Đôi liễn đặt trước cổng Báo Quốc Từ:
Bảo thủ cơ đồ Anh hùng dương khí phách
Hộ
trì quốc vận Chí sĩ hiển oai linh.
" 保 守 基 圖 英 雄 揚 氣 魄
護 持 國 運 志 士 顯 威 靈)
Ðôi liễn nầy do Ngài Hiến
Pháp Trương Hữu Ðức đặt ra, được đắp chữ nổi vào hai trụ cổng của Báo Quốc Từ.
CHƯƠNG I
PHẦN GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
A - BÁO QUỐC TỪ
報 國 祠
A : The National Pantheon.
P : Le Panthéon national.
Báo: Ðáp lại. Quốc: Nước,
quốc gia. Từ: Ðền thờ.
Báo Quốc Từ là một Đền thờ,
thờ những vị có công lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Ngôi Đền này để
tưởng niệm “Những kẻ chí sĩ lãnh trách nhiệm nghiêng vai gánh vác cả non sông,
đều làm phận sự, công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn với Toà Thiêng Liêng, hoặc
ghi tên tuổi vào Thanh sử thiên niên chớ chẳng phải để kể công trình với Chúa tể
ấy”.
BÁO QUỐC TỪ thành lập ngày
01-01-1955, cách cửa Chánh Chợ cũ Long Hoa về phía Bắc độ hơn trăm thước Cách Đền
Thánh Toà Thánh Tây ninh khoảng hai cây số. Du Khách muốn viếng Toà Thánh nếu
đi về phía Long-Hoa-Thị thì phải đi ngang qua Đền Báo-Quốc-Từ, vì ngôi Đền này
nằm trên trục lộ giao thông một cách oai nghiêm, lộng lẫy nhưng gọn gàng và đủ
đầy sự khiêm tốn, chính con lộ này được mang danh là “Lộ Báo Quốc Từ”. Hằng năm
cứ đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh cùng
toàn Đạo có thiết “LỄ GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG” tại ngôi Đền này..
Nhìn vào sáu mặt Đền thông
thoáng, nhất là hai mặt cửa: phía chính Bắc và chính Nam có đắp nổi đôi câu liễn
đối viết bằng chữ Hán nói trên.
Ðức Phạm Hộ Pháp đã cho
xây dựng một ngôi Báo Quốc Từ nằm sừng sững giữa Đại lộ đi từ Tòa Thánh xuống
Chợ Long Hoa, làm như một quãng trường lớn, xe cộ phải đi vòng chung quanh Đền
khiến tất cả đều cúi đầu ngưỡng vọng về việc “Cứu Quốc Công Thần”của các Ngài
BÁO QUỐC TỪ cất theo hình
lục giác đều, hai mặt trước và sau có đắp đôi liễn nơi cổng chánh nói lên sự
tôn kính đối với các bực anh hùng chí sĩ xả thân bảo vệ tổ quốc, xây dựng giang
sơn.
Ðôi liễn như vầy:
Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách,
Hộ trì quốc vận chí sĩ hiển uy linh.
" 保 守 基 圖 英 雄 揚 氣 魄
護 持 國 運 志 士 顯 威 靈 "
Nghĩa là: - Bảo thủ cơ đồ,
người anh hùng nêu cao khí phách. Hộ trì
vận nước, người chí sĩ hiển lộ oai linh.
Trong BÁO QUỐC TỪ nơi bàn
thờ chánh thì thờ Quốc Tổ Hùng Vương, các vị Cứu quốc công thần, Chiến Sĩ Trận
Vong.
Linh vị thờ viết bằng Hán
tự, như sau:
Chữ lớn hàng giữa: HÙNG
VƯƠNG QUÂN CHI THỈ.
Hàng bên trái: CHIẾN
SĨ TRẬN VONG.
Hàng bên phải: CỨU QUỐC CÔNG THẦN.
Chính giữa Đền trần thiết một bàn thờ uy nghi:
戰 雄 救
士 王 國
陣 君 功
亡 之 臣
始
Các Linh vị đều sơn son thếp vàng, từ
khí bằng đồng bóng loáng. Hai bên có đủ lộng tàng, đồ lỗ bộ. Ngay sau bàn thờ
có tám chữ Nho viết theo lối Đại tự:
“CỨU QUỐC CÔNG THẦN CHIẾN SĨ TRẬN VONG”
救 國 功 臣 戰 士 陣 亡 "
Dưới tám chữ ấy có bốn Bài vị sơn
son thếp vàng là các vì Vương: HÀM NGHI, THÀNH THÁI, DUY TÂN được thờ
trong Báo Quốc Từ cũng là thờ Linh vị các vì Vua nhà NGUYỄN có tinh thần cách mạng chống Pháp đô hộ và nhà Cách mạng CƯỜNG ÐỂ, sau đó là Anh hùng TRÌNH MINH THẾ (Quốc Sĩ)
Thế nên, trong buổi Lễ
Khánh Thánh Báo Quốc Từ ngày 16-8-Ất Mùi (dl 1-10-1955), Ðức Phạm Hộ Pháp nói:
“Nơi Ðền thờ nầy, các Ngài
đã thấyLinh vị của mấy vị Cựu hoàng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, xin các Ngài đừng
tưởng lầm rằng: Ðạo Cao Ðài đã xu hướng theo thuyết bảo hoàng, mà kỳ thật các Ðấng
ấy chỉ liệt vào hạng trung quân ái quốc của Việt-Nam mà thôi, vì công nghiệp của
họ là tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng như các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy.
Tưởng niệm tới lễ ấy nên Hội
Thánh mới quyết định lập BÁO QUỐC TỪ thờ trọn cả các vong linh của các anh hùng
chiến sĩ, cứu quốc công thần cùng là trận vong chiến sĩ
Hôm nay các anh linh chư vị
anh hùng tiền bối và hậu bối đang ngự trị trong khối Quốc hồn của ta và đang vơ
vẩn bên ta. Giờ phút thiêng liêng nầy, Bần đạo xin các Ngài hiệp tâm làm một
cùng Bần Đạo thành một khối tưởng niệm duy nhứt đặng cầu xin các Ðấng ấy giúp
cho nòi giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt nhục tương tàn, đặng đem hạnh phúc Hòa
Bình lại cho nước nhà và cho toàn thiên hạ”…
Ngày hôm ấy: Hoàng Thân
Tuy Lý Vương Tôn Ưng An Thúc Dật Thị được mời dự lễ Khánh Thành Báo Quốc Từ
ngày 16-8-Ất Mùi (dl 1-10-1955) Ông có viết một bài cảm tưởng, đại ý như sau,
trích một đoạn:
"Trước cảnh các Tín đồ
Cao Ðài nam nữ kéo đến Báo-Quốc-Từ niệm hương, lễ bái thành kỉnh, tôn sùng anh
linh của các bậc tiền nhân, thật làm cho kẻ thân tộc nầy không sao tả xiết nỗi
cảm kích tri ân, nó xúc động cả tâm hồn. Những sự tai nghe mắt thấy đã đưa người
xem từ cái mới lạ nầy qua cái mới lạ khác. Khi tôi trở về Sài Gòn, cảm thấy
tinh thần rất khoan khoái, tâm trí nhẹ nhàng:
THI
Muôn vàn cảm tạ các Chơn linh,
Ẩn ước Thiên cơ chỉ giáo mình.
Ðôi ngã Âm Dương tuy cách biệt,
Một niềm thành kính thấu U Minh.
U Minh hiển hiện giữa quang minh,
Quá khứ tương lai kể sự tình.
Báo quốc tinh trung gương vạn cổ,
Ân cần khuyên nhủ khách tài danh.
Ðức Phạm Hộ Pháp cho xây dựng
Báo-Quốc-Từ ngay giữa đường, không thiên
tả, không thiên hữu, cũng không ở đầu đường hay cuối đường, có ý nghĩa là công
nghiệp của mỗi vị vua vẫn còn dang dở nửa chừng, cần có sự nối tiếp của các thế
hệ sau.
Các thông lộ này tạo thành
chữ BÌNH 平 mà Báo Quốc
Từ nằm vào chính giữa, nói lên ý nghĩa là cầu mong HOÀ BÌNH,CÔNG BÌNH…cho muôn
dân. Nhất là vùng Thánh địa,Toà Thánh Tây Ninh này được nhiều diễm phúc
1 - Đức Thượng Sanh đọc Diễn văn Lễ Khánh Thành
vuông rào BÁO QUỐC TỪ
Kính HỘI-THÁNH,
Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu
Trùng và Phước Thiện Nam Nữ,
Trung Tá Tỉnh Trưởng,
Quý Quan khách,
Chư Chức việc và Ðạo hữu
lưỡng phái,
Hôm nay là buổi Khánh
thành vuông rào Báo Quốc Từ, nhơn danh HỘI-THÁNH tôi xin để lời cảm ơn Trung Tá
Tỉnh Trưởng, quý viên chức Tỉnh Tây Ninh và quý quan khách sẵn lòng đến dự,
giúp tinh thần cho buổi lễ được xán lạn và trang nghiêm trong khung cảnh huy
hoàng long trọng.
Trên vùng Thánh Ðịa nầy,
hôm nay Ðời và Ðạo đã gặp nhau và thông cảm nhau trong dịp tỏ lòng tôn kính và
sùng bái những nhơn vật trong hàng Vương giả, đã lấy chủ nghĩa quốc gia dân tộc
làm chuẩn đích, đem thân thế điểm tô cho non sông Việt chủng được vững bền trên
cõi Á Ðông lắm khi phải trọn đời hy sinh vì giống nòi Hồng Lạc.
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một
nền QUỐC ÐẠO được khai sáng trên đất Nam Phần Việt Nam, nơi mà tinh ba của đất
nước đã nung đúc biết bao bậc anh phong chí sĩ, lẽ tất nhiên là Ðại Ðạo có phận
sự bảo tồn quốc túy, giữ cho còn mãi những cái hay, cái đẹp riêng biệt của nước
nhà hầu lưu truyền cho đời sau roi dấu.
Trong những cái hay, cái đẹp
đó đáng treo gương nhất là tinh thần vị quốc xả thân dầu đến thác cũng không đổi
dời tiết tháo.
Vì muốn tôn thờ cái tinh
thần vị quốc ái dân đó, Ðức Hộ Pháp mới có sáng kiến xây dựng ngôi BÁO QUỐC TỪ
để làm nơi hương hỏa phụng tự cho các Ðấng Tiên Vương và các nhà tôn thất có
dày công với Tổ Quốc Việt Nam.
Cái sáng kiến của Ðức Hộ
Pháp do nơi lòng ái quốc chơn chính của Ðức Ngài, đã làm cho toàn Ðạo vui lòng
và mãn nguyện.
Ngày nay HỘI-THÁNH tiếp tục
gìn giữ dấu tích của Ðức Ngài và tô điểm cho nó còn vẻ uy nghiêm mãi mãi.
Tuy nói rằng ngôi Báo Quốc
Từ để tôn thờ những bậc Vương giả hữu công với đất nước, nhưng nước Việt Nam đã
thoát vòng lệ thuộc và chính thể hiện tại là chính thể Cộng Hòa thì từ đây ngôi
miếu nầy sẽ dành chung để chiêm bái những vị lãnh đạo Quốc gia như Quốc Trưởng,
Thủ Tướng chẳng hạn, đã hy sinh vì Tổ Quốc, đã có công đổi loạn ra trị, xây dựng
thái bình cho nhơn sanh được hưởng an cư lạc nghiệp.
Ðó là những đấng Phụ Mẫu
Chi Dân thật xứng đáng những ân nhân ngàn đời của dân tộc Việt Nam vậy.
Ngoài ra những Đấng anh
hùng tương lai của đất nước, những nhơn vật đã dám tuẫn tiết vì non sông, dám
liều mình vì dân tộc đã đem thắng lợi cho quê hương và giữ danh dự chung cho
nòi giống. Những Đấng ấy đều đáng đem vào Báo Quốc Từ để được thiên thu phụng tự.
Vì mục đích tôn trọng hạng
anh hùng chí sĩ nên nơi mặt tiền Báo Quốc Từ, HỘI-THÁNH có cho khắc hai câu đối,
do Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Ðức biên soạn và đã được sự chấp thuận của HỘI-THÁNH
Hiệp Thiên Ðài như dưới đây:
- Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách
- Hộ trì quốc vận chí sĩ hiển uy linh"
Cái ý nghĩa hai câu nầy
như thế nào, tôi chắc rằng quí vị đều biết rõ.
Thưa HỘI-THÁNH và chư Quí
vị,
Từ xưa biết bao nhiêu bậc
anh hùng chí sĩ Việt Nam đã lắm phen cứu vãn tình thế khuynh đảo của nước nhà,
đánh đuổi kẻ xâm lăng, xây dựng nền độc
lập.
Những bậc anh hùng dân tộc
như: Phạm Ngũ Lão, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Trần Hưng Ðạo …những bậc
anh thư như: Hai Bà Trưng là Trưng Trắc, Trưng Nhị, mặc dù ngày nay đã khuất
bóng, nhưng uy danh vẫn còn ghi tạc sử xanh được muôn đời nhắc nhở ca tụng. Những
Đấng ấy há chẳng đáng cho nhơn dân sùng bái phụng thờ mãi mãi sao?
Cho hay dù trong cửa Ðạo
hay nơi mặt đời, những bậc siêu phàm đều có giá trị hiển hách ngang nhau.
- Ðạo thì dụng từ bi, bác
ái, cứu khổ nâng nguy;
- Ðời thì dụng tiết tháo
anh hùng, trung cang nghĩa khí
Trải thân hữu dụng để phục
vụ cho Ðạo và nhân sanh hay lấy chí anh phong để phụng sự quốc gia, giữ gìn
biên cương lãnh thổ, khi nợ trần giũ sạch, nhục thể trả lại cho lòng đất thì dù
Ðạo hay Ðời, những linh hồn bất diệt cũng đều được hưởng sự ban thưởng Thiêng
Liêng, qui hồi cựu vị trong cõi Thần Thánh Tiên Phật.
Cái gương của Ðức Quan
Thánh Ðế Quân ngày nay đắc phong Phật vị và Ðức Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh
Khiêm tức là Ðức Thanh Sơn được đứng vào hàng Tiên vị đã chứng cho chúng ta thấy
sự công bình của Ðấng Chí Tôn cầm quyền thưởng phạt.
Một người thì đem tài bách
chiến và khí phách anh hùng để phò vua dựng nước, một người thì dụng văn chương
bác lãm để giúp cho nước trị dân an, hai Ðấng ấy chẳng phải vì tu hành mà chỉ
nhờ nơi tâm chí cao siêu nên thủ đắc Thiên vị.
Vậy tôi ước mong cho chư Ðạo
hữu nam nữ nhận thức được cái ý nghĩa cao quí của buổi lễ hôm nay và trước khi
dứt lời, tôi cầu xin ÐỨC CHÍ-TÔN ban ơn cho toàn thể Chức sắc, đạo hữu và quí
quan khách.
Nay kính,
Ngày 20 tháng 10 Bính Ngọ (dl. 01-12-1966)
Cao Thượng Sanh
2 - Ngài Bảo Thế LÊ-THIỆN-PHƯỚC
đọc bài Diễn văn
Trong dịp trùng tu và làm
hàng rào bao quanh Báo Quốc-Từ, kế đến làm lễ Khánh-Thành ngày 20-10-Bính Ngọ
(dl 01-12-1966), Ngài Bảo Thế Lê-Thiện-Phước có đọc bài Diễn văn và thuật lại
như sau:
“Người Việt chúng ta từ
ngàn xưa đã sẵn chất chứa trong cõi lòng một nguồn tri ân nồng hậu đối với những
nhân vật nào, dầu xa dầu gần, bất luận người bổn xứ hay khách ngoại bang, đã
chơn thành hy sinh tấm thân trần cấu, giúp hộ cho quốc dân ta, tạo dựng một uy
lực hùng cường trong quốc nội hay lập nên một ngôi thứ gì trong vạn chủng. Tình
giao hảo giữa người thi ân và kẻ thọ ân bắt buộc như thế, cho nên, để lưu niệm
thành tích của nhiều Đấng Tiên Vương trong hiện kim thời đại, Ðức Hộ Pháp xây cất
ngôi Báo-Quốc-Từ nầy thành hột kim cương
chói rạng miền Nam Việt-Nam, lại đặt vị trí nơi trung tâm Châu Thành Thánh Ðịa,
thật là một may duyên hy hữu.
Thử lật trang thanh sử mà
xem đại lược, đọc giả sẽ thấy trước mắt một bức tranh cẩm tú từ dãy Hoành Sơn
xuống tới Cà-Mau pha màu buồn vui lẫn lộn, mà buồn nhiều vui ít, thành ra màu sậm.
Buồn vì từ đời Hồng Bàng dĩ chí Hậu Lê, dân Việt không ngớt làm thân nô lệ cho
Đường Trào. Còn vui tuy ít, mà có hơn không, để giảm bớt cơn sầu của dân ta
trong một thuở. Ấy là Việt Vương Câu Tiễn thắng mưu cao kế độc của Tàu, ngay
trong đất nước Tàu mới hết nạn triều cống. Nối theo có nhiều anh hùng
liệt nữ như Hưng Đạo
Vương, Nữ Trưng Vương…đuổi quân Minh ra khỏi biến thuỳ, tự ta lấy lại chủ quyền
lãnh thổ.
Nhưng vận mạng Việt Thường
còn truân chuyên thống khổ, nên sau khi vua Gia Long tức vị thì nước Việt Nam bị
Pháp tóm thâu làm thuộc địa. Một lần nữa, dòng châu kia chưa ráo, lệ thảm nọ lại
tuôn, quân khí ta lẫy lừng định kế chống ngoại xâm. Ngặt nỗi sức yếu cô đơn,
chư liệt Vương: Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, lần lượt bị biếm và đồ lưu hải
ngoại, rồi gởi xác nơi xứ lạ quê người. Ðức Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể cũng bôn ba
ra khỏi nước, rồi khuất bóng ngàn thu nơi đất khách, song nắm tro được đem về đất
nhà.
Chính Ðức Hộ Pháp buổi nọ
thân hành vượt đại hải trùng dương qua xứ Phù Tang, thỉnh tro về cho còn di
tích công thần nhà Nguyễn và nơi Chánh điện nầy là bài vị của Tứ vị Tiên Ðế đó.
Thương thay! Chí cả của
chư Tiền Vương tuy bị chôn lấp trong thất bại, nhưng hồn nước Việt-Nam nhờ chí
cao cả ấy mà tăng phần hiển hách, giữ mãi còn dân khí bất khuất trước sự bất
công và sức mạnh.
Ngộ nghĩnh một điều và
cũng là may mắn một dịp bất trùng lai là Tôi cùng ông bạn Thời Quân Tiếp Pháp,
trong thời kỳ học hỏi riêng với các Ðấng thiêng liêng hồi năm Ất Mùi (1955), Ðức
Cao Thượng Phẩm giáng cơ dạy chúng tôi thủ lễ, có ba vị Cựu Hoàng đến:
1* Ðầu tiên là:
Việt Nam Ðại Quốc HÀM NGHI:
“Cô nhân thiệt cảm đội ơn sâu của Ngự Mã Thiên
Quân, quí Thiên Sứ và Hội Thánh.
Nhân nhìn lại xã tắc mà đau lòng, tuy trước đã
chẳng nên trò, nay vẫn vậy. Thật là tang thương quá đỗi!
THI
Nhìn ra xe ngựa cõi phồn ba,
Gióng trống trời Nam hiệp nước nhà.
Ðem mối cựu thù tô xã tắc,
Ðịnh giềng tân thế cứu san hà.
Vì do quyền lợi nên đành vậy,
Ấy bởi hư danh mới thế à!
Cứu khổ từ đây nhờ Ðạo pháp,
An dân lập quốc tại Kỳ ba.
Cô nhân xin cảm ơn và xin được phép lui gót.”
* Kế tiếp là: THÀNH THÁI chi quân:
Xin chào chư Ðại Thiên
Phong và Tiểu Thiên mạng.
THI
Tách bước đồ lưu nhớ hận nhà,
Buồn cho thân thế đã về già.
Mong nhờ liệt sĩ toan trau sửa,
Ðắp
điếm non sông gấm vóc ta.
* Ðoạn tới: Vua DUY TÂN:
Tiểu vị kính chào quí Ðại Ðức, quí Thiên ân.
THI
Mở
lối nghĩa nhân quét hận thù,
Qua dòng tân khổ quốc gia thu.
Cái gia khô cổ, nay nhờ Ðạo,
Về cõi Hư linh cũng vận trù.
(Cái gia là con đa đa)
* Sau hết là: NGUYỄN CƯỜNG
ÐỂ:
Kính mừng chư Chơn Quân và Thiên phong. Cười. .
Xin để lời cám ơn và mừng
Bảo Thế Chơn Quân chi đức.
Vị quốc bôn ba ở nước ngoài,
Chí mong chưa đoạt đoạn trần ai.
Tủi mừng đâu biết giờ tiền định,
May đặng duyên xưa ngự quốc đài.
Xin được kiếu.
Chuyện đã trải qua hơn mười
một năm rồi, nay nhắc lại tưởng cũng là cơ hội cho chư anh linh trên đây tỏ bày
hy vọng đặt vào Đạo pháp của ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ và có thể nhờ đó chư vị sẽ ngậm cười nơi Huỳnh tuyền
Kính Hội-Thánh,
Kính Trung Tá Tình Trưởng,
Kính Chư Quí vị.
Để tô điểm cho BÁO-QUỐC-TỪ
được thêm vẻ tôn nghiêm, nhiều phần tử ưu tú trong vùng Long-Hoa đã hoan hỉ
chung lo xây dựng bức rào chung quanh ngôi thờ Tiền Nhân Vị quốc Vong Thân. Ấy
là một hành tàng đáng khen ngợi về phần vật chất và đáng chú ý về mặt tinh thần là ngộ khi quốc biến gia
vong, chẳng luận là người thuộc giới Đạo hay Đời, phải đồng tình làm tròn bổn
phận công dân đặng giải nguy cho dân tộc, cho thuỷ thổ. Chúng ta nên lưu ý rằng
không phương mầu nào hơn phương pháp áp dụng đạo đức NGHĨA NHÂN để thức tỉnh
thiên hạ qui về chánh pháp của THIÊN THƯỢNG thì dầu muốn dầu không khi “Thời
lai vận khứ”, thanh bình sẽ phục hưng tạo lại một đời mới với dân mới trong an
cư lạc nghiệp
Mong thay!
Nay kính
BẢO THẾ
LÊ THIỆN PHƯỚC
Thừa quyền Thượng Sanh
(Ký tên đóng dấu)
Bốn bài thi giáng cơ của 4
vị Tiên Vương nói trên được dùng làm 4 bài thài hiến lễ cho 4 vị khi cúng tế
nơi Báo Quốc-Từ Mỗi năm tại Báo Quốc Từ, Hội Thánh có thiết lễ cúng tế thường lệ
vào năm ngày, kể ra như sau:
- Ngày 16 tháng Giêng âl:
Thượng Nguơn.
- Ngày 10 tháng 3 âl: Giỗ
Tổ Hùng Vương.
- Ngày 16 tháng 7 âl: Trung
Nguơn.
- Ngày 16 tháng 8 âl:
Trung Thu.
- Ngày 16 tháng 10 âl: Hạ
Nguơn.
*Bài tế Quốc sĩ Trình Minh
Thế:
Lỡ bước qua sông chẳng kịp đò,
Chí cao khéo định khỏi phiền lo
Anh hùng định thế chưa an thế,
Chỉ
biết mai sau chẳng vẹn trò
BÀI
KINH CÚNG NƠI BÁO QUỐC TỪ
Năm Giáp Thìn 1964
Hương đăng hoa quả kính dâng,
Tửu trà cung hiến Linh Thần chứng minh
Giúp cho thiên hạ thái bình,
An cư lạc nghiệp Giáp Thìn đương niên.
Cầu xin các Ðấng Thánh Hiền,
Hộ trì Ðại Ðạo đủ quyền chuyển xây.
Bắc Nam hòa hiệp Ðông Tây,
Bốn biển huynh đệ sum vầy một nơi.
Nhứt tâm tín ngưỡng Ðạo Trời,
Thực hành Nhơn Nghĩa, lập đời Thượng ngươn.
3 - BÀI TẾ CHIẾN SĨ TRẬN VONG
Nợ cung kiếm chiến chinh là nghiệp,
Giúp quốc dân sánh kịp tha bang,
Xông pha ra chốn chiến tràng,
Đắng cay cam chịu gian nan không sờn.
Nguyện lấy sức đền ơn cương thổ,
Dốc lòng lo báo bổ ơn nhà,
Trần hoàn gió bụi xông pha,
Dựng nên Tổ quốc một Toà thiên nhiên.
Gầy đại nghiệp truân chuyên lắm nỗi,
Lướt trận tiền mở lối chông gai,
Ngăn quân là bậc thiên tài,
Đỡ nâng quốc thể đến ngày hiển vinh.
Đạp gió tuyết phận mình cam chịu,
Trọn kiếp sanh bận bịu giang sơn,
Nhân dân thất quốc căm hờn,
Định an nước cũ chi sờn lòng trai.
Ách nô lệ ngày nay đã dứt,
Nước quật cường nhờ sức toàn dân,
Hồn thiêng nay đã tỉnh lần,
Muôn dân chung hưởng hồng ân của Trời.
Cơ tiến hoá đời đời chói rạng,
Giữ Nghĩa Nhân soi sáng đạo mầu,
Đức ân bũa khắp Năm Châu,
Toàn cầu chung hưởng phép mầu Chí linh.
Mưu định quốc anh linh trị nước,
Giúp giống nòi giữ được Tự do,
Tâm
linh là phước Trời cho,
Đỡ nâng vận nước chung lo mối giềng.
Nay nhơn quả tiền khiên vừa mãn,
Cõi Hư linh cách dáng trần ai,
Trụ tâm nương bóng Cao-Đài,
Theo vầng Nhựt Nguyệt ra ngoài Càn khôn.
Trọng nghĩa Bạn linh hồn xin nhớ,
Trợ cho nhau nâng đỡ Đạo nhà,
Rượu nồng đôi chén thiết tha,
Tình thâm hưởng cạn đó là tri âm.
Danh Đại-Đạo vang lừng tỏ rạng,
Đuốc Từ bi soi sáng tâm hồn,
Lọc lừa khắp cả Càn Khôn,
Lần theo nguồn Thánh bảo tồn chúng sanh.
Công viên mãn đường lành nhẹ tách,
Lánh bến mê phủi sạch nợ trần,
Sống làm TƯỚNG thác làm THẦN,
Hiển linh xin chứng tấm lòng tiết trung!
Giỗ Tổ Hùng Vương
Cây có cội, nước có nguồn,
Mồng mười giỗ Tổ Đức Hùng Vương.
Hoan nghinh đại nghiệp ơn khai sáng,
Tưởng niệm công trình lập kỷ cương.
Đất Việt địa linh sanh tuấn kiệt,
Trời Nam quốc vận mạnh phi thường.
Giang san gấm vóc bền chân vạc,
Đảnh tộ Việt-Thường vững bốn phương
Thân Dân
Huệ Giác hoạ:
Việt chủng vì chưng rõ gốc nguồn,
Đua nhau giỗ Tổ Đức Hùng Vương.
Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương
Văn hiến tạo nên còn chói rạng
Lạc Hồng roi giống há khinh thường?
Hiềm đang tranh chấp chia bờ cõi,
Cầu nguyện Bắc Nam hiệp nhứt phương
Đức Thượng-Sanh (Huệ Giác)
B - Đức Hộ-Pháp đã đề xướng
lập
BÁO
QUỐC TỪ
Đức Hộ-Pháp Giáo
Chủ Đạo Cao-Đài
Đức Hộ-Pháp đã đề xướng lập BÁO QUỐC TỪ với nhiều
nguyên do:
Bởi:“Hoàn cảnh đất nước Việt Nam lúc bấy giờ hết
sức sôi động. Nơi Triều đình Huế:
- Vua Thành Thái (1889-1907) bị phế (3-9-1907).
- Vua Duy Tân (1907-1916) lên kế vị (8-9-1907)
nhưng từ bỏ ngôi, hợp với Trần Cao Vân chống Pháp và
bị bắt (6-5-1916).
Ngài giữ thái độ oai nghi
lãnh đạm, cho đến khi bị đàyqua đảo Réunion cùng với vua Thành Thái(13-5-1916).
Cái chí khí kiêu hùng và bất khuất của
vị vua 17 tuổi, nung thêm chí căm hờn ngoại chủng của Đức Giáo Chủ Phạm Công Tắc
lúc bấy giờ. Với khí thế tuổi trẻ, Ngài muốn vươn lên phá tan xiềng xích nô lệ,
để đòi lấy quyền sống và giải thoát gông cùm ngự trị trên giống nòi. Nhưng tuổi
nhỏ, Ngài đành chấp nhận hoàn cảnh, gia nhập phong trào Đông Du năm 1907, khi
vua Duy Tân nối ngôi, để mong học hỏi thêm kinh nghiệm tranh đấu, tinh thần
Cách mạng giữ nước của Người.
Phong trào Đông Du
(1904-1907) do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm Minh chủ và hai nhà Cách mạng Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng để nâng cao dân trí, bằng cách gởi các thanh
niên du học ngoại quốc nhất là Nhật Bản.
Tại Sài Gòn phong trào
Đông Du do hai ông Gilbert Chiếu (tức Trần Chánh Chiếu) và Dương Khắc Ninh lãnh
đạo. Các ông thành lập các kinh thương hội như “Minh Tân công nghệ” và khách sạn
“Nam Trung” làm nơi lưu trú hội họp cho đảng viên. Ngài Phạm Công Tắc dù đang
theo học năm thứ hai trường Chasseloup-Laubat cũng lén bỏ học đến họp với anh
em.
Hai ông Gilbert Chiếu và
Dương Khắc Ninh tập hợp các đảng viên
chia nhiều nhóm được ghi tên vào nhóm thứ tư. Lòng Ngài như mở hội nhưng phong
trào bị khám phá. Mật thám đến tra xét cơ sở Minh Tân công nghệ. Ông Dương Khắc
Ninh đã lẹ tay hành động, tiêu hủy tất cả hồ sơ và tài liệu nên không ai bị lôi
thôi gì cả.
Khi ông Chiếu bị bắt, Ngài
lại về quê.”
Vì ảnh hưởng cách mạng và
các Tiên Vương, về sau, Ngài lập Báo Quốc Từ, bôn ba sang Nhật rước tro Cường Để,
về Sài Gòn rước linh vị Thành Thái và Duy Tân đem thờ nơi Báo Quốc Từ (gần chợ
Long Hoa). Ngoài ra cơ quan thông tin Cao Đài sưu tầm và phổ biến các hình ảnh
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học… Tất cả sự việc đó để nuôi dưỡng
ý chí các liệt sĩ bất khuất và di dưỡng vang bóng một thời của tuổi trẻ hào
hùng… để xuất dương. Ba nhóm đã sang tới Nhật.
Báo Quốc Từ cất theo hình
lục giác đều, hai mặt trước và sau có đắp đôi liễn nơi cổng chánh nói lên sự
tôn kính đối với các bực anh hùng chí sĩ xả thân bảo vệ tổ quốc, xây dựng giang
sơn. Sau đây là lời Phủ dụ của ĐỨC HỘ-PHÁP trong ngày lễ Khánh Thành Đền Báo Quốc
Từ:
Đức Hộ-Pháp để lời Phủ dụ
Ngày 16 tháng 8 Ất Mùi (Dl 01-10-1955)
“Bần-Đạo xin trân trọng để
lời cám ơn Quan Khách quyền Đời và Chức Sắc Thiên Phong của Hội Thánh Cao Đài
cùng Quân-Đội Quốc-Gia đã có hiện diện nơi đây, đặng giúp cho Lễ Khánh Thành Đền
Báo Quốc Từ thêm phần long trọng.
Các Ngài cũng như Bần-Đạo
đã chung chịu một tình trạng đau thảm, sau 80 năm nước nhà bị lệ thuộc, 80 năm
dài đăng-đẳng, nỗi thương đau khổ của toàn quốc, mong mỏi đặng ngày quật cường
cứu quốc, thì công cuộc tranh đấu thời gian dài đăng-đẳng ấy biết bao nhiêu bực
tiền bối ái quốc chơn thành, đã chịu lắm nỗi hy-sinh cho vận mạng Tổ quốc giống
nòi.
Tiếp tục công trình vì dân
vì nước ấy, chủng tộc đồng bào ta cùng con đường đấu tranh chánh nghĩa duy có một,
nhưng phương pháp tranh đấu bất đồng mới khiến gây nạn nồi da xáo thịt.
Những danh nhân chí sĩ, vị
quốc vong thân ta chỉ được quí danh quí tánh thờ phụng tôn sùng đã đành, còn những
vị anh hùng vô danh vị quốc, có lẽ ta phải mang một tội tình cùng họ vì ta
không nghĩ đến việc hy sinh công danh và xương máu cao cả của họ. Còn những chiến
sĩ đương xông pha nơi chiến địa buổi hôm nay cũng thế, ta chỉ biết danh tánh của
họ một phần ít còn quên lại là phần nhiều, bởi cớ họ phải bị thân danh mai một.
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tức
là Đạo Cao Đài chỉ cho phép những Tín-đồ của mình phụng sự quốc gia và chủng tộc
Việt-Nam, chớ không phân biệt màu sắc Đảng Phái.
Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài
đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, xin các Ngài đừng
lầm tưởng rằng: Đạo đã xu hướng theo thuyết “Bảo Hoàng” mà kỳ thật các Đấng ấy
chỉ liệt vào hàng trung quân ái quốc của xã hội Việt-Nam mà thôi.
Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải
ách lệ thuộc cũng đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy.
Tưởng niệm tới Lễ ấy, nên
Hội-Thánh mới quyết định lập Báo Quốc Từ thờ trọn cả các Vong Linh của các Anh
Hùng Chiến Sĩ, Cứu Quốc Công Thần cùng là Trận Vong Chiến Sĩ.
Tưởng khi các Ngài cũng đã
rõ cả hành tàng của Đạo. Từ ngày xuất hiện Đạo nhà của ta trước đã rồi sau mới
biến thành nên nền Tôn Giáo quốc tế, vì tư tưởng Đạo giáo khoan hồng của Tổ Phụ
chúng ta, mới đem phương pháp tín ngưỡng duy nhứt mối Đạo thờ Trời và thờ Người
của Tổ Phụ ta noi truyền từ trước. Ấy vậy đã nói rành Đạo nhà ta trước đã thì
ta cũng phải vì nhà của ta là Tổ quốc và nòi giống Việt-Nam đặng phụng sự trước,
hầu định tỉnh quốc hồn, thống nhứt tinh thần và năng lực trong cuộc Đại Đoàn Kết
của khối Quốc Gia mới đủ phương cứu nguy cho Tổ Quốc.
Biết đâu gương mẫu ấy, nếu
ta thực hiện ra được, nó sẽ không thành một phương pháp duy nhất cho các Quốc
gia nhược tiểu một phương châm duy nhứt đặng tranh thủ tự do độc lập cho họ,
quan niệm tưởng đến công trình tranh đấu của đàn anh may ra nó sẽ an ủi và giúp
tâm cho các Bạn, đồng thời phục vụ cho Quốc gia xã hội.
Trái lại, nếu ta vô tình
lãnh đạm để cho họ phải chịu mai một thân thể lẫn tâm hồn, thì cái tội của ta
vong ân bội nghĩa không cải chối. Hôm nay các anh linh chư vị anh hùng tiền bối
và hậu bối đang ngự trị trong khối Quốc hồn của ta và đang vơ-vẩn bên ta.
Giờ phút Thiêng Liêng nầy.
Bần-Đạo xin cả các Ngài hiệp tâm làm một cùng Bần-Đạo thành một khối tưởng niệm
duy nhứt đặng cầu xin các Đấng ấy giúp cho nòi giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt
nhục tương tàn đặng đem hạnh phúc Hòa bình lại cho nước nhà và cho toàn thiên hạ”.
2 - Lễ Hưng Quốc Khánh Niệm.
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo tại
Tổng Hành Dinh ngày 2-5 Quí Tỵ (1953) Lễ Hưng Quốc Khánh
“Hôm nay ngày Lễ Quốc Khánh, tức nhiên ngày Lễ
Trùng Hưng của nước Việt Nam thống nhứt Hoàng Triều của Đức Cao Hoàng Gia Long.
Theo lịch sử, thời kỳ Lễ
Trùng Hưng từ 1502 tới 1789 đã biến sanh ra nạn nước: Nam, Bắc phân tranh,
Hoàng Đồ chia rẽ Đế vị nhà Vua Lê cầm vận mạng nước nhà, còn Hoàng Đồ chia phân
ra từ Miền Trung, tức nhiên Miền Nam nầy
từ Núi Hoành Sơn đổ vô thuộc Chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đổ ra thuộc về Chúa Trịnh.
Nước đã ly loạn, trong Nam có đảng tranh vì Chúa Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ
đã dấy loạn, theo lịch sử thì cả toàn quốc không có một người nào là không hiểu,
Bần Đạo chẳng cần nhắc lại đây mà làm gì.
Đến năm 1778, Nguyễn Nhạc
đã xưng Vương tức vị và định chiếm đoạt luôn Bắc Việt, tức nhiên tạo loạn cả
toàn quốc. Trong thời kỳ ấy đất Tây Sơn có người đã làm cho nước nhà nổi danh đối
với Trung Hoa, tức nhiên đối với nước Tàu, là Nguyễn Huệ, khi đặng lịnh của
Nguyễn Nhạc ra trận, Ngài phân binh đuổi quân Tàu ra khỏi Bắc tức nhiên ra khỏi
Thăng Long Thành của mình, Nguyễn Nhạc tạm phong cho Nguyễn Huệ Bắc Bình Vương.
Tuy vậy Tây Sơn lấy thuyết hồi Lê diệt Trịnh, gọi là phò Lê diệt Trịnh, song kỳ
trung, Tây Sơn đã mong chiếm đoạt Hoàng Đồ, thì trong khi ấy từ Nam chí Bắc đều
thuộc về Tây Sơn.
Vận nhà Nguyễn đã đến, nên
sản xuất ra một vị anh hùng là Nguyễn Ánh, đã phiêu lưu vô ngằn, khi ở Nam, khi
ở Xiêm, khi về nước, Ngài không biết bao gian khổ, may thay, cái nạn Đế Vương
hay là cái nạn nước, nó đã qua, thành thử Ngài xuất hiện nơi Nam Kỳ, tức nhiên
trong Nam chúng ta đây, nhờ vị anh hùng cứu quốc, trải biết bao nhiêu đau khổ,
đã đem lại một giai đoạn lịch sử vinh diệu, không biết sao mà nói đặng, không
thể tỏa. Ngài đã làm cho nước Việt Nam thống nhứt từ Nam chí Bắc.
Còn trong công cuộc định
quốc, Bần Đạo nói có hai vị trung thần mà Hoàng Triều đã đặt họ là “Trung quân”
tức là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu. Tây Sơn đem cả lực lượng mình đặng lấy thành
Bình Định, Võ Tánh với Cao Hoàng Gia Long chẳng cần gì phải giải vây cho thành
Bình Định tức nhiên là Qui Nhơn, nên thừa cơ hội binh lực của Tây Sơn không có
đề phòng mà đánh lấy luôn thành Phú Xuân, nhờ thế Gia Long tức nhiên Đức Cao
Hoàng đã lấy Phú Xuân đặng, hai người Ngô Tùng Châu và Võ Tánh tử tiết, thật sự
ra Hoàng Đồ nước Việt Nam ta đặng thống nhứt từ Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan ngày
nay là nhờ lực lượng Cao Hoàng đã cầm vận mạng và nhờ hai vị “Tinh trung” Ngô
Tùng Châu và Võ Tánh mà ta có thể hãnh diện nói rằng: Hai người ấy là người đồng
bào trong Nam ta đó vậy.
Ngoài ra cái công nghiệp,
Ngài chẳng phải khôi phục Hoàng Đồ mà thôi, Đức Cao Hoàng Gia Long tức nhiên là
Nguyễn Ánh, đã đem lại hai Tỉnh của Lào thêm vào bản đồ Việt Nam, một là Sơn La
hai là Lai Châu, nếu chúng ta coi lịch sử thì người trước nhứt nước Pháp đã
nói: Le Grand Législateur du Việt Nam, tặng một người đã cầm vận mạng nước Việt
Nam về luật vĩ đại hơn hết. Cao trọng hơn hết là ngày (1802) Ngài đã chỉnh đốn
từ nội bộ tới ngoại thuộc, Ngài lấy cả các Cựu Luật của Ngài, số của Ngài vĩ đại
không thể tả đặng, chỉnh đốn duy tân, Ngài đã đem lại cho chúng ta một địa dư mới,
Quan chức mới, Luật binh mới, Quân dụng mới, hình thức Chính trị mới, Bình dân
mới, cả thảy đều được Ngài chỉnh đốn, nếu chúng ta không có bị bảo hộ từ thử
thì Bần Đạo dám chắc rằng: Cái công nghiệp vĩ đại của Đức Gia Long Cao Hoàng đã
trở thành đại công cùng Tổ Quốc, chúng ta hôm nay đến đây là cốt yếu để cả tâm
đức của mình, trong tinh thần của Ngài.
Bần Đạo mong ước con cái của
Đức Chí Tôn cả thảy quân sĩ anh dũng Cao Đài, ngó cái chí hùng của Ngài làm mục
đích đặng thi thố thực hiện, cho nước Việt Nam được độc lập”.
Kính cùng chư đọc giả (Lời Soạn giả)
Sau khi quyển “BÁO QUỐC TỪ”
được in ra gởi tặng một số độc giả thì tôi được tập “Báo Quốc Từ” của Ngài Trần
Quang Vinh viết năm 1966. Thấy có nhiều tài liệu hay hay mà chính nơi đây cần
được bổ túc. Vì thế tôi xin ghi thêm vào tài liệu này cho được dồi dào hơn. Bởi
có bài tường thuật của Hoàng-Thân ƯngAn
mà Ngài Trần ghi
“Nhơn dịp Hoàng Thân Ưng
An (Chánh hiệu là Tuy Lý VươngTôn Ưng An, Thúc Dật Thị) đến viếng Toà Thánh Tây
Ninh ngày 16-8-Bính Ngọ (dl 30-9-1966)
và có sự hiện diện nhiều thân tộc trong Hoàng gia tại buổi Lễ trùng tu Báo Quốc
Từ ngày 20-10-Bính Ngọ (dl 01-12-1966) tác giả (Trần Quang Vinh) có thương lượng
với Hoàng Thân Ưng An viết cho một bài Cảm tưởng tường thuật cuộc viếng thăm Đền
Báo Quốc Từ và gom góp những tài liệu thuộc về bốn vị Vương kể trên….”
Soạn giả xin được trích ra
để bổ túc cho được dồi dào hầu cống hiến Bạn đọc cùng tài liệu trong Sử ký của
Phạm văn Sơn và nhiều bài thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp.
C - CẢM TƯỞNG VỀ BÁO QUỐC TỪ
(Bài của Tuy Lý Vương Tôn
Ưng An, Thúc Dật Thị)
Du khách từ Sài gòn lên, do con đường
mới vào Toà Thánh Tây ninh, sẽ đi qua Chợ Long Hoa, một khu phố xá rộng, nằm
trong phạm vi Thánh Địa; rồi từ chợ Long Hoa sẽ trông thấy xa xa một ngôi Đền
xuyên qua lộ Bát Quái, đến gần thấy biển đề “BÁO QUỐC TỪ”.
Trong hai cột trụ cửa có hai câu đối:
- Bảo thủ cơ đồ anh hùng dương khí phách
- Hộ trì quốc vận chí sĩ hiển uy linh.
Cất trên khoảnh đất lớn,
có hàng rào sắt chung quanh và mới được trùng tu. Ngôi Đền xem lộng lẫy, trang
nghiêm, với những màu sắc tươi thắm, hoà với những công trình chạm trổ Long-
Lân- Qui -Phụng. Hai vị tu sĩ lão thành đạo mạo thấy khách thập phương dừng
chân viếng kỉnh, hớn hở đón chào.
Bước chân vào Đền thấy
chính giữa một bàn thờ sơn son thếp vàng cao lớn, những đồ Từ khí bày biện ở
trên đều bằng đồng cũng cao lớn cân xứng, hai bên có lộng vàng tàng đỏ, lỗ bộ,
kim cang. Giữa bức tường ngay sau bàn thờ có đề 8 chữ Hán: CỨU QUỐC CÔNG THẦN
CHIẾN SĨ TRẬN VONG.
Ở trên bàn thờ, dưới tám
chữ ấy có bốn Bài vị sơn son thếp vàng và một tấm chơn dung lộng kiếng. Nhìn hình
và đọc chữ trên bốn Bài vị, người viết bài này vô cùng cảm động thấy rằng bốn vị
được tôn sùng trong BÁO QUỐC TỪ của ĐẠI ĐẠO CAO ĐÀI đều một giòng họ với mình,
đều vào hàng Anh và hàng Cháu.
Hai Linh vị chính giữa:
HÀM NGHI: Vị quốc đồ lưu
nơi Hải ngoại
THÀNH THÁI: Vị quốc đồ lưu
nơi Hải ngoại
Hai Linh vị hai bên:
DUY TÂN : Vị quốc đồ lưu nơi Hải ngoại
CƯỜNG ĐỂ: Vị quốc đồ lưu Cách mạng. Đó là bức
chân dung CƯỜNG ĐỂ ĐIỆN HẠ.
Trong bốn ngày tôi ở tại
Thánh Địa Tây Ninh, trọ tại biệt thự của một ông bạn: Cụ Trần Quang Vinh. Thiên
ân Phối-sư Thượng Vinh Thanh. Cảnh tượng trong nhà người tới kẻ lui, mỗi lúc mỗi
tưng bừng rộn rịp. Cả ngày khách đến đông đảo, tôi đinh ninh rằng họ đến thăm hỏi
vị Phối Sư từ Sài gòn mới trở về, nhưng Ông bạn lại nói với tôi: Họ đến để chào
mừng tôi. Vì họ nghe nói Tôi là bà con của bốn vị Vua, Chúa triều Nguyễn mà họ
phụng thờ.
Tuy thăm viếng xã giao,
nhưng câu chuyện từ sáng đến khuya lại đượm một tình cảm nồng nàn, niềm hoài vọng
của Đạo hữu Cao Đài. Họ nhớ ơn đức tiền
nhân, dày công khai sáng, điền địa phì nhiêu: Đồng Nai, Rạch giá. Họ mong cương
thường chấn chỉnh, nước trị dân yên. Hoàng đồ toàn bảo: Núi Ngự, sông Hương. Thỉnh
thoảng khi có Chơn linh ứng vào thể xác họ. Câu chuyện lại ẩn ước những Bí
pháp, Thiên cơ, những tiên tri, sấm ngữ.
Họ nhắc lại những chuyện
quá khứ đã ứng nghiệm:
THI
Thượng, hạ nhị thiên xử địa hoàn
Việt-Nam nhứt quốc nhứt giang san
Hoàng-đồ toàn bảo Thiên-thơ định
Đảnh-tộ trường-lưu tổ-nghiệp tồn
QUỐC-ĐẠO kim triêu thành ĐẠI-ĐẠO
NAM-PHONG thử nhựt biến NHƠN-PHONG
An dân liệt Thánh tùng Nghiêu Thuấn
Văn-hóa tương-lai lập Đại-Đồng.
Đó là bài thi của Đức
Chí-Tôn giáng Cơ đêm 21-12- Đinh Hợi (1948) dạy đem qua Hồng Kông giao cho công
dân Vĩnh Thuỵ, trước khi Ngài hồi loan chấp chánh. Nói đến vị lai họ bày giải đến
những câu Sấm của cụ Trạng Trình, những:
“Mã đề Dương cước…” “Thân Dậu niên lai”…theo tinh thần đạo pháp và tin tưởng của
họ, có thể tóm tắt bằng những câu thi này:
TAM KỲ vận chuyển bồi Tôn
Miếu,
ĐẠI ĐẠO qui nguyên pháp điểm
tô.
Tôi cũng nghe qua một Sấm
ngữ trước giờ chưa từng nghe:
TÂY khởi phục hồi dương
chánh lực,
CAO đề hoàn trách dũ
nguyên ly.
Hỏi hai câu này ý nghĩa
như thế nào? Xuất xứ từ đâu? Bao giờ? Thì họ cười mà chỉ khuyên lấy hai chữ đầu
của hai vế: chữ TÂY và chữ CAO mà suy nghiệm thì có thể hiểu.
Lại có một bài thi Tứ tuyệt
chữ Hán, do một Đạo hữu phái Nữ ngâm:
Bửu Ngọc Viên Minh Thiên Việt Nguyễn
Sơn Trung Sứ Mạng Địa Nam Tiền
Kỳ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc
Hương.Xuất Trình Sanh Tạo Nghiệp .Yên (1)
Rồi đến lượt những lời thơ
Bí truyền, từ năm Mão vừa qua (1963) dưới đây là một:
Bính-Ngọ này
mã phi nghiệp chướng
Anh-hùng hào kiệt tiến biên cương
Bão-bùng dậy
bủa vây tứ hướng
Long hoàng nhả
Ngọc thống Quốc Vương.
Họ thấy tôi ngẩn ngơ nghĩ
suy, họ nói đó là Bí truyền, một ngày gần đây sẽ được chứng nghiệm.
Bốn nữ Giáo Hữu liên ngâm
với một giọng thanh tao, bổng trầm rất đúng điệu những bài tiên tri, văn chương
hùng hồn mà ý nghĩa không bí ẩn. Hai bài sao lục
dưới đây là của Cụ Phan
Thanh Giản giáng Cơ đề Bút hôm 01- 8 vừa qua (dl 15-9-1966):
Thanh bình Nam Bắc mỏi lòng đau,
Ngoại cảnh chia phân ruột nát xào.
Chỉ tại nhơn sanh chưa ý thức,
Chung tâm nào ngại việc binh đao,
Con đường Cứu quốc lo NHÂN NGHĨA
Chí cả trượng phu giúp ĐẠO CAO,
Phù thế Lam Sơn chưa trổ mặt,
Chỉnh tu thân phận nắm phong trào.
………………..
Biết Cơ độc lập toàn Nam Bắc,
Xây dựng nền Nhân tránh lẽ Tà.
Gắng chí Thư Hùng lo Xã tắc,
Chỉ cho đôi chút việc gần xa.
Sáu, bảy người khác cũng
thuộc phái Nữ luân phiên hát những bài Dân ca trường hận, lời văn nhẹ nhàng
nghĩa lý sâu sắc, khuyên lành răn dữ, hài những tội ác bất hiếu, bất trung,
tham lam, tàn bạo; kể những thiện căn trung trinh, hiếu đạo, tín nghĩa, nhân từ.
Giọng hát khi thì não nuột
bi ai, thương cho kiếp phù sinh tội lỗi, khi thì vui tươi thanh thoát, mừng cho
Đạo pháp lưu hành.
…Các vị Chức sắc trịnh trọng
nói cho tôi biết ý tứ của Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng Liêng, nhứt là Đức Chưởng
Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, khi các vị giáng Cơ chỉ giáo cho Đức Phạm Hộ-Pháp lập
ngôi BÁO QUỐC TỪ cách đây 15 năm, để phụng thờ các vị TINH TRUNG BÁO QUỐC, lịch
sử giống nòi và vì sao các vị trong số đó: Ba vị Hoàng Đế và một vị Hoàng Thân
triều NGUYỄN được sùng bái hơn hết.
Các bậc danh nhân, liệt nữ
như: Hai bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Vương Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Bình Định Vương, Bắc Bình Vương…đều là những vĩ nhân siêu đẳng của dân tộc,
công nghiệp lớn lao, danh tiếng lưu muôn thuở đều được toàn dân ghi ơn, tưởng
niệm đời đời. Nhưng xét về tâm lý, nói đến tình đời, các bậc ấy đều đã tráng niên
anh tuấn, dõng lược hơn người, khi dấy binh, lúc lâm trận đều đã có đầy đủ lý
trí để tự mình hoạch định cơ mưu. Công hãm tự mình lựa chọn địa điểm, tiến
thoái tự mình xem xét thời cơ. Chí như Vua Hàm Nghi, Vua Thành Thái, Vua Duy
Tân và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đều đương tuổi ấu thơ, sống trong nhung lụa, nhứt
hô bá ứng, sung sướng vô song. Thế mà hồi 13, 14 tuổi đã có khí phách anh hùng,
đã có tinh thần hy sinh, đã nghe theo tiếng gọi Thiêng liêng của đất nước, từ bỏ
ngôi báu mà đặt tấm thân non nớt vào con đường gian lao nguy hiểm để mưu đồ
khôi phục cứu nước, cứu nòi. Rồi sau khi thất bại cam chịu gian truân suốt đời,
không mảy may thay đổi chí khí, thì thật là vô cùng hy hữu. Lịch sử Đông Tây
chưa chắc có một nhân vật phi thường nào khác. Vì vậy, tuy sự nghiệp không
thành, mà bốn vị Vua Chúa ấy được thần dân vô cùng thán phục, luôn luôn tưởng
nhớ. Nên chi Đức Chí-Tôn giáng Cơ dạy bảo tôn thờ các Ngài để tiêu biểu cho khí
phách anh hùng, tinh thần bất khuất của dân tộc.
Nơi BÁO QUỐC TỪ mỗi năm có
năm ngày Cúng thường lệ:
- Ngày 16 tháng Giêng âl:
Thượng Nguơn.
- Ngày 10 tháng 3 âl: Giỗ
Tổ Hùng Vương.
- Ngày 16 tháng 7 âl:
Trung Nguơn.
- Ngày 16 tháng 8 âl:
Trung Thu.
- Ngày 16 tháng 10 âl: Hạ
Nguơn.
Tôi được cái may dự Lễ
cúng ngày 16 tháng này, thấy Tín đồ Cao Đài Nam Nữ lũ lượt kéo đến Đền niệm
hương lễ bái, thành cẩn tôn sùng anh linh của các bậc tiền nhân, thật không tả
xiết nỗi cảm kích tri ân, nó xúc động cả tâm khảm của kẻ thân tộc này.
Sau bốn ngày đắm chìm
trong bầu không khí mát mẻ của sự giao hảo. Trong đó, Đạo Đời xen lẫn, khi thì
vui cười kể chuyện xưa nay, lúc lại nghiêm trang nghe câu thi, sấm, ý nghĩa
phân minh, khuyên lơn tu tỉnh: nửa từ chương ẩn ước ám chỉ tương lai. Trong đó
những sự tai nghe, mắt thấy đã đem tôi từ cái mới lạ này qua cái mới lạ khác,
mà trong thế hệ lo âu, nghi hoặc này của
dân tộc.
Tôi trở về Sai gòn:
THI
Muôn vàn cảm tạ các Chơn linh,
Ẩn ước Thiên cơ chỉ giáo mình.
Ðôi ngã Âm Dương tuy cách biệt,
Một niềm thành kính thấu U Minh.
U Minh hiển hiện giữa quang minh,
Quá khứ tương lai kể sự tình.
Báo quốc tinh trung gương vạn cổ,
Ân cần khuyên nhủ khách tài danh.
Sai gòn, 18 tháng 8 năm Bính Ngọ (dl 2-10-1966)
Tuy Lý Vương Tôn Ưng An, Thúc Dật Thị
(đoạn cuối này là phần trích ra nơi trang 6)
Ghi chú:
(1) Bài thơ này đọc theo
chiều dọc sẽ có như sau:
Bửu Sơn Kỳ Hương. Ngọc Trung
Niên Xuất
Viên Sứ Trạng Trình Minh Mạng
Tái Sanh
Thiên Địa Tân Tạo Việt
Nam Phục Nghiệp.
Nguyễn Tiền Quốc Yên
Bài thơ này trước đây tôi được biết là:
Bửu Ngọc Quân
Minh Đại Việt
Nguyễn
Sơn Trung Sư
Mạng Đạo Nam
Tiền
Kỳ Niên Trạng Tái Tân
Phục Quốc
Hương Xuất Trình Sanh
Tạo Nghiệp Yên
Nếu đọc theo chiều xuống
thì sẽ là:
Bửu Sơn Kỳ Hương.
Ngọc Trung Niên Xuất.
Quân Sư Trạng Trình.
Minh Mạng Tái Sinh.
Đại Đạo Tân Tạo.
Việt Nam Phục Nghiệp.
Nguyễn Tiền Quốc Yên
Đám cưới Vua Hàm Nghi.
CHƯƠNG II
1 - VUA HÀM NGHI
Tiểu sử Vua Hàm Nghi:
Vua Hàm Nghi tức là Chánh
Mông, em Vua Kiến Phúc đã mất, ông lên thay, huý là Ưng Lịch, con thứ của Kiến
Thái Vương, cháu năm đời của Vua Gia Long, lên ngôi Hoàng Đế, kế vị cho Vua Kiến
Phúc ngày 27-6 năm Giáp Thân (1884) đặt niên hiệu là HÀM NGHI, lúc ấy Ngài mới
lên 12 tuổi. Trong triều đình thì bọn gian thần chuyên quyền, loạn chánh. Ngoài
biên cương quân Pháp đã chiếm cứ khắp nơi từ Nam chí Bắc. Triều cương nghiêng
ngửa, xã tắc nguy vong.
Bấy giờ Khâm sứ Pháp là
Rheinart trách cứ rằng việc đặt Vua Hàm
Nghi lên ngôi không có xin phép nước Pháp và Đại tá Guerrier đem 600 quân cùng
một đội pháo binh từ Bắc vào Huế để thị uy. Sau đó Rheinart và Guerrier sang
làm Lễ phong Vương cho Vua Hàm Nghi rồi mới rút binh sĩ trở về Hà nội.
Pháp liền dốc toàn lực để
tiêu diệt quân kháng chiến của CẦN VƯƠNG mà thái độ giờ phút đó rất khả nghi và
quan ngại. Thống Tướng Pháp là De Courcy vừa sang tới Bắc kỳ liền đem 1.000
quân vào Huế bàn việc giao thiệp giữa Ông và Nam triều, đòi các quan phụ chính
Đại thần phải sang tận Sứ quán Pháp để Hội thương. Viên Tướng Pháp còn bắt Nam
triều ra lịnh cho sĩ phu và dân chúng tùng phục hoàn toàn Chính thể Bảo hộ của
Pháp. Y lại có ý nhân dịp này bắt ông Tôn Thất Thuyết ngay giữa cuộc đàm phán
vì ông này là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Pháp. THUYẾT biết mưu này liền
cáo bịnh không sang chỉ để cho Nguyễn văn Tường và các vị quan khác đến dự, còn
Ông thì đi kiểm soát các đồn trại và kho
thuốc súng. Pháp khao thưởng quân đội và định sáng hôm sau vây bộ binh bắt Thuyết,
thì vào giờ đêm Thuyết cho bắn một phát đại bác làm hiệu lệnh để tấn công vào Đồn
Mang Cá và Sứ quán Pháp. Cuộc náo loạn vô cùng, ông Nguyễn văn Tường thấy thế
nguy liền vào triều nội yêu cầu Vua Hàm Nghi xuất Cung. Dù thế trận phía ta bị
thiệt hại nặng về mọi mặt nhưng một Tướng Pháp tham gia trận đánh này vẫn khen
quân ta thiện nghệ phòng thủ vì các đường giao thông có đào hầm hố hoặc chẹn bằng
các chướng ngại vật.
“Đêm 22-5-Ất Dậu (1885)
quan quân đánh nhau với quân Pháp lần cuối cùng tại Thuận Hoá.
Kinh thành thất thủ, Vua
lìa cung Cấm, thoát tay quân thù. Những triều thần trung nghĩa phò xa giá chạy
ra Quảng Trị lên Tân Sở sơn phòng rồi lần ra Quảng Bình, lên xứ Mọi.
Hịch Cần Vương ban khắp
các Tỉnh. Sĩ dân toàn quốc khởi nghĩa Cần Vương, kháng cự ngoại xâm từ năm Ất Dậu,
thề nguyền sống chết thâu hồi lãnh thổ, khôi phục hoàng đồ.
Than ôi! Vận nước suy vi,
anh hùng thất thủ.!
Tình đời đen bạc, đã có những
bậc trung thần liệt sĩ cứu nước phò Vua, ắt cũng có những phường gian manh phản
nghịch, hại Vua bán nước.
Khi Vua Hàm Nghi chạy khỏi
Kinh thành, quân Pháp sai bọn gian thần đuổi theo rước Ngài trở về, nhưng xa
giá mỗi ngày đi xa hơn.
Biết nhà Vua không hồi
loan, quân Pháp bèn chia đường rượt bắt. Từ đó Ngài trải qua một đoạn đường vô
cùng gian truân, dãi nắng dầm mưa nằm gai nếm mật.
Nghe tin quân thù gần đến,
Vua tôi bỏ Tân Sở, chạy qua Báo Đài, chạy trở về Tân Sở. Nhưng chạy đi đâu,
tung tích nhà Vua cũng bị bọn gian phản dò biết. Quân Pháp lại càng đuổi theo
ráo riết.
Từ Tân Sở vượt ngọn Mai
Lĩnh chạy lên Lao Bảo lại băng đường núi ra Hàm Thao, định thẳng ra Sơn Phòng
Hà Tịnh, liên lạc với lực lượng Cần Vương của ông Phan Đình Phùng, nhưng lại có
tin báo động, Vua lại phải chạy qua xứ Mọi Voi Tân, một nơi hiểm hóc độc địa,
giáp giới nước Lào.
Tới Voi Tân, trú tại làng
Khê Tả Bảo, trong một mái nhà tranh, kiểm điểm lại tả hữu tùng vong, Vua chỉ thấy
vỏn vẹn mười người trong một số hơn một trăm người khi ra đi.
Các kiện tướng đều chia đường
đóng giữ những nơi hiểm yếu, để đoạn hậu cho Vua chạy, đề đốc Lê Trực trấn mạn Thanh Thuỷ,
quân của ông Tôn Thất Đạm trấn ở Kỳ Anh, thuộc Tỉnh Hà Tịnh để chận đường quân
thù từ miền Bắc kéo vào. Ông Nguyễn Phạm Tuân ngày đêm tuần tiễu vùng kế cận xứ
Mọi Voi Tân.
Ông Tôn Thất Thiệp thì phò Vua, chầu
hầu bên cạnh. Các văn thần, võ tướng khác thì đều phân tán các nơi, chiêu tập
binh mã, một số tùng vong khác không chịu nỗi cảnh cơ cực lên thác xuống ghềnh,
phải nửa đường bỏ cuộc, lánh thân vào chốn thôn quê. Lại một sồ nữa, ham mồi
phú quí bỏ về thành thị đầu giặc cầu vinh.
Ẩn náo tại làng Khê Tả Bảo,
vua tôi được yên một thời gian, nhưng sơn lâm chướng khí, nước độc lao lư, Đức
Vua lâm bịnh thương hàn, cơ hồ không tránh khỏi tay tử thần.
Không thuốc thang điều dưỡng,
luôn luôn sống trong ảo mộng, nỗi thê thảm của Ngài lại càng gấp bội.
Quân Pháp nhứt diện đuổi bắt
nhà Vua, nhứt diện buộc triều đình khuyến dụ Ngài trở về. Hoàng Kế Viêm lãnh ấn
Kinh lược Đại sứ, đem quân ra thủ tại Tỉnh Quảng Bình. Nhơn danh triều đình, hứa
nếu Ngài thôi kháng chiến sẽ được phong chức Tổng trấn ba Tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh và được cấp bổng lộc theo Tước Vương. Các cựu Thần đều được phục
nguyên chức.
Nhưng sau tám tháng dùng hết
mưu kế quỉ quyệt để thành công nhưng Hoàng Kế Viêm thất bại hoàn toàn: Vua tôi
quyết tâm kháng chiến.
Đánh nhau với các lực lượng
Cần Vương, quân địch hao binh tốn tướng, bèn thay đổi chiến lược. Chúng án binh
tại giữa Tỉnh Quảng bình, lập Đồn Minh Cầm, chống chế hệ thống liên lạc giữa
các Tướng và “Dĩ giặc đãi lao” thừa cơ đánh úp những cánh quân núng thế.
Ngày tháng qua, lực lượng
Cần Vương các nơi đều lần hồi tiêu hao. Đồn Thanh Thuỷ đã bị phá vỡ, ông Lê Trực
phải rút quân vào rừng sâu. Ông Tôn Thất Đạm tuy vẫn cầm cự nhưng thế lực mỗi
ngày mỗi suy vi. Ông Nguyễn Phạm Tuân đã không giữ nỗi trận thế và trong trận
cuối cùng đã đền ơn Vua nợ nước.
Nhưng mặc dầu tin tức bất
lợi nặng nề, mặc dầu bịnh hoạn liên miên, mặc dầu ăn sương uống gió lo sợ trăm
bề, chí phục thù của Đức Vua vẫn không nao núng. Trái lại, phút cuối cùng của
khoản đời tự do ngắn ngủi của Ngài biểu lộ một khí phách, một tinh thần hy sinh
vô cùng xứng đáng để cho thần dân tưởng nhớ, để cho hậu thế tôn sùng. Năm ấy là
năm Mậu Tý (1888)
Một tên suất đội hầu cận
nhà Vua, thông đồng với tên tù trưởng xứ Mọi Voi Tân, lén ra Đồn Minh Cầm, đem
đường chỉ lối cho quân thù đi lọt vào làng Khê Tả Bảo.
Đêm 26-9 Âm lịch, quân nghịch
vây kín túp lều tranh, trong khi Vua tôi đang ngủ. Hoảng dậy thấy tên tù trưởng,
biết chính nó đã phản bội, bèn rút thanh bảo kiếm đưa cho nó và bảo: “Mày giết Tao
đi, còn hơn đưa Tao về nạp cho Tây”. Trong khi ấy ông Tôn Thất Thiệp bị Việt
gian đâm sau lưng, chết tại trận (Có sách chép: Ông Tôn Thất Thiệp vùng dậy tuốt
gươm, định giết Vua rồi tự sát như kế hoạch đã định trước, để Vua khỏi lọt vào
tay của địch, nhưng viên Chỉ huy quân Pháp lanh mắt bắn hạ ông trước). Vua liền
bị ôm choàng và bắt sống.
Từ khi bị bắt, Ngài không
nói năng gì nữa cả.
Quân Pháp đồ lưu Ngài qua
xứ Algérie một thuộc địa Pháp lúc bấy giờ tại Bắc Phi châu. Mặc dầu người Pháp
tỏ lòng cung kính lấy Vương lễ mà tiếp đãi, Ngài cũng một mực làm thinh. Nước mất
nhà tan, tấm thân đày đoạ kể làm sao xiết nỗi âm thầm tủi nhục của vì Vương hào
kiệt. Từ đó về sau, suốt 58 năm, cho đến năm 1947, Ngài thăng hà tại nơi đất
khách quê người, ngậm hờn nơi chín suối.
Ngày nay, trong khi nước nhà lại phải
cam go tranh đấu cho chủ quyền tự do, Đại-Đạo Cao-Đài trùng tu BÁO QUỐC TỪ mười
phần tráng lệ, phụng thờ anh linh Ngài, để treo cao bức gương thiên cổ của khí
phách dân tộc, thật là môt cử chỉ có ý nghĩa sâu xa.
Trong những chiến sĩ tùng vong, hai
anh em: Tôn Thất Thiệp (bị giặc giết lén) và ông Tôn Thất Đạm (tự tử khi nghe tin Đức hàm Nghi bị bắt), được
sử sách ghi chép trung liệt vô song, cam phần lao khó, phò Vua cho đến bước đường
cùng, lấy cái chết mà đền Ơn Vua nợ nước.
Sử cũng liệt vào hàng
trung kiên báo quốc. Các tướng lãnh Cần Vương khác, khắp nơi như ông Lê Trực,
Nguyễn Phạm Tuân, Trần xuân Soạn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn
Trung Trực, Hoàng Hoa Thám, không kể gian truân nguy hiểm, không ham tước lộc của
quân thù mà quên đại nghĩa, không vì thế cùng lực kiệt mà nản chí, người tử nạn
trước đã dành phần, người sống sót vẫn bền gan kháng chiến…hoặc tìm chốn thâm
sơn mai danh ẩn tích, hoặc đem tàn quân qua tàu quyết không khuất phục quân
thù.” (tài liệu của Ưng An, Thúc Dật Thị”.
Trong khi đó, ông THUYẾT
đem Vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) người Pháp treo giải 2.000 lạng bạc
cái đầu của Ông Thuyết và ai bắt được
Vua Hàm Nghi thì được thưởng 500 lạng.
Cuộc bôn đào của Vua Hàm
Nghi vô cùng nguy nan. Còn Ông Thuyết thì sang Trung Hoa để cầu viện nhà Thanh
nhưng không may cho Ông phải trút hơi thở cuối cùng nơi đất khách Long Châu.
Còn Vua Hàm Nghi dù được
quan tướng trung can gìn giữ, bảo mật hoàn toàn nhưng không trừ được kẻ gian,
ham lợi danh bổng lộc là Tướng Trương Quang Ngọc. Khi vua Hàm Nghi nhận ra được
Ngọc, giận uất vô cùng, trao cho hắn thanh kiếm mà bảo rằng:
- Mày giết tao đi còn hơn
đem nộp tao cho Tây.
Nhưng rồi Ngài cũng bị hắn
bắt đem về nộp cho Đại Uý Pháp Boulangier, ngay lúc đó hắn đưa Ngài về đồn Thuận-bài
gần Chợ Đồn bên Tả ngạn sông Gianh. Rồi Ngài bị đưa xuống tàu về Thuận An và
sau đó bị đày đi Algérie, mỗi năm Pháp cấp cho 2.000 Phật lăng (tiền Pháp). Bấy
giờ Ngài mới 16 tuổi.
Cuộc diễn tiến:
LOẠN Ở TRUNG KỲ
1 . Thống tướng De Courcy
vào Huế.
2 . Triều đình chạy ra Quảng
Trị.
3 . Nguyễn Văn Tường ra thú.
4 . Xa giá các bà Thái hậu về Khiêm Lăng.
5 . Quân Cần vương.
6 . Vua Đồng Khánh.
7 . Thống tướng De Courcy phải triệt về.
8 . Vua Hàm Nghi ở Quảng Bình.
9 . Ông Paul Bert.
10 . Lập Tổng đốc Toàn Quyền.
1 . Thống Tướng De Courcy
vào Huế.
Việc đánh nhau với Tàu
xong, thì tức là cuộc bảo hộ ở nước Nam thành công. Nhưng ở các nơi, những quan
cũ ta còn chống nhau với quân Pháp, mà ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết chuyên chế đủ mọi đường
Tháng 9 năm Giáp Thân
(1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào nhà tối, không cho ăn uống để chết
đói, đổ tội cho là thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn
Tân Sở ở gần Cam Lộ thuộc tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy,
phòng khi có việc gì thì đem quân ra đó để chống nhau với quân Pháp. Cũng vì
các ông ấy có ý muốn kháng cự, cho nên quân Pháp đã chiếm giữ đồn Mang Cá ở
thành Huế và lại bắt bỏ súng đại bác ở trên thành đi.
Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu
(1885), Thống tướng De Courcy sang tới Bắc kỳ. Bấy giờ sự Hòa ước với Tàu đã
xong, bởi vậy Thống tướng mới định vào Huế bắt Triều đình ta phải chịu quyền bảo
hộ. Thống tướng đến Hà Nội đã nói chuyện với các người Pháp và những người Nam
ra làm quan với Pháp, đã biết tình hình ở trong Huế là thế nào. Đến ngày 19
tháng 5 thì Thống tướng đem non 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đình cử hai quan
đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón Thống tướng ở cửa
Thuận An. Sáng hôm sau, Thống tướng cho đòi hai quan phụ chính sang bên Khâm sứ
để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.
Hai ông ấy lúc bấy giờ còn
đang lừng lẫy, việc Triều chính ở trong tay mình cả, mà thấy Thống tướng làm sự
đường đột như thế, cũng đã tức giận lắm, lại cứ như lời mấy ông quan cựu thần
nói chuyện, thì ông Thuyết là quan văn làm tướng võ, nhưng hình dáng thì không
được thanh tú: đầu thì trọc, người thì béo mà đen Đến khi phải ra theo lễ bang
giao mà đối với một người tướng ngoại quốc như ông De Courcy thì trong bụng khiếp
sợ không biết ra thế nào.
Ông Tường thì là một tay
giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài nghề ứng biến, cho nên lúc ấy chỉ
có một mình ông Tường sang ra mắt quan Thống tướng De Courcy mà thôi, còn ông
Thuyết thì cáo bệnh không sang. Thống tướng thấy vậy, bảo đau cũng phải khiêng
sang.
Tôn-Thất-Thuyết thấy quan
Pháp ra oai như thế, phần thì tức giận, phần thì sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới
có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xuôi khiến bèn quyết ý sửa
soạn để đánh nhau.
Thống tướng De Courcy định
đến hôm vào Điện yết kiến vua Hàm Nghi, thì phải mở cửa chính, không những chỉ
để quan nước Pháp đi mà thôi, nhưng lại phải để cả quân lính cùng đi vào cửa ấy.
Triều đình thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để Thống tướng đi cửa giữa, theo
như sứ Tàu ngày trước, còn quân lính thì xin đi cửa hai bên, Thống tướng nhất định
không chịu.
Triều-đình ở Huế thấy dùng
cách phủ-dụ không được, bèn lấy quyền cho người Pháp tìm kế đánh-dẹp.
Người Pháp cũng biết là thế-lực
của đảng vua Hàm Nghi chẳng được bao nhiêu, cốt tìm đường mà chiếm dần địa-thế
và mua chuộc những đứa làm tay trong, thì tất thế nào rồi cũng trừ hết được, bởi
vậy cho nên không dùng đến đại binh.
Trước, Đại-úy Mouteaux ở
Quảng-bình đã cùng với ông cố Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở
Thanh-thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đành phá mãi. Đến tháng
giêng năm Đinh-Hợi (1887), Đại úy Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh-cầm đóng ở
mé trên Thanh-thủy. Đại-úy vẫn biết ông Lê Trực là người có nghĩa-khí và trong
khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn-ác, cho nên Đại-úy
vẫn có ý trọng lắm. Trước đã cho người đưa thư lên dụ ông ấy về thú. Ông ấy
phúc thư lại rằng:
“Tôi vì vua, vì nước, chết
sống cũng một lòng làm việc cho hết bổn-phận, chứ không dám tham sự sống mà
quên việc nghĩa”.
Từ khi quân Pháp đóng đồn ở
Minh-cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông Lê Trực
thì ra mạn Hà-tĩnh, Ông Nguyễn Phạm Tuân thì lên đóng ở làng Yên-lộc về phía
sông Gianh.
Qua tháng 3, nhờ có dọ
thám, biết chỗ ông Nguyễn Phạm Tuân đóng, Đại-úy Mouteaux bèn đem quân lên vây
làng Yên-lộc, bọn ông Nguyễn Phạm Tuân, trong khi bất ý, đều bị bắt cả. Ông
Nguyễn Phạm Tuân phải đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày thì mất.
2 . Triều đình chạy ra Quảng Trị:
Trưa hôm 22 các quan ở Cơ
Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định cho xong việc đi cửa chính, cửa bên,
nhưng Thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật
sang tặng Thống tướng, Thống tướng cũng khước đi không nhận.
Các quan thấy Thống tướng
làm dữ dội như vậy, đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà khinh mạn Triều đình
đến như thế. Tôn-Thất-Thuyết càng thấy thế càng lấy làm tức giận, thôi thì sống
chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn gì chăng? Ấy là tướng
sĩ lúc bấy giờ ai cũng tưởng như thế, cho nên mới định đến nửa đêm khởi sự phát
súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá.
Chiều hôm ấy Thống tướng
làm tiệc đãi các quan Pháp. Tiệc vừa tan xong, thì súng ở trong thành nổ ra
đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân
Pháp thấy bất thình lình nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế
nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 mới tiến lên đánh, thì quân ta
thua chạy. Nguyễn Văn Tường cho người vào Điện tâu xin rước vua và các bà Thái
Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng. Khi xa giá ra gần đến cửa hữu thì gặp Nguyễn Văn
Tường đã chực sẵn để đi hộ giá, nhưng lệnh truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để
thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn Tường vâng lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim
Long, lên đến chùa Thiên Mụ, thì Tôn Thất Thuyết đem quân chạy đến truyền rước
xa giá quay trở về Trường Thi.
Lúc bấy giờ Vương tôn công
tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian
thì trẻ cõng già, đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng tìm đường tránh cho
khỏi chỗ binh đao.
Xa giá đến Trường Thi vào
nghỉ được một lát, thì Tôn Thất Thuyết lại giục lên đường, nói rằng quân Pháp
đã sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng ngày 24
ra đi, đến tối mới tới thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản ra rước xa giá vào Hành cung và đặt quân lính
để phòng giữ.
Trận đánh nhau ở Huế, quân Pháp mất
16 người và 80 người bị thương. Sách Tây chép rằng quân ta chết đến vài nghìn
người, còn bao nhiêu khí giới lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.
3 . Nguyễn Văn Tường ra thú:
Tại Huế, cả buổi sáng hôm
23, quân Pháp chiếm lấy thành trì và giữ gìn các nơi. Còn quan ta, người thì đi
theo xa giá, người thì ẩn nấp một nơi, chưa biết thế nào, chưa ai dám ra. Đến
trưa hôm ấy, Nguyễn Văn Tường vào ăn cơm nhà ông Giám mục Caspard, rồi nhờ ông ấy
đưa ra thú với Thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn Tường ra ở
Thương bạc viện, giao cho Đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải coi giữ và
hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi việc.
4 . Xa giá các bà Thái hậu về
Khiêm Lăng:
Nguyễn Văn Tường viết sớ
ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về Kinh để cho yên lòng người. Nhưng lúc ấy
vua Hàm Nghi và Tam cung là bà Từ Dụ Thái Hoàng Thái Hậu, mẹ Đức Dực Tông, bà
Hoàng Thái Hậu là vợ Đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng Thái phi là
vợ thứ Đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết gìn giữ, sớ của
Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy đem giấu đi không cho vua biết. Ai cũng
muốn xin rước xa giá lên Tân Sở, để lo liệu sự khôi phục. Đức Từ Dụ và hai bà
Thái Hậu nhất định không chịu đi.
Ngày 27, Tôn Thất Thuyết
nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin Tam cung ở lại Quảng Trị và xin rước vua
lên Tân Sở. Khi sắp đi, vua Hàm Nghi vào lạy ba bà Thái Hậu: tình ly biệt, nỗi
sầu thảm, kể sao cho xiết! Vua đi khỏi độ một giờ đồng hồ, thì bọn nội giám đều
trở lại nói rằng Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, thì Tam cung mới tiếp
được tin của Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về Huế, mọi việc đã
thu xếp xong rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua trở lại để cùng về Huế, nhưng
tìm mãi không biết vua ở đâu, chỉ tiếp được thư của Tôn Thất Thuyết gửi về nói
Nguyễn Văn Tường phản trắc nọ kia, xin đừng có nghe. Người bàn đi, kẻ bàn lại,
ai nấy phân vân chưa biết ra thế nào. Ngày 30 lại tiếp được sớ của Nguyễn Văn
Tường ra giục xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ý về Kinh, định ngày mồng 4
thì lên đường, sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ giá. Đến chiều
tối ngày mồng 5, xa giá các bà Thái Hậu về đến Khiêm cung. Nguyễn Văn Tường
dâng sớ lên thỉnh an và kể tình mọi việc.
Trong khi Vua còn đi vắng,
Thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm Giám quốc, giao quyền Binh bộ thượng
thư cho viên Khâm sứ De Champeaux, để bãi việc binh lính của ta đi và gọi quan
kinh lược ở Bắc kỳ là Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng đốc Nam Định là Phan Đình Bình
về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. Vì hai ông ấy ở Bắc Kỳ đã hiểu mọi
việc và đã biết theo chính sách của bảo hộ, cho nên Thống tướng đem về để thu xếp
mọi việc cho chóng xong. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ không hợp ý nhau,
Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc Kỳ.
5 . Quân Cần Vương:
Tôn Thất Thuyết ở Quảng
Bình làm hịch Cần Vương truyền đi các nơi, bởi vậy chỉ trừ những chỗ chung
quanh Kinh thành ra, còn từ Bình Thuận trở ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ
nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên Đạo gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá
những làng có Đạo. Sách Tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân
bên Đạo phải 8 ông cố và hơn 2 vạn người bị giết.
Thống tướng De Courcy thấy
chỗ nào cũng có loạn cả, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội các tướng lại để bàn sự đánh dẹp.
Thống tướng định sai Đại tá Pernot đem 1500 quân ở Huế ra đuổi Tôn Thất Thuyết,
lại sai Thiếu tướng De Négrier đem một đạo quân đi từ Thanh Hóa đánh vào. Nhưng
chính phủ ở Paris điện sang không cho Thống tướng khởi sự dùng đại binh và lại
nhân lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân Pháp chết hại đến
ba bốn nghìn người, bởi vậy cho nên việc dùng binh phải đình lại.
Tại Huế thì mãi không ai
biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đình thì mỗi ngày một rối, việc lập Vua mới thì
tuy rằng đã định rồi, nhưng còn lôi thôi chưa xong.
Đến ngày 27 tháng 7, vừa hết
hạn 2 tháng của Thống tướng De Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường, vả lại, bấy giờ
ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn Văn Tường xin Thống tướng đem trị tội.
Bởi vậy sang ngày 28 Thống tướng bắt quan nguyên Phụ chính Nguyễn Văn Tường,
quan Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất
Thuyết, đem đày ra Côn Lôn. Phạm Thận Duật đang đi Tàu thì chết, phải ném xuống
bể. Nguyễn Văn Tường thì sau lại phải đày ra hải đảo Tahiti ở Thái Bình Dương,
được ít lâu cũng mất, cho đem xác về chôn ở quê nhà.
6 . Vua Đồng Khánh:
Thống tướng De Courcy đày
bọn Nguyễn Văn Tường đi rồi, đem Nguyễn Hữu Độ về cùng với Phan Đình Bình coi
việc triều chính, sai Nguyễn Trọng Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống tướng
lại sai ông De Champeaux lên Khiêm cung yết kiến Đức Từ Dụ xin lập ông Chánh
Mông là Kiên giang quận công lên làm vua.
Ngày mồng 6 tháng 8, ông
Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn
tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Vua Đồng Khánh tính hiền
lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, ở rất được lòng người Pháp; đình thần
thì nhiều người đã biết theo chính sách của bảo hộ cho nên mọi việc trong Triều
đều được yên ổn. Nhưng vua Hàm Nghi còn ở mạn Quảng Bình, kéo cờ nghĩa để chống
nhau với quân Pháp, truyền hịch Cần Vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ,
lòng người còn tưởng nhớ Chúa cũ, cho nên từ tỉnh Bình Thuận trở ra, chỗ nào
cũng có người nổi lên đánh phá để toan bề khôi phục.
Tại Quảng Nam thì bọn thân
hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn phòng sứ là Trần Văn Dự làm chủ, rồi những tỉnh
Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận đều noi theo mà nổi lên. Tại Quảng Trị có các
ông Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như, ở Quảng Bình có quan nguyên tri phủ là Nguyễn
Phạm Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh; ở Nghệ An có ông nghè Nguyễn Xuân Ôn và
quan sơn phòng sứ Lê Doãn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao ..Những người ấy đều
xướng lên việc Cần Vương, đem quân đi hoặc chiếm giữ Tỉnh thành, hoặc đánh lấy
các phủ huyện và đốt phá những làng có Đạo. Tại ngoài Bắc thì các quan cựu thần
là quan Đề đốc Tạ Hiện, quan Tán tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Bãi Sậy, rồi
đi đánh phá ở mạn Trung châu, còn ở mạn Thượng du, thì ở chỗ nào cũng có quân
giặc Tàu quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.
7 . Thống tướng De Courcy phải
triệt về:
Thống tướng De Courcy thấy
ở ngoài Bắc có lắm việc, bèn để Thiếu tướng Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà Nội
kinh lý mọi việc. Nhưng vì Thống tướng tính khắc khổ và đa nghi, cho nên công
việc càng ngày càng khó thêm. Tại Pháp thì có nhiều người không muốn giữ đất Bắc
Kỳ, có ý muốn bãi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, Thủ tướng nước
Pháp là ông Brisson xin nghị viện thuận cho lấy ra 75 triệu phật lăng để chi
tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị viện đặt hội đồng để xét việc ấy. Hội đồng định rút
quân về và chỉ cho 18 triệu phật lăng mà thôi. Đến khi đầu phiếu thì đảng theo
chính phủ được 274 phiếu và đảng phản đối với chính phủ được 270, nghĩa là đảng
muốn giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn có 4 phiếu. Thủ tướng Brisson thấy trong nghị viện
có nhiều người không hợp ý mình bèn xin từ chức.
Ông Freycinet lên làm thủ
tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên nước Nam làm lắm việc lôi thôi, bèn điện
sang triệt về Pháp, giao binh quyền lại cho trung tướng Warnel và sai ông Paul
Bert là quan văn sang sung chức Thống đốc, để kinh lý mọi việc ở nước Nam.
8 . Vua Hàm Nghi ở Quảng Bình:
Bấy giờ tuy ở Huế đã lập
vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần còn có nhiều người theo phò vua Hàm
Nghi, quyết chí chống lại với quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá Chaumont đem
quân ra đóng ở thành Quảng Bình, để chặn đường không cho đảng Tôn Thất Thuyết
thông với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An, bọn Văn thân đánh phá rất dữ.
Đại tá Chaumont bèn để Đại tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng Bình, rồi trở về
Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu chiến đem ra đóng ở thành Nghệ An, chia quân đi tuần
tiễu các nơi.
Tôn Thất Thuyết thấy thế
không chống nỗi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên
Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng Bình, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn
đi đường thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu.
Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn
nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và
Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân, hết sức giữ gìn và
đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Tháng giêng năm Bính Tuất
(1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ vào Nghệ An, rồi chia làm hai đạo: một
đạo thì Thiếu tá Pelletier đem lính tập theo sông Ngàn sâu vào mạn Tuyên Hóa; một
đạo thì Trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi
vào đóng ở sông Gianh.
Tại Huế lại sai trung tá
Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở
Minh Cầm, rồi Trung tá Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy
đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm quân Văn thân chống không nỗi, phải tan
rã
Nhưng qua sang tháng hai, ở
ngoài Bắc Kỳ có việc, vả lại viên thống dốc Paul Bert đã sang đến nơi, chính
sách đổi lại cả, cho nên mới triệt các đạo quân về, chỉ đóng giữ ở Quảng Khê, ở
Roon và ở chợ Đồn mà thôi. Quân Văn thân thấy quân Pháp rút về, lại trở về đóng
ở các đồn cũ.
Quân Pháp tuy đã trừ được
ông Nguyễn Phạm Tuân nhưng ông Lê Trực hãy còn và vẫn chưa biết rõ vua Hàm Nghi
ở chỗ nào, sau có những người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm-Nghi thì mưu với
tên Trương-Quang Ngọc. Tên ấy là người bản-xứ ở đấy và từ khi Vua ra ở vùng ấy
nó được vào hầu cận và lại là một đứa khí-độ tiểu nhân, thì chắc có lẽ mua chuộc
nó được. Đại-úy định tìm cách để thông với tên Ngọc, cho người đi do-thám, biết
được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà-mạc, bèn đem quân lên vây làng ấy. Nhưng khi
lên đến nơi, tên Ngọc thấy động, chạy thoát được. Đại-úy sai tìm trong làng chỉ
thấy có một bà lão, Đại-úy bèn đưa cái thư viết cho tên Ngọc, nhờ bà lão ấy đưa
cho nó, rồi rút quân về đồn Minh-cầm.
Được mấy hôm kỳ-dịch những
làng mé trên về thú ở đồn Minh-cầm, Đại-úy đưa cho Chánh-tổng những dân ấy mấy
lạng thuốc phiện và mấy bì gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó dỗ vua
Hàm-Nghi về. Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết lòng giúp người Pháp,
nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết-lộ ra thì không thành.
Từ đó việc bắt vua
Hàm-Nghi chỉ trông-cậy vào tên Ngọc. Nhưng bấy giờ có người con thứ Tôn-Thất-Thuyết
là Tôn Thất Thiệp giữ gìn vua Hàm Nghi một cách nghiêm mật qúa. Tôn-Thất-Thiệp
thề sống chết không để cho quân Pháp bắt Vua được. Bởi vậy, hễ ai nói đến sự về
thú thì bắt chém ngay, cho nên bọn tên Trương Quang Ngọc tuy đã nhị tâm, nhưng
chưa dám hạ thủ.
Ở mé ngoài, thì các ông Lê
Trực và Tôn-Thất-Đạm, nay đánh chỗ này mai phá chỗ kia mà không sao bắt được. Đại-úy
Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc-mệt,
bèn xin về Pháp nghỉ.
9 . Ông Paul Bert:
Ngày mồng 5 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), viên Thống đốc Paul Bert sang đến
Hà Nội. Lập tức đặt phủ Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm soát về việc tài chính. Đến
cuối tháng 3 thì Thống đốc vào yết kiến vua Đồng Khánh ở Huế và xin lập nha
Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho quan Kinh lược đại sứ được quyền
cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc. Vì rằng ở ngoài Bắc vào đến Huế đường
xá xa xôi, có việc gì phải tâu bẩm vào Bộ mất nhiều ngày giờ lắm, bởi vậy xin
cho được tự tiện làm việc, rồi trong một năm độ vài kỳ đem các việc tâu về vua
biết.
Thống đốc Paul Bert ở Huế
đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà Nội, rồi một mặt thì lo đánh dẹp, một mặt
thì mở Pháp Việt học đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền. Chủ ý của
Thống dốc là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh lợi. Nhưng cũng vì
Thống đốc phải lo nghĩ
Chính phủ Pháp sai ông
Bihourd sang lĩnh chức thống dốc Pháp thay ông Paul Bert.
10 . Lập Tổng Đốc Toàn Quyền Phủ:
Nước Pháp đã lấy đất Nam Kỳ,
lập bảo hộ ở nước Cao Miên, rồi lập bảo hộ ở đất Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ, mở ra một
cuộc thuộc địa lớn ở Viễn đông này; nhưng buổi đầu thì mỗi xứ có một chức Thủ
hiến để coi riêng việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), chính phủ nước Pháp
mới đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy xứ ở nước
ta và nước Cao Miên.
Tháng 10 năm Đinh Hợi (15
tháng 11-1887), viên Tổng đốc toàn quyền mới, là viên Tổng đốc toàn quyền trước nhất là ông Constant sang nhận chức ở
Sài Gòn.
Từ đó ở các nơi như Nam Kỳ
thì có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao Miên thì mỗi nơi có viên Khâm sứ, Bắc kỳ
và Lào thì mỗi nơi có viên Thống sứ đứng đầu coi việc cai trị trong hạt; những
việc gì quan hệ đến chính sách cả toàn cảnh thì phải theo lệnh viên Tổng đốc
toàn quyền mà thi hành.
Vua Hàm Nghi bị bắt:
Qua tháng giêng năm Mậu-Tý
(1888), viên Đại-Tá coi đạo quân ở Huế
ra Quảng-Bình, rồi chia quân đi tuần tiễu, để tìm vua Hàm-Nghi và đuổi bắt ông
Lê Trực và ông Tôn-Thất-Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi-mệt mà không
thành công được. Quân Pháp đã toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng
có tên suất-đội Nguyễn Đình Tinh hầu cận vua Hàm-Nghi ra thú ở đồn Mang-Cá, phía
trên đồn Minh-Cầm và khai rõ tình-cảnh cùng chỗ Vua đóng. Người Pháp bèn sai
tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tinh về
tình-nguyện xin đi bắt vua Hàm-Nghi.
Người Pháp truyền cho bọn
tên Trương Quang Ngọc phải làm thế nào bắt sống được vua Hàm-Nghi, còn những
người khác hễ ai chống cự, thì cứ giết đi.
Ngày 26 tháng 9, tên Ngọc
và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người ở làng Thanh-lang và Thanh-Cuộc lên
vây làng Tả-bảo là chỗ vua Hàm-Nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó xông
vào, thì Tôn-Thất-Thiệp còn đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra, thì chúng đâm
chết. Vua Hàm-Nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy, cầm thanh gươm đưa cho
nó và bảo rằng:
- “Mày giết tao đi, còn
hơn đưa tao về nộp cho Tây”. Ngài vừa
nói dứt lời, thì bọn chúng nó có một đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy Ngài rồi
giựt thanh gươm ra. Từ khi Ngài bị bắt rồi, Ngài không nói năng gì nữa.
Sáng ngày hôm sau, bọn tên
Ngọc võng Ngài ra đến bến Ngã-hai, rồi đem xuống Cái bè, đi mất hai ngày mới về
đến đồn Thanh-lang, nộp cho viên Đại-úy coi đồn ấy là ông Boulangier. Đại-úy lập
tức đem Ngài về đồn Thuận Bài đóng ở tả ngạn sông Gianh, gần chợ Đồn.
Vua Hàm-Nghi bấy giờ đã 18
tuổi, quan Pháp lấy Vương-lễ mà tiếp-đãi. Tuy vậy ai hỏi gì, Ngài cũng không
nói, chỉ nhất-thiết chối rằng mình không phải là Vua.
Nhưng đến lúc vào trong buồng
ngồi một mình, thì hai hàng nước mắt chứa-chan, buồn vì nỗi nước mất nhà tan,
thân mình phải nhiều nỗi gian-truân.
Người Pháp đem vua
Hàm-Nghi xuống tàu về Thuận-an, rồi đem sang để ở bên xứ Algérie, là xứ thuộc địa
của nước Pháp, ở phía Bắc châu A-phi-ly-gia, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi Phật-lăng.
Tên Trương Quang Ngọc được
hưởng hàm Lĩnh binh, tên Nguyễn Đình Tinh cũng được thưởng hàm quan võ. Còn bọn
thủ-hạ, đứa thì được thưởng hàm suất-đội, đứa thì được thưởng mấy đồng bạc.
Tôn-Thất-Đạm ở ngàn
Hà-tĩnh, nghe tin vua Hàm Nghi bị bắt, bèn hội cả bọn tướng sĩ lại, truyền cho
ra thú để về làm ăn, rồi viết hai bức thư: một bức để dâng Vua Hàm-Nghi, xin
tha lỗi cho mình làm tôi không cứu được Vua và một bức gửi cho Thiếu-tá Dabat,
đóng ở đồn Thuận-bài xin cho bọn thủ-hạ ra thú. Viết xong thư rồi, Tôn-Thất-Đạm
nói rằng: “Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta thì vào tìm thấy mả ta ở trong rừng!”.
Đoạn rồi thắt cổ mà tử-tận .
Hai người con của Ông
Tôn-Thất-Thuyết thì thật là bậc thiếu-niên anh-hùng, có thể theo được cái dấu của
cha Quan đề-đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận-bài. Triều-đình
ở Huế xem cái tờ xin ra thú, thấy lời-lẽ của quan Đề-đốc cũ nói khẳng-khái,
không được khiêm-tốn, có ý bắt tội, nhưng người Pháp thấy là một người
trung-nghĩa, có lòng qúi-trọng, tha cho về yên nghiệp ở nhà.
Ông Tôn-Thất-Đạm và ông Lê
Trực là người phản đối với nước Pháp lúc bấy giờ, nhưng các ông ấy vì việc nước
mà hết lòng làm việc bổn-phận cho nên người Pháp cũng biết lượng tình mà
thương-tiếc. Sau ông Lê Trực về ở làng Thanh-thủy, thuộc huyện Tuyên-hóa, tỉnh
Quảng Bình, người Pháp thường vẫn đi lại thăm-nom và có ý kính-trọng lắm. Người
bản-quốc thấy vậy, ai cũng lấy làm cảm phục.
Hiện nay vua Hàm Nghi còn ở
Algérie và đã lấy một người vợ nước Pháp, được mấy người con.
Giai thoại về Hai Ông TƯỜNG & THUYẾT:
Thời kỳ gần cuối cùng của
Triều Nguyễn thật vô cùng nguy ngập về việc chánh trị vì chịu cảnh nô lệ của
Pháp đã lợi dụng danh nghĩa truyền giáo, rồi biết bao sự cố xảy đến. Để đánh dấu
những biến cố đó sĩ phu Việt Nam có ghi lại câu đối sau đây:
Nhất giang lưỡng quốc nan phân THUYẾT.
Tứ nguyệt tam Vương triệu bất TƯỜNG
一 江 兩 國 難 分 說
四 月 三 王 召 不 祥
Câu 1: Có nghĩa rằng một con sông
(đây là sông Hương) bên kia bờ là Toà Khâm sứ Pháp, bên này bờ là theo chế độ của
triều đình Việt Nam. Hai nước hai chánh sách cai trị khác nhau, quyền lợi đều
nghịch hẳn nhau, mọi việc thật khó giải bày.
Câu 2: Bốn tháng mà ba Vua thay đổi
đó là điềm chẳng lành.
Ba Vua đó là:
- Kiến Phúc: ở ngôi được 6 tháng và mất ngày mùng 7 tháng 4 Giáp Thân
(1884) trong một trường hợp vô cùng thê thảm.
- Em ngài là Vua Hàm Nghi lên thay, tức là Chánh
Mông, huý là Ưng Lịch, khi đó mới 12 tuổi, nhưng phong trào kháng Pháp nổi lên
dữ dội, Vua Hàm Nghi lưu vong.
- Pháp thấy khó dụ được
Vua Hàm Nghi trở về nên lập Vua Đồng
Khánh lên thay vào ngày 6 tháng 8 Giáp Thân. Tính ra vừa tròn bốn tháng mà
có đến ba vua thay phiên nhau kế vị, dù trong hoàn cảnh hết sức miễn cưỡng và bất
bình.
Trong dân gian cũng quá
đau lòng cho cảnh loạn triều như thế nhưng cũng chỉ biết thở than mà thôi.
Chuyện một người đàn bà
nhà quê đi buôn bán về, vào buổi trưa đặt quang gánh trước Huyện đường mà rằng:
“Gẫm xem thế sự mà
rầu,
“Ở giữa Đồng Khánh hai đầu Hàm Nghi”.
Lính gác nghe qua liền vào
báo quan về tội vô lễ. Quan cho đòi vào hỏi. Bà ta nói rằng chỉ có than thở về sự
buôn bán ế ẩm mà thôi. Quan cho đọc lại câu lúc nãy.
Bà đọc rằng:
“Bán
buôn lỗ vốn mà rầu,
“Ở
giữa đòn gánh hai đầu đôi ky”.
Thứ nhứt là nói lên lòng phẫn uất của người dân sống trong cảnh lệ nô, lòng sụt sôi lửa hận thù. Thứ hai là chỉ biết
dùng ít lời văn chương mộc mạc, thô sơ để ký thác cũng đủ nói lên lòng dân ta thán, bất bình
cho cái chế độ oái oăm, người dân có miệng mà không thốt được nên lời..
Cuộc
diện chánh trị:
Tại Huế, cuộc khủng hoảng chánh trị mỗi giờ
phút một nặng nề. Ai cũng thấy rõ thế nước chông chênh, mất còn chỉ chờ thời
gian. Trong các quan chia làm hai phe: phe chủ chiến có hai ông là Tôn Thất
Thuyết và Nguyễn văn Tường. Còn lại hầu hết là phe chủ hoà, tức nhiên chịu
an phận mặc ai làm gì thì làm. Vì lẽ đó không
khí ngày càng căng thẳng hơn, tất cả sửa soạn chờ ngày tổng phản công: nào là
huấn luyện quân đội, xây dựng chiến khu, lo phần tiếp ứng, liên lạc. Dầu rằng
có sẵn hàng ngàn binh sĩ và trên 20 cỗ đại bác. Địa điểm dự trù là sẽ đánh úp Đồn
Mang Cá của Pháp. Do đó mà câu đối trên
có đề cập đến hai nhân vật trọng yếu là TƯỜNG và THUYẾT đặt vào cuối
câu đối.
Hai người ấy là ai?
Đời vua Hàm Nghi, Việt Nam đang chịu
nạn đô hộ. Bấy giờ phe chủ chiến có hai người:
- Tôn Thất Thuyết và
- Nguyễn văn Tường hết lòng phò Vua giúp nước.
Vào ngày 18 tháng 4 năm Ất
Dậu (1885) Thống Tướng De Courcy vừa sang tới Bắc Kỳ liền đem hàng ngàn quân
vào Huế để làm áp lực với quan quân, liền mở cuộc họp với Nam triều ra lịnh cho
sĩ phu và quân lính phải tùng phục hoàn toàn chính thể bảo hộ. Họ lại có ý đồ bắt
Tôn Thất Thuyết trong cuộc đàm phán này, biết được lưới bẫy toan rập, ông không
đến và cáo bịnh.
Tiếp theo, trong đêm ấy
Ông bắn súng đại bác để làm hiệu lịnh Tổng tấn công. Cuộc bạo động thất bại,
Ông Nguyễn văn Tường phò Vua Hàm Nghi lánh nạn.
Trong khi đó ông Thuyết
sang Trung Hoa để cầu cứu nhà Thanh, nhưng Trung Hoa lúc ấy vừa qua cuộc chiến
tranh Nha phiến đã bị khủng hoảng tinh thần nên không giúp gì được cho ông Tôn
Thất Thuyết..
Năm 1912, ông Tôn Thất
Thuyết tạ thế tại Thiên Quan, được ông Lý Can Nguyên bấy giờ chấp chánh Bắc
Kinh, xót thương người tiết liệt, cho xây một ngôi mộ rất to và lập bia đề là:
“Nguyễn
Phúc Thuyết ngự tiền thân vương chi mộ”.
Nhân sĩ đất Quảng Đông có đôi câu đối
viếng ông để ghi khắc một tài danh yêu nước của đất Tượng Quận (Việt Nam). Nước
Việt xưa gọi là Tượng Quận vì nơi đây sản xuất nhiều voi.
Đây là đôi câu đối của nhân sĩ người
Trung Hoa ở đất Long Châu (Quảng Đông) viếng trên mộ của ông Tôn Thất Thuyết,
như sau:
- Thù chung bất cộng đái
thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng Quận.
- Hộ giá biệt tầm tĩnh địa,
thiên niên tàn cốt ký Long châu.
Có nghĩa rằng:
. Thù ngoài không đội Trời
chung, muôn thuở tiếng thơm còn lưu nơi
đất Tượng Quận.
. Phò chúa riêng tìm cõi
thác, ngàn năm xương gởi lại đất Long Châu.
Phụ chú:
Tôn Thất Thuyết là người thuộc Hoàng
phái nhà Nguyễn:
Tôn Thất là HỌ của người đàn ông.
Công Tằng Tôn Nữ, Công Tôn Nữ Thị,
Công huyền Tôn Nữ, Tôn Nữ Thị là Họ của phái nữ cũng thuộc dòng hoàng phái.
Phái nữ Hoàng phái có nhiều họ như thế là do sự phân chia theo hệ thống tôn ti
của các phái.
Vua Minh Mệnh chia 20 Tôn
hiệu theo bài thơ sau:
MIÊN, TRƯỜNG, ƯNG, BỬU,
VĨNH.
BẢO, QUÍ, ĐỊNH, LONG, ĐƯỜNG.
HIỀN, NĂNG, KHAM, CHẾ, THUẬT.
THẾ, THỊ, QUỐC, GIA,
XƯƠNG
Vua GIA LONG
2 - Vua Thành Thái
VUA THÀNH THÁI
```Vua Thành Thái huý là Bửu Lân 寶 瞵 con của Vua Dục Đức, cháu sáu đời Đức Gia-Long, tức
vị năm 1889, khi Ngài mới lên 10 tuổi. Lúc bấy giờ triều đình cử Tuy Lý Vương,
con thứ 11 của Đức Minh Mạng, lên chức Phụ chính Đại Thần, giúp Vua trị nước
trong thời gian Vua còn thơ ấu.
Nơi triều, Vua Đồng Khánh
mất ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tý, nhằm ngày 28 tháng giêng năm 1888, thọ 25 tuổi.
Ở ngôi được ba năm, miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế. Người Pháp bèn đưa
con ông Dục Đức là BỬU LÂN lên thay, lấy niên hiệu là THÀNH THÁI.
Bấy giờ ông Rheinard lại
sang làm Khâm-sứ ở Huế, thấy con vua Đồng-Khánh còn nhỏ và lại nhớ ông Dục Đức
ngày trước. Khi vua Dực-Tông hãy còn, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy
viên Khâm-sứ nghĩ đến tình cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông Dục-Đức lên
làm vua. Về việc Pháp lấy cớ con vua Đồng Khánh còn nhỏ: xét ra cớ này không
đúng hẳn, vì chính Vua Thành Thái lúc lên ngôi mới có 10 tuổi thôi. Lý do đúng
hơn cả về việc tôn lập Vua Thành Thái bởi người Pháp có cảm tình với Vua Dục Đức.
Có điều đáng chú ý là trước khi bước lên ngai vàng, ông Bửu Lân đang bị giam
trong ngục cùng với Bà Mẹ. Triều đình vào rước Ngài từ ngục ra và đặt lên ngôi
Vua, niên hiệu là Thành-Thái. Hai ông Nguyễn Trọng Hợp và Trương Quang Đản được
cử làm phụ chính cho vị thiếu quân.
(Từ đây là tài liệu của Ung An Thúc Dật Thị)
“Đến khi Đức Vua trưởng thành, phủ
Phụ chính tự giải tán và dâng quyền uy lại
cho Ngài. Nhưng vua Thành
Thái tính khí cương cường,
không chịu cách đối xử kiêu căng của người Pháp, lại càng ghét bọn triều thần
xu thời, chỉ biết mưu cầu phú quí, không nghĩ đến Miếu đường, Xã tắc. Nên tuy
đã đúng tuổi, Ngài vẫn giữ nếp sống của một thiếu niên không lo việc triều
chánh, chỉ ham chơi với những Vương Tôn, Công Tử đồng trang lứa.
Một thanh niên tráng kiện lại thông
minh, học nhiều như Ngài, mà không thiết gì đến ngôi Hoàng Đế, không sử dụng
quyền uy của mình thì thật là một dấu hỏi lớn cho người Pháp. Họ biết tánh tình
Ngài từ hồi còn nhỏ, chơi nhiều trò chơi nguy hiểm, đến nỗi tự tạo thương tích,
hư mất một con mắt.
Họ biết mỗi khi ngự Triều tiếp tân,
Ngài không dấu được vẻ miễn cưỡng, bình thường Ngài cũng không tỏ tình thân thiện
với họ. Thế là họ nghi Ngài có đầu óc phản đối.
Người Pháp định truất phế Ngài và lập Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Điện Hạ, là
cháu năm đời của Tăng Duệ Hoàng Thái Tử (Đức Hoàng Tử Cảnh) lên thay ngôi,
nhưng vì Điện Hạ cự tuyệt, nên bất đắc dĩ họ để cho Ngài tại vị một thời gian nữa.
Từ đó thực dân lại càng gia tâm dò xét, nhất cử nhất động của Ngài đều được số
người Việt gian báo cáo cho người Pháp biết.
Lúc ấy, khoản cuối Thế kỷ trước, Đức Vua đã trên 20 tuổi.
Những khi nhàn hạ Ngài ngự chế nhiều bài thi ca cảm khái…có khi thố lộ tâm trường,
như bài thi Hán văn dưới đây:
Thăng Long Thành hoài cổ:
Kỷ độ tang thương kỷ độ kinh ?
Nhứt phiên hồi thủ nhứt phiên tình.
Ngưu hồ dĩ biến tam triều cuộc,
Hổ động không dư bách chiến thành.
Nùng Lĩnh phù vân kim cổ sắc,
Nhị Hà lưu thuỷ
khấp ca thanh,
Cầm Hồ đoạt
sáo nhân hà tại?
Thuỳ vị giang sơn tẩy bất bình
Hoài Nam Tiên sinh phụng dịch
ra Việt Văn:
Bể dâu dời đổi trải bao nhiêu?
Ngoảnh lại càng đau ruột chín chiều.
Bến cũ ba triều trâu mọp lấm
Luỹ xưa trăm trận cọp nằm queo.
Bức tranh mới cũ mây Nùng chấn,
Khúc nhạc vui buồn nước Nhĩ reo!
Hàm Tử, Chương Dương còn đó đó!
Non sông luống để bụi trần đeo?
Người Pháp đã đặt Phủ Toàn
quyền. Nước ta lúc bấy giờ đã bị cắt làm
ba Xứ riêng biệt: thuộc địa Nam kỳ, trực trị Bắc kỳ, còn Trung kỳ tuy gọi là Bảo
hộ; vì Trung kỳ còn có Vua, còn có triều đình, nhưng chỉ còn là một cơ cấu hư
danh, ngôi Hoàng Đế chỉ còn là một ngôi Hư vị, bao nhiêu quyền bĩnh đều do thực
dân Pháp nắm hết.
Nhưng nếu triều thần đa số
là những kẻ thực dân Pháp lựa chọn, ù ù gật gật để vinh thân phì gia; thì trái
lại Đức Vua lại là vị kế thống của một giòng họ dày công gầy dựng cơ đồ gần 400
năm, đã khai thác cho Tổ quốc phân nửa giang san gấm vóc, đã nhứt thống san hà
từ Mũi Cà Mau đến Ải Nam Quan. Đức Vua lại là một trang thanh niên tuấn tú, khí
huyết khương cường.Chúng ta ngày nay thử tưởng tượng nhà Vua lúc bấy giờ làm
sao cho khỏi buồn tủi cái thân “Cá chậu chim lồng”, làm sao cho khỏi suy tư
toan tính tháo bề xiềng xích.
Năm 1903, nhà Đại Cách mạng
Phan Bội Châu lập thành Đảng Cách Mạng VIỆT NAM QUANG PHỤC HỘI rước Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đứng làm lãnh tụ
và cùng những đồng chí từ Nghệ An trở vào đến Quảng Nam, Quảng Ngãi bắt đầu hoạt
động, hoạch định kế hoạch khởi nghĩa cứu nước.
Tháng 2 năm Bính Ngọ (1906) Cường Để
Điện Hạ bí mật xuất dương định sang Tàu, sang Nhật cầu viện.
Năm Thành Thái thứ 18
(1907) người Pháp khám phá ra một bí mật trong Cung Cấm.
Trong những trò chơi bấy
lâu của nhà Vua, có một hệ thống đường hầm, dưới những Điện Đài lầu các: trong ấy
có bia để tập bắn súng, bắn cung, có sân để đánh gươm, múa kiếm, có vũ khí thứ
thật xen lẫn vũ khí trò chơi, lại có Nữ Võ sư túc trực, luyện tập cung kiếm cho
Cung nga thị nữ. Thì ra từ lâu, Đức Vua đã chuẩn bị một công việc, mà nhóm Đại
thần tay sai của thực dân gọi là “Làm giặc” mà hậu thế chúng ta, theo lời Đức Hộ-Pháp
nói với kẻ viết lại những trang lịch sử này (Ông Trần Quang Vinh), 12 năm trước:
- “Hậu thế chúng ta nhận chân là: Mưu đồ Cách mạng,
đánh đuổi ngoại xâm”.
Khám phá được những địa đạo
trong đại nội, người Pháp không còn nghi ngờ gì nữa cái óc “Làm giặc” của Đức
Thành Thái. Song bấy nhiêu sự trạng không đủ buộc tội một vị Hoàng Đế. Đối với
Thượng Hạ nghị viện Pháp, thực dân lại phải phanh phui tìm thêm bằng chứng.
Nguyên bình nhựt, trong bọn
thị vệ chầu hầu, có đứa lười biếng trễ nãi, bị Ngài nóng nảy trừng phạt nặng nề,
lại một đôi khi bực tức, Ngài đối xử với kẻ gian thần chức cả quyền cao quá ư
khinh miệt. Đó hẳn không phải là chứng cớ làm giặc, mà lại là chứng cớ “loạn óc
không thể trị được nữa”. Thực dân nêu ra để đem Ngài vào Sài-gòn điều trị, rồi
an trí Ngài tại Vũng Tàu, trong một biệt thự gọi là Villa Blanche (Bạch ốc, Nhà
Trắng).
Người Pháp lập Hoàng Tử
Vĩnh Sang, con thứ sáu của Đức Thành Thái lên ngôi Hoàng Đế, đặt niên hiệu là
Duy Tân. Còn Ngài thì được suy tôn làm Thái Thượng Hoàng.
Nếu trong năm 1907 là năm Cách Mạng
hoạt động tại Hải ngoại, trong khi quyết định loại trừ Đức Thành Thái, thực dân
biết được một bí mật khác vô cùng trọng đại, cái bí mật giữa Ngài và Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để, thì có lẽ lịch sử cận đại của nước nhà đã chuyển theo một chiều hướng
khác.
Đầu năm Bính Ngọ (1906) trước khi
xuất dương cầu viện, Cường Để Điện Hạ bí mật bệ kiến, trình bày mục đích của VIỆT
NAM QUANG PHỤC HỘI và kế hoạch khởi nghĩa, đánh đuổi ngoại xâm cho Đức Vua biết
và được Đức Vua trao cho một cái “ẤN” bằng vàng để làm bửu vật tuỳ thân.
Tự tay giao và tự tay lãnh
KIM ẤN. Đức Kim Thượng không thiết đến ngai vàng hư vị và vị Hoàng Thân lãnh tụ
Đảng Cách Mạng chống Pháp hẳn đã ước hẹn với nhau những gì về tương lai ngôi
Hoàng Đế.
Vậy thì cái bịnh “loạn óc”
mà người Pháp lúc bấy giờ gán cho Đức Thành Thái chính là cái mối thù không dấu
được của Ngài đối với thực dân. Cái bí mật KIM ẤN này làm sáng tỏ một điểm lịch
sử đã gây thắc mắc cho chúng ta bấy lâu vậy.
Mười năm sau tức là năm
1916, Vua Duy Tân cũng bị kết tội “Làm giặc” và lưu đồ qua Đảo Réunion (Tiếng
Tàu gọi là Bồ-Uông) một thuộc địa Pháp lúc bấy giờ, nằm trong Ấn-Độ-Dương.
Bất bình thay! Đức Thái
Thượng Hoàng đang ở tại Vũng Tàu với tâm tình ngổn ngang trăm mối, cũng bị đưa
đi Bồ-Uông luôn ! (Đảo RÉUNION )
Dưới đây là bài thơ gởi từ
Đảo Réunion (Bồ Uông):
Từ phải đem thân bỏ khắc vời,
Đổi thay Nhạn Én chẵn ba mươi.
Non BỒ thơ thẩn mai rồi tối,
Bến ẤN lân la nước với Trời.
Đón gió cợt trăng đành phận tớ,
Đua tranh chuốc lợi trối thây người,
Bạn quen còn mảnh quan sơn nguyệt,
Lẻo đẻo cùng nhau để ngắm đời.
Thành Thái
Sau 31 năm buồn tủi ở quê
người xa xăm.!
Năm 1948, khi thực dân bị
bắt buộc trả chủ quyền đất nước cho Đức Cựu Hoàng Bảo Đại, Ngài được rước về cố
quốc.
Đặt chân trở lại giang san
tổ quốc xiết bao xúc động, nhìn thấy lại
cơ đồ liệt Thánh, Ngài làm bài thi cảm khái sau đây tại Vũng Tàu:
THI
Sống thừa nào biết có hôm nay!
Nhìn thấy giang san đất nước này.
Sừng Ngựa (1) chưa quên câu chuyện cũ,
Ruột tằm thêm bận mối sầu tây.!
Thành Xuân ngàn dặm mây mù mịt,
Bến Cấp tư bề sóng bũa vây,
Tiếng súng đêm ngày nghe nhặt thúc,
Dầu cho sắt đá cũng châu mày!
Chú thích: (1) Lấy tích
người đi đày gặp Mã hữu giác, ngụ ý chuyện hy hữu. ngài thăng hà tại Sai-Gòn
năm 1954, hưởng thọ 75 tuổi. (Trích Tài liệu
của Ưng An Thúc Dật Thị)
Bến Cấp tức là Cap. Saints
Jacques ở Vũng Tàu
Đà nẵng- Hà nội - Hải phòng
thành đất nhượng-địa.
Từ khi sự đánh-dẹp các nơi
đã yên rồi, các viên Tổng-đốc Toàn-quyền lần lượt sang kinh-doanh việc Đông
Pháp và lo mở mang về đường chính-trị, kinh-tế và xã-hội theo chính-sách của nước
Pháp.
Tháng 3 năm Mậu Tý (1888)
tức là năm Thành Thái nguyên-niên, ông Richaud sang làm Tổng-đốc Toàn quyền.
Tháng tám năm ấy, Triều đình ở Huế ký giấy nhượng Hải-cảng Đà-nẵng, thành-thị
Hà-nội và Hải-phòng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa, nghĩa là từ đó việc
cai-trị và pháp-luật ở ba thành-thị ấy thuộc về nước Pháp, chứ không thuộc về
nước Nam nữa. Trừ ba thành-thị ấy ra, thì việc cai-trị ở các tỉnh trong toàn hạt
Bảo-hộ, vẫn để quan-lại làm việc như cũ, nhưng phải do người Pháp điều khiển và
kiểm-duyệt
Vua Thành Thái là một bậc thông
minh và có khí phách anh hùng. Sinh ra vào buổi loạn ly, đất nước đã nằm trong
tình trạng nô lệ của người Pháp, nên thời cuộc bấy giờ ảnh hưởng rất nhiều đến
tâm hồn của Ngài, vì tính tình của Ngài cang cường độc lập bao nhiêu thì cuộc đời
Ngài càng mau đi tới chỗ oan trái bấy nhiêu.
Vua Thành Thái sở trường về Nho học,
chịu ảnh hưởng nhiều về những tư tưởng của các nhà Cách mạng Nhật và Trung Hoa.
Nhiều việc rối càng xảy ra hơn nữa, Ngài là vì Vua nóng tính nên không chịu đựng
được những nỗi bất bình mà Pháp càng ngày càng làm cho không khí căng thẳng
thêm.
Khoảng năm 1903, Vua Thành
Thái định ra Bắc rồi trốn qua Tàu, nhưng đến Thanh Hoá thì cơ mưu bại lộ. Khâm
sứ Trung kỳ đánh điện ra chặn xe và đưa nhà Vua về Huế. Vì không bằng cớ nên
Vua vẫn còn tại vị. Từ khi xảy ra vụ này, Khâm sứ Pháp càng gìn giữ Vua cẩn mật
hơn, nên không thể hoạt động gì được. Để che mắt người Pháp, nhà Vua giả điên,
đánh đập người trong Cung, đồng thời bỏ tiền ra huấn luyện, tập đội Nữ binh, tập
quân sự canh gác Hoàng thành. Vua thân hành tập cưỡi ngựa, bắn cung, tính dùng
vào việc khởi nghĩa khi có cơ hội đến. Nhưng mộng lớn không thành. Việc sau
cùng có số quan lại vào xin Vua thoái vị. Trong số đó có Ngô Đình Khả không ký
tên vào việc này, nên ngày sau dân gian có câu “Đày Vua không Khả”.Thực ra đó
chính là mưu lược của Khâm sứ Pháp ép Vua phải thoái vị. Sau đó, họ đày Ngài đi
Vũng Tàu (Cap. Saints Jacques) và cuối
cùng đày Ngài sang Phi Châu. Hoàng Tử Vĩnh San lên thay lấy hiệu là DUY TÂN
(1907)
Năm 1914, chiến tranh Pháp – Đức
bùng nổ, các nhà cầm quyền Pháp ở Việt Nam thấy Vua Thành Thái có thể làm mấu
chốt cho cuộc khởi nghĩa chống Bảo hộ, trong dịp này liền bí mật chở Ngài cho
đi an trí tại đảo Réunion. Việc này xảy ra vào năm 1915.
Sau 32 năm trời đăng đẳng sống với
Thổ dân trên Hải đảo xa xôi ấy. Đến tháng 5 năm 1947 nhờ con gái Ngài là vợ của
Luật sư Vương Quang Nhường vận động với Cao-Uỷ Bollaert, Cựu Hoàng Thành Thái mới
được trở về nước nhà. Thuở ra đi Ngài là một thanh niên tráng kiện với vẻ mặt
phương phi lộ khí phách anh hùng; Ngày trở về Ngài đã là một Cụ già lưng còng
tóc bạc.
Về nước, Vua Thành Thái phải chịu một
điều kiện là chỉ ở miền Nam mà thôi. Sáu năm sau, Cựu Hoàng yêu cầu nhà cầm quyền
cho Ngài trở lại Huế một thời gian ngắn để thăm viếng mộ phần các Tiên Đế, lời
yêu cầu được chấp thuận.
Sau cuộc viếng thăm này vào ngày 24
tháng 3 năm 1953, Ngài phải từ giã sông Hương núi Ngự trở về tư thất ở Sài gòn,
đường Lucien Mossard.
Đúng một năm sau: cũng ngày 24
tháng 3 năm 1954, Cựu Hoàng Thành Thái trở lại Cố đô Huế, nhưng lần này Ngài chỉ
còn là cái xác nằm gọn trong chiếc quan tài, để lại bao nhiêu thương tiếc cho
toàn dân.
Tài ứng đối của Đức Thành Thái
với viên Toàn Quyền Pháp.
Người Pháp ra câu đối trước:
- RÚT RUỘT VƯƠNG TAM PHÂN
THIÊN HẠ
Vua Thành Thái đối lại ngay:
- CHẶT ĐẦU TÂY TỨ HẢI THÁI
BÌNH.
Thấy rõ người Pháp họ cũng
thấm nhuần chữ Việt một cách rành rẽ mới xuất khẩu thành thi văn như vậy. Vả lại
lối đối chữ ngoắt ngoéo như vầy không phải việc dễ.
Câu đối loại chơi chữ như
vầy có hai nghĩa:
Câu đầu là lấy chữ VƯƠNG 王 làm tiêu biểu. Trong chữ Vương là vua, nếu “rút ruột” đi tức là lấy nét sổ
xuống thì còn lại là chữ TAM 三 là ba.
Nghĩa bóng: Người Pháp đầy
tham vọng muốn thôn tính Việt Nam mãi mãi, nên nghĩ rằng nếu có thể diệt đi chế
độ quân chủ (Vương quyền), thì họ sẽ chia Việt Nam làm ba kỳ để cai trị. Lúc ấy
mới gọi là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ (Kỳ nghĩa là chặt đứt, chia ra).
Câu đối lại của nhà Vua
không kém phần khẩu khí, mà lại còn tỏ vẻ hận thù thoát ra bằng hơi thơ văn:
Câu này lấy chữ TÂY 西 làm tiêu đề. Tây là phương Tây cũng là chỉ vào nước của người Tây, nước
Pháp. Nếu chữ Tây này cắt đi phần đầu sẽ còn là chữ TỨ 四 là bốn. Mà cũng có ý nhắn gởi rằng nếu mà “chặt đầu” lũ bây thì thiên hạ sẽ
thái bình,Việt Nam sẽ không bị nô lệ.
Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo - 15 -3 Giáp Ngọ
Lễ kỹ niệm của Đức Thành Thái
Thưa cùng Chư Chức Sắc
Thiên Phong Nam, Nữ
Chư viên quan quới chức,
Cả con cái Đức Chí Tôn Lưỡng
Phái.
Ba bài Ai Điếu của Hội
Thánh, Quân Đội và Phục Quốc Hội đã tả một đời thống khổ của Cựu Hoàng Thành
Thái đã rõ rệt. Bần Đạo không thể nói được nữa, bởi vì đã đầy đủ quá rồi, Bần Đạo
nói ra đây để làm chứng về tinh thần của một dân tộc đã bị nạn lệ thuộc 80 năm.
Thật ra thì Ngài, Đức Hàm
Nghi, Đức Duy Tân, ở trong Hoàng tộc đều kế vị nhau ngồi trên ngai vàng không
muốn thừa hưởng của Tổ tiên để lại, mà lại vì dân vì nước, vì chủng tộc, hy
sinh cả ngai vàng của mình làm Cách mạng. Bần Đạo xét lụng lại cái dĩ vãng
trong 80 năm lệ thuộc thì Bần Đạo lấy làm vui hứng và khoái lạc, nếu không nói
là kiêu hãnh mà ngó thấy một dân tộc từ dân lên trên nữa là Chúa: vua chúa nhứt
định không chịu án nô lệ, chẳng có buổi nào mà quốc dân Việt Nam không kiếm
phương xô ngã cái án lệ thuộc ấy. Biết bao nhiêu đoàn anh của chúng ta trong
giai đoạn 80 năm chịu đau khổ đủ điều, mà trong đoàn anh ấy Đức Cựu Hoàng Thành
Thái là Chúa. Ngộ nghĩnh một điều là lo cái năng lực cường quyền áp bức thế nào
thì cái tinh thần cứng rắn kia chẳng hề khi nào khuất phục, nếu buổi nọ Pháp chịu
đặt Ngài hạ mình một chút thì chắc Ngài còn ở trên ngai vàng, trái lại Ngài
đương đầu cùng cường quyền ấy.
Nối chí của Ngài là Đức
Duy Tân, con ruột của Ngài, thật đúng như lời tục Việt Nam ta nói “Cha nào con
nấy” thật đáng làm Chúa của nòi giống Việt Nam lắm, vì cớ cho nên dầu cho đương
nhiên giờ phút này, nếu Pháp không trả độc lập thì dân tộc Việt Nam cũng đồng
tâm tranh đoạt cho được độc lập của nước nhà, họ tranh đấu bằng mọi phương pháp
để thâu hoạch cho đặng nền độc lập ấy.
Cốt yếu chỉ biết một điều
là Quốc Dân Việt Nam không chịu lệ thuộc, họ chỉ đợi có một việc mà thôi, là họ
đợi trọn vẹn độc lập không chịu mãi mãi một điều nào lệ thuộc nữa. Vì cớ cho
nên cả toàn dân đồng tranh đấu quật cường. Bần Đạo còn nhớ trong cảnh lưu đày
nơi Hải ngoại một thân ở nơi xứ lạ quê người, cả nề nếp của Tổ Đường, cả nề nếp
phong hóa của nền văn hiến, hai vị Đế Vương chẳng hề khi nào bỏ, chẳng hề khi
nào quên. Bần Đạo còn nhớ, khi Bần Đạo bị lưu đày đi trên chiếc tàu Combattant
đi đến Đảo Ile de la Réunion cả thảy trên tàu người ta đều được thong thả đi lại,
còn Bần Đạo bữa đó bị nhốt dưới tàu, Ngài hay tin Ngài gởi nhắn lời thăm Bần Đạo.
Một cảm tình năm 1944 ở trong tù vừa ra thì tiếp được bức thơ của Đức Duy Tân gởi
thăm, nhờ đó mà các thơ từ qua lại cùng Đức Thành Thái và Đức Duy Tân. Bần Đạo
nói thật cả cái mơ vọng của hai Ngài là định vận mạng nước nhà chủng tộc mà
thôi.
Vì cớ mà Bần Đạo đã lưu một
tình cảm với Đức Duy Tân lắm lắm...
Hại thay! Trời chẳng chìu
người cả một chương trình, cả một biện pháp đã thương lượng cùng nhau thì cái
chết của Ngài làm cho tan rã tiêu hủy hết.
Cuộc tranh đấu của Cao Đài
hôm nay chẳng khác nào như áo vá quàng, thật khi Ngài về được nước nhà chính
mình Đức Thượng Hoàng Thành Thái và Tôi có gặp mặt nhau một phen ở Saigon, Tôi
còn nhớ một cái chí khí già rồi mà vẫn còn mãi mãi, khi đàm đạo với nhau, luận
về tương lai của Tổ Quốc nòi giống, khi hai Tôi lìa nhau, rồi Ngài đưa ra ngoài
cửa, đi nửa đường ra cửa Đức Thượng Hoàng day lại nói với Tôi một cách quả quyết
cứng cỏi rằng: Ngài đừng tưởng Tôi già mà Ngài bỏ, Ngài cho Tôi con ngựa cây
gươm Tôi chiến Ngài coi. Dẫu cho một vị anh hùng hay anh quân cũng thế, tuổi đã
già mà chí khí vẫn còn mãi chẳng hề khi nào thay đổi, có một điều ân hận hơn hết
là tại sao đã gọi nước Việt Nam độc lập mà khi Đức Thượng Hoàng Thành Thái trở
về, thiên hạ không cho Ngài trở về cũng cho đến nước chính mình Bần Đạo phải
làm tờ xin cho Ngài về đặng tạm cầm quyền hành trở lại nhưng nghĩ cũng chưa có
một quyền hành gì và cho đến khi Ngài chết mới đem về được.
Bần Đạo nghịch nhất thử hỏi
độc lập chúng ta giờ phút này phải bánh vẽ hay chăng? Nội bằng cớ ấy làm chứng
quả quyết cái lịch trình tranh đấu của nước Việt Nam vẫn còn tiếp tục không bao
giờ chấm dứt được.”
LỜI ĐÁP TỪ CỦA HOÀNG TỬ VĨNH CẦU
Thưa Hội Thánh,
Thưa các Ngài Chức Sắc Tòa
Thánh,
Thưa Thiếu Tướng cùng Ban
Chấp Hành Trung Ương Phục Quốc Hội.
Tôi hân hạnh được mời dự
cuộc Lễ Truy Điệu Phụ Thân chúng tôi và sự tế lễ rất nên trang hoàng. Tôi chẳng
biết lấy chi để đáp đền ơn trọng. Vậy tôi xin thay mặt cho cả gia đình chúng
tôi tri ân nồng hậu cùng các Ngài.
3 - VUA DUY TÂN
Vua Duy Tân, huý là Vĩnh Sang 永 珊 con thứ của Đức Thành Thái lên ngôi kế vị Vua Cha
năm 1907, khi Ngài mới lên 8 tuổi.
Lập Ấu chúa, dụng tâm của thực dân
là để thực hành tại Trung Kỳ chánh sách đồng hoá (Assimilation) mà họ đang áp dụng
tại Nam kỳ.
Họ chăm sóc châu đáo việc
giáo dục âu-hoá Ngài. Bên cạnh vị Phụ đạo chánh thức của triều đình, họ đặt một
nhà thông thái Pháp, cũng với một Chức vị Phụ đạo (Thầy dạy vua) chuyên dạy tiếng
Pháp và văn hoá Âu châu.
Ngài học rất siêng năng và
thông minh lạ thường. Lúc 13, 14 tuổi, trí suy luận của Ngài đã phát triển nhiều.
Từ đó mối liên hệ giữa
Ngài và quan phụ đạo người pháp lần lần trở nên gay cấn.
Một hôm, hai thầy trò hoàn
toàn bất đồng ý kiến về một điểm triết lý. Không bao lâu ông Thầy người Pháp phải
từ chức.
Thể vóc Ngài gầy gầy, hơi
cao, bề ngoài hiền lành, có vẻ nhút nhát. Tuy còn nhỏ tuổi, khi lâm Triều, ngôn
ngữ cử chỉ của Ngài rất tề chỉnh nghiêm trang. Mặc dầu vậy, người Pháp đã để ý
dò xét tư tưởng của Ngài.
Trận Thế chiến thứ nhất
bùng nổ giữa Pháp và Đức, thực dân mộ binh đưa qua Âu-Châu trợ chiến. Tại Trung
Kỳ, thứ lính họ mộ phần nhiều là Tượng binh (lính thợ O.N.S).
Đức Duy Tân năm ấy đã 15 tuổi (1914-1915). Ngài đã lý hội được nỗi
đau buồn của dân tộc dưới ách đô hộ của ngoại bang, một đôi khi Ngài lộ vẻ bâng
khuâng trước biến chuyển của thời cuộc.
Tuy trong hàng triều thần
và cận thần, phần lớn là những người của thực dân lựa chọn và bổ dụng, song cái
óc “Làm giặc” cũng vốn có trong đầu của một số ít. Quản lý Thị vệ Tôn Thất Để,
vị cận thần chầu hầu bên cạnh Vua là một trong số ít người có nhiệt huyết ấy.
Ông trộm biết Thánh ý, biết được những tư tưởng gì đang nảy nở trong khối óc Đức
Vua.
Vốn là một người trong
Hoàng Tộc, ông được Vua tin cẩn và đền đáp lại với một tấm trung trinh tuyệt đối.
Để phụng sự tâm trường, ý
chí của Đức Vua, ông liên kết với Đảng Cách Mạng VIỆT NAM QUANG PHỤC HỘI hằng
ngày đem tin tức bên ngoài và hoạt động của Đảng cho Ngài rõ.
Một hôm Ngài vi hành ngự
ra thừa lương tại cửa Tùng (Quảng Trị).
Một đảng viên then chốt của Quang Phục Hội, ông Khoá Bảo (người Tỉnh Quảng Trị)
thay mặt cho Đảng bí mật bệ kiến.
Trong một phiên họp tại Huế,
các lãnh tụ Đảng cách mạng đồng thanh quyết định “Phụng KIM THƯỢNG vi an dân cơ
sở” (rước Đức Vua đứng ra lãnh đạo Cách mạng) và uỷ nhiệm hai ông Trần Cao Vân
và Thái Phiên liên lạc với Ngài.
Một cán bộ của Đảng, ông
Phạm Hữu Khánh được đưa vào đại nội, làm Tài xế cho Vua, phụ trách thông tin,
đưa đón.
Ông Trần Cao Vân lúc ấy 50
tuổi, là một nhà Hán học uyên thâm, rất có uy tín trong các hàng văn thần Nam,
Nghĩa. Có óc Cách mạng từ hồi còn nhỏ, ông từng bị kết án ba năm tù “Yêu thơ
yêu ngôn” (xúi dân làm loạn) vì ông viết một quyển sách nhan đề “TRUNG THIÊN DỊCH”
bị đày ra Côn Đảo và bị liên can phong trào “xin xâu”năm 1908.
Trong năm 1915, nhận thấy
cơ hội đã đến trong đảng mình thực hiện, mục đích ôm ấp từ lâu: đánh đuổi quân
thù, thu hồi độc lập (Đảng Việt Nam Quang Phục Hội được thành lập tại Quảng Nam
từ năm 1903) ông và các đồng chí hoạt động ráo riết, đi khắp các Tỉnh, nhứt là
từ Nghệ An trở về Phú Yên, tuyên truyền
Cách mạng, kết nạp đảng viên.
Tin tức chiến tranh Âu
Châu càng thất lợi cho Pháp, sự hoạt động của Việt Nam Quang Phục Hội lại càng
tiến mạnh. Đảng liên lạc với hai nhà đại cách mạng Hải ngoại: ông Nguyễn Hải Thần
và Phan Bội Châu, ước hẹn đến ngày động binh, hai ông kéo quân từ Quảng Đông về
chiếm đất Bắc, lại liên kết với các hàng Quản, đội, lính mộ và lính tập khố
xanh của thực dân, ước hẹn có hiệu lịnh. Các trại lính mộ tại Huế sẽ tiến chiếm
Kinh thành và các đồn lính tập tại các Tỉnh sẽ chiếm cứ các Tỉnh thành.
Những lực lượng Nghĩa Quân
trong dân chúng được tổ chức tuỳ theo địa phương, thành những đơn vị xung phong
hoặc trợ chiến. Khắp nơi, việc sách động quần chúng để phô trương thanh thế được
chuẩn bị châu đáo.
Đảng lại trù liệu những
công việc lớn phải làm sao khi Cách mạng thành công, như chỉ định các cấp chỉ
huy để thu chánh quyền; xin Vua cấp Ấn-tín cho những cơ quan trọng yếu, dự
phòng hành động kịp kỳ.
Kế hoạch khởi nghĩa được ấn
định xong, ông Trần Cao Vân dâng thơ xin bệ kiến, Đức Vua chuẩn tấu. Lúc ấy vào
khoản tháng 2 đến 3 năm 1916.
Giả làm người đi câu, hai
ông Trần Cao Vân và Thái Phiên, theo chân Thị vệ Tôn Thất Để vào hồ Tịnh Tâm
trong kinh thành, Đức Vua đã chờ sẵn đó.
Home [ 1 ] [ 2 ]
Home [ 1 ] [ 2 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét