Hôm sau, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 20-1 Đinh Mão
(Dl 21-2-1927) Đức Chí-Tôn giáng dạy như sau :
“Các con nghe! Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh địa. Thầy đã ban sắc
cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương vào trấn nhậm làng Hiệp Ninh
dạy dỗ dân vô đạo, Thầy ban quyền thưởng phạt, đặng răn làng ấy cho đến ngày
chúng nó biết ăn năn cải quá. Vậy thì Làng Long
Thành, các con khá an lòng.
Còn Tòa Thánh thì muốn để cho có nhơn lực hiệp cùng
Thiên ý là hạnh của Thầy, các con nên xem gương mà bắt chước. Từ Thầy đến lập Đạo cho đến giờ, Thầy chưa hề một mình
chuyên quyền bao giờ. Các con lựa chọn nơi nào mà Hội Thánh vừa lòng thì là đẹp
lòng Thầy.
Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại
Tây Ninh nầy mà thôi.
Các con đã hiểu Thánh ý Thầy, phải cần kiệm mỗi sự chi về phương tiện mà
thôi.
Thơ! Thầy giao cho con góp tư bổn trong một tháng cho rồi, dặn các em con rằng:
“Danh thể Đạo nơi Tòa Thánh, nghe à !”. Sau Thái Bạch sẽ dạy con kiểu vở.
Cẩm Giang thì các con phải chịu khổ về phần ăn uống, Bén Kéo thì địa thế hẹp
hòi, chớ chi các con khôn ngoan lấy cớ rằng: vì ích lợi lương sanh, vì đạo đức
mà ký Chánh phủ cho các con mé rừng Cấm bên kia đường thì đẹp lắm. Các con liệu
thử!
Thơ! Suối Vàng thì đặng, phương chuyên chở không thuận tiện, song phong thổ
tốt đẹp. Con cũng yêu cầu Hội Thánh xét nét, nghe à ! Thầy ban ơn cho các
con."
(ĐS. II. 223) & [TNHT. I. 98]
Tiếp theo, cũng tại chùa Gò Kén, ngày 21-1 Đinh Mão (Dl 22-2-1927) Đức Lý
Giáo-Tông giáng dạy tìm đất Thánh Địa:
“Thượng Trung Nhựt! Thái Thơ Thanh! Cười! Nhị vị Hiền
hữu muốn cho Đạo phải mang tiếng rằng: Trốn lánh hay sao mà tính dời Tòa-Thánh
xa dữ vậy hử? Tỷ như Lão muốn lập Tòa Thánh gần bên thành binh, chư Hiền hữu tưởng sao?
- Trung bạch: Có hai làng cúng đất.
- Mua thì đặng, khó gì! Một nơi chí Thánh trước mắt mà chư Hiền hữu chẳng
biết xem, ấy cũng còn hai phần phàm.
Thái Thơ Thanh! Lão cậy Hiền hữu một phen nữa, mai nầy đi lên đường trên gọi
là đường dây thép, nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ, coi Hiền hữu thấy
đặng chăng cho biết.
Lão đã nói rằng: Mỗi sự chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết. Chư Hiền hữu đừng
sợ ai hết, hễ sợ thì chối quyền Thiêng liêng của Chí Tôn thì còn gì Đạo! nghe à
!" (Đạo-Sử. II./ 224)
b/ - Đức Hộ-Pháp nói về việc
mượn chùa Từ Lâm của Hoà Thượng Giác Hải
“Đức Chí Tôn nói “chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi”. Ngó lại
thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm
Tự của nhà Thiền tức của Hòa Thượng Giác Hải làm mới nửa chừng, họ muốn cho mượn
đặng lợi dụng mình làm cho xong. Xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời
quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi
đi.
Thật vậy, họ đuổi đi, phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại
toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ. Như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa
Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước
trốn mà đi. Một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút
nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo,
bằng không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì
thương chúng sanh kính trọng con cái Đức Chí Tôn đem đức tin để trọn vẹn nơi
Ngài lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn
không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả
nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn đem cả đức tin thực
hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo
nghiệp. Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng
nầy nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã, biết bao
xương máu.”
02 - Ông Ngô Văn Chiêu (1878-1932)
(Bỏ Toà Thánh tách ra lập Chiếu Minh vô vi)
A-
1 . Bên lề cuộc sống của
Ngài Ngô văn Chiêu:
Ngày 29-03-Bính Dần (Thứ hai: 10-5-1926) Đức Thượng Đế giáng Cơ dạy Đức Hộ-Pháp:
- Tắc! lập tức đi ngay đến nhà Trung có việc cần kíp!
Dù đêm đã khuya, nhưng lịnh của Đức Chí-Tôn, Ngài phải thi hành, đến nhà Đức
Quyền Giáo-Tông Lê-văn Trung ở số 39 đường Quai Testard Chợ-lớn. Đến nơi, vài
phút sau thì cụ Ngô-văn-Chiêu cũng đến. Xuống xe, cụ tỏ vẻ đau đớn dường như
không tự đi đứng được, hai Ngài Trung và Tắc phải dìu cụ vào nhà. Cụ Chiêu tiết
lộ:
- Năm 1919 nơi đảo Phú Quốc, Đức Chí-Tôn thâu nhận cụ làm Đệ-tử và dạy đạo
cho. Cụ Ngô đã ước hứa với Thầy là “sẽ truyền Đạo của Thầy để cứu đời”. Nay vì
phong trào cầu Cơ của quí vị tiền khai Đại-Đạo đã thu hút cả hàng thượng lưu
trí thức cùng cả giới nông, công, thương, nghèo hèn, khiến cho chánh quyền thực
dân Pháp lo ngại nên gây áp lực buộc cụ Chiêu phải lấy tư cách người Anh Cả của
nhóm đệ tử đầu tiên phải ra lịnh cho tất cả: ngưng việc cầu cơ ! Chấm dứt việc
chúng sinh cầu Đạo. Nếu không tuân lịnh chúng sẽ cho Ngài nghỉ việc và truy tố
ra Toà về tội “Không chấp hành lời cam kết” phải bồi thường “Ngân khoản đào tạo”.
Những án phạt vừa kể, Cụ Chiêu còn có thể chịu đựng được, nhưng chúng còn doạ
là cắt học bổng của con cháu cụ đang du học bên Pháp và cấm cả việc chuyển ngân
của gia đình cho con cháu nữa. Do vậy mà lời phát nguyện khi xưa của cụ với ông
Thầy Trời khó mà thực hiện được.
Cụ Ngô văn Chiêu mới sở cậy Ngài Lê-văn-Trung ra gánh vác việc Đạo trong
tương lai. Sau cùng Cụ Chiêu quyết định làm theo sự đòi hỏi của người Pháp. Cụ
Chiêu đã chủ trương câu “Ngô thân bất độ hà thân độ” (thân tôi chưa độ được thì
làm sao độ người).
Bấy giờ Cụ Chiêu tách ra khỏi nhóm Đệ-tử tiền khai Đại-Đạo ở Toà-Thánh
Tây-ninh và tự lập ra Chi-Phái Chiếu Minh và tu vô vi.
Phái nầy do Ngài Ngô Văn Chiêu lập ra vào đầu năm 1927, sau khi Ngài đã bị
truất ngôi Giáo-Tông, lúc đầu gọi là Cơ Tuyển Ðộ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi ở tại
Châu Thành Cần Thơ. Sau khi Ngài Chiêu đăng Tiên thì ông Tư Huỳnh lãnh đạo.
Phái Chiếu Minh chuyên về Nội giáo Vô Vi, Tâm pháp bí truyền luyện đạo, nên
lựa chọn và thâu nhận rất ít tín đồ, hoạt động hạn hẹp ở ba nơi: Cần Thơ (Tổ
đình), Phú Quốc và Sài Gòn. Hiện nay Phái Chiếu Minh lại phân ra: Chiếu Minh
Long Châu và Chiếu Minh Ðàn.
2 - Tiểu sử Ngài Ngô Văn
Chiêu:
Ngài Ngô Văn Chiêu, sanh ngày 7 tháng Giêng năm Mậu-Dần (dl 8-2-1878) tại
Bình Tây, Chợ Lớn, thân mẫu là bà Lâm-Thị-Quí và thân phụ là ông Ngô-Văn-Xuân
thuộc dòng dõi quan Thị Lang của triều đình Huế.
Khi Ngài Chiêu được 6 tuổi, ông bà thân của Ngài tìm được việc làm ở Hà-Nội
nên đem Ngài gởi cho người em ruột là bà Ngô Thị Đây ở Mỹ Tho. Bà Đây có chồng
là người Hoa, mở tiệm thuốc Bắc tại xã Điều Hòa, cạnh nhà việc, thuộc Mỹ Tho.
Ngài Chiêu ở với cô ruột và được cô cho đi học, đến năm 12 tuổi thì nhờ người
quen cũ của cha bảo lãnh xin vào học nội trú tại Collège Mỹ Tho. Sau đó Ngài
lên Sài Gòn học tại trường Chasseloup Laubat và đậu bằng Thành Chung năm Ngài
được 21 tuổi.
Ngày 23-3-1899, Ngài Ngô Văn Chiêu được nhận vào làm Thơ ký tại Sở Tân Đáo
Sài Gòn.
Ngài theo sự hướng dẫn của người cô ruột, kết hôn với bà Bùi Thị Thân, người
làng Thạnh Trị, đang làm nghề buôn bán tại chợ Mỹ Tho. Ông Bà sanh được cả thảy
9 người con, cả trai lẫn gái.
Ngày 1-1-1903, Ngài Ngô Văn Chiêu được đổi về tùng sự tại Dinh Thượng Thơ
(Bureau du Gouvernement de Cochinchine).
Ngày 1-5-1909, Ngài được đổi xuống làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An.
Ngày 1-1-1917, Ngài đậu Tri Huyện, vẫn tiếp tục làm công chức tại Tân An.
Ngài mua một căn nhà lá tại thị xã Tân An, sửa lại thành ba gian lợp ngói và
đưa cả gia đình gồm vợ con về sống nơi căn nhà nầy.
Đầu năm 1920, Ngài Chiêu buồn rầu vì thân mẫu mới mất nên Ngài xin đổi đi
Hà Tiên.
Ngày 1-3-1920, Ngài được đổi xuống Hà Tiên, làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh
Hà Tiên được 8 tháng thì Ngài được chuyển ra làm Chủ Quận Phú Quốc ngày
26-10-1920 và làm việc tại đây được 4 năm.
Ngày1-1-1924, Ngài được thăng lên ngạch Tri Phủ.
Ngày 30-7-1924, Ngài được đổi về Sài Gòn, làm việc tại Phòng Thương Mại
trong Dinh Thống Đốc Nam Kỳ.
Ngài Ngô Văn Chiêu mướn nhà ở nhiều nơi, nhưng sau rốt Ngài đến ở lầu 2 nhà
số 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài Gòn.
Năm 1931, Ngài Ngô Văn Chiêu 54 tuổi, Ngài xin nghỉ làm công chức, lui về
an dưỡng ở Cần Thơ.
Trên bước đường làm quan cho nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ đang cai trị
Nam Kỳ, Ngài Ngô Văn Chiêu nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chánh trực, công
bình. Đối với bạn đồng liêu, Ngài rất khiêm tốn, ôn hòa. Đối với dân chúng,
Ngài rất thân dân, hết lòng giúp đỡ, nhưng không bao giờ thọ lãnh lễ vật hay tiền
bạc đền ơn đáp nghĩa. Lúc làm Chủ Quận, khi gặp nghi án thì Ngài chẳng nề khó
nhọc, điều tra cho ra manh mối để tránh cho người dân bị hàm oan hay bị ức hiếp.
Lúc Ngài ở Phú Quốc, Ngài đã biết Đạo rồi, nên khi gặp những vụ thưa kiện,
Ngài thường khuyên giải cả đôi bên giải hòa cùng nhau, khi hai bên chẳng chịu
thì Ngài làm tờ giải lên tỉnh Hà Tiên.
3 - Quá trình Ngài Chiêu
ngộ Đạo Cao Đài:
Việc ở Tòa Hành Chánh tỉnh Tân An thì phong trào cầu cơ thỉnh Tiên cũng
đang chớm nở tại đó. Ngài rất ngưỡng mộ, nên hợp tác với các bạn thân gồm quí
ông: Đoàn Văn Kim (Một Kim), Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ), Trần Phong Sắc, Nguyễn Văn
Vân, tạo thành một nhóm cầu cơ, xin những bài thuốc chữa bịnh. Trong nhóm chọn
ông Trần Phong Sắc làm Pháp đàn, ông Thọ làm đồng tử, Ngài Chiêu làm độc giả,
ông Vân làm điển ký (ghi chép bài cầu cơ). Nhà Ngài Chiêu có thờ Đức Quan Thánh
và Quan Âm Bồ Tát, nhà ông Thọ thì thờ Bát Tiên.
Vào ngày rằm âm lịch mỗi tháng, Ngài Ngô Văn Chiêu đều tổ chức cầu cơ tại
nhà của Ngài. Bài kinh cầu cơ lấy trong kinh Vạn Pháp Qui Tông, nhờ mấy đứa trẻ
nhỏ, tắm rửa sạch sẽ, quần áo tươm tất, làm đồng nhi tụng kinh.
Cuối năm 1917, thân mẫu của Ngài Chiêu lâm trọng bịnh, Ngài phải xuống đàn
Cái Khế ở Cần Thơ để cầu xin thuốc cho mẹ uống. Ơn Trên giáng cơ cho bài thuốc,
Ngài đem về cho mẹ uống thì mẹ Ngài hết bịnh, mạnh được vài năm. Sau đó thì mẹ
Ngài bị bịnh trở lại, Ngài Chiêu trở xuống đàn Cái Khế cầu xin thuốc cho mẹ nữa,
Ơn Trên chỉ giáng dạy đạo lý chớ không cho thuốc. Ngài vì quá thương mẹ nên đi
lên đàn cơ ở Thủ Dầu Một xin thuốc một lần nữa.
Ông Trần Hiển Vinh chủ đàn Minh-Thiện ở Thủ Dầu Một có thuật lại rằng: Bữa ấy,
Ngài Ngô Văn Chiêu cùng ông Phủ Kim đến hầu đàn. Ông Kim quì ở trong, Ngài
Chiêu quì ở góc ngoài. Khi Đức Quan Thánh giáng cơ, liền gọi tên Ngài Ngô Văn
Chiêu và cho 4 câu thi, đại ý nói vườn thuốc của Phật Tổ đã bị trốc gốc. Qua
bài thi nầy, Ngài Chiêu biết số mệnh của mẹ Ngài không qua khỏi. Đến cuối năm
1919 thì Bà từ trần.
1/. Đấng Cao Đài Tiên Ông
giáng cơ xưng danh lần đầu tiên:
Đầu năm 1920, vài tháng trước khi Ngài Chiêu có lịnh đổi xuống Hà Tiên,
Ngài được lịnh bề trên bảo chỉnh đốn việc cầu cơ thỉnh Tiên.
Ông Trần Phong Sắc vẫn làm Pháp đàn, hai đồng tử là: ông Nguyễn Văn Vân ngồi
đồng dương và ông Lê Kiển Thọ (Bộ Thọ) ngồi đồng âm, Ngài Chiêu làm độc giả,
ông Đoàn văn Kim làm điển ký.
Đồng nhi đọc bài kinh cầu cơ đến câu:
Ngũ chơn bửu khí lâm triều
thế,
Giá hạc đằng vân xiển tự
nguyên.
Liền có một vị Tiên Ông nhập cơ viết xưng là Cao Đài Tiên Ông, cơ gõ mạnh bảo
ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu ấy. Ông Sắc vốn là nhà Nho sành sỏi, liền trả
lời một cách ngang ngang có vẻ bất kính: “Bài thỉnh cơ nầy đã có cả trăm năm
nay từ Trung quốc truyền qua, ai dám cho là sái, nay Tiên Ông bảo sửa, vậy trật
hay sao?”
Tiên Ông quơ cần cơ đập vào đầu ông Sắc vì tội vô lễ, ông Sắc sụt lẹ xuống
né khỏi, kế Cao Đài Tiên Ông kêu Ngài Chiêu bảo sửa. Ngài Chiêu liền sửa và bạch
rằng:
“Bửu chơn Ngũ khí lâm triều
thế”.
Tiên Ông khen Ngài Chiêu sửa trúng.
Kể từ đó, ông Sắc không làm Pháp đàn nữa. Cả nhóm không biết Cao Đài Tiên
Ông là ai, nhưng Ngài Chiêu thì đoán rằng, Đấng ấy là Thượng Đế, nên mới dám sửa
kinh đời xưa.
2/ . Thời gian tùng sự tại Hà Tiên:
Vừa làm tuần bá nhựt (100 ngày) cho thân mẫu xong thì Ngài Ngô Văn Chiêu được
giấy đổi đi Hà Tiên.
Lúc đó, ở Hà Tiên cũng có quí ông: Đốc phủ Sự, Lâm Tấn Đức, Nguyễn Thành
Diêu, ông Phán Ngàn, lập thành nhóm cầu cơ thỉnh Tiên, nhưng năm lần bảy lượt mới
có Tiên giáng. Khi Ngài Ngô Văn Chiêu xuống tới đó, Ngài liền gia nhập nhóm cầu
cơ nầy, thì lạ thay, khi Ngài Chiêu nguyện vái, đọc bài cầu cơ, thì có Tiên
giáng liền.
Những buổi cầu cơ lúc đó tổ chức trên núi Thạch Động.
Một vị Tiên Cô xưng là Ngô Kim Liên giáng cho Ngài hai bài thi tứ tuyệt có
ý khuyên Ngài tu hành:
Văng vẳng nhạn kêu bạn giữa
thu,
Rằng Trời cùng Đất vẫn xa
mù.
Non Tây ngảnh lại đường
gai góc,
Gắng chí cho thành bực trượng
phu.
Ngần trăng tỏ rõ giữa trời
thu,
Cái cảnh Tây phương vẫn mịt
mù.
Mắt tục nào ai trông thấy
đấy,
Lắm công trình mới đúng
công phu.
3 /. Lúc làm Chủ Quận Phú
Quốc:
Trong thời gian làm Chủ Quận Phú Quốc, Ngài Ngô Văn Chiêu thường lên núi
Dương Đông cầu cơ thỉnh Tiên. Trước nhứt Ngài cầu ở Chùa Quan Âm. Ngài thường
đi với cô Ba Lan là em bạn dì và mấy người hầu đàn như: Hương Hào Khâu, ông
giáo Mẫn, ông Hương Đa, Biện Tý, Ba Đồng, bà năm Vàng, bà phủ Phẩm, Hội Đồng
Phanh, với năm ba đứa nhỏ sạch sẽ theo làm đồng tử. Độc giả thì có: Hai Huỳnh,
Tư Xuân, Tư Ngưng, Ba Nguơn, Năm Nhơn, Mười Đức, ...
Ngài Chiêu đã cầu Tiên nhiều lần, nhưng có một vị Tiên Ông giáng cơ chẳng
chịu xưng tên, biểu Ngài Chiêu làm đệ tử thì Tiên Ông sẽ dạy Đạo cho và bảo đừng
tụng kinh Minh Thánh nữa.
Bữa kia, Tiên Ông giáng bảo Ngài lo tu và ăn chay thêm cho đủ 10 ngày trong
một tháng. Ngài nghĩ bụng: Mình đang làm quan, nay người nầy mời, mai người kia
thỉnh, nếu chịu ăn chay 10 ngày rồi, sau rủi quên ăn mặn thì có tội với Trời Phật.
Nhưng nếu theo lời dạy của Tiên Ông mà có kết quả thì cũng ráng ăn. Nếu ăn chay
10 ngày mà chết cũng bị luân hồi thì thà ăn chay 2 ngày trong tháng còn hơn, miễn
là mình lo tu nhơn tích đức, chẳng làm gì trái lương tâm thì thôi. Ngài nghĩ
trong trí như vậy, định khi gặp Tiên Ông giáng cơ thì bạch rõ.
a) Đàn cơ mùng 1-1-Tân Dậu
(dl 8-2-1921) tại Chùa Quan Âm, Phú Quốc.
Tiên Ông giáng cơ. Ngài Chiêu chưa kịp bạch hỏi Tiên Ông điều chi thì cơ viết:
"Chiêu! tam niên trường
trai.”
Tiên Ông bảo như thế làm cho Ngài rất bối rối, bởi vì Ngài chưa chịu ăn
chay 10 ngày, mà nay Tiên Ông bảo ăn chay trường ba năm thì lâu quá, chẳng biết
có chịu nỗi không. Ngài Chiêu liền bạch với Tiên Ông, xin Tiên Ông bảo lãnh, nếu
đệ tử vâng theo lời dạy thì phải có ấn chứng chi mới được.
Tiên Ông bảo cứ giữ y lời dạy thì đệ tử sau sẽ hiểu rõ. Ngài Ngô Văn Chiêu
bắt đầu ăn trường chay và học đạo kể từ ngày đó: Mùng 1 Tết năm Tân Dậu (1921).
b) Thờ Thiên Nhãn:
Một bữa kia, Tiên Ông dạy Ngài Ngô Văn Chiêu phải tạo ra một dấu hiệu chi để
thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập.
Tiên Ông nói: Chữ Thập cũng được, song đó là dấu hiệu riêng của một nền đạo
đã có rồi. Phải suy nghĩ tìm cho ra, có Tiên Ông giúp sức.
Ngài xin hoãn lại một tuần lễ để suy nghĩ. Mãn tuần rồi mà Ngài vẫn chưa
tìm ra.
Một buổi sáng lối 8 giờ, Ngài đang ngồi trên võng sau dinh quận, bỗng Ngài
thấy trước mặt, cách chừng hai thước, hiện ra một con Mắt thiệt lớn, rất tinh
thần, chói ngời như mặt trời. Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt
lại không dám nhìn, đợi chừng nửa phút, Ngài mở mắt ra thì vẫn thấy con Mắt ấy
mà lại càng chói sáng hơn nữa. Ngài bèn chấp tay vái rằng:
- Bạch Tiên Ông, đệ tử biết rõ huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên
Ông đừng làm vậy, đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin
cho biến mất tức thì.
Vái xong thì con Mắt lu dần và biến mất.
Thấy như vậy rồi, nhưng Ngài Ngô Văn Chiêu vẫn chưa thiệt tin, nên chưa vẽ
hình Thiên Nhãn để thờ.
Cách vài ngày sau, Ngài Chiêu cũng thấy Thiên Nhãn hiện ra y như trước.
Ngài vái sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ thì con Mắt tự nhiên biến mất.
Sau khi thấy Thiên Nhãn hai lần rồi, Ngài cầu cơ xin Tiên Ông dạy cách thờ
phượng. Tiên Ông dạy vẽ con Mắt như đã thấy để thờ và Tiên Ông xưng là: “CAO
ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT ”.
Tiên Ông dạy Ngài Chiêu gọi Tiên Ông bằng Thầy và kể từ ngày đó, Ngài Ngô
Văn Chiêu chánh thức làm đệ tử đầu tiên của Đấng Thượng Đế.
Ngài nguyện với Đấng Cao Đài: “Nếu độ cho tôi thành Đạo thì tôi sẽ độ lại
chúng sanh tùy theo phước đức của mỗi người.”
c) Cảnh Bồng Lai:
Lúc ấy Ngài Ngô Văn Chiêu đã tu theo Cao Đài Tiên Ông đã được 3 năm. Một bữa
kia, Đấng Cao Đài Tiên Ông giáng cơ khen Ngài tu kỹ và ban cho đặc ân muốn chi
thì Thầy ban cho.
Ngài Ngô Văn Chiêu bạch rằng:
- Bạch Thầy, nghe nói cảnh Bồng Lai xinh đẹp vô cùng, Thầy có thể cho đệ tử
thấy cảnh ấy không?
Cơ gõ mạnh một cái chớ không viết câu trả lời.
Cách ít lâu sau, vào một buổi chiều cuối tháng Giêng năm Giáp Tý (1924)
Ngài Chiêu ra hứng mát ở mé biển, Ngài trèo lên một hòn đá lớn ngoài Dinh Cậu,
ngồi ngó ra biển, sóng dợn ba đào. Bỗng Ngài thấy giữa chỗ trời nước giáp nhau,
lộ ra một cảnh thật là xinh đẹp, cảnh nầy vừa khuất thì hiện ra cảnh khác cũng
xinh đẹp không kém. Sau cùng Ngài thấy một cảnh rất đặc biệt, trên có Thiên
Nhãn, sổ ngay xuống một hàng có Nhựt, Nguyệt, Tinh đẹp đẽ vô cùng. Ngài ngồi
xem mê mẩn, được chừng 15 phút thì cảnh ấy mờ dần rồi biến mất.
Sau đó, Ngài Chiêu cầu cơ thì Đức Cao Đài Tiên Ông cho biết, đó là cảnh Bồng
Lai theo như lời Ngài ước nguyện muốn thấy để nung chí tu hành.
Khi Ngài Chiêu sắp đổi về Sài Gòn, Đức Cao Đài Tiên Ông giáng cơ ban cho
Ngài bài thi sau đây:
Kín ngoài rồi lại kín
trong,
Đường xa phong cẩn thưởng
lòng để vui.
Công đầu chịu cực đừng
lui,
Thiên tào thăng thưởng đạo
mùi ngọt ngon.
Ba năm lòng sáng như son,
Trèo non xuống biển vuông
tròn công phu.
Chớ phiền mỏi mệt lòng tu,
Trăng kia mây vẹt, Đường
Ngu gặp hiền.
Mựa toan vụ thấy Thanh
Thiên,
Các đào rõ biết mối
truyền chánh tông.
Giờ nầy Thầy điểm thâm
công,
Ngày sau con sẽ cỡi rồng
về nguyên.
Ngoài trong sạch tợ bạch
liên,
Khá lòng gìn giữ mối giềng
chớ xao.
Chiêu chiêu nguyệt thấu
thanh thao,
Trên đầu cũng có Thiên
Tào xét xem.
Thấm mùi con biết lân
nem,
Đề hồ con uống Thầy xem
ân cần.
Đạo luyện khắc kỷ phục
thân,
Chiêu con khá giữ, Thầy
phân cạn lời.
Thầy lại dạy rằng:
- Con đổi về Sài Gòn, đồng tử không theo con được. Vậy
con phải rót một ly rượu, con uống phân nửa, còn phân nửa thì cho đồng tử uống,
gọi là lễ tiễn biệt nhau.
Ngài làm y theo lời dạy. Lúc đó đồng Ngưng đang mê mà
đôi hàng nước mắt chảy tuôn tỏ nỗi đau lòng kẻ ở người đi. Thấy vậy, Ngài
Chiêu cũng khó cầm giọt lệ.
4 . Thời kỳ làm việc ở Sài
Gòn:
Ngài Ngô Văn Chiêu được lịnh đổi về Sài Gòn,
Ngài rời đảo Phú Quốc ngày 29-7-1924, Ngài về đến Sài Gòn vào chiều ngày
hôm sau 30-6-GiápTý (dl 30-7-1924).
Ngài thuê nhà ở lầu 2 số nhà 110 đường Bonard (nay là đường Lê Lợi) Sài
Gòn. Mỗi ngày đi làm việc hai buổi tại Dinh Thống Đốc Nam Kỳ, Ngài thường lui tới
Chùa Ngọc Hoàng ở Dakao, ít giao thiệp với người ngoài, dành thì giờ công phu.
Cuối năm Ất Sửu (1925), Đức Cao Đài Tiên Ông dạy Ngài Chiêu đem mối đạo
truyền ra. Ngài độ được 4 vị:
- Quan Phủ Vương Quan Kỳ
- Ông Phán Nguyễn Văn Hoài
- Ông Phán Võ Văn Sang
- Đốc học Đoàn Văn Bản.
Ông Vương Quan Kỳ sau khi vào Đạo lại khuyên được 5 ông sau đây cùng vào Đạo:
- Ông Nguyễn Thành Cương
- Ông Nguyễn Thành Diêu
- Ông Nguyễn Hữu Đắc
- Ông Lê Văn Bảy, tự Tý.
- Ông Võ Văn Mân.
5 . Đức Chí Tôn lập thêm một
nhóm Phò cơ khác:
Trong lúc đó, vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925) một nhóm công chức tại
Sài Gòn, do sự thúc đẩy của thiêng liêng, đã họp nhau Xây bàn thỉnh các vong
linh để tìm hiểu về thế giới vô hình. Nhóm nầy gồm quí Ngài:
- Cao Quỳnh Cư
- Phạm Công Tắc
- Cao Hoài Sang
- Cao Quỳnh Diêu.
Quí ông khởi xây bàn tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa gần chợ Thái
Bình Sài Gòn. Có nhiều Đấng vô hình giáng bàn để tạo cho quí ông niềm tin. Sau
đó, Đấng Thượng Đế tá danh AĂÂ giáng bàn độ được 4 ông vào Đạo và gọi Đấng AĂÂ
bằng Thầy và Đấng ấy gọi quí ông là Môn đệ.
Thất Nương giáng dạy quí ông dùng Ngọc Cơ để cầu Đức Phật Mẫu và các Đấng
thiêng liêng cho được dễ dàng và mau lẹ hơn.
Đêm Trung Thu năm Ất-Sửu (dl 1-10-1925) quí Ngài thiết lễ Hội Yến Diêu trì
Cung tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, số 134 đường Bourdais Sài Gòn, có Đức Phật Mẫu
cùng với Cửu vị Tiên Nương Diêu trì Cung giáng chứng lễ và mỗi Đấng cho một bài
thi bốn câu làm kỹ niệm.
Đến ngày 1-11-Ất Sửu (dl 16-12-1925) Đức Phật Mẫu dạy ba Ngài: Cao Quỳnh
Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang Vọng Thiên cầu Đạo.
Đêm Noel năm 1925 (âl 10-11-Ất Sửu) Đấng AĂÂ mới cho biết Ngài là Đấng Ngọc
Hoàng Thượng Đế.
Ngày 05-12-Ất Sửu (dl 18-1-1926) Đức Chí Tôn dạy hai Ngài Cư, Tắc đem Ngọc
cơ đến nhà Ngài Cựu Hội Đồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung để Thầy độ ông
Trung.
Lúc bấy giờ, nhóm phò cơ nầy được 7 vị:
- Ông Cao Quỳnh Cư
- Ông Phạm Công Tắc
- Ông Cao Hoài Sang
- Ông Cao Quỳnh Diêu.
- Ngài Lê Văn Trung
- Ngài Nguyễn Trung Hậu
- Trương Hữu Đức.
Nhóm nầy chưa biết gì về nhóm của Ngài Ngô Văn Chiêu, nên chưa có liên lạc
hay tiếp xúc.
6 . Sự hợp tác giữa hai
nhóm:
Ngày 9-12-Ất Sửu (dl 22-1-1926) Đức Chí Tôn dạy quí Ngài: Cư, Tắc, Sang,
Trung, Hậu, Đức, phải đến chung hiệp với Quan Phủ Ngô Văn Chiêu mà lo mở Đạo.
Ngài còn dạy thêm rằng: Mỗi mỗi việc chi phải do nơi Chiêu là Anh Cả.
Khi hai nhóm hợp lại thì tổng cộng được 13 vị, là:
1
- Ngô Văn Chiêu. 2 - Lý Trọng Quí.
3
- Lê Văn Giảng. 4 - Võ Văn Sang.
5
- Nguyễn Văn Hoài. 6 - Đoàn Văn Bản.
7
- Vương Quan Kỳ 8 - Lê Văn
Trung.
9
- Cao Quỳnh Cư 10 - Phạm
Công Tắc.
11
- Cao Hoài Sang 12 - Nguyễn Trung Hậu.
13 - Trương Hữu Đức.
Đêm 30-12- Ất Sửu là đêm giao thừa, sắp bước qua năm mới Bính-Dần, Đức Chí
Tôn khiến quí Ngài trong hai nhóm đến thăm từng tư gia của mỗi Môn đệ. Tại mỗi
nhà, Đức Chí Tôn giáng ban cho một bài thi, tới khuya, gần đúng giao thừa thì đến
nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn.
Tại nhà Ngài Lê Văn Trung, Đức Chí Tôn giáng dạy:
“Chư đệ tử nghe!
Chiêu, buổi trước hứa lời truyền Đạo cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà
làm chủ mối Đạo, dìu dắt cả Môn đệ Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập
thành, chẳng nên tháo trút. Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó.
Ông Chiêu bạch hỏi Đức Chí Tôn:
- Qua đến năm 1933 thì Đạo mới lập thành?
Đức Chí Tôn đáp: - Phải.
Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và
tuân theo.
Bản, Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng sanh.
Nghe và tuân theo.
Đức, Hậu, tập cơ, sau theo mấy anh con mà độ người. Nghe và tuân
theo."
Đó là lời Thánh giáo đầu tiên của Đức Chí Tôn tại đàn cơ nơi nhà Ngài Lê
Văn Trung, kỹ niệm ngày Khai Cơ Phổ Độ của Đạo Cao Đài. Đó là giờ Tý ngày 01
tháng Giêng năm Bính-Dần (dl 13-2-1926).
Đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (đêm thứ Bảy rạng Chúa nhựt
21-2-1926), Lễ Vía Đức Chí-Tôn được tổ chức tại nhà Ngài Vương Quan Kỳ ở đường
Lagrandière, các Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn hiện diện đầy đủ, Đức Chí Tôn
giáng cơ dạy Đạo.
Nhân dịp nầy, Ngài Ngô Văn Chiêu bạch xin Đức Chí Tôn lấy tên của mấy Môn đệ
mà cho một bài thi làm kỹ niệm.
Đức Chí Tôn liền cho một bài thi tứ tuyệt:
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI
sanh,
BẢN đạo khai SANG, QUÍ, GIẢNG,
thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên Địa cảnh,
Huờn Minh Mân đáo thủ đài
danh.
Đức Chí Tôn có 13 môn đệ đầu tiên nhưng Đức Chí Tôn chỉ điểm danh 12 vị, vì
chữ SANG là tên của hai ông: Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang.
Huờn Minh Mân là tên của ba vị hầu đàn.
7 . Đức Chí Tôn dự bị
phong Ngài Ngô Văn Chiêu vào chức Giáo-Tông:
Thánh giáo ngày 6-3-Bính Dần (dl 17-4-1926) Đức Chí Tôn dạy như sau:
“Thầy,
Trung, Cư, Tắc, ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó phải sắm sửa liền một bộ
Thiên phục màu trắng, trên đầu chẳng phải bịt khăn mà đội mão trắng, có chữ CÀN
☰ thêu bằng chỉ vàng, dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt. Mão cũng vậy, áo cũng vậy.
Hiếu lại phải nhọc công nữa, Thầy giao phần may sắm cho con, con liệu cho kịp,
rằm phải có nghe con. Hiếu lấy chén nước lạnh, Thầy vẽ kiểu mão cho con coi.
Madame Cư bạch Thầy: Mitre (mão Giáo-Tông).
Trước ngực, ngay trán phải để chữ cung CÀN chữ vàng, chữ Bát Quái, còn cái
áo, con phải tái cầu Thầy trong lúc may đặng Thầy chỉ sắp mấy cung kia trên áo.
Nghe và tuân theo nghe con." (ĐS. I. 106)
Tái cầu:
Mừng sắp con! Hiếu quì bạch Thầy dạy may áo mão
Giáo-Tông bề cao bao nhiêu và mang giày thứ nào?
- Thầy sẽ nhứt định mọi việc.
Thầy dạy: Mão bề cao 3 tấc 3 phân thước Lang-sa, may giáp mối lại thế nào cho có trước một ngạnh, sau một ngạnh,
hiệp lại có một đường xếp, ấy là Âm Dương tương hiệp, Hiếu biết mà!
Sợi dây xếp hai lại, còn bên trái có hai dải thòng xuống một mí dài, một mí
vắn, mí dài 3 tấc. Giáo-Tông: Thảo hài.
Tái cầu:
Có tạo đỡ một cái Mão bằng giấy dựng lên cho Thầy xem. Cười! Đặng phải vậy,
ba con bưng lên cho Thầy chỉ hai mí giáp mối, con coi theo cây viết mà làm
theo. Sợi dây viền ăn liền hai bên, đừng cắt rời ra nghe con! Con giỏi lắm Hiếu!
Hai dải thòng xuống vai 3 tấc bề dài, 3 phân bề ngang. Phải vậy rồi!.
Cư, để cho Hiếu nó làm (là để cho Hiếu may Mão Giáo-Tông).
Ngày 22-4-1926 (âl 11-3-Bính Dần), tức là 5 ngày sau khi Đức Chí Tôn ra lịnh
cho Bà Hương Hiếu (hiền thê của Ông Cư, nên gọi là Madame Cư) may Thiên phục
Giáo-Tông cho Ngài Ngô Văn Chiêu, Bà Hương Hiếu dâng mão Giáo-Tông lên cho Đức
Chí Tôn xem kiểu vở may như vậy có đúng không.
Đức Chí Tôn giáng cơ nói:
“Hiếu dâng mão Giáo-Tông may xong rồi cho Thầy xem. Trúng, mà ai đội, con
phòng lật đật”.
Đức Chí Tôn giáng cơ nói như thế, tức nhiên chúng ta ngầm hiểu là Ngài Ngô
Văn Chiêu đã mất chức Giáo-Tông.
Tại sao chỉ trong vòng 5 ngày từ 17 đến 22-4-1926 mà lại có sự thay đổi
nhanh chóng như vậy? Đức Chí Tôn không cho biết tại sao, làm cho nhiều người
phân vân, nghĩ rằng Ngài Ngô Văn Chiêu cải lịnh Đức Chí Tôn, muốn ở nhà tu tịnh,
không muốn tham gia vào cơ phổ độ đông người làm mất sự yên tịnh của Ngài, hay
còn lý do nào khác nữa?
Mãi đến gần 3 tháng rưỡi sau, Đức Chí Tôn mới tiết lộ cho biết trong đàn cơ
ở Tân Định, tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ, lý do tại sao Ngài Ngô Văn Chiêu mất
chức Giáo-Tông.
Xin chép bài Thánh giáo quan trọng nầy ra sau đây.
Ngày 25-6-Bính Dần (Dl 3-8-1926):
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết
CAO ĐÀI
Giáo Đạo Nam Phương.
“Chư môn đệ nghe dạy:
Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có: Nhứt
Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng
quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.
CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó.
Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo-Tông cho nó, thì
Chúa Quỉ sai tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng
xứng ngôi ấy và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng
Ta. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức
Giáo-Tông cho nó.
Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác
nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.
Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị Tà quái
áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song
buộc nó phải tịnh thất.
Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa
thì mới liệu sao? Ta phải giáng cơ biểu nó.
Con Thơ! con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe. Kẻ bị tù còn có thế rỗi
ai chăng?
Chư Môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến
thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của
Thầy.” Thầy thăng.
(Trích trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Đầu-Sư
Thái Thơ Thanh, trang 237)
Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926 )
Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ:
THI
Bao năm dạy-dỗ quá dày
công.
Lời hứa năm xưa gắng giữ
lòng.
Siêu đọa đôi đường tua chọn
lấy.
Lơi chơn một bước sẽ hoàn
không
Cao Đài
Theo Đạo-sử của bà Đầu-Sư Hương-Hiếu
(Ngày 21-10 Bính-Dần (dl 26-11-1926)
Thầy nói:
“Thầy cũng thương đó chút. Thầy đã nói cái lòng thương của Thầy hơn biếm
trách, nên Thầy chẳng hề biếm-trách các con, ngặt trước quyền của Thần, Thánh,
Tiên, Phật biết sao cứu rỗi cho đặng.
“Thầy lại phải làm thinh cho kẻ thì mất lẽ công bình. Thơ nó tưởng Thầy giận
mà nài xin tha-thứ. Thầy thì đặng còn chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mới nài sao?
Nhất là Thái-Bạch Kim Tinh rất khó. Chiêu cũng vì vậy mà mất ngôi. Các con chớ
dễ ngươi mà phạm thượng nghe à!”.
Trước đó thì chư Môn-đệ đồng quì lạy Thầy xin thứ tội cho ông Chiêu.
Ông Vương-Quan-Kỳ bạch hỏi Thầy:
- Bạch Thầy: Anh Cả Ngô-Văn-Chiêu bảo Thầy giao cho Ảnh thay Thầy làm Chủ mối
Đạo, dạy-dỗ Môn Đệ mà Ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, phải làm sao?
Ngày 13-3 Bính-Dần (dl
24-4-1926 ) trích Đạo-sử bà Hương Hiếu trang 109
Đức Chí-Tôn dạy:
“Chiêu đã có công tu, lại là Môn-đệ yêu dấu của Thầy nên Thầy muốn ban chức
Giáo-Tông cho nó, song vì lòng ám-muội phạm đến oai-linh Thầy mà ra lòng bất đức
chẳng còn xứng đáng mà dìu-dắt các con, nên Thầy cất phần thưởng nó, Thầy nhứt
định để chức ấy lại mà đợi người xứng đáng, hay là Thầy đến chính mình Thầy mà
dạy-dỗ các con”.
Tái cầu:
“Các con coi thử đó thì đã hiểu rằng Thầy thương yêu nhơn-loại là dường
nào. Cái vui của Thầy là đặng thấy các con hội-hiệp cùng nhau, thương-yêu nhau
trong đạo-đức của Thầy, ai còn dám làm cho chia-lìa các con là đứa thù-nghịch của
Thầy.
“Chiêu đã hữu căn, hữu kiếp: Thầy đã dùng huyền diệu mà thâu phục, độ rỗi
nó trước các con. Biết bao phen Thầy gom các Môn-đệ lại. Thầy sở cậy nó ấp-yêu
dùm cho Thầy dường như gà mẹ ấp con. Song nó chẳng vâng mạng lịnh Thầy, lại
đành lòng cắn mổ xô đuổi dường ấy, thì làm sao cho xứng đáng cái trách-nhiệm rất
lớn của Thầy toan phú-thác cho nó. Các con đừng trông mong rỗi cho nó. Nghe và
tuân mạng lịnh Thầy”.
Thầy dạy (đêm 14 rạng 15
tháng 3 năm Bính-Dần (25 và 26-4-1926):
“Chiêu, thiếu đức, thiếu tài.
“Trung, con sợ ai?
“Ta không sợ ai! Ta biết hơn ngươi. Ta há không biết thương sao ?
“Ấy cũng vì thiếu đức. Nó đã biết Ta. Cứ tuân lời Thầy đã truyền mà
thi-hành !
Ngày 26 Avril 1926:
Cao-Đài:
“Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh Ta, Ai kiên? Ta chờ ngươi.
“Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh Ta, ai thừa lịnh?
“Ta đã nói ngươi làm đầu Tam-giáo, đã bao phen Ta lập Đạo sẵn cho, ngươi
chê há? Ta đã sở định, ngươi dám cải:
“Chuyên quyền từ đó bỏ tuồng xưa,
“Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
“Sám-hối Ta cho
tu ít tháng.
“Tài hay, tài
khéo chớ đua lừa.
Qua bài Thánh
Ngôn nầy của Đức Chí Tôn, chúng ta biết được là Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ Vương thử thách trước khi được lên ngôi Giáo-Tông. Ngài bị thử thách và chỉ
trong 5 ngày, Ngài không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương bày ra, nên đành
chịu mất ngôi Giáo-Tông.
Sự thử thách của Quỉ Vương là cần thiết đối với Giáo-Tông là phẩm vị số 1 của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nếu thắng nỗi Quỉ Vương thì bọn chúng mới chịu phục, còn
không thắng nỗi thì phải chiụ mất ngôi.
Việc nầy cũng không khác chi thời Đức Chí Tôn sai Đức Chúa Jésus mở Thiên
Chúa giáo nơi nước Do Thái để cứu độ các sắc dân Âu Châu.
Sau khi Đức Chúa Jésus thọ phép Giải oan nơi bờ sông Jourdain với Thánh
Jean Baptiste, Thượng Đế đưa Đức Chúa Jésus đến nơi đồng vắng đặng chịu cho ma
quỉ cám dỗ trong 40 ngày đêm (trong 40 ngày nầy Ngài kiêng ăn, sau thì đói). Quỉ
Satan tìm mọi cách thử thách Chúa, cám dỗ Chúa, nhưng không lay chuyển nỗi tâm ý
của Chúa. Chúng ma quỉ thất bại bèn bỏ đi. Liền đó có Thiên sứ đến hầu Đức
Chúa.
Chúa Jésus chiến thắng Quỉ Vương, nên Chúa trở thành Đấng Giáo chủ, đi giảng
đạo và thâu nhận tín đồ, mở ra Thánh đạo ngót hai ngàn năm nay.
8 . Ngài Ngô Văn Chiêu
tách riêng lập Chi phái:
Sau khi Ngài Ngô Văn Chiêu không thắng nỗi các thử thách của Quỉ Vương thì
2 ngày sau, tức là ngày 24- 4-1926, Ngài Chiêu tự ý tách ra khỏi nhóm.
Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, trong quyển Đại Đạo Căn Nguyên, nơi trang
18, thuật lại như sau:
“Ông Trung vẫn vâng theo Thánh ý lo thiết đàn giảng Đạo. Ông Chiêu lại ở
nhà lo bề tự giác, ý ông không muốn truyền bá mối Đạo ra cho nhiều người. Ông vẫn
lấy câu “Ngô thân bất độ hà thân độ” mà làm tôn chỉ. Vì vậy mà ông tách riêng
ra kể từ ngày 14 tháng 3 năm Bính-Dần (dl 24-4-1926). Đồng một ý kiến ấy thì có
mấy ông: Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quí.
Từ đây, tuy đôi bên chủ nghĩa khác nhau, vì một đàng (Ông Lê Văn Trung) thì
lo phổ thông mối Đạo, một đàng (Ông Ngô Văn Chiêu) lại chuyên bề tự giác, nhưng
về phương diện tín ngưỡng thì cũng đồng thờ kỉnh Đức Cao Đài Thượng Đế.”
9 . Ông Ngô văn Chiêu Lập
Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi:
Đầu năm Đinh Mão (1927), Ngài Ngô Văn Chiêu cho những người bạn cũ của Ngài
biết là Ngài đã xong nhiệm vụ trong Cơ Phổ Độ và Ngài còn đảm đang một sứ mạng
quan trọng khác là lập Cơ Tuyển Độ Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, gọi tắt là Chiếu
Minh Vô Vi. Ngài đổi chữ lót trong tên Ngài thành chữ Minh và kể từ đây gọi
Ngài là Ngô Minh Chiêu.
Cách tu của Ngài Ngô Minh Chiêu thật là khổ hạnh.
Ngài đi làm công chức ngày hai buổi, hết giờ làm việc thì lo công phu tứ thời,
vì vậy mà Ngài không có thời giờ rảnh.
Số người tìm học Đạo Vô Vi cũng khá đông, nhưng Ngài chỉ lựa vài chục người
đệ tử chánh thức thôi, bởi vì việc tu hành của Ngài rất khó, phải có can đảm và
bền chí lắm mới theo nỗi. Người tu phải trường chay, tuyệt dục, lập đại thệ đại
nguyện với Đấng Thượng Đế. Chừng nào Thượng Đế cho phép (xin keo) thì Ngài mới
dạy Đạo cho. Hễ tu thì phải có gan chịu khảo (!), “vô ma khảo bất thành Đại Đạo”.
(!).
10 . Những cuộc du lịch
sau cùng của cuộc đời:
a) Du lịch núi Tà Lơn và Đế
Thiên Đế Thích:
Tháng 4 năm Mậu-Thìn (1928), Ngài Ngô Minh Chiêu xin phép nghỉ làm việc 6
tháng. Ngài tổ chức một cuộc du lịch lên núi Tà Lơn và Đế Thiên Đế Thích ở nước
Cao Miên. Số đệ tử đi theo Ngài khá đông, chừng 30 người, có các ông: Hội Đồng
Huy, Tư Huỳnh, Phán Quí,... Trước khi đi, Ngài ghé Cần Thơ. Ngày khởi sự đi là
13-6-1928, hai ngày sau thì tới Hà Tiên, ghé chùa Tiên Sơn Tự ở Thạch Động để
nghỉ ngơi.
Hôm sau Ngài đi qua núi Tà Lơn nước Cao Miên. Ngày 18-6-1928, Ngài tới chùa
Kim Cang ở Đế Thiên Đế Thích. Đi du lịch Đế Thiên Đế Thích xong thì phái đoàn
trở về Sài Gòn.
Khi hết hạn nghỉ 6 tháng, Ngài Ngô Minh Chiêu trở lại làm việc trong Dinh
Thống Đốc Nam Kỳ như trước.
b) Đi du lịch Lục tỉnh:
Chuyến thứ nhứt,
Ngài Ngô Minh Chiêu đi qua các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công, Bến Tre.
Chuyến thứ nhì
Ngài đi các tỉnh: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu. Chuyến đi nầy có Ông Bà Tư Huỳnh, Bà Hai Ngữ, Cô Ký Út, Ông Bà Hội Đồng Huy, đồng Ngưng.
c) Du lịch núi Tà Lơn lần thứ hai:
Cuối năm 1931, Ngài bị mệt nhiều nên xin phép Chánh phủ cho nghỉ ở nhà dưỡng
bịnh.
Ngày 30-3-1932, Ngài đi núi Tà Lơn với ý định bỏ xác nơi đây, nên không muốn
trở về. Các đệ tử đi theo hết sức khẩn khoản, Ngài mới chịu trở về.
Bận đi về, Ngài ghé Cần Thơ vào ngày 5-3-Nhâm Thân (dl 10-4-1932) và Ngài ở
luôn tại Cần Thơ cho tới ngày liễu đạo. Tại Cần Thơ, Ngài không chịu ở nhà của
ai hết, các đệ tử cất cho Ngài một thảo lư cách Châu Thành Cần Thơ chừng 3 cây
số để cho Ngài ở. Ngài dạy phải làm bằng cây, lợp lá đơn sơ thôi, vì chỉ tạm
dùng chừng một tuần nhựt. Trong lúc cất thảo lư, Ngài tạm ở tại cái am của Bà
Tư Huỳnh kế bên.
11 . Liễu đạo trên sông Cửu
Long Tiền Giang:
Ngài Ngô Minh Chiêu thường nói rằng, Đức Chí Tôn đã định cho Ngài bỏ xác
trên sông Cửu Long, nên mới có câu:
“Giờ nầy Thầy điểm thâm
công,
“Ngày sau con sẽ cỡi rồng
về nguyên.
Ngày 13-3 Nhâm-Thân (Dl 18-4-1932) sáng ra, Ngài nhắc chừng bà Tư Huỳnh lo
giùm xe cộ để Ngài về Tân An và cứ nói hoài câu: Sợ trễ giờ. Bà Tư Huỳnh (tức
là bà Trần thị Hường) rất kính mến Ngài nên cứ dần dà muốn lưu Ngài ở lại.
Thấy vậy, Ngài biểu mời ông Hội Đồng Võ Văn Thơm vô. Ngài nói với ông Thơm
bằng tiếng Pháp để mấy Bà nghe lén không hiểu, chỉ thấy ông Thơm vâng dạ luôn.
Đến khi ông Thơm về đem xe hơi vô thì các bà bàn tán xôn xao. Ngài nói: Đi
quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa.
Lúc ấy cô năm Ngô Thị Nguyệt, con gái của Ngài Chiêu, hỏi Ngài:
- Cha muốn đi về Tân An phải không?
Ngài cười rồi bảo: - Cha đi bí mật.
Đúng giờ Ngọ ngày 13-3-Nhâm Thân, Ngài triệu tập tất cả đệ tử hiện diện
công phu. Sau giờ công phu, anh đồng Ngưng cõng Ngài ra xe, đi theo có Bà Thơm,
Bà Tư Huỳnh, Cô năm Nguyệt và anh đồng Ngưng. Ngài ngồi một mình ở giữa băng
sau, Bà Tư Huỳnh và Bà Thơm ngồi sụt xuống dưới chân Ngài. Da mặt và mình mẩy của
Ngài Chiêu từ từ đổi ra màu vàng như nghệ.
Xe chạy đến bến phà Cần Thơ. Qua phà, rồi chạy qua Vĩnh Long đến bến phà Mỹ
Thuận. Bà Tư Huỳnh vào mua vé qua phà, xe xuống phà Mỹ Thuận xong, phà chạy ra
gần đến giữa sông thì Ngài Ngô Minh Chiêu xuất thần thoát xác một cách êm ái,
các đệ tử đi cùng xe hầu Ngài không ai hay cả. Tới chừng công nhân trên phà Mỹ
Thuận nhìn vào xe thấy biết, tri hô lên thì mấy Bà mới hay, vội yêu cầu phà
quay trở lại.
Thế là Ngài Ngô Minh Chiêu liễu đạo trên sông Cửu Long y như lời Đức Chí
Tôn tiên tri, lúc 3 giờ chiều ngày 13-3 Nhâm Thân (dl 18-4-1932), hưởng được 55
tuổi
Xe hơi chở Ngài quay trở lại, vừa lên khỏi phà thì gặp xe của ông Tư Huỳnh
và Hội Đồng Huy vừa đến. Tất cả đều quay trở lại thảo lư tại Cần Thơ, đem xác
Ngài đặt ngồi tại thảo lư. Lúc bấy giờ da thịt của Ngài trở lại trắng và con mắt
trái của Ngài bắt đầu mở to ra, có đủ tinh thần như khi còn sống, còn con mắt
bên mặt thì nhắm lại như thường.
Các đệ tử mới nghiệm lại thấy rằng, Ngài Ngô Văn Chiêu biết rõ ngày giờ liễu
đạo của Ngài, nên Ngài bảo cất Thảo lư tạm bằng cây lá dùng trong một tuần nhựt,
rồi Ngài nói đi quanh đây rồi trở lại chớ không đi đâu xa.
12 . Đám tang Ngài Ngô Minh Chiêu:
Nguyên lúc sanh tiền, Ngài Chiêu có dặn các đệ tử, khi Ngài liễu đạo rồi,
phải dùng cái áo quan hình lục giác mà liệm ngồi. Lục giác là theo lục tự Cao
Đài: NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG. Áo quan lục giác có bề kính tâm lối 8 tấc, cao lối
1 thước 2 tấc. Tất cả công việc khâm liệm đều do các đệ tử thân tín tự tay đảm
nhiệm. Tháp của Ngài được xây ngay phía sau thảo lư và miếng đất nầy về sau trở
thành Nghĩa Địa của phái Chiếu Minh tại Cần Thơ.
Có rất đông tín đồ Cao Đài đến viếng tang. Quan khách đời đến viếng tang
khá đông. Báo chí ở Sài Gòn cũng có xuống chụp hình làm phóng sự đăng báo,
thông tin đại chúng.
Đám tang của Ngài Ngô Minh Chiêu rất đơn giản, an tịnh, không có nhạc lễ,
cũng không đọc kinh chi hết, vì Ngài đã dạy trước rằng: “Lúc sanh tiền, mỗi
ngày đều có cầu cho Ngài rồi, Ngài đã biết Ngài là ai, khi chết Ngài sẽ đi đâu,
nên khỏi đọc kinh cầu nguyện cho Ngài”
B - NGÀI NGÔ MINH CHIÊU
GIÁNG CƠ:
Sau khi Ngài Ngô Minh Chiêu thoát xác về Tiên được 17 ngày, Ngài giáng cơ tại
đàn Thất Bửu Sơn ở Châu Đốc, đêm 30-3-Nhâm Thân (dl 5-5-1932).
NGÔ kỳ huỳnh liễu đắc thành
công,
VĂN thượng Thiên đình lý
luật đồng.
CHIÊU dắt nhơn sanh cơn kiếp
khổ,
GIÁNG tường cho rõ hiểu hồn
vong.
Chào các hiền đệ. Hiểu ai chăng?
Nay tôi đã từ trần, trong lúc Đạo còn đang nghịch lẫn nhau là bởi nơi đâu?
Các hiền đệ có hiểu chi chăng? Cũng bởi vì tiền tài nó hại nhơn sanh.
Thầy có ban cho tôi làm một vị Tiên đồng độ chúng. Nay tôi vâng lịnh Thầy
giáng đàn mà dạy anh em lúc khổ nầy:
KỆ
Qui liễu cõi trần đặng thảnh
thơi,
Gẫm trong sự thế ngán
cho đời.
Kiếp nầy lao khổ sau
chung hưởng,
Trời Đất hết lòng giáng
khắp nơi.
Tôi kính lời thăm huynh Nguyện và Bần đạo Lắm đặng an vui nền Chánh Lý mà
hiểu rõ Thiên cơ.
Tôi mới học được bài phú vắn, nên tôi để lại cho chư Hiền hữu rõ biết:
PHÚ
Trời xoay chuyển nên lương
tâm người giục khiến,
Cho nhơn sanh thuyết diễn
trần lao.
Chung trí Đạo Thầy mà giúp
kẻ đồng bào,
Nay tôi đặng kết giao cùng
Tiên, Thánh, Phật.
Sao chư hiền không lo bồi
công âm chất,
Giúp cho Thầy, cất Thất
cho Thầy,
Tôi qui liễu là bởi như vầy,
Hết kiếp trần oan dây theo
ràng buộc.
Tôi tuổi nầy mà đi xem cõi
hồng trần soi đuốc,
Dẫn nhơn sanh dắt tuốt
Thiên đình,
Công mở Đạo là tại tỉnh
Tây Ninh,
Người bởi quấy nên nhơn
tình không đầu phục.
Thương Tổ đình nên theo một
lúc,
Hại nhơn sanh cui cút tu hành.
Kính ít lời thăm Nguyện và
Lắm,
Gắng chí Đạo cho thành,
Tôi dời bước lưu danh cho
anh em hậu thế.
Tôi chào Hiền huynh, cho
tôi kiếu.
THĂNG.
Sau đây là trích một đoạn trong bài giáng cơ của Ngài Ngô Minh Chiêu ngày
1-3-Bính Ngọ (dl 22-3-1966) trong quyển Thánh Giáo Sưu Tập (1966-1967) trang
43, của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam
“Chư Hiền đệ, Hiền muội,
Thuở sanh tiền, Bần đạo quyết xuất thế để tìm đến bực siêu đẳng pháp môn, hầu
giúp vào cơ Đại Đạo để cứu cánh dân tộc trong khi còn bị đô hộ. Nhưng ước vọng
chẳng hoàn toàn vì Thiên số dĩ định nên chưa đoạt đến mục đích, đã vô tình rời
bỏ anh em, nên để lại một ảnh hưởng rất lớn cho phái Chiếu Minh là kỳ thân độc
thiện. Đó chẳng phải Bần đạo cố tâm, cũng bởi kiếp nạn chúng sanh nên chịu nhiều
cảnh chia ly, từ đời tới Đạo, chớ điều xuất thế hay nhập thế của Bần đạo đều là
một lòng trung kiên với Đạo, vì nước non dân tộc, vì chí hướng quảng độ quần
sanh.
Đến ngày nay, những giáo lý của Bần đạo còn roi lại một công trình dở dang
thiếu sót, nên hiện tình, Bần đạo cũng trông vào hướng đạo hiện tại và tương
lai, nối tiếp công nghiệp của tiền bối đã qua, hầu thanh minh cho tấm lòng của
đệ huynh tiền bối và Bần đạo. Điều ấy rất mong.”
C - Phần kết:
Ngài Ngô Văn Chiêu là vị Môn đệ đầu tiên của Đức Chí Tôn, được Đức Ngài yêu
ái nhứt. Đức Chí Tôn đã để ra một khoảng thời gian dài, suốt 5 năm, từ năm 1921
đến năm1925 để dạy Đạo cho Ngài, truyền Bí pháp luyện đạo cho Ngài. Ngài thường
được Đức Chí Tôn khen là chăm chỉ công phu, rồi Đức Chí Tôn cho Ngài thấy cảnh
Bồng Lai theo lời yêu cầu của Ngài để khích lệ việc tu hành.
Chưa có một Môn đệ nào được Đức Chí Tôn yêu mến đến mức độ ấy. Mục đích của
Đức Chí-Tôn là rèn luyện Ngài trở nên người đạo đức hoàn toàn, đắc đạo thành
Tiên, Phật tại thế, để giao chức Giáo-Tông cho Ngài làm Anh Cả nhơn sanh, thay
mặt Đức Chí Tôn đứng ra mở đạo và dìu dắt nhơn sanh.
Công ơn của Đức Chí Tôn đối với Ngài Ngô Văn Chiêu thật vô cùng to tát.
Thế mà kỳ vọng của Đức Chí Tôn sụp đổ, vì Ngài không vượt qua được cơ thử
thách của Quỉ vương, nên Đức Chí Tôn không thể giao chức Giáo-Tông cho Ngài
Có một điều đáng tiếc là Ngài Ngô Văn Chiêu không dám tiết lộ cho bạn Đạo
biết là Ngài vượt qua không nỗi các cuộc thử thách khảo đảo của Quỉ vương, khiến
nên nhiều người không biết, tưởng lầm là Ngài Ngô Văn Chiêu chống lại mạng lịnh
của Đức Chí Tôn, không chịu nhận chức Giáo-Tông.Thậm chí đến nhiều phái cho rằng
Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt soán ngôi Giáo-Tông của Ngài Chiêu và từ
hiểu lầm này đến hiểu lầm khác và nhất là hoang mang trong giới hậu sinh.
Đức Chí Tôn đặt trọn vẹn sự tin tưởng nơi Ngài Ngô Văn Chiêu, nên không dự
bị một vị nào khác để thay thế. Do đó, khi Ngài Chiêu bị rớt trong cuộc khảo đảo
của Quỉ vương, thì Đức Chí Tôn phải chuyển pháp, giao chức Giáo-Tông cho Đức Lý
Thái Bạch Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm. (Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo-Tông Đại
Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ)
Việc mở chi phái Chiếu Minh là một lối thoát cho tinh thần của Ngài Ngô Văn
Chiêu lúc đó, chắc chắn không phải là do ý muốn có dự định trước của Ngài, nhưng
việc đó lại mở đường cho một số Chức sắc khác khi bất mãn Hội Thánh, tách ra lập
Chi phái như quí ông: Phối Sư Ca, Giáo Hữu Chính...Có lẽ vì những lý do đó mà
Ngọc Hư Cung rút Ngài Ngô Văn Chiêu về thiêng liêng khá sớm (Ngài Chiêu qui liễu
năm 1932), khiến nên Ngài giáng cơ than rằng:
“Giáo lý của Ngài truyền lại cho phái Chiếu Minh còn dở dang thiếu sót, làm
cho tín đồ phái Chiếu Minh đi vào con đường độc thiện kỳ thân”…
Tất cả những người theo Ngài phải tách rời khỏi Trường thi công quả phụng sự
nhơn sanh do Đức Chí Tôn lập ra. Đạo Cao Đài không có một Giáo-Tông mang xác
phàm, Đức Chí Tôn buộc lòng giao cho Đức Lý Thái Bạch kiêm nhiệm chức Giáo-Tông
Đại Đạo. Do đó, sự điều hành việc Đạo của Đức Lý phải nhờ nơi Cơ bút của Hiệp
Thiên Đài nên không được nhanh chóng và kịp thời. Thế nên, Đức Lý Giáo-Tông,
trong Đạo Nghị Định thứ nhì ngày 3-10-Canh Ngọ (1930), ban cho Đầu-Sư Thượng
Trung Nhựt (Lê Văn Trung) cầm quyền Giáo-Tông tại thế, để điều hành cơ Đạo hữu
hình, còn nhiệm vụ Giáo-Tông Vô Vi vẫn do Đức Lý Giáo-Tông nắm giữ.
Do đó, toàn Đạo Cao Đài gọi Ngài Thượng Trung Nhựt là Đức Quyền Giáo-Tông
Lê Văn Trung.
Kể từ đó tới nay, Đạo Cao Đài chỉ có một Giáo-Tông là Đức Lý Thái Bạch và một
Quyền Giáo-Tông tại thế là Ngài Lê Văn Trung. Tất cả những vị nào khác xưng
danh là Giáo-Tông, hay Đệ nhứt Giáo-Tông, Đệ nhị Giáo-Tông... đều là tiếm xưng
cả. Và chúng ta thấy rõ, Ngài Ngô Văn Chiêu khi về cõi thiêng liêng, trở lại
giáng cơ, chỉ xưng tên họ của Ngài, chớ không bao giờ Ngài dám xưng là
Giáo-Tông. (Tham khảo thêm tài liệu Tự điển Cao-Đài của Hiền tài Hồng)
03 . Ông Vương Quan Kỳ
(1880-1940)
(Bỏ Đạo tách ra lập phái Cầu-kho)
Năm Mậu-Thìn (1928):
Do áp lực của thực dân Pháp “muốn theo Cao-Đài thì tự lập chi phái, còn
theo anh Lê văn Trung sẽ bị Pháp khủng bố”. Nhóm đàn Cầu kho có quí ông Vương
quan Kỳ, Đoàn văn Bản, Nguyễn văn Kinh, Nguyễn văn Đạt, Lê văn Giảng, Ngô tường
Vân, Nguyễn văn Mùi... chủ trương dùng văn chương hoằng khai Đại Đạo, phổ độ. Họ
thành lập Cơ quan ngôn luận “La Revue Caodaisme” xuất bản bán nguyệt san gồm ba
thứ chữ: chữ Việt, chữ Hán và chữ Pháp, cứ nửa tháng ra một số phát hành ra nhiều
nước trên thế giới như Trung Hoa, Anh, Pháp, Đức, Ý, Bĩ…quảng bá chơn truyền,
luật pháp, giáo lý ra nước ngoài. Nhóm này lập thành phái Đạo Cầu kho.
Phái Cầu Kho do Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) đứng đầu, qui tụ được
các ông: Giáo Sư Thượng Bản Thanh (Ðoàn Văn Bản), ông Nguyễn Văn Tường, Trần
Quang Mính, Nguyễn Văn Khai... Phần lớn số trí thức Cao Ðài ở Sài Gòn đều ngã
theo phái Cầu Kho.
Ông Vương Quan Kỳ là Ðốc phủ, được Ngài Ngô Văn Chiêu độ, sau được Ðức Chí
Tôn phong phẩm Thượng Giáo Sư .
Nguyên năm 1930, số Chức sắc tại Thánh Thất Cầu Kho do ông Kỳ cầm đầu,
không tuân lịnh Hội Thánh Tây Ninh thi hành quyển “Nghi Tiết Ðại Ðàn Tiểu Ðàn”
do Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân biên soạn, trình lên Ðức Phạm Hộ-Pháp, rồi chuyển qua
Cửu Trùng Ðài, Hội Thánh xem xét đồng ý thì Ðức Quyền Giáo-Tông ban hành kể từ
ngày 12-7-1930 để áp dụng thống nhứt trong toàn Đạo.
Trong quyển nầy, Ngài Bảo Văn Pháp Quân bỏ ba bài Dâng Tam bửu cũ do Ngài
Ngô Văn Chiêu đặt ra đã áp dụng trước đây, thay bằng ba bài Dâng Tam bửu mới mà
ngày nay chúng ta thường đọc. Quí Chức sắc ở Cầu Kho không chịu áp dụng các
nghi tiết mới ban hành, nên quí Ngài tự tách ra lập thành Chi phái Cầu Kho, lấy
Thánh Thất Cầu Kho làm trụ sở. Về sau, Thánh Thất nầy dời đến đất mới gần đó,
xây dựng lên đặt tên là Thánh Thất Nam Thành, ở đường Nguyễn Cư Trinh Sài Gòn
* Phần đời: Tri phủ Sở thuế
thân:
Ông Vương Quan Kỳ (1880-1940) là con của ông bà Vương Quan Ðể và Huỳnh Thị
Bảy, người tỉnh Chợ Lớn, cháu nội Thống Chế Vương Quan Hạc. Ông ngoại là nhà
Nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), đậu cử nhân, làm quan hai triều Minh Mạng
và Tự Đức, rồi từ quan khi nhà Nguyễn ký Hòa ước 1862 với Pháp.
Ông Kỳ học tại trường Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung (Diplôme),
làm việc tại Dinh Thống Ðốc Nam Kỳ, ngạch Tri phủ, bạn cùng sở với Ngài Ngô Văn
Chiêu nên được Ngài Chiêu độ theo Ðạo Cao Ðài.
Ông Kỳ là em ruột của Vương Quan Trân. Ông Trân là cha ruột của Cô Vương Thị
Lễ Thất Nương Diêu Trì Cung (tức là chú của Vương Thị Lễ). Nhà riêng của ông Kỳ
ở tại số 80 đường Lagrandière, sau đổi lại là đường Gia Long, Quận Nhứt, Sài Gòn.
* Phần Đạo: Giáo Sư của
Tòa-Thánh Tây-Ninh:
Ông Vương Quan Kỳ là một trong 12 Môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn được
Thiên phong Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh ngày 14-5-Bính Dần (1926).
Năm 1930, ông Vương Quan Kỳ cùng các Chức sắc nơi Thánh Thất Cầu Kho tách
ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, lập ra Chi phái Cầu Kho, hành đạo riêng, không theo
hệ thống Toà Thánh Tây ninh.
Bài thơ Đầu tiên Đức Chí-Tôn cho Ông Vương Quan-Kỳ như vầy:
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt
tân,
Niên đáo tân hề đạo dữ
tân.
Vô lao công quả tu đương
tác,
Niên quá niên hề Đạo tối
tân.
Ông có Pháp-tịch, thuở nhỏ học ở Mỹ-Tho rồi trường Chasseloup Laubat, đậu
Thành Chung, làm quan tới Phủ sứ, thọ phong Giáo-Sư ngày 26-4-1928.
Ngày 15-3 Bính-Dần ông được phong chức Tiên đắc Lang quân nhậm Thuyết đạo
Giáo-sư. Rồi ông được Thiên-phong Giáo-sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ Thanh
ngày 14-5 Bính-Dần.
Nhưng đến ngày 14-11 Bính-Dần (18-12-1926) thì Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại”
Đến ngày 18-11 Bính-Dần (22-12-1926)
Đức Lý dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ
Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó
chẳng tin nghe lời bị phạt Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã lập pháp mà nó
muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao
cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu khá an lòng.”
Qua ngày 28-11 Bính-Dần (1-1-1927) thì:
Đức Lý giáng dạy:
“Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu từ đây coi Thượng Kỳ-Thanh như một Môn-Đệ vậy
thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà pháp-luật đã
phạm tha sao cho được”.
Vào năm 1930, Giáo-Sư Thượng Kỳ-Thanh tức là Vương-Quan-Kỳ, không tuân lịnh
Toà Thánh Tây-Ninh áp dụng nghi lễ mới, nên tách ra lập phái Cầu-kho, lập tại
Thánh-Thất Cầu-Kho.
Trong Con Ðường Thiêng Liêng Hằng Sống, Ðức Hộ-Pháp thuyết đạo đêm 8-9-Mậu
Tý (dl 10-10-1948) nhắc lại khi Ðức Ngài xuất chơn thần về thiêng liêng có thấy
ông Vương Quan Kỳ trên đó, Ðức Ngài thuật lại như:
“Bần đạo thấy người bạn nhờ ơn thiêng liêng của Chí Tôn riêng ban cho người
ấy, người ấy có người chí thân là một Ðấng cầm quyền trọng hệ trên Hư linh tức
là Thất Nương Diêu Trì Cung. Bần đạo nói rõ, người ấy là Vương Quan Kỳ, chú ruột
của Thất Nương vậy. Người mở đạo mà chẳng biết đạo là gì hết, đi theo một tư tưởng
của nền Chánh giáo của Ðức Chí Tôn định quyết, mà tư tưởng của người ấy và cả
hành tàng nếu chúng ta thấy sẽ lên án là Tả đạo Bàng môn chắc hẳn vậy.
Lạ thay! Khi Bần đạo quay lại dòm thấy nhiều bạn rơi xuống Bích Hải khóc
lóc, còn người đó trước bận Thiên phục Giáo Sư, nhưng bây giờ thì áo tốt vắt
vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần, đi ngật ngờ ngật ngưỡng, cười một mình,
không biết cười cái gì, đi ngang Bát Quái Ðài như không vậy.
Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu vi thấy trái hẳn nền
chơn giáo của Ðức Chí Tôn mà trọn tâm tín ngưỡng Ngài, người thọ Thiên phục áo
mão, dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay, đi ngang vô Bát Quái Ðài,
không quyền luật nào ngăn cản được. Chúng ta lấy bài học ấy đặng để trong tâm,
đừng phê bình công kích." (Trích Con đường TLHS, trang 11)
04 - Đầu-Sư phái Thái: Hòa
Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.
(Không hành Đạo bị Đức Lý cách chức)
Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị Đầu-Sư sau đây vào phẩm Đầu-Sư
đầu tiên của Đạo Cao Đài có mang ba chữ: Nhựt, Nguyệt, Tinh là ba bửu của Trời,
là:
- Đầu-Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.
- Đầu-Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau
được thăng Quyền Giáo-Tông.
- Đầu-Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.
Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong Thái Đầu-Sư
ngày 13-10-Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl
15-1-1927), Đức Lý Giáo-Tông cách chức Thái Đầu-Sư của Ngài Thiện Minh.
Cũng trong ngày nầy (12-12-Bính Dần), Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn
Nương chức Thái Đầu-Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh.
Ba vị Đầu-Sư đầu tiên có mang chữ: NHỰT, NGUYỆT, TINH là ba báu của Trời,
đó là một đặc ân của cơ quan Cửu Trùng Đài. Nhưng chắc cũng là trong vòng hữu định
nên khiến như thế, vì mặt trời (NHỰT) cũng như mặt trăng (NGUYỆT) mỗi thứ chỉ
có một, nên hai vị này giữ phẩm tước được bền bĩ, còn TINH tức là sao có đến
3.072 sao nên khiến cho vị mang chữ Tinh có đến hai người là Đầu-Sư: Thái Minh
Tinh và Thái Nương Tinh.
Từ đó về sau thì tất cả Chức sắc Cửu Trùng Đài, dù ở phẩm Đầu-Sư đi nữa
cũng lấy Thánh danh là chữ Thanh (cho nam phái), nữ lấy chữ Hương mà thôi.
5 - Ông Phối Sư Thái Ca
Thanh
(lập Minh Chơn Lý)
Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi
Toà Thánh Tây ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần
Đạo Quang hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết
cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp tác với ông
Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.
Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng-pháp ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung,
Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy
thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới
được phép ra miền Trung, cho nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn
Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm
cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.
Ngày 17-2-Bính Tuất (dl 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang
đăng Tiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi.
Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự.
Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang
đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh
Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò
Vấp.
(Trích trong Ðuốc Chơn Lý, số 51 trang 12)
1 - Hoạt động đạo sự của Minh
Chơn lý:
Thêm vào sự canh cải đó, Minh Chơn Lý gọi Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài
là hai phẩm tước chớ không phải là hai cơ quan như trong Pháp Chánh Truyền qui
định. Phái ấy cho rằng hai chức nầy hiệp với Ðức Chí Tôn làm thành một cái gọi
là Tam Thân Hiệp Nhứt. Những phẩm Chức sắc trên Chánh Phối Sư còn có Thiên Sư,
Tứ Bửu, Ðầu Sư, Cửu Trùng Ðài, Tam Tôn. Kinh sách thì sửa đổi hầu hết, không
theo như Pháp Chánh Truyền, tuy giọng đọc na ná mà thôi..
Tệ hại hơn nữa là Minh Chơn Lý đã xóa bỏ nguồn cội nền chơn Ðạo. Cơ bút của
Minh Chơn Lý dạy như sau:
"Thầy xuống lập đạo có một mình Thầy hiệp với hai Chưởng quản, một là
Lê Văn Ðược làm chức Hiệp Thiên Ðài (hồn) của Ðạo, là bậc Chơn như có Phật Hàng
Long hiệp mới thành chánh vị Tam Tôn chủ tam hồn, đội áo Khai Thiên (12 thước vải
trắng) đứng trên ngọc ỷ, phía trước mặt kế bên án có ông Cửu Trùng Ðài Nguyễn
Văn Ca là xác của Ðạo. Ðạo có một xác một hồn mà thôi. Cửu Trùng Ðài nhờ chuyển
kiếp 9 lần mới hiệp cùng Phật An Thiên nên Thánh danh kêu là Bửu An Thiên 18
năm, trong thời gian ấy chịu trả vay nhiều nỗi. Còn ai bày ra Hiệp Thiên Ðài, Cửu
Trùng Ðài là hồn ma xác quỉ, đó là giả dối.”
(Trích trong Ðuốc Chơn Lý số 51 trang 97)
Vì sự canh cải Chơn truyền Luật pháp nên Minh Chơn Lý tuy hấp dẫn được một
số Chức sắc Ðại Thiên phong buổi đầu, nhưng sau nầy lại trở thành một tệ đoan lớn
lao hơn hết trong sự phân tán nhà Ðạo. Do đó, có thể nói rằng, phái Minh Chơn
Lý, ngay sau khi tự canh cải Chơn truyền, thờ phụng sửa đổi nghi thức, không
còn dính dáng gì của vẻ Ðạo Cao Ðài nữa và như thế phái nầy không tránh khỏi
bàn tay Tà Thần vậy”.
Theo lời các tiền bối kể lại, nguyên căn của Phối Sư Thái Ca Thanh là Ðộc
Giác Thanh Ngưu của Ðức Lão Tử giáng phàm, Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ là Từ Giáp
giáng phàm. Thanh Ngưu ở với Ðức Lão Tử lâu năm nên có nhiều phép biến hóa huyền
diệu, xem truyện Ðông Du Bát Tiên thì rõ.
Ngay lúc mà Đức Tôn sư Hộ-Pháp mặc khôi giáp rực rỡ đến trình diện trước Ngọc
Hư Cung. Thanh ngưu của Đức Lão Tử kinh hoảng giựt mình chạy làm đứt dây sứt lỗ
mũi, chạy bay xuống thế đầu kiếp làm Nguyễn văn Ca, có ý định để trả thù Hộ-Pháp
sau này.
2 - Cuộc Ân oán đối với Đốc
Phủ Ca:
Nguyên khi Ðốc Phủ Ca làm Quận Trưởng Châu Ðốc, ông vâng lịnh Thực dân Pháp
ruồng bố các nhóm Cách Mạng chống Pháp đang lập căn cứ trong Thất Sơn, giết chết
ông Cử Ða và bắt học trò của Cử Ða là Bảy Do giao cho Pháp xử tử. Linh hồn Bảy
Do lên kiện nơi Ngọc Hư Cung. Ngọc Hư Cung cho phép ông Bảy Do báo oán và giao
phận sự giục loạn trong nền Ðại Ðạo của Ðức Chí Tôn để trục ngoại các thành phần
phản đạo, rửa ráy hàng ngũ Chức sắc cho trong sạch.
Ngày 21-7-1934, tại Phạm Nghiệp, Ðức Hộ-Pháp cùng Ngài Cao Tiếp Ðạo phò
loan, ông Bảy Do nhập cơ:
BẢY DO
“Kính chào chư vị Ðại Ðức và chư Ðạo hữu,
- Xin cho biết phẩm vị.
- Thần. Thầy của Bần tăng mắc chuyển cơ đặng giáo hóa TRANG, TƯƠNG, nên đến
không đặng, mới sai Bần tăng thưa lại cùng chư quí vị.
Thưa Ðức Hộ-Pháp, Bần tăng lấy làm bất nguyện vì buổi nọ Ngọc Hư Cung ban lịnh
cho trừ diệt Phủ CA đặng báo oán. Bần tăng đã dụ nó vào Cấm Sơn và định đưa
luôn vào ngục thất đặng sát hại, nào dè có lịnh Chí Tôn mật chỉ không cho sát mạng.
Sau Bần tăng muốn nhập thể nó làm cho nó điên cuồng rồi bắt nó tự ải, nào dè
Chí Tôn lại binh vực cấm ngăn thêm nữa, chỉ cho hành bịnh mà thôi. Nay nó bị
điêu tàn cơ giả Ðạo nên mang bịnh thất tình, tưởng khi Bần tăng cũng còn phương
tẩy hận.
Ngài nín nẩm lóng tin thì hiểu rõ hành tàng mọi lẽ.
Còn hai người TRANG, TƯƠNG thì Ngọc Hư Cung cho khảo. Thần đặng phép thử,
khử tà trừ trược đủ ba năm khảo án, rồi dạy dỗ cho nó trung tâm, rồi cho trở lại
Hội Thánh.
- Không. Cười ... Hạng Thiên Thánh mà vào phẩm Ðầu Sư sao đặng. Bần tăng tưởng
khi Ngài hiểu điều ấy chán chường, chẳng cần để luận. Họ chỉ lãnh Hàm phong là
may mắn lắm đó." ( tài liệu sưu tập của Quang Minh)
3 - Ba vị Tướng soái của
Chí-Tôn:
Ngày 11-5 Mậu Thìn (Thứ Năm: 28-6-1928)
Đức Thượng Đế giáng Cơ dạy rằng:
- Trung! Hai em con là Cư và Tắc từ đây hằng ở bên con đặng cùng lo phổ độ.
Đối với ba vị Đại Thiên Phong của Toà Thánh là cột đồng vững chắc lúc nào
cũng ra tay chống đỡ đạo quyền, các Ngài lo cho chúng sanh tức là lo cho cả đại
đồng nhơn loại. Lúc này Đạo phải lén lút đưa một số người ra ngoại quốc du học
theo phong trào Đông du mới phối hợp với bốn nhà Nguyễn đưa người đi tìm đường
cứu nước, nên những tiền bạc gom góp để hỗ trợ cho việc này không dám công khai
mà các Ngài phải chịu mang tiếng. Nhất là Đức Quyền Giáo-Tông phải chịu phần mạ
lỵ của nhóm người chống đối luôn rình rập và làm khổ Ngài. Nhưng khổ nỗi việc
làm phải dấu kín làm sao phơi bày sự thực, nên phải đành ngậm miệng, thừa thế
lũ người ấy càng làm lớn chuyện để sỉ nhục các Ngài.
1/ - Thực dân pháp tiến
hành âm mưu:
- Với Đức Quyền Giáo-Tông thì:
Thực dân Pháp cung cấp tài liệu cho nhóm người “bồi bút” viết báo nói xấu Đức
Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung, đả kích rằng: mọi việc ăn, ở, sinh hoạt của Đức
Ngài đều do Hội-Thánh Cao-Đài lo chu đáo, thế mà hằng tháng Đức Ngài còn nhận
50 đồng của Đạo làm “sinh hoạt phí”. Đức Ngài là người lãnh đạo tối cao của Đạo
Cao Đài, thế mà Đức Ngài còn dùng nhiều bút hiệu viết báo cho nhiều tờ báo để lấy
tiền nhuận bút. Tất cả tiền bạc vay hỏi là lén lút trao cho nhóm người ra nước
ngoài lo phần ăn học và lo phần cứu nước.
- Với Đức Cao Thượng-Phẩm:
Chúng viết báo nói xấu Ngài là không lo thi hành trách nhiệm, bảo vệ chơn
truyền luật pháp Đại Đạo, việc phá rừng lập Thánh địa chi tiêu không minh bạch.
Mua sắm vật liệu giá cao hơn giá thị trường, việc chi thu không rõ ràng….đủ thứ
hết.
- Với Đức Hộ-Pháp:
Họ cũng thi hành vấn đề viết báo bêu xấu Đức Ngài không thi hành trách nhiệm
bảo thủ chơn truyền luật pháp Đại Đạo, không triệu tập Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài
để thụ lý xét xử đơn tố cáo của đồng đạo: tố cáo Đức Quyền Giáo-Tông và cả Đức
Thượng-Phẩm nữa. Rằng Ngài luôn có lập luận bao che cho các bậc Chức sắc bề
trên.
2/- Thực dân Pháp mua chuộc, hăm doạ và cưỡng bức nhà Nho Đặng Thúc Liêng và Hoà Thượng Thái Diên cùng
ba nhà báo hợp soạn quyển Cao-Đài Đàm quái giáo nghị, mục đích là xuyên tạc, vu
khống, đả phá, mạ lỵ Đạo Cao Đài, in tràn lan, phổ biến rộng rãi khắp nơi, loan
truyền khắp các giới. Kết quả là làm cho dư luận xôn xao, trong quần chúng
hoang mang và những người không vững đạo tâm sẽ có những hành động táo bạo, sự
rạn nứt bắt đầu: Do đó phái của ông Phối Sư Thái Ca-Thanh (Tri phủ Nguyễn văn
Ca) bỏ Toà Thánh Tây ninh về Rạch giá phổ biến “Chánh tà yếu lý” lập ra nhóm
An-Thiên-Hội, lập Toà Thánh Tam Bình ở Rạch giá, Toà Thánh Trung ương ở Cầu Vỹ,
Mỹ Tho, lập phái Cao-Đài Minh Chơn Lý tự phong làm Giáo-Tông, tức nhiên tạo những
đàn Cơ thiếu nghiêm túc, rồi quay lại chỉ trích Hội-Thánh Cao-Đài Toà Thánh Tây
ninh là nơi đã khai sanh ra chính các phẩm tước của các vị ấy, chính con người
của họ nữa kìa!
Lúc bấy giờ Toà-Thánh bị quá nhiều khảo đảo từ trong nội bộ vì nghe theo
nhóm người phá Đạo cùng sự xúi giục của người Pháp, gây ra phe này phái nọ làm
chao đảo tinh thần những ai nhẹ đức tin. Nhưng người chịu nạn nặng nề nhứt là
các Ngài:
- Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt
- Đức Hộ-Pháp Phạm Công-Tắc.
- Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư.
Những phe chống Hội Thánh, trong đó có:
Phái Minh Chơn Lý ra đời. Phái nầy do Ngài Ðốc phủ Nguyễn Văn Ca lập ra. Ông nhập môn vào Ðạo
Cao Ðài năm 1926, được Ðức Chí Tôn phong phẩm Phối Sư Thái Ca Thanh. Ông Ca
đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng tờ báo La Revue Caodaïste, bằng
Pháp văn để truyền bá Ðạo Cao Ðài cho người ngoại quốc.
Ông Ca vâng theo Cơ bút của ông Trương Kế An (hiệu là Tuyết Vân Mặc Khách)
nên ông Ca ở luôn tại Cầu Vỹ, Mỹ Tho, không về Tòa Thánh Tây Ninh và không tuân
mạng lịnh của Hội Thánh nữa, lập phái Minh Chơn Lý vào năm 1931.
Ông Ca lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như:
- Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang,
- Vài Chức sắc ở Cầu Kho,
- Quí ông Cao Triều Phát,
- Nguyễn Ngọc Thiệu.
Cơ bút do ông Trương Kế An cầu, phong ông Ca làm Ðầu Sư Thái Ca Nhựt. Cũng
trong năm nầy, Cơ bút lại dẫn ông đi xa hơn nữa, qua các kỳ An Thiên Ðại Hội, gọi
ông là Ðức Cửu Trùng Ðài. Từ đây, chưởng quản Hiệp-Thiên-Ðài là Thiên Sư Nguyễn
Văn Phùng cầu cơ sửa đổi hết cách thờ phượng và nghi lễ, thay Thiên Nhãn bằng
Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng, rồi giải thích Thánh Ngôn một cách lệch lạc,
khiến cho không còn gì là chơn truyền của Ðạo Cao Ðài nữa.
Các Chức sắc trước đây hiệp tác với ông Ca thấy vậy liền rút khỏi Minh Chơn
Lý, đồng xuống Bạc Liêu là quê hương của Ngài Cao Triều Phát lập phái Minh Chơn
Ðạo, xây dựng Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm, Giá Rai, Cà Mau.
Phái Minh Chơn Lý hiện nay thu hẹp rất nhiều, lại chia làm hai: chi Chơn Lý
tại Cầu Vỹ (Minh Chơn Lý cũ) và Tòa Thánh Cao Ðài Việt-Nam tại Bến Tranh.
Trong Đạo lúc này có lẽ rối như tổ ong, vì không còn ai nghe ai nữa. Thầy
giận mà rằng:
Thầy hỏi:
-“ Thằng CA nó phản đạo là tại cớ nào? Nói Thầy nghe thử...
- Không phải vì vậy mà thôi, mà tại gương xấu của các con phản phúc lẫn
nhau, nhục mạ lẫn nhau, mưu hại lẫn nhau, giành giựt quyền hành, gây điều bất
chánh, đến đỗi Hiệp-Thiên-Ðài cũng thế.
- TẮC! Con nghe rõ: nhiều đứa dùng Cơ Bút mà làm ngọn đao thương đặng sát
phạt mắng chửi nhau, ngày nay mới làm mối oan khiên cho Tà Thần bắt chước.
Hại thay cho một nền Tôn giáo chơn chánh dường nầy, bị phàm tâm của các con
đã ra ô trược...
Thầy đã thấy trong Thiên thơ, tội tình của mỗi đứa, Thái Bạch đã giao nạp
cho Ngọc Hư Cung rồi, đã đủ mặt Cửu-Trùng-Ðài và Hiệp-Thiên-Ðài đều có hết.”!
Về Phối Sư Thái Ca
Thanh:
Sau đây, xin trích một đoạn trong quyển Lịch Sử Cao
Ðài Quyển 2 của Ðồng Tân, trang 391-395:
"Thế là một phái nữa thành hình, ban đầu lấy tên
là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Minh Lý Hội, sau đổi thành Minh Chơn Lý Hiệp Ngũ Chi.
Những việc ông Ca làm buổi ban sơ xem cũng có mòi xây dựng, nhưng qua năm 1935, Chưởng quản Hiệp Thiên Đài là Thiên Sư Nguyễn Hữu Phùng
chấp cơ sửa đổi hết cách thờ phượng, lễ bái, nghi tiết, đổi sự thờ Thiên Nhãn bằng Trái Tim và Thập ngũ Linh Ðăng. Vì lẽ ấy mà phần
lớn Chức sắc, một số trở về Cầu Kho giữ nguyên gốc cũ làm thành nhóm bảo thủ,
còn một số thì hợp tác với phái Tiên Thiên. Minh Chơn Ðạo cũng nảy sinh khi phái
Minh Chơn Lý bắt đầu đi sâu vào Tà
phái.
Việc ông Ca tách ra thành hình phái Minh Chơn Lý là cơ đại khảo trong Đạo, nhưng cũng do nghiệp báo của ông, nên sự canh cải làm
cho thất chơn truyền là một sự nguy hại cho ông và cho phái ông rất nhiều.
Ðể chứng minh điều nầy, ta hãy xem bài cơ bút sau đây đã giải thích huyền
vi Thiên Nhãn một cách rất tà mị, dù người kém chữ nghĩa đến đâu cũng không thể
hiểu như vậy được.
Bài trích trong tập Ðuốc Chơn Lý, do Tòa Thánh Ðịnh Tường (Minh Chơn Lý, Cầu
Vỹ) xuất bản năm 1955:
“VÔ VI HIỆP THIÊN ÐÀI
Ngày 19 tháng 8 âm lịch 1938 (7 giờ tối)
- Ðược! Con nghe Thầy dặn, nay Thầy giải nghĩa câu: Nhãn thị chủ tâm, Lưỡng
quan chủ tể, quan thị Thần, Thần thị Thiên, Thiên giả Ngã dã.
Trước Thầy có hứa sau Thầy sẽ chỉ rành là đợi cho đến ngày nay là đúng Tam
Kỳ Phổ Ðộ, Thầy phải giải cho rành cho cả thảy đặng hay kẻo nhiều đứa nó ước ao
trông đợi.
Giải nghĩa như vầy:
Chữ Nhãn thị chủ tâm nghĩa là cái nhãn của mỗi người đó là chủ nghĩa ở nơi
tạng Tâm mà truyền ra, ấy là trái tim nên hình cái Nhãn cũng tương tự trái tim
vậy. Ðó là Tâm nội xuất hình ư ngoại đó nên lấy nó mà làm chủ nghĩa đặng cho đời
xem chung nên gọi là Nhãn thị chủ Tâm là vậy đó.
Lưỡng quan chủ tể, chữ tể nầy là cai trị (gouverner) nghĩa là hai điều quan
hệ trong sự ngó dòm, coi xét, đó phải ngăn ngừa phòng sợ, trong đó có chánh có
tà, đó là lưỡng quan là hai ngõ, hễ ngó chánh thì có chánh, ngó tà thì có tà,
trong đó có một ngôi chủ tể xem xét không lầm nên phải quan phòng là vậy đó.
Quan thị Thần, chữ quan nầy là khán (observer), chữ thị nầy là thật (droit)
nghĩa là xem xét đặng làm việc phải là chữ thị đó. Thị trong đó có Thần. Thần nầy
là Thần huệ diệu minh là điển đó, nên gọi là điển quan Thần diệu huệ phát minh
tâm là vậy đó.
Thần thị Thiên, Thần vậy đó mới gọi là có Trời ẩn trong đó. Thần nầy mới gọi
là Thần mục tợ điển. Còn Thiên đó là người đời hay kêu là Thiên La Thần, Ðịa La
Thần là vậy, vì xem xét không lầm, bao la vũ trụ chẳng vị chẳng tư.
Còn chữ Thiên giả ngã dã, chữ Thiên là xấu (mauvais), chữ Ngã là nghiêng
(pencher).
Ðó là nghĩa nói về người đạo. Nếu dùng Thiên Nhãn đặng treo vậy thì trong
chỗ ngó xem hành động không y theo lời dạy thì người đó có chỗ thiên là không
đúng thiệt nơi lòng. Phật gọi là ngã (tomber) tướng đó. Hễ người đạo mà phạm
vào nhơn ngã thì hóa ra là người nương đạo mà lập danh quyền lợi, dầu có treo
cũng vô ích. Vậy, con biểu CA nó coi rồi giao lại cho ba Ðầu Sư, Tứ Bửu, Thiên
Sư xét cho kỹ, coi cho rành đặng in ra, rồi gởi cho các Chi phái khác đặng rõ lời
Thầy dạy đó, mặc may chúng nó có đặng hồi tâm mà tránh cái nạn tu mà lắm mê hoặc
đặng biết chơn lý mà theo Thầy thì là nhờ công trong mỗi đứa đó. Thăng.”
4 - Ngọc Chưởng Pháp: Thái
Lão Sư Trần Ðạo Quang (1870-1946)
(Bỏ Cao-Đài Tây Ninh theo Minh Chơn Lý)
Như trên đã nói: Ông Ca lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi
đầu như: Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần
Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl
31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.
Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông
bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế.
Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ. Năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, tu theo đạo
Minh Sư. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. Thái Lão Sư Trần Ðạo Cửu nhận
làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài.
Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia tu hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ
và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo
Ân; rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc:
Ðảnh Hàng: lấy đạo hiệu Trần Vận Quang.
Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Năm nầy Ngài được
45 tuổi.
Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang, được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế
đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của
Tông Phổ Tế ở Việt-Nam.
Tổ Sư của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư bên Tàu là Thái Lão Sư Trần Ðạo Khánh dự
định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm “Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ” của Tông Phổ Tế đạo
Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)
Trong lúc đó thì Lão Sư Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Văn Kinh đã được Ðức Chí
Tôn độ theo Ðạo Cao Ðài, nên hai Ngài xin lập đàn cơ tại Linh Quang Tự để Ðức
Chí Tôn độ Ngài Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang luôn thể và Ngài Trần Ðạo Quang được
Ðức Chí Tôn độ nên bằng lòng qui hiệp vào Ðạo Cao Ðài.
Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận
Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm
Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của
Bà Nữ Ðầu-Sư Hương Hiếu Q.2 trang 172 và 192)
Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó
ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị.
Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi
Toà-Thánh Tây-Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp
tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng,
nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra
phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.
Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc
Chưởng Pháp không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người
trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung.
Thế nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo
nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ
Quan Truyền Giáo Trung Việt.
Ngày 17-2-Bính Tuất (dl 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang
đăng Tiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi.
Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự.
Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang
đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh
Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò
Vấp.
6 - Phái Tiên Thiên: Giáo
Hữu Ngọc Chính Thanh
(Ông bị trục xuất vào năm 1930).
Phái nầy do ông Giáo-Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập ra ở Cai Lậy.
Nguyên ông Chính thọ phong Giáo Hữu tại Toà-Thánh Tây-Ninh, nhưng ông không
hành đạo, mà lo việc luyện đạo và lập Cơ bút riêng. Ông bị Hội Thánh Tây Ninh cảnh
cáo nhiều lần, và cuối cùng thì ông bị trục xuất vào năm 1930.
Năm 1932, Cơ Bút phái Tiên Thiên phong ông Chính làm chức Chưởng Pháp, quí
ông Nguyễn Văn Tòng và Lê Kim Tỵ qua hợp tác với ông Chính, thành lập phái Tiên
Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh tại làng Sóc Sãi tỉnh Bến Tre.
(Ông Lê Kim Tỵ là một nhà thầu khoán có tài, người có danh vọng lúc bấy giờ,
tính tình cương nghị, người Pháp rất kính nể. Khi ban sơ mới mở Ðạo tại Sài
Gòn, ông Tỵ có đến hầu đàn, Ngài Nguyễn Trung Hậu phò loan, Ðức Chí Tôn cho ông
4 câu thi rồi viết tiếp: “Tỵ họa bất như tỉnh phi.” [nghĩa là: Tránh họa không
bằng xét lại lỗi lầm của mình], Lui. (tức là Ðức Chí Tôn không thâu nhận ông Tỵ
làm Môn đệ).
Phái Tiên Thiên dùng Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Tân Luật và Pháp Chánh Truyền
như Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng Chức sắc không chia ra Thái, Thượng, Ngọc, chỉ mặc
đạo phục toàn trắng, đầu đội khăn đóng trắng.
Nhờ tài thầu khoán của ông Lê Kim Tỵ, ông xây dựng được 72 Thánh Tịnh (Thất
thập nhị Thánh Tịnh) trong khắp các tỉnh ở miền Nam cho phái Tiên Thiên.
Hội Thánh Tiên Thiên cũng có hai đài: Hiệp-Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài nhưng
cầm đầu lại do Thất Thánh, có Thất Hiền phụ tá.
Thất Thánh gồm 7 ông: Phan Văn Tòng, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Thế Hiển, Lê
Kim Tỵ, Trần Lợi, Nguyễn Bửu Tài, Nguyễn Tấn Hoài.
Thất Hiền gồm 7 ông: Lê Thành Thân, Nguyễn Phú Thứ, Lâm Quang Tỷ, Ðoàn Văn
Chiêu, Phan Lương Hiền, Trương Như Mầu, Phan Bá Phước. Dự khuyết: Phan Thanh.
Cũng trong thời gian nầy, phái Tiên Thiên lập Trước Tiết Tàng Thơ, chủ tịnh
là ông Trương Duy Toản. Ông Trần Văn Quế thì hiệp với đồng tử Liên Hoa (Ðàm
Thi) lập nhiều Thánh Tịnh khác như: Trước Lý Minh Ðài ở Gia Ðịnh, Ngọc Minh Ðài
ở Bà Ðiểm, Ngọc Tuyển Thánh Tịnh ở Long Thành, Biên Hòa.
Sau đó Cơ Bút phái Tiên Thiên dạy thành lập Cao Ðài Ðại Ðạo Liên Ðoàn, qui
tụ một số Chức sắc kỳ cựu trong Ðạo và một số trí thức trong mục tiêu hiệp nhứt
các Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên bắt đầu xuống dốc và có nguy cơ tan rã.
Ngài Nguyễn Bửu Tài, được Cơ bút Tiên Thiên phong chức Ðầu Sư Thượng Tài
Thanh, lãnh đạo 65 vị Chức sắc Tiên Thiên qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được
Ðức Lý Giáo-Tông giáng cơ chấp thuận ngày 29-6-1949, tạm thời giáng nhứt cấp tất
cả các vị nên Ngài Nguyễn Bửu Tài là Phối Sư Thượng Tài Thanh và Ðức Lý hứa,
khi nào đem hết tất cả Chức sắc và bổn đạo của phái Tiên Thiên qui hiệp về Tòa
Thánh Tây Ninh thì Ðức Lý sẽ phong cho chức cũ.
Hai năm sau, Ngài Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu, Ngài
Nguyễn Bửu Tài lại tách rời Tòa Thánh Tây Ninh trở về Sóc Sãi Bến Tre, tái lập
phái Tiên Thiên và sau đó Cơ bút Tiên Thiên phong Ngài Nguyễn Bửu Tài lên chức
Giáo-Tông ngày 9-1-1957.
Sự kiện có tính cách vĩ đại nầy của phái Tiên Thiên không được các Chi phái
khác quan tâm vì phái Tiên Thiên lúc bấy giờ không có thực lực đáng kể, số tín
đồ còn lại rất ít, số Chức sắc thì lại nhiều hơn.
Tiểu sử Ông Nguyễn Bửu Tài
phái Tiên Thiên:
Ông Nguyễn Bửu Tài sanh năm 1882 tại làng Chẹt Sậy, sau đổi tên là làng Phú
Hưng, tỉnh Bến Tre. Ngài theo tân học nhưng cũng rất giỏi Hán học, làm Giáo
viên tại Bến Tre, được thăng lên Thanh Tra Tiểu Học, sau lại đổi lên Biên Hòa.
Năm 1926, ông Nguyễn Bửu Tài lập một phái tu đơn tại Chẹt Sậy, Tịnh Thất được
đặt tên là Tây Tông Vô Cực Cung.
Năm 1941, ông có liên lạc với Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể ở Nhựt, nên bị Pháp bắt
đày đi Côn Ðảo 5 năm.
Ngày 25-8-1945, Chánh phủ Trần Trọng Kim ân xá, ông Tài được trả tự do, ông
trở về quê tiếp tục tu đơn.
Sau đó ông gia nhập phái Tiên Thiên, được cơ bút phong Thượng Ðầu Sư, trở
thành Chức sắc lãnh đạo phái Tiên Thiên.
Một số lớn Chức sắc cao cấp của phái Tiên Thiên nhập qua các phong trào Thống
Nhứt Chi phái, làm cho phái Tiên Thiên suy yếu. Do đó, ông Nguyễn Bửu Tài cùng
một số Chức sắc Tiên Thiên cấp dưới qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh, được Ðức Lý
Giáo-Tông giáng cơ chấp thuận trong đàn cơ đêm 1-3-Mậu Tý (dl 9-4-1948), và Ðức
Hộ-Pháp ra Thánh Lịnh số 535 ngày 4-6-Kỷ Sửu (dl 29-6-1949) thi hành quyết định
của Ðức Lý Giáo-Tông.
Ngày 27-5-Canh Dần (dl 11-7-1950), theo lời dạy của Ðức Lý Giáo-Tông đêm
3-1-Canh Dần, Ðức Phạm Hộ-Pháp ký Thánh Lịnh số 302, chư Chức sắc phái Tiên
Thiên có danh sách trong Thông qui ngày 30-10-Kỷ Sửu, đã đệ trình lên Ðức Lý
Giáo-Tông xem xét, được Ðức Lý tạm phong vào hàng Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh,
sụt bớt một cấp, như sau đây:
- Phối Sư Thượng Tài Thanh (Nguyễn Bửu Tài)
- Phối Sư Thượng Hiền Thanh (Phan Lương Hiền)
- Giáo Sư Ngọc Thiệu Thanh (Phan Lương Thiệu)
- Giáo Sư Ngọc Dừng Thanh (Ðinh Văn Dừng)
- Giáo Sư Thượng Tấu Thanh (Trần Văn Tấu)
Phần tiếp theo là danh sách 26 Giáo Hữu và 35 Lễ Sanh.
Tổng cộng: 66 vị Chức sắc, không ai là Ðạo hữu cả.
Ngày 23-12-Canh Dần (dl 30-1-1951) Ðức Phạm Hộ-Pháp lại ký Thánh Lịnh phong
thêm 5 vị Giáo Sư, 3 Giáo Hữu và 17 Lễ Sanh.
Cả thảy Chức sắc phái Tiên Thiên được Ðức Lý Giáo-Tông tạm phong do cơ bút
tại Tòa Thánh Tây Ninh, phải hành sự tùng quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Chủ trưởng
Chức sắc.
Giữa năm 1951, ông Nguyễn Ngọc Tương Giáo-Tông phái Bến Tre qui liễu tại
Thánh Thất An Hội Bến Tre.
Sau đó, ông Nguyễn Bửu Tài và số Chức sắc Tiên Thiên đã qui hiệp về
Toà-Thánh Tây-Ninh trước đây, âm thầm tự ý rút lui khỏi Tây Ninh, trở về Sóc
Sãi tỉnh Bến Tre tái lập phái Tiên Thiên, lập Tòa Thánh Châu Minh và Hội Thánh
Tiên Thiên.
Ngày 13-8-1955, cơ bút phái Tiên Thiên phong ông Nguyễn Bửu Tài lên chức
Thượng Chưởng Pháp.
Ngày 9-1-1957, ông Nguyễn Bửu Tài được tấn phong Quyền Giáo-Tông phái Tiên
Thiên.
Ngày 9-1-1958, tức là đúng 1 năm sau, cơ bút phong ông Nguyễn Bửu Tài lên
chức Giáo-Tông chánh vị phái Tiên Thiên.
Ngày 21-9-Mậu Tuất (dl 1-11-1958), ông Nguyễn Bửu Tài qui liễu, bửu tháp của
ông được xây tại Tòa Thánh Châu Minh ở Sóc Sãi, Bến Tre.
Vậy ở Bến Tre, trước sau có hai vị Giáo-Tông Chi phái: Nguyễn Ngọc Tương và
Nguyễn Bửu Tài.
CUỘC THỬ CƠ của PHÁI TIÊN
THIÊN
Về Toà-Thánh Tây ninh
Phò loan: Luật Sự Nhung - Hưởng.
Thừa Sử: Nguyễn Văn Kiết.
Hầu đàn: Chức sắc CTÐ, HTÐ,
Sĩ quan cao cấp, Chức sắc Tiên Thiên và đồng tử Thanh Trước Ðàn, Tiền Phong
Hội Quán, ngã 5,
Tòa Thánh TN, lúc 21g30 Ðêm 4-2-Tân Mão (11-3-51).
LÝ GIÁO-TÔNG
“Chào con cái Chí Tôn.
Thượng Tài Thanh, Hiền hữu có biết chăng Ðạo Thầy có một.?
Khai Pháp Hiền hữu chấp bút nhang đuổi nó đi, vì đây trước mặt Lão lại còn
cho Thần Cái trụ.
Thượng Tài Thanh, hỏi một Hội Thánh có mấy Ðài Hiệp Thiên và mấy Ðài Cửu
Trùng?
Chính tay Lão đã lập Ðạo Nghị Ðịnh thứ 8, có đâu Lão lại phá luật; còn Ðài
Hiệp Thiên do Hộ-Pháp nắm giữ, có đâu Lão lại quá quyền phạm pháp, phong tước
Chưởng quản Hiệp-thiên-Đài, Hiền hữu vốn biết Lão đương quyền Giáo-Tông đó chớ
?
Cơ chia phe phân phái cũng do đó có phải?
Nè Lão cho hay rằng: Hội Nhơn Sanh sắp đến đó, thử hỏi Chức sắc và tín đồ về đặng bao nhiêu?
Hiền hữu khá nhớ rằng: được phẩm thì dễ, chớ ngồi yên khó lắm, sự không qui
thuận của Chức sắc và tín đồ Tiên Thiên là lỗi nơi Hiền hữu, chớ không phải nơi
họ.
Từ đây, Hiền hữu cứ ra nghiêm lịnh coi. Nên nhớ rằng: với tình thì Lão dung
thứ được, chớ về luật pháp e khó dung tha được.
Cao Sĩ Tấn! Lão biết Hiền hữu có ý bất mãn, nhưng Lão khuyên Hiền hữu khá
suy nghĩ sẽ thấy rõ đường đi.
Ðức Chí Tôn khai Ðạo chẳng bó buộc một ai hết thảy, nếu ngoan là con của Thầy,
còn dại thì mặc tình quỉ dẫn. Những cặp đồng tử của Hiền hữu, tuy vốn xuất thần,
nhưng bị hồi điển do bổn thân. Hiền hữu khá đem họ nhờ sự trau luyện của Hiệp-thiên
Đài Chức sắc thì sẽ được ứng dụng ngày sau. Hiền hữu thử hỏi lại chúng nó coi:
trước đêm mùng 4 vừa qua nó có suy nghĩ gì chăng?
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét