Trước, Bần Đạo đã thuyết cái sống của Đời, chúng ta
đã thấy luật định sống của con người. Bần Đạo nói: muốn định sống cho có trật tự,
cho có đẳng cấp, thì họ có hai cái: hòa bình và tranh sống với nhau. Cái khổ Thể
Pháp của Đời là vậy. Chúng ta thấy Thể Pháp của Đời để đặng bảo toàn sự sống
chung của nhơn loại. Chúng ta thấy trước mặt không cần kiếm
1 - Bảo toàn sanh mạng :
Muốn bảo toàn sanh mạng của
loài người, chúng ta thấy buổi Thượng cổ lúc còn ăn huyết ở hang chưa biết cất nhà cửa lầu đài đặng ở, phương sống của họ khó khăn lắm. Chung quanh họ bao vây toàn những cơ quan tiêu diệt họ là thú dữ thiên tai mộc ách.
loài người, chúng ta thấy buổi Thượng cổ lúc còn ăn huyết ở hang chưa biết cất nhà cửa lầu đài đặng ở, phương sống của họ khó khăn lắm. Chung quanh họ bao vây toàn những cơ quan tiêu diệt họ là thú dữ thiên tai mộc ách.
Họ muốn bảo toàn mạng sống, tức họ phải kiếm phương thế tự an tự lập. Chỉ
có hai bàn tay không thì làm sao kiếm cho ra sắt đặng làm binh khí tự vệ lấy
mình; vì buổi ấy thú dữ mạnh hơn người.
Người Mường Mán tự vệ bảo toàn sanh mạng buổi đó cho còn tồn tại cho đến
ngày nay không phải dễ.
Chưa biết cất nhà, họ phải chun vô hang, hố đặng bảo trọng lấy họ, rồi một
người chiến đấu với thú mạnh mẽ không nổi họ phải chung hiệp với nhau, tức
nhiên thành Mường Mán như chúng ta ngó thấy Mọi miền Cao Sơn của chúng ta vậy.
Mường Mán ấy chẳng phải để chiến đấu với thú dữ, chiến đấu với thiên tai mộc
ách mà thôi, họ còn phải chiến đấu với các cơ quan làm hại họ, tức nhiên Mường
Mán này muốn đè lên Mường Mán khác, buộc họ phải chiến đấu, chiến đấu đặng
giành quyền tự chủ của mình.
Muốn chiến đấu cho đắc thắng họ phải chung hiệp lại đại đa số hơn, thành ra
một quốc gia một xã hội. Trong một quốc gia chúng ta thấy nhiều số nhơn sanh là
vậy.
Ngày nay định sống của họ cho có trật tự thì khổ lắm, bởi vì ai cũng muốn bảo
tồn mạng sống của mình trước đã. Nhiều khi mình muốn bảo tồn mạng sống của mình
chẳng kể mạng sống của kẻ khác, khổ là chỗ đó.
Muốn cho sống có trật tự thì phải định luật tức nhiên họ phải bảo vệ sanh mạng
của dân, đặng buộc người đồng sống trong khuôn khổ tự hữu của mình; muốn cho được
vững chắc thì phải đặt ra luật pháp, có luật pháp thì phải có Viên Quan Vua
Chúa.
2 - Định luật xã hội:
Định luật xã hội phải như thế mà thi hành rất khó khăn lắm, lúc tâm lý nhơn
sanh còn đơn giản, thi hành là muốn cho thiên hạ bảo vệ sự sống của dân trong một
quốc gia mà thôi, rồi lần lần họ khôn ngoan, họ lấy khôn ngoan của mình đặng
chiến đấu với các cơ quan nào làm cho mình mất tự do, làm cho mình không được tự
chủ.
Nhơn loại bây giờ cũng thế, họ phá rối luật pháp buộc ràng họ bằng mọi cách
gián tiếp hay trực tiếp. Bởi vậy ngày nay một luật định xã hội bảo toàn sanh mạng
cho nhơn loại đương nhiên bây giờ khó khăn đáo để.
Đầu tiên khởi ra Mường Mán chiến đấu với nhau, Mường Mán đó tiêu diệt sang
qua xã hội quốc gia, quốc gia bao giờ cũng muốn cường quốc đông dân số, như các
nước mạnh kia vậy. Cũng như thể Trung Hoa dân số có lối bảy trăm mấy chục triệu
dân tộc hiện tại thành thử họ thường thường tương tranh với nhau luôn luôn,
khuôn khổ kia xét lại đến ngày nay các liệt cường quốc gia liên minh của mặt địa
cầu này, muốn bảo toàn mạng sống khó khăn lắm.
Bần Đạo nói cho mấy người nghe đặng mấy người theo, rán theo sau Bần Đạo đặng
hiểu Bí Pháp của Đạo. Bần Đạo cho biết rằng: Bí Pháp của Đạo và Thể Pháp của Đời
có liên quan với nhau, nếu làm biếng không nghe Đời không thể gì biết đến Đạo.
Bần Đạo nói rằng về Thể Pháp: dù Thể Pháp, dù Bí Pháp của một quốc gia nào,
một dân tộc nào, mà phù hạp với tinh thần tiến triển của dân sanh nước ấy, tức
nhiên phù hạp với tinh thần hữu nghị của họ, thì nó tồn tại bằng trái ngược lụng
lại tinh thần của dân tức nhiên dùng cường quyền ép bức mà thôi.
Bần Đạo đã nói từ hồi nào đến giờ, con người bao giờ cũng chiến thắng với
các trở lực làm mất tự do, mất quyền vi chủ của mình, tức nhiên tâm lý nhơn
sanh không buổi nào chịu thua một cường bức nào làm cho họ đã mất quyền vi chủ,
họ chiến đấu mãi thôi.
Ngày giờ nào còn quyền áp bức, dân tộc này ép bức dân tộc khác, dùng quyền
tàn sát đặng bảo thủ sanh mạng của họ, thì giờ phút đó chưa có hòa bình trên mặt
địa cầu này. Không hòa bình là Tả Đạo, là giả pháp, không đúng với tâm lý nhơn
sanh.
Ấy vậy, chúng ta thấy những quyền luật nào lập ra tại mặt địa cầu này mà
không trái với tâm lý của nhơn loại thì nó sẽ tiến triển theo sự tấn hóa của nhơn
loại, đặng bảo tồn sanh mạng của nhân loại cho được vĩnh viễn và hạnh phúc.
Ấy thế Đạo của Đời chơn chánh đó vậy”.
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 22 tháng 05 Năm Kỷ Sửu (18-06-1949)
B - Bí Pháp của
Đời (tức Thế Đạo)
Đêm nay Bần Đạo thuyết Bí Pháp của Thế Đạo, vì kỳ trước Bần Đạo đã thuyết
Thể Pháp của Thế Đạo.
Nay Bần Đạo phải thuyết Bí Pháp đặng cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn biết
định phận chơn với giả. Người ta tưởng Thế Đạo không có Bí Pháp. Có chớ, tại Đời
không đem ra để cho toàn thể nhơn sanh hiểu biết.
Có Bí Pháp chớ, bởi những hạng vĩ nhân tạo thời cải thế, đã lập công trạng
đối với nhơn loại nơi mặt địa cầu này. Chủ hướng của họ tùy theo khuôn luật,
khuôn pháp nào đặng họ tạo nên cơ nghiệp vĩ đại nơi mặt địa cầu này.
Thể Pháp của họ chúng ta thấy họ mơ ước một điều: trước khi quá vãng (chết)
được nêu danh ư hậu thế hay là để lại một trang sử tốt đẹp cho đoàn hậu tấn của
nhơn loại.
Xem ấy mà định hướng chủ tâm của mình hay định tương lai của mình, tức
nhiên thế gian người ta thường gọi “Lưu danh ư hậu thế” để danh lụng lại cho kẻ
sau đó vậy.
Lưu danh ư hậu thế, họ đã dùng phương thế nào, họ đã dùng chánh thuyết nào
đặng họ phụng sự cho thiên hạ trong một nước? Nếu họ không phụng sự cho Tổ quốc.
Đối với Quốc dân họ phụng sự cho Quốc dân, đối với toàn nhơn sanh nơi mặt địa
cầu này, họ có đủ chủ hướng phụng sự cho nhơn loại. Đã định tâm phụng sự tức
nhiên nơi này là nơi bí yếu hơn hết. Xin để ý.
Hễ quyết tâm phụng sự tức nhiên họ phải lấy chánh tâm làm căn bản, do chánh
tâm ấy họ bước vô khuôn khổ của Đạo, tương liên với Đạo, chánh tâm ấy để giá trị
cho Quốc dân. Thiên hạ bước vô đường chánh tâm rồi tức nhiên có liên hệ với Đạo,
họ phụng sự cho thiên hạ là chỗ liên hệ sự đạo đức tinh thần của toàn nhơn sanh
đó vậy. Chúng ta đã thấy rằng lời của Đức Chí Tôn đã nói “Đạo không Đời không sức
mà Đời không Đạo không quyền”cả hai tinh thần ấy phải tương liên mật thiết cùng
nhau không thể gì rời rã với nhau đặng. Chúng ta đã thấy nhiều lý thuyết họ đã
tìm tàng họ muốn thế nào Đời thoát ly với Đạo mà như thế chúng ta ngó thấy các
nền Tôn Giáo như bên Thiên Chúa Giáo như Care Litaire muốn thoát ly ra khỏi
Công Giáo Gia Tô mà họ chẳng hề thoát ly đặng.
Họ muốn thoát ly Công Giáo, thoát ly Công Giáo tức nhiên họ tìm tàng đáo để
họ kiếm phương thế giải thoát ra khỏi Đạo nhưng cũng không đặng.
Giờ phút này chúng ta ngó thấy Nga Sô Viết lấy thuyết Cộng Sản làm căn bản,
thuyết Cộng Sản tức nhiên thuyết Duy Vật lấy vật chất làm căn bản, mà chối bỏ
linh hồn.
Về thuyết vật hình, tức nhiên nghịch hẳn với tinh thần đạo đức. Vật chất họ
phải đề xướng: “Tam vô” là vô thần đứng đầu hơn hết, nó phải đánh đổ tinh thần
đạo đức đặng nó đi trọn con đường vật chất. Phải chiến đấu để vật chất thắng
tinh thần.
Giờ phút này nước Nga cũng chưa hề thoát ly đạo đức được, phải đem đạo đức
làm căn bản mà thôi.
Tại Nga Sô lúc Cộng Sản chiến thắng đánh đổ chánh quyền rồi, tức nhiên
"Staline" không còn nhìn Đạo Giáo nữa, không còn nhìn quyền Hội Thánh
La Mã nữa.
Ngày đánh đổ chánh quyền khám phá quyền lực của Nhà Thờ, chỉ trích quyền lực
của Nhà Thờ, nhưng rốt cuộc ngày nay phải đem Đạo Giáo đem Công Giáo, tái lập
các Đền Thờ trở lại.
Tuy vẫn không tùng quyền Ông Giáo Hoàng La Mã mà nó vẫn tùng quyền Ông “Got
Oann” như Ông Giáo Hoàng của nhà Thờ mà thôi.
Còn nhiều nữa, nếu chúng ta quan sát từ thượng cổ, bao giờ Đời cũng kiếm
phương thế thoát ly Đạo, chiến đấu để thoát ly Đạo.
Họ biết không tùng theo nó thì họ không quyền mà hễ tùng theo nó thì mất tự
do tự chủ của họ, nó mất thì nó chẳng khi nào mà trị thiên hạ được?
Từ thượng cổ đến giờ không một quốc gia xã hội nào nơi mặt địa hoàn này vô
Đạo mà cầm quyền thiên hạ được, không thể có!
Vì cớ cho nên cổ nhơn tức nhiên Tổ Phụ nòi giống Việt Nam trị dân vi đạo
“Dĩ đạo vi tiên” tức nhiên trị Đạo chớ không phải trị dân đó vậy.
Có một điều Bần Đạo chỉ chỗ chính giữa, muốn phụng sự quốc dân hay quốc gia cho đắc lực,
phải có thành ý, rồi chánh tâm; muốn có chánh tâm thì mình phải tề gia trị quốc
rồi mới đến bình thiên hạ nghĩa là: tu thân, tức nhiên nhơn đạo đó vậy. Chính
thiên hạ có liên quan mật thiết với Đạo mà lưu lại thanh sử, nhưng cũng chưa đủ.
Chúng ta ngó thấy họ muốn thoát ly Đạo Giáo, nói gần hơn nữa, ở cõi Á Đông
chúng ta thấy gì? Như nhà Vua các công thần “Vị quốc vong thân” nhà Nam ta có
phong thần nên buộc các Làng các Tổng, các Huyện, các Phủ, phải lập Đền Thờ, thờ
các Đấng ấy, là Đình của chúng ta đó vậy.
Thoát ly, họ muốn thoát ly Đạo, đặng họ lập khuôn khổ riêng tư của họ, họ
càng lập càng đội Đạo Giáo trên đầu thêm
nặng nữa.
Bên Âu Châu chúng ta thấy gì? Họ muốn thoát ly Đạo Giáo mà những công thần ấy
họ dựng hình để chỗ nào đông dân chúng, tùy theo công nghiệp của mỗi người họ định
chỗ dựng hình ảnh của họ để lưu lại cho hậu thế, dựng hình ảnh ấy là gì? Ấy là Bí Pháp của họ đó vậy.
Họ tưởng thoát ly Đạo Giáo là dễ nhưng mà hình cốt dựng lên họ để cả bài học
cho hậu tấn; những cái hình ảnh còn tồn tại đây, xác thịt xương máu của những kẻ
ấy được lưu hình ảnh tại mặt thế này là những Đấng để cả tâm đức phụng sự cho
quốc gia và nhơn loại đó vậy. Làm cho đặng họ ham lắm.
Giờ phút này các vị cầm quyền trị thế trong một xã hội nhơn quần nào cũng
mơ ước một điều là phải lưu danh hậu thế mà thôi, lưu cả hình ảnh tôn nghiêm của
họ để hậu thế nữa.
Vì cớ cho nên nhiều người, nhiều khi khổ hạnh phải cực khổ trong trường tranh đấu vì quốc
gia xã hội nhơn quần khổ não về tinh thần nhọc nhằn biết mấy. Có nhiều người thối
chí mà nhờ cái năng lực và quyền lực lưu danh ư hậu thế ấy buộc họ phải làm nữa
trong con đường phụng sự quốc gia cho đến cùng. Vì thế phải có một tấm lòng chơn
thật mới quyết định được.
Ấy vậy, Bần Đạo lập lại một
lần nữa để lại một trang lịch sử tốt đẹp cho hậu thế, để hình ảnh tôn nghiêm
cho hậu thế ấy là Bí Pháp của Thế Đạo.
Còn nữa, ngoài ra nữa, còn có cái này; cái này không hình trạng mà đáng sợ
hơn hết là miệng lưỡi của thế gian. Có nhiều việc không để nơi trang lịch sử được,
nhiều khi bất công của nhà vua hay của nhơn quần họ không để nơi trang sử được,
họ chỉ để nơi miệng lưỡi thế gian mà thôi, đáng sợ hay chăng là chỗ đó. Hoặc là
vì sự bất chánh yểm cả công nghiệp công thần của mình; nhưng công nghiệp ấy họ
để nơi miệng lưỡi của dân, của thiên hạ. Bí Pháp ấy mới cao thượng, mới bền bĩ,
Bí Pháp mà Đức Chí Tôn dành để đặng ban thưởng cho những kẻ vì đạo nhơn luân của
con người biết quên mình. Vì đạo mà tạo tinh thần cho quần chúng đó, Bí Pháp ấy
cao thượng hơn hết.”
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 26 tháng 05 Năm Kỷ Sửu (22-06-1949)
Kể từ hôm nay Bần Đạo giảng tiếp:
VIII - Thể Pháp và Bí Pháp
của Thiên Đạo.
“Trước khi Bần Đạo giảng một cái triết lý trọng yếu ấy Bần Đạo muốn cho cả
thảy chúng ta mỗi người đều để tinh thần trí não của mình tự xét lại coi đương
nhiên chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào ...?
Chúng ta làm gì nơi cõi thế này? Cái lập trường của kiếp sống ta đối với vạn
vật hữu hình mà Đức Chí Tôn gọi là Vạn linh ấy thế nào?
Mỗi người tự soát, tự soát đặng mới có thể hiểu đặng huyền vi bí mật của Thể
Pháp và Bí Pháp của Thiên Đạo, ấy là cái chìa khóa của chúng ta mỗi đứa mở lấy
cái nguyên linh của chúng ta vậy.
Bần Đạo rủ cả thảy con cái Đức Chí Tôn cầm chìa khóa nơi tay, đặng mở cả
huyền vi bí mật ấy cho thấu đáo, thấu đáo cho đặng rồi mới có thể biết được cơ
quan giải thoát của mình.
Bần Đạo lấy của Bần Đạo trước đã, Bần Đạo tự mình quan sát của Bần Đạo coi
cái sống của Đời và cái Linh của Đạo, tức nhiên trí hóa khôn ngoan vô đối của
chúng ta thuộc về Đạo như thế nào?
Linh ấy sống với phương pháp nào cho còn tồn tại? Tại sao chúng ta vào cửa
Đạo, chúng ta vào đây chúng ta ngồi, tại sao chúng ta chung hiệp với nhau vô Đền
Thánh này mỗi đêm phải cầu nguyện kinh kệ với Đấng mà chúng ta gọi là Đấng Tạo
Đoan cả Vạn Linh tức nhiên Đấng Chí Linh đó vậy. Chúng ta tôn sùng Đấng ấy để
làm gì? Đấng ấy đó hữu ích gì cho chúng ta hay chăng? Mà chúng ta phải phụng sự
những điều chí thiết ấy, nên tìm tàng cái nguyên lý của nó cho thấu đáo mới gọi
rằng tu mà muốn tu phải biết huyền vi bí mật ấy mới tu, còn không biết bất quá
vô Đền Thánh hát chơi vậy thôi.
Hễ khi nào làm biếng không đi cúng rồi đổ thừa có chuyện này chuyện kia, tại
mình không biết giá trị của sự đi cúng, phải biết trong đó cái đã.
Bần Đạo biểu tự soát mình coi, tại sao vô Đạo Cao Đài, Đấng đã chung hiệp với
con cái của Ngài là Đấng Chí Linh tức nhiên là Đức Chí Tôn chúng ta đương chiêm
ngưỡng tại Đền Thánh này. Phải biết giá trị đó mới dám can đảm thí thân cho Đạo
mới có thể cương quyết đặng chung sống với con cái của Ngài. Chớ không lẽ ngồi
đó tu theo họ mà không biết chơn lý ở đâu.
Các nền Tôn Giáo, chúng ta đã thấy chán chường trước mắt vì lẽ đó mà vong
phế.
Bần Đạo thuyết, bây giờ Bần Đạo khai rõ cả tâm lý của Bần Đạo rồi cả thảy
con cái Đức Chí Tôn cũng vậy tự mình cung chiêu của mình đi.
Bần Đạo theo Đạo Cao Đài do lẽ này: Kiếp sống của Bần Đạo không có biết tin
gì hết, nhứt là đầu óc chỉ lấy triết lý học thức làm căn bản, không ai nhồi sọ
đặng, nhứt định không để chủ quyền tinh thần mình không bị ai lừa gạt, dầu cho
Bần Đạo đã theo Đạo Thiên Chúa Giáo.
Hồi thuở nhỏ nghe ra bị khó nuôi rồi Ông già Bà già sanh ra mấy người đều
chết hết, đến nóng lạnh cũng chết, đến đỗi thiên hạ sợ, tới phiên tôi Ông già
Bà già bồng đem tôi đến Nhà Thờ Thiên Chúa cho ông Cha, làm con nuôi ông ấy.
Tôi lớn lên đi học trường mà cũng đi theo làm đồng nhi bên Thiên Chúa Giáo
cũng như ai kia vậy; nhưng trước khi đi học Bà già cho vô trường học Nho trước,
học chừng một năm rưỡi rồi cho vô trường Pháp nên không biết thêm gì hết, xét
mình tự nhỏ đến lớn kỳ khôi hơn ai hết.
Cái gì cũng muốn biết mà thôi, cho đến lúc khôn ngoan trí thức cũng vậy, cả
cơ quan của Đời tìm tàng cho thấu đáo mọi điều, tìm cho hiểu, mỗi sự chi cũng
tìm cho biết mà không biết được thì không ăn không ngủ.
Khó lòng lắm, khó lòng quá, khó khăn lắm, vậy phải tìm qua cho đặng hay biết
cho đặng mọi việc ở Đời. Suốt một thời gian, vẫn giục thúc tới chỗ bí mật huyền
vi của Càn Khôn Vũ Trụ, giục thúc Bần Đạo một điều làm cho tinh thần Bần Đạo xốn
xang biết bao.
Bần Đạo thấy chung quanh các bạn đồng sanh của Bần Đạo dầu cho chí thân hay
ngoại tộc cũng vậy họ đương dung rủi trên con đường quanh co khúc khuỷu của Đời.
Bần Đạo cũng sống theo với họ trong con đường dục tấn, con đường ấy tức nhiên
chạy theo quan chức mỗi bước, mỗi ngày tình trạng khổ não, khó khăn lắm, không
biết họ làm cho tinh thần đặng hạnh phúc hay đau khổ! Không thấy hạnh phúc gì hết;
qua mỗi khoảng đường day lụng lại kẻ thương yêu của mình dầu lớn dầu nhỏ họ đã
té quỵ theo dọc đường ấy nghĩa là họ chết.
Những kẻ thương yêu Bần Đạo, Bần Đạo dòm lại một lần nữa họ đều chết hết dầu
chí thân hay ngoại thân cũng vậy. Tức tối thay cho quyền năng vô đối của vô
hình kia tại sao phải từ bỏ? Không sanh sống cho vẹn toàn con người già hay trẻ
đều lần lượt chết hết biết bao nhiêu giọt lệ của Bần Đạo đã khóc với thân già
và biết bao nhiêu giọt thảm của Bần Đạo đã rưới trên thân trẻ. Tình trạng đau
khổ giục thúc Bần Đạo tìm hiểu coi cái phương pháp giải kiết phương pháp giải nạn
coi có nơi nào hay chăng. Thử tự soát mình, tự xét nghĩ mình cũng một mạng sống
cũng như mấy ngàn triệu mạng sống nơi mặt địa cầu này, không kể các Vạn Linh
bao phủ chung quanh họ, thấy họ khổ trong con đường sống ấy lắm.
Có nhiều khi muốn bảo thủ mạng sống họ mà họ phải tận diệt mạng sống khác.
Các mạng sống bị tận diệt thì họ phải chịu đau khổ thống thiết vô ngần vô đối
trường đau khổ ấy trải trước mặt Bần Đạo.
Đối với vạn vật thấy tình trạng mạnh hiếp yếu, dữ ăn hiền, đối với loài người
thì ngó thấy họ không kính nể mạng sống đồng loại đồng chủng với nhau. Một tấn
tuồng bất công trải trước mặt, muốn kiếm phương an ủi thấy mình cũng một kiếp sống
như các người kia vậy.
Mỗi chúng ta kiếm con đường hữu ích, cái hữu ích cho bạn đồng sanh của mình,
hễ thấy mình ăn thì bạn mình mất ăn; mình mặc thì bạn mình mất mặc, tức nhiên
chính mình, mình cũng giành sống với họ. Xét đoán mình không có hữu ích chi đối
với họ cả, mà trái ngược lại mình làm tội ác, mình làm khổ não cho họ mà thôi.
Bởi vì mình giành giựt cái sống họ để bảo thủ cái sống của mình, mình phải
giành cái sống của họ kia kìa thành ra mình không hữu ích gì hết.
Kiếm thế an ủi, có thể nào làm nô lệ cho họ tôi không ăn mà tôi sống không,
nói đến cái đó thì rất khó muốn làm cho đặng trọn trong con đường sống tức
nhiên tôi không thể làm được. Muốn kiếm giải pháp ấy cho được thì tôi gởi cả
tâm hồn tôi vào tay một Đấng vô hình, nương theo cái quyền năng vô hình làm Chúa
của các mạng sống ấy đặng kiếm thế bảo thủ mạng sống của thiên hạ.
Triết lý ấy kiếm coi ở đâu, như bên Phật Giáo biểu vô chùa mà tu, tụng kinh
gõ mõ đặng ăn mà sống, sống riêng cho cá nhân, như vậy thì còn tội ác hơn hết
thảy bởi vì biểu họ bố thí cho mình ăn để mình sống còn họ thì thiếu sống. Các
nơi khác nữa, ngồi đó duy chủ cái quyền sống như các nền Tôn Giáo khác họ giành
cái sống ấy còn mạnh mẽ hơn các thứ quyền giành sống khác nữa. Nếu tới một vài
cửa khác họ lại giành sống xảo trá còn tồi tệ hơn nữa. Kiếm phương thế giúp sống
cho đồng sanh mà kiếm không ra.
May thay trong buổi khuẩn bách tinh thần ấy, có Đấng quyền linh đem lại với
một phương pháp vô hình, không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà làm
cho chúng ta nghe là Đức Cao Đài Thượng Đế, nhờ đó mà Bần Đạo khỏi đi đâu hết.
Nếu không có Đấng ấy thì có lẽ Bần Đạo điên đi mà chớ, điên vì cái khổ não của
Đời, điên vì gớm ghiết cái cơ quan tranh sống của nó.
Ban sơ Bần Đạo chưa biết Ổng mà Ổng cho Bần Đạo làm Hộ Pháp. Bần Đạo không
biết gì hết, Bần Đạo nhắm mắt Bần Đạo theo.
Tại sao Đấng ấy làm thiên hạ nghe, thiên hạ theo, chính mình cũng vậy. Lý lẽ
của Ổng, Ổng đem đến cho thấy rằng: giúp sống chớ không phải giành sống, các bạn
của mình họ đua họ theo, em út của mình dĩ chí cho đến bạn đồng niên mình họ
đùa họ theo họ nghĩ rằng tôi gởi tâm hồn tôi cho Ổng, một mình tôi, tôi thấy rằng
không đủ, Đấng tạo Đạo không phải gọi một mình tôi mà chính gom góp đại đa số
tâm hồn như tôi và có thể đem gởi cả đôi triệu tâm hồn khác nữa vì vậy tôi có
thể theo Đấng này được, Đấng đó tôi nên theo, theo có hai lẽ.
1 - Về phần Đời tôi khỏi cái bệnh đau thảm của tôi.
2 - Về phần Đạo tôi khỏi côi cút lẻ loi.
Tôi có một đám người biết tình ái vô hạn của tôi, có một đám người cùng tôi
gánh khổ của đời tức nhiên họ chịu nhiều khổ đặng họ giải khổ cho thiên hạ.
Nói đó là nói của tôi, để tâm hồn theo Ổng về mặt Đời và về mặt Đạo mà
thôi, tôi chỉ
nghĩ có bao nhiêu ngoài ra tôi không biết gì nữa.
Bây giờ Đạo Cao Đài không biết chánh hay là tà, tôi chỉ biết Đấng ấy có thể
gom góp đôi triệu tâm hồn vào tay Đấng ấy là Đấng Chí Linh.
Bây giờ tôi không tin Đấng ấy nữa mà tôi chỉ tin một điều là ngày giờ nào
cái linh hồn tôi thoát xác ra đi bỏ cái địa hoàn này, tôi sẽ gặp các bạn chí
thân từ trước của tôi, Tổ phụ Ông Bà của tôi. Tôi không biết cảnh hư linh như
thế nào mà nếu tôi gặp được họ thì tôi mới chắc.
Ngày giờ nào tôi về cảnh Thiêng Liêng kia, quả nhiên linh hồn tôi còn tồn tại
chớ không phải tiêu diệt như nhiều triết lý vô thần, nhiều nhà duy vật đã thuyết
nơi mặt địa cầu này.
Giờ phút nào tôi thoát xác tôi về với hư linh mà tôi được một vài triệu
linh hồn về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống thì tôi không còn hạnh phúc nào hơn chỗ
đó nữa. Tôi không biết giá trị, không biết quyền năng ra sao, nhưng tôi ngó thấy
Ổng có thể làm cho tôi làm bạn với cả trăm cả triệu chơn linh trên cõi Thiêng
Liêng Hằng Sống, vì cớ cho nên tôi phải vào Đạo Cao Đài đặng tôi phụng sự cho Ổng
tức nhiên tôi phụng sự cho con cái của Ổng. Tôi nghĩ có bao nhiêu đó mà tôi
theo cho đến ngày nay. Tôi đứng giữa Tòa Giảng này để ngửa cái triết lý ấy đặng
cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn rõ biết đặng suy xét.
Đó tôi lấy chìa khóa mở tinh thần của tôi rồi đó còn mấy bạn lấy chìa khóa
mở tinh thần mấy bạn đi rồi tôi tiếp tục giảng Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo Cao
Đài”.
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 05
Năm Kỷ Sửu (dl 25-06-1949)
IX - Thể Pháp Thiên Đạo của
Cao Đài:
“Đêm nay Bần Đạo thuyết Thể Pháp
Thiên Đạo Cao Đài. Kỳ trước
Bần Đạo và toàn con cái của Đức Chí Tôn đã rủ nhau tự soát cái kiếp sống
của mình đặng thấu đáo hành tàng cả chơn tướng của mình, phải thế nào đối với
Càn Khôn Vũ Trụ, đối với kiếp sống.
Tưởng cả mỗi người chúng ta đều có trí định cái nguyên do căn bản của sự sống
mình, cũng như Bần Đạo đã tự soát nơi giảng đài này bữa hôm trước đó vậy.
Chúng ta đã thấu đáo cả chơn truyền của Đức Chí Tôn các huyền vi bí mật cơ
tạo đoan Càn Khôn Vũ Trụ, nó có ba điều trọng yếu là:
1 - Cái kiếp sanh của ta theo như chơn truyền Đức Chí Tôn các chơn linh đến
tại mặt thế này hay là các địa giới trong Càn Khôn Vũ Trụ, cốt để trả quả kiếp
của mình, hoặc mình đã tạo căn quả, vì trong con đường tấn hóa chơn linh của
mình không đủ mực thước để điều khiển khối nguơn linh yếu ớt, không đủ quyền
duy chủ mà phải phạm thêm tội tình oan nghiệt.
2 - Đến đặng tìm tàng cái học lực của mình, học lực của mình là điều mình
muốn biết cả kiếp căn của mình nếu không biết cũng đeo đuổi theo, tìm tàng theo
cho biết cả cơ quan bí mật tạo đoan.
3 - Là đến lập vị cao thăng hơn nữa tức nhiên theo cơ tạo đoan Càn Khôn Vũ
Trụ về hữu hình cốt yếu để giúp cho các chơn linh tấn triển trên con đường
Thiêng Liêng Hằng Sống.
Bần Đạo có cho toàn thể chúng ta thấy căn sống của mình chẳng phải nơi trái
địa cầu 68 này mà thôi, mà các mặt địa cầu khác trong Càn Khôn Vũ Trụ cũng đều
một khuôn luật ấy.
Có nhiều trái địa cầu tấn triển cao hơn khuôn khổ kiếp sống của con người,
có thể giảm bớt tội nhưng khuôn luật vẫn một mà thôi không có chi sửa đổi.
Chúng ta đã thấy mình sống, kiếp sống của mình như thế; Bần Đạo đã cho toàn
thể con cái của Đức Chí Tôn tự soát mình lại không có hạnh phúc chút nào hết.
Thật sự ra đề mục chúng ta phải đi trong khóa học này của Đức Chí Tôn, đến đặng
mở khoa mục cho nhơn loại buổi này. Hay là mỗi lần các Đấng Chơn linh cao siêu
hơn nữa đến tạo Đạo, cốt yếu đến mở khoa mục cho các chơn linh thì khi chúng ta
đã ngó thấy khóa này là khóa đầu tiên hết thảy trong đề mục.
Khóa ấy riêng từ mức, mới khởi mức số một, chơn linh kia trong vật loại dĩ
chí đến Phật vị đề mục ấy chưa có vị Phật nào đoạt vị dầu cao siêu đi nữa cũng
chưa giải quyết được. Chính mình các vị trong các vị Chí Linh hằng sống chỉ có
một Đấng giải quyết đặng đề mục "khổ sanh" của chúng ta tấn triển là
duy có Đức Chí Tôn mà thôi. Ngoài ra nữa không có vị Phật nào giải quyết đặng.
Đức Phật Thích Ca lập vị cầm quyền Chưởng giáo nơi Cực Lạc Thế Giái, chính
mình Ngài đem thuyết Tứ Khổ mà thôi, chính mình Ngài cũng không giải quyết được,
chính mình Ngài không duy chủ cái khổ ấy đặng. Ấy vậy, đề mục khổ là Khổ sanh,
trước là Khổ sanh, rồi tới Lão, Bịnh, Tử. Sanh trước là sanh sống, sống là khổ,
hễ cái pháp luật nào làm giảm khổ của chúng sanh nó là chơn, cái pháp luật nào
nó làm cho thống khổ chúng sanh là giả. Pháp luật Đạo Giáo nào mà không hữu ích
gì cho cái khổ sanh của chúng ta thì không có giá trị gì hết.
Chúng ta quan sát coi các nền Tôn Giáo đã có phương giải khổ cho chúng sanh
hay chăng?
Tại sao chơn, tại sao giả, chính mình Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng
cũng như chúng ta thấy các cơ quan trong Càn Khôn Vũ Trụ cốt yếu là phải phụng
sự cho nhơn loại, cho Vạn Linh.
Trái lại họ không phụng sự cho Vạn Linh mà lợi dụng Vạn Linh chớ không phải
làm tôi tớ cho Vạn Linh. Hễ lợi dụng là không phải phương pháp giải khổ tức
nhiên là giả pháp.
Quan sát lụng lại các nền Tôn Giáo hết, chúng ta thấy không có phương pháp
để giải khổ chúng sanh, bất quá là một lý thuyết mơ mộng mà thôi.
Giải khổ cái sống cái đã:
Chúng ta thấy các nền Tôn Giáo đương nhiên bây giờ có nền Tôn Giáo nào phụng
sự cho chúng sanh không? Có nền Tôn Giáo nào làm tôi tớ cho chúng sanh đặng giải
khổ cho chúng sanh hay chăng? Quan sát coi. Chưa có!
Chúng ta ngó thấy chúng ta có một điều tức cười hơn hết là họ ngồi gõ mõ
đánh chuông mà họ nói giải khổ cho chúng sanh.
Sanh trước cái đã, là mực thước đi từ khuôn khổ của nó nếu nói phi lý không
quan sát được, không thể công nhận được, nhưng đương nhiên chúng ta đã thấy gì?
Bần Đạo đã thuyết kỳ rồi cái pháp luật của thiên hạ là họ đã xu hướng theo
"Tứ Diệu Đề" của Đức Phật Thích Ca, họ giong ruổi theo Tứ Diệu Đề để
giải khổ cho chúng sanh là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Họ thi hành trong khuôn khổ
quyền pháp của họ mà thôi.
1 - Sanh, họ lập nhà Bảo Sanh đặng giải khổ cho sự sống.
2 - Lão, họ lập ra cơ quan Dưỡng Lão để nuôi kẻ già, kẻ yếu.
3 - Bịnh, họ lập ra nhà thương khắp nơi cả thảy trên mặt địa cầu này biết
bao nhiêu nhà thương để chữa bịnh cho đời.
4 - Tử, họ cũng làm âm công, cũng bố thí, cũng làm phước vậy, nhưng có một
điều là họ bố thí chớ không phải phụng sự. Họ lấy của người này đem cho người
kia chớ không phải phụng sự cho nhơn loại.
Còn Đạo Cao Đài Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta làm gì? Biểu chúng ta dùng cả
xác thịt, trí não, tâm hồn, làm Thánh Thể cho Ổng, làm đầy tớ cho cả con cái của
Ổng, đó mới là thuyết giải khổ vậy.
Chính mình Bần Đạo cầm quyền Hội Thánh đem vào khuôn khổ luật pháp ấy thế
nào?
Buổi ban sơ Bần Đạo lấy cả pháp luật làm chuẩn thằng, chỉnh đốn cả cơ quan
chánh trị của đời là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Bần Đạo lập nhà thương, nhà Dưỡng lão,
nhà Bảo sanh là cốt yếu chỉnh đốn thân sống trong khuôn khổ mực thước, tức
nhiên họ giúp cho nhau trong khuôn khổ đạo đức. Tức nhiên họ có cả cơ quan làm
cho buổi thống khổ loạn lạc phải tiêu hủy.
Cơ quan Đạo Cao Đài cốt yếu chỉnh đốn nhơn quần xã hội tăng tiến trong
khuôn khổ nhơn luân, nhơn đạo để trong tâm não họ đặng họ tương trợ nhau họ xúm
nhau trong một nhà để giúp nhau về mặt tinh thần.
Bây giờ Bịnh, Tử cũng thế, về mặt xác thịt chuyển cả cơ quan Thế Đạo, cốt yếu
để giải khổ chúng sanh về sự sống đối với Sanh, Lão thì chúng ta đã lập thành đại
gia đình; như thân này khi già rồi còn em, còn bạn, còn con, còn cháu, một đại
gia đình càng ngày càng lớn hơn nữa. Giờ phút này có hai triệu người chứ không
phải như trong buổi tạo Đạo chúng ta dầu sống đi nữa cũng không phải cô độc mà
khi chúng ta phụng sự trong Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên phụng sự cho Ngài,
tuổi già chớ tinh thần không già, không buổi nào chúng ta già hơn Đức Chí Tôn,
nhỏ làm tôi mọi cho nhỏ, lớn làm tôi mọi cho lớn, già làm tôi mọi cho già.
Không buổi nào thấy cái già cái khổ cho chúng ta tức nhiên giải khổ rồi đó
vậy.
Sanh, Lão không phải khổ chúng ta, mà nó là một cơ quan giúp cho đời được lịch
duyệt. Bịnh, Tử không phải khổ của chúng ta, mà nó là cơ quan giúp ta đoạt
Thiêng liêng vị. Bịnh, Tử, bịnh chúng ta là gì chúng ta bịnh, tại số chết của
chúng ta, tại khối sanh quang của ta hết lực mà thôi.
Kiếp sanh này làm tôi mọi cho người, dầu cho có bỏ xác hay chết là cùng. Mạng
sống kiếp sanh của mình do quyền Đức Chí Tôn định liệu, thì sợ gì cái chết,
trái ngược lại thiên hạ sợ chết là khổ mới chết, còn chúng ta không sợ chết vì
chết là cơ quan giải thoát đó vậy.
Giờ phút này người tu là đem thân làm nô lệ cho nhơn loại, rồi có vui sướng
gì với kiếp sanh mà cần sống, giá trị cái sống của ta khác hẳn hơn thiên hạ tưởng
tượng, mà tưởng tượng cái chết của ta là buổi nghỉ ngơi, buổi hết cực, cái chết
ấy chẳng phải do mình mà do nơi Đức Chí Tôn định là tới buổi Đức Chí Tôn nói
các con đã làm xong phận sự Thầy cho con về.
Giờ phút này chúng ta đương ở Đền Thánh của Ngài đây, đương phụng sự cho
Ngài đây, thì cái sống chết của chúng ta không còn giá trị gì đối với chúng ta
nữa, và trong Tứ Khổ không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy "Tứ
Diệu Đề" tức nhiên bài học, bài thi, của đề mục khổ, duy có Đạo Cao Đài giải
quyết nó, đánh mất nó, làm cho nó không còn giá trị chi nữa, tức nhiên chính
mình và toàn cả con cái của Đức Chí Tôn hay tương lai tôi nữa cũng vậy.
Chúng ta trọn hiến thân làm Thánh Thể cho Ngài mà ta sống cho mình chớ
không phải sống cho Ngài là không đúng, sống không phải sống cho mình mà chính
là sống cho Ngài vì chính mình đem trọn cái sống ấy dưng nạp cho Ngài, mà tưởng
tượng ta khổ thì tức nhiên Đức Chí Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà lại sống
vinh diệu quá, ta lại gặp thời kỳ này may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường,
sống về Thánh chất, sống về Thiêng Liêng, sống về Càn Khôn Vũ Trụ, sống về Trời
Đất, sống dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.
Ấy vậy Chơn Pháp thuộc về Thể Pháp của Thiên Đạo Cao Đài ngày nay có lẽ phù
hạp với tinh thần nhơn loại hơn các nền Tôn Giáo khác, có lẽ, nhưng chúng ta đừng
ỷ mình.
Mỗi ngày thường tự hỏi mình coi làm vừa sức của ta chưa? Làm vừa sức của Đức
Chí Tôn biểu mình làm hay chưa? Sống của mình có vừa với cái sống của Đức Chí
Tôn hay chưa? Nếu chúng ta đủ tinh thần, đủ trí não và đủ năng lực để thay thế
cái sống của Đức Chí Tôn thì “Tứ Diệu Đề” của Đức Phật Thích Ca để tại mặt thế
gian này không có nghĩa lý gì và giá trị gì đối với chúng ta hết.
Thể Pháp của Đạo Cao Đài chủ về sống mà đánh tiêu cả sự khổ tức nhiên đánh
tiêu cả Thể Pháp. Thể Pháp đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí Pháp được.”
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 04 tháng 06 Kỷ Sửu
(29-06-1949)
X - Bí Pháp có liên quan đến Thể Pháp
“Đêm nay Bần Đạo thuyết Bí-pháp có
liên quan đến Thể pháp, nói rõ là cái luật Đạo có liên quan đến luật Đời đó vậy.
Vả chăng chúng ta đã ngó thấy cái cơ quan Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ là cơ
quan Đức Chí Tôn để phụng sự cho Vạn Linh, cái chơn pháp nó vẫn vậy.
Bần Đạo có thuyết về thuyết ấy, Bần Đạo nói đất phải hy sinh đặng phụng sự
cho cây, tức nhiên là thảo mộc. Cây phải hy sinh đặng phụng sự cho thú, tức
nhiên nó phải hy sinh đặng nuôi thú, mà loài người đứng đầu trong loài thú chớ
không có chi khác nữa.
Vì cớ cho nên cổ luật lại buộc thú phải hy sinh phụng sự cho người, phụng sự
không đi quá sức, hy sinh đặng nuôi loài người. Bởi vì lẽ lầm hiểu về chơn pháp
ấy mà nhơn sanh đã thực nhục (ăn thịt).
Giờ tới một mức nữa, người phải hy sinh đặng phụng sự cho Trời. Chắc là cả
thảy đều nhớ cổ luật của Thượng Cổ khi tế Trời họ đem người ra họ giết, rồi họ
thiêu như con thú kia vậy. Con người có luật ấy một thời hạn cũng khá lâu. Khi
dùng người làm tế vật đặng hiến cho Đức Chí Tôn nếu Bần Đạo hiểu theo các Đạo Sử
thì đã có gần 40.000 năm về pháp luật ấy, thử nghĩ coi các nhơn mạng buổi nọ đã
đem làm con vật hiến cho Đức Chí Tôn nhiều lắm rồi vậy. Mới đây chừng lối 6.000
năm đời của Jacob trước 6.000 năm, theo Đạo Luật của Hébreu tức nhiên luật của
Do Thái phải giết vật để tế Đức Chúa Trời, luật đó tới nay có lẽ vẫn còn đó vậy.
Đức Chí Tôn có đòi hỏi chăng? Không, tôi dám chắc không, vì chính mình Ngài
tạo cho Vạn Linh, chính mình Ngài làm tôi tớ cho Vạn Linh và phụng sự cho Vạn
Linh, có lẽ đâu Ngài đòi nhơn loại phải làm con tế vật tế cho Ngài.
Bao giờ chúng ta cũng thấy luật phụng sự cho Vạn Linh đi từ vật loại đến
nhơn loại.
Chúng ta thấy việc của con ong, con mối, con ong chúa thật sự ra phụng sự đầy
dẫy hơn hết, đứng đầu hơn hết, vì làm chúa nên phải có nhiều phụng sự, nó phải
chịu sanh sản, làm giống nòi nó sanh sản mãi mà thôi.
Cũng như Thượng cổ trước lối 150.000 năm và trước nữa thì loài người cũng vậy.
Đạo Pháp trong Phật Giáo để lụng lại các Đấng duy chủ của các sắc dân, chủng tộc
do tiếng Phạn gọi là "Ma Nu" cũng một kiểu vở con ong, con mối. Con mối
chúa phụng sự cho cả một ổ mối hơn ai hết, bởi vì chính mình con mối chúa đã sản
xuất chủng tộc của loài mối.
Chúng ta thấy lụng lại một triều chính của xã hội nhơn quần đã lập quốc, tức
nhiên lập một nền chánh trị tương liên, một quốc gia vô trong một khuôn khổ của
một quốc thể, một văn hiến đều chịu một luật pháp ấy, mà luật pháp ấy muốn thi
hành thì phải có triều chính. Thật sự ra triều chính nhà Vua phải phụng sự cho
quần linh, tức nhiên phụng sự cho lê dân. Một mình Ổng phụng sự cho toàn thể lê
dân không thể được nên phải lập triều chính, từ Tể Tướng, dĩ chí cho tới bực hạ
quan. Chánh trị một quốc gia là thay thế hình ảnh cho Vua đặng phụng sự cho lê
dân mà thôi.
Chúng ta ngó thấy trong vật loại như con mối chúa, con ong chúa cũng làm
chúa, cũng phụng sự, trong phụng sự kia cũng lập một triều chính đặng có phương
pháp phụng sự cho nó. Nhà Vua cũng vậy, lập triều chính đặng biến thân cho muôn
ngàn triệu, đặng phụng sự cho toàn thể lê dân. Mối chúa cũng vậy.
Bây giờ Đức Chí Tôn Ngài phụng sự cho Vạn Linh toàn cả trong Càn Khôn Vũ Trụ,
Ngài đã dùng cái gì? Ngài dùng phương pháp phụng sự Vạn Linh là lấy Đời, lấy Vạn
Linh phụng sự cho Vạn Linh. Chúng ta ngó thấy Đức Chí Tôn nuôi cây, nuôi thú,
thú để phụng sự cho người. Ngài dùng căn bản đó để phụng sự cho Đời, cũng như
nhà Vua dùng lê dân lập triều chính đặng phụng sự cho lê dân.
Đức Chí Tôn ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng sự cho cả toàn nhơn sanh mặt
địa cầu 68 này, Ngài phải làm thế nào? Ngài cũng phải mượn loài người phụng sự
cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng làm Thánh Thể cho Ngài là lập triều
chính của Ngài.
Chúng ta ngó thấy Đức Chí Tôn đến lập Đạo, lập Đạo phải lập Hội Thánh đặng
phụng sự cho Vạn Linh trên mặt địa cầu 68 này. Chúng ta ngó thấy cái quyền rồi,
ban cho cái quyền luật định phụng sự, vì phụng sự ấy mới làm chúa như con ong
kia, con mối kia vì phụng sự mới làm chúa. Ông Vua cũng vì phụng sự cho dân mới
làm Vua, bây giờ Đức Chí Tôn vì phụng sự cho Vạn Linh mới làm Trời.
Ngài phải lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập Thánh Thể của Ngài. Triều chính
tức nhiên Thánh Thể của Ngài chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội Thánh cầm quyền
thống trị đặng phụng sự cho Vạn Linh, Ngài phải lập triều chính, triều chính là
ngôi Thần, Tiên, Thánh, Phật đó vậy. Ngài lập Thánh Thể cũng như thế ấy; vì cớ
cho nên chúng ta ngó thấy Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Hội Thánh có đủ các
phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế này.
Không có cái chi mà chúng ta cầu muốn hay là dùng công nghiệp mà Người
không trả không bồi thường, vì Ngài đã mượn chúng ta làm Thánh Thể cho Ngài đặng
Ngài phụng sự cho Vạn Linh thì Ngài phải trả, phải bồi thường, nếu muốn cho người
ta theo thì phải lập vị cho họ, thì họ mới theo.
Đức Chí Tôn Ngài đến ký hòa ước với loài người nhứt là dân tộc Việt Nam trước
cái đã, mấy người làm Thánh Thể cho tôi, đặng tôi phụng sự cho Vạn Linh, thì
tôi sẽ lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật lại cho mấy người. Nếu các người chịu thì
ký hòa ước với tôi, hể các người làm tôi cho con cái của tôi cho vừa sức của
tôi muốn, hay vừa ý của tôi định thì tôi sẽ trả lụng lại là lập ngôi vị cho mấy
người trong Thánh Thể ấy, tôi đã định phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập
vị sẵn cho mấy người, mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi
vô hình tôi không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi mấy người phụng sự
cho Vạn Linh tại mặt thế này nữa là khác”.
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 08 tháng 06 năm Kỷ Sửu ( dl 03-07-1949)
XI - Bí pháp chơn truyền của
Đạo tương liên
Thể pháp của Đạo thế nào ?
“Đêm nay trước khi Bần Đạo thuyết Bí Pháp chơn truyền của Đạo, tương liên
Thể Pháp của Đạo thế nào? Trước khi thuyết Bần Đạo nhắc lại nữa, nhắc một điều
cần yếu cho cả thảy đều nhớ, nhớ để đi theo.
Trước khi trong tinh thần đạo đức kia chỉ dẫn chơn pháp Càn Khôn Vũ Trụ cốt
định cho loài người có hiện diện tại nơi thế này đặng phụng sự cho Vạn Linh, mà
cũng là dẫn đạo cho Vạn Linh.
Phụng sự đặng dẫn đạo cho Vạn Linh, ấy vậy chơn pháp có ảnh hưởng là quyết
định thiệt phận của loài người là phải phụng sự mà thôi. Hễ không phụng sự tức
nhiên là vô đạo, mà vô đạo thì không thể gì đoạt được cơ giải thoát hết.
Bần Đạo đã chỉ rõ tương quan của luật pháp Đời cốt yếu nương theo “Tứ Diệu
Đề” tức nhiên Tứ Khổ, đặng rồi thiên hạ dầu quốc gia xã hội nào cũng kiếm phương
bợ đỡ tinh thần loài người hay là toàn dân trong nước đặng lập vị của mình.
Thật sự ra, nói rằng: Họ đã tạo dựng Đạo Giáo đặng phụng sự cho dân nhưng
thực sự đi trong đường nào? Lấy tinh thần cứu khổ của Đạo Giáo mà kỳ trung họ
không phụng sự quốc dân, chỉ tạo quyền cho họ mà thôi, tức nhiên họ không phải
vì sở định cứu khổ mà đến để lập quyền cho vững chắc. Nhưng Đạo Giáo chúng ta
thì khác.
Đạo Giáo chúng ta buộc phải định phận mình là giải khổ, tức nhiên phải làm
thế nào cứu vớt quần linh cho khỏi “Tứ Diệu Đề” tức nhiên Tứ Khổ của kiếp sanh
đó vậy.
Hai cái tinh thần ấy dầu trong hành tàng cũng vậy, vẫn khác hẳn với nhau vì
cớ cho nên Đạo với Đời không có bao giờ tương đắc với nhau đặng. Bần Đạo nói Đạo
không phải giành quyền, mà chỉ tạo Đạo đặng định phận mà thôi.
Bên kia họ cho rằng: Đạo giành quyền của họ, trái hẳn chúng ta vẫn thường
thấy, chính mình Đức Phật Thích Ca đến khi Ngài có quyền, chính cha của Ngài
còn tranh giành cái quyền ấy. Về quyền hành có điều khó giải quyết hơn hết là:
Cả tinh thần chúng sanh, cả thảy đều biết rằng Đạo phải phụng sự cho nhơn loại,
vì đấy mà bên Đời dầu thế nào đi nữa bất quá là lòe con mắt đặng cho người ta
theo, chớ không phải như bên Đạo phải phụng sự.
Bởi cớ cho nên mới dục ra tấn tuồng giành quyền với nhau là vì chỗ đó.
À, bây giờ Bần Đạo nói rõ phải ra phụng sự đặng giải khổ tức nhiên giải quyết
"Tứ Diệu Đề" của Đức Phật Thích Ca đã để nơi mặt địa cầu này.
Bần Đạo thuyết cả Bí Pháp Đạo Giáo có liên quan mật thiết với Thể Pháp rồi
cả thảy đều nghĩ từ thử đến giờ, Bần Đạo buộc phải đi cúng, phải hành đạo là thế
nào, không phải buộc mấy người mà Bần Đạo hưởng một quyền lợi gì riêng hết, mấy
người suy đoán chơn pháp rồi mấy người mới biết. Bần Đạo vì phận sự muốn cho
con cái của Đức Chí Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi.
Vả chăng trong chơn pháp con người nơi mặt thế này có ba điều:
1 - Hoặc là phải trả quả kiếp xuống tại mặt địa cầu này để trả.
2 - Hoặc muốn học hỏi thêm, muốn tấn hóa tới nữa, về phương lược địa vị
tinh thần của mình còn thiếu kém, học thì đến mặt địa cầu này đặng học.
3 - Các vị đã được địa vị cao siêu nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, đến mặt
địa cầu này đặng lập vị mình thêm cho đặng cao trọng.
Ba điều ấy muốn đoạt được thì phải phụng sự Vạn Linh mới được. Bần Đạo thuyết
tới con cái của Đức Chí Tôn sẽ ngó thấy Đức Chí Tôn không dùng quyền Chí Tôn của
Ngài, Ngài đến đặng lập quyền cho con cái của Ngài mà thôi, không phải đến đặng
lập quyền hành hoặc bảo vệ con cái của Ngài, Ngài không thế gì để cho con cái Đức
Chí Tôn lạm quyền đặng.
Cơ quan giải thoát là phụng sự, dầu cho quả kiếp mà đến cũng vậy, dầu cho
vì học hỏi mà đến cũng vậy, dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng ta phải phụng
sự cho Vạn Linh mới được, trong phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả
kiếp nơi nào, người nào, nhưng nhờ phụng sự ấy mà mình gặp được người mình muốn
trả nợ tiền khiên, biết đâu nhờ hồng ân Đức Chí Tôn định cho mình gặp đúng người
để đặng trả, tóm lại cũng phải phụng sự mới có.
Bây giờ về học hỏi
thì chúng ta muốn gì? Muốn biết mọi
điều về huyền vi cơ tạo, muốn biết cho đặng thì phải phụng sự cho Vạn Linh mà
thôi, rồi trong phụng sự ấy nó sẽ chỉ điều cho chúng ta muốn biết mà lập vị, và
có gì hơn thay thế cho Đức Chí Tôn mà phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thể
gì ai chối cãi được.
Muốn làm cho đặng như Đức Chí Tôn đã làm ta phải làm gì? Ngài biểu chúng ta
hiến ba món báu trong mình chúng ta là Tam Bửu.
1 . Xác thịt
2 . Trí não
3 . Linh hồn
Tức nhiên thân thể và phàm thể của chúng ta Đức Chí Tôn biểu ta hiến cho
Ngài đặng Ngài phụng sự cho Vạn Linh.
Chúng ta thấy gì? Mỗi ngày ta kêu Đức Chí Tôn làm chứng, kêu Tam Giáo làm
chứng, giờ phút này con nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con
cho Thầy đặng Thầy làm lợi khí mà phụng sự cho Vạn linh. Hễ dâng rồi còn gì của
mình nữa, có trả nợ tiền khiên chớ không có tạo nữa, nếu có tạo mà giờ phút này
mình đến Đền Thánh này đây, ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn đứng trong phần tử
Thánh Thể của Ngài tình cờ mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì
thân thể mình không biết duy chủ nữa mà chính Đức Chí Tôn duy chủ, vì mình giao
cả thân thể mình nơi tay Đức Chí Tôn thì mình không còn biết gì nữa.
Ngày kia mình có thể nói mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao cả
trong tay Đại Từ Phụ, quyền hạn xử định
do nơi tay Thầy chớ con không biết.
Mình giao cả hình hài đó cho Ngài sử dụng, nếu sự thật có gì không hay xảy
tới cho mình, mình không hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức Chí Tôn đặng
Đức Chí Tôn phụng sự cho Vạn Linh, quyền xử định ấy do Đức Chí Tôn quyết định,
mình đừng làm trái với mặt luật của Ngài định.
Ấy vậy, mỗi ngày từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya tới
sáng, mình vô Đền Thánh kêu Đức Chí Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng liêng
mà phân chứng trước. Thân tôi không còn của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức Chí
Tôn làm tôi tớ cho Vạn Linh thay thế cho Đức Chí Tôn, giờ phút đó chúng ta
không biết tội nào chúng ta đã làm, dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì
thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt không thể
gì định tội được. Đức Chí Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta, mà chúng ta
không phải là chúng ta, thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta tức nhiên ta
đã đoạt cơ giải thoát, quyền ấy chính của ta chớ không phải của Đức Chí Tôn. Lấy
quyền của ta mà cho ta, mình đã định quyền cho mình, chớ không phải Ngài định,
Ngài định cho có quyền giải thoát, quyền Thiêng Liêng không có tạo, chính ta tạo
quyền giải thoát đó do nơi ta mà thôi.”
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 11 tháng 06 năm Kỷ Sửu (Dl 06-07-1949)
XII - Sự liên quan Thể
Pháp và Bí Pháp của Đạo.
“Đêm nay Bần Đạo giảng tiếp sự liên
quan Thể Pháp và Bí Pháp của Đạo.
Trước khi Bần Đạo giảng tại sao Đức Chí Tôn lập hình thể hữu hình đặng Ngài
tạo Đạo.
Đêm nay Bần Đạo giảng đặng cho cả thảy đều hiểu rõ Thánh Thể là gì? Tại sao
lấy Tam Bửu ấy là trong người của ta để làm Thánh Thể, cả thảy Tam bửu là có một,
mà một do ba người hiệp nhứt, cũng như Càn Khôn Vũ Trụ sản xuất ba quyền Phật,
Pháp, Tăng trong đó có ba người, nhưng trong ba người chỉ có một là Đức Chí Tôn
mà thôi.
- Người thứ nhứt là ta hay là thể chất tức nhiên thân thể của ta đây.
- Người thứ nhì là chơn thần tức là trí não của ta hay là pháp thân, pháp
thân ấy do nơi Kim Bàn phát hiện, tức nhiên do nơi Phật Mẫu sanh đẻ ra đó vậy.
- Người thứ ba là chơn linh tức linh hồn của ta hay linh thể của chúng ta
do nơi Đức Chí Tôn sản xuất, ba món ấy hiệp lại mới thành người. Linh thể của
chúng ta từ trước Đạo Giáo của nhà Phật do Ấn Độ sản xuất, tức nhiên Đức Phật
Thích Ca đã minh tả thể chất có ba người. Ngài gọi nguyên chất là (Égo) người
thiệt của chúng ta, tới chừng đem qua Bắc Tông rồi, tức nhiên họ qua Nho Giáo.
Nho Giáo không có tên mới đặt linh thể ấy là Tâm, lấy Tâm đặt tên chơn thể, chữ
Tâm ấy do tướng hình Thiên Lương vi bổn.
Một vật hễ sản xuất tại mặt địa cầu này đứng trong khuôn khổ Đạo Giáo tức
nhiên Thiên Lương của mình, Thiên Lương ấy không tướng hình nên để chữ Tâm. Ấy
vậy, chữ Tâm ở bên Bắc Tông Phật Giáo tả hình Linh Thể của chúng ta đó vậy, tức
nhiên tả hình chơn linh của chúng ta, do nơi Đức Chí Tôn sản xuất. Ấy vậy, ba
người trong thân thể chúng ta đang gánh chịu đó, khi được hình rồi, có hiện tượng
tại mặt thế này rồi thì chúng ta ngó thấy chúng ta có ba mối nợ.
Mối nợ của cha mẹ thân sanh ra ta, sản xuất ra ta, là mối nợ trước phải trả.
Nếu khi ta đoạt kiếp được, lập vị Thiêng liêng của mình đặng vô cửa Thiêng
Liêng Hằng Sống mà đàng sau lưng của mình có mang ba mối nợ thì vô cửa ai cho,
phải trả cho rồi mới vô đặng.
Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn biểu mình phụng sự cho Vạn Linh, đặng trả nợ thi
hài của mình, tức nhiên trả nợ máu thịt của mình, nợ ấy ta nhận là công chánh
hay oan khúc cho ta? Thì chúng ta ngó thấy nó rất công chánh, một giọt máu, một
điểm tinh của chúng ta thọ nơi phụ mẫu chúng ta, rồi cha mẹ của ta đã thọ của
người trên trước nữa, cũng một giọt máu, cũng một điểm tinh mà tạo nên thi hài.
Cha mẹ đã thọ nơi Ông Bà Tổ Phụ của chúng ta, rồi giọt máu, điểm tinh ấy truyền
thống cho chúng ta, ta phải chịu khi ấy phải trả, mà trả thì phải khổ cho ta lắm,
nếu chạy thì cha mẹ chúng ta phải trả.
Rồi khi cha mẹ sanh ra ta, ta phải nhờ ai mà sống, nhờ ai mà nên người, nhờ
ai mà có. Chúng ta sản xuất tại mặt thế gian này tức nhiên nhờ xã hội nhơn quần,
nhờ ăn mới sống, thi hài thân thể mới giữ đặng giọt máu, điểm tinh, để truyền
thống? Trả đủ nợ ấy cho xã hội nhơn quần mới về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống được.
Quả nhiên chúng ta thiếu nợ hay là Tổ Phụ Ông Bà chúng ta thiếu nợ nên chúng ta
phải trả, muốn trả phải phụng sự cho xã hội nhơn quần. Đức Chí Tôn coi trọng hệ
nhứt, nên Ngài mới lập trường công quả này đây. Chỉ có làm công quả nơi của Đạo
Cao Đài này mới trả hết số nợ đó mà thôi.
Tiếp sau đây Bần Đạo sẽ giảng tại sao có mở trường công quả trong thời buổi
này? Ấy là nơi để chúng ta tạo công, rồi lấy công trả nợ máu thịt mà trả nợ máu
thịt tức trả cho xã hội nhơn quần đó vậy.
Phụng thờ Tổ Tiên Ông Bà và song thân đó, do đạo Nhơn luân vi bổn. Mang nợ
máu thịt ấy phải trả tức nhiên làm công quả để lấy công quả trả nợ máu thịt đó
vậy.
Xã hội chúng
ta vẫn thấy từ thử đến giờ, chúng sanh vẫn chạy nợ, dầu muốn
dầu không họ vẫn trốn nợ bất kỳ là nợ gì? Cho nên Đức Chí Tôn vi chứng rằng:
Bây phải trả nợ mà bây đã vay từ trước. Ngài truyền tức nhiên Ngài truyền cho xã
hội nhơn quần, vì trong Thiên tánh của Ngài định cho chúng ta trả nợ, mà muốn
cho ta dễ trả nợ, Ngài bảo chúng ta phải làm thế nào? Chúng ta duy có phụng sự
mà thôi. Vì cớ cho nên Ngài lập Đạo là vậy.
Trả nợ nhơn quần xã hội rồi mới chỉ có một mối, còn hai mối nợ nữa phải trả
chớ, nợ của người sản xuất ra chơn thần, là Mẹ đẻ pháp thân tức nhiên Phật Mẫu
đó vậy. Bây giờ Đức Chí Tôn Ngài đến đặng
Ngài nhìn nhận con cái của Ngài, Đức Chí Tôn bảo Đức Phật Mẫu bà là chủ nợ Bà
phải đòi, kêu chúng nó đến trước mặt Bà mà trả cho Bà. Bà đừng để cho nó thiếu
nợ mà nó giải thoát không đặng.
Ngài đến mở Đạo nhìn chúng ta là con cái, con cái của Ngài nhìn chủ nợ là
Bà, thì chúng ta phải trả, vì cớ cho nên chúng ta thờ phượng Phật Mẫu là vậy.
Chúng ta đến bái lạy Ngài thì chúng ta cũng nguyện dâng cả thi hài, chơn thần
và chơn linh của ta đặng làm mô giới cho Ngài tạo Đạo, cũng như Đức Chí Tôn vậy.
Chúng ta trả nợ Đức Chí Tôn ra sao thì đối với Phật Mẫu cũng thế ấy.
Còn nợ thứ ba nữa là: Nợ đối với Đức Chí Tôn. Ngài đã ban cho ta một điểm
Chơn Linh của Ngài, tức nhiên chúng ta do nơi Ngài mà sản xuất, linh tánh của
chúng ta linh hơn vạn vật, vì có tánh Trời ở trỏng.
Bần Đạo thuyết minh rằng: Con thú này có Ông Trời ở trỏng. Ổng đồng sống với
nó. Có Ông Trời đồng sống trong Tánh linh ấy, mà muốn trả nợ với Đức Chí Tôn do
nhứt điểm chơn linh của Ngài sản xuất thì chúng ta phải làm như Ngài đã làm, đặng
kế nghiệp cho Ngài, mà làm như điều của Ngài đã làm. Ở chúng ta không thể gì định
được sự trả nợ của các Ngài, sự làm của Ngài có ảnh hưởng thanh túy, tức nhiên
là hy sinh Vạn Linh mà phụng sự Vạn Linh.
Chúng ta phải học ở Ngài, cái tánh chất mà Ngài đã làm để chúng ta phụng sự
cho Vạn Linh, như Ngài đã phụng sự chúng ta thấy trước mặt không thể gì chối
cãi đặng. Chúng ta thiếu nợ Nhứt điểm linh, chúng ta muốn trả nợ phải trả như
Ngài, mà muốn trả nợ Vạn linh Ngài phải làm tôi tớ cho Vạn Linh, chúng ta vẫn
ngó thấy. Chúng ta muốn trả nợ cho Ngài thì chúng ta phải làm tôi tớ cho Vạn
Linh như Ngài đã làm. Chúng ta phải làm Thầy Vạn Linh như Ngài đã làm Thầy của
Vạn Linh.
Chúng ta trả ba món nợ ấy được rồi, tới ngày chúng ta giải thể của chúng
ta, trở về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống nhập vô Niết-bàn-cảnh, không còn ai níu
lưng nữa. Phải trả nợ ấy rồi mới vô bởi vì chúng ta đã trả rồi”.
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 06 năm Kỷ Sửu (13-07-1949)
XIII - Bí Pháp chơn truyền
của Đạo
Trước khi Bần Đạo thuyết về Bí Pháp chơn truyền của Đạo, Bần Đạo đã kết luận
cái phản khắc Đạo Pháp, Thể Pháp, tức nhiên sự phản khắc của Đời và Đạo. Sự phản
khắc ấy do nơi nguyên khí mà ra, không phải vì nguyên khí trong Vạn linh mà
thôi, nguyên khí của vạn loại nữa. Chính nguyên khí ấy trong mình của chúng ta
đã chuyển xuất ra vậy.
Bần Đạo cần thuyết cái thi hài này lấy triết lý chớ không phải lấy bí truyền
mà luận, thì thi hài chúng ta đã có nơi mặt địa cầu này, do nơi nguyên căn vật
dục xuất hiện ra, tức nhiên trong Thất tình nó đi đến cái tình chót hết là tình
quyết định, tình duy chủ, cả mối tình kia thường phản khắc nhau còn cái tình dục
cốt yếu duy chủ định hướng của nó mà thôi.
Chúng ta ngó thấy trong Vạn Linh nó chia ra hai phần chơn hồn: Tiểu Chơn Hồn
và Đại Chơn Hồn. Tiểu Chơn hồn chia ra làm ba thuyết, mà tối tiểu là Vật chất hồn,
Thảo mộc hồn và Thú cầm hồn nó thuộc về tiểu hồn.
Nhơn hồn thì có thứ Tiểu và có Đại tức nhiên tình dục định phận nó, muốn Tiểu
thì Tiểu, muốn Đại thì Đại.
Đại hồn là Thần, Thánh, Tiên, Phật bốn cái Đại hồn định Thiêng-liêng-vị cho
cả Vạn linh. Chúng ta ngó thấy trong mình chúng ta có thần có thú, vì cớ cho
nên triết lý thất tình định duy chủ, muốn làm Phật thì làm, muốn làm Thú thì
làm, bởi nó định theo tình dục của nó. Bây giờ trong thân thể của chúng ta,
trong nguyên bổn của chúng ta, vẫn thường chiến đấu, Phật chiến đấu với Thú,
Thú chiến đấu với Phật.
Hai hình trạng của Đời và Đạo, Đạo xu hướng theo Phật, Đời xu hướng theo
Thú, hai tương quan phản khắc ngang nhau, vì cớ cho nên thuyết duy tâm và duy vật
nó hay tương đối với nhau. Tình dục duy bổn thì thấy trong mình nếu chúng ta muốn
thành Phật thì chúng ta làm đặng, muốn đi theo Phật lập vị mình thì trong Đại hồn
giúp ta làm đặng, hay là tình dục ấy muốn đi theo đám Tiểu hồn, vì ảnh hưởng
trong cá nhân ta mà ảnh hưởng ấy chẳng phải của chúng ta mà thôi! Chúng ta ngó
thấy trong Vạn linh nó có hai con đường đi đặc biệt, không thể gì chối cãi được,
thành thử cái phản khắc tương liên của Đời và Đạo nó đi từ trong cá nhân của
chúng ta mà ra, cho tới xã hội nhân quần. Nhân loại phản khắc ấy không thể gì tưởng
được. Từ thử tới giờ lập vị Phật như Đức Phật Thích Ca cũng chưa giải quyết được;
Đức Chí Tôn đến kỳ này chúng ta thử hỏi giải quyết hay không? Cũng phải giải
quyết chớ, Ổng đến vạch ra lẽ Phật với Thú ấy để chán chường trước mắt, con cái
của Ổng, Ổng biểu lấy trí khôn ngoan, lấy huệ khiếu của mình làm mô giới, tùng
theo Nguơn Linh làm căn bản.
Định Phật, muốn Phật, sẵn được Phật, muốn Thú được Thú, Ổng chỉ hai con đường
rõ rệt để cho con cái của Ổng quyết định cho mình, sự tương tranh tương đấu bây
giờ trong các xã hội nhơn quần trong mặt địa cầu này, đương nhiên bây giờ cũng
tấn tuồng ấy, làm hình trạng của nó ra lớn vĩ đại, chúng ta không để ý mà thôi.
Muốn tìm tàng chơn lý thì rõ rệt không có lạ lùng gì hết.
May sao, giờ phút này nhơn loại đương bị trong thảm cảnh khốn khổ, không biết
chừng thảm cảnh ấy xô đến cảnh diệt vong của họ nữa mà chưa giải quyết được, vì
cả tinh thần bên Phật yếu ớt bên Thú đương tráng kiện, hùm hổ dữ tợn, mà bên Phật
thì yếu ớt quá.
Đạo Phật truyền tại mặt địa cầu này đương nhiên bây giờ vô giá trị mà hễ Đạo
hết quyền tức nhiên con vật kia không có kỷ cương muốn chạy đâu thì chạy, muốn
làm gì thì làm, muốn làm ngang nào thì đặng ngang nấy, nếu không duy chủ đặng
nó, tánh đức không mực thước, không chuẩn thằng, không biết định phận mình thì
sẽ xô đẩy đến cảnh diệt vong chớ không có lạ gì hết.
Bởi vậy cho nên Đức Chí Tôn đến kêu gọi cả toàn nhơn loại chỉ con đường diệt
vong trước mắt, khôn thì dừng bước lại để biết lấy phận mình đứng mực nào? Rồi
mình mới phân định được.
Bí Pháp chơn truyền Bần Đạo thuyết không gì khác hơn là chỉ đường, biết giá
trị mỗi cá nhân, mình biết mình, nếu vị Hoàng Tử con của Ông Vua kia lên ngôi Cửu
Ngũ trị vì thiên hạ mà không biết giá trị tương lai làm Chúa thì tưởng lại họ
như kẻ thường dân hay hèn hạ, họ tập thành theo tánh đĩ thõa, điếm đàng buông
lung, thì chẳng khi nào làm vị Đế vương xứng đáng đặng, mình phải biết địa vị
mình thế nào, rồi mới thi hành theo khuôn luật định của mình, Bí Pháp chơn truyền
là vậy.
Ngày giờ nào cả con cái Đức Chí Tôn biết đoạt Pháp, biết mình, biết định phận
của mình, biết ngôi vị của mình, biết giá trị của mình là giờ ấy trật tự an
ninh trong cửa Thiêng Liêng Hằng Sống Đức Chí Tôn để tại mặt thế này, tức nhiên
trong cửa Đạo đây mới thiệt giá trị.
Giờ phút này ngó thấy tấn tuồng hỗn độn, con người họ tưởng Đạo Cao Đài như
Thầy Chùa, Thầy Pháp, Bóng Chàng, nói cái nào cũng được, vì cớ mới có Đảng Phái
dám cả gan bày ra Tả Đạo Bàn Môn, nếu biết đâu dám làm, vì họ lầm tướng diện của
họ cho nên ngày nay mới có cái cảnh tương tàn đánh sát họ kia kìa, bằng đi tới
nữa thì không còn chơn tướng nào tồn tại được.
Ấy vậy Bần Đạo đã nói rõ, bây giờ có một điều trọng yếu không lẽ trong cái
Bí pháp chơn truyền nói cho mấy người nghe mà thôi, mấy người được đặc ân gì mà
hưởng riêng như vậy. Kể từ đây đến sau, họa may Bần Đạo có thuyết, là thuyết
trong ngày SócVọng mà thôi, hễ đi cúng nhiều thì nói, bằng không thì thôi, còn
nữa, còn nữa nếu con cái Đức Chí Tôn còn làm biếng đi cúng nữa thì vô nhà tịnh
rồi sẽ hay chớ không thuyết nữa.”
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 29 tháng 07 Năm Kỷ Sửu (23-08-1949)
XIV- Bí Pháp chơn truyền của
Đức Chí Tôn:
“Đêm hôm nay Bần Đạo khởi giảng tiếp
Bí Pháp chơn truyền của Đức Chí Tôn.
Trước khi chúng ta muốn hiểu, cái huyền vi của Bí Pháp ấy thì chúng ta phải
tìm coi con người của ta đây có chịu ảnh hưởng với Thể Pháp ấy thế nào, và ta
là gì trước đã.
Ta là gì? Và có trọng hệ trong cơ quan bí mật, Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ, và
tạo hình thể chúng ta có tại mặt thế này. Nguyên do đâu sản xuất? Chúng ta đã
ngó thấy Đức Chí Tôn đến Ngài để trước mặt chúng ta một cái huyền bí tạo Càn
Khôn Vũ Trụ.
Bần Đạo thuyết về "Tam Bửu" tức nhiên là:
1 . Thi Hài
2 . Chơn Thần
3 . Chơn Linh.
Đức Chí Tôn gọi chung là xác thân. Chơn thần và Chơn linh, Bần Đạo xin nói
quả quyết rằng: Không có một vật loại nào trong Càn Khôn Vũ Trụ này mà không do
quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn sản xuất. Cái nguyên do thế nào chúng ta đã
ngó thấy, vạn vật trong Càn khôn Vũ Trụ này phải hoạt động mãi thôi, không ngừng,
nó nhờ hoạt động chuyển luân mà tấn hóa mãi mãi.
Vạn vật trong Càn Khôn Vũ Trụ dù trái địa cầu thấy trước mắt hay địa cầu
chúng ta đương cư ngụ đây, phải vận hành luôn, ngưng là chết mà cả vạn vật loài
người cũng phải vậy. Nó có lưu động là nhờ khí nổ Thái Cực buổi nọ, Thái Cực nổ
thành khối lửa, khối lửa nổ trong Càn Khôn Vũ Trụ hiện ra muôn muôn triệu triệu
ức quả địa cầu trong Càn khôn Vũ Trụ. Quả cầu ấy nguội lại thành địa cầu chúng
ta đương ở đây, là quả địa cầu 68, quả cầu ấy là vậy.
Bần Đạo nói thật không có vật loại nào, chúng ta Nam, Nữ cũng vậy, cũng đồng
trong khối chất ấy mà biến ra, Bần Đạo đứng giữa tòa giảng này, nói tất cả đều
chịu ảnh hưởng Thái Cực đó định mà có. Ngày giờ chúng ta chết, chúng ta trở về
Nguơn khí vô cùng vô biên ấy, cũng do nơi quyền năng vận chuyển của Thái Cực.
Cái Nguơn Linh của chúng ta cũng do quyền năng Thái Cực mà nó nắm cả Nguơn linh
tạo nghiệp ấy trong Càn Khôn Vũ Trụ. Cả cơ quan hữu hình, nó tạo Bí Pháp vô
biên là chuyển luân trong Càn Khôn Vũ Trụ hoặc là chuyển luân hình thể, hoặc là
chuyển luân Ngươn khí, hay chuyển luân Bí Pháp Thiêng Liêng của Ngài.
Ấy vậy, Bần Đạo khởi giảng trong ba món bửu bối chúng ta là gì? Thi hài
chúng ta đồng mạng như sống theo vạn vật hữu hình là vật thú, thật sự nó vậy, chớ
không gì khác hết. Nếu chúng ta kiếm theo cái phương pháp “Cách vật trí tri”
chúng ta đã ngó thấy quả quyết rằng: Con người chúng ta không có gì khác hơn
con khỉ, con chó, con bò, con trâu, thật sự nó vậy.
Duy có một điều trọng hệ hơn hết là do nơi quyền năng Tạo đoan của Đức Phật-Mẫu
đã tạo chơn thần chúng ta và hình thể chúng ta khi con người mới thai bào. Cái
tinh trùng ở trong nguơn khí cha nhập vô nguồn khí của mẹ, khi vào lâm bồn của
mẹ thì gặp con âm trùng mẹ, con dương trùng của cha nhập vô ôm khích lại với âm
trùng của mẹ; dương trùng của cha tạo biến thành hình hài xương cốt chúng ta, còn
âm trùng của mẹ chúng ta biến ra máu thịt của chúng ta đó vậy. Hai con vi trùng
ấy ôm khít lại với nhau thành tượng biến hình hài.
Hai cái tinh trùng hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng tinh trùng đơn sơ,
khi nhập vào hai con làm một. Cái buổi tượng hình của chúng ta thì chơn thần của
chúng ta còn ở ngoài thân, ngoài cốt hài của chúng ta, nó vơ vẩn hoặc là quanh
theo bà mẹ chúng ta ở dựa bên, nhứt là bà mẹ đi nơi nào nó đều theo nơi đó.
Chơn thần đến theo người mẹ có chửa, nếu người mẹ có đạo đức dám chắc đi đâu
chưa có sự gì rủi ro đến đổi thiệt hại, bởi cớ cho nên đứa con theo mãi, theo
cho đến khi tượng hình chúng ta ra khỏi lòng bà mẹ, chơn thần ấy mới nhập vô ảnh
hài đó làm khuôn viên cho ảnh hài đó.
Tượng hình khuôn khổ chơn thần Đức Phật Mẫu đã tạo cho nó đi bực Tiểu Hồi,
nó đi trong thú chất không có chơn thần nào tạo nhứt phẩm liên quan cho trọn vẹn.Họ
có can đảm dám đầu kiếp từ vật loại đi lên, tạo đến Phật vị đặng tạo nhứt phẩm
liên quan, Phật Mẫu tạo ra họ buộc họ phải quên cả kiếp trước, bỏ cái cũ nhập
vô cái mới đi từ Tiểu hồi Vật hồi đến Nhơn loại, Chơn Linh ấy biết làm người rồi
đó, làm cũng như khuôn khổ chúng ta biết vậy.
Ngộ nghĩnh thay nếu chúng ta ngó thấy tinh thần chúng ta đầy đủ đạo đức chừng
nào thì chơn thần ảnh hài càng ngày càng đẹp càng tăng tiến.
Bởi thế Tiên Nho chúng ta có nói: rủi sanh chỗ bất phước, Tiên Nho ta cho rằng:
Kiếp tu không có dễ dàng, ít có người tu thiệt tâm tu, nếu tinh thần đầy đủ là
kiếp sanh mình tạo đầy đủ đạo đức, mỗi kiếp tu của chúng ta mỹ miều đẹp đẽ lắm.
Hại thay!!! Chúng ta đã ngó thấy trong nhà Phật chúng ta quả quyết rằng: Những
chơn thần nào bị tội đọa xuống Phong đô trong Kim Bồn Phật Mẫu xuất hiện thế
nào mà bị đọa xuống cửa Địa ngục rồi hại thay! Quả kiếp ấy quỉ quái thì thành
quỉ quái không thoát.
Cả tinh thần ấy biến tướng do Nguơn linh mà ra, vì Nguơn linh không đủ quyền
năng tạo dựng. Tạo dựng Nguơn linh ấy phát động thế nào, thì Nguơn linh biến động
ra thế ấy. Loài người ở tới chừng nào đoạt được Đạo nơi mặt địa cầu này mới
thôi.
Kể từ ngày có nhơn loại nơi mặt địa
cầu này đến nay chừng một ngàn năm trăm triệu năm. Nếu đoạt được phẩm vị đó là
nhơn phẩm chớ không phải là dã nhơn, chịu trong phẩm dã nhơn ít nữa một trăm
triệu năm, xác thịt họ mới có phương thế dung nạp guơn linh Đức Chí Tôn.
Chơn thần Phật Mẫu đến theo loài người từ buổi mới tạo ra loài người, còn
nguơn linh Đức Chí Tôn đến loài người chừng năm chục triệu năm, nguơn linh có trong
thân thể của loài người, Đức Chí Tôn đến sau chớ không đến trước như Đức Phật Mẫu.
Khi mẹ chúng ta sanh ta ra, nuôi gần năm sáu tuổi cũng chưa biết cha là gì, chưa
biết theo cha, nghe hiểu nhìn cha là gì, bảy, tám, chín, mười tuổi mới biết. Buổi
ban sơ loài người cũng thế đó.
Phật Mẫu sanh ra chỉ biết nuôi nấng theo bực Tiểu Hồi, chớ Đại Hồi chưa có.
Ngày giờ có Đại Hồi là Đức Chí Tôn giáng linh trong thân thể loài người.
Thánh Giáo Gia Tô nói: Hình hài người là đất, Ngài nắn Ngài thổi ra mới biến
người. Không phải vậy đâu. Nếu nói thân thể con người thú chất là đúng duy có Đức
Chí Tôn đến ở cùng nó mới là Thánh thôi. Đức Chí Tôn ở cùng nó thì là Đại Hồi
(Ego) chớ không phải Tiểu Hồi (Monad).
Bây giờ ta sống với cái Nguơn linh mà cái Nguơn linh xác thịt ấy là Phật và
Thú, Chơn thần chúng ta làm trung gian cho thi hài, làm trung gian cũng như làm
thông ngôn cho Chơn linh và xác thịt chúng ta vậy.
Bần Đạo lấy cái thí dụ trắng như: Cái máy bay, cánh đuôi và mình là xác thịt,
cái chong chóng quây đi được đó là Chơn thần. Người cầm lái điều khiển cho vận
hành là cái linh tánh định cái sống đặc biệt nó là Ngươn linh.
Bần Đạo nói lại nữa: cái máy bay. Mình, đuôi nó chẳng khác chi như xác
chúng ta, chong chóng quây chạy đó là chơn thần, người cầm máy làm cho máy bay
vận hành theo ý người muốn là Nguơn linh đó vậy.
Muốn hiểu Bí Pháp Đức Chí Tôn thì xem cái xác thịt của chúng ta và chơn thần
của chúng ta phải chịu ảnh hưởng thế nào thì cái Bí Pháp thế ấy. Linh hồn trúng
là chơn pháp, trật là giả pháp.
Kỳ tới Bần Đạo kết vô Bí Pháp Đức Chí Tôn.
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đệm 15 tháng 08
Kỷ Sửu (Dl 06-10-1949)
XV - BÍ PHÁP LỄ HỘI YẾN
DIÊU TRÌ
“Hôm nay là ngày Lễ kỷ niệm Bí Pháp, Bí Pháp Hội Yến Diêu Trì, Đức Chí Tôn
đã lập trong nền chơn giáo của Ngài, Bần Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn
cả con cái Đức Chí Tôn hiểu rõ cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ
quan đoạt Đạo chúng ta tại mặt thế gian này. Hơn nữa Bần Đạo có phương tiện tỏ
ra một đức tin dị thường của một Đấng yêu ái, một Đấng tạo Càn khôn Vũ Trụ, Đấng
tự hữu, hằng hữu, Đấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài
thấu đáo cái tâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đoạt đặng đức tin phi thường ấy, năm Ất Sửu tức nhiên năm một ngàn chín
trăm hai mươi lăm (1925), Đức Chí Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một
tình bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần Đạo không dám nói.
Ngài đến cũng làm bạn Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Tháng 12 năm ấy, Ngài dùng cơ bút
huyền diệu của Ngài, Ngài dạy vọng Thiên Bàn cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể
tưởng tượng đây là một cử chỉ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải
để một dấu hỏi, hỏi tại sao buổi ấy Thượng Phẩm và Hộ Pháp có một đức tin vững
vàng nghe theo lời Ngài vọng Thiên Bàn cầu Đạo. Điều mà chúng ta không thể tưởng
tượng, đây là một cử chỉ chung chớ không phải cá nhân Thượng Phẩm hay Hộ Pháp
mà lời huấn giáo của Ngài cốt yếu để cho toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này
nhứt hơn hết là nòi giống Việt Nam chúng ta.
Bần Đạo nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu là người bạn Cao Thượng
Phẩm và Bần Đạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để,
một đức tin vững vàng làm sao đâu? Không thể sợ đặng; không còn biết vị kỷ nhục
nhã chi hết. Giữa khoảng đường nơi Châu thành Sàigòn thiên hạ tấp nập mà Đức
Chí Tôn buộc phải quì ngoài đường dựa bên lề ấy, quì đặng cầu nguyện xin Đạo
cho chúng sanh, tội nghiệp thay!!! Ngài thử thách cho đến nước thoảng như mình
quì đó mà thiên hạ không hiểu mình quỳ làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng
có thể quì, còn làm mà người biết thì nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức Chí
Tôn phải rán mà làm.
Ngoài ra có ông bạn ai cũng đều biết danh của người là nhà thi sĩ danh tiếng,
Bần Đạo dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nổi danh thi sĩ
đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi phú của Đức
Chí Tôn quá chừng quá đổi. Đến nước người thuộc lòng thi phú của Đức Chí Tôn rồi
người họa lại với Đức Chí Tôn, người làm như mê man vậy. Bần Đạo thì nhột nhạt,
duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi hành, quyền giáo hóa của Đức Chí Tôn, còn người
“Thi sĩ Bồng Dinh” họa theo đó mà ngâm, thiên hạ thấy tấn tuồng dị hợm tụ lại
xem đông lắm. Trước để một cái bàn vọng Thiên cầu Đạo, ngay chính giữa coi bộ dị
hợm lắm, Bần Đạo mới gát hai tay lên cho
đỡ mắc cỡ, vừa gát
tay lên thì cái bàn quay gõ nói chuyện.
Các Đấng Thiêng Liêng đến không biết bao nhiêu, đến các vị Giáo Chủ cũng xuống
giảng dạy chúng ta và làm nhiều kiểu lạ lắm; cũng lúc này Đức Chí Tôn đã giáo
hóa khá lâu, các Đấng Thiêng Liêng cũng đến cùng Thượng Phẩm và Hộ Pháp, tuy mới
mà đủ đầu óc có một đức tin vững vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: Tuy buổi ban
sơ mà dường như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi; nên Đức Chí Tôn mới ra lệnh biểu
làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình; đãi mười
người: Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Phần hữu hình có 3 người Thượng Sanh,
Thượng Phẩm và Hộ Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu vâng
mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng
như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đãi
người hữu hình vậy; duy có 3 người có xác thịt là Thượng Sanh, Thượng Phẩm, Hộ
Pháp. Bần Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì? Ngài nói là Hội Yến Diêu Trì, Bần Đạo
nghe nói vậy thì hay vậy chớ không biết giá trị Hội Yến là gì cả. Nghĩ chắc
cũng có ảnh hưởng gì cần yếu đến tương lai của Đạo mà vâng lịnh thôi. Chớ không
hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.
Ba người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Phối Sư Hương Hiếu gắp đồ ăn để vào chén
cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức Phật Mẫu cũng như người sống kia vậy.
Bần Đạo còn nhớ một chuyện lạ lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết,
giờ biết Đạo mới hiểu, Đức Chí Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần Đạo;
bây giờ Bần Đạo không dám nói lại, Ngài đến làm bạn cùng Thượng Phẩm và Hộ
Pháp.
Chừng Hội Yến Diêu Trì rồi các Đấng Thiêng liêng và các vị Giáo Chủ ra từ
giã (Thăng) kế Đức Chí Tôn đến nhập cơ. Thượng Phẩm và Bần Đạo tọc mạch hỏi:
- Khi nãy Diêu Trì Cung đến có Ngài đến ở đó không?
Đức Chí Tôn trả lời:
- Có chớ, ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ.
- Ngài có thấy Diêu Trì đến không?
- Có chớ, chính mình ta tiếp đãi!
Cao Thượng Phẩm hỏi: - Diêu Trì Cung ngó thấy Ngài không?
- Không ngó thấy.
Cao Thượng Phẩm hỏi: - Sao vậy?
Ngài trả lời: Ngài dùng phép ẩn thân.
Bần Đạo tọc mạch hỏi tiếp: - Như đứa em của tôi là Thất Nương Diêu Trì có
thể đoạt đặng chăng?
- Đoạt đặng chớ.
Cao Thượng Phẩm hỏi: - Phải làm sao?
Ngài nói: - Phải tu, bằng không tu thì chẳng đoạt đặng.
Bần Đạo hỏi: - Tu chừng bao lâu mới đoạt đặng?
Cái đó Ngài làm thinh. Bần Đạo hỏi một năm, năm năm, một
ngàn năm, mười ngàn năm, một trăm ngàn năm.... Ngài cũng làm thinh, rồi thôi
không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đoạt đặng,
nghe vậy hay vậy. Các vị Nữ Phái rán nhớ Diêu Trì Cung, Bần Đạo có giải nghĩa Hội
Yến Diêu Trì là gì rồi đó.
Toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn và con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Đạo
bị bế Ngọc Hư Cung bác Luật, Cực Lạc Thế Giái thì đóng cửa nên chúng sanh toàn
cả Càn Khôn Vũ Trụ có tu mà thành thì rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn
đoạt Pháp không phải dễ.
Cổ Pháp định cho các chơn hồn về nơi Diêu Trì Cung hưởng được Hội Yến Bàn
Đào tức nhiên hưởng được Hội Yến Diêu Trì, ăn được quả Đào Tiên, uống được Tiên
Tửu mới nhập vô cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi! Từ thử đến
giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.
Giờ phút này Đức Chí Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài thay vì Bí Pháp
ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim Bàn Phật Mẫu đặng hưởng đặc ân Thiêng Liêng của
Đức Chí Tôn.
Đức Chí Tôn buộc Phật Mẫu phải đến tại thế gian này để Bí Pháp HộiYến Diêu
Trì tại cửa Đạo này, cho con cái của Ngài giải thoát, ấy là một Bí Pháp Thiêng
Liêng duy có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.
Hôm nay là ngày Phật Mẫu đem Bí pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ
toàn Vạn linh sanh chúng, Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm nay, ngày Lễ của Ngài mà là cũng ngày trọng hệ trong cửa Đạo; xin toàn
cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần Đạo cũng để ý đến
Lễ của Ngài hơn hết; từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ
này, Ngài đến tại mặt địa
cầu 68 này đặng tận độ con cái của Ngài. Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô
biên vô tận của Ngài, chúng ta phải chiêm nghiệm Lễ này để làm mật niệm cám ơn
Đức Chí Tôn và Phật Mẫu ấy là Bí Pháp của chúng ta đó vậy”.
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 01 tháng 09
Kỷ Sửu (Dl 22-10-1949)
XVI- Bí Pháp đối với ta và
đối với
Đức Chí Tôn
“Bần Đạo hứa mỗi kỳ SócVọng thì thuyết Bí Pháp. Hôm nay Bần Đạo khởi thuyết
về Bí Pháp, có nhiều yếu tố Bần Đạo phải minh bạch ra cho toàn con cái của Đức
Chí Tôn hiểu cái sơ yếu của Bí Pháp đối với ta và đối với Đức
Chí Tôn.
Bần Đạo khởi giảng
cho hiểu tại sao Đức Chí Tôn mở Tam Kỳ Phổ Độ gọi là mở Cơ quan tận độ chúng sanh? Đức Chí Tôn sai Hộ Pháp giáng thế; tại sao Ngài
không dùng cơ bút để truyền Bí Pháp cho con cái của Ngài, Ngài chỉ giáng bút
truyền cho Hộ Pháp mà thôi, vì cớ cho nên bạn của Bần Đạo nơi Hiệp Thiên Đài có
lắm người thắc mắc về vụ đó. Không có lạ chi; mở cơ quan tận độ chúng sanh tức
nhiên là lập một khoa thi sang Tam chuyển tái phục Thiêng liêng vị nơi cảnh vô
hình; mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa mục của các đẳng chơn hồn cần phải thi đặng
đoạt vị: Thăng hoặc Đọa.
Bởi cớ cho nên Đức
Chí Tôn gọi là trường thi công quả là vậy. Đức Chí
Tôn cho Hộ pháp và Thập Nhị Thời Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí Pháp ấy đặng cho
Vạn linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức Chí Tôn buổi mới sơ khai chưa tạo
Thiên lập Địa, Ngài muốn cho Vạn linh đặng hiệp cùng Nhứt Linh của Ngài do quyền
năng sở hữu của quyền hạn Thần Linh.
Ngài vừa khởi trong mình quyết định thi hành điều ấy thì Ngài nắm cái Pháp.
Trước Ngài chỉ là Pháp, vì cớ cho nên ta để Phật tức nhiên là Ngài, kế thứ nhì
là Pháp hễ nắm Pháp rồi Ngài phán đoán vạn vật thành hình; Ngài muốn vạn vật
thành hình tức nhiên Tăng, cả Vạn Linh đều đứng trong Tăng. Ấy vậy, Pháp là chủ
của Vạn Linh. Bởi do nơi Pháp, Vạn Linh mới chủ tướng biến hình do nơi Pháp mới
sản xuất Vạn Linh. Cả huyền vi hữu hình Đức Chí Tôn tạo Đạo do nơi Pháp. Chúng
ta biết Pháp thuộc về hình thể của Vạn Linh, vì cớ cho nên Đạo Giáo minh tả rõ
rệt Tam Châu Bát Bộ thuộc về quyền Hộ Pháp. “Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên
Tôn”.
Tại sao gọi Tam Châu Bát Bộ là: Đông Thắng
Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, đều thuộc về quyền hạn của
Hộ Pháp, còn Bắc Cù Lưu Châu để cho các phẩm chơn hồn quỉ vị nó định phận tại
nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền năng vô định chẳng cần chỉ
giáo, để đặc biệt một Châu cho quỉ vị ăn năn tu học đặng đoạt vị; ba Bộ Châu
kia thuộc quyền hạn Hộ Pháp giáo hóa, duy có Bắc Châu Ngài không thường ngó tới
lắm, để cho nó tự do làm gì thì làm, khôn nhờ dại chịu.
Bát Bộ là gì? Là nơi Bát phẩm chơn hồn chớ có chi đâu. Tám hồn là gì: Là Vật Chất hồn,
Thảo Mộc hồn, Thú Cầm hồn, Nhơn hồn, dĩ chí cho đến Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Tám bộ ấy thuộc về quyền hạn Hộ Pháp Thiên vị nơi Đức Chí Tôn gọi đến tạo cơ
quan tận độ chúng sanh không còn ai khác hơn Hộ Pháp, chính Hộ Pháp trách nhiệm
ấy.
Hạnh phúc thay cho nhơn loại! Hạnh phúc thay cho Vạn Linh! Đức Chí Tôn đã
đem một hồng ân tối đại để nơi mặt địa cầu 68 này. Tại sao Đức Chí Tôn giao cho
Hộ Pháp? Bần Đạo nói thật giờ phút nào Bí Pháp duy chủ quyền Đạo là giả tướng
mà thôi, không có chơn thật gì hết. Nếu chúng ta tu mà không đoạt Pháp được tức
nhiên chúng ta không giải thoát đặng, thì kiếp tu chúng ta không hữu ích chi hết.
Đức Hộ Pháp đến cốt yếu đem Bát phẩm chơn hồn thăng vị: nhiều hoặc ít, có
thể một đẳng cấp từ vật chất Hộ Pháp đem lên Thảo mộc, Thảo mộc đem lên Thú cầm,
Thú cầm đem lên Nhơn loại dĩ chí Phật vị, Hộ Pháp có thể chỉ định cho họ đặng.
Bởi trong quyền ấy Đức Chí Tôn nói trọng quyền thì trọng phạt. Quyền hành nắm
chẳng phải nơi mặt thế gian này mà thôi, Hộ Pháp và Thập Nhị Thời Quân, không
phải quyền tại thế gian này, quyền nơi cửa Đạo Cao Đài này, cũng không phải tại
đây nữa. Bần Đạo nói đây là quyền Đạo Cao Đài cả Thiêng Liêng Hằng Sống.
Cao Đài Đại Đạo cảnh vô hình kia y như lời Tiên tri của Công Giáo tức nhiên
Thiên Chúa Giáo nói: Trên nước Thiêng Liêng Hằng Sống kia Đức Chí Tôn gần đến
và đã đến, đến thời buổi này, ấy vậy bây giờ chúng ta tìm coi cái tương liên
chúng ta đối với Đức Chí Tôn, Đức Chí Tôn biểu chúng ta làm gì, và chúng ta đã
làm gì?
Đức Chí Tôn muốn ta làm thi hài hữu hình của Ngài, tức nhiên Ngài đến lập
Thánh Thể của Ngài là Hội Thánh. Hội Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài.
Muốn thay hình ảnh cho Ngài thì phải đổi cho Ngài cái gì? Ông đem cơ giải
thoát, đem phẩm vị Thiêng Liêng cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng
chúng ta định vị. Rồi Ổng đòi chúng ta đổi chọn cái gì? Ổng đòi chúng ta đem đổi
ba món báu là “Tam Bửu” là Tinh, Khí, Thần. Cái liên quan mật thiết Tinh, Khí,
Thần là gì? Đối với thi hài chúng ta nó bảo trọng thế nào mà Đức Chí Tôn đòi đó
mà thôi? Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức Chí Tôn tạo thành Thánh Thể của
Ngài đặng. Ngài lấy ba cái vật tỉ như ba món báu trong mình chúng ta; Hoa, Ngài
tỉ như thân thể chúng ta; Rượu, Ngài tỉ như trí thức tinh thần khôn ngoan của
chúng ta; Trà, Ngài tỉ như linh hồn của chúng ta, mà thật ra trong mình của
chúng ta có ba món ấy là báu mà thôi.
Ngộ nghĩnh thay chúng ta nên để ý điều này: Đức Chí Tôn biểu chúng ta mỗi
ngày phải dâng ba món ấy ba món trọng hệ hơn hết là Tinh, Khí, Thần. Thường
ngày chúng ta chỉ lấy Khí, Thần dâng mà thôi, còn Tinh thì Tiểu Đàn hay Đại Đàn
mới có. Ngài chán biết thi hài của chúng ta chẳng phải chúng ta làm chủ nếu đòi
quả quyết nó thì nó đi đặng phụng sự cho Vạn Linh thì không có làm gì được nên Ổng
không buộc mà để cho nó có quyền tự do định phận của nó. Nội bao nhiêu đó chúng
ta cũng ngó thấy cái lòng Đại Từ Đại Bi của Ngài đến thế nào. Thể chất kia mà
Ngài không ràng buộc không ép bức để cho nó định phận, tưởng coi ai có nhân từ
đến mức đó không?
Kỳ tới Bần Đạo sẽ giảng tiếp về trí não và tâm hồn như thế nào”.
Thuyết Đạo tại Đền Thánh, đêm 30 tháng 10 năm Kỷ Sửu (19-12-1949)
XVII- Cái sứ mạng để dung
hòa Đời với Đạo
“Đêm nay Bần Đạo đình thuyết Bí
Pháp, cái nguyên do thế nào Bần Đạo xin minh biện ra. Vả chăng, chúng ta đương ở
trong hoàn cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết duy tâm và duy vật đương chiến đấu với
nhau, chúng ta dầu Chức Sắc Thiên Phong hay là mấy em nam nữ cũng thế, là một
phần tử trong Thánh Thể Đức Chí Tôn. Ngài đã tạo tinh thần chúng ta, vì sự
thương yêu của Ngài, Ngài lập thiên vị tại thế này cho con cái thương yêu của
Ngài, Ngài biểu chúng ta ký Hòa-ước với Ngài, để thay thế hình ảnh cho Ngài,
đem hết tinh thần từ bi công chánh của Ngài, đối với Vạn Linh, tức nhiên chúng
ta phải thay thế hình ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn Linh hiệp với Chí Linh, tức
nhiên Ngài cho ta cái sứ mạng để dung hòa Đời với Đạo.
Cái lý thuyết duy vật, là cái lý thuyết sống của đời, còn cái lý thuyết duy
tâm phải chăng là cái sống của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt duy
tâm thì mới phải, bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay thế vi chủ của duy
tâm tức nhiên chúng ta phải ngã bên mé duy tâm hơn hết, vì đã có ký hòa ước với
Đấng Chí Linh kia giữ công chánh đặng dung hòa tinh thần Đời với Đạo, vì mức
công chánh ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.
Chúng ta tìm tàng, chúng ta định lụng lại, là có cái lý do này, Đạo Cao Đài
không cần dùng mê tín dị đoan là cho sự tín ngưỡng đặng mạnh mẽ của nó. Chúng
ta không cần trái ngược lụng lại, đem hết triết lý chơn thật để lại thế nầy mà
thôi. Bởi vì dối trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo
Đoan nghiêng ngữa. Chúng ta không cần xu hướng, theo cái dối trá thường tình nữa,
chúng ta phải tiêu diệt cái dối trá ấy. Lại nữa trong hoàn cảnh chúng ta đương
làm trung gian giữa Đạo và Đời, chúng ta chẳng nên mượn thế lực mê tín dị đoan
để làm khiếp phục đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh thần loài người điên
đảo, một trường ngôn luận xù xì đã kiếm thế hèn tiện của thiên hạ đang tính tạo
thành một phản động lực đặng làm mất giá trị của nền chơn giáo Đức Chí Tôn. Bần
Đạo nói thật, muốn đánh tiêu cả sự dối trá, gian ngược ấy, chẳng phải dễ, người
có thể làm cho thiên hạ mê tín dị đoan được là Bần Đạo, mà Bần Đạo không làm. Bởi
vì Bần Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô đạo đức, Bần Đạo chỉ lấy một triết lý
chơn thật của Đức Chí Tôn để giáo đạo cho con cái của Ngài mà thôi.
Bần Đạo duy muốn làm bạn với
con cái Ngài, nên phẩm vị Phật Sống của Đức Chí Tôn để cho Bần Đạo, mà Bần Đạo
chưa có ngồi. Ấy vậy mê tín dị đoan trong cửa Đạo Cao Đài không có và không cần
có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại bí pháp chơn truyền, nếu thuyết ra là lấy
cái quyền năng mê tín dị đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát nên Bần Đạo
không dùng, để khi nào dùng được Bần Đạo sẽ dùng. Bần Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa
cho con cái Đức Chí Tôn mà thôi.
Bây giờ Bần Đạo xin thuyết “Ý vị và ý nghĩa lý sống của con người”.Vả
chăng, chúng ta đến với một phần xác ở tại thế nầy, chúng ta phải biết cái sống
của nó có ý vị gì? Đã sanh đứng làm người sống tại mặt thế gian nầy, chúng ta
nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị của cái sống ấy và cái ý nghĩa của nó thế
nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng Cổ đến giờ tinh thần loài người vẫn đeo
đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng các hình tướng, các nền Đạo, các
Tôn giáo.
Chúng ta quan sát cả triết lý của cái sống phải có lý do nào? Sống đương
nhiên của chúng ta có hai cái sống:
1 - Sống về vật chất, mà nói rõ ra sống về phương pháp thú chất.
2 - Sống về tinh thần, tức nhiên sống về phương pháp hiển hách, anh linh của
nó, chúng tthấy có hai cái quyền năng ấy, nó tương tranh với nhau mãi mà thôi.
Vì cớ cho nên mới nảy sanh ra thuyết duy tâm và duy vật. Chúng ta thử nghĩ do lịch
sử của loài người, thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải
“Connais-toi, toi-même” Nghĩa là: "Người biết người hơn hết". Mình muốn
biết mình đặng chi? Đặng tìm hiểu cho thấu đáo cái nghĩa lý sống của mình.
Chúng ta ngó thấy Thượng Cổ, bực cổ nhân, nhứt là hạng vĩ nhân. Dân Âu Châu
thì có Socrate cũng trong thời đại nhơn sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng Chí
Linh trong Càn Khôn Vũ Trụ, cái thuyết làm cho phản động lực coi Ngài như kẻ
thù nghịch đến nước, cái quyền năng buổi nọ coi mạnh mẽ thế nào? định tử hình
Ngài, cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự tử. Khi giam Ngài trong ngục, Ngài có
phương thế hội đàm với các nhà triết học. Tới giờ chúng đem chén thuốc độc đưa
trong tay của Ngài biểu Ngài uống. Ngài bưng chén thuốc độc ấy để từ giã các bạn
của Ngài mà Ngài nói như chơi vậy.
Ngài nói: “Tôi biết rằng Ngoài cơ thể Tạo Đoan của đời nầy nó còn có cơ
quan vô hình tối trọng kia, tôi đã quả quyết rằng có, thì cái chết nầy ta mong
lắm chớ, giờ phút ta cầm chén thuốc độc nầy ta uống thì ta sẽ được hội hiệp với
các vị hiền triết được làm bạn với họ thì có gì hơn” Nói rồi Ngài bưng chén thuốc
độc Ngài uống.
Giờ chết của Ngài, giờ ngặt mình của Ngài thì môn đệ của Ngài hỏi: “Ngài chết
đây rồi Ngài sẽ đi đâu? hay sẽ làm gì ?".
Ngài cười nói: “Ta chưa biết, ta sẽ làm chúa cả cơ thể Tạo Đoan nầy, để điều
đình cả cơ quan vĩ đại của Càn Khôn Vũ Trụ hay ta sẽ làm chơn của con châu chấu,
dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì, thì ta làm cái nấy”.
Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.
Đức Lão Tử khi đạt được bí
mật của Bát Quái Đồ rồi, Ngài từ giã nhà
Châu, Ngài về Côn Lôn Sơn mà an nghỉ, môn đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn Lôn Sơn
để làm gì? Có hạnh phúc hay không? Ngài trả lời: “Duy có cái biết của ta mà nó
làm cho ta có cái thú vị sống đặc biệt riêng, không cần nói rõ hạnh phúc ấy ra
thế nào? Nhưng ta chỉ nói rằng: cái biết của ta nó làm cho ta hưởng được thú vị
an ủi của cái sống ấy”.
Đức Khổng Phu Tử từ giả quan trường về giáo Đạo cho các môn đệ của Ngài, thiên hạ gọi là vô
phước, mà cảnh thiệt vô phước của Ngài là lúc làm quan cho nhà Châu, làm quan
cho nước Tề, nước Yên, và lúc châu lưu trong lục quốc.
Bây giờ Ngài về sống với thất thập nhị hiền, tam thiên đồ đệ của Ngài, là
Ngài hạnh phúc hơn hết, vì Ngài biết thú vị cái sống của Ngài thế nào, cái sống
của Ngài vui về Đạo mà thôi.
Giờ trái ngược lại, sống chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần Thủy
Hoàng, sống như Sở Bá Vương, hai tay trắng lập nên nghiệp đế, đè ép cả tinh thần
dân chúng buổi nọ, vị Chúa của họ sanh sát tàn ác không có điều chi mà họ không
làm, quyền hành của họ tàn sát lắm.
Cái sống của Tần Thủy
Hoàng thế nào?
Dòm lụng lại, thấy cái chết của Ngài, Ngài than: Cái tài tình thâu cả nghiệp
Đế ta thắng được, duy có cái chết ta thắng không được, vì thế mới cho người đi
kiếm thuốc trường sinh bất tử, mê tín đến nước người ta cho ăn dái ngựa mà cũng
ăn nữa, ăn đặng sống mà anh ta cũng chết.
Nã-Phá-Luân đã được cơ hội làm nên nghiệp đế, hồi buổi đó làm cho cả toàn
dân Âu Châu, các nước chư hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong
ngục Le Saint Hélène.
Ông vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis (XIV) thiên hạ hồi thế kỷ đó
cho Ông là vua Trời "Le Roi Soleil" cả thiên hạ đều tùng phục, kính
trọng, kiêng nể, Âu Châu buổi nọ, có thể nói Ngài là một Vị Bá Chủ của thiên hạ,
không có cái gì mà anh ta không có, “Phú Hữu Tứ Hải” sang trọng vô biên có một
điều là đền Vua của Ngài “Palais Louis XIV quân lính canh từng bảy vòng, cấm
cái chết vô trong Hoàng Gia của Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài
cho đến nỗi gần hết trong Hoàng Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa
cháu nội mà thôi. Ngài than rằng: Hại thay! Hoàng Thành của ta mấy vòng canh
nghiêm nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta.
Chức vị sang trọng của mình sống như cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm
ỳ ra đó ngủ mà chúng cũng kiêng cũng sợ, nhưng chúng chưa biết thương, sống như
cá Ông không ai thấy, mà chiếc ghe nào chìm thì cá Ông cũng đỡ. Cái sống con cọp
không có ai thờ, còn cái sống của cá Ông có người ta thờ.
Hai cái sống đặc biệt ấy là cái sống duy vật và duy tâm. Bần Đạo tả ra cho
con cái Đức Chí Tôn mỗi người lấy đó mà suy gẫm”.
Kết luận:
“Chúng ta thử hỏi, một người tượng trưng tinh thần của một dân tộc, tinh thần
đạo đức cho nước Việt Nam đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho
thiên hạ, sửa lại cái hành tàng hung ác của người đời cho thành giọt nước
Thiêng liêng của Đức Chí Tôn, nước Thiêng liêng đạo đức của Ngài gội rửa con đường
Thánh Đức cho sạch sẽ đừng cho nhơ bẩn, ấy là nước Chí Thánh của Ngài, cầm giọt
Cam-lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa
cầu nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn?”
Một người Thầy giỏi mới tạo
được trò hay
Một nền Tôn-giáo phải có đủ Tinh-thần làm căn bản và một Giáo-chủ sáng-suốt
mới mong lãnh đạo một Tôn giáo toàn cầu .
Đức Hộ-Pháp nói:
“Đức Chí-Tôn mở Đạo đem lòng
Thương-yêu vô tận của Ngài, Ngài đến chung sống cùng con cái của Ngài. Theo
luân-lý thường tình của ta, một ông Cha cực nhọc đi đến tìm con, bao giờ lòng
Thương-yêu vô tận âý cũng trên hết mọi tâm tình. Chính mình không có kể đứa con
nào nên, đứa nào hư, đứa nào hèn, đứa nào sang, không kể gì cái đó hết thảy. Vì
cớ cho nên Đức Chí-Tôn mở Đạo, Ngài ôm cả con cái của Ngài vào lòng, theo thể Bần-Đạo
ngó thấy hiển-nhiên rằng: Đức Chí-Tôn không kể Nguyên nhân, Hóa-nhân, Quỉ-nhân
gì hết.
Bằng cớ khi nọ có một người đàn bà, Bần-Đạo không nên nói tên ra làm chi, đội
sớ quì mãi đến bãi đàn, Tôi không biết xin điều gì, quì đến bãi đàn, đội sớ quì
như vậy từ đàn này đến đàn khác, theo đuổi giỏi-dắn siêng năng lắm. Ngày nọ, đến
cái đàn chót Đức Chí-Tôn kêu tên người đó rồi hỏi:
- Con muốn lắm sao con ?
Người kia thầm vái cái gì không biết, Đức Chí Tôn nói:
- Thôi, phong cho con chức Giáo-hữu đó !
Thành thử ta ngó thấy rằng: Giá-trị của chức Giáo Hữu
chẳng có gì hết! Bất kỳ ai cũng cầu được, đem vô cái thể của Ổng với những phần
tử vô-giá-trị, làm cho Đức Lý buổi nọ cầm quyền Thiêng-liêng mối Đạo Ngài khổ-não
không biết sao luận được.
Buổi nọ Bần-Đạo không hiểu gì hết. Đức Chí-Tôn đến ban
sơ mở Đạo, Đại-Từ-Phụ đòi truyền Bí pháp cho Bần-Đạo đi thôi, còn về Thể-pháp thì Hội-Thánh không biết chi hết.
Nội Bí-pháp không, Đại-Từ-Phụ đã truyền giáo, Ngài mở Đạo tại Từ-Lâm-Tự đến
ngày khai đàn, Bần-Đạo cười sống, cười chết, cười lộn mật, cười quên đầu quên
đuôi hết ráo. Bởi cớ cho nên quỉ lộng, cho đến
chừng bị rầy cam chịu, bơ-bơ có biết gì đâu !
Về Thể-pháp, Bần-Đạo bị chê, Đức Lý phiền biết bao
nhiêu. Bần-Đạo không dám mở miệng nói gì hết, lại một nỗi Phật-Mẫu và Đại-Từ-Phụ
đem quyền Chí-Tôn, Bát-Quái-Đài duy có một Ông mà thôi !
Còn quyền Chí-Tôn Thánh-Thể hữu-hình, Ổng hỏi lấy ai
hiệp một mới đương đầu với Ổng? Tức nhiên
Hộ Pháp, Giáo-Tông hiệp một cùng nhau: hai quyền ấy mới nắm quyền
Chí-Tôn của Ngài.
Ngẫm ra, buổi nọ Đức Lý nói với Bần-Đạo: theo Ngài phải
hay theo Đức Chí-Tôn phải ?
- Theo Đại-Từ-Phụ chắc hẳn !
Bần-Đạo nói thiệt, chẳng hề Bần-Đạo nghe theo Đức Lý
được, Thánh-thể của Đức Chí-Tôn hồi buổi đó không có giá-trị, không trật-tự, họ
chia phe phân phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng yếu thua, thế-lực dữ lắm,
không có cái gì thiếu, làm cho Thánh-Thể
Đức Chí Tôn buổi nọ dơ bẩn làm sao đâu! Không thể tưởng-tượng được !
Đức Lý-Giáo-Tông hội Chư Thánh, nhưng đương đầu với Đức
Chí-Tôn chẳng dám. Vì lẽ đó, họ chia phe phân phái, lập đảng. Ngài thấy tình cảnh
như vậy, Ngài mới biểu Bần-Đạo xuống tại Thủ-Đức
trong 7 tháng, Bần Đạo chung sống cùng Ngài đặng cho Ngài truyền Thể pháp.
Giờ phút này Bần-Đạo đứng tại Tòa giảng đây tưởng-tượng nhớ đến tâm-tình ấy
thấm-thiết biết bao nhiêu! Nồng-nàn mà nói, không có một điều gì sơ-sót: chỉ đủ
mọi hành-tàng, rành-rẽ chi tiết hết.
Bần-Đạo vừa biết rồi Đức Lý liền từ chức, không làm Giáo-Tông của Đạo trọn
ba năm nữa vậy.
Khi Bần-Đạo ở Thủ-Đức về:
Đức Lý đặt một đàng, Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội-Thánh lại.
Một đàng Đức Chí-Tôn nói: đừng nghe Lý-Thái Bạch nghe Phạm-Công-Tắc !
Một đàng kéo, một đàng trì, làm cho Bần-Đạo không biết đường đi chút nào;
thất-thơ thất-thưởng, mất linh-hồn, muốn nửa tỉnh nửa say. Ngài đến 11 giờ,
Ngài viết cho đến 4 giờ sáng, chỉ rành-rẽ thế nào, nhứt là Ngài biểu Bần-Đạo hiệp
cùng Ngài cho có quyền Chí-Tôn hữu hình
tại thế này:
Hiền-hữu muốn cho Đạo Cao-Đài còn tồn-tại hay nghe lời Đức Chí-Tôn để cho nền
Đạo phải mất ?
Bần-Đạo cứ nghĩ-nghị, đó rồi Đức Chí-Tôn đến; thật sự Ông già hơi buồn thật, Ngài nói:
- TẮC ! con sửa-soạn đặng làm Lễ đăng điện cho Đức Lý-Giáo-Tông đa
nghe! Rồi có Ông ở đó Ông nghe Đức
Lý-Giáo-Tông cầm quyền.
Đức Lý, Ngài biểu Thiên-phong Chức-sắc Cửu Trùng-Đài, Hiệp-Thiên-đài lập Cửu-Trùng-Thiên
để Ngài đăng điện, khi Ngài đăng điện rồi, Ngài cầm cây viết Ngài viết bài Diễn-văn
đăng điện cho tới tận thế sẽ không có vị Giáo-Tông nào làm một bài Diễn-văn hay
như vậy. Bài Diễn-văn của Ngài vạch rõ tinh-thần, con đường hay ho làm sao, nhứt
là bài Diễn-văn đó cho cả Hội-Thánh hay
rằng:
“Kể từ khi Ngài cầm quyền Giáo-Tông
đây, các người ấy đừng Ỷ CÔNG KHI LỊNH, Ngài chẳng hề tha thứ bao giờ”.
Ngài nói một đàng về hữu hình, chính mình Bần Đạo chưa thấy Ngài làm gì được nhưng về vô-hình Ngài trừng
thanh bí-mật huyền-linh không thể tưởng-tượng được. Khéo là cái làm Ngài không
lợi dụng, chính Ngài dùng quyền hành Thiêng liêng trừng thanh độc lập mà thôi.
Duy có Ngài làm, Bần-đạo không biết !”
1 - Tinh-thần của Đấng Giáo-chủ.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Lấy Nhơn-nghĩa đối với bạo tàn, lấy tâm ưu ái trả thù hận, ấy là tâm Phật,
phải tâm chí Thánh mới làm đặng.
Bần-Ðạo làm đặng, đặng chi?
- Ðặng nêu cao tinh thần Ðạo Cao-Ðài nầy lên như Chí Tôn muốn.
Lẽ thì đem hung bạo trừ hung bạo, theo thường tình thì mới vui lòng, thỏa
mãn tâm phàm của Phạm Công Tắc thì ắt vui mầng lắm chớ. Nhưng Hộ-Pháp vì biết hại
cho tương lai nước nhà, nên cầm cây huệ kiếm đưa ra, lấy tâm lý yêu ái đối lại
với oán ghét, cốt yếu làm cho nhơn loại, làm chứng rằng chơn truyền của Ðạo Cao
Ðài là hườn thuốc "Phục sinh hòa bình" cho nhơn loại. Quốc dân Việt
Nam làm đặng thì toàn cầu mới làm đặng. Ai cầm huệ kiếm ấy đặng, thì họ cứu nước
họ đặng, cũng như Việt Nam đã cứu nước Việt Nam vậy”.
(Ngày 01-giêng-Mậu Tý (dl. 10-02-1948)
- Trách-vụ của Người đứng
trong trời đất:
Phải đạt đức làm Chúa:
“Con người sanh ra phải biết trách vụ của mình, trong tiểu gia đình hay đại
gia đình cũng vậy. Người ở gia đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Jésus Christ chỉ
xưng mình là con của Người (le fils de l'homme).
Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn thì hiểu giá trị của nó thế nào?
Văn-minh Nho-giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được:
"Vi nhơn nan, vi nhơn nan" (làm người khó, làm người khó). Tố tố vi
nhơn nan (làm người rất nên là khó).
Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia đình là khó khăn lắm, mà hễ
làm người để dìu đỡ được gia đình, tức là Chúa gia đình đó;
Mình là người mà nâng đỡ được quốc vận, là Chúa của quốc gia.
Giờ ta thử hỏi: Một nền Tôn-giáo đem tâm lý loài người hiệp một lại là một
điều đứng trên cái mức đại gia đình đó. Làm người chủ xứng đáng của gia đình đã
là khó, làm người chủ xứng đáng của quốc gia lại càng khó, rồi làm người chủ xứng
đáng của một nền Tôn-giáo không phải dễ. Hễ làm chủ được xứng đáng, thì đối với
nhơn quả, ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa.
Người đã đem thân nầy ra làm Chúa gia đình, không còn là mình nữa mà là bậc
tiền bối;
Người đáng là người Chủ của một nước là bực Thánh nhơn,
Người đáng là người Chủ một Tôn-giáo ấy là vị Phật.
Ấy vậy, chúng ta muốn quan sát một Tôn-giáo nào được gọi là Chánh-giáo, thì
Tôn-giáo đó phải đủ yếu-điểm tạo nên người chủ của nó đặng dìu đỡ các phần tử của
Ðạo ấy, đủ hạnh kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường tình, đi cho
vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là Chủ của Ðại gia đình Càn Khôn Võ
Trụ.
Cả phương pháp không mực thước quyền hành để đạt đến địa vị chúa một
Tôn-giáo thì không phải chánh đạo. Ta đã thấy gì?
Ðạo Cao Ðài có không? Ta suy xét coi: Có hẳn! Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắng
thì nên người làm Chúa nền Tôn-giáo của Chí-Tôn đã tạo sẵn, có mực thước, chuẩn
thằng, phép tắc, để cho người lập nên địa vị
(Ngày 3 giêng Mậu Tý - dl.
12-02-1948)
Nhân-loại được diễm phúc được Đức Chí-Tôn lựa chọn một Đấng Giáo chủ hữu
hình là Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc thật đức
tài vẹn-vẻ để đứng ra làm Chúa của một nền Tân Tôn-giáo như Cao-Đài Đại-Đạo này mới đứng vững trong bảy
trăm ngàn năm tuổi Đạo. Đức Chí Tôn đến, Ngài muốn cho nhân-loại đều biết làm
Chúa.
“Cả nhơn loại đều
học làm Chúa toàn cả gia đình:
Được làm chủ một tiểu gia đình, tức là một tông tộc là một vị Hiền tại thế
rồi,
Được làm chủ một đại gia đình là Quốc gia, là một vị Thánh nhơn.
Được làm chủ một số Quốc gia hiệp lại như Hiệp Chúng Quốc tại Mỹ Châu như
Washington,... chẳng hạn, là một vị Tiên,
Được làm chủ tối đại gia đình tức nhiên làm chủ toàn thiên hạ, một nền
Tôn-giáo là một vị Phật. Thể pháp của Ðạo Cao Ðài có khuôn khổ tập cho nhơn loại
đi đến mục đích trong luật pháp của một nền Chánh-giáo.
2 - Kết luận về Bí-pháp:.
“Vả chăng Chí-Tôn sanh chúng ta là người, cho chúng ta là người, cho chúng
ta nhứt Điểm Linh quang tạo hình ảnh mỗi cá nhân. Ngài định phận sự tối trọng yếu
của Ngài và cầu chúng ta thật hành cho ra thiệt tướng, nghĩa là: Làm thế nào đặng
làm Chúa vạn vật hữu vi cho Ngài. Hễ giao phận sự thì buộc phải đảm nhiệm luật
pháp cũng như sai ai thế hình ảnh cho mình đến nơi nào, làm phận sự gì cần đưa
chương trình đặng thi thố ra sao cho thành đạt. Trong chương trình có phương
pháp hành vi, tức nhiên Luật pháp của Ðức Chí Tôn muốn buộc loài người đạt đức
làm Chúa vạn vật, định pháp vô hình tức nhiên định Thiên điều.
- Thiên điều là luật.
- Pháp là quyền năng thưởng phạt Nhơn quả.
Không lạ gì, chúng ta thấy thế thường, con người không làm thì không có nên
hư, còn lãnh trách vụ thì nên hư đặng thất. Nên hư đặng thất của con người là một
tấn tuồng nơi mặt thế. Ta nhận thấy mang thi hài, xác thịt, khối chơn linh chịu
mờ ám, chỉ biết sống phải hiểu nghĩa vụ mình, không phải sống đặng thừa hưởng,
từ khi lọt lòng mẹ thì đã mang một mối nợ trần. Hễ mắc nợ thì phải trả, mà trả
cho ai? Khởi trả cho gia đình trước. Ai là người làm trọn đạo gia đình cũng khó
lắm rồi, biết bao nhiêu trở lực, quả kiếp trước tái diễn lại, phải vay trả kiếp
sau. Vay vay, trả trả, chẳng khác anh lái buôn kia trong đường đi. Muốn học làm
chúa vạn vật cũng phải nhiều đường lối gay trở khó khăn.
Nếu Bần-Ðạo không vi chủ đặng đè nén con vật nầy, chỉ biết sống như con vật
thì đã quên hẳn mình là gì, chẳng cần luận, đương nhiên nhơn loại lâm vào cảnh
vay trả như anh lái buôn bị gian lận nhiều nên bán lỗ, ấy là nhơn. Ði chuyến
khác nữa may mua rẻ bán được mắc thì được lời. Lời lỗ là con buôn nơi trường đời.
Ta thấy giờ nào chúng ta chẳng còn buôn lấy lời cho chúng ta hưởng mà là buôn
cho Ông chủ hảng hưởng, ngày ấy chúng ta không sợ lỗ lời. Nhơn quả cũng thế,
ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà còn trong gia tộc ta, ngày giờ nào ta chẳng
còn là ta mà sống cho nhơn loại, ngày ấy là ngày giải thoát.
Mình không vay hỏi ai, mình chỉ cho mượn thì mình ắt giàu. Ngày giờ nào mà
lời lỗ mình không chịu trách nhiệm chỉ sống về nghề nghiệp của mình mà thôi,
thì mình ắt không ăn thua chi với ai tất cả. Ðức Chí Tôn cũng thế, ngày giờ nào
con cái của Ngài lấy hiếu đối với Ngài, nuôi nhơn loại về tinh thần và vật chất
đó là cơ quan đạt đạo, chúng ta cho vay mà không thiếu, ấy là ta tự giải thoát.
3 - Ta thử hỏi cả Bí pháp
của Ðạo Cao Ðài có như vậy chăng?
- Có chớ! Kìa cái Cửu Trùng Thiên Chí-Tôn đem phô bày tại mặt thế nầy đối với
Cửu phẩm Thần, Tiên, không còn ai chối đặng, ai đi trọn thì được giải thoát.
Ngôi Giáo-Tông môi giới hay thiệt? Chính Anh Cả chúng ta đã ngồi được. Ai làm
được vậy chăng? Làm được chớ! Nếu có kẻ nói mắc lo gia đình, không thể lo Ðạo
được là phi lý. Ðạo là trường học đạt đại gia đình, Ðạo là trường thi lập vị,
sao lại làm không được? Tại làm biếng học! Học đặng hành. Nên hư do tại mình,
không phải do Chí-Tôn và cũng không phải tại Ðạo.
Tôn-giáo nào không đạt được Cửu phẩm Thần, Tiên dưới thế nầy, thì trên Cửu
Thiên kia không hề đạt vị được. Ấy vậy, về mặt bí pháp Ðạo Cao Ðài là rõ ràng một
nền chánh giáo của Chí Tôn vậy.”
CHƯƠNG V
TAM BỬU
“Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ TÔN ưa
chuộng để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên-nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù đã gây
nên trường oan nghiệt cho toàn thế-giới (Đức Hộ-Pháp)
Giá trị của Tam Bửu là gì?
Đền Thánh đêm 30-02-Nhâm Thìn (dl 25-3-1952)
“Đêm nay nhân dịp Vía của Đức Cao
Thượng Phẩm, Bần Đạo giảng nghĩa lý cái giá trị Tam Bửu là gì? Sẽ chỉ rõ Hội
Thánh đối với Đức Chí Tôn là gì?
Vả chăng từ Thượng Cổ tới giờ, loài người bao giờ cũng thờ Đấng Tạo Hoá ra
Càn Khôn Vũ Trụ. Tuy lúc Thượng Cổ tâm đức của loài người vẫn đơn sơ, họ chỉ tưởng
niệm một điều là họ biết thờ cái Đấng đã tạo đoan ra Càn Khôn Vũ Trụ. Họ đồng sống
trong ấy, họ chỉ nhìn nhận cái quyền lực ấy mà thôi. Khi ấy họ không biết người
của Đức Chí Tôn là gì? Mãi tới sau mới có Đấng đã nói rõ, chỉ hình rõ rệt Đại Từ
Phụ của Vạn Linh là Đức Chí Tôn, Đấng đã vạch rõ ra đã thiệt hình ảnh của Ngài
là Đức Chúa Jésus Christ. Trong tam bửu nó hình trạng những vật quí hoá của
loài người đã hiến dâng cho Đức Chí Tôn đó vậy.
Trước kia, hồi buổi ban sơ thì con người chỉ dùng các lễ vật mà họ gọi là
quí trọng hơn hết dâng cho Đấng ấy, mà lễ dâng của họ không có xa hơn nghĩa lý
Tam bửu, Bần Đạo sẽ giảng rõ tỷ như: Lúc Thượng Cổ người ta đã dâng cho Đức Chí
Tôn đã có những gì? Cái vật dâng cho Đức Chí Tôn buổi Thượng Cổ họ dâng sanh mạng
con người cho Đấng ấy. Khi nhơn loại bị khốn khổ, bị tai nạn bất cứ trong quốc
gia nào họ dùng cho đến sanh mạng, tức dùng con người làm tế vật dâng hiến cho
Đức Chí Tôn. Tới chút nữa, nghĩa là tinh thần loài người tiến triển đến một mức
nữa, họ dùng cái cái vật lựa chọn quí hoá, đồng thể với sanh mạng của con người
đặng dâng cho Đức Chí Tôn, tức nhiên họ dâng Tam sinh. Khi ta đã xem tế Nam
Giao, từ Thượng Cổ nhà Vua dâng cho Đức Chí Tôn ba cái vật là: Trâu, heo, và dê
gọi là Tam sinh. Ngày hôm nay sau Đức Chí Tôn đối lại với Đạo Thiên Chúa, không
dâng Tam sinh là sanh mạng của con vật nữa, mà chính mình Đức Chúa Jésus Christ
dâng cái xác thịt của Ngài làm con tế vật cho Đức Chí Tôn, tức nhiên Ngài nói rằng
Ngài chịu khổ hình là chết trên cây Thánh Giá cốt yếu làm con tế vật đặng dâng
cho Đức Chí Tôn để cứu rỗi tội tình nhơn loại. Chúng ta đã ngó thấy từ thử tinh
thần của loài người tiến triển tới mức văn minh của họ, thì cái vật phụng thờ,
cung hiến dâng lễ vật cho Đức Chí Tôn vẫn khác. Ngày hôm nay Đức Chí Tôn đến,
Ngài biểu chúng ta dâng cho Ngài ba món gọi là Tam Bửu là: Tinh, Khí, Thần.
Ngài thế nó là Bông, là Rượu, là Trà, Bần Đạo tưởng nếu lấy vật ấy mà tưởng
tượng thì nó không nghĩa lý gì hết. Ôi! Biết bao nhiêu quí hoá, nếu cả thảy con
cái của Ngài biết Đức Chí Tôn muốn dâng cho Ngài cái gì thì của dâng ấy quí hoá
không thể nói. Tinh, là Ngài biểu dâng hình thể của ta tức nhiên dâng xác thịt
ta nghĩa là dâng cái sống của ta nơi mặt thế gian này, đặng cho Ngài làm khí cụ,
đặng Ngài phụng sự cho con cái của Ngài, nó thuộc về Tinh, tức nhiên Bông đó vậy,
phải dâng cho Ngài cái hình xác chúng ta cho đẹp đẽ, cho trong sạch, cho thơm
tho, cho quí hoá như Bông kia mới được. Tưởng tượng Ngài muốn cho chúng ta
trong sạch như vậy là vì Ngài mong con cái của Ngài biết thương yêu lẫn nhau, rồi
lại tự mình tu tâm dưỡng tánh thế nào cho đẹp đẽ mỹ miều, như Bông kia đặng xứng
đáng làm Thánh Thể của Ngài đặng phụng sự cho con cái của Ngài.
Giờ nói về Rượu, Ngài thể cái chơn thần của ta tức nhiên thể cái trí thức cái khôn ngoan của
ta về chơn thần, tượng ảnh trí thức khôn ngoan tức nhiên Ngài biểu cả trí não
con cái của Ngài phải dâng trọn cho Ngài đặng làm khí cụ. Giờ phút nào toàn thể
con cái của Ngài có trí óc khôn ngoan đặng phụng sự cho nhơn loại thay thế cho
Đại Từ Phụ mà nói rằng: Chúng tôi không biết làm gì ngoài phận sự thiêng liêng
của Đức Chí Tôn giao phó. Ngày giờ nào toàn thể con cái của Ngài biết nói như
thế đó, thì ôi! Hiến cho Đức Chí Tôn một vật quí hoá không thể nói gì được.
Nói về Trà, Ngài thể Trà là tâm hồn tức nhiên Ngài biểu cả tâm hồn của ta hiệp lại
làm một khối với nhau. Giờ phút nào toàn thể con cái của Ngài hiệp cả tâm hồn
làm một, cái tâm hồn này sẽ làm tâm hồn của mặt địa cầu này, cho trái đất này,
nó sẽ làm tâm hồn của toàn thể nhơn loại. Ngày giờ nào cả toàn thể con cái của
Ngài tượng ảnh tâm hồn cho toàn thể nhơn loại được, thì ngày giờ ấy có thể
Thánh Thể của Ngài mới phụng sự cho Vạn Linh tức nhiên con cái của Ngài hạnh
phúc được. Chỉ ngày ấy mới có thể nói rằng: Nhơn loại hưởng được hồng ân đặc biệt
của Ngài, mà hưởng được hồng ân đặc biệt của Ngài thì ngày ấy mới mong hưởng được
hòa bình và đại đồng thế giới. Bây giờ Tam bửu ở trong Hội Thánh, cả toàn thể
anh em, chị em chúng ta đây là Tinh là Hình Thể của Ngài tại thế này. Hình thể
của Đức Chí Tôn là trong ta đây hết. Ngày giờ khối trí thức của toàn thể nhơn
loại tượng hình ra mà nói biết rằng Đạo duy nhứt là Đạo Trời với Đạo Người hiệp
làm một. Giờ phút nào cả toàn thể nhơn loại biết mình đến đây có phận sự để tô
điểm kiếp sống của nhơn loại cho đặng hạnh phúc, đặng bảo trọng sanh mạng của
toàn thể vạn linh cho đặng hạnh phúc. Giờ phút nào có cái đấy thì mới tượng ảnh
ra Khí của mặt địa cầu này.
Nói đến tinh thần Bát Quái Đài nghĩa là cái Hồn, tức nhiên hồn chúng ta đã
ngó thấy rằng con người sinh nở nơi thế gian này nếu ba món báu ấy mà không có
thì xác thịt nhơn loại cũng thế, vật chất cũng thế, toàn thể nhơn loại cũng thế,
nếu nói rằng có xác thịt không có hồn, hay có hồn không có trí thức bảo vệ sống
còn của mình thì chúng ta đã ngó thấy tận tường đó rồi, người không hồn ngơ ngơ
ngáo ngáo, người có hồn không có trí thức chẳng hề khi nào định mạng được. Ông
Pythagore nói Dyade là phải điều hòa nhau, ta tu cốt yếu làm cho ba món ấy điều
hòa. Giờ phút này chúng ta hãy tưởng tượng rằng trước khi muốn điều hòa, cả Hội
Thánh dâng cho Đức Chí Tôn, cả toàn thể con cái của Ngài dâng cho Ngài một chí
hướng, một hy sinh mà thôi. Toàn thể con cái của Ngài hy sinh phụng sự Vạn
Linh, tức nhiên phụng sự cho toàn thể nhơn loại. Biết đặng, hiểu đặng hạnh phúc
mình do nơi sống chung cùng nhau, nhượng sống cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau.
Giờ phút nào thiên hạ khôn ngoan định vận mạng cho mình như Đức Chí Tôn đã định
cho ta phù hạp với chữ Khí, tức nhiên chữ Khí là báu vật chúng ta dâng cho Đức
Chí Tôn mới thành tựu. Ngày giờ nào thành tựu nơi Bát Quái Đài, quyền năng
thiêng liêng kia mới đủ năng lực day trở thiên thơ tạo hạnh phúc cho toàn nhơn
loại trên mặt địa cầu này. Duy có giờ phút ấy, nhơn loại sẽ hưởng đặng hòa bình
và đại đồng thiên hạ mà thôi.”
2 - Tam Bửu: Tinh, Khí,
Thần.
Rằm tháng 2 năm Ðinh Hợi (1947)
Phàm con người có ba báu:
- Tinh là xác thân của cha mẹ
sanh ra, liên quan với xác thân (corps
astral) là hơi, nó tiếp xúc liên quan bảo trọng sự sống.
- Sự sống là nuôi nấng lấy hình
hài chúng ta bằng sanh quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có,
- Liên quan với linh hồn ta là của
Chí Tôn ban cho mà có. Ba thành một, một thành ba gọi là Tam Bửu: Tinh – Khí -
Thần.
Chí Tôn lại chọn lựa vật quí báu là Bông (Tinh), Rượu (Khí), Trà (Thần) là ý
nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái của Ngài những món quí mà ta có để sống ấy hiến
cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái của Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.
Muốn cho khỏi phụ lòng Chí Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy
đặng tinh khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai giới,
chỉnh tu cho cái đệ nhị xác thân được tráng kiện hoạt bác, tùng khuôn viên thiện
đức. Ðệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh quang tiếp
với đệ tam xác thân là linh hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu hoại thì nó trực
tiếp ngay với linh hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng nó nghiệc ác thì nó phải
dính líu với cái xác thúi hôi nầy mà phải chịu lìa xa cái linh hồn thì thần tử
sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ Chí Tôn ban cho ta cái Bí Pháp (phép xác)
cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập
một với linh hồn tức là hằng sống vậy.
Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại
do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỉ khóc, chiến tranh không ngớt, là
do nơi lòng tham lam tiến triển văn minh, cơ khí tối tân như là bom nguyên tử để
giết người. Hiện tại nơi Mỹ Châu, Cổ Tàng Viện của họ có đến 200 triệu quyển
sách. Cứ bổ đồng một ngày xem một quyển thì phải sống đến mấy đời mới đọc hết
được.
Chí Tôn biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo
cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh thần, nên Chí
Tôn đến khai Ðạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi
luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì
toàn thể thế giới nầy những điều tinh ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề
đến ta được.
Nếu ta thấy được cõi Hư Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết chóc một
cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy
mà có vay trả luân hồi mãi mãi đọa đày, bất năng thoát tục.
Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân
cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt
cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh đơn nầy là đạo đức của Chí
Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đọa lạc hoàn toàn.
Cả thế gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái
diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của
các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau,
thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.
Vậy Thánh Ý của Chí Tôn khai mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, Tam Giáo Qui Nguyên,
Ngũ Chi Phục Nhứt là muốn dung hòa tâm lý toàn cả con cái của Người để cứu vãn
trọn 92 ức nguyên nhân, vì thế mà phải bị sa đoạ nơi đây. Chí Tôn đã đại từ đại
bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt đạt ngôi vị là phải
trau luyện cho Tinh hiệp với Khí, Tinh Khí hườn Thần là cơ huyền bí để mà đắc Ðạo
vậy.
Trong giá của Tam Bửu mà Chí Tôn ưa chuộng để dâng Ðại Lễ cho Ngài là
nguyên nhân chấm dứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế
giới.
Ấy vậy, muốn duy trì sự hòa hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí Pháp đó mà
thôi, dầu triết lý thâm uyên đạo đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; mà nếu
không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình,
thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ.
3 - Tam Bửu: Tiên thiên
khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí
Rằm tháng 2 nhuận năm Ðinh Hợi (1947)
Hôm nay Bần Ðạo giảng tiếp về Tam Bửu, Bần Ðạo lần lượt giảng Tam Bửu trước
là vì Ðức Chí Tôn lấy Bông, Rượu, Trà mà tượng hình ba thể chất, tạo nên vạn loại.
Chơn linh mới thiệt là ta, còn Chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hình.
Chơn linh ta mượn cơ quan hữu hình để thân mật cùng cả cơ quan tạo đoan võ trụ.
Ta đến mang mảnh hình hài như thế nầy đặng chi? Nguyên do nơi nào mà đến, rồi
Bần Ðạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải Tu. Tu có ích gì, do nguyên lý nào mà
phải Tu. Bần Ðạo sẽ giảng nguyên do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu
Thiên Khai Hóa, Ðức Chí Tôn tạo Bát
Quái Ðài là gì?
Bây giờ Bần Ðạo giảng về Tam Bửu, ba cơ quan tạo nên hình thể con người,
Chơn linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên Thiên khí; Chơn thần do Hậu
thiên khí kết thành, còn xác thịt thì do vật chất mà nên.
Hỏi vậy ta muốn sống đây do cơ quan nào? Ấy là nhờ chơn linh mới có sự sống.
Chơn linh có một quyền năng vô đoán, chưa có khoa học nào tra cứu rõ thấu được.
Cái quyền năng của nó là của Ðức Chí Tôn ban cho. Quyền năng của chơn linh
không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn loại, của xác
hình. Chơn thần là Hậu thiên khí, nó bảo trọng vật chất khí.
Trong ba khí chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, chơn linh là nhứt điểm linh
quang do Chí Tôn mà có để bảo trọng cái sinh mạng, cái sống của thi hài. Ðến
ngày giờ nào niên kỷ đã định hết khối sinh quang rồi thì cái quyền năng ấy ra
khỏi xác, thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử.
Ấy vậy, ta kiếm thử coi Tiên thiên khí, Hậu thiên khí và Vật chất khí là
gì? Chúng ta sẽ thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có ba thể chất:
- Vật chất thì mắt ta thấy.
- Mùi vị là Hậu thiên khí.
- Năng lực là Tiên thiên khí.
Ba khí chất nầy tượng ra hình hài của con người, vật chất mùi vị, năng lực
thế nào thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm, ăn vào
để lấy cái tinh ba của nó là Hậu thiên khí phục nguyên khối sanh quang của ta
được tồn tại.
Tinh ba của vật chất nó vào mình làm cho xác hài có năng lực tráng kiện. Ta
thấy khi đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh khí đó vậy.
Chơn thần là Hậu Thiên Khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có,
ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh
vật nầy. Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là
phách, vía cả thảy đều có.
Người hay sợ ma là tại sao? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình,
năng minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy,
nên làm cho họ sợ.
Một khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gũi đặng họ sẽ
thương yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy.
Kẻ phàm mang xác hài hay có thất tình, lục dục, nên có sự phân cách về thể
chất hữu vi làm cho thiếu sự thương yêu vì ta sợ.
Ngày nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo đoan chừng đó ta mới biết Ðạo
là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên lơn dạy dỗ và giục thúc cho các đẳng
linh hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh vực chớ
không ai đặng mưu hại giục hư. Bần Ðạo giảng cõi Hư linh, nếu ta đạt pháp xuất
ngoại xác thân, tương hội cùng các Bạn cõi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo
tánh chất phàm tâm tưởng tượng.
Cõi Hư linh các bậc cao trọng: Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực
nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sinh. Các Đấng ấy rất may mắn gặp
những dịp để an ủi tâm hồn chúng sanh, hằng giờ hằng buổi không thiếu tình thương.
Chúng ta đến làm người, cốt yếu đạt cho được cơ tạo đoan trở nên Chí linh
chí Thánh, một kiếp học thêm một bực, để ngày kia mong mỏi làm Trời.
Các bạn biết Phật Thích Ca xưng là Bổn Sư, người tu gọi là Thầy, nếu các
chơn linh ấy gặp được, thấy được gần được
Phật thì đối với Phật không ngoài mức Bạn thân ái. Ở thế nầy dầu một vị Phật
cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường
đi trước kia, dầu ai phàm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau, họ chỉ biết một điều là
chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho Bạn đi cùng đường đạt lên Phật vị.
Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi mà đối với tất cả
vạn loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc hậu đó vậy.
Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô cô không phương bảo vệ, ngày
nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các Bạn lạc hậu ấy tiến hóa đến phẩm
người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi:
“Xưa kia Ðức Phật có ăn tôi một lần”. Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ-hổ thẹn-thuồng bằng.
Thế nên ta phải ăn chay.
Chưa có ai nhẫn tâm giết người đặng ăn thịt, cũng không có ai đặng quyền giết
các Bạn lạc hậu ấy để ăn. Ta đến đây làm Bạn cùng vạn vật chúng sanh, vạn vật
giúp ta học cho thấu đáo huyền vi cơ Ðạo, tạo chí linh nối nghiệp Ðức Chí Tôn.
Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp phẩm vị cho chúng ta, Thầy không khi
nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ bởi Ðại Từ Phụ mà không tin sao? Ông cha phàm
kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia
nghiệp hương hỏa.
Một điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ phương pháp nhỏ theo phàm. Còn
ông Cha Thiêng Liêng không lẽ thua ông cha phàm? Thầy nói: Thầy dành sẵn gia
nghiệp ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần Ðạo tưởng,
nhứt là phái Nam, thanh niên vũ chức nếu
mấy em biết cơ quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình vì Chí Tôn.
Bần Ðạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình
ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì HỘ-PHÁP hứa sẽ tái
kiếp luân hồi bồi thường cho đủ.
Vì những kẻ dám đem mình làm tế vật cho Thầy để lập nên một Quốc gia Thiên
định tại thế nầy, Bần Ðạo chắc Quốc gia ấy phải thành. Ðức Chí Tôn tạo cho con
cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần Ðạo chắc rằng, những hạng con cái
dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn đến. Nếu
chúng ta có con mắt thiêng liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các Ðấng
dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn linh cao trọng cũng phải cúi đầu.
Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết,
chớ không khi nào Ðức Chí Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy.
Xin cho toàn Ðạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn lý.”
4 - Tam Bửu: Nho – Thích
- Ðạo.
Rằm tháng 3 năm Ðinh Hợi
(1947)
“Hôm nay, nhơn Bần Ðạo làm phép Giải
Oan cho một người anh em của chúng ta là Hồ Tấn Khoa, nên Bần Ðạo giảng tiếp về
Tam Bửu. Giảng tiếp về vấn đề ấy lại, Bần Ðạo tuyên bố cho toàn Ðạo nam, nữ và
chư Chức Sắc Thiên Phong Nhị Hữu Hình Ðài được nghe rõ. Ðối với cơ quan đời biến
chuyển, từ ngày Bần Ðạo bị đồ lưu hải ngoại đến khi về tới nay tính lại đã gần
tám tháng,
Bần Ðạo thấy tình hình quốc gia của chúng ta mà cả thảy ai ai cũng biết chẳng
cần phải lập lại, vì Bần Ðạo đã thuyết minh nhiều lần rồi.
Bây giờ thử hỏi chơn truyền của Ðức Chí Tôn mở Ðạo là một nền chánh giáo,
tôn chỉ bảo chúng ta làm gì? Và Ðạo Cao Ðài phải đi theo con đường nào? Chúng
ta thấy Ðại Từ Phụ lấy ba Tôn Giáo: NHO, THÍCH, ÐẠO làm cơ quan duy nhứt, dầu về
phần thiêng liêng hay hữu hình cũng vậy, để làm bí mật chơn truyền dìu dắt linh
hồn và thi hài của chúng ta và là một phương pháp đoạt kiếp giải thoát linh hồn.
NHO lấy nhơn nghĩa làm căn bản, ÐẠO lấy công chánh làm căn bản, THÍCH lấy bác
ái từ bi làm căn bản. Ba triết lý ấy hiệp lại vừa lo phần Ðời và phần Ðạo, xác
hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Ðức Chí Tôn đứng chờ đợi các con cái hiệp
một cùng người.
Nhơn nghĩa là gì? Người có Nhơn thì không oán, Nghĩa thì không bạc. Công
chánh là gì? Có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều
chơn thật được, còn có Từ bi thì có khoan hồng dung thứ, có Bác ái mới có thể bảo
thủ và thân mến toàn thiên hạ, nếu chiếu theo chơn truyền của Ðức Chí Tôn
khuyên bảo chúng ta thế nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải
khoan hồng, tha thứ, biết yêu ái, phải có công bình chánh lý, chúng ta giữ được
cả chơn truyền ấy thì không ghét ai, oán ai. Trái lại, Ðại Từ Phụ buộc chúng ta
phải thương yêu kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa.
Chiếu theo chơn truyền ấy, đối với đời, với quốc gia chủng tộc toàn đạo phải
xử thế nào? Chẳng lẽ Ðạo Cao Ðài phải nhượng bộ hạ mình trước đảng phái, vì cái
tinh thần của Ðạo còn chẳng nhượng ai, huống phải hạ mình làm nô lệ cho đảng
phái? Quyền tự chủ ấy là quyền của Chí Tôn ban cho, Thầy đã không làm tớ ai,
nên quyền Ðạo nó chỉ làm Thầy.
Nó tự có một năng lực, mà cái năng lực ấy không tùng năng lực của ai cả. Nó
có một quyền hành sở hữu, chớ không tùng ai và không theo đảng phái nào. Nó phải
lập quyền yêu ái công chánh từ bi, nó có phận sự tạo nghiệp cho đời chớ không
phải làm tôi mọi cho đời. Ðời đang phải chịu vòng nô lệ thì con cái của Ðức Chí
Tôn bây giờ phải theo tôn chỉ nào? Phải biết rằng có Thiên mạng con cái của Ðức
Chí Tôn là Thánh Thể, ông Trời tại thế nầy. Trời đã không nhường ai, không làm
tôi tớ ai, thì con cái của Ðức Chí Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương
của con cái Ngài, vì thiên lương ấy là căn bản tạo quyền cho thiên hạ, là con
cái của Ngài, lẽ đương nhiên chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã hội,
chúng ta đang ở trong tình thế bại hoại. Chúng ta chỉ biết nhìn một quyền dân
Việt Nam mà thôi. Thời buổi loạn lạc dân không có quyền, trong nước đảng nầy
phái kia, chia năm chia bảy, nên buộc chúng ta phải kiếm một cái quyền của nhà
Vua, Vua và dân hai quyền ấy nó tương liên với vận mạng nước Việt Nam, tìm cái
kia không phải tìm cái nọ, cái quyền sở hữu nào chúng ta thấy thì chúng ta phải
cầm lấy, giúp Vua để lập quyền cho nước, cho quốc gia xã hội.
Vì vậy chúng ta phải đem nhà Vua lại để lập quyền cho dân, quyền là chánh
sách Ðạo Cao Ðài giúp quân chủ tạo dân quyền. Bởi thế Bần Ðạo đã công khai cùng
Chánh phủ rồi. Bần Ðạo sẽ công khai cho toàn thiên hạ biết rằng: Chúng ta sẽ hướng
ra Quân chủ Dân quyền để tạo tương lai cho quốc vận. Chúng ta không thấy còn
con đường nào khác nữa, chỉ một con đường duy nhứt cao thượng nầy mà Ðạo phải
làm cho thành tựu, Bần Ðạo xin cả thảy nghe và tìm hiểu chơn lý ấy rồi hằng đêm
cầu nguyện để quyết định tương lai vận mạng nòi giống của chúng ta.
5 - Quyền năng của đức
tin.
Đêm 29 tháng 2 nhuần năm Ðinh Hợi (1947)
Bần Ðạo giảng về quyền năng của đức tin. Hôm nay vì có hàng Quân Ðội Võ Chức,
nên Bần Ðạo cần giải rõ cái quyền năng ấy cho toàn Ðạo nam nữ rõ.
Thời buổi nầy là thời buổi toàn con cái của Ðức Chí Tôn đưa tay lên cùng
nhau nâng đỡ và vãn hồi quốc vận, nên Bần Ðạo giảng về cái quyền năng của đức
tin, để cả thảy trụ tinh thần cầu nguyện Ðại Từ Phụ ban ơn nền Quốc Ðạo sớm được
hoàn thành, hầu cứu vớt cả giống nòi Việt Nam chúng ta thoát nạn tương tàn,
tương sát.
Toàn Ðạo nên để trọn đức tin nơi Người, thì mới mong nền Quốc Ðạo mau thành
tướng. Ðức Chí Tôn tạo cơ quan cứu sanh nầy mà gặp phải những điều trắc trở,
nguy hại không sớm giải quyết được, là bởi toàn thể quốc dân ta không biết cầu
nguyện nơi Người. Bần Ðạo lập lại lời nói của Ðức Chúa Jésus nói cùng Môn Ðồ của
Người rằng: "Hỡi các Môn Ðồ, Ðức Chúa Cha ta trên Trời dạy rằng: Nếu toàn
thể các ngươi có một cái đức tin bằng hột mè thì nó cũng đủ sức xô ngã núi, nó
đi không gì ngăn cản nổi".
Ấy là Ngài nói cái đức tin bằng hột mè mà toàn thể quốc dân đều có, thì đâu
có phải chịu cảnh trạng thương tâm thế nầy.
Hại thay! Dân 25 triệu, đã tự xưng là con Rồng cháu Tiên, tự biết giống nòi
do một căn nguyên chí Thánh cao trọng, có máu Tiên Rồng, mà cái đức tin lại
không bằng hột mè hay sao? Nếu mỗi người Việt Nam ta đều có một cái đức tin bằng
hột mè mà thôi, cũng đủ dời non vét bể được.
Bần Ðạo nói thật, buổi Chí Tôn đến tạo Quốc Ðạo cho nòi giống Rồng Tiên nầy,
chính Ngài cầm cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà gọi từ đứa con, cho không biết
bao nhiêu bài khuyến dạy, tạo thành một nền Tôn Giáo Cao Ðài là Quốc Ðạo, Bần Ðạo
tưởng chưa có người nào đem cả tinh thần, tâm đức mà thi ân cho ai dường ấy. Ðức
Chí Tôn đến độ rỗi, lập giáo rồi lại bắt minh thệ.
Hỏi tại sao Ngài lại bắt minh thệ buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau. Mỗi
người có một chút đức tin, Thầy bảo qui đức tin ấy lại, phải có tâm đức tin tưởng
yêu ái lẫn nhau. Phải nhìn nhận có Thầy, có đức tin nơi Thầy.
Hại thay! Có nhiều đứa con của Ngài cũng nghe, cũng tìm Ðạo, cũng thọ giáo,
cũng minh thệ đủ phép tắc. Biết bao nhiêu, khi mới đến cùng Thầy, quì dưới chơn
Thầy mà hễ ra khỏi chơn Ngài rồi thì lại phản phúc Ngài và con cái của Ngài.
Bần Ðạo định quyết rằng: Cái tai nạn của giống dân Việt Nam đến cảnh tượng
nầy chúng ta phải nhìn nhận tội của chúng ta vì thiếu đức tin nơi Ngài mà ra vậy.
Phải chi trước kia biết nhìn nhận Ðấng đến dìu dẫn yêu ái nâng đỡ, để đức tin
nơi Người, nghe theo Người thì cái nạn đổ máu tương tàn, tương sát giống nòi
không hề có đặng.
Cái hại về sự lưu huyết nầy Bần Ðạo xin nói là do cái tội bất tín nhiệm
cùng Ðại Từ Phụ đó vậy. Ôi! Nếu Bần Ðạo tả hết cái tình cảnh của Ðạo trót hai mươi
năm nay, thì mới biết cái năng lực của đức tin nó mạnh đến bực nào. Từ khi Bần
Ðạo đến đây, ai xô cũng không ngã, đuổi cũng không đi, dầu còn dầu mất, dầu nên
hư, Ðức Chí Tôn bảo Bần Ðạo ngồi nơi đây, ở nơi đây, dầu cho vì mạng lịnh ấy mà
mảnh thân nầy có phải tiêu diệt để bảo trọng nền Quốc Ðạo, thì Bần Ðạo cũng
không bước ra khỏi đây một bước. Nếu Bần Ðạo quí trọng sanh mạng nầy, thì Bần Ðạo
có đủ thì giờ để trốn tránh. Biết bao nhiêu bạn, khuyên lơn Bần Ðạo trốn đi. Bần
Ðạo trốn được, tránh được mà Bần Ðạo không khi nào chịu vậy. Ðức Chí Tôn bảo ở,
dầu sống chết ngồi nơi đây ôm chân Ngài mà thôi. Bần Ðạo chỉ để lời cầu nguyện
đem cả thi hài và tâm hồn làm tế vật cho Quốc Ðạo được thành tướng mà thôi. Bần
Ðạo chỉ xin có bấy nhiêu mà chưa chắc đã xin được, vì phải toàn thể con cái của
Ðức Chí Tôn qui tụ đức tin lại thành một cái năng lực giúp chúng ta thắng nổi
quỉ quyền và các cường lực đàn áp tiêu diệt Ðạo. Chúng ta bảo trọng được Quốc Ðạo,
do cái năng lực của đức tin ấy. Chúng ta qui đức tin lại, bảo trọng cơ Ðạo thì
thoát được cái nạn tương tàn tương sát máu đổ thịt rơi.
Nếu toàn Ðạo nam, nữ nhìn Ðức Chí Tôn lập đặng cái quyền năng ấy, chúng ta
nương lấy nó mạnh mẽ, cầu nguyện đồng tâm một ngày một giờ, thử coi Ðức Chí Tôn
có giải thoát cho chúng ta không?
Từ khi Bần Ðạo về qui tụ các con cái của Ngài, thì Bần Ðạo đã giải kiết cho
Ðạo nhiều rồi. Chúng ta cầu nguyện thêm đôi tháng nữa mà thôi và lo tròn phận sự
phú thác thì ngày đoạt vọng không lâu, và chúng ta sẽ thấy có huyền diệu hay
không về quyền năng ấy.
6 - Tam Bửu: Nguyên thỉ tạo
thành Càn Khôn Thế Giái.
Đêm 29 tháng 3 năm Ðinh Hợi (1947)
“Hôm nay Bần Ðạo giảng về Tam Bửu,
nguyên thủy tạo thành Càn Khôn Thế Giái.
Từ trước đến giờ thiên hạ thường nói là có Ðạo, tin Ðạo, nhưng Bần Ðạo tưởng
chắc chưa có ai hiểu Ðạo là gì cả, nên Bần Ðạo lần lượt giảng cái chơn nghĩa của
chữ Ðạo, giải rõ cái liên quan giữa Ðạo và con người cùng vạn vật do nơi đâu mà
có, rồi sẽ giảng về nguyên căn của Tam Bửu, là một nguyên căn, là một bổn nguyên
Tinh, Khí, Thần. Ðức Chí Tôn là Ðấng tự hữu hằng hữu, mà từ thử đến giờ bất kỳ
một Ðấng Thiêng Liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn của Người đặng.
Theo lời Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiểu rõ
nguyên căn của Chí Tôn, chỉ biết cái quyền năng vô đối của Người mà thôi. Bần Ðạo
đã vấn nạn Ðức Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến
nay chắc chưa có vị Giáo Chủ nào đã hỏi như Bần Ðạo. Bần Ðạo hỏi nguyên căn của
Ðức Chí Tôn và quyền năng của Người, thì Ðức Chưởng Ðạo có tả một bài văn chữ
Pháp dịch ra Quốc Ngữ; nhưng chính Ðức Nguyệt Tâm cũng đã thú thật rằng: Không
biết nguyên do của Chí Tôn là thể nào, chỉ biết quyền năng vô đối của Người mà
thôi.
Nay thuyết về vấn đề ấy, Bần Ðạo chỉ nói Ðấng Chí Linh hằng hữu ấy là Ðức
Chí Tôn, là Cha cả chơn linh vạn vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một
cách thâm thúy khối linh ấy thế nào hơn hết, biết bao nhiêu Ðấng, biết bao
nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh
tâm cao trọng hơn cả vạn vật? Tìm tòi với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu
biết, và cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Ðạo. Nhìn
biết và hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét
có vật tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì, từ trước đến giờ loài người
tìm kiếm mãi nguyên do của nó.
Tiếp khai các nền Tôn Giáo hiện hữu không một nền Tôn Giáo nào nói mực thước
và có một chơn lý cao siêu hơn là Phật Giáo, nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng
cần tìm đâu xa xuôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm linh chúng ta
có quan sát cả chơn lý của Phật Giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc
rằng: Chúng ta có một Tôn Giáo mà Tôn Giáo ấy là Chúa Tể các nền Tôn Giáo khác,
vì bởi nó là nguyên căn của Tôn Giáo và chính nó là một Tôn Giáo tự hữu, từ buổi
Trời Ðất biến sanh đã có, cái khối chơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của
nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ trước Ðức
Chí Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh khí ấy mà
biến thành vạn vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn
vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã
nhiều, nhưng xét ra cũng chưa hiểu rõ cái nguyên căn ấy. Phật Giáo nói: Cái khối
linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn vật, khối linh ấy trước khi phân
tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Ðấng thứ nhì Civa chủ
về Pháp, Ðức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo
đoan. Pháp vận hành mà sanh khí nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là Khí, vậy
Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ
Khí là sự sống của vạn vật, do Khí là Pháp biến tướng ra vạn vật. Nên Ðấng thứ
nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2è Logos" thuộc Âm ấy là
Phật Mẫu chưởng quản cả cơ quan tạo đoan nầy vậy.
Như chúng ta thấy cơ quan sanh hóa vạn vật và loài người là do âm dương phối
hợp mà biến tướng, Phật chiết tánh biến ra Pháp là Ngôi thứ nhì thuộc Âm, là Phật
Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí mật ấy là khí âm dương phối hiệp biến hình,
mà Phật Mẫu dùng gì để tạo nên cơ quan hữu vi nầy, vì bởi Phật Mẫu dùng khối
sanh quang có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được.
Khí biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió, rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn
vật, đi từ Hổn ngươn khí, Hư vô khí đến Huyền ảnh khí rồi mới biến ra vạn vật,
tức là Huyền ảnh khí biến ra nhơn hình vậy. Khí mà khoa học gọi là Nguyên tử
khí (Atome) Nguyên tử khí có năng lực vô biên mà loài người đã đoạt được để
dùng, chớ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ
ngày loài người tìm được nguyên tử chất và dùng được cái Nguyên tử khí ấy là
cái khí sanh của vũ trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ
Nguyên tử khí ấy mà qui nguyên Thánh Thể. Thử hỏi Ðức Chí Tôn cho nhơn loại đoạt
Nguyên tử khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền vi bí mật ấy,
mà dầu cho Ðạo Giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay
Nguyên tử khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử
hườn sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử.
Vì bởi Nguyên tử khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết
được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió
vận hành tạo ra hữu hình là vạn vật, vì cớ mà con người đối với vũ trụ hình ảnh
thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn Khôn làm Ðại Thiên Ðịa và lấy
con người mà làm Tiểu Thiên Ðịa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn
Khôn, tức là sự sống phải tương liên với Chí Tôn mà Chí Tôn lại cầm quyền năng
vô đối.
Hỏi vậy Chí Tôn tạo ra cái đại nghiệp ấy để cho ai? Ðể cho Vạn Linh, mà đứng
đầu Vạn Linh lại là loài người, mà loài người có hưởng được thì Ðức Chí Tôn mới
dành cho, nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa
hưởng được cái quyền năng ấy. Ðức Chí Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng muốn
chúng ta làm được như Ngài, tức là đem Tiểu Thiên Ðịa đến Ðại
Thiên Ðịa.
Ấy vậy về cơ quan đoạt lấy đại nghiệp, Chí Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng
Tu. Tu cho hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế gian còn dữ
quá thì chừng nào mới đoạt đặng.
KẾT LUẬN
Loài người do đâu mà đến ?
Ngày 29 tháng 4 năm Ðinh Hợi (1947)
“Hôm nay Bần Ðạo giảng về loài người
do đâu mà đến. Trước khi ta tìm chơn lý ấy, ta nên biết trước tạo đoan là Cha cả
vạn vật hữu hình và tìm nguyên căn của Chí Tôn đã.
Chúng ta đã nhìn trong kinh điển hồi trước để lại thấy cả cơ quan hữu vi
nhãn tiền nầy làm cho ta biết và nhìn đến tạo đoan ấy là Ðại Từ Phụ. Chẳng luận
giống dân nào và các nhà triết lý của các Tôn Giáo cũng vậy, đều nhìn Ðấng Tạo
Ðoan Càn Khôn Thế Giới sanh hóa vạn vật và loài người, là Ðấng Cha cả chúng
sanh, ấy là các Tôn Giáo đã có từ thượng cổ đến giờ. Phật Giáo cho ta hiểu, có
một Ðấng quyền năng vô biên vô đối không tả được, tạo ra vạn vật Càn Khôn Vũ Trụ
nầy. Ðấng ấy đã có đến ở cùng loài người, cũng thọ bao nhiêu thống khổ, đau đớn,
biết luân luân chuyển chuyển từ phẩm người đến Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ðấng ấy
nắm cả quyền năng vô đối huyền vi mầu nhiệm trong tay, tạo nên Càn Khôn Thế Giới
định phép công bình, lành có lành trả, ác có ác trả hiển nhiên, nên loài người
tôn sùng Ðấng ấy là Ðức Thượng Ðế, cầm quyền thống ngự vạn linh ấy là Hoàng Ðế
tối cao thượng của võ trụ vậy.
Các Tôn Giáo có nói Ðức Thượng Ðế, là Ðấng không nhìn thấy được, vì không
hình không ảnh, nhưng không một việc nào mà Ngài không biết. Trong Nho Giáo có
câu: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu", nghĩa là: Trời cao lồng
lộng mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới thiêng liêng của Ngài,
nên xưng tụng Ngài là Thiên Tôn cầm quyền Vạn Linh mực thước như một ông Tòa trị
thế.
Ðấng tạo ra vạn vật Càn Khôn Vũ Trụ, sanh ra nuôi nấng tạo ra bảo bọc, hằng
để trong mỗi thi hài một tâm linh mới được khôn ngoan hiểu biết rằng: Có người
có ta nên ta nhìn Ðấng cho ta cái tâm linh ấy là Ðấng tối linh, là Cha của ta.
Ngoài Ðấng ấy, thì không ai nữa làm Chúa Tể của Vạn Linh đặng, tôn sùng như thế
là thấy Ðấng Cha cao thượng hơn ông Cha phàm, vì thế mới xưng tụng Ngài là Ðại
Từ Phụ. Thật thế, nhà Phật cho Ngài là Ðại Từ Phụ trúng hơn hết, vì nếu Ðấng ấy
không cho một điểm linh quang thì thế nào bảo tồn sanh mạng đặng.
Loài thú, ta thấy hiển nhiên mới sanh ra tuy mắt còn nhắm híp mà vẫn tìm vú
mẹ để sống, đến cỏ cây hễ sanh ra thì biết trải lá hứng sương tuyết, hấp thụ
cái sanh khí mà nuôi sự sống, một vật có điểm linh quang ấy như thế khối linh
quang ấy là Cha vậy.
Ðại Từ Phụ là Cha cả Vạn Linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ
hưởng phần hữu hình tại thế mà thôi, Ngài lại còn dành một phần quí trọng hơn
là nhứt điểm linh quang, nhờ đó mà từ vật chất tiến đến thú cầm nhơn loại, mới
tiến đến Phật vị mà ngang phẩm cùng Ngài, Ðức Từ Phụ là Phật, Ngài muốn cho con
cái cũng thành Phật. Ðặng đạt quyền năng bí mật như Ngài, rồi lập ra một Càn
Khôn Thế Giới khác. Luật thiên nhiên một ông Cha tạo nghiệp, thì con theo nghiệp
Cha mà tạo ra sự nghiệp khác nữa.
Tuy trong buổi Tam Kỳ Phổ Ðộ, Bần Ðạo biết mở Ðạo Cao Ðài đặng tuyển chọn
trong hàng Phật đạt kiếp từ tạo Càn Khôn Thế Giới đến kế vị Ngài. Trong buổi Ðại
Từ Phụ mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có treo bảng ở Ngọc Hư Cung, lập một ông Trời kế
vị Ngài, nhưng chúng ta thấy trong hàng Phật có ba người:
- Phật Thích Ca
- Phật Di Lặc
- Ðức Chúa Christ
Thử hỏi ba người ai sẽ làm Trời. Ta tưởng ba người sẽ có một người làm được,
mà người đó chúng ta biết chắc có, tuy không quyết đoán trước đặng, chúng ta mơ
màng ngó thấy nhưng không dám nói.
Hễ Ðấng nào đủ quyền năng trị thế, tinh thần cho cao trọng thâu phục cả tâm
lý nhơn sanh vào khuôn Ðại Ðạo, gồm tinh thần tư tưởng loài người lại được, thì
Ðấng ấy sẽ kế nghiệp.
Tại sao chúng ta phải tìm
hiểu cho thấu đáo Chơn truyền của Đức Chí-Tôn?
Người Tín-hữu Cao-Đài cần phải rõ thông Giáo lý, Giáo pháp Đại-Đạo tức là tự
mình xác định chỗ đứng của mình trên trái đất này: phải làm gì hôm nay? Mai
ngày khi xác thân trở về cát bụi sẽ ra sao? Đó là mục đích của người tu,là học
thêm một cấp cao về tâm linh
Đức Hộ-Pháp nói:
“Chúng ta đã thấu-đáo cả Chơn-truyền
của Đức Chí Tôn, các huyền-vi bí-mật cơ Tạo-đoan Càn-khôn vũ trụ, nó có ba điều
trọng-yếu là:
1 - Cái kiếp sanh của
chúng ta theo như chơn truyền Đức Chí-Tôn: các Chơn-linh đến tại mặt thế này hay là các địa-giới trong càn khôn
vũ-trụ cốt để Trả quả kiếp của mình, hoặc mình đã tạo căn-quả vì trong con đường
tấn hoá chơn-linh của mình không đủ mực thước để điều khiển khối chơn-linh yếu-ớt,
không đủ quyền duy chủ mà phải phạm thêm điều oan nghiệt.
2 - Đến đặng tìm-tàng cái
học lực của mình, học lực của mình là điều mình
muốn biết cả kiếp căn của mình nếu không biết cũng đeo đuổi theo, tìm-tàng cho
biết cả cơ quan bí-mật tạo-đoan.
3 - Là đến để lập vị cao
thăng hơn nữa tức nhiên theo cơ Tạo-đoan
càn-khôn vũ-trụ về hữu hình, cốt yếu để giúp cho các chơn-linh tấn triển trên
con đường Thiêng liêng hằng sống.
Bần-đạo có cho
toàn thể chúng ta thấy căn sống của mình chẳng phải nơi trái địa-cầu 68 này mà thôi, mà các mặt địa-cầu khác trong Càn-khôn
vũ-trụ cũng đều một khuôn luật ấy.
Có nhiều trái địa-cầu tấn triển cao hơn khuôn khổ kiếp sống của con người,
có thể giảm bớt tội, nhưng khuôn luật vẫn một mà thôi, không chi sửa đổi.
Chúng ta đã thấy mình sống, kiếp sống của mình như thế; Bần-đạo đã cho toàn
thể con cái Đức Chí-Tôn tự soát mình lại không có hạnh-phúc chút nào hết. Thật
sự ra, đề-mục chúng ta phải đi trong khoá này của Đức Chí Tôn, đến đặng mở
khoa-mục cho nhơn-loại buổi này, hay là mỗi lần các Đấng cao siêu hơn nữa đến tạo
Đạo, cốt yếu mở khoa-mục cho các chơn-linh thì chúng ta đã ngó thấy khoá
này là khoá đầu tiên hết thảy trong đề mục”
(ĐHP: 29-5 Kỷ-Sửu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét