đen, biết bao là hy vọng, tuy thời gian chuẩn bị ba năm quá lâu, nhưng nó cũng không phải là nhứt định, sau này sẽ tính.

Trong cả tuần lễ sau, không thấy thiệp mời của Phủ Tổng Thống. Thì ra, trước ngày ông Viên-Thế-Khải định hội kiến với Điện Hạ, Chánh Phủ Dân Quốc tiếp được một văn kiện ngoại giao của Chánh phủ Nhật, đưa 21 điều thắc ngặt, yêu cầu Trung-Quốc thừa nhận. Tình hình ngoại giao giữa hai nước trở nên trầm trọng. Thế là số trợ ngân hoá ra chuyện ảo. Và từ đó, Người không tiếp xúc được với các yếu nhân Tàu nữa.

Lúc ấy là tháng 5 năm 1915, ôn lại những hoạt động từ trước, công việc gì cũng không phải là không thiết thực, không phải là không quan trọng. Công việc nào nếu thành tựu như dự định, cũng có thể đưa Cách mạng đến thành công. Ngày nay chiếc thân lưu lạc, bốn bể không nhà, thất vọng chồng chất, Điện Hạ sao cho khỏi cảm thương thân thể! Phong sương lâu ngày, vất vả đòi phen, Người cảm thấy cần phải nghỉ ngơi đôi chút, bèn quyết định trở sang Nhựt, mà tình thế đã đưa lên ngang hàng với các Cường quốc Âu Mỹ.

Lưu trú lần này tại đất Phù-Tang, Người không còn lo bị trục xuất, nhưng nghĩ đến bổn phận đối với Tổ quốc, sực nhớ lại trách nhiệm đối với đảng, đối với quốc dân., làm sao Người hưu túc cho đành?

 Nhưng Cách mạng lại đứng trước một tình thế mới vô cùng khó-khăn. Pháp đã lôi cuốn được Nhật vào phe. Đó là một mánh khoé khôn khéo tuyệt vời của ngoại giao Pháp, khiến cho tình hình Đông-Nam-Á không thay đổi và thỉ chung có lợi cho Pháp.

Tại quốc nội tình thế lại càng bế tắc. Người Pháp một mặt tuyên truyền hứa hẹn tự do, đem tước lộc mua chuộc các hàng trí thức, mặt khác dùng kế ly gián phá hoại hàng ngũ Cách Mạng, ngăn cản đoàn kết quốc dân. Những đồng bào tình nghi phản đối đều bị tù đày. Những nhà đại ái-quốc như Trần-Cao-Vân, Thái Phiên…kể hàng trăm người đều bị hành quyết. Sau cuộc khởi nghĩa thất bại do Đức Duy-Tân lãnh đạo. Lực lượng kháng chiến của ông Đề Thám tại Yên Thế cũng bị tiêu diệt.

Tại nước Tàu và nước Xiêm lưới Mật thám Pháp cũng bũa khắp. Các lãnh tụ từ Phan Tiên sinh trở xuống đều bị giam giữ tại các tô-giới. Người nào lọt vào tay Pháp  thì bị đem về nước trị tội. Liên lạc viên từ trong nước ra cũng như từ ngoài nước về đều bị bắt; đến nỗi trong ngoài không thông tin với nhau được. Cách mạng đành bó tay trong suốt bốn năm trời, chịu tiếng hèn với đồng bào, với thế giới.

Nhưng dầu thiên nan vạn nan Cách mạng cũng không nản chí. Sau trận đệ I Thế chiến chấm dứt (11-11-1918) Điện Hạ trở qua Tàu. Phan Tiên sinh cùng các đồng chí khác đều đã được trả tự do, nhưng kế hoạch vận động của Đảng phải chịu ảnh hưởng của tình thế rối loạn của nước Tàu, gặp trăm ngàn trở ngại.

Vả lại với những biến chuyển lớn lao trên mọi phương diện sau cuộc Âu Châu Đại chiến, Việt Nam Quang Phục Hội không đáp ứng nhu cầu chánh trị của quốc dân nữa. Với sự xuất hiện của nhiều đảng phái mới và sự hiện diện của ông Nguyễn Ái-Quốc tại nước Tàu, vai tuồng lãnh đạo của Quang Phục Hội lu mờ lần lần trong khoản thời gian từ sau Thế chiến thứ I đến đầu Thế chiến thứ II

Thế chiến II bùng nổ. Năm 1939, nước Nhật nhảy vào vòng chiến tranh. Lần này Nhật đứng vào mặt trận chống Pháp, tình thế tức khắc thay đổi. Cơ hội cứu quốc trở lại với Quang Phục Hội.

Ngày 12 tháng 3 năm ấy, Quang Phục Hội được cải tổ và đổi ra VIỆT-NAM PHỤC QUỐC ĐỒNG MINH HỘI để cho có một hình thức thích hợp với tình thế hơn.

Đảng lập cơ quan tuyền truyền  tại Đài Bắc, hợp tác với Tổng Đốc Phủ Đài Loan, đả phá luận điệu bài Nhật của Chánh phủ Tưởng Giới Thạch và của Pháp tại Đông dương. Đảng lại hợp tác với Hoàng Quân, tổ chức Việt Nam Kiến Quốc Quân tại Quảng Đông và Quảng Tây.

Ngày 22-6-1940, Kiến Quốc Quân cùng quân Nhựt khai chiến với quân Pháp, đánh thẳng vào Đồng Đăng, Lạng Sơn, quân Pháp đầu hàng.

Tình thế lại biến chuyển, một Thoả ước trao đổi quyền lợi giữa Nhựt và Pháp được ký kết:

- Một bên: chánh quyền Pháp tại Đông Dương hiệp lực với người Nhựt trong cuộc chiến tranh Đại-Đông-Á.
- Bên kia: Nhật duy trì hiện trạng, công nhận cho Pháp tiếp tục cai trị Đông Dương.

Kiến Quốc Quân được lịnh lui binh. Một cánh quân không tuân thượng lịnh bị Pháp đánh tan. Thế là kế hoạch của Phục Quốc Đồng Minh Hội không thực hiện được.Tuy vậy thanh thế của Hội về mặt chánh trị lại phát triển tại quốc nội, nhờ thành tích Cách mạng của Điện Hạ, mà 50 năm tận tuỵ với Tổ quốc đã in sâu hình ảnh vào tâm não của đồng bào ái quốc.

Đại đa số nhân sĩ, đảng phái Quốc gia nhất là CAO ĐÀI, đều đặt hy vọng phục quốc vào Điện Hạ

Ngày mùng 7 tháng 5-1945 có tin Người hồi hương.
Tại Sài-Gòn, nhân dân hưởng ứng lời hiệu triệu của Giáo hội Cao-Đài, tổ chức cuộc đón rước rất long trọng, trong một khung cảnh tưng bừng náo nhiệt. trên các nẻo đường, những Khải-Hoàn-Môn với biểu ngữ “ĐIỆN HẠ VẠN TUẾ” nói ra tiếng nói nhiệt thành ngưỡng mộ của mọi con dân Việt Nam lúc bấy giờ, càng sực nhớ ân đức tiền nhân khai sáng lại càng mừng cho Điện Hạ có cơ hội phục hồi Tổ nghiệp.

            Nhưng than ôi! Một trở ngại lớn chận đường về của Người.Lịch sử chưa chép rõ trở lực ấy từ đâu mà có. Nhưng chúng ta biết chắc rằng, tuy Hoàng Đồ Bảo Đại đã  tuyên bố độc lập ngày 11-03-1945 tại Huế, nhưng Nam Kỳ vẫn chưa được trở về với Hoàng triều và vị Thống đốc Nhựt đã tuyên bố tại Sài-Gòn ngày 30-4-1945”:

            “Đây là một ngộ nhận về vấn đề độc lập tại Đông Dương hoàn toàn ở dưới quyền kiểm soát Quân sự. Nền độc lập của Đế Quốc An-Nam và của Cao-Miên sẽ được tuyên bố, nhưng Nam-Kỳ chẳng những thuộc quyền Quân sự mà lại còn ở dưới quyền cùa Quân đội Nhựt. Vậy thì không có vấn đề Nam Kỳ độc lập”.  

            Mặt khác, chúng ta không quên rằng Kỳ-Ngoại-Hầu Cường Để từ khi nguyện hiến thân cho Tổ quốc đến khi sự nghiệp Cách mạng gần thành tựu, nửa Thế kỷ sau, thỉ chung chỉ có một ý chí: khôi phục độc lập Hoàng đồ cho Tổ nghiệp từ Mũi Cà-Mau đến ải Nam quan.

Vậy thì lời tuyên bố của vị Thống Đốc Nhật hoàn toàn trái với ý chí bất di bất dịch của Điện-Hạ và sự Người không hồi hương lúc ấy để hưởng một thành công sứt mẻ, lại càng biểu lộ một ý chí mà chúng ta ngày nay càng nghĩ đến càng thêm áo não sùng bái.

            Cụ trở về Nhật vào tháng 5 năm 1945, phải cải danh người Trung Hoa lấy tên là Lâm Thuận Đức, được sự giúp đỡ của Thủ trưởng nước Nhật lúc bấy giờ là Khuyển Dưỡng Nghị, bỗng nửa chừng Dưỡng Nghị bị ám sát, nhưng Cụ Cường Để vẫn hăng hái hoạt động, tổ chức không ngừng.

Vào cuối tháng 2 năm 1939, Việt Nam Quang Phục Hội được đổi thành Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội. Bôn ba trên đường tranh đấu cứu quốc, trong nước cũng như ngoài nước, Cụ đều hăng hái làm việc nhưng đại cuộc chưa thành.

Mùa Đông năm 1949 từ nước Nhật, nhơn danh Phục Quốc Đồng Minh Hội, Người lên tiếng kêu gọi thế giới tự do, giúp đỡ cho dân tộc Việt-Nam thâu hồi độc lập, tự do, đối với thực dân Pháp, cũng như đối với Cộng Sản Việt Minh.

            Năm 1950, Đức Quốc Trưởng Bảo-Đại gởi thơ mời Người hồi hương chung lo việc nước nhưng Người từ chối vì thực dân Pháp vẫn còn kiểm soát chánh phủ Quốc gia. Cũng trong năm ấy, Người từ Đông Kinh đáp tàu thuỷ sang BangKok, nhưng chánh phủ Thái không cho phép Người lên bờ (1) có lẽ để tránh báo chí phỏng vấn ồn-ào và mục đích của người sang Xiêm là muốn về cho gần nước nhà để tìm hiểu tình hình cho rõ hơn và nếu thuận tiện, Người sẽ về Sài-Gòn, nhưng chánh quyền Pháp lại sợ, nếu Người về Việt Nam phò tá Đức Bảo-Đại, thì thanh thế Chánh phủ Quốc gia sẽ được tăng cường và vấn đề Liên Hiệp Pháp sẽ bị đem thương thuyết lại ngay, cho nên ngoại giao Pháp vận động với Chánh phủ Thái không cho phép Người bước chân lên đất Thái” (Thúc Dật Thị)         
Ngày 6 tháng 4 năm 1951 Cụ thọ bệnh và mất tại Đông kinh (Nhật). Hưởng thọ được 80 tuổi.

Trong quyển “LỜI PHÊ” của Đức Hộ-Pháp. trang 61 bày tỏ ý kiến về Đức Ngài qua chuyến công du sang Đài Loan và Nhựt bổn lúc 10g ngày 29-3-1954.

Ngài nói:
“Tôi có ý muốn đặt những cơ sở của Đạo Cao Đài tại Đài Loan, cũng như Tôi đã làm việc đó tại Pháp trong cuộc hành trình vừa qua của Tôi sang Âu Châu.

Thăm Đài Loan xong, Tôi sẽ qua Nhật Bản và sẽ lưu lại đó chừng ba, bốn ngày để rước hài cốt của Hoàng Thân Cường Để về nước. Riêng Tôi, Tôi chưa được quen biết Hoàng Thân. Những nhà ái quốc Việt Nam đối với Tôi, khi Tôi còn là nhà chiến sĩ Cách mạng, đã là biểu hiệu của cuộc tranh đấu giành độc lập cho Tổ quốc.

Hơn nữa dầu rằng không phải là một Giáo đồ của Đạo Cao-Đài, Hoàng Thân Cường Để đó là người thứ nhất và cũng là người có nhiều ảnh hưởng nhất đã bảo vệ cho Đạo của chúng tôi. Trước khi mất, người đã ban cho Đạo Cao Đài hài cốt và tài sản của Người. Nay Tôi qua Nhật chính là để thi hành lời trối trăn của Người là rước  hài cốt của Người về nước”.

            Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
            “Cũng như việc rước tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về Thánh Địa Toà Thánh là nhiệm vụ Thiêng liêng của một nền Tôn giáo, hơn nữa là một công dân đất nước của Tổ Phụ  lưu  lại cùng là hài cốt của Cụ Duy Tân ở cù lao TIDI và những hài cốt của các nhà ái quốc lưu vong bỏ mình nơi Hải ngoại. Sau nữa lập một Ban Đạo tỳ cải táng, đi cùng khắp miền Nam Việt Nam tìm những mồ hoang, những hài cốt của giòng dõi Lạc Hồng bị ngọn lửa chiến tranh gây hấn từ năm 1945 đến nay đã dấy trên đất nước. Biết bao nhiêu người đã bỏ mình vì nạn tương tàn cốt nhục, làm thế nào đặng rước về di táng nơi Nghĩa trang Thánh Địa  Toà Thánh, đồng bào Việt Nam thấy rõ lòng NHƠN NGHĨA của nền Tôn giáo là tấm gương lịch sử  soi chung hậu thế”. (ĐHP thuyết tại Trí Huệ Cung 4-10-Giáp Ngọ (dl 20-10-1954)

Năm Ất-Dậu (1945) sau cuộc Đảo chánh Pháp (9 Mars) có làm cửa Khải-Hoàn-Môn tại Sài-gòn đặng tiếp rước Đức Kỳ Ngoại-Hầu Cường Để là nhà Cách mạng  phiêu lưu 40 năm nơi xứ người. Ngài Chánh Đức viết:
CẢM ĐỀ
Rúng động non Nam khúc khải hoàn,
Treo gương Hồng-Lạc phục giang san.
Vẻ tươi Quốc sử loà cương thổ,
Đánh tỉnh hồn dân dựng miếu đàng.
Nước bốn ngàn năm lừng máu đỏ,
Dân hăm lăm triệu rạng da vàng.
Khí linh bia mãi cùng trời đất
Rúng động non Nam khúc khải hoàn.

TỔ CHỨC CUỘC LỄ RƯỚC ĐỨC
KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ

            Tháng 5 năm 1945 tại Sài-Gòn, Đạo Cao-Đài có tổ chức cuộc Lễ để rước Đức Cường Để  về nước.Với Lý do sau đây:
1 - Xét thấy Hoàng Đế Bảo Đại không đủ sức cầm quyền, không thể đưa đất nước đến hoàn toàn độc lập theo nguyện vọng của toàn dân.

2 - Xét thấy Cụ Cường Để là nhà Cách mạng Nguyễn
 Phúc Vân sanh tại Huế, năm Tự Đức 33 (1882) con của Hàm Hoá Hương Công, cháu 5 đời của Tăng Duệ Hoàng Thái Tử (Đức Hoàng Tử Cảnh) được tập tước Kỳ Ngoại Hầu nhưng không xuất sĩ. Là người có tinh thần Cách mạng thuở còn trẻ, đang lưu vong tại Nhựt hoạt động giải phóng giành độc lập lại cho nước Việt Nam, có khả năng lãnh đạo dân tộc, có đủ uy tín với toàn quốc đồng bào. Ngài được các nhà yêu nước mến phục và có tên tuổi đối với quốc tế. Chính Ngài đã lãnh đạo tối cao của Cơ quan Phục Quốc Đồng Minh Hội.

            Ngài rất xứng đáng lãnh đạo toàn dân trong lúc này nên các chánh khách hiệp với Giáo sư Đại biểu đến Bộ Tham mưu Nhật thương thuyết rước Đức Ngoại Hầu Cường Để về nước.

            Ngày 17-5-1945, được tin điện của Ngài cho hay sẽ về nên các đoàn thể yêu nước, mà nhất là khối Cao-Đài lo làm Lễ đài sẵn tại phía sau Nhà Thờ Đức Bà.

            Cất khán đài, dựng Khải hoàn môn rất lộng lẫy, có Nghĩa binh Cao-Đài đứng gát trang nghiêm, có đội cận vệ túc trực. Sự trọng thể này làm cho hầu hết quần chúng đi ngang qua phải xuống xe đi hai bên chứ không đi cửa giữa

            Các tỉnh nghe tin sự tổ chức rước nhà Cách mạng Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, nhiều người lên Sài-gòn chờ đợi cả tháng mà Đức Ngài vẫn chưa về. Tại sao vậy?

            Theo như con của Đức Ngài là Tráng Cử và Tráng Liệt cho biết: Kỳ Ngoại Hầu định về, thì cuộc chiến đã tới tấp trên đất Phù-Tang, bom nguyên tử của Mỹ đã trút xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki làm cho nhà cửa đổ nát, hàng vạn người Nhật phải chết, cộng thêm Đảo Okinawa hạm đội Mỹ tràn ngập. Lại nữa, Ngài được các đồng chí cho biết tại quê nhà có sự manh nha tranh quyền lãnh đạo quốc dân, nên Ngài quyết định gởi xương nơi đất khách. Vào ngày 5 tháng 4 năm 1951 Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để từ trần để lại muôn vàn luyến tiếc.

Năm Giáp Ngọ (1954)
Đức Hộ-Pháp sang Nhựt rước di hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để về nước.

            ĐỨC HỘ PHÁP tuyên bố tại phi trường Tân Sơn Nhứt ngày 12-10-1954 (năm Giáp Ngọ)
            Thưa cùng đồng bào Việt Nam,
Đây là di hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, quí danh là Nguyễn Phúc Vân, Ngài là đích tôn của Đức Đông Cung Cảnh tức là Tông Chi Hoàng Tộc. Cả toàn thể Quốc Dân đều biết dĩ vãng của Ngài.

Ngài đã hy sinh một đời sống lưu vong nơi đất khách, cốt theo đuổi một mục đích, là làm thế nào phục hồi vận mạng Tổ Quốc, độc lập thiệt hiện.

Ngài cũng như Bần Đạo, tâm hồn của Ngài phù hạp với tâm hồn của Bần Đạo là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị, cùng đảng phái, đoàn thể, Tôn Giáo.

Một kiếp sống của Ngài, chỉ có một mục đích là làm thế nào phục sự vận mạng Tổ Quốc và đồng bào Việt Nam. Đau đớn thay! Trên bốn chục năm lưu vong nơi đất khách. Ngài theo đuổi một mơ vọng mà Ngài không đạt đặng. Công chưa thành, danh chưa toại, Ngài đã thành người thiên cổ nơi đất khách quê người.

Hôm nay, di hài của Ngài đã được đem về nước:
Do đó khối anh linh của Ngài cũng cùng về hiệp với khối Quốc hồn của bốn ngàn năm lập quốc.

Thê thảm thay! Trước nửa giờ lâm chung, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cùng tất cả Thanh Niên Việt Nam hãy cương quyết phục cường cứu quốc, rồi Ngài nằm thiêm thiếp. Trước khi trút hơi thở cuối cùng Ngài còn rán kêu: “Việt Nam Muôn Năm”.

Bần Đạo nghe thuật lại điều ấy, Bần Đạo cảm khích vô ngần. Những bạn đã lưu vong cùng Ngài đã khóc hết nước mắt. Khối tâm hồn ái quốc ấy hôm nay ước mong nó sẽ là một ngọn lửa thiêng nung sôi tâm hồn của toàn thể Quốc Dân Việt Nam, bỏ thành kiến, bỏ đảng phái hiệp sức cùng nhau để cứu vãn tình thế nước nhà đang lúc nguy vong tan tác.

Trước khi dứt lời, Bần Đạo xin toàn thể đồng bào nối điêu theo dư âm khốn khổ của Ngài đã kêu cả toàn thể đồng bào của chúng ta. Bần Đạo hô như Ngài đã kêu gào thống thiết trước hơi thở cuối cùng của Ngài”.

Đức Hộ Pháp tuyên bố trong dịp rước di hài
Cụ Cường Để.

Đức Hộ Pháp tuyên bố trong dịp rước Di hài của Cụ Cường Để tại Tòa Thánh, ngày 20-9-Giáp Ngọ (1954)

            Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái, Thánh Thể Đức Chí Tôn, Hội Thánh Nam, Nữ, các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.

Tiếp theo lời tuyên bố của Bần Đạo khi về đến Sài Thành đã nói về đời sống của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Bần Đạo chẳng cần nhắc đi nhắc lại thì cả toàn thể quốc dân Việt Nam, cả toàn Đạo cũng biết rõ sự hy sinh vô đối của Ngài, kiếp sống của Ngài chỉ có một mục đích quật cường giải ách lệ thuộc thâu hồi độc lập và phục quốc cho đồng bào. Khi mới đến Tân Sơn Nhất Bần Đạo đã tỏ lời kêu gọi theo yếu thiết của Đức Kỳ Ngoại Hầu lúc lâm chung. Cả một đời sống hy sinh của Ngài mong tạo hạnh phúc cho Tổ Quốc cho giống nòi mà phải chịu chẳng biết bao nhiêu gian truân khổ não, cũng chỉ vì lòng ái quốc vô đối của Ngài.

Cả Thanh Niên Việt Nam nên ghi nhớ những lời nhắn gởi của Ngài, trước nửa giờ chết, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cho toàn Thanh Niên Việt Nam phải cương quyết quật cường cứu quốc, mặc dầu còn một hơi thở cuối cùng, nhưng Ngài còn rán hô “Việt Nam Muôn Năm” rồi mới tắt thở. Bần Đạo không thấy mà đã nghe Đồng bào Việt Kiều ở Đông Kinh thuật điều ấy làm cho Bần Đạo khóc, và chính mình Bần Đạo chỉ biết khóc mà thôi.

Nối theo lời kêu gọi thống thiết của Ngài Bần Đạo về đến đây cũng xin cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái lập lại lời thống thiết trước giờ chết của Ngài. Bần Đạo hô cả thảy đều hô theo:
“VIỆT NAM MUÔN NĂM !”.
Ngày mùng 1 tháng 3 Quí Tỵ (1953)
Lễ Đại Tường Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để

Bài Thài:
Ngoài bốn mươi năm biệt cửa nhà,
Quyết lòng khôi phục nước Nam ta.
Náu-nương đất khách chờ thời thế
Tuổi thọ bảy mươi trí chẳng già.
Cường Để

THỦ BÚT CỦA ĐỨC CƯỜNG ĐỂ
(Bức thư bằng Hán tự của Đức Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để Điện Hạ gởi ông Trần Quang Vinh )
Ông Trần Quang Vinh Dịch y nguyên văn:
            Đông Kinh, ngày mùng 2 tháng 12 năm 1948
            Cùng Đồng chí Trần Quang Vinh,
            Mấy năm nay tuy bặt hẳn âm tín, nhưng nhờ có “Radio Sai-gòn” truyền thanh, cũng rõ được túc hạ và các đồng chí Tín đồ mạnh khoẻ như thường, tôi rất an dạ.

            Tôi vẫn tin chắc rằng dầu cho thời thế biến động  cách nào, đồng chí đối với tôi tất không bao giờ xao lãng mà tôi đây chưa hề khoảnh khắc vong hoài.

Ngày tôi trở về nước tưởng không bao lâu nữa, có thể thực hiện được, xin mong cả thảy an tâm và bảo trọng. Hiện nay trong nước đều đã đồng tâm ủng hộ Hoàng Đế Bảo-Đại hồi loan chấp chánh, giữ nền độc lập thống nhứt Quốc gia, vậy Tín đồ ta hãy tỏ rõ sự hành động nhứt trí của mình giúp cho cuộc  giao thiệp độc lập sớm giải quyết,  trật tự hoà bình mau thấy trở lại làm cho quốc dân ta được an cư lạc nghiệp, mặc ấm ăn no, ấy là điều sở nguyện của tôi đó.

Bức thơ của đồng chí gởi ngày 30 tháng 10, mãi đến ngày 1 tháng 12 mới tiếp được,ấy là vì phải trải qua cuộc kiểm duyệt của quan địa phương nên mới chậm trễ như thế.
Nay kính thư này cầu chúc cho Đạo an, xin rõ lòng nhau và trao tấc dạ này cùng các đồng chí.
Về gia đình của đồng chí Nguyễn văn Sâm, xin hãy tận tâm chiếu cố, chớ lãnh đạm thờ ơ, rất mong.
Hiện thời những thơ từ qua lại đều phải qua mắt sở kiểm duyệt rồi mới phát ra. Phàm thông tin bằng văn tự, chỉ dùng bốn thứ văn tự là: Hoa, Anh, Nhựt, Pháp mà thôi. Vì vậy bức thư này không thể viết bằng Quốc ngữ, nên phải viết bằng Hán văn, xin lượng cho.
Cường Để
(Ký tên và đóng dấu)

Tokyo, ngày 28 tháng 11 năm 1950
Đồng chí Trần Quang Vinh
Tổng Trưởng Bộ Binh Bị (Lực)
SÀI-GÒN
            Kính gởi,
            Câu chuyện hàn huyên, xin miễn thứ không phải nói. Mấy lâu nay tôi vẫn hết sức vận động các phương diện Anh, Mỹ, nhờ khuyến cáo chánh phủ Pháp mau xác nhận quyền độc lập tự chủ cho nước nhà, mới thu phục được lòng dân, mới phòng ngừa được hoạ Cọng.

Mới rồi, nghe tin rằng Chánh phủ và Nghị viện Pháp đã thông qua cái Nghị án giải phóng Đông dương độc lập thật sự, Tôi rất đỗi lấy làm mừng cho cả dân tộc

được thấy đem lại Hoà-bình, an cư lạc nghiệp. Tôi sẵn lòng về nước phò Vua giúp nước gầy nên thịnh cường cho dân tộc được vẻ vang, cho dân sinh được sung túc, cho thoả cái nguyện vọng 47 năm nay. Nhưng nhà báo thông tin cũng có khi sai lầm, sự thực hẳn có được như lời nhà báo nói hay không? Vả chăng muốn trưng cầu ý kiến các đồng chí biết nên về hay chưa nên về ra sao đã, mới hợp cái đạo nghĩa “Đồng ưu cọng lạc” với nhau. Vậy nay tôi xin hỏi ý kiến túc hạ cùng các đồng chí nên thế nào cho biết, cám ơn.

            Quân đội ta cần phải cho ăn mặc đầy đủ, huấn luyện cho tinh nhuệ, kỷ luật cho nghiêm minh, hình thức có, tinh thần phải có. Chúng ta ở cái tình thế ngày nay rất khó khăn, phải tế tâm cho lắm mới đứng vững.

            Sau đây xin chúc đức Hộ-Pháp cùng các giáo hữu mạnh giỏi, bền lòng phấn đấu cho tổ quốc vẻ vang.Vì có lời chúc các chiến sĩ Hoà Hảo, Bình Xuyên hùng dũng phấn phát đồng lòng nhứt trí ủng hộ Đức QuốcTrưởng Bảo Đại để  cứu đồng bào quốc dân ra khỏi lầm than.
Nay kính  (Ký tên đóng dấu)
CƯỜNG ĐỂ

            LỜI NÓI THÀNH THỰC:
            Đồng bào tương sát là một sự rất khá thương tâm. Bên kháng chiến phần nhiều là những nhà ái quốc, vì tổ quốc độc lập tự chủ mà phải đứng ra chịu đầu đạn mũi gươm, chớ không phải vì quyền quí lợi lộc, cũng không phải vì chủ nghĩa chủ trương gì khác. Nếu như nay Chánh phủ Pháp đã chịu xác nhận đem độc lập chủ quyền trả lại cho ta rồi đó,thì bên họ đương nhiên cũng vui lòng quăng gươm súng trở về với ta, đâu lưng hiệp sức mà vun đắp non sông, tạo hạnh phúc cho đồng bào. Vả chăng không

còn có lý do gì mà họ kháng chiến được nữa, mở con đường khoan đại đãi ngộ cho họ để về với ta. Xét cho kỹ tấm lòng yêu nước, yêu nòi họ chẳng khác  gì ta. Sự thực cũng nhờ họ mà đem lại được cái địa vị ngày nay, cúng ta không quên được họ, lưu ý lưu ý!
CƯỜNG ĐỂ
Tokyo, ngày 20 tháng 1 năm 1951

Kính gởi đồng chí Trần Quang Vinh
Tổng Trưởng Bộ Quân Lực
Chánh Phủ Quốc gia Việt-Nam
SAI-GÒN

            Quí thơ và quí ảnh tiếp được cả, cám ơn..
            Nước ta ngày nay tuy vẫn đã độc lập rồi song hành chánh kinh phí hãy còn ỷ lại vào người, thực là mộ sự không hay cho nước nhà lắm, ta phải tìm cách gì để cho tài nguyên dồi dào mà tự cấp tự túc mới hợp lẽ. Thiết tưởng hiện thời ở Nhựt Bản công nghiệp rất phát triển, mà nguyên liệu ở Tàu, Mãn châu, Triều Tiên không đem lại được, họ đương tìm cách mua bán với ta, mà ta cũng có nhiều phẩm vật cần dùng đến của họ lắm, đường gần mà giá rẻ, có tiên cho cả hai bên, vậy hy vọng tướng quân bàn với Chánh phủ ta nên phái đại biểu qua Nhật hiệp định việc mua bán với họ, để cho có kinh tế mà làm việc nước rất tốt. Ngoài cửa biển ta, tàu Nhựt bị đánh chìm rất nhiều, thứ tàu ấy để như thế có phương hại cho sự giao thông đi lại. Vả chăng vớt lên được thì có lợi ta nhiều, ở Nhựt có nhiều người có kinh nghiệm sự vớt tàu chìm, ta mời họ qua mà trù tính việc đó rất tốt.

            Sự Nhựt thông thương với ta, Mỹ cũng vui lòng, bởi vì Mỹ cũng cần dùng Nhựt chế đồ cho họ mà thiếu nguyên liệu. Triều tiên có cả Quốc Liên Quân đánh dùm, mà Trung Cộng không thèm đếm xỉa chi hết, ỷ có nhiều quân cứ  đánh đại vào, nước ta viện cô, quân ít, vạn nhứt hoá đánh vào, ta sẽ tính sau.

            Toà thánh Tây ninh nên lập bệnh viện cứu chữa dân nghèo, nên lập trường học giáo dục trẻ em cho hắn hiểu luân lý đạo đức ở đời, rồi dạy cho hắn biết một nghề nghiệp gì đó, để hắn nuôi thân, khỏi ăn bám vào cha mẹ bà con thực là rất quí. Thanh niên ta mất dạy rất nhiều, làm Chánh phủ với làm cha mẹ nên chăm lo cho hắn, chớ để hỏng cái đời thanh thiếu niên của hắn, di hại tới nước nhà, chú ý chú ý.

            Nhà tôi có mười mấy đứa cháu ở Huế, nghe nói cha chúng nó bỏ nhà đi vắng, vậy thì không co ái trông nom sự học hành cho chúng nó, thực khá thương tâm.Tướng quân có ngày giờ lo được. Nhớ để ý dùm, rất cám ơn.
Nay kính
Ký tên: CƯỜNG ĐỂ

            Người nước ta hiện thời ở Tokyo chỉ có một mình Tôi là không hùa theo chủ nghĩa Hồ được, còn bao nhiều là Hồ chủ tịch muôn năm. Cha chả muôn năm cả.Tôi tuổi già mà ở một mình đơn cô, có thể xin đức Quốc trưởng cho phép một hai đứa cháu của tôi qua Tokyo ở với Tôi, Tôi rất cám ơn vô cùng tận.
Kính chúc các đồng chí muôn năm 
Đức Quốc trưởng Bệ Hạ muôn năm 
Chánh phủ độc lập mới muôn năm 
Ký tên: CƯỜNG ĐỂ

Ngày  năm ngoái tôi qua Xiêm để cho tiện đường liên lạc đồng chí, rồi tích cách về nước phò tá Đức Bảo Đại để làm choi mau đem lại Hoà bình cho dân nhờ, không ngờ không lên bờ được! Tiếc thay!   .Ký tên: CƯỜNG ĐỂ
                  …Sài gòn, ngày 19 tháng 2 năm 1951
           
Kính gởi Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Điện Hạ.
                                 ĐÔNG KINH
            Kính Điện Hạ,
            Tiếp đặng thơ của Điện Hạ đề ngày 20-1-1951, Tệ chức xin đa tạ, đa tạ. Các lời vàng ngọc của Điện Hạ chỉ giáo các đồng chí và  Tệ chức xin ghi nhớ vào tâm trí. Về vấn đề gởi đại biểu sang Nhật là phận sự của chánh phủ, nhưng thời cuộc lúc này chưa thuận tiện, Chánh phủ mới phái hai vị Sứ thần đi ngoại quốc: Ông Bác-Sĩ Trần văn Đôn, Cựu Thị Trưởng Sài-Gòn, Chợ lớn, đặng phái sang Luân Đôn (Londres) và ông Nguyễn Khoa Toàn cựu Tổng Trưởng sang Vọng Các (Bangkok) Lần lượt sẽ tới phiến các nước khác.

            Toà Thánh Tây Ninh đã có sẵn Bệnh viện và trường học. Học sinh nghèo do Hội Thánh và Quân đội bảo bọc có trên 6.000 sinh viên, đâu đó đều có tổ chức chu đáo.

Chánh phủ Việt Nam –Tân chánh phủ đã thành lập, kỳ này Tệ chức xin rút tên ra. Bộ Quốc phòng hãy là Quân lực đã giao cho Ông Nguyễn Hữu Trí, Thủ hiến Bắc Việt. Sỡ dĩ Tệ chức không dự vào  Nội các là do nơi sự đổi chọn vào bộ khác, nên Tệ chức không bằng lòng. Qua trung tuần tháng ba (Mars) Tệ chức sang Pháp lối vài ba tháng….Tệ chức kính thăm Điện Hạ, cầu chúc Điện hạ mạnh khoẻ và luôn gặp may mắn
Nay kính
Ký tên
TRẦN QUANG VINH
Ông Trần Quang Vinh

PHÁI ĐOÀN BỬU SƠN KỲ HƯƠNG
Viếng BÁO QUỐC TỪ

Lúc 9 giờ ngày 20 tháng 10 năm Bính Ngọ (dl 1-12-1966)
Phái đoàn đến viếng BÁO QUỐC TỪ tại chợ Long Hoa, Phái đoàn Bửu Sơn Kỳ Hương làm lễ cầu nguyện các vị Tiền Vương, ông Vạn Pháp Tiếp Dẫn Đạo Nhơn ứng khẩu đọc bài này:

Ơn Quốc Tổ Tiền Vương ghi nhớ,
Đoàn BỬU SƠN muôn thuở nào quên.
Tứ Ân Hiếu nghĩa đáp đền,
Tiền vương Thành Thái tuổi tên ghi lòng,
Đức Hàm Nghi gán công phế Đế
Vào non Nam núi Tượng lập nền!
Duy Tân tại dạ dựng lên,
Cường Hầu phục quốc tuổi tên chói loà,
Bửu Lân bất phục Lang sa,
Đưa Kỳ ngoại quốc bước qua Nhựt Hoàng.
Ngày trở lại giang san dựng nghiệp,
Hảo tâm đồng hoà hiệp Hiển Trung
Tiền nhân các Đấng anh hùng,
Nay đoàn hậu tấn thỉ chung một lòng,
Đất Nam Việt Tiên Rồng một thuở,
Nhìn ánh gương Cường Để Thái Duy,
Thành công quốc thời Tân nghi,
Cao-Đài tỏ rạng Nam Kỳ Tây Ninh.
Đoàn hậu tấn đây xin làm Lễ,
Các tiền Vương thuận kế cứu đời,
Hiệp chung Tam giáo vây thời
Bửu gia hoà thuận cơ trời định phân
Lập Thượng cổ Tân Dân, Minh đức,
Đời Thượng nguơn đáng bực Nam triều,
Tuổi tên tiền bối danh nêu,
Noi theo lý trí mộ triêu nhơ tài
VẠN  PHÁP cảm đọc bài Cung chúc,
Đạo nhơn lành ung đúc tinh thần
Lòng người vì nước vì dân,
Vì Đời vì Đạo tinh thần nêu cao.
Nhìn tiền bối ước ao tâm trí,
Tưởng Tiền Vương dụng lý nhơn hoà.
Ngày nay tới Thị LONG HOA,
Báo ân cầu nguyện tự ta lòng thành.
Cầu đạo đức nhơn sanh hoà hiệp,
Lập Thượng nguơn cho kịp kỳ thời.
Dâng hương cầu nguyện Phật Trời,
Tiền Vương các Đấng chứng lời nguyện đây.
Trở về nơi cảnh miền Tây,
ĐỒ THƠ xem kỹ lời Thầy di ngôn,
Người đạo đức tử tôn  tiền bối,
Nhớ Trăm quan một khối tinh thần.
Cùng nhau hoà hiệp an dân,
Hiếu Trung Nghĩa Dũng tinh thần chớ phai,
TỨ ÂN cũng đáp ngay tròn phận,
Khuyên đệ huynh bỏ giận chớ hờn,
Bài này của Lão Đạo đờn,
Kính dưng đạo đức BỬU SƠN xem tường,
Nên trí đạo nên nhường phải nhịn,
Chờ Thiên cơ có lịnh Thánh Hoàng.
Chúc mừng bổn Đạo phái đoàn,
Hội đồng liên phái được an tấm lòng.
Tháng năm mùng một có công,
Đúng niên KỶ DẬU con Ông trở về
Tây Ninh an phận một bề,
Đồng nhau hồi hướng trở về Tây an,
ĐỒ THƠ thầy Tổ truyền ban,
Xem coi cho kỹ hiệp đàng NGHĨA NHÂN,
Đôi lời vọng bái Thánh ân
Kính nhau tình bạn ân cần CHỮ TU
                                   Nam Mô A-Di-Đà-Phật”
                                                                       Hoài niệm Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để

Thời gian thấm thoát trôi qua,
Nước non hớn hở cỏ hoa ngậm ngùi.
Đại Tường ngày tháng tới nơi,
Ai người thức giả ai người chí công.?
Nhớ xưa Cường-Để sổ lồng,
Bôn ba hải ngoại non sông một chèo.
Sĩ phu trong nước hướng theo,
Cánh buồm Bắc Hải con chèo Việt-Nam.
Tăng Bạt Hỗ với Sào Nam,
Ra đi vì nghĩa việc làm vì dân
Nêu danh cách mạng tinh thần
Gọi người đồng chủng tinh thần bước ra
Khi Nhật-bản lúc Trung-hoa
Hoành thân Thượng hải những là nguy nan
Gặp Dưỡng Nghị quốc sự bàn
Tâm đầu ý hiệp quan san chẳng từ
Lương-Ngọc-Quyến với thiên tư
Chấn-Vũ Học Hiệu tay cừ xuất thân
Kỳ-Ngoại-Hầu trạc thanh xuân
Cùng ăn cùng học chuyên cần anh em
Tung hoành kể đã bao phen
Xiêm la Đức Quốc trí bền xông pha
Luân-Đôn vận động nước nhà
Toàn quyền xá lợi thiết tha yêu cầu
Lạ thay là Kỳ Ngoại Hầu !
Nung gan đúc trí trước sau vững bền
Non sông ghi dấu họ tên,
Một lòng vì nước chẳng quên vì nhà.
Bốn mươi năm Nhựt-bổn qua,
Tấm lòng vì nước thân là cỏ cây.
Trời Nam hưng vận ngày nay,
Hồn về chín suối xác rày thành tro.
Ra đi bao nỗi hẹn hò,

TINH TRUNG BÁO QUỐC ra tro cũng đành
Nghìn thu rõ mặt tài danh,
Sử xanh còn đó đành rành ghi tên.
Ngoài hoạt động chẳng ai quên,
Biết bao tác phẩm lưu truyền đến ta
Đồng Minh Phục Quốc lập ra
Chín cương giải nghĩa những là tương thân
Việt-Nam nghĩa hiệp trung thần
Những ai vì nước vì dân qua đời
Quan phục hưng, phương lược rồi
Gọi người quốc sĩ gọi người trung cang
Thuốc Tiên lấy linh hồn đan,
Ngõ hầu bồi bổ ruột gan anh hùng
Dâng bản chủ nghĩa thành công
Ấy là phương sách hưng vong duy trì
Dư cửu niên lai sở trì,
Đây là chủ nghĩa thạnh suy nước nhà.
Chút thân lưu lạc cõi xa,
Một lòng vì nước vì nhà tận trung

THIÊN HỒ ĐẾ HỒ SOẠN XONG
Ngài Cường Để một tấm lòng xót xa
Đến nay thân đã về già,
Nước nhà độc lập vẫn là lênh đênh
Trăm năm ghi lại chút tình,
Vo toàn Bất Khải đinh ninh chẳng về
Sắt son giữ trọn lời thề,
Biển Đông di hận hồn quê mơ màng
Nắm tro gởi đất Phù Tang,
Tiếng quyên réo rắt phụ phàng trời xanh
Gió mưa lay động bức mành,
Phải hồn Tinh Vệ xót tình tha hương.
Đại Tường gãy khúc đoạn trường,
Càng nhìn thấy cảnh càng thương nỗi lòng
Xa xa nhắn với Hoá Công,
Đau lòng Cuốc rũ uổng công

             KHUYẾN CÁO QUỐC DÂN CA
          Bài “Khuyến cáo Quốc Dân ca” dưới đây là của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để viết ra tại Đông Kinh ngày 11 tháng Giêng năm 1944 gởi về cho nhân dân Việt-Nam và toàn thể Chiến sĩ Cách Mạng trong thời kỳ phấn đấu để giành độc lập.

Nước mất sáu mươi năm rồi đó,
Quốc dân ta có nhớ hay không?
Kìa xem các nước Á-Đông,
Miến, Phi đều đã thoát vòng Mỹ Anh,
Chỉ còn có một mình Ta đó,
Vẫn để cho Pháp nó đè đầu,
Pháp kia còn có chi đâu?
Từ ngày thua Đức đã hầu diệt vong.
Gọi là nước thật lòng thành nước,
Ấy thế mà vẫn được trị bình,
Vẫn còn bạo ngược hoành hành,
Mà Ta cũng vẫn trung thành lạ thay,
Làm nô lệ đến ngày nào nữa?
Đến ngày rày còn chửa chán sao?
Hỏi hăm lăm triệu đồng bào?
Chuyện ta Ta phải tính sao bây giờ ?
Chẳng lẽ cứ ngồi chờ đến chết?
Giương mắt trông của hết đến cùng.
Bảo nhau phải dốc một lòng,
Phen này ta quyết chẳng dong quân thù.
Ông Cha trước Bình Ngô Sát-Thát,
Nòi giống mình hèn nhát chi đâu !
Sao Ta lại chịu cúi đầu?
Làm tôi tớ Pháp như trâu như bò?
Mình khốn khổ ấm no chẳng đủ,
Riêng sướng cho một lũ Tây Đầm.
Ai người có chút lương tâm?
Nghĩ nông nỗi ấy cũng bầm tím gan,
Nhiều kẻ vị thăng quan tiến chức,
Mà nỡ tâm bán nước hại nòi,
Vị tiền cũng lại lắm người,
Cơ hồ khắp nước chim mồi chó săn,
Ai có chí cứu dân cứu nước?
Thì lũ này sửa trước chớ tha,
Hỏi anh em chị em ta ?
Hiến thân cho nước mới là Quốc dân.
Pháp nọ cậy có quân có súng,
Động tí chi giết sống người mình.
Thực thì khố đỏ, khố xanh,
Trừ quan là Pháp là anh em nhà.
Sao không biết đảo qua đánh nó?
Nếu đồng tâm có khó chi đâu?
Người mình mình chớ hại nhau,
Xin quay ngọn súng trỏ đầu thằng Tây.
Nay mai sẽ có ngày khởi nghĩa,
Các anh em xin chớ ngại ngần.
Dốc lòng vì nước vì dân,
Giúp ta người sẽ có quân hùng cường
Nay dân tộc da vàng hợp sức,
Đánh đuổi người áp bức bấy lâu,
Đồng tâm ta phải bảo nhau,
Có ra sức mới ngóc đầu được lên.
Này những kẻ có tiền có của,
Chớ của mình mình giữ khư khư,
Đem tiền giúp nước bây giờ,
Có công là sẽ có lời lãi to.
Chẳng hơn cứ bo bo từng cuộn,
Rồi đến thành giấy lọn vứt đi,
Làm giàu cũng phải khéo suy,
Trước là vì nước sau vì bản thân.
Nay cơ hội đã gần tới đó,
Quốc dân ta xin cố sức lên.
Nhứt là Nam Nữ thanh niên,
Chớ quên cứu nước là thiên chức mình
Đừng say đắm hư linh vật chất,
Sự vui chơi xin dứt hết đi.
Kìa trông hai nước Miến Phi,
Họ đà độc lập mình thì làm sao?
Không lẽ chịu thuộc vào Pháp mãi?
Xiềng xích này ta phải phá ra,
Ta không cứu lấy nước nhà,
Khó mong cái sự người ta cứu mình.
Phải quyết chí hy sinh phấn đấu
Vì tự do rơi máu cũng đành,
Hãy vào Phục Quốc Đồng Minh,
Góp thêm sức mạnh làm thành việc to.
Tranh độc lập tự do cho nước,
Cho nước mình cũng được như ai.
Đứng trên Thế giới vũ đài,
Từ đây cũng có mặt người Việt Nam
Bốn mươi năm đi làm việc nước,
Thân già này chưa được chuyện chi!
Tuổi nhiều nhưng sức chửa suy,
Thuỷ chung lòng những lo vì nước non.
Cũng chẳng tưởng đến con đến của,
Cũng không mong làm chúa làm Vua.
Chỉ mưu đánh đuổi quân thù,
Để gây dựng lại cơ đồ nước ta.
Bởi vì thế bỏ nhà sang Nhựt,
Bấy nhiêu năm nếm mật nằm  gai.
Đã hay thành sự tại Trời,
Gắng công cũng phải tại người mới nên
Vậy nay có mấy lời thành thực
Xin quốc dân hợp tác đồng lòng.
Người xuất của, kẻ xuất công,
Người ngoài vận động, người trong thật hành.
Sẽ có kẻ giúp mình thêm nữa,
Việc phen này không sự không xong.
Cốt sao ta phải hết lòng,
Thành công sẽ chỉ trong vòng năm nay.
                                                                                  KỲ NGOẠI HẦU CƯỜNG ĐỂ

BÀI ÁI QUỐC CA
Nay  ta hát một câu ái quốc,
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta
Nghiêm trang bốn mặt sơn hà,
Ông cha ta để cho ta lọ vàng,
Trải mấp lớp Tiên Vương dựng mở,
Bốn ngàn năm dải nắng dầm mưa.
Biết bao công của  người xưa,
Gang sông tấc  núi dạ dưa ruột tằm
Hào đại hải ầm ầm trước mặt,
Dải Cửu Long quanh quất miền Tây.
Một toà san sát xinh thay,
Bắc kia Vân Quảng, Nam này Côn Lôn.
Vẽ gấm vóc nước non thêm đẹp
Chắc những mong cơ nghiệp dài lâu
Giống khôn há phải đàn trâu!
Giang sơn nỡ để người đâu vẫy vùng.
Hăm lăm triệu dân cùng của hết
Sáu mươi năm nước mất quyền không.
Thương ôi ! Công nghiệp tổ tông,
Nước tanh máu chảy non chồng thịt cao,
Non nước ấy biết bao máu mủ?
Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang.
Cờ ba sắc xứ Đông Dương,
Trông càng thêm nhục nói càng thêm đau
Nhục vì nước mà đau người trước,
Nông nỗi này non nước cũng oan,
Hồn ôi ! Về với giang san.
Muôn người muôn tiếng hát ran câu này,
Hợp muôn sức ra tay Quang Phục,
Quyết phen này rửa nhục báo thù.
Một câu ái quốc reo hò,
Xin người trong nước phải cho một lòng.
                                                                                                          CƯỜNG ĐỂ
Ngọ môn – Huế  (1948)

5 - Tráng Liệt và Tráng Cử
đòi xác tro của Cụ CƯỜNG ĐỂ.
           
            Hai Ông Tráng Liệt và Tráng Cử là hai con của Cụ Cường Để, ở Huế vào Sài gòn, với sự hướng dẫn của Ông Nguyễn văn Vàng, Đại biểu Chánh phủ Miền Tây, nguyên Tỉnh Trưởng tỉnh Tây Ninh và với áp lực của Chánh Phủ Ngô Đình Diệm, lên Tòa Thánh Tây Ninh, đòi Hội Thánh trả xác tro của Cụ Cường Để, vào năm 1956.

            Diễn tiến của sự việc được Ông Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt tự Trân thuật lại chi tiết như sau đây :
            "Không nhớ rõ ngày tháng nào trong năm 1956 (Bính Thân), Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Vàng, nhờ có công với Chánh phủ trong việc khắc khe đàn áp Đạo ở Tây Ninh, thêm sự nâng đỡ của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, được thăng cấp Đại Biểu Chánh Phủ Miền Tây đặc trách Hoa Kiều Sự Vụ, dẫn hai Ông Tráng Liệt và Tráng Cử lên Tòa-Thánh Tây-Ninh, đòi nhận lại xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.

            Lúc bấy giờ Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức cầm giềng mối Đạo, do Ủy Nhiệm Thư của Đức Hộ Pháp. Cả Hội Thánh Lưỡng Đài chẳng biết tính lẽ nào, yêu cầu hoãn lại để thỉnh giáo Đức Hộ Pháp.

            Trước kia, do Di Chúc Di Ngôn của Đức Cường Để, Đức Hộ Pháp dẫn phái đoàn Đạo Cao Đài sang Nhựt Bổn thỉnh xác tro của Người về thờ tại Tòa Thánh. Hội Thánh không dám tự chuyên quyết định giao.
            Ông Vàng hỏi Hội Thánh thỉnh giáo Đức Hộ Pháp cách nào và chờ trong bao lâu?

            Hội Thánh trả lời :
            - Bằng điện tín và chờ trong một tuần.

Ông Vàng cười và đồng ý.
Sau nầy rõ lại là Ty Bưu Điện nhận tiền và nội dung bức điện tín của Hội Thánh nhưng không chuyển đi. Có lẽ Ông Vàng đắc ý vì sách lược dự tính sẽ được áp dụng mà Hội Thánh không thể biết được. Có lẽ Ông nghĩ rằng trước sau gì Hội Thánh cũng phải giao xác tro mà không làm sao có lịnh của Đức Hộ Pháp. Ông Vàng cười là vậy. Thâm ý của Chánh quyền muốn cách ly Hội Thánh với Đức Hộ Pháp.

            Đúng kỳ hẹn, Ông Vàng cùng hai Ông Tráng Liệt và Tráng Cử đến tại Giáo Tông Đường. Ông Vàng với vẻ đắc ý, hỏi Hội Thánh:
- Thế nào ? Đức Hộ Pháp trả lời thế nào ?
           
Hội Thánh cho đọc bản văn do bút tự của Đức Hộ Pháp dạy giao xác tro và buộc phải ký biên nhận.
            Ông Đại Biểu Vàng ngạc nhiên hỏi:
            - Hội Thánh liên lạc bằng cách nào ?

            Hội Thánh trả lời:
            - Liên lạc bằng điện tín. Đức Hộ Pháp sai người mang giấy về cho kịp ngày giờ.

            Ông Vàng hỏi:    - Đi đường nào ?
            Hội Thánh đáp:  - Không biết.

            Ông Vàng nghi nghi ngờ ngờ không đoán ra. Kỳ thật, Hội Thánh tiên đoán và tiên liệu cho liên lạc đi để nhận hồi âm về liền, việc gấp rút sợ trễ sẽ gây bối rối.

            Sĩ Tải Nguyễn Minh Nhựt tự Trân được lịnh thảo Biên nhận trình lên Hội Thánh, chuyển qua tay ông Vàng. Ông kêu Sĩ Tải Trân chỉnh lại, đại ý rằng, đã đi với Đại Biểu Chánh phủ mà còn ghi số căn cước, địa chỉ làm gì.

            Sĩ Tải Trân nhỏ nhẹ đáp:
            - Xin Ông nói với Hội Thánh. Tôi viết xong là hết phận sự.
            Hội Thánh cho đánh máy Biên nhận, chỉnh theo yêu cầu của ông Đại Biểu Vàng.

            Trong lúc chờ đợi, Sĩ Tải Trân hỏi hai ông con của Cụ Cường Để :
            - Hai ông nghĩ thế nào mà đến đây xin đòi lại xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu ?
            Một trong hai người đáp:- Vì hiếu đạo rước về thờ.

            Sĩ Tải Trân hỏi tiếp:
            - Hai ông quan niệm thế nào về chữ Hiếu ?
            - Lúc còn sống thì thương kính, vâng lời, phụng dưỡng; chết thì phải thờ cúng...

            Sĩ Tải Trân nói lên ý kiến:
            - Ông nói về hiếu đạo, lúc cha mẹ còn sống thì phải vâng lời. Tôi nghĩ lời trối trăn của người sắp chết đáng lẽ phải được tôn trọng hơn mới phải. Trước giờ nhắm mắt, Đức Kỳ Ngoại Hầu để Di chúc lại và Di ngôn có ghi âm, xin gởi xác tro cho Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh. Đức Hộ Pháp là người dưng, tôn trọng Di chúc của bậc chí sĩ anh hùng vị quốc vong thân ở nước ngoài, không nệ mệt nhọc tốn kém, dẫn phái đoàn Đạo đến Nhựt rước về thờ tại Tòa Thánh theo ý đã để. Hai ông là con, đáng lẽ có bổn phận bảo trọng Di chúc Di ngôn, làm đúng như ý mới phải. Nay Hai ông đòi xác tro lại đem đi nơi khác, làm trái Di chúc tức là thất hiếu, sao lại gọi là vì hiếu ?

            Biên nhận được đánh máy sạch, ký tên xong. Hội Thánh mời qua Báo Ân Từ để giao tại Hậu Điện. Hai Ông Tráng Liệt và Tráng Cử trịnh trọng đưa ra 10.000 đồng nói là đền ơn Hội Thánh và Đức Hộ Pháp.

            Ngài Thái Chánh Phối Sư Thái Bộ Thanh và Ngài Giáo Sư Thái Đến Thanh khuyên hai ông nên giữ lại để xài. Đức Hộ Pháp hành động, mục đích không phải để hai ông cám ơn và nếu có đền ơn Đức Hộ Pháp thì 10.000 đồng không thấm vào đâu so với tổn phí cho cả một phái đoàn Đạo cùng đi với Đức Hộ Pháp, phí tổn phải trội hơn rất nhiều. Vả lại, trước kia, mỗi lần hai ông đến viếng Tòa Thánh, Đức Hộ Pháp thường cho ông nào cũng vậy, khi thì 5.000. khi thì 10.000, Đức Hộ Pháp có tính toán gì đâu. Nay có đáng gì để luận với số tiền 10.000 đồng mà gọi là đền ơn Đức Hộ Pháp.

            Ông Đại Biểu xen vào: - Trước khác, nay khác.
            Hai ông Tráng Liệt và Tráng Cử nài nỉ xin để cúng chùa. Ngài Thái Chánh Phối Sư chỉ tủ hành hương và nói:
            - Việc cúng chùa là tùy hỷ. Hội Thánh không trực tiếp nhận tiền cúng chùa, nếu muốn, xin bỏ vào tủ hành hương. Điều đáng ghi nhận là mấy hôm trước, biết có vụ đòi xác tro, Sĩ Tải Lê Quang Tấn và Sĩ Tải Trân đã hội ý với ông Đạo Nhơn Phạm Văn Út, Trưởng Tộc Phạm môn, chia lấy một ít xác tro Đức Cường Để, dành lại cho Hội Thánh, gọi là kỉnh trọng Di chúc của người anh hùng chí sĩ, còn phần nhiều thì giao cho Đại Biểu Chánh phủ và hai ông con của Đức Cường Để. Ông Út sau được thăng phẩm Chơn Nhơn và đã qui vị. Không rõ phần xác tro chia lại, hiện giờ ai cất giữ.

            Ngày giao xác tro cũng có điều rắc rối nho nhỏ:
Ngài Hiến Pháp lánh mặt, Biên nhận thiếu chữ ký của Ngài. Ông Đại Biểu giành giữ Biên nhận, nói sẽ đem cho Ngài Hiến Pháp ký. Hội Thánh im lặng, mặc nhiên bằng lòng. Một số Chức sắc không đồng ý, đề nghị Ngài Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh đòi lại. Việc nội bộ để Hội Thánh lo. Ông Vàng không giao.

            Trên đường đi từ Báo Ân Từ đến Đền Thánh để hai ông Tráng Liệt và Tráng Cử đảnh lễ, Ngài Thượng Chánh Phối Sư sợ mất lòng không dám đòi quyết, còn khuyên rằng:
            - Người ta là người lớn, không lẽ sai lời. Rồi người ta cũng giao lại cho mình, chớ họ giữ làm gì. Chờ cho Ngài Hiến Pháp ký tên xong, họ sẽ giao lại cho mình chớ gì. Không tán thành ý kiến đó, Sĩ Tải Trân nói:

- Đạo có phần khác, còn Chánh trị xảo trá muôn mặt. Mình không tin lời họ được. Việc nội bộ của Đạo, Ngài Hiến Pháp ở gần đây, mình đem lại cho Ngài ký, phải tiện hơn không. Tại sao họ ở xa mà lại giành giữ ? Như vậy thấy rõ ý họ không tốt rồi. Ngày kia họ không trả lại, Hội Thánh sẽ ăn làm sao nói làm sao với Đức Hộ Pháp

            Mấy ông lên xe sắp rời Tòa Thánh. Trường hợp bất đắc dĩ, dầu biết mình quá nhỏ nhoi nhưng xét thấy có bổn phận phải trực tiếp đòi nên buộc lòng Sĩ Tải Trân nói lớn:
            - Ông Đại Biểu chưa đưa Biên nhận lại cho Hội Thánh. Ông Vàng ngồi ở băng sau bất bình, vừa chìa Biên nhận ra, vừa nói to:

            - Đây nè ! Ngài Thái Chánh Phối Sư vội cầm lấy và xe chạy. Tạm kết thúc màn đòi xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, do Chánh quyền Ngô Đình Diệm làm đạo diễn ... là động cơ thúc đẩy.

            Được nghe kể lại, xác tro đòi lại được đưa về Huế, có tổ chức buổi lễ tiếp rước long trọng nói là Chánh phủ đã rước về từ Nhựt Bổn.

            Phải chăng Chánh quyền Ngô Đình Diệm lo ngại tinh thần ái quốc của đồng bào trong nước sẽ tập trung hướng về Thánh Địa Tây Ninh, có Báo Quốc Từ thờ các anh hùng chí sĩ vị quốc vong thân, gây ảnh hưởng không hay cho Chánh quyền hiện hữu"

Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt tự Trân (ký tên)

(Trích trong Hồi Ký của Cải Trạng Nguyễn Minh Nhựt tự Trân, nhan đề là Văn Tịch Pháp Nhơn Luân Chi Đạo).

6 - Truy thăng Tướng Trình Minh Thế
vào hàng phẩm Quốc Sĩ đặng
thờ nơi Báo Quốc Từ
 Bài thài Trình Minh Thế:

Lỡ bước qua sông chẳng kịp đò,
Chí cao khéo định khỏi phiền lo.
Anh hùng định thế chưa an thế,
Chỉ tiếc mày râu chẳng vẹn trò.

Nói đến Đức Hộ-Pháp là Giáo Chủ
Đạo Cao Đài

Là nói đến đức khoan hồng và Từ bi, tức là nói đến tấm lòng, nói đến cái tâm của nhà Phật. Đức Hộ Pháp chơn linh là Hộ-Pháp Di-Đà. Dù gặp kỳ Nho Tông chuyển thế, nhưng là một Đấng tu hành, Đức Ngài vẫn hằng thương con cái của Đức CHÍ TÔN, hạ mình mà dìu dẫn toàn chư Môn đệ.

Năm 1955, Quí Ngài Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư cầu xin Đức Hộ-Pháp truy phong Tướng Trình Minh Thế vào phẩm Thế Đạo, Đức Ngài phê như sau:

 “Truy thăng Trình Minh Thế vào hàng phẩm Quốc Sĩ và đặng thờ nơi Báo Quốc Từ cùng Đức Thành Thái và Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để”.

Xem vậy, không những phong tặng phẩm vị Quốc Sĩ đầu tiên Thế Đạo mà còn đặc ân cho thờ chung với các vì Vương thì rõ lòng yêu mến người chiến sĩ của Đức Ngài như thế nào !

Vài nét về Anh Hùng TRÌNH MINH THẾ
(Trích lược sử Quân Đội Cao-Đài tự vệ - Lê Thành Dân)

Nói đến Anh hùng phải cho thật đúng nghĩa: Anh là vua của loài hoa, nghĩa là chỉ về tinh thần, đạo đức, trong sáng.Hùng là vua của loài thú tức là hùng dũng, gan dạ, quyết thắng. Ở đây Tướng Trình Minh Thế thật xứng đáng là Anh hùng của dân tộc, hay nói khác đi Ông là người nồng cốt xuất thân từ Đạo Cao-Đài.

            Tướng Trình Minh Thế được bổ làm Tham Mưu Trưởng thay Tướng Phương .
            Tháng 12 năm Tân Mẹo (Janvier 1951) Tướng Thành,Tổng Tư Lịnh Quân Đội Cao Đài quyết định thuyên bổ  các Sĩ Quan trong Quân Đội đảm trách vụ mới như sau Tướng Thế về đảm nhận chức Tham Mưu Trưởng thay cho Tướng Nguyễn Thành Phương đi trị bịnh lao phổi tại Bệnh viện Đồn Đất (Hopital Grall Saigon).

               Tướng Trình Minh Thế ra Chiến Khu:
            …Đêm 21-3-1951 Tướng Trình Minh Thế rút tất cả Tứ phòng và các ban ngành công xưởng cơ khí trực thuộc tại Bộ Chỉ huy Liên Tỉnh Miền Đông cùng các Trung Đội lưu động khu vực Tây ninh vào rừng lập Chiến khu kháng chiến. Căn cứ kháng chiến của Tướng Trình Minh Thế đóng cập theo biên giới Việt – Miên như các làng Long Thuận, Long Khánh, Long Giang, Long Chữ, Long Vĩnh, Thanh Điền, Ninh Điền và núi Bà Đen (Tỉnh Tây ninh)

            Ông thành lập Mặt trận gọi là “Mặt trận Quốc gia Liên Minh kháng chiến” đặt bản doanh tại núi Bà Đen. Mặt trận tuyên ngôn rằng: Đoàn kết toàn dân gồm 6 thành phần: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh, Tăng, nhằm đánh ba kẻ thù là bài phong, đả thực, diệt cộng để giải phóng quê hương, giành độc lập cho đất nước.

            Chủ trương của Mặt trận dứt khoác không hợp tác  với phong kiến, với thực dân, với Cộng Sản. Mà chỉ kết hợp với tất cả các đoàn thể và các cá nhân có lòng yêu nước. Đài phát thanh trong núi lan đi khắp nơi trong nước cũng như ngoài nước làm cho Pháp, Chánh phủ Quốc gia và Việt Minh cũng như các giới chánh trị nghi ngờ về đường lối của Cao Đài.

Việt Minh cho rằng việc Tướng Thế ra rừng là do tổ chức của các nhà lãnh đạo Tôn giáo Cao-Đài, nhằm mục đích lấn chiếm vùng kiểm soát của Việt Minh.
Pháp thì nói sự ra đi của Tướng Thế là do Ông Phạm Hộ-Pháp tổ chức để chống Pháp.

Chánh phủ Trần văn Hữu của Bảo Đại cũng làm khó dễ không ít đối với Đức Hộ-Pháp và Tướng Thành. Cho rằng đây là một âm mưu của Đạo Cao Đài tổ chức cho Tướng Thế đi để chống lại Quốc Gia Việt-Nam.

Một số Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu cho rằng Tướng Thế vì buồn nội bộ mà ly khai.
Bốn trường hợp trên đây ai đoán đúng ai đoán sai? Và sự thật ra sao?

Chủ Tịch Mặt trận Quốc Gia Liên Minh
Kháng chiến tuyên bố:
            Tổ chức Chiến khu an bày và bắt đầu hoạt động thì bom nổ trước nhà hàng Majestic Saigon, xe của các Sĩ quan Pháp và các Bộ trong nội các Chánh phủ hư hại nhiều.

            Tại Nam vang Cao Miên, bom nổ tại bãi xe Nhà hàng lớn làm cho công chức và Sĩ Quan Pháp bị thương và chết cũng nhiều. Tại Tỉnh Sa-đéc miền Tây Nam Việt, ném bom giết Thiếu Tướng Chamson là một Tư lịnh và Thái Lập Thành, Thủ Hiến Nam phần Việt Nam, gây tiếng vang đều khắp trong cả nước lẫn ngoài nước. Sự xuất hiện xuất quỉ nhập Thần của Liên minh làm cho Pháp và Chánh phủ bù nhìn lo sợ. Pháp đưa quân thiện chiến về núi đồi tấn công vào bản doanh của Tướng Thế tại núi Bà và bao vây liên tục nhưng không sao triệt hạ được thế lực của Tướng Trình Minh Thế.

             Quân đội của Tướng Trình Minh Thế đã tấn công Quân Đội Pháp liên tục và Quân đội Pháp cũng hành quân ráo riết cố diệt cho được Quân đội Liên Minh, như thế mà Việt minh còn tuyên truyền khắp trong vùng sâu rằng: Lực lượng của Tướng Trình Minh Thế là tay sai của Pháp đưa vào lập Chiến khu để đánh Việt Minh.Việt Minh cấm nhân dân không được tham gia hoạt động cho Quân Đội Liên Minh, nếu ai tham gia thì sẽ chịu tử hình. Việt Minh gây căm thù với Liên Minh  tích cực. Thậm chí người Cha của Tướng Trình Minh Thế là Cụ Trình Thành Quới và em ruột là Trình Minh Đức làm lò gạch ở vùng Cái Tắt (Bến Cầu) mà Việt Minh cho nhơn viên đột nhập vào đốt cháy hết các dãy trại, giết chết Ông Quới và em Đức cùng một số người thân thuộc rồi bỏ đi. Điều này càng căm hờn chủ thuyết của Việt Minh nhiều hơn nữa.

            Tuy nhiên, không vì vậy mà Tướng Trình Minh Thế thù hận hết những người Việt Minh. Trái lại, ông rất thâm tình với các anh Việt Minh đã bỏ hàng ngũ Cộng Sản trở về hợp tác cùng Ông lo cho đại nghĩa Liên Minh như các Anh:
- Lâm Tiến Dũng (tự Thưởng) Bí thư Tỉnh Gia Định
- Vũ Ước, nhà báo.
- Nhị Lang, nhà chánh trị (cả hai là người Bắc)
- Nguyễn văn Phương, chánh trị viên.
- Hồ Hán Sơn, nhà chánh trị và Quân sự.
                                       (cả hai là người Trung).

Ngoài các anh này ra Tướng Trình Minh Thế còn kết hợp với các nhân vật tên tuổi khác trong Việt Nam Quốc Dân Đảng của Cụ Hải Thần. Độc lập đảng của Cụ Hồ văn Ngà. Dân xã Đảng của Hoà Hảo. Quốc gia Liên hiệp của Vũ Tam Anh và Đệ Tam Sư đoàn của Nguyễn Hoà Hiệp…nên Mặt trận Quốc gia Liên Minh Kháng chiến có một Bộ Tham mưu nhiều thành phần đứng chung nhau để chiến đấu giành lại quê hương đất nước.

            Ngoài mục đích trên Tướng Trình Minh Thế còn có nhiệm vụ tối mật là bảo vệ nền Đạo của Đức Chí-Tôn cho đến ngày Khánh Thành Đền Thánh (Toà Thánh Tây Ninh)

Bấy nhiêu tài năng và thành tích của TRÌNH MINH THẾ cũng đã làm cho người Pháp phải kinh oai. Sau đây là phúc trình của Ông GAUTIER gởi cho  Bộ trưởng Liên Quốc nói về Quân Đội Cao-Đài:

     PHÁP nhận định riêng về Ông Trình Minh Thế:
            Tướng Trình Minh Thế bao giờ cũng là địch thủ nguy hiểm nhất của ta cả về chánh trị lẫn quân sự.
            Ông ta có một nghị lực không gì khuất phục nỗi, một sức làm việc không biết mỏi mệt và những đức tính, hành động đã được chứng tỏ nhiều lần có thể phá hoại công cuộc của chúng ta được. Ông đã gây cho ta không phải ít điều phiền toái, khi ông còn ở trong Quân Đội Cao Đài trước ngày ra khu. Ông đã lập được nhiều xưởng cơ khí quan trọng và gây được phong trào quần chúng mạnh mẽ. Hiện nay Ông được rất nhiều dư luận Quốc tế chú ý, đứng đầu là dư luận Mỹ, bởi Ông ta đã chiếm một lập trường vững chắc. Ông vừa tuyên bố chống Ta, chống Cộng. Trước khi rời khỏi hàng ngũ Cao-Đài, Ông đã có liên lạc nhiều giới nhân vật Mỹ ở  Sài-gòn, theo sự dò xét của ta thì những sự tiếp xúc đó không ngoài vấn đề cộng tác giữa hai bên. Khi Ông ta ra Rừng, Ông có lần gặp gỡ Tổng Thơ Ký Toà Đặc sứ Mỹ ở Cẩm Giang (T6ay Ninh).

            Hiện nay phong trào của Trình Minh Thế không phải là một đe doạ nặng nề cho chúng ta nữa, bởi vì những quân sĩ của Ông ta vẫn còn tranh đấu trong phạm vi Tôn giáo nhiều hơn, là bởi trong bộ đội còn thiếu chánh trị viên. Chúng ta có thể lợi dụng lòng Tín ngưỡng của họ để buộc Ông Phạm Công-Tắc ra mệnh lệnh cho Tín Đồ rời bỏ chiến khu, lại nữa ta bảo Ông Thành tuyên truyền rằng: “Ông Thế hành động theo mạng lịnh của Việt Minh”. Vì đó mà Ông Thành buộc phải tiêu diệt quân phiến loạn. Bằng cách ấy ta có thể làm suy yếu nội bộ Cao-Đài mà không sợ dư luận Mỹ, như thế vấn đề Ông Trình Minh Thế có thể coi là tạm giải quyết xong …

            Nói tóm lại: Chiến thuật của ta là chia rẻ lực lượng Cao Đài, không kể lực lượng của Ông Thế, làm hai phe dễ dàng bóp nghẹt một phe, hoặc là ta để cho lực lượng ấy thăng bằng nhau để dễ bề tiêu diệt cả hai.

            Ở Việt Nam vấn đề Cao-Đài là một trong những vấn đề gai gốc nhứt cần phải giải quyết kịp thời để tránh những kết quả tai hại”….

(Bản Phúc trình này viết bằng tiếng Pháp. Quân Đội Cao Đài mua của các gián điệp viên làm việc với Pháp, dịch ra Việt Ngữ dài 12 trang giấy pelure đánh máy, chỉ trích lấy một phần trọng yếu).

Diễn từ TÂN XUÂN của Thiếu Tướng Trình-Minh Thế Tổng Tư lịnh Quốc Gia Liên minh Chủ tịch lâm thời  Mặt Trận Quốc gia Kháng chiến.
(Báo Quốc gia số 37 ra ngày 1-3-1954)

Thưa Đồng bào toàn quốc,
Mai đây, Xuân sẽ trở về với đất nước và dân tộc Việt-Nam.
Tất cả hai chục triệu trái tim hồi hộp, hai chục triệu tâm hồn vui vẻ, hai chục triệu tâm hồn hy vọng, hai chục triệu  tâm hồn băn khoăn…

Lẽ vì Xuân Giáp Ngọ này là một mùa chinh chiến, cũng như tám Xuân trước đã qua. Dân tộc Việt-Nam ta vốn là một dân tộc hùng mạnh và văn hiến. Vì vốn là một dân tộc văn hiến nên cái Tết và cái Xuân cổ truyền của giống nòi là cái Tết và cái Xuân thanh lịch. Nhưng cũng vì dân tộc ta là một dân tộc hùng dũng nên cũng đã từng bao phen ăn Tết và thưởng Xuân bằng cách tuốt gươm đánh quân ngoại quốc xâm lăng. Cái thành tích vẻ vang nhất của cách ăn Tết chơi Xuân võ thượng này là trận tấn công  quân nhà Thanh của Tôn Sĩ Nghị do vị anh hùng Nguyễn Huệ thống lĩnh và toàn thắng..

Ngày nay dân tộc Việt-Nam lại sống lại những ngày anh dũng như xưa. Say sưa về nhiệm vụ cao cả và chính đáng của mình, người Chiến sĩ Quốc gia bao giờ cũng hăng hái, cũng quyết liệt. Chỉ bao giờ hoàn toàn thành công trong danh dự, chúng ta mới bỏ súng trở về với gia đình, an hưởng cái hoà bình trong độc lập mà ta đã cố công chiến đấu đem về cống hiến Tổ quốc.

Cái chí nguyện mãnh liệt và cao quí ấy, anh em chiến sĩ của Mặt trận Quốc gia Kháng chiến  đã ba lần lập đi lập lại, mỗi khi Tết về đưa xuân tới. Các lời chí nguyện trong rừng xanh núi biếc ấy, ngày hôm nay chúng tôi nhân

là Tổng Tư lịnh Quân Đội Quốc gia Kháng chiến mà lớn tiếng nhắc nhở lại với anh em và đồng thời công báo cùng Quôc dân đồng bào:
Chúng tôi rất vui lòng, chúng tôi say sưa tận hưởng cái Tết và cái Xuân chiến sĩ. Non sông và dân tộc có thể tin tưởng ở tấm lòng kiên trinh  “vùng đất của chúng tôi”.

Chúng tôi nguyện sẽ cùng dân tộc chiến đấu cho tới cùng. Xuân Giáp Ngọ này chúng tôi lại thấy hăng hái hơn, tin tưởng hơn Xuân trước vì chúng tôi thấy rằng năm Giáp Ngọ sẽ là một năm quyết định.

 Tinh sổ tám lần xuân khói lửa, ta đã thấy ta đã vượt qua những giai đoạn sau đây:
Từ 1945 đến 1949 Pháp mù quáng theo đuổi cái cuồng vọng là chinh phục Việt Nam một lần thứ hai nữa. Sau bốn năm bất lực, Pháp bèn thay đổi, tỏ ra mềm dẽo hơn. Vì thế mới có cuộc thí nghiệm “Chế độ Sài-gòn” từ 1949 đến nay. Nhưng ván bài Chế độ Sài-gòn cũng tỏ ra thất bại.

Cho nên từ tháng 7 năm 1953 trở đi Pháp muốn thay đổi chính sách. Một mặt thì tuyên bố muốn bắt tay  với dân tộc Việt-Nam, một mặt lại âm mưu điều đình với Việt-Cộng..

Ta nhận thấy có ba giai đoạn rõ-ràng trong thái độ  của Pháp. Tại làm sao có các sự biến chuyển lớn lao như vậy? Các yếu tố của sự thay đổi thái độ của Pháp là gì?.

Bà con ta ai cũng nhận thấy cái yếu tố chính, đó là sức kháng cự hoặc hùng dũng, oanh liệt của người chiến sĩ, hoặc âm thầm lặng lẽ, dẻo dai và cũng nhiệt liệt của người dân. Toàn thể dân tộc Việt-Nam một lòng một dạ chống với thực dân. Vì vậy mà dân tộc và chính nghĩa đã thắng thực dân và cường quyền.

Trong công cuộc kháng chiến ấy, anh em Mặt Trận quốc gia kháng chiến cũng dự một phần oanh liệt. Xương máu anh em đã phơi, đã chảy. Anh em đã nếm đủ mùi cay đắng của cuộc đời người chiến sĩ yêu nước, đem thân ra mà nguyện phụng sự cho non sông.

Sau này, khi dân tộc đã giành được, khi hoà bình đã vãn hồi với dân tộc, nếu có ai hỏi anh em rằng: “Trong buổi quốc biến anh đã làm gì?”

Các anh em có thể lấy làm vinh hạnh mà trả lời rằng: Tôi đã chiến đấu trong hàng ngũ Mặt trận Quốc gia Kháng chiến”.
Cái sức chiến đấu mầu nhiệm lạ thường của dân tộc Việt-Nam đã làm cho thực dân Pháp kiệt quệ.

Kiệt quệ về tài chính Pháp đã tiêu tốn ở Đông dương một cách vô ích tất cả số tiền mà Mỹ đã viện trợ  cho Pháp quốc trong công cuộc trùng tu nước Pháp. Không những thế, Pháp lại còn tiêu phí một số tiền lớn trích ở trong nền tài chánh của Pháp nữa. Nghĩa là nước Pháp nghèo nàn, đuối sức vì cuộc chiến tranh và sự chiếm đóng của quân Đức đã phải đem một phần cái tài lực của mình để nuôi cuộc chiến tranh Đông dương. Sự cố gắng của Pháp vượt ra ngoài sự chịu đựng của Pháp. Vì thế, thuế má của dân nặng nề, tình trạng ấy ảnh hưởng tới nền kinh tế, hàng hoá của Pháp chịu sưu nặng nên giá bán cao hơn hàng hoá ngoại quốc, thành thử không xuất cảng được nhiều: kinh tế của Pháp thành ra bị bế tắc, tài chánh của Pháp vì thế cũng bị khủng hoảng và do sự khủng hoảng về nền tài chánh đi đến sự khủng hoảng về tiền tệ. Sự xuất kém về các phương diện kinh tế, tài chánh, tiền tệ ấy  đã gây cho nước Pháp một sự khủng hoàng lớn xã hội: ấy là phong trào đình công lớn xã hội, ấy là phong trào đình công vĩ đại của Pháp hiện nay.

Tóm lại, ta có thể ví Pháp như một người đã bị  trọng bịnh nên sức lực đã suy giảm đi nhiều rồi mà lại còn cố gắng làm một công việc nặng nề quá đáng. Sự cố gắng đó lẽ tất nhiên không thể kéo dài lâu mãi được. Lẽ tất nhiên thế nào cũng có một ngày người bệnh đó phải khoanh tay bỏ dở  công việc của mình; đó là tình trạng kiệt sức của người Pháp ngày nay.

Ta nên chú ý các tin tức sau đây mà các báo chí lúc bấy giờ đã đăng tải, trong một bức thư gửi cho tất cả các nghị sĩ Pháp Hội ái hữu toàn quốc, các quan cai trị của nước Pháp đều nói rằng:

“Trong hai điều ta phải chọn lấy một. Nếu muốn tiếp tục cuộc chiến tranh Đông dương thì phải tăng thuế má của dân Pháp lên 30% nữa thì ngân quỹ của nước Pháp mới thăng bằng được. Nếu không muốn tăng thuế lên 30% thì phải tìm cách chấm dứt ngay cuộc chiến tranh Đông dương thì ngân quỹ của nước Pháp mới khỏi thiếu thốn tiền chi tiêu.

Đó là một câu nói mô tả một cách hết sức rõ-rệt cái thực trạng khốn đốn của nước Pháp do sự đeo đuổi dằng dai cuộc chiến trường Đông dương gây nên.

Lại mới đây Tổng trưởng bộ Tài chánh Pháp trong chánh phủ Laniel là Edgar Faure lại cũng đã tuyên bố rằng công quỹ của Pháp sẽ hao hụt 870 tỷ quan trong niên khoá sắp tới.

Tóm lại, Pháp hết tiền, mà không có tiền thì làm thế nào mà làm nỗi cuộc chiến tranh Đông dương nữa.

Vì vậy nên Pháp phải thay đổi chánh sách của mình ở  Đông Dương. Cho nên trên kia ta đã nói rằng: thời cuộc chánh trị ở Việt Nam đã đi đến chỗ chín muồi rồi.

Sự kiện đó lẽ tất nhiên là vô cùng lạc quan cho vận mệnh nước nhà và hết sức tươi đẹp cho các phần tử quốc gia Việt-Nam chân chính

            Sự kiệt quệ thứ hai của thực dân Pháp là thiếu quân số. Sáu chục nghìn quân chính tông đã bỏ mình hay bị tàn tật vì cuộc xâm lăng Việt Nam. Còn quân đội Phi châu thì táng thân ở Việt-Nam có tới trăm ngàn. Thực dân Pháp không sao mà lấy ra đủ lính mà tiếp tục cuộc xâm lăng mãi được. Các con số trên đây đủ tỏ rõ sức kháng chiến của dân tộc Việt-Nam ta oai hùng đến bực nào.

Cái sức kháng thực dân của dân tộc lại làm cho thực dân bị chua cay về một phương diện nữa. Ấy là sự thất bại hoàn toàn của bè lũ Việt gian và tay sai trong chế độ Sài-gòn.

Từ cái chế độ Nam kỳ quốc của bọn Nguyễn văn Thinh, Lê văn Hoạch, Trần văn Hữu cho tới cái chế độ Sài gòn của bọn Nguyễn văn Xuân, Trần văn Hữu, Nguyễn văn Tâm, tất cả bè lũ Việt gian và bù nhìn đều khoanh tay thúc thủ.

Dân chúng không hợp tác. Dân chúng phản đối, trốn  thuế, đào ngũ, bất hợp tác, đả đảo, đó là các hình thức của ý chí chống bù nhìn, chống Việt gian mà toàn dân đã áp dụng một cách đắc lực. Còn các đoàn thể như Cao Đài, Hoà hảo thì chỉ hợp tác ngoài mặt chứ không giúp được bọn Việt gian  và bù nhìn Sài-gòn được một điều gì đáng kể.

Tóm lại như ta thấy, các sự hy sinh, các sự cố gắng, các sự dẻo dai, các sự chịu đựng của dân tộc Việt-Nam đã đem lại được nhiều kết quả rực rỡ. Sự thất bại của thực dân Pháp càng ngày càng rõ rệt, càng ngày càng hiện hình. Cái triệu chứng cụ thể nhất của của sự nhượng bộ của Pháp là sự thãi hồi viên Toàn quyền thuộc địa Gauthier. Và lấy một nhân viên của Bộ Ngoại giao nay mai sẽ gửi sang đảm nhận Chức cao uỷ  ở Sài-gòn.

Cái triệu chứng cụ thể thứ hai là cái phong trào gần như chính thức của một sự thay đổi về quan niệm “Liên Hiệp-Pháp”.Từ trước tới giờ không ai lạ gì rằng Pháp không bao giờ chịu nghe nói tới một cuộc thay đổi quan niệm về Liên-Hiệp-Pháp của họ. Vậy mà bây giờ họ đã chịu đem vấn đề ấy ra bàn. Như thế có phải riêng họ đã biết thối lui khi một cái ma lực của ta mỗi ngày mỗi mạnh.

Tuy nhiên ta cũng không nên lạc quan thái quá. Chừng nào mà các phần tử quốc gia chân chính được đại diện cho dân tộc Việt-Nam thì ngày đó Pháp mới quả thực  là thay đổi chính sách và ngày đó thì vấn đề thực dân, vấn đề xâm lăng, vấn đề Pháp Việt mới thực thụ là giải quyết xong xuôi, để nhường chỗ cho một vấn đề khác..

Tóm tắt Bài Diễn văn này chúng tôi xin lập lại: Xuân Giáp-Ngọ đã mang lại cho dân tộc Việt-Nam một tình thế chánh trị khá lạc quan, nhưng nếu muốn cái viễn ảnh lạc quan ấy thực hiện thì ta cần phải hoạt động ráo riết nhiều hơn nữa, thì ta phải cố gắng thêm lên nhiều nữa. Nhưng cố gắng không thôi thì không đủ. Điều cần nhất là phải thống nhất ý chí, phải thực sự đoàn kết một cách có công tâm và nhiệt thành.

Kinh nghiệm một năm qua đã tỏ cho ta biết rằng sự thống nhất về chánh trị không phải là dễ dàng đâu. Chúng ta sẽ chỉ thành công được là khi mà chúng ta thắng nỗi các sự chia rẻ, xích mích, bất đồng ý kiến giữa các anh em quốc gia chân chính mà thôi.

Riêng về phần tôi, tôi rất tin tưởng  một sự đại-đoàn kết của tất cả mọi tầng lớp dân chúng và các đoàn thể quốc gia chân chính. Tôi tin rằng ai ai cũng nhận thấy Đại đoàn kết là một sự cần thiết, là một bổn phận, là một bí quyết của thành công..

Riêng về phần mặt trận Quốc gia Kháng chiến, thì  chúng tôi bao giờ cũng sẵn lòng, cũng chuẩn bị sẵn sàng bắt tay tất cả các anh em quốc gia chân chính.

            Giờ đây tôi xin mời đồng bào toàn quốc cùng anh em chiến sĩ của Mặt trận Quốc gia Kháng chiến hãy cỗi mở nỗi lòng trong chốc lát để mà tận hưởng cái hương vị say nồng của mùa Xuân, nhất là của một mùa Xuân khói lửa. Chúng ta sẽ hân hoan đón Xuân mới. Song, trong cái say sưa ấy, chúng ta cũng sẽ không quên mà dành cho các đồng chí đã hy sinh cho đất nước một niềm tư tưởng thành kính và âu yếm. Vì các Bạn đồng chí ấy đã cùng ta hứa hẹn những lời thuỷ chung .

Sau hết, nhân danh tất cả các anh em chiến  sĩ của mặt Trận Quốc gia kháng chiến, chúng tôi xin trân trọng cám ơn đồng bào toàn quốc đã hưởng ứng và ủng hộ chúng tôi về đủ các phương diện tinh thần và vật chất. Về phương diện tinh thần chúng tôi đã được hưởng những  món quà, những lời tâm sự rất là cảm động. Sở dĩ chúng tôi càng ngày càng say sưa thêm mãi với công việc chiến đấu của chúng tôi, là vì chúng tôi luôn luôn được lãnh những lời khuyến khích nồng nàn của bà con gần xa. Chúng tôi càng ngày càng tin tưởng ở cái chính nghĩa thực thụ mà chúng tôi phụng sự. cho nên sự kiên quyết của chúng tôi lại càng ngày càng càng kiên quyết hơn.

Về phương diện vật chất chúng tôi cũng được đồng bào toàn quốc khuyến khích nhiều lắm. Sở dĩ chúng tôi chiến đấu được nỗi ba năm nay cũng là nhờ sự ủng hộ của đồng bào, một sự ủng hộ có tính cách khuyến khích chúng tôi trên con đường phụng sự dân tộc.

Đối với các nghĩa cử đó chúng tôi xin trân trọng gởi lại một tấm lòng tri ân nồng nhiệt.

Đứng trước mặt Quốc dân Việt-Nam, anh em Mặt Trận Quốc gia kháng chiến xin cùng tôi lặp lại lời nguyện: “VÌ TỔ QUỐC VÀ DÂN TỘC CHIẾN ĐẤU CHO TỚI THÀNH CÔNG”              

BÀI VĂN TẾ HỒN THIÊNG SÔNG NÚI

Lần dở trang sử cũ;
Đốt nén tâm hương hầu Ngưỡng vọng Quốc hồn,
Qua ngàn năm phơi trải tấm lòng son,
Ơn quốc thổ nghìn thu công rỡ rỡ,
Dầu Vua quan công hầu khanh tể,
Tấm lòng trung còn truyền để muôn đời.
Hận bao người nhục chí chuyển dời,
Mãn xu nịnh, gian hùng cũng khuynh nguy điên đảo
Thương bấy chí anh hùng cao ngạo,
Thề đương đầu với nghịch bạo không nao!
Xem cái chết tợ hồng mao trước gió,
Hồn núi sông tự ngàn năm gắn bó.
Khí Thiêng liêng mở ngõ giống hùng anh,
Dân Việt Thường đầy khí khái liệt oanh.
Trừ thô bạo chí thành luôn dũng liệt,
Nay ĐẠI ĐẠO hoằng khai cõi Việt,
Xoá thù hiềm nêu chí liệt bao dung,
Ngưỡng ân Thiêng Quốc-thổ kiêu hùng,
Khắc trong dạ lòng thành Ngưỡng vọng:
Nguyện nối chí anh phong truyền thống,
Hầu điểm tô giòng giống Tiên Rồng.
Đạo cứu đời nêu câu: BÁC ÁI  - ĐẠI ĐỒNG,
Đời nương Đạo mới rõ quyền CÔNG CHÁNH,
Chí-Tôn dạy: Không thương đừng ghét lẫn,
Hãy thương thương mới rõ sức nhiệm mầu,
Đạo Trời sáng chói Năm Châu.
Xuân nguơn Mậu Dần (1998)
Nữ Soạn giả
NGUYỄN LỆ THUỶ

Hết
  Home       1 ]  [ 2 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét