Làm lễ rồi ông Tiếp Thế nói tiếp: Xin lỗi ông Nghị
trưởng em làm theo phận sự, Đạo theo Đạo, đời theo đời, em có hứa với Quyền Chưởng
Pháp Lê Thiện Phước là Anh Cả của em ngày nay không ra đây. Em thất lời hứa có
lỗi tình cốt nhục, em xin lạy anh để tạ lỗi”. Nói rồi lạy 1 lạy.
Quyền Chưởng Pháp Lê Thiện
Phước nói:
- Đạo có quyền của Đạo, Em tôi có phận sự riêng tôi không nhận cái lạy. Tiếp
Thế là em tôi ở đây không có quyền hành chánh, vì nhẹ tình nghe lời cám dỗ ra
gánh vác việc này là một điều sái phép, tôi không thể ngồi nghe em tôi tranh luận,
vậy tôi xin kiếu ra hội.
Tiếp Thế nói:
- Nay lãnh phần thay mặt cho Quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp
rất khó cho tôi, vậy tôi xin lui.
Tiếp-Thế đi ra, Nghị trưởng nói: Xin hai ông Chưởng Pháp và Tiếp Thế hãy để tình cốt
nhục riêng ra, đây là nơi công đồng về sự đạo lý, mỗi ông đều có phần trách nhiệm
theo bổn phận, không vì cốt nhục mà trái phận sự được, vậy xin Tiếp Thế ở lại dự
đại hội”
(ông Tiếp Thế đi ra luôn).
Quyền Ngọc Đầu-Sư: “- Tôi xin nói việc này quyền Giáo-Tông bị cáo cũng nhiều việc, có một
hai việc khi hỏi đến tôi sẽ xin Ngài quì giữa Thiên bàn rồi sẽ nói; mà nay Ngài
không đến lại phái người thay mặt, chúng tôi hỏi biết đâu mà trả lời, vì có việc
chỉ một mình Ngài và tôi biết mà thôi. Còn tôi không hiểu cái số người thay mặt
là bao nhiêu cho Quyền Giáo-Tông mà sao đây tôi thấy đông người, An nam có, Tây
có, đàn ông, đàn bà có… Tuy nói vậy cho biết chớ nay xin cho mấy người bào chữa
tôi cũng chịu hết.
“Luôn đây tôi xin Hiền hữu Thượng Bảy Thanh đem trả những tờ giấy về Thượng
Hội tôi đã giao cất giùm mà hiền hữu nói lần lựa hoài, thoảng bị cáo hỏi bằng cớ,
tôi lấy đâu mà trưng ra?”
Nghị trưởng nói: - Xin ông Thượng Bảy Thanh đem hết giấy tờ bữa nhóm Thượng hội ra đây đặng
xem xét lại mới biết bên nào phải, bên nào quấy”
Thượng Bảy Thanh nói: - Xin nhường cho chị Hương Phụng đàn bà nói trước, rồi tôi sẽ trả lời
sau”.
Bà Hương Phụng nói: - Tôi đã được giấy mời nhóm hội rồi tiếp được Châu tri
ngăn cấm không biết liệu thế nào, nhưng tôi cũng rán đến xem coi công việc ra
sao, chớ tôi không phải người của Quyền Giáo-Tông phái đến, tôi sở dĩ đến đây dự
thính hầu sau sẽ tường thuật lại các việc xảy ra cho bổn Đạo Kiêm biên hay biết”
Quyền Ngọc Chánh Phối Sư
Trần Duy Nghĩa:
- Thưa mấy anh, mấy chị, tôi đến đây chẳng phải là người thay mặt cho Quyền
Giáo-Tông, tôi dự đây là có phần riêng của tôi. Tôi hay được bữa nhóm hôm nay
là nhờ thấy một tờ báo Quốc âm có đăng tin này. Chúng tôi làm Châu tri số 2 là
để cấm ngăn người dự hội, tôi cho rằng Hội nhóm sái phép. Hội hôm nay ra sao?
Theo luật Đạo mà tôi hiểu về quyền mời Hội Nhơn sanh thì về phần Thượng Chánh
Phối Sư, còn mời Chức sắc về phần tôi là Ngọc Chánh Phối Sư.
“Nay Quyền Đầu-Sư gởi giấy mời là sái, chính mình tôi sai người đóng cửa Bửu
Điện không cho nhóm hội, tôi không thiên vị bên nào, tôi lấy làm lạ sao Quyền
Ngọc Đầu-Sư nói việc riêng của Quyền Giáo-Tông mà lại mời nhóm đại hội như vầy?”
Quyền Ngọc Đầu-Sư: - Hiền hữu nói hội sái phép vì chiếu Đạo Nghị Định thứ Tư của Đức Lý
Giáo-Tông thì Thượng Chánh Phối Sư mời hội nhơn sanh, còn Hội Thánh về phần hiền
hữu là tạm Ngọc Chánh Phối Sư mời, xin hiền hữu coi lại Châu tri năm rồi và năm
nay cho biết ai mời Hội-Thánh có phải là Ngọc Chánh Phối Sư thiệt thọ, Quyền Đầu-Sư
không? Còn Hội nhơn sanh thì Thượng Chánh Phối Sư quyền Đầu-Sư mời, mà nay Quyền
Thượng Đầu-Sư vì bịnh mà vắng mặt, thì tưởng tôi thế cũng được.”
“Lại cho Hiền hữu và chư đạo hữu biết luôn rằng tôi đã đặng lịnh riêng của
Đức Lý Giáo-Tông giao việc “nên hư của Đạo” cho tôi, nay nền Đạo chinh nghiêng
tới nỗi này hiền hữu cũng rõ là tại đâu, vậy thì việc mời nhóm hôm nay hay là
làm việc chi khác nữa cho Đạo khỏi hư thì tưởng tôi cũng đặng “phép làm”. Còn
Hiền hữu nói là tôi nói việc riêng của Quyền Giáo-Tông? Xin hiền hữu đọc lại Vi
bằng Thượng hội 12 khoản coi có khoản nào là việc ngoài đời hay là việc riêng của
tôi và Quyền Giáo-Tông? Xin hiền hữu nhớ lại coi năm ngoái đây, ai đứng chung tờ
với hai vị Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài cư ngụ tại Sài-gòn gởi cho chúng tôi hay biết
rằng ông Thượng Trung Nhựt hết xứng phận sự, cần phải xa nền Đạo, mà nay Hiền hữu
là Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài lại đi tùng phục người hết xứng mà hành chánh?
Sau này xin hỏi Toà-Thánh là của riêng của Hiền hữu hay sao, mà hiền hữu được
phép ra lịnh đóng cửa Bửu điện, cấm nhơn sanh và tôi hội nhóm?”
Quyền Ngọc Chánh Phối Sư
Trần Duy Nghĩa: “- Vì sao tôi ký tên cùng hai vị
chức sắc Hiệp-Thiên-Đài?” – Vì tôi có lập thệ lấy dạ vô tư. Vì sao tôi lãnh chức
Quyền Ngọc Chánh Phối Sư tại nơi Hội Thánh định? Vì sao ba Chánh Phối Sư lên
Quyền Đầu-Sư, nên Chánh Phối Sư khuyết, có linh Hộ-Pháp…
“Về việc tôi đứng tên trong thơ, còn một lẽ nữa buổi đó Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài
đứng tờ cản ngăn Quyền Giáo-Tông, đồng nhìn nhận không xứng đáng, tới ngày nay
tôi cũng còn nhìn nhận Quyền Giáo-Tông là không xứng đáng”.
Nghị trưởng: “- Tôi xin chư đạo hữu hãy nghe và nhớ lời ông Quyền Ngọc Chánh Phối Sư
Trần Duy Nghĩa mới vừa nói đó. Ông cũng nhìn nhận rằng Quyền Giáo-Tông không xứng
đáng.”
Quyền Ngọc Chánh Phối Sư
nói: - Tôi không binh bên nào bỏ bên nào, hội nhóm hôm
nay không đúng pháp luật, tôi xin kiếu, chiều tôi không dự hội, nếu hội đúng
pháp Đạo thì tôi cũng chung họp với mấy ông đứng ra tổ chức thì Quyền Giáo-Tông
không chạy đâu khỏi luật Đạo; và ngày hôm nay Ngài cũng không được thong thả trốn
tránh như vậy.
Thượng Chữ Thanh nói: “- Ông Quyền Ngọc Đầu Sư hội không đúng pháp, lại công chúng đến đây
không phải bấy nhiêu đây mà đủ số nhóm hội”.
Nghị trưởng nói: “- Tôi cho ông Thượng Chữ Thanh biết rằng: Chư đạo hữu các nơi về nhóm hội
ngày nay được bao nhiêu đây tưởng cũng là đông đủ lắm rồi, ông dư biết rằng Quyền
Giáo-Tông, Hộ-Pháp và ba vị Quyền Chánh Phối Sư với phe phái binh vực cho Ngài,
dùng hết phương thế ngăn cản cuộc nhóm họp hôm nay. Nào là Châu tri số 02 hăm
doạ giáng cấp, hoặc trục xuất những người về Toà Thánh, nào là bố cáo dán khắp
nơi cũng đồng là mục đích, lại còn truyền ra như ai lỡ về, phải về Hạnh đường
và phòng Nội chánh ký tên xin lỗi.
“Cho đến nỗi nhiều người đem bố cáo rải khắp nẻo đường chận ngõ không cho bổn
đạo về Toà-Thánh. Bao nhiêu phương thế đó cản ngăn mà đạo hữu về nhóm trên ngàn
người, tưởng là số không phải ít đâu?
(Tới đây đã 11 trưa sợ chư đạo hữu vừa mệt vừa đói, nên ông Nghị trưởng xin
tạm ngưng. Buổi chiều tái nhóm lúc 2 giờ 30 phút)
NHÓM HỘI BUỔI CHIỀU LÚC 3
GIỜ
Gần 3 giờ chiều hội nghị khai trở lại, số đạo hữu nam nữ vừa hội kém bớt
vài trăm, mãi đến 3 giờ chư phái viên của Quyền Giáo-Tông lần lượt vào Bửu Điện,
thấy những ông:
- Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Trần Duy Nghĩa.
- Quyền Thái Chánh Phối Sư Phạm Tấn Đãi
- Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thái văn Thâu
- Giáo sư Latapie.
- Phái ngoại giáo có Giáo sư Bảy, Giáo sư Chữ, lại cũng có hai ông Trạng sư
Diệp văn Kỳ, Dương văn Giáo.
Mấy ông phái viên an vị rồi, ông Diệp văn Kỳ trình cho ông Nghị trưởng một
giấy của Hộ-Pháp gởi, ông Nghị trưởng liền đọc cho toàn hội nghe. Trong giấy
ông Hộ-Pháp phái ông Diệp văn Kỳ thay mặt cho ông để biện luận trong buổi nhóm
này. Câu chót có mấy lời như vầy:
“Tôi sở dĩ cậy ông Diệp văn Kỳ thay mặt, là vì trong buổi nhóm này, chẳng
những trong Hội viên mà ngay trong ban Uỷ viên cũng có người ngoại Đạo dự vào”
Đọc xong ông Nghị trưởng
liền nói. “- Buổi nhóm này để vấn nạn ông
Quyền Giáo-Tông, chớ không phải vấn nạn ông Hộ-Pháp, thì chỉ có Quyền Giáo-Tông
phái người thay mặt cho Ngài mà thôi, vả lại hội nhóm này để bàn tính việc Đạo,
mà ông Diệp văn Kỳ không phải là người trong Đạo, chỉ được dự thính mà thôi đâu
có quyền tranh luận “Còn câu chót chắc
ông Hộ-Pháp muốn nói xéo tôi, ông Hộ-Pháp tưởng như thế là lầm, tôi đã vào Đạo
ba năm nay được ban chức Giáo Sư, song ít khi đến đặng Toà-Thánh nên nhiều vị
trong Đạo chưa rõ”.
Lê-Kim-Tỵ: “- Lời ông Nghị trưởng nói rất đúng sự thật, Ngài là chủ nhiệm hai tờ
báo: Tribune Indochinois và Đuốc nhà Nam, thiết tưởng ai cũng biết; mấy năm nay
hai tờ báo thường đứng ra bênh vực Đạo rất sốt sắng, nồng nàn lại ông Nghị trưởng
Nguyễn Phan Long chẳng những đã nhập môn rồi mà trong Ngũ chi: Minh Lý, Minh
Tân, Minh Thiện, đều nhìn nhận Ngài có chưn trong mấy chi hết”.
Ông Diệp văn Kỳ nói: “- Việc thay mặt được cùng không tưởng không quan hệ, tôi chỉ xin cho hội
biết rằng tôi đến đây không có ý binh ai bỏ ai hay xu phụ theo phe đảng nào;
Ông Hộ-Pháp cậy tôi thay mặt là cốt ý giải bày một ít luật Đạo cho hội biết mà
thôi. Chí như nói: ông Hộ-Pháp là người không dính dấp tới hội này, tôi e rằng
không đúng. Hội đã công khai giữa Bửu Điện, thì bất cứ một Tín đồ nhỏ nhen nào
cũng được quyền tranh biện hết, phương chi Hộ-Pháp là người gìn giữ pháp luật Đạo
trên hết chức sắc. Còn nói Quyền Giáo-Tông sai người đến thay mặt, tức là nhìn
nhận buổi nhóm này đúng luật lệ, lại là một cách buộc Ngài chạy chung quanh cái
vòng tròn không có đường ra. Không đến mấy ông trách; sai người thay mặt, mấy
ông lại bảo nhìn nhận buổi nhóm này”.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: “- Thưa chư đạo hữu ông Diệp vừa
mới nói rằng ông được Đức Hộ-Pháp uỷ uyền biện giải luật Đạo giữa hội, vì Hộ-Pháp
chưởng quản về phần luật. Phải, Hộ-Pháp Chưởng quản Đạo luật không luật nào khỏi
tay Ngài được; nhưng Ngài uỷ quyền cho ông Diệp lại là một điều trái luật đó. Vả
chăng dưới quyền Hộ-Pháp chỉ có Thượng-Sanh, Bảo Pháp, Bảo Đạo, Bảo Thế, Hiến
Pháp, Hiến Đạo, Hiến Thế. đành rằng nếu ba vị: Bảo Pháp, Bảo Thế và Hiến Đạo đứng
về tiên cáo, thì còn lại mấy vị Hiệp-Thiên-Đài khác lẽ thì Hộ-Pháp uỷ quyền cho
một ông trong mấy vị ấy mới phải, chớ giao quyền thay mặt cho ông Diệp là người
ngoại Đạo, là nghĩa lý gì? Tôi cực lực phản kháng việc này.
Giáo sư Thượng Chữ Thanh nói: - Tôi xin trả lời cho ông Hậu: ông Hộ-Pháp đã
có phái ông Tiếp-Thế thay cho Ngài, song vì tình anh em không thể nhóm được,
nên ông Tiếp-Thế phải về. Tôi xin hỏi bên Hiệp Thiên Đài: hội ngày nay đủ số nhơn
sanh chưa? Mấy ông nhóm không đúng luật Đạo, mà dám mời đạo hữu về hết?”
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: - Đạo là Đạo, anh em là anh em.
Ông Tiếp-Thế vì tình cốt nhục không chịu tranh biện với anh nên bỏ ra về, ấy là
tự ý ông Tiếp Thế, nào có ai buộc ông bỏ hội mà ra đâu? Ông Thượng Chữ Thanh trả
lời với tôi mà ông còn nói vói thêm những là hội nhóm không đúng luật Đạo, là
những câu không ăn chịu với câu nói trên của tôi, tôi cho là nói lạc đề. Nếu
ông muốn tranh luận cùng tôi cho rõ hội nhóm đúng luật Đaọ hay không, xin ông
chịu phiền hỏi riêng câu khác, tôi sẽ trả lời cho”
Nghị trưởng: - Ngày giờ ít tôi xin chư đạo hữu, ông Diệp văn Kỳ có quyền dự hội hay
không?
Giáo sư Ngọc Kinh Thanh
đáp: “- chẳng đủ luật chẳng đặng phép dự”.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: “ - Tôi là Bảo-pháp bên Hiệp-Thiên-Đài,
nay quyền Chưởng quản bảo giữ luật lệ của đạo, tôi không công nhận ông Diệp văn
Kỳ được quyền dự hội hôm nay”.
Ông Diệp văn Kỳ: “ - Vậy xin mấy ông nán đợi tôi về trả lời với ông Hộ-Pháp coi Ngài còn
phái ai đi thế quyền Ngài nữa hay chăng?
Quyền Ngọc Đầu-Sư: “ - Tôi xin nói thêm ít lời cho ông Giáo-sư Thượng Chữ Thanh hiểu: hiền hữu
thường nói việc hội hôm nay không đúng luật, không đúng phép, không đủ số người
hội viên, đủ số thêm cho đông, cho nhiều, càng thêm nhục nhã cho Quyền
Giáo-Tông không xứng đáng phận sự”
Giáo Sư Thượng Chữ Thanh
nói: “ - Tôi ước ao từ Giáo-Tông sắp xuống đều phải
tuân luật Đạo, rán làm sao cho trúng luật thì rất may cho Đạo lắm đó, chớ kẻ nhỏ
mà bất tuân lớn là không thông hiểu Đạo”
Lê-kim-Tỵ: “Ngày hôm nay chư đạo hữu tựu về đây đông đảo, mà mấy ông cứ nói chuyện
ngoại hoài, rốt cuộc vô ích, vậy tôi xin cứ đem vấn đề trong Tờ Vi bằng ra mà
bàn tính.
Nghị trưởng: Xin nhắc lại cho chư đạo hữu nhớ trong các hội nhóm, phàm muốn bàn cải một
vấn đề nào thì phải viện lý lẽ cho đủ và nhứt là chẳng nên nói chuyện riêng, đừng
có châm chích mà nói dông dài làm mất ngày giờ, xin các ông không nên đem việc
cá nhân ra mà nói.
Ông Bác-Vật Phan Lương Báu ở Ô-Môn: “ - Ngày nay hơn ngàn đạo hữu đường xa về dự nhóm hội, rồi lại mấy
ông nói không đúng phép, thế thì đạo hữu phải trở về hay sao? Tôi ví dụ như muốn
ăn trái cam mà cứ liếm ngoài vỏ thì bao giờ mới nếm được chất ngọt của nó. Vậy
xin cứ đem các vấn đề trong Vi bằng ra biện luận, chớ để cải cọ dây dưa ra biết
mấy ngày cho rồi?”
Nghị trưởng: Tôi xin nói lời chót, hãy lấy dạ vô tư, tránh sự biện luận lạc đề, buổi
nhóm hội nay nói chuyện ông Quyền Giáo-Tông mà thôi, chứ đừng luận bàn việc
ngoài nữa. Vậy nãy giờ tranh luận việc ngoài cũng đã lâu rồi, tôi xin đọc mấy
khoản trong Vi bằng.
(Chưa kịp đọc thì ông Tiếp Thế và ông Diệp văn Kỳ trở vào Bửu Điện).
Ông Tiếp-Thế trình thơ: ông Nghị trưởng xem rồi nói rằng:
“ - Buổi nhóm hội sớm mai, ông Tiếp-Thế đã từ hội về, thì hai cái giấy của
Quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp uỷ quyền cho ông Tiếp-Thế kể như đã huỷ bỏ rồi; chiều
nay ông trở lại chỉ cầm thơ riêng của Hộ-Pháp gởi cho ông, chẳng phải giấy của
Quyền Giáo-Tông phải đến thay mặt. Vậy phiền ông nên về xin Quyền Giáo-Tông ký
tên vào bức thơ này đặng chứng rõ còn giao quyền cho ông rằng chiều hôm nay nữa”.
Đến đây ông Giáo Sư Thượng Bảy Thanh đứng dậy lên tay nói lớn: “ - Xin lỗi
ông, thuở nay tôi vẫn kính trọng ông là hữu tâm với Đạo, nhưng cử chỉ ông ngày
nay bất minh, ông lấy quyền nào chủ toạ hội này? Còn hội này là hội gì? Lại ông
vào Đạo hồi nào không ai hay biết?
Nghị trưởng: - À! Ông biết tôi là người hữu tâm với Đạo, chẳng những
vậy thôi, mà tôi hết lòng chiêm ngưỡng đạo Đức Chí-Tôn nữa, tuy việc đời ràng
buộc tôi ít lên đây, chớ tôi thường hầu đàn nơi khác. Tôi thọ chức Giáo Sư có
thánh ngôn, có văn bằng, ông không biết thì thôi, tôi biết làm sao được? Từ khi
mở hội đến giờ, thái độ của tôi vẫn công bình, chánh trực, ông thấy chỗ nào tôi
thiên vị đâu mà dám gọi là bất minh? Chỗ này không phải chỗ lớn tiếng, ông còn
làm rầy, tôi xin mời ông ra khỏi hội”
Giáo sư Thượng Bảy Thanh
nói thêm rằng: “ - Nhà thờ này lập ra nay
thành ra trường diễn thuyết, chớ không phải chỗ thờ phượng, nói rồi ông ngó
ngay Quyền Ngọc Đầu-Sư mà nói lớn rằng: Hiền huynh Ngọc Trang Thanh, tôi cùng
hiền huynh sẽ đối diện ngày về cùng Thầy, Hiền huynh thọ Thiên điều đừng trách.
Ông Thượng Bảy Thanh liền đi ra Bửu Điện thì ông Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu
kêu lại, xin ông trả giấy tờ bữa nhóm Thượng hội.
Ông Giáo sư Bảy nói: Trả lại cho ai? Nói rồi quay đi liền. Cũng liền đó có một vị đạo hữu đứng
lên la-lối om sòm, nói không ăn thua vào đâu hết, nghe ra như nhà thuyết pháp vậy.
Bên nữ phái lại có một vị nữ Giáo-Sư than khóc inh-ỏi (Và lúc ấy nhà chuyên
trách giữ trật tự chưa đến kịp) nên phe phản đối thừa dịp khuấy rối cho mất điều
êm tịnh.
Nghị trưởng: “Ông Tiếp Thế, buổi mơi tôi có mời mà ông không ở lại, còn cái thơ ông
đem lại buổi chiều nay là của Hộ-Pháp gởi cho ông, thì ông không đủ quyền nhóm
hội”
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: “- Nếu thơ này là thơ riêng của
Hộ-Pháp gởi cho Tiếp Thế, thì ông tiếp để dành mà coi”
Ông Tiếp Thế: Sớm mai được hai cái thơ cho thay mặt, Em tưởng là Em đủ quyền trọn buổi
hội”
Nghị trưởng: “Nếu buổi mơi ông đừng giận bỏ ra thì ông được trọn quyền dự hội, trái lại
ông đã bỏ hội mà đi ra rồi giờ đây trở lại, sợ e Quyền Giáo-Tông đã đổi ý,
không khứng giao quyền cho ông nữa, xin ông về xin giấy thay mặt khác.”
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: “Chỗ này chẳng phải chỗ chơi,
ai muốn đến, ai muốn về chừng nào cũng được”
Ông Tiếp Thế: “Thôi tôi lui”
Ông Nghị Trưởng khởi đọc Tờ Vi bằng Thượng Hội, khoản cáo thứ nhứt.
KHOẢN THỨ NHỨT:
“Về Đạo Nghị định đề ngày 05-01-1933 của Quyền Giáo-Tông lập ra mà trục xuất
tín đồ Nguyễn văn Lịch (kêu là Biện Lịch) có Hộ-Pháp đồng ý chỉ ”.
Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ rằng: - đây nói về phần luật pháp, không phải nói phần phạm nhân, hễ tín đồ phạm
luật Đạo thì chiếu theo Tân luật (chương thứ bảy, điều thứ 27) có Hội Công đồng
phán đoán. Hội này được quyền trục xuất; chớ Quyền Giáo-Tông không nên lạm quyền
đặc biệt của Hội Công đồng, Quyền Giáo-Tông trục xuất Biện Lịch như vậy là lạm
quyền. Vả lại Quyền Giáo-Tông lo phần thiêng liêng, còn phần sửa trị thì có Chức
sắc giao thông với Tín đồ. (Theo ý Ngài Giáo-Tông thường hay ân xá hay giảm tội,
chớ không lẽ tăng hoặc vì việc riêng mà trục xuất một đạo hữu nào có việc tư
riêng với mình lại Hộ-Pháp tỏ với Ngài rằng: tưởng là đuổi phạm nhân ra khỏi
Toà Thánh chớ không dè là trục xuất nên mới ký tên).
Chư hội viên đều ngạc nhiên cho vị tối cao bên Hiệp-Thiên-Đài là Hộ-Pháp mà
trước khi ký tên một tờ giấy chi chẳng chịu đọc cho hiểu tờ giấy ấy.
Đến đây Quyền Chưởng Pháp Lê Thiện Phước tỏ rằng: - vậy thì Hộ-Pháp cũng
nhìn nhận rằng Quyền Giáo Tông không có quyền trục xuất một Tín đồ.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu tỏ rằng: - có những tờ kêu nài về khoản ấy
với Hộ-Pháp từ lâu rồi, nhưng ngày nay chưa thấy định đoạt ra sao.
“Lời quyết nghị của Thượng Hội sau khi chư Hội viên bàn tính, thì Thượng hội
định huỷ bỏ Đạo Nghị định ngày 05-01-1933 nói trên đây, vì bất hợp pháp và giao
tội nhơn ra hội Công đồng phán đoán theo Tân luật ”.
Luôn dịp Quyền Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu tỏ rằng: - Nghe Hộ-Pháp giải rằng
Toà Thánh và các Thánh địa chung quanh là của riêng Quyền Giáo-Tông. Ngài lấy
làm lạ, vì Toà Thánh và các Thánh địa là của chung, là giọt mồ hôi của nhơn
sanh, không lý nào là của riêng của Quyền Giáo-Tông, vì chẳng phải Quyền
Giáo-Tông lấy tiền bạc nhà mà sắm ra.
Chư hội viên đồng tỏ rằng: - lời của Hộ-Pháp nói ra như vậy không được
chánh lý, Toà Thánh là của cả nền Đạo, tức là của nhơn sanh, không ai được nói
của riêng của mình. Vả lại Chí-Tôn đã dạy rằng Toà Thánh là nhà chung của cả bổn
Đạo”
Đọc dứt khoản ấy Nghị trưởng hỏi chư hội viên rằng: “- Ai có điều chi bào
chữa hay phản đối ông Quyền Giáo-Tông chăng?”
Chư đạo hữu lẳng lặng không ai nói chi hết.
KHOẢN THỨ NHÌ:
Quyền Ngọc Đầu-Sư đọc Đạo Nghị Định đề ngày 11-02-1933 của Quyền Giáo-Tông
và Hộ-Pháp ký tên về việc thăng ba Chánh Phối-Sư lên địa vị Quyền Đầu-Sư, Ngài
tỏ rằng khi Đức Lý Giáo-Tông và Hộ-Pháp đã lập sáu Đạo Nghị Định thì nghị định
thứ hai này ngày 03-10 Canh Ngọ (dl 22-11-1930) đã thăng ba Chánh Phối-Sư lên Đầu-Sư
rồi, sau lại có Đạo Nghị định ngày 30-11-1930 của Hộ-Pháp và Lý Giáo-Tông đã
ban hành đặc biệt rồi, nên không cần phải lập thêm Đạo Nghị định ngày 11-
01-1933 làm gì nữa.
Vả lại quyền phong Chức sắc là của Chí-Tôn với Tam Trấn, chớ dưới thế này
không một ai được quyền thăng thưởng chức cho một người khác, vì vậy nên Ngài
xin huỷ bỏ Đạo Nghị Định ở trên.
“Theo lời bàn của Chưởng Pháp Lê Thiện Phước và Nguyễn Trung Hậu thì Thượng
hội không định huỷ Đạo Nghị định ấy, nhưng sửa chữ “Thăng” ra chữ “giao” mà
thôi.
Về khoản này cũng không có ai ra nói chi hết.
- Ông Nghị trưởng nói: “- vậy thì chư đạo hữu đừng nhìn nhận hai khoản ấy
đúng với sự thật”
Tới đây ông Nghị trưởng có hơi mệt, xin nhượng lại cho ông Quyền Ngọc Đầu-Sư
đọc tiếp.
KHOẢN THỨ BA:
Ông Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ rằng từ 03-10 Canh Ngũ tuy Đức Lý Giáo-Tông đã lập
Đạo Nghị định ban quyền cho mỗi vị Đại Thiên phong, nhưng Quyền Giáo-Tông Thượng
Trung Nhựt đã cả quyền hành Giáo-Tông và Đầu-Sư. Xin xem các Châu tri sau đây
và thơ Quyền Giáo-Tông gởi cho ba chánh Phối Sư thì rõ.
Quyền Chưởng Pháp Lê Thiện
Phước hỏi: - Sao khi đó không phản kháng?
– Thì Quyền Ngọc Đầu-Sư trả lời rằng thật khi ấy Ngài chưa rõ quyền hành Đầu-Sư
tới đâu và hai vị Quyền Đầu-Sư kia cũng vậy. Ngài nhớ chắc rằng Hộ-Pháp có quyền
hành của Ngọc chánh Phối Sư sắp xuống.
Quyền Chưởng Pháp Lê Thiện
Phước hỏi: - Vậy có điều chi hại Đạo
chăng?
Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ rằng: - nay nói ra đây cho biết việc trên phạm quyền dưới, làm cho ba vị Đầu-Sư
không rõ quyền hành của mình (xem vi bằng ngày 25-12-1932). Quyền Thượng Đầu-Sư
cũng để lời than: Anh Cả nay nắm Quyền Giáo-Tông, mai nắm quyền Đầu-Sư, nên ba
vị cựu Chánh Phối Sư chỉ biết tuân theo lịnh trên hành sự mà thôi.
Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ rằng: - Quyền Giáo-Tông lập Châu tri gởi cho chức sắc, đạo hữu, không tuân y
Pháp Chánh Truyền, nắm một lượt hai quyền thì là lạm quyền đó lớn lấn quyền nhỏ
là phạm tội phải giải ra Toà Tam giáo. Cũng có nhiều khi Ngọc Đầu-Sư bàn tính với
Quyền Giáo-Tông xin lãnh hành chánh Quyền Giáo-Tông thiệt thọ đi, thì Ngài nói:
“không dám, để ở địa vị Đầu-Sư!” Câu trả lời này nghe rất khiêm tốn mà ý trí
sâu xa.
“Vì lớn phạm quyền nhỏ nên ba Đầu-Sư không được rõ quyền hành của mình. Vả
lại Hộ-Pháp biết rõ việc lạm quyền này, nhưng không có chỉ giải để đến đỗi sau
này mới tỏ ra. Thật tình Ngọc Đầu-Sư không rõ quyền hành ấy, nếu thuở giờ mà rõ
biết, thì Quyền Giáo-Tông không có thế nào lạm quyền được.
Nghị trưởng tỏ rằng: “- Quyền Giáo-Tông có ý làm như vậy đặng dụng lưỡng quyền, tuỳ theo hoàn
cảnh thuận lợi cho mình”
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: “- Hễ nắm nơi tay hai quyền chẳng
phải trọn của mình, đặng lợi dụng là phạm luật đó".
Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ thêm
rằng: “- Mới rồi đây giữa Hội thánh và trong Vi bằng của
Hiệp Thiên Đài nhóm hôm 11-02-1933 Hộ-Pháp có nói rằng: ba Quyền Đầu-Sư nắm hai
quyền trong tay, muốn làm sao tự ý, nên Ngài phải nói ra đây cho rõ rằng hồi giờ
từ 1930 Chánh Phối Sư Quyền Đầu-Sư lo việc hành chánh theo trách nhiệm Chánh Phối
Sư hết 9/10, một hai khi chỗ nào có cần dùng tới chức Đầu-Sư thì mới đem lên thế
vị đó vậy; thời Ngài tưởng cho Hộ-Pháp phải nói rằng: Quyền Giáo-Tông nắm một
lượt hai quyền đó mới phải, vì không lẽ hai việc quyền như một (Quyền hành Đầu-Sư
và Quyền Giáo-Tông) mà thấy cái nầy không thấy cái kia, nghĩa là thấy Đầu-Sư
chuyên quyền mà không thấy Giáo-Tông chuyên quyền.
Sau khi hội viên bàn tính,
thì thượng hội định rằng “- Quyền Giáo-Tông Thượng
Trung Nhựt biết mình đã được thăng quyền Giáo-Tông, khi thì dùng quyền Đầu-Sư,
khi thì dùng Quyền Giáo-Tông, thì là lạm quyền đó!”
Chiếu theo Đạo Nghị Định thứ nhứt ngày 20-11-1930 của Đức Lý Giáo-Tông, thì
phạm tội phải giải ra Toà Tam giáo.
Dứt khoản thứ Ba, thì ông Nghị trưởng hỏi chư đạo hữu, có ai bào chữa cho
Quyền Giáo-Tông không?
Khi ấy có đạo hữu Phò (Thơ ký mới của Quyền Giáo-Tông) đứng ra nói: “- Sớm
mai ông Tiếp Thế thay mặt cho Quyền Giáo-Tông, sao chiều nay ông Nghị Trưởng
không cho?
Nghị trưởng: - Sớm mai ông Tiếp-Thế tự quyền cáo thối, hai tờ thay mặt kia được kể như
đã huỷ rồi. Nay muốn trở lại Hội thì phải xin giấy ông Qu. Giáo-Tông uỷ quyền lại
mới được. Tưởng chẳng thất công chi, chỉ viết vài chữ ký tên là đủ.”
Giáo Sư Thượng Chữ Thanh: Tôi ước ao sao hội vui lòng nhóm lại một lần nữa cho đúng luật lệ, cho
ông Qu. Giáo-Tông có ngày giờ đến dự.
Quyền Ngọc Đầu-Sư: - Ông muốn vậy theo ý tôi cũng được.
Nghị trưởng: Như vậy thì dây dưa ngày giờ lắm, chúng tôi nhóm đây cốt công luận coi
ông Quyền Giáo-Tông có lỗi không? Thiết tưởng nhóm như buổi hôm nay cũng đủ rồi.
Mỗi lần mời nhóm thì hao phí mất ngày giờ cho nhơn sanh, song giữa đây muốn cho
công bằng, tôi xin hỏi trong hội Vạn linh ai định nhóm một lần nữa? – Nhơn sanh
rập nhau một tiếng:
KHÔNG BẰNG LÒNG! (1 ngày)
Quyền Ngọc Đầu-Sư: Vì nghe một đạo hữu không rõ luật pháp Đạo, cho rằng làm việc này là bất
công, bất chánh nên tôi xin nhắc lại việc đạo hữu Lịch và hỏi các đạo hữu, nhứt
là Giáo-sư Thượng Chữ Thanh, có biết quyền Giáo-Tông trục xuất ai không?
Thượng Chữ Thanh: - Xin ông nguyễn Trung Hậu trả lời giùm.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu: - Hộ-Pháp đã nói là sái
phép rồi.
Đoạn ông Quyền Ngọc Đầu-Sư liền đọc lại Vi bằng nhóm ngày 19-12 Quí-Dậu cho
chư vị biết rằng Hộ-Pháp cũng nhìn nhận Quyền Giáo-Tông lập Nghị định mà trục
xuất như vậy là sái phép, vì quyền trục xuất Tín đồ là của Hội Công Đồng.
Giáo-Sư Thượng Chữ Thanh: - xin hãy kể tội của đạo hữu Lịch ra cho công chúng rõ.
Nghị trưởng: - Trong Vi bằng chẳng có noí đạo hữu Lịch có tội hay không có tội, mà chỉ
nói việc Quyền Giáo-Tông trục xuất như vậy là lạm quyền.
Khi ấy có một Nữ Giáo-Sư hỏi
lớn lên rằng: “- Ông Nghị trưởng chủ toạ trước
Bửu điện, sao không mặc Thiên phục ?
Nghị trưởng: - Tôi vốn lấy tư cách nhà báo lên đây dự thính, nên mặc Âu-phục, tình cờ
lại được cả chư đạo hữu tín nhiệm cử lên ghế Nghị trưởng, vì vậy mà tôi không mặc
Thiên phục.
Lê Kim Tỵ: - Anh em chúng ta đã công nhận ông Nghị trưởng là người đủ tư cách chỉ
huy cuộc tranh biện hôm nay. Vậy là đủ rồi, mặc thiên phục cùng là không mặc
Thiên phục ấy là điều không quan hệ chi.
Nghị trưởng: - Trình cùng chư hội viên, tôi mới được giấy của ông Diệp văn Kỳ, xin cho
phép ông hỏi vài câu trong luật lệ Đạo. Chư hội đồng cho phép:
Ông Diệp văn Kỳ đứng lên nói: - Thưa quí Ngài, trước khi xin hỏi vài câu,
tôi xin tỏ trước cho quí ngài biết rằng: tôi là ngoại Đạo, song tôi thấy suốt
trong bổn đạo dự nhóm đây, chọn cử ông bạn đồng nghiệp Nguyễn Phan Long lên làm
Nghị trưởng buổi hội nghị này và cũng nhờ đó mà tôi được biết rằng ông bạn tôi
đã vào đạo lâu rồi lại được Ơn Trên ban thiên chức thì tôi lấy làm mừng cho Đạo.
Cái thái độ ôn hoà đứng đắn của ông Nguyễn chẳng những làm cho rực rỡ buổi nhóm
hội hôm nay, mà rồi đây, Đạo cũng nhờ đó bước lên con đường vẻ vang sáng sủa.
Tôi sở dĩ muốn hỏi vài điều là cốt cho thấu đáo pháp luật của Đạo, chớ chẳng
phải lãnh thay mặt cùng binh vực ai. Theo như Tân Luật của Đạo mà tôi được thấy,
chỉ có một khoản nói về Giáo-Tông như vầy:
“- Chưởng Pháp phải can gián, sửa lỗi của Giáo-Tông, nếu cả ba thấy lẽ vô đạo
của Giáo-Tông, có quyền đem đơn kiện cùng Toà-Thánh”.
Luật này coi dường như không được phân minh cho lắm, một việc rất trọng hệ
là việc đem Giáo-Tông ra xử mà luật lệ nói tóm tắt như vậy, thì tôi sợ chưa được
hoàn toàn.
Còn Quyền Vạn linh là gì? Có phải là quyền gồm cả ba cơ quan yếu trọng: Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh chăng?
Ngày hội hôm nay có phải là ngày Hội Vạn Linh chăng?
Tôi xin nói rõ thế nào là Thương Hội? Thế nào là Hội Thánh? Thế nào là Hội
Nhơn sanh?.
Theo lệ thì Thượng Hội gồm có quí vị chức sắc trọng yếu trong Đạo. Hội
Thánh gồm cả Chức sắc trong Đạo kể Phối Sư sắp lên Giáo-Tông (Từ Giáo-Hữu đổ
lên đó là Hội-Thánh).
Ấy vậy mà buổi nhóm hôm nay, Thượng Hội thời như tuồng sáu vị, song sáu vị
đều là người đứng buộc tội Giáo-Tông, thì bữa nay là ngày xử, tôi e cái quyền
hành-vi của sáu vị ấy phải ở trong phạm vi rất hẹp hòi, “vừa buộc tội, vừa xử
cũng khó liệu”.
Còn Hội Thánh? - Hội-Thánh hôm nay có những ai hiện diện? Theo số chức sắc
mặc Thiên phục tôi thấy đây, thì tôi tưởng e về phương diện Hội-Thánh cũng còn
thiếu nhiều lắm. Vậy mà thôi, hai cái cơ quan ấy, thiếu đủ thế nào tôi xin nhượng
quyền ấy lại cho quí Ngài phê phán. Ông Ngọc Đầu-Sư cho tôi biết Hội-Thánh và Hội
Nhơn sanh nhóm mấy kỳ trước có quyết định số đạo hữu hiện diện là bao nhiêu
không?
Quyền Đầu-Sư đáp: - Không!
Quyền Chưởng pháp Nguyễn
Trung Hậu: - Nếu mấy kỳ trước nhóm không
buộc số quyết định ấy, thì bây giờ không thế bắt chẹt bắt lỏng về số bổn đạo hiện
diện nhiều hay ít, vì đã có gương trước kia mà.
Ông Kỳ cười... đoạn cùng ông Phương kiếu hội ra về, khi ấy lối chừng 4 giờ
30
Quyền Đầu-Sư đọc khoản cáo thứ Tư.
KHOẢN THỨ TƯ:
Quyền Ngọc Đầu-Sư trình Châu tri số 01, ngày 7 tháng 3 Quí-Dậu (dl
1-4-1933) của Quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp lập ra, có bài bố cáo của ba Chánh Phối
Sư tạm và tỏ rằng “Cách ít bữa rày (11-4-1933) Ngài có gặp Thượng Chánh Phối Sư
nói rằng: Khi đến Giáo-Tông Đường, mới hay ra cái Châu Tri đó, còn chiều hôm
kia (14-4-1933) Quyền Thái Chánh Phối Sư đến phòng thăm hỏi Ngài, thì có cho
Ngài biết rằng không có ký tên Tờ bố cáo in vô trong Châu tri số 01, vì là chữ
in có phải ký tên sao, mà nói là người kỳ, cái đó là Quyền Giáo-Tông và Hộ-Pháp
nay nắm quyền Chí-Tôn mà làm ra Châu tri ấy, rồi tái bút, lập luôn Tờ bố cáo ấy”.
Lại lúc Ngài đi khỏi, tại Giáo-Tông-Đường có người sai đến nơi phòng Ngài
mà lấy con dấu NOPS nhận vào Châu tri ấy. Khi về mới hay cử chỉ ngang ngược đó.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu: Trong châu tri số 01 nói trên đây
(trương 5) Quyền Giáo-Tông tuân y Thánh ngôn Đức Chí-Tôn ngày 23-12-1931, Ngài
và Hộ-Pháp nhứt định dụng Quyền Chí-Tôn giúp cho ba Chánh Phối Sư đủ quyền thi
hành chương trình hành Đạo định theo Châu tri ấy.
Nhưng mà theo Thánh ngôn ấy thì Chí-Tôn có dặn như vầy:
“Vây từ đây hễ có mạng lịnh chi, đã đủ hai đứa nó, là Lý Giáo-Tông và Hộ-Pháp
hạ truyền thì các con phải hội đủ nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mà xem xét
cho cặn kẻ phân minh đặng thi hành phận sự”.
Ấy vậy là chính mình Đức Lý Giáo-Tông hạ lịnh, cũng còn phải nhóm ba Đài
nói trên đây mà xét, huống là Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt hiện thời trách
nhiệm Ngài chỉ do theo Vi bằng của Thượng Hội nhóm ngày 25-12-1932 nhằm ngày
28-11 Nhâm Thìn, trương số 9 mà thôi.
Trách nhiệm ấy như sau đây: “Phần Quyền Giáo-Tông chi chi cũng cầu hỏi Lý
Giáo-Tông dạy bảo mà ban hành theo cho khỏi điều lầm lạc, sơ sót, vì hễ là người
thì thân phàm xác thịt, nếu lấy ý riêng mà làm ra thì phải có điều trở ngại. Mỗi
vị đương quyền lãnh một chức vụ đặc biệt, thì ba ngôi Chánh Phối Sư sẽ trống, vậy
thì Quyền Giáo-Tông chọn lựa trong mấy vị Phối Sư đương quyền mà giao chức ấy.
Thoảng như khiếm khuyết Phối Sư thì chọn lựa trong hàng Gíao-Sư, rồi đem trình
cho ba Đài: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội công nhận theo phép. Việc
này đình lại một tuần, đặng Quyền Giáo-Tông chọn lựa người. Tóm lại, thì Quyền
Giáo-Tông và Hộ-Pháp lập Châu-tri số 01 và giao trách nhiệm Chánh Phối Sư cho
ba vị Thời quân bên Hiệp-Thiên-Đài là trái với lời quyết nghị trên đây và không
đem ra trình cho ba Đài thì là một sự trái thêm nữa.
Nghị trưởng: Làm Đạo như vậy là muốn chuyên quyền độc tài.
Quyền Chưởng Pháp Lê Thiện
Phước hỏi: Pháp Chánh Truyền có giá trị
hơn hay là Thánh ngôn chưa kiểm duyệt?
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu đáp lại rằng: “Chiếu theo chương trình
về Cơ bút của Hiệp Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài lập ra ngày 24-1-1932 mà Thượng
Quyền Đầu-Sư đã ra Châu tri thi hành ngày 04-02-1932 số 42, thì bài Cơ giáng
nơi nào mà không có ban kiểm duyệt xem xét thì Hội Thánh không phép nhìn nhận
và đem ra thi hành.
Tờ Châu-tri số 01 ngày 01-3-1933 nguyên vì chiếu theo bài giáng Cơ ngày
12-2-1933 tại Kiêm-biên và chấp bút ngày 10-3-1933 mà lập ra, nhưng hai bài này
không đủ thức lệ buộc Châu tri 42 trên đây, nên Thượng Hội không công nhận vì vậy
mà huỷ bỏ Châu tri.
Quyền Ngọc Đầu-Sư chỉ về chương trình hành Đạo của ba Chánh Phối Sư trong
Châu tri số 01, khoản phái Ngọc, điều thứ 3, về việc thăng chức cho Chức sắc,
có câu “Sau khi đem ra ba Đài công nhận thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp ra Đạo Nghị định
phong chức. Ngài tỏ rằng hai vị Đại Thiên phong này không đủ phong chức cho ai
hết. Khi ba Đài công nhận rồi phải cầu Chí-Tôn giáng Cơ thăng thưởng.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: - Hội Nhơn sanh và Hội Thánh mỗi
năm nhóm có lệ, không lẽ mỗi việc mỗi mời nhóm cho mất ngày giờ và tốn kém cho
hội viên.
Quyền Chưởng pháp Phạm văn
Tươi nói rằng: - Có hội Nhơn sanh thường
xuyên, vậy như chưa tới kỳ nhóm thường lệ, mà có việc chi cần kíp, thì nhóm hội
thường xuyên mà bàn tính. Vừa đọc dứt khoản tư, ông Nghị trưởng hỏi trong Nghị
viên có ai bào chữa cho Quyền Giáo-Tông không?
Không có ai nói chi hết. Đọc qua khoản 5
KHOẢN THỨ NĂM:
Quyền Ngọc Đầu-Sư đọc bài Thánh giáo của Chí Tôn ngày 14-2-1933 do Hộ-Pháp
và Tiếp Đạo phò loan tại Kiêm biên, có câu “Khi Đại hội Ngọc Hư cung”..
Chiếu theo Thánh giáo ấy, thì trọn Cửu Trùng Đài từ Giáo-Tông đổ xuống
tranh quyền phá hư vẻ Đạo, thì phải bị tội hết, cả quyền hành Cửu Trùng Đài phải
về Hiệp Thiên-Đài nắm trọn. Như có câu “Trả quyền hành chánh cho Hiệp Thiên
Đài, thì phải hiểu như vầy: quyền hành chánh ấy trước vẫn là Hiệp-Thiên-Đài nên
nay mới trả lại.
Nghị trưởng: Từ thử chưa có Thánh giáo nào nói về khoản đó, chỉ có trong Pháp Chánh
Truyền nói rằng:
“Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài mỗi Đài đều có quyền đặc biệt: quyền Hiệp
Thiên Đài là quyền Tư pháp, còn quyền Cửu Trùng Đài là quyền hành chánh”
Trả quyền hành chánh cho Hiệp Thiên Đài là một quyền vô lý.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu hỏi Quyền Ngọc Đầu-Sư: Tại sao khi hành
lễ đăng điện chịu làm theo? Không phản kháng? – Thì Ngài trả lời rằng: Lúc đó
Quyền Giáo-Tông ra lịnh thi hành, Ngài có kêu nài, mà nhắm thế không được, nên
phải tuân đỡ cho yên việc tại Bửu Điện, rồi sau sẽ nói. Vả lại lúc ấy Quyền
Giáo-Tông ngồi tại ngai mà ra lịnh, Quyền Thái Đầu-Sư thì vâng liền, Quyền Thượng
Đầu-Sư thì khóc, nên tôi cũng buộc lòng vâng theo, vì không lẽ để lỗi nơi ngài.
Sau khi hội viên bàn tính thì Thượng hội quyết định.
A -
- Huỷ bỏ bài giáng Cơ ngày 14-2-1933 vì không y theo thể lệ cầu Cơ đã lập
ra rồi:
- Một là không phải nơi Quyền Giáo-Tông cầu xin mà ra bài đó.
- Hai là bài chấp Cơ này không cầu nơi bửu Điện Hiệp Thiên Đài.
- Ba là không đủ mặt Chức sắc có trách nhiệm theo chương trình Cơ bút hầu
đàn.
- Bốn là Chức sắc phái ngoại giáo duy có được phép cầu Cơ hỏi về phần mình
mà thôi, còn việc can hệ tới Toà Thánh mà có bài giáng nào nói đến, thì
Toà-Thánh phải kiểm soát lại”.
Quyền Chưởng Pháp Nguyễn Trung Hậu : xin Chức sắc phái Ngoại giáo, khi nào
có bài giáng Cơ nói về Toà-Thánh thì xin các Đấng cho phép Toà-Thánh hay mà cầu
lại.
B - Huỷ bỏ bài chấp bút của Hộ-Pháp ngày 10-3-1933 tại Hộ-Pháp-Đường hay
Giáo-Tông-Đường chấp bút để dùng học riêng cho mình, không được đem ra ban
hành.
C - Bài giáng Cơ ngày 23-12-1931 tại Thảo xá Hiền Cung, thì phải giao cho
ban kiểm duyệt xem xét trước rồi mới ban hành.
D - Huỷ Tờ Châu tri số 01 ngày 01-4-1933 (Tháng 3 năm Quí Dậu) vì Quyền
Giáo-Tông và Hộ-Pháp lấy ý riêng mà lập ra.
E - Phải tuân theo các lời quyết nghị trong Tờ vi bằng Thượng hội ngày
25-2-1932 đã tuyên bố rồi.
F - Giao ba vị Thời quân đã qua Cửu Trùng Đài, đã lãnh chức Chánh Phối Sư tạm
về Hiệp Thiên Đài tái thủ nguyên chức và chọn lựa ba vị Chánh Phối Sư khác, y
theo Tờ Vi bằng nói trên đây.
Nghị trưởng: Có ai tranh cải khoản 5? Chẳng có ai.
Khi chuẩn bị sắp tới khoản 6, ông Nghị trưởng đứng lên nói: “Xin chư đạo hữu
ráng lẳng lặng mà nghe cho rõ khoản thứ 6, khoản này rất quan hệ, có dính dấp với
việc đời, thoảng có ai cáo ra Toà đời, thì còn chi danh giá của Giáo-Tông!
Quyền Ngọc Đầu-Sư đọc khoản cáo thứ 6
KHOẢN THỨ SÁU:
Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ rằng: Nguyễn văn Lịch kêu là Biện Lịch, có vô ba lá
đơn kêu nài việc Quyền Giáo-Tông bán đất cát không phân minh. Tiên cáo có nạp
biên lai 0$20 làm bằng, giấy có in danh hiệu Đại-Đạo và ký tên Trung. Quyền Ngọc
Đầu-Sư vì kính nễ bề trên và làm theo phép, nên phong gởi cho Quyền Giáo-Tông
mà hỏi ý kiến, thì Quyền Giáo-Tông trả lời cho Qu. Ngọc Đầu-Sư rằng: cứ coi
theo giấy tờ ấy xử, như có tội thì Ngài chịu.
Qu. Ngọc Đầu-Sư tiếp rằng: nếu Ngài muốn dùng Toà tạp tụng, thì cứ gởi tờ
đòi bị cáo là ông Lê-Văn-Trung đến đối nại cũng được, song không nỡ. Vả lại mắc
nhiều điều xảy đến liền liền hoài, nên không thể lo riêng một vụ này đặng.
Chư hội viên định rằng ngày nay Ngọc Chánh Phối Sư lên Qu. Đầu-Sư thì các
đơn từ ấy nên giao lại cho Tân Ngọc Chánh Phối Sư định đoạt.
Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ rằng: Quyền Giáo-Tông có lãnh bạc ngàn của đạo hữu đặng
mua dùm đất rừng, có làm giấy ký tên rõ ràng, mà đến nay việc giao lãnh đất cát
không rành-rẽ gì hết: kẻ có đất, người không, đạo hữu kêu nài không ngớt, đơn từ
giao lại đặng trả lời cho người ta, mà Ngài không làm cái chi cho minh bạch,
cho hết việc thán oán. Quyền Giáo-Tông thâu tiền mua đất rồi, phần đất của ai
chỗ nào không biết chắc, không giấy tờ gì cho rành rẽ, để tới có người hăm kiện
đến Toà đời và có người hết sức kêu nài, rồi bỏ luôn số bạc. Xin coi biên lai
160$ của hai người ở Chợ-lớn thì rõ, lại có một chủ Thánh Thất lãnh bạc mua dùm
cho vài chục vị đạo hữu ở Tân-an mà đến nay không biết đất cát chỗ nào.
Thơ từ năn nỉ, kêu nài không biết mấy cái, thét rồi phải đến tận văn phòng
của Giáo-Tông mà rầy rà, nhục mạ, đòi tiền lại, buộc phải trả tiền lời.
Quyền Giáo-Tông kỳ hẹn một đôi tháng, nay cũng mãn rồi mà cũng chưa có chi
hết cho người ta, nếu kiện thưa ra không khỏi bị án. Vả lại đất rừng của hai
người Lang-sa lãnh khẩn chưa khai phá, chưa có giấy tờ vĩnh viễn, mà đạo hữu
nghe lời mua đất, không có bằng cớ chi cầm tay hết. Thoảng đất ấy nhà nước lấy
lại hoặc chủ đất, hoặc người làm trung gian từ trần, rồi đạo hữu mua đất mới
làm sao?
Bởi vì lòng nễ vì, không nỡ đòi xử, nên Qu. Ngọc Đầu-Sư gởi các đơn từ cho
Quyền Giáo-Tông toan liệu cho yên việc. Vả lại thấy Ngài nghèo nàn nên cũng nhắm
mắt để cho kiếm chút lợi, miễn là đâu đó làm cho xuôi việc thì thôi, hầu có yên
trí mà lo việc Đạo. Ngài chịu cái lỗi ấy.
Ngài xin hội viên cho biết việc Quyền Giáo-Tông làm như vậy có nhục đến
danh giá của Người và danh Đạo chăng? – Chư hội viên nghĩ vì đã mấy năm nay,
Quyền Giáo-Tông mỗi tháng lãnh của Hội Thánh năm chục đồng (50$) có nhà cửa tử
tế, trong Đạo phụng dưỡng trọng thể.
Vả lại là một vị tối đại Thiên phong, chủ trương một nền Đạo, Anh Cả nhơn
sanh, phải phế đời toan lo cho Đạo. Bởi các cớ ấy nên Thượng Hội đồng quyết nghị
rằng: Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt không được phép lo việc đời, buôn bán để
sanh lợi, còn như việc mua bán đất cát không phân minh để đến đỗi người vào
Thánh địa đòi hỏi nhục nhã, thì can hệ đến phẩm giá tối cao tối trọng của Quyền
Giáo-Tông và cho Đạo nữa.
Đọc tới khoản “vài chục đạo hữu ở Tân An mua đất” thì có một vị đạo hữu kêu
là cựu Thôn trưởng Lưu, hiện đương làm chủ Thánh-Thất Bình-Quới, hạt Tân An đứng
ra khai rằng: “Số bạc tôi lãnh của chư đạo hữu đặng mua dùm đất là 1.400$, tôi
giao cho Quyền Giáo-Tông hồi năm 1930, Quyền Giáo-Tông có nói rằng: mua dùm mỗi
mẫu đất là 50$, tới nay đã lâu rồi mà chưa thấy chi hết”.
Cũng liền đó có một đạo hữu có giao số tiền cho Lựu, ra nói: “Sẽ vào đơn kiện
nơi Toà đời”
Nghị trưởng: Đạo hữu khoan đã, chúng ta nên điều đình trước với
Qu.Giáo-Tông, chừng nào không được đạo hữu sẽ ra Toà đời cũng chẳng muộn chi, mình
phải thương Thầy, mến Đạo, việc trong nhà mình tính với nhau là phải hơn.Có câu
phương ngôn: Phải giặt áo dơ trong nhà.
Quyền Ngọc Đầu-Sư tiếp khoản cáo thứ sáu, vừa dứt khoản này thì ông Nghị trưởng
hỏi: chư đạo hữu có ai nói thêm điều chi không?
Quyền Ngọc Đầu-Sư: - Tôi xin cắt nghĩa việc chia đất của Quyền Giáo-Tông mua cho đạo hữu. Qu.
Giáo-Tông giao cho hai người là Lễ Sanh Thượng Tài Thanh và đạo hữu Xướng coi sở
đất 113 mẫu, Xướng thì lãnh phần đốn củi bán, mỗi mẫu trên 500 thước củi, giá mỗi
thước 0$20. Khi đạo hữu đưa tiền rồi mà chưa có đất ở đâu, kêu nài thì
Qu.Giáo-Tông và Thượng Tài Thanh lo chia.
Cách chia như vầy: “Sở đất 113 mẫu nằm theo đường dây thép, nơi cây số 2
ngàn, mặt tiền được 500m, sâu vô 2.000m cắt lấy hai; lấy 1000m trở ra ngoài mặt
tiền chia cho 5 đạo hữu có mặt, mỗi người 10 mẫu, rồi về phải chia lại cho vài
chục người khác. Chia rồi, đạo hữu ở xa đến sau, chưa có phần, kêu nài nữa và
không chịu chia ở phía sau, lại đất bị đốn củi gần hết. Khi mua cả năm ba chục
đạo hữu đều kể chắc là đất có cây, không dè đốn hết, chừa gốc lại. Nay muốn
khai phá, phải tốn thêm tiền lấy gốc, nên không chịu, kẻ đến đòi tiền lại, người
thì hăm kiện.
Qu. Ngọc Đầu-Sư vừa nói rồi thì có bà Nữ đạo hữu đem ra ba biên lai, trình
cho ông Nghị trưởng mà nói rằng: Có giao số bạc cho Qu. Giáo-Tông ba năm rồi,
mà không có được đất, ba biên lai kể dưới đây:
1 - Phạm thị Chi ở Phước lâm 150$ ba mẫu
2 - Trần thị Mực ở Phước Hậu 200$ bốn mẫu
3 - Mai thị Cúc ở Phước lâm 400$ tám mẫu.
Kế ông Nghị trưởng hỏi
thêm: - Có ai nói chi nữa không? –Không thấy ai kêu nài
nữa.
Dưới đây, ba biên lai của Qu. Giáo-Tông nhận lãnh bạc bán đất cho đạo hữu:
* Nay tôi làm biên lai có lãnh của Phạm thị Viên ở làng Phước hậu hai trăm
đồng (200$) bạc lớn về tiền mua 4 mẫu đất ở Tây ninh, về phần đất 113Ha
Biên lai này làm tạm, sau sang bộ sẽ làm giấy.
Chợ-lớn, Le 15 Mai 1930
(Ký tên)
Lê văn Trung
* “Nay tôi làm
biên lai có lãnh của Bà Trần thị Mực ở làng Phước hậu hai trăm đồng (200$) bạc lớn về tiền mua 4 mẫu đất ở Tây ninh, về
phần đất 113Ha
Biên lai này làm tạm sau sẽ sang bộ
Chợ-lớn, Le 15 Mai 1930
(Ký tên)
Lê văn Trung
*Tây ninh Le 23
Mai 1930
Biên lai nhận
lãnh của Nguyễn Phước Lưu ở làng Bình Quới, Tổng
Thành hội thượng (Tân an) số bạc là 50$ về tiền
mua 1 mẫu đất (1Ha) đất nơi sở 113 mẫu tại làng Ninh thạnh (Tây ninh)
Biên lai này làm tạm chừng nào tách bộ rồi sẽ đổi Chợ-lớn, Le 15 Mai 1930
(Ký tên)
Lê văn Trung
Quyền Đầu-Sư đọc khoản 7
KHOẢN THỨ BẢY:
Qu. Đầu-Sư trình ra một cái giấy vay bạc 300$ ngày 11-11-1931 của Qu.
Giáo-Tông viết và ký tên, bạc này Qu.Giáo-Tông mượn của một vị Hoà thượng Tàu
tên là Âu-Tu ở Chợ-lớn, nói rằng qua bên Pháp in Thánh Tượng, kỳ một tháng trả
lại. Lâu rồi không trả, buộc chủ nợ đòi hỏi và có viết thơ nhục mạ gởi cho Ngài
đưa qua cho Qu. Giáo-Tông. Trong thơ có câu “Lời nói của Tiên nhơn sao không bằng
lời nói của thường nhơn”.
Qu.Ngọc Đầu-Sư sợ người ta làm nhục mạ nữa nên xin xuất tiền của Hội Thánh
100$ mà trả cho chủ nợ, phải trừ hai tháng phụ cấp cho Qu. Giáo-Tông. Nay còn
thiếu 200$. Bạc này không rõ dùng khoản nào, nhưng một điều rõ-ràng là Qu.
Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt lấy danh Đạo mà mượn của người và có nhiều đạo hữu
cho hay rằng Qu. Giáo-Tông có mượn bạc, nói rằng lo cho phái ngoại giao, cũng hứa
trả lại, mà lâu nay chưa trả cho ai hết. Qu.Giáo-Tông lại có lãnh số bạc 1.500$
mà chưa thấy pièces justificatives. Hiện giờ đây Qu.Giáo-Tông cũng thường xuất
ngoại, vay mượn xin xỏ, nói rằng lo cho việc ngoại giao.
Khoản thứ bảy đọc dứt, có Giáo-hữu Thượng Áo Thanh coi kho sách ở Toà-Thánh
đứng ra biện giải cho Qu. Giáo-Tông về vụ 300$ của vị Hoà Thượng ở Chợ-lớn. Người
nói số bạc đó Qu. Giáo-Tông mượn để đặt Thánh Tượng, hiện nay 500 Thánh tượng lấy
về rồi, để tại kho sách, như ai không tin đến đó coi”.
Qu. Ngọc Đầu-Sư: chẳng phải nói mượn số bạc mà để xài, không đặt Thánh Tượng.
Tôi chỉ nói việc mượn lâu không trả để người ta đòi hỏi, viết thư nói nhiều tiếng
nặng nề, xấu hổ cho Đạo và cho Qu. Giáo-Tông.
Đọc tới khoản thứ 8
KHOẢN THỨ TÁM:
Quyền Ngọc Đầu-Sư tỏ rằng một ngày kia Quyền Giáo-Tông giao cho Sở giữ cò để
gởi thơ, một sắp thư, bảo gắn cò đặng gửi đi. Qu. Ngọc Đầu-Sư coi lại thì thơ của
Qu.Giáo-Tông ký tên Thượng Trung Nhựt, đóng con dấu Thượng Đầu-Sư gởi cho đạo hữu
và người ngoại Đạo, cậy mua nhựt báo “Bảo an”. Việc nhựt trình là việc riêng mà
dùng tiền của Đạo, tuy không phải là bao nhiêu đó, song Qu. Ngọc Đầu-Sư không
cho gởi thơ đó, vì là Qu.Giáo-Tông lấy danh Đạo gởi hỏi mượn tiền đặng giúp cho
Tờ nhựt trình ấy.
Qu. Chưởng Pháp Nguyễn
Trung Hậu tỏ rằng: - Ông cũng sẵn có trong tay cái
thơ của Qu. Giáo-Tông viết gởi cho một đạo hữu là Bà Cả Đường chủ Thánh Thất, để
mượn 50$ cho nhựt trình “Bảo an”. Thơ ấy ký tên Thượng Trung Nhựt và đóng dấu Đầu-Sư,
Ngài sẽ giao thơ ấy cho Qu.Ngọc Chánh Phối Sư mời.
“Sau khi hội viên bàn tính, thì Thượng hội định nhựt-trình “bảo an” không
phải của Đại-Đạo, Qu. Giáo-Tông mượn danh Đạo cổ động cho Nhựt trình ấy là sái
phép.
Đọc dứt khoản này Nghị trưởng đứng lên hỏi: Có ai phản đối điều chi không?
Qu. Ngọc Đầu-Sư: Tôi xin cắt nghĩa việc mượn và trả số bạc 280$ - Mượn 280$ nói gởi cho
Kiêm biên có trả được 190$, trong số 190$ đó có 100$ cũ chủ nợ đổi ra xài được
có 50$ và lỗ 50$, nay còn thiếu 90$ nên kêu nài.
Qu. Ngọc Đầu-Sư đọc khoản cáo thứ 9.
KHOẢN THỨ CHÍN:
Qu. Ngọc Đầu-Sư đọc tờ của Qu. Thượng Đầu-Sư, Đầu-Sư trình cho Thượng Hội rõ
việc Ngài trả lời về việc Quyền Giáo-Tông cáo hai vị cựu Ngọc và Thượng chánh
Phối Sư hôm Hội nhóm Hội Thánh (ghim theo đây). Chuyện này của Qu. Giáo-Tông sắp
đặt trước, cậy tay người dưới quyền đặng có trương công cán của mình hồi giờ để
hạ nhục hai vị Thượng và Ngọc Chánh Phối Sư giữa Hội-Thánh cho biết. Việc này
sau sẽ định đoạt.
Không thấy ai ra biện hộ cho Qu. Giáo-Tông.
Qu. Ngọc Đầu-Sư đọc khoản thứ 10.
KHOẢN THỨ MƯỜI:
Qu.Ngọc Đầu-Sư trình ra một phong thơ. Bề mặt thì có chữ của Hộ-Pháp đề như
vầy:13-3-1930 thơ này đem ra cho chư hội viên thấy sự giả, mà sự giả này có thể
Qu.Giáo-Tông biết được, vì có con dấu Thượng Đầu-Sư đóng trên keo niêm sau lưng
bao thư ấy, Qu.Giáo-Tông có gởi Tờ chức sắc mà giới thiệu thơ ấy. Nay nói cho
biết vậy, ngày sau sẽ xin xét lại, nên Thượng Hội chưa định sao hết. (Không thấy
ai ra biện hộ cho Qu.Giáo-Tông).
Qu. Ngọc Đầu-Sư đọc khoản cáo thứ 11.
KHOẢN THỨ MƯỜI MỘT:
Qu. Ngọc Đầu-Sư đem ra một sắp thơ sao lục Thánh ngôn, trong ấy có dạy nhiều
việc mà Qu. Giáo-Tông không thi hành. Bởi không có mặt Qu.Giáo-Tông nên Thượng
Hội chưa định sao.(Không ai ra biện hộ cho Qu.Giáo-Tông).
Qu. Ngọc Đầu-Sư đọc khoản cáo thứ 12.
KHOẢN THỨ MƯỜI HAI:
Qu. Ngọc Đầu-Sư đem cái thơ của Thượng-Sanh gởi cho Hộ-Pháp hồi tháng 3 năm
1930 trách cứ Hộ-Pháp và Thượng Đầu-Sư, song chưa giáp hai người nên còn đình
việc này lại.
Không thấy ai ra biện hộ cho Qu.Giáo-Tông
(Câu này hoàn toàn sai vì thơ chưa đọc về việc của Thượng-Sanh)
Nghị trưởng: - Trong 9 khoản đầu trong tờ Vi bằng mới vừa đọc rồi, chư đạo hữu đều thấy
bất cứ khoản cáo nào cũng có bằng cớ, không một chút chi oan ức, nhưng có khoản
thứ 6 là nặng hơn hết, chư đạo hữu cũng nên để ý vào khoản này.
Tôi xin khuyên:
một người Đạo mà có tội với Đạo thì để cho Thầy xử,
Đạo xử, chớ để ra Toà đời thì nhục cho danh Đạo lắm.
Trước khi Hội
nghị bế mạc tôi xin hỏi hết hội viên hai câu như vầy:
1 - Ông Qu. Giáo-Tông quả có phạm tội
theo chín khoản cáo trong Tờ vi bằng này không?
2 - Ông Quyền Giáo-Tông còn xứng đáng phẩm vị không? Cả chư đạo hữu đồng
giơ tay nhìn nhận ông Quyền Giáo-Tông có tội và không còn xứng đáng phẩm vị tối
cao ấy nữa.
Nghị trưởng: - Tôi xin thay mặt ban Uỷ viên trình cho chư đạo hữu hay phận sự chúng ta
tới đây đã dứt, vậy từ đây là về phần ba Hội định liệu, sao cho phù hợp với điều
lệ của Đại Đạo.
Lê Kim Tỵ: Tôi xin chư đạo hữu nhóm hội hôm nay đồng thanh cảm tạ ban uỷ viên lấy hết
trung tâm, thành ý mà điều đình cuộc hội ngày nay được kết quả rất là mỹ mãn.
Ông Tỵ dứt lời, có một đạo hữu không rõ họ tên đứng ra nói: - Ngày nay Qu. Ngọc
Đầu-Sư đứng ra tố cáo Qu. Giáo-Tông trong khi Ngài vắng mặt và không có bằng cớ
chi chắc chắn, ấy là Ngọc Đầu-Sư “Hoạ phù thân đái”.
Qu. Ngọc Đầu-Sư Ngọc Trang
Thanh: - Tôi có mời Qu. Giáo-Tông nhưng Ngài không đến
chớ cũng có phái người đến cải lẽ nãy giờ. Mỗi khoản đều có để cho công chúng
thong thả biện luận. - Có hai vị đạo hữu nam và ba vị nữ trình biên lai mua đất,
lại có người đòi kiện Quyền Giáo-Tông giữa đây, bằng cớ như vậy, nhơn sanh đồng
công nhận Qu. Giáo-Tông có tội, đạo hữu ở đâu xa mới đến sau, không rõ trước
sau nên mới nói vậy phải không?
Nghị trưởng: Tôi xin lập lại một lần nữa cho chư đạo hữu nhớ rằng trong 9 khoản buộc tội,
chỉ có khoản thứ 6 là hệ trọng hơn hết. Thoảng như một ngày kia chư Chức sắc điều
đình việc này không được để cho mấy người mua đất ức lòng kiện ra Toà đời, thì
thế nào Qu.Giáo-Tông cũng không tránh khỏi đường lao lý, vì có đủ bằng cớ.
Đạo mình thuở nay đã bị người ta nghi ngờ, cách vài bữa đây một viên Phó Thẩm
biện nói với tôi rằng: kẻ cầm quyền trong Đạo không minh chánh, vì vậy mà chánh
phủ để ý dòm ngó. Vậy xin chư đạo hữu phải quyết định lẽ nào cho Đạo khỏi mang
tai tiếng nữa. Dứt lời Ban Uỷ viên thoái vị, nhường quyền phán đoán cho Hội Vạn
Linh, chư hội viên hội vạn linh đồng quyết định việc Qu. Giáo Tông nay có tội
như vậy, thì phải đệ lên Toà Tam giáo thiêng liêng định án.
Tới đây đã hết vấn đề bàn giải, hội giải tán hồi 6 giờ chiều cùng ngày.
Nghị trưởng Nguyễn Phan Long
Phó nghị trưởng Trương Duy Toản
Từ Hàn Giáo Hữu Tuyết Tấn Thành
Phó Từ Hàn Chánh Trị Sự Phạm văn
Long
LỬA THỬ VÀNG GIAN NAN THỬ
ĐẠO
Chúng ta thử điểm lại một số các cột mốc quan trọng về sự diễn tiến của nền
Ðạo, chúng ta sẽ thấy được sự huyền diệu trong câu nói xác định của Ðức Chí
Tôn: "Chi chi cũng tại Tây Ninh mà thôi":
- 15-10-Bính Dần (1926): Lễ Khai Đạo tại Gò Kén.
- 16-10-Bính Dần (1926): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài
Nam phái.
- 09-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Lý Giáo-Tông lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng
Đài Nữ phái
- 12-1-Ðinh Mão (1927): Ðức Chí Tôn lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên Đài.
- Từ 1926 đến đầu năm 1934: Các Chức sắc Cửu Trùng Đài tách ra lập Chi phái
gồm quí Ngài: Ngô Văn Chiêu, Phối Sư Nguyễn Văn Ca, Giáo Hữu Nguyễn Văn Chính,
Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, hai vị Quyền Ðầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá
Trang.
- Mãi đến ngày 23 tháng 7 tới mùng 4 tháng 8 Ất Hợi (dl 21 đến 31-8-1935)
Các Ðấng thiêng liêng vâng lịnh Đức Chí Tôn “mới giáng cho Tân Kinh... Ấy là một
giọt nước Cam lộ của Đức Từ-bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng linh hồn của
toàn thế giới.
Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: đã trải qua mười năm Chí-Tôn mới mở cơ
tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh này mà thôi.
Thương thay cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày
Tân Kinh chuyển pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên thơ tiền định.
Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ rỗi là trì tụng Di-lạc Chơn
Kinh hầu các đẳng linh hồn đặng siêu thăng tịnh độ”. (Lời tựa Kinh Thiên Đạo và
Thế Đạo)
Ðây mới chính thực là Kinh Cao Ðài, Kinh Tận Độ chúng sanh và ban cho Phật
Mẫu Chơn Kinh, dạy cách thờ phượng Ðức Phật Mẫu. Các bài kinh có trước năm 1935
đều là kinh thỉnh từ Tam giáo hay từ Ngũ Chi Minh Đạo.
Như vậy, chỉ có Tòa Thánh Tây Ninh mới hưởng được hồng ân nầy của Ðức Chí
Tôn, còn các Chi phái không hưởng được, bởi vì họ tách ra trước ngày Tân Kinh
chuyển pháp, nếu muốn hưởng đủ Tân Kinh thì phải qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh
mà thôi. Cho nên được biết có một số Chức sắc Chi phái di chúc lại rằng khi họ
qui liễu thì nhờ Chức sắc Tòa Thánh Tây Ninh đến cầu kinh và tổ chức tang lễ
giùm.
Về tương lai của các Chi phái, Ðức Chí Tôn có tiên tri trong bài thi tứ tuyệt
sau đây.
THI
“Ðạo Thầy nhiều nhánh các
con ơi!
“Nhánh có trái bông, nhánh
cụt còi.
“Rốt cuộc cành khô cùng lá
héo,
“Còn gì tươi tốt để con
coi.
Nay là qua 84 năm tuổi Đạo, cũng đủ thời gian cho toàn Đạo phân biệt rõ
“nhánh nào có bông” và “nhánh nào cụt còi”. Và phải chăng sự đoàn kết là sống
mà chia rẻ là chết thì “Rốt cuộc cành khô cùng lá héo” mà thôi.
Phải chăng đây là cơ khảo: “Lửa thử vàng gian nan thử Đạo” của ba Đấng đầu
công:
- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,
- Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,
- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.
Thử nhớ lại:
1 - Thời kỳ kiến tạo Toà Thánh Tây Ninh:
Qua thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì
bên Cửu-trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công
quả to lớn để dựng Đức-tin làm nền tảng Đại-Đạo ngày nay cùng với hai vị: Thượng-Phẩm
và Hộ-Pháp bên Hiệp Thiên-Đài. Với lời minh-chứng của Đức Hộ-Pháp như sau:
“- Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam
Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn linh mà có Đức-tin
vững chắc như Đức-tin của:
- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư,
- Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt,
- Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.
Nếu cả thảy đều có Đức-tin vững-vàng dường ấy Bần-Đạo dám nói chắc rằng:
Các người dời núi Bà xuống châu-thành Sài-gòn cũng đặng. Có thể nói: nền Đạo
Cao Đài này thiệt-hiện được như ngày nay là nhờ đức-tin của Thượng-Trung Nhựt."
Đức Hộ-Pháp nói lý do:
“Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra hồi ban
sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người lỳ; ba người ấy là:
- Đức Cao-Thượng-Phẩm
- Đức Quyền Giáo-Tông
- Và Bần-Đạo đây (Hộ-Pháp)
“Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn.
Bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho
Đức Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng thiêng-liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI
này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi.”
Đó là tấm lòng hiếu thảo của Đức Hộ-Pháp thì như vậy, còn lại tinh-thần của
Đức Thượng-Phẩm thì…
Đức Hộ-Pháp nói tiếp:
“Bần-Đạo thú thật buổi nọ:
“Chỉ có ba Anh em, ôm sứ-mạng Thiêng liêng âý nơi mình. Lãnh sứ-mạng
khó-khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài thì cũng như Đạo Phật hay Minh-sư, Minh-đường.
Đáo-để, cạo đầu vô chùa làm Thầy chùa tu là cùng, tưởng dễ-dàng lắm, kiếp sanh
nơi thế, thời bấy giờ đã khổ-não tâm-hồn và xác thịt, lệ thuộc như thế. Ổng biểu
tu, nào dè mở Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi, không bao lâu thấy cả con cái của
Ngài đến cùng Ngài cả muôn cả triệu, chừng đó mới biết sợ-sệt. Chính mình buổi
nọ, Đức Quyền Giáo-Tông ra hậu-điện, Người hỏi Bần-Đạo: làm cái gì vậy?
“Thấy thiên-hạ vào cửa Đạo quá chừng, Đại-Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy?
Chính mình Bần-Đạo cũng không biết.
- Biết đâu ! Ông làm gì?
“Ông đến thâu tín-đồ nhiều quá ảnh than rằng: tới đâu hay tới đó, biết sao!
Kể từ đó bị khảo miết: Đức Cao Thượng-Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày
giờ cuối cùng, nằm trên giường bịnh cho tới hơi thở cuối cùng không buổi nào
không bị khảo, không buổi nào không bị nhục-nhã. Cái luật thiên-nhiên không có
điều gì xin-xỏ, điều gì cũng phải mua chuộc.
“Bần-Đạo đã quyết rồi, xin để Bần-Đạo kết luận: Bởi mua chuộc với cái khảo-đảo,
nhục-nhã của đời, để bảo-trọng danh-giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang-trọng vô đối.”
Sự-nghiệp vẻ-vang của Đức Thượng-Phẩm như vậy chính do Ngài biết giữ được
chữ “nhẫn” chữ “hòa”, một là để tô-bồi thiên-vị, hai là nâng cao phẩm-giá
chơn-linh cao trọng của Ngài.
“Đức Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn-Chung Ly: một vị Đại-Tiên trong Bát
Tiên, làm sứ-mạng của Chí Tôn đến tạo dựng nền Tôn giáo tại thế này. Người cùng
với Hộ-Pháp họp thành cặp cơ phong Thánh lập Pháp Chánh Truyền và Tân-Luật để
làm Hiến-chương cho nền Quốc Đạo.
“Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu
thiếu bàn tay xây dựng của Người để chấp cơ cùng Hộ-Pháp thì:
- Đâu có Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ.
- Đâu có Chức-sắc Thiên-phong Nam Nữ.
- Đâu có Hội-Thánh và các cơ-quan trong Đạo.
- Đâu có Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật.
- Đâu có đại-nghiệp hiện giờ cho nhơn-sanh thừa hưởng.”
Đến khi khởi công xây dựng Thánh-thất tức là nhà chung của Đạo (là Thánh-thất
tạm trước khi xây Đền Thánh bây giờ) thì Đức Thượng-Phẩm là người đứng ra cùng
góp công với nhân-sanh bứng gốc phá chồi, thật là Đấng đã khai sơn phá thạch
cùng với Đức Hộ-Pháp tạo nên một ngôi thờ phượng khang-trang, một ngôi Tổ đình
lưu lại cho nhơn-sanh một đức-tin tuyệt-đối. Nhưng đại nghiệp ấy mới nửa chừng
Người phải về Thiêng-liêng làm nhiệm-vụ của Đức Chí-Tôn giao-phó, đành buông
gánh Đại-Đạo cho Hộ-Pháp một tay lèo-lái, lại còn chịu lao-lý để gánh ách nạn
cho dân-tộc. Với hai Đấng đầu công thật là công-trình vẹn-vẻ, vừa lo phần thể
pháp, vừa thực hiện bí-pháp của Đạo, hai Ngài đã thể hiện cơ âm dương tương đắc
vậy.
Ấy là hai Chức-sắc Đại-Thiên-phong nơi cửa Hiệp Thiên-Đài trong cơ kiến-tạo
nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:
- Một là Đức Hộ-Pháp, đầy lòng hiếu đạo cùng Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu.
- Hai là Đức Thượng-Phẩm đầy-đủ đức kiên-nhẫn với một đức-tin tuyệt-đối. Thử
điểm lại đôi nét về:
TÌNH TRẠNG ÐỨC CAO THƯỢNG
PHẨM
Ðức Cao Thượng-Phẩm từ ngày về Thảo Xá Hiền Cung xem Ngài hình thể hao mòn,
sức yếu thân gầy, sắc diện âu sầu buồn bã.
Sự nhận thức có lẽ Ngài thọ bịnh thất chí, vì hành Ðạo không được y theo sở
nguyện trong nền Ðạo buổi sơ khai lo truyền giáo phổ độ nhơn sanh, mà Ngài lại
an ổn tại tư gia, nên Ngài bực tức, vì Ðạo vì Thầy mà bị họ ngăn trở bước đường
hành Ðạo.
Thiết tưởng những người có đủ đức tin nơi Chí Tôn thì dầu có sản nghiệp triệu
phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được, huống chi Ðức Thượng-Phẩm là
Môn Ðệ tin tưởng Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu buổi đầu tiên.
Khi Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo, giáng huyền diệu cơ bút thâu Môn Ðệ dạy
thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà của Ngài, nên lòng thành kính Ðạo thật là
đầy đủ. Các Ðấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Ðạo, thì Ðức Thượng-Phẩm cùng Ðức Hộ-Pháp
phò loan, hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều hơn hết.
Ðức Thượng-Phẩm là người cương quyết thi hành trọn Ðạo phế Ðời, thu xếp gia
đình nghỉ làm việc Cò Mi, không màng danh lợi, trọn tin theo lời Thánh giáo của
Chí Tôn về ở chùa Gò Kén thường xuyên hành Ðạo. Khi dời về Tòa Thánh thì Ngài
cũng trọn tâm lo xây dựng cơ nghiệp Ðạo.
Ðến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc lòng lui về tư gia, thì
dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh, lương y
khó phương điều trị cho lành mạnh. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài lo cuộc
lễ tiếp rước Ðức Thượng-Phẩm về Tòa Thánh và tạo lập Tịnh Thất cho Thượng-Phẩm
nhập tịnh.
Cả Chức Sắc Hội Thánh đồng tâm tuân lịnh Ðức Chí Tôn tức cấp lo tạo Tịnh Thất
tại nơi cụm rừng (chỗ Báo Ân Từ hiện nay).
Ngày 15 tháng 10 năm Mậu Thìn (1928):
Bảy giờ sáng một đoàn xe hơi Chức Sắc Ðại Thiên Phong Hiệp Thiên, Cửu Trùng
đến Thảo Xá Hiền Cung rước Ðức Thượng-Phẩm thì Ngài cũng vui lòng lên xe về Tòa
Thánh nhập Tịnh Thất. Hội Thánh có chọn Chức Sắc phụng sự mọi việc thường thức
cho Ngài.
Ðức Thượng-Phẩm nhập Tịnh Thất một thời gian, bịnh tình cũng chưa thuyên giảm,
hằng ngày kém ăn thiếu ngủ, Thánh thể xem đã gầy mòn.
Ngày 26 tháng Chạp năm Mậu Thìn (1928):
Ngài tỏ với người bạn thân là Bà Giáo Sư Hương Hiếu lo sắp đặt 6 giờ chiều
trở về Thảo Xá, Ngài không cho Chức Sắc hay trước.
6 giờ chiều, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa lót nệm để Ngài nằm,
đi theo xe hộ vệ chỉ có người bạn thân của Ngài và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh,
đưa Ngài về Thảo Xá.
7 giờ rưỡi, tới nơi đỡ vào phòng nghỉ ngơi, xem được khỏe như lúc mới lên
xe. Từ đây, ở yên nơi Thảo Xá.
ÐỨC THƯỢNG PHẨM ÐĂNG TIÊN
Ngày 01 tháng 03 Kỷ Tỵ (1929) 11 giờ trưa, Ðức Thượng-Phẩm cho mời Ðức Hộ-Pháp,
cùng ông Bảo Văn Pháp Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh,
Giáo Hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ Sanh Thượng Ngươn Thanh.
Ðức Thượng-Phẩm nhìn Ðức Hộ-Pháp trối rằng:
“Nay Qua về chầu Ðức Chí Tôn, em ở lại hiệp với Chức Sắc chung lo nền Ðạo của
Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn”.
Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt, kế day qua nói với bạn thân của Ngài căn dặn
để trọn tâm lo tròn phận sự; nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn êm ái, gương mặt
cũng như người đương ngủ. Có một điều phi thường là lời trối Ngài nói có hàng
có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Cả Chức Sắc có mặt đều cảm động ngùi ngùi
thương tiếc.
Khi Ngài dứt hơi thì đỡ ngồi dậy thúc xác ngồi kiết tường trước mặt lập bàn
hương án chưng bông hoa trà quả. Ðức Hộ-Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng Liên Ðài
hình Bát Quái; thời Tý 12 giờ đại liệm, rồi thành phục tế lễ theo nghi tiết. Hội
Thánh thông tri cho toàn Ðạo các tỉnh đều hay đặng hành lễ cầu nguyện cho Ðức
Thượng-Phẩm được tiêu diêu nơi miền Tiên cảnh.
Quàn tại Thảo Xá 3 ngày, Chức Sắc và Ðạo Hữu nam nữ điếu tế rất đông. Chức
Sắc Hiệp Thiên Ðài cầu cơ bút, Ðức Thượng-Phẩm giáng cơ tỏ vẻ vui mừng, được về
bái mạng Ðức Chí Tôn cùng Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung, đều ban
ơn công nghiệp buổi khai Ðạo tròn sứ mạng, Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt:
THI
Cao thanh miệng thế mặc
chê khen,
Thượng trí màng chi tiếng thấp
hèn.
Phẩm cũ ngôi xưa dầu rõ
giá,
Từ bi tập tánh được thường
quen.
Ngài tỏ vẻ vui mừng nay đã thoát khỏi biển trần, về cảnh Thiêng Liêng Hằng
Sống.
Ngày 3 tháng 3 Kỷ Tỵ (1929) Hội Thánh rước Liên Ðài về Tòa Thánh, sự sắp đặt
thứ tự theo chương trình dưới đây:
1/ - Tấm bảng Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, kế tiếp là phướn Thượng-Phẩm.
2/ - Bàn Hương án để Bửu Ảnh có dàn hầu, lổ bộ và các tràng hoa.
3/ - Nhạc Ta, nhạc Tây, nhạc Tiều, nhạc Thổ.
4/ - Bàn đưa, phúng, vãng, trên một trăm tấm tiếp theo đồng nhi đọc kinh
đưa.
5/ - Thuyền Bát Nhã chở Liên Ðài tiếp sau tang gia hiếu quyến.
6/ - Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài: Hộ-Pháp, Thượng-Sanh, cùng Thập Nhị Thời
Quân, kế tiếp Chức Sắc Cửu Trùng Ðài Nam Nữ và Chức Việc, Ðạo Hữu. Số người đưa
đoạn đầu vào đến Ðền Thánh mà đoạn chót còn ở tại Thảo Xá, đường dài 4.000 thước.
Cuộc rước Liên Ðài rất tôn nghiêm long trọng. Khi Thuyền Bát Nhã đến Tòa
Thánh, di Liên Ðài vào Bửu Ðiện an vị nơi phẩm trật của Hiệp Thiên Ðài.
Ðêm mùng 3 hành lễ Ðức Chí Tôn, dâng sớ cầu nguyện Ơn Trên ban ân huệ cho
chơn linh Ðức Thượng-Phẩm tiêu diêu cõi thọ.
Ngày mùng 4 tháng 3 Kỷ Tỵ: Chức Sắc và toàn Ðạo các Tỉnh tế lễ phúng điếu rất
đông đảo, cùng thân bằng cố hữu phúng điếu, quàn Liên Ðài tại Bửu Ðiện tế lễ cầu
siêu....
Tới ngày mùng 8 tháng 3, sớm mai 8 giờ, di Liên Ðài lên thuyền Bát Nhã đưa
ra Bửu Tháp. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài đọc ai điếu; Cửu Trùng Ðài Ðức Thượng Ðầu
Sư Thượng Trung Nhựt đọc ai điếu, trạng tỏ công nghiệp hành Ðạo của Ðức Thượng-Phẩm
trong buổi sơ khai, đủ nghị lực tinh thần đối phó với quyền đời, nào là ngăn cấm
áp chế không muốn cho mở mang căn bản nguồn cội của Ðại Ðạo nơi vùng Thánh Ðịa.
Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, thay mặt cho Nữ phái đọc ai điếu tỏ lòng
mến tiếc Ngài vội đăng Tiên, Hiệp Thiên Ðài thiếu người phò loan đủ huyền diệu.
Khi đọc ai điếu xong, Chức Sắc, Chức Việc và Ðạo Hữu nam nữ thành tâm kỉnh
lễ cầu nguyện cho Ðức Thượng-Phẩm được siêu thăng Tiên cảnh. Cuộc lễ thật long
trọng.
Thợ hồ lo xây Tháp cho Ngài, có gắn cẩm thạch mạ chữ vàng nơi Bửu Tháp bát
giác; sau lưng có khắc bài kỹ niệm để tỏ dấu cảm hoài và roi truyền hậu thế.
Sau đấy Ðức Cao Thượng-Phẩm có giáng cho hai bài thi khi di Liên Ðài ra Bửu
Tháp:
THI
Xủ áo trần hoàn đã rảnh
tay,
Thung dung nhờ núp bóng
Cao Ðài.
Rừng tòng nhựt rọi khi
mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh
say.
Phi thị mặc đời nơi
quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách
Thiên Thai.
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh
chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một
ngày.
***
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn
tràng,
Cõi Thiên mừng đặng dứt
giây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá
vàng.
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt
nguyệt,
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang
san.
Bốn mươi hai tuổi sanh
chưa phỉ,
Ðể mắt xanh coi nước khải
hoàn.
Công-quả phi-thường của Đức Quyền Giáo-Tông
Đức Hộ-Pháp đã giải:
Thật sự hồi ban sơ chỉ có ba người:
“Bần-Đạo nói không có gì! Đức Chí-Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách
không ai tưởng-tượng được. Khi Ngài đến thì chỉ có Đức Thượng-Phẩm và Bần-Đạo
mà thôi. Về sau Bần đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông
Thượng Trung-Nhựt đặng Chí Tôn chuyện vãng cùng Người. Đứng đầu trong trường chính-trị
đã chịu ảnh-hưởng một tình thế bị trích-điểm cũng có, được tôn-sùng cũng có, được
khen cũng có, bị chê cũng có. Buổi ấy bị họ ghen-ghét nên chê nhiều hơn khen.
Chính mình Bần-Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí Tôn biểu Thượng-Phẩm đến nơi đó?
“Để cái dấu hỏi mơ hồ, chẳng dè một người đó lại phi-thường! Giờ phút này Bần-đạo
nói đến lấy làm lạ!
“Một là từ thử tới giờ Bần-đạo chưa ngó thấy. Đến chuyện vãng cùng Ngài, Đức
Chí-Tôn nói cái chi chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Bần-đạo với Thượng-Phẩm
chỉ là hai người dự thính không biết gì hết, mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với
nhau mà thôi.
“Trong 24 giờ, một người đã là Thượng Nghị-viện, một cái gia-nghiệp đủ
vinh-hiển, đủ cao-trọng, đủ đương đầu với thiên-hạ.
“Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Cho tới một cái lạ hơn hết là
đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai kia vậy bỏ một cái một, cả sự ăn chơi
cũng thế.
“Đức Chí-Tôn kỳ hạn có 24 giờ mà thôi:
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải trường trai.
- 24 giờ Anh Cả phải dâng cả sự-nghiệp cho thiên hạ.
- 24 giờ Anh Cả chúng ta phải từ bỏ chức Thượng Nghị-viện, dâng mảnh thân
phàm cho Đức Chí-Tôn làm ngọn cờ cứu-khổ.
“Một người, Bần-đạo thấy ban sơ có một người là Thượng-Phẩm, rồi sau lại có
người này nữa: Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.
Ngồi nghĩ thầm cái đức-tin gì mà lạ-lùng như thế ! Giờ phút này Bần-Đạo mới
hiểu hai vị Đại-Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí-Tôn đã
giao-phó một sứ-mạng nặng-nề, khó-khăn để đảm-nhiệm trách-vụ gánh vác tạo dựng
nền chơn-giáo của Ngài như thế này.
“Nói thật ra,
“Thưa cùng chư Chức-sắc Thiên-phong Cửu Trùng Đài Nam Nữ! Cái ngôi của Ngài
tạo dựng, cái ngôi Giáo-Tông-Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết, cái
ngôi ấy nó sẽ để nơi đất Việt-Nam này một cái báu vật quí giá vô cùng, từ thử tới
giờ chưa hề có.
“Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo Hoàng Saint Pière thế nào,
thì Bần-Đạo có lẽ nói rằng và cũng có thể mơ-ước: cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt
lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”
Hai hình ảnh tương phản:
Phải thấy rằng hai đối cảnh mà người cùng một Đạo phải xót xa đau đớn vô
cùng. Lúc bình sanh ba Đấng đầu công khi nền chinh nghiêng bởi phản khắc Đạo
quyền thì các Ngài bị nhục mạ, bị chửi mắng, kẻ đòi giết, người đòi trói ngoài
gốc cây cao su, bỏ vào rừng cho cọp ăn. Các Ngài cũng nhẫn nhịn cho vượt qua.
Nay qua rồi cái thảm cảnh kẻ tiên cáo cũng như người bị cáo, kết quả cũng đi
vào cõi thiên thu. Nhưng các Ngài vẫn còn lưu lại cho nền Đạo này một tấm gương
cao khiết, một hình ảnh tôn quí mà cả thế giới đều phải cúi đầu trước một kỳ
công rạng rỡ với bước Đạo thăng tiến như ngày nay. Nơi cõi Thiên, các Ngài trở
lại phẩm cũ ngôi xưa là hình ảnh của Bát Tiên. Hào quang đạo pháp đã toả sáng đến
muôn triệu chơn linh mà các Ngài đương lo độ rỗi. Dù hữu hình hay vô vi các
Ngài cũng vẫn là những ngôi sao sáng. Trái lại dù khi còn ở thế gian, còn mang
xác hình nhục thể dù ai có làm khổ, làm khó các Ngài, vậy mà khi về cõi hư vô rồi
thấy cảnh khổ đau đớn tội tình của bất cứ một chơn linh nào, các Ngài vẫn đứng
ra cầu xin, độ rỗi, không có người thù.
Hãy theo dõi qua Đàn Cơ của các Đấng về báo:
Phò loan: Sĩ tải Hiển và Kiết.
Thánh Thất Chợ-lớn, ngày 7-6 Bính Tý (24-7-1936)
Lão chào hai em
…Victor- Hugo
…Lão kính lời thăm Đức Hộ-Pháp, Lão mừng cho Ngài đủ
mưu thủ thắng kế hề của Tương kỳ này. Cười!..
Ôi! Thương cho xác của Trang đã cứng đơ trong hòm mà
phải bị hành tội giữa chúng sanh trước khi vào nằm nơi Thánh
Địa. Mấy em thấy hình phạt tại thế chưa hử ? Ấy là đỡ đa! Nếu không vậy về luật
Thiên điều làm sao chịu cho thấu, Em!
Lão tức cười quá. Người làm sao mà lỳ đến thế? Non nước này mà người ta
chưa lột lớp hề, còn mang râu giễu gượng, rồi đây thương hại giùm cho người giữa
đám dêu-hêu còn ngủ gục kia mới dỗ chúng nó cách nào cho yên. Mấy em nè! …”
Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo
Hộ-Pháp Đường, le 2è Juillet 1936 (10-6- Bính Tuất)
CAO THƯỢNG PHẨM
Chào chư vị Hiền huynh, Hiền hữu.
Cười…Hộ-Pháp xin nghe!
Rộn rực tuồng đời vẫn bấy
nhiêu,
Công danh quyền tước ngược
Thiên Điều.
Cái trung tâm trước quan
chưa vẹn,
Nỗi Đạo tánh xưa lý chẳng
nhiều.
Cầm đuốc soi lòng vừa phụ
nữ,
Ôm hồ nhàn dạ bỏ nghề
Nghiêu.
Thanh đao bầu phép không
ăn nhịp,
Tỷ giống ông Tương với Ả
Kiều.
Họ nghịch với nhau thây họ, can chi mình mà phỏng vấn.
Qua ..Ừ, mà giờ này Anh Trung đương mang bầu xuống Âm-quang đặng giục tỉnh
Anh Trang, còn đương say mùi trong ảo mộng. Cười…
Ba phát quạt của Qua quạt một đường, anh Trang bay một ngã. Qua bị Bát
Nương kiêu ngạo quá chừng, ai đời Chơn thần người tu mà nặng quá hủ lô nhà máy.
Thôi, để cho Anh Lớn tính sao thì tính, họ có ăn thua với nhau thì biết thế
nào mở húi. Cười..
Anh Trung coi bộ rầu cháy ruột. Để Ảnh về Qua biểu đến thăm em. Thôi Qua kiếu.
Thăng.
Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo
Phạm nghiệp ngày 11-6 Bính Tý (28-7-1936)
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Chào mấy Em,
Thượng-Phẩm nói với Qua rằng mấy Em đợi.
Ôi! Qua nghĩ lại quá tức mình, mấy em nghĩ mà coi một kiếp sanh đâu có mấy
lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem như nháy mắt mà ảnh hưởng nó sâu sắc biết
là bao. Nào là danh, nào vị, nào là tước, nào là quyền, nào vinh, nào trọng, rốt
sự thì không còn mảy mún giá trị chút gì nơi cõi Hư linh Hằng sống. Bất quá như
coi vui đặng dự một tiệc ngon ngọt của khách phong trần, say sưa một lát mà đòi
phen chịu thảm cả đời.
Qua đến viếng Trang nơi Lạc-Hồn-Trì thấy nó nằm mê-man sảng sốt đau lòng hết
sức, như lời Thất Nương và Bát Nương làm chứng, thì dầu cho Qua có đến gần nó
lúc này cũng không bổ ích chút nào cả.
Phải đợi cho nó từ từ định tỉnh may ra có tay Thất Nương giải mộng, thỉnh
thoảng định tĩnh tâm thần, nếu Qua cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với
một người điên, chọc thêm loạn trí.
Tám! Em nên thường phò loan đặng Qua truyền tin Trang cho Em hiểu, ấy là một
điều mấy Em nên học hiểu. Khi nãy Qua thấy Em có khách nhiều thì phải?
Phò loan: Hộ-Pháp Tiếp Đạo
Hộ-Pháp-Đường, 10-9- Bính Tý (le 24-10-1936)
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Ê, Hộ-Pháp: Em hỏi Qua việc chú Trang, Qua lại nhắc em điều này: khi nọ em
có nguyện với Đức Chí-Tôn rằng: Ngày nào có bịnh tà quái cầu tạng mặt em thì em
hành pháp lại y như trước…
Đức Hộ-Pháp bạch: Thôi, em nhớ lại rồi.
Nhớ hả?
Còn vụ Trang hôm đầu tháng tám và vừa tỉnh giấc mê hồn, giuc chạy trốn đi
đâu không biết. Qua và Thất Nương đương kiếm.
Hồi trưa này đến xin Hộ-Pháp vào cho thấy mặt tôi, đặng cầu ân xá mà mở miệng
ú-ớ, bị “toa” đập chạy nữa, bây giờ không biết đi đâu, Qua thấy thê thảm quá. Nếu
Qua và Thất Nương kiếm không đặng đem về, sợ lưu linh bậy bạ rồi chư Thần bắt cột
tại Phược-trục-cung giam như tù tội.
Em Hộ-Pháp khi gặp bắt nhốt giùm Qua, rồi kêu Qua đến dìu dẫn kẻo tội nghiệp.
Ôi! Cậu Tương cũng sẽ như vậy nữa mà chớ; Qua xin lịnh Ngọc-Hư tha thứ
nhưng không đặng, vì chưa có lời Em, nên Qua lo sợ quá sức.
Mấy em khá gắng giữ mình, đừng thất thệ với Chí Tôn: Khó lắm! Khó lắm!
Ông Cử Đa giáng cơ nói:
Đối với những người Chi phái:
… “Bần tăng lãnh lịnh gìn giữ các vị ấy để chờ ngày giải quả tiền khiên, rồi
để lần hồi đem về cửa Đạo, nào dè Đức Lý Giáo-Tông ra Đạo Nghị Định thứ 8 làm
cho các Chi phái không thế hồi phục, lại gây thêm lắm tội tình, ấy cũng vì nghiệt
căn chưa mãn.
Nay nhờ Quyền Vạn linh ân xá thì còn vớt lại phân nửa, nhưng phải chịu trải
qua nhiều cơn thử thách mới đáng cho vào hàng Môn đệ của Chí Tôn, còn các vị đầu
đảng thì không phương phục hồi, bởi nặng mang nghiệp chướng, chỉ có đợi ngày
chung cuộc ăn năn bằng khối linh hồn may được gởi xác phàm nơi cửa Đạo, còn lại
một phần là con cái của Ma vương. Kết cuộc thì con Phật, con Ma, hai đường phân
biệt.
Đây lời nói việc Thất Sơn buổi sau nầy là để làm nghĩa địa cho con cái của
lũ Ma vương, mà cũng để lập nơi cho các bậc chơn tu buổi hậu lai đắc đạo.
Có mấy lời tỏ việc các Chi phái là bởi nguyên do, còn quốc sự thì chư Thiên
mạng đã lãm tường chung thỉ. Xin chào chư Thiên mạng. THĂNG.
NỖI LÒNG TỪ PHỤ
Trước tình trạng chia phân
Phò loan: Hộ-Pháp Thượng-Phẩm
Tháng giêng Tân Mùi
Thầy, Các con.
Cười! ..Đáng kiếp cho bây lắm hứ! con thì đứa trắng, đứa đen, lại bị Tà quyền
xung đột thì cũng tại nơi các con chẳng biết vâng lời Thầy dạy dỗ, mà cũng chẳng
dạ thương Thầy mới ra thế ấy. Tiếc thay hơn năm chầy Thầy để hết gang tấc đem
Thánh đức mà nhồi nắn các con, nay cũng còn thấy dưới mắt Thầy một cái thảm trạng
thường tình gây cuộc nầy.
Các con ôi! Ai thì chẳng biết các con chớ Thầy đây há không thấu đáo đặng
hay sao? Thầy hằng tiên tri trước rằng: Thầy lập một trường thử thách mà lập
ngôi vị Thiêng liêng cho mỗi đứa con ra đáng giá. Cái vui và cái buồn của các
con chẳng còn giống như thế tình thấy. Thầy cậy kẻ trau giồi Thánh đức của các
con đến đỗi phải đem ra trao đổi tội tình, làm phước hạnh cho kẻ hung bạo hiếp
đáp các con, Thầy tưởng khi là quá trí của các con, mà cũng quá trí Thầy đây nữa
mà chớ!
Cười!... Vàng thau lẫn lộn, phải cậy lửa trui phân, Thầy đã đến nơi cảnh tục
trần này mà đem các con ra khỏi vòng tôi đòi xác thịt, đồng thể với Quỉ nhân và
Hoá nhân, thì chính mình Thầy đây còn bị nhiễm nhầm khí trược thay, huống lựa
là các con!
Các con trước than Thầy đã than trước; các con trước khóc Thầy đã khóc trước
rồi, ấy cái oan gia Thầy hỏi ai đào tạo? Thầy xin nói cho Thầy nghe?
Lũ con hoang, hễ ra khỏi nhà thì toan gây tội, oan nghiệt, căn nghiệp là do
tại nơi các con, chớ không phải của Thầy dành để, vay trả phải cho rồi mới đáng
qui hồi cựu vị, hiểu không con Thơ?
- Trung, Thầy chỉ trách con một điều là Thầy đã nương cậy thi hài hữu hình
tay con, đặng dìu dắt con cái Thầy, tức là em của con, Thầy chẳng nệ Thơ kém đạo
tâm, để cho con hưởng đủ mùi sang giàu vinh hiển, đặng cho con lịch lãm thế
tình hầu cậy con nưng niu dạy dỗ các em con tận thức nhơn tâm, mà chỉ có mấy đứa
em mà không thông tâm chí, để đến đỗi khi lịnh mà mang tội Thiêng liêng rất nên
tội nghiệp vậy con?
- Thượng Trung Nhựt bạch…
- Thầy không phải cấm dùng roi dùng vọt, nhưng chỉnh cậy con phải biết tuỳ
thế tuỳ thời. Thằng Thơ nó ngỗ nghịch với con là tại nơi con tập nó. Thầy đã
nói với con rằng: Thầy gởi gắm nó cho con, con còn nhớ à?
- Thượng Trung Nhựt bạch…
- Nó khóc, nó kể bao nhiêu thì càng giục Thầy tái kiếp tạo thành thể Đạo.
Thầy hỏi vậy chớ sự trông thấy của Thầy nơi các con là sự gì nói hử?
- Thượng Trung Nhựt bạch…
- Ừ, con há! Thầy nói một chữ, rồi bố trí cho con hiểu một mình chữ này
nghe con “Tuỳ”!
- Tương, Thầy đã có dặn con từ trước mà ngần ngại nỗi gì? Thầy vì loạn lạc
gian ác, các con giết lẫn nhau nên đến mà tạo Đạo cứu chúng sanh, duy có một điều
ước vọng là các con cả thảy đều hoà thuận cùng nhau ấy là cơ giải hoà toàn thế
giới.
Con đã rõ thấu chơn lý Đạo Thầy, con lại sợ chi mà không từ quan hành Đạo.
Con nên cho chánh phủ hiểu rằng: Trong cơn ly loạn này, hoặc con nên hữu dụng
cho cả lưỡng quốc Pháp Nam ra giáo dân qui thiện, hoặc là vô dụng mà làm một
quan viên chức tước thường, rồi biểu cân thử hai lẽ trọng khinh mà định liệu.
Cười!... Còn con đừng sợ chúng nó để dạ hồ nghi, con lại để trao phần chúng
nó định, thì Thầy nói trước rằng: Thầy sẽ biểu chúng nó định lẽ nào cho danh
con nên cao trọng, còn cả sự chi để cho Thầy. Đạo có hư mới có nên, ấy là cơ nhồi
nắn các con cho nên đạo hạnh, con đừng ưu tư phiền muộn, Thầy nói cùng đi nữa,
dầu kẻ tội nhơn phải còn sa đắm trầm luân khổ hải một đôi trăm kiếp đi nữa cũng
còn có thuở níu đặng tay Thầy, con an tâm lo việc Đạo
Thái-Bạch đổ tội cho con vì muốn lập HỘI NHƠN SANH mới gầy cơ loạn lạc ấy.
Trang, con cứ thi hành phận sự, ấy là phương thế của Thầy cứu vớt tội tình
đó. Con cũng vậy, Thầy dặn con dụng oai-quyền mà lập nên thể Đạo, nhưng chẳng
nên xao lãng tâm từ, con hiểu riêng Thầy không nên hết tiếng.
Thơ, Con! Con! Con! Con có nhiệt dạ thương Thầy thì nên cho Thầy xin những
điều này nghe: bớt tánh nóng, đừng lẫy đương, con nên liệu phương tuỳ nhơn trí
luật định, nếu con biết tôn trọng phẩm vị của con. Hễ con biết phạm thì ai ai
cũng phạm, huống chi chính tay con đặt viết lập Luật cho đời mà con còn phạm
thì ai kia không phạm, con nhớ không con?
Thầy cám lòng con thương tưởng Thầy, song còn tiếc một điều là con không biết
ý Thầy, con giận lẫy. Thầy hỏi ai ra gánh vác lập thành thể Đạo hử?
Con phải giúp em con là Hương Thanh, rằm này khởi tạo Toà Thánh, kẻo Thái Bạch
quở phạt thì con chịu đa nghe! Cười!...
Hương Thanh! Con tưởng vậy là đủ. Nhưng chưa! Cười! Thầy ban ơn cho các con. Thăng.
Ngày 21 tháng giêng năm Kỷ Tỵ ( 02-Mars 1929)
Thầy, các con.
Tắc, Thầy viết chậm chậm cho con đọc.
Tắc, Con truyền Thần vững vàng đặng đỡ bớt cho Anh
con, nghe!
Cư, Thầy viết chậm chậm cho con đọc.
Ôi! Nếu các con trước biết thương yêu nhau dường này thì có đâu ra đến mang tội Ngọc-Hư,
bị nạn quỉ khảo. Thầy đã đôi phen dạy-dỗ, các con chẳng chút đoái lời, đứa trắng,
đứa đen, mất tình hoà khí.
Một khối đức tin Thầy nhọc công nhồi nắn đã rã-rời ra.
Thầy tưởng chẳng cần nói các con cũng hiểu rõ sự đau thảm của thầy dường nào! Thì cũng vì các con
mà Ngọc Hư Cung náo động. Nỗi Bảo-Đạo kiện thưa, nỗi
Diêu-Trì binh vực. Kẻ thì trách Thầy quá yêu tha thứ, kẻ trách Thầy rộng mở
Chơn-truyền. Thầy đứng giữa một mình đôi vai nghiêng gánh vác, Thầy chỉ mong một
điều dù phải thế nào, xin miễn Thánh đức các con đặng vẹn giữ thì là thoả nguyện.
Thầy đoái lại thì Thầy chỉ thấy các con quên Thầy mà thôi. Tội nghiệp cho
cái thân già này cầm quyền Thế giái Càn Khôn mà làm gì! Đến đỗi có một nắm tay
con cái dắt dìu chưa đủ sức, lại phải chịu cho nó phụ rảy phản loạn lại thế
nào! Thầy lại buộc phải nhìn nhận lại các điều phân định của Ngọc-Hư-Cung giữa
Đại Hội, rồi đây Thầy phải giáng Cơ đặng chịu tội trước mặt nhơn sanh nữa, thẹn
thùng, nhục nhã ấy vì đâu?
Thì cũng vì thương các con đó! Nếu Thầy có xác thịt như các con, thì biết
bao phen Thầy đã ném cây Cân Thiêng liêng và bứt đứt trái tim yêu dấu của Thầy
mà quăng đi luôn thể. Thầy chẳng nỡ nói nhiều, cực vì phải dạy nên cạn tỏ tấm
tình, các con nên thương Thầy và hằng tưởng đến danh Đạo mà giữ-gìn tánh đức Thầy
đã lập ngôi các con rồi, các con cũng nên gắng chí giúp Thầy lập vị cho các con
luôn thể. Thầy thấy Diêu-Trì-Cung theo xem sóc các con Thầy thêm an dạ.
CƯ, TẮC, hai con đánh giây thép cho Trung hay và kêu mấy em Hiệp-Thên-Đài
cho đủ mặt, ngày 27 An nam Thầy giáng dạy việc, nghe!
Cười!...Thầy không thế ở lâu đặng dạy riêng từ đứa, các con đừng phiền
nghe!
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.
Le 23 Octobre 1934,
Thầy, các con
Tương, đáng lẽ những lời Thầy đã dạy mấy con nơi Hiệp-Thiên-Đài tại Thánh-địa
đủ cho các con dùng đặng chung trí lo với nhau mà chấn chỉnh nền Đạo.
Thầy buồn lòng trông thấy các con rời-rã, cũng tranh đấu, phân-phui, rốt cuộc
thì các con vẫn đều nêu trò chơi, trò cười; không đứa nào tránh khỏi, mà chúng
sanh phải chới với giữa bến khổ sông mê, không người dìu-dắt.
Các con đứa tranh quyền, đứa dục lợi, đứa buôn oán, đứa xu hờn; rồi thì lo
bên mưu thần, bên bày chước khéo mà đánh đổ lẫn nhau làm cho nền Tín-ngưỡng đã
un đúc bấy lâu, nay đã từ từ ngã xiêu và sập đổ nát.
Con ôi! Phải quấy mà làm gì?
Thầy đứng giữa một địa vị của ông Cha đương dòm ngó lũ con cường ngạnh,
xung đột mà dành tiếng vô-vi của trò đời. Quấy cũng là con, phải cũng con. Thầy
đổ luỵ mà khuyên các con một chữ HOÀ, quên cả sự cừu hờn riêng mà lo nhau đến
cùng Thầy, mà rốt lại Thầy cũng đành tuyệt vọng với những tâm phàm trí tục. Chớ
chi trong mấy đứa Thầy đã dạy, có một đứa biết lo Hoà, thì tôn chỉ của Đạo chẳng
ra đến nỗi ấy.
Các con đã tự tung tự tác, Thầy chỉ buồn lòng mà coi Lý-Bạch kêu vào nơi
Thiên-điều. Ngày giờ ấy cũng chẳng xa. Nhưng nếu đứa nào khôn được giữ từ tâm,
bác ái và nối được chữ hoà trước ngày về cùng Thầy thì hoạ may mới còn trông
ngôi cựu vị. Các con chẳng khứng dung chế cho nhau, thì nền Đạo phải còn lắm
chinh nghiêng, chúng sanh còn lắm huyền đảo.
Công trình của con đã khởi xướng, nếu may mà được vẻ vô tư và trong ngoài
thì có lẽ cũng bổ ích cho nền Đạo, nhưng nên nhớ nếu mà sái với Tôn chỉ hiệp nhứt
và tự mình muốn chia rẽ thì luật Thiên Thơ không dung chế được.
Các con mỗi đứa tự mở một con đường thì Thầy vẫn không thế vui trông sự
phân chia, nên hay là hư, phải hay là quấy. Thầy chỉ để cho tâm các con định lấy,
tâm cứng-cỏi, Đạo điều-hoà thì cứ bước tới Thầy; tâm trí bất định, đạo hạnh
không hoàn toàn thì con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẵm đó. Vì sức
các con đã rã-rời thì tài nào níu kéo, đỡ nâng khuyên nhủ nhau được. Con đường
vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức, ngọn đèn thiêng liêng
sẽ chực soi tỏ bước của các con, khác với con đường ấy là con đường của Quỉ
Vương đem vậy.
Nên nhớ mấy lời Thầy, chẳng phải đọc sơ qua mà coi làm chơi, cần chiêm nghiệm
kỹ lưỡng mà hiểu nghe!
Hại thay! Đã nhiều lần các con chẳng hiểu ý . Thầy cũng đau lòng mà thấy
các con đi sái bước, nhưng than ôi! Cơ thử thách chỉ dùng với những đứa tâm
phàm lẫn chất Thánh.
Đoàn kết thì sống chia rẻ
là chết:
Câu thi:
“Rốt cuộc cành khô cùng lá
héo,
“Còn gì tươi tốt để con
coi.
Theo bài thi trên nầy, lúc đầu có một vài Chi phái bông trái sum suê, còn một
vài Chi phái thì còi cọc, nhưng rốt cuộc rồi thì dầu sum suê hay còi cọc đều bị
tàn tạ dần, rồi sẽ mất hẳn. Ðức Chí Tôn như ngầm nói rằng vấn đề qui hiệp là sống
còn, còn không chịu qui hiệp thì dần dần suy tàn rồi mất hẳn.
Người tín đồ Cao Ðài hôm nay phải tự nhận thức rằng, chỉ có con đường duy
nhứt để tự cứu lấy mình, cứu lấy linh hồn mình là tự giác trở về với nguồn cội
Đạo để lập công quả, hoặc là bên Cửu Trùng Đài, hoặc là bên Hiệp-Thiên-Đài. Ðức
Chí Tôn chưa cho phép mở Tịnh Thất và chưa ban cho pháp môn luyện đạo, bởi vì kỳ
thi chung kết sắp mở trong Ðại ân xá của Chí Tôn là môn thi CÔNG QUẢ và chỉ thi
môn nầy mà thôi.
Ðức Chí Tôn có lời dạy:
“Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo.
Vậy đắc đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho các
con nghe, nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi
nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ”.
Cho nên nếu cứ lo luyện đạo mà không lo công quả thì tới kỳ thi chung kết nầy,
e phải đứng ngoài trường thi, chịu thiệt thòi thì mất cơ hội tiến hoá.
Trong kỳ Ðại Hội Nhơn Sanh năm Giáp Dần (1974) tại Tòa Thánh Tây Ninh, vị
Chức sắc đại diện Lại Viện Cửu Trùng Đài báo cáo trước các Nghị viên và Phái
viên nhơn sanh, số Chi phái Cao Ðài bằng lòng qui hiệp về Tòa Thánh Tây Ninh như
sau:
"Tổng số 36 Chi phái Cao Ðài, đã có 10 Chi phái chịu qui nhứt về Tòa
Thánh Tây Ninh như:
1 - Hội Thánh Truyền giáo
Trung Việt.
2 - Phái đoàn Cao Ðài Chiếu Minh.
3 - Hội Thánh Trung Ương Trung Việt (Tam Quan).
4 - Hội Thánh Cao Ðài Thượng Ðế (Chiếu Minh Ðàn).
5 - Phái đoàn Hội Thánh Tiền giang.
6 - Phái đoàn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
7 - Hội Thánh Hậu giang Minh Chơn Lý.
8 - Cao Ðài Cứu Thế Thiện Huyệt Lâm Huyền Châu.
9 - Giáo Hội Cao Ðài Thống nhứt."
Qua bài Thánh giáo sau đây của Ðức Phạm Hộ-Pháp giáng cơ ngày 1-4-Kỷ Dậu
(dl 16-5-1969) in trong Thánh Giáo Sưu Tập của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao
Ðài Giáo Việt-Nam trang 161:
"Công quả khai Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ có thể nói là Bần đạo đã đóng góp
được hai phần ba công quả ấy, nhưng buồn vì nước nhà chủ quyền không được bảo đảm
kể từ thuở Khai Đạo, các đàn anh cũng vì lẽ ấy bị chi phối rất nhiều.
Từ chỗ vị kỷ, vị danh, vị lợi, cũng như tự ái, tự đại, tự tôn, nên đã gây
ra cảnh chia ly phân tán, đã để lại một gánh nặng cho đoàn hướng đạo ở hậu
sanh. Ðó là điều đáng buồn và cũng là kinh nghiệm quí giá cho đàn em trong mai
hậu.
Nếu mình mỗi người biết đặt đạo lý Chí Tôn, quyền pháp và nhân sinh lên
trên hết và tự trọng tự ái vì danh dự của quốc gia dân tộc và Đạo-pháp thì
không có kẻ hở nào để bạo quyền chuyên chế, ngoại nhập khuynh đảo để rẻ chia.
Vết xe trước đã sụp đổ, đoàn xe sau nên tránh. Kể ra đàn anh chịu phần
trách nhiệm rất lớn trong sứ mạng. Chính vì thế mà trong hàng tiền bối, người
nào không làm đúng Thiên ý thì sẽ bị triệu hồi để đảm nhận phần vụ khác. Tuy về
non Tiên, Phật cảnh, nhưng chưa được hưởng ngôi vị của mình, phải còn có nhiệm
vụ đến khi nào mục đích của Chí Tôn Khai Đạo được hoàn thành, các hàng tiền bối
ấy sẽ tùy công đức mà định vị."
Các Tôn-giáo từ xưa đến giờ, hầu như cái cảnh phân chia không tránh khỏi,
phân chia rồi kích bác nhau, hậu quả là đám Môn-đệ cũng noi gương ấy mà có một
sự cách biệt nhau, hiềm nhau gây nên một sự rạn nứt không nhỏ. Đau lòng trước
nhứt là Đức Thượng-Đế.
Những bậc ưu thời mẫn thế để tâm nghiên-cứu nguyên-thủy sự bất hòa do đâu
mà sản xuất?
- Thì đặng thấy hiển nhiên rằng tại lòng người còn thiếu phần đạo-đức.
- Những Tôn-giáo đương thời hoặc bị Luật buộc ràng vào Tôn-chỉ hẹp-hòi hay
là bị triết-lý oai-nghiêm mà làm cho phân chia tâm lý nên không thể dung hòa đặng
mà làm môi giới Đại-Đồng Thiên hạ. Tình cảnh Tôn-giáo là vấn đề trọng yếu của
nhà hiền triết Á Âu buổi nay.
- Ôi! Những hạng trí thức này xem đặng con đường nguy-hiểm của Văn-minh duy
vật dong ruổi thẳng tới chừng nào thì lại còn âu lo khủng khiếp cho tương lai
nhân loại buổi sau kia.
Đời chẳng khác nào như chiếc thuyền tình chịu sóng gió ba đào, linh đinh khổ
hải, những khách giang hồ của Tạo công đi lại sao chẳng phập-phồng rơi châu đổ
ngọc trong cơn khổ não tâm hồn. (16-10-Quí-Dậu 1933)
Trước tình cảnh của nhơn sanh như thế, người có trách nhiệm cũng lo ngại
cho tương lai của nền Đại-Đạo.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Có lần Bần-Đạo nghe lời Đức Lý thì Đại-Từ-Phụ thất vọng, thấy tội nghiệp Đại-Từ-Phụ
quá đỗi. Đức Đại Từ-Phụ tính không thể gì bảo trọng mấy đứa kia được, biết Đức
LÝ nhứt định đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi nền Tôn giáo. Đại-Từ-Phụ biết không
thể gì không biến sanh Chi phái, nếu nảy sanh Chi phái rồi thì không phương cứu
vãng và trị loạn được, thì nền Chánh-giáo của Đức Chí Tôn không có giá trị gi hết”
Ai đã gây ra Phe phái hãy nghe Thầy để lời than:
“Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu, lại để lời
tiên-tri mà dặn trước, nào dè Thánh ngôn các con không đọc, lời Thầy nói cũng
như không mới ra tội-lỗi, các con phạm thượng thế ấy.
Vậy từ đây quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái-Bạch các con chịu lấy…
Cả Môn-đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai, kẻ nào cưu tâm CHIA PHE PHÂN
PHÁI là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à?
Con biết rằng: Thầy hằng dặn cả Môn-đệ, nhứt nhứt sự chi cũng phải đợi lịnh
Thầy” (TNI/57)
Đức Hộ-Pháp cũng đã dạy phân rằng:
“Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương chữ Hòa mới toan thành lập, Chí-Tôn định
thành Hội-Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép Tạo
hóa cá nhân mà gầy nên ảnh tượng:
- Cửu-Trùng-Đài là thi hài ấy là TINH.
- Hiệp-Thiên-Đài là Chơn-thần ấy là KHÍ.
- Bát-quái-Đài là Linh-hồn ấy là THẦN.
Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo cho đặng.
Nếu có một quyền-hành nào tại thế này mà làm cho thân thể Chí-Tôn phải chia
phui manh-mún ra đặng, thì là Đạo Ta là giả Đạo, tất nó phải tiêu diệt trong một
phút ngắn-ngủi chi đây.
Còn như quả là Chí-Tôn vì Thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập
Đạo đặng giải thoát cho chúng sanh thì những mưu chước của Tà quyền ngăn cản bước
Đạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí-Tôn, ắt là không mong bền vững.
Hại thay, cho những kẻ vô phần toan PHÂN PHÁI CHIA PHE làm cho xác Chí-Tôn
phải tan tành rời-rã!
Khổ thay cho những kẻ không duyên CHỐI THÁNH-GIÁO, nghịch chơn truyền làm
cho Chơn thần của Chí-Tôn phải ô-uế đê hèn muốn toan bỏ xác!
Đau-đớn thay cho những kẻ ấy!
Thê-thảm thay cho những kẻ ấy! Dám để tay vào mà tàn hại Chí-Tôn, cái tội-tình
ấy lớn lao bao nã?! Coi lại gương Juda bán Đức Chúa Jésus-Christ còn nhẹ. Vì
Juda ham ba chục ngươn bạc đặng nuôi Môn-đệ của Người mà bán Ngài, còn những kẻ
này đây duy háo danh mà phản Đạo!
Chí-Tôn đã đến thế hạ mình đặng làm Thầy dạy-dỗ chúng ta, hằng trông mong
giờ nào chúng ta biết hoà hiệp nơi lòng bác-ái, từ tâm của Người, là hiệp Một
cùng Người, mới có đủ quyền-hành độ tận chúng sanh qui hồi cựu vị, mà đã sáu
năm chầy rồi, thân thể hỡi còn rời-rã, ngất-ngơ, Chơn-thần hỡi còn dật-dờ mê-muội,
thì thế nào các Đấng Thiêng-liêng hiệp một cùng Đời cho đặng, hầu mong sửa cải
Thiên-thơ, tụ hội các nguyên-nhân đem về trong cửa Đạo?
Vì năm Đạo phân chia cho nên nhơn tâm bất nhất, Chí-Tôn đến đặng hiệp lại một
nhà, ước cho con cái của Người biết Thương-yêu hòa thuận” (Pháp-Chánh-Truyền)
KẾT LUẬN
Thầy giáng Cơ cho thi vào đêm 24 Décembre 1925 lấy tên 12 Môn đệ đầu tiên
làm kỹ niệm:
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI
sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG
thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài
danh.
Trong số 12 chữ lớn là tên 12 Môn đệ đầu tiên của Thầy nhưng vì có trùng
hai tên Sang, nên thực tế là 13. Qua ngày Khai Đạo rằm tháng 10 năm Bính Dần
thì ông Ngô văn Chiêu đã tách ra thì cũng còn lại đủ số 12.
Trong số 12 Môn-đệ đầu tiên thì có ba vị là:
- Ông Cao-Quỳnh-Cư (tuổi Mậu-Tý 1888)
- Ông Cao-Hoài-Sang (tuổi Tân-Sửu 1901)
- Ông Phạm-Công-Tắc (tuổi Canh-Dần 1890)
Tức nhiên có 3 vị đứng đầu 12 chi là Tý, Sửu, Dần.
Như thế thì Số 12 là số đặc-biệt của Thầy, tức là 9+3=12; 9 là cơ vận-chuyển,
3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các
pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ trụ, nên Thầy có nói
số 12 là số riêng của Thầy là vậy.
Số 12 nếu tính theo hàng ngang thì số 1 đứng trước số 2, tức là lý Thái-cực
đứng trước luật Âm Dương thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó. Thế nên
Thầy nói chi chi cũng có luật-định hết thảy, không chi ngoài quyền sở định của
tạo-hóa hết. Nhưng luật công bình có hai phần: một Âm, một Dương biến động, dù
ngay trong luật định cũng có, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh.
Hết vòng biến đổi mới trở lại trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 lại trở lại
trạng-thái Hư-vô, nên người tu đắc nhứt qui cơ là thành Đạo, nghĩa là hiệp cùng
lý Thái-cực để trở lại trạng-thái tĩnh lặng nhiệm-mầu trong lý Hư-vô.
Trong lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến hóa ba ngôi. Mỗi 3
ngôi lại biến thành cửu chuyển.
Ba ngôi ấy biến sanh là Đạo, Pháp và Thế đó (tức là ba ông Cư, Tắc, Sang).
Tức nhiên:
- Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Chưởng quản chi Pháp
- Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư Chưởng quản chi Đạo
- Thượng-Sanh Cao hoài Sang Chưởng quản Chi Thế
Thầy còn cho biết 4 người đã vào tay Chúa quỉ,
Nhưng sau cùng còn lại 6 người làm nên cơ Đạo. Số 6 là do 3+3 tức là lý tam
âm tam dương đó vậy.
Hiện nay trong cửa Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa Thánh Tây-ninh chỉ thấy tên
sáu vị được thường xuyên nhắc đến là:
1 - Trung (Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung)
2 - Sang (Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang)
3 - Hậu (Ngài Bảo-Pháp Nguyễn-Trung-Hậu)
4 - Đức (Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức)
5 - Tắc (Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc)
6 - Cư (Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư)
Ngày 1-1 Đinh-Mão (dl 1-2- 1927)
Thầy giáng cơ có để lời than:
“Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào không, còn nay ra thế
nào chăng?
…Thầy lập Đạo năm rồi ngày này, thì Môn-đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa
đã vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng
nhác mà không hành Đạo. Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền hành Thầy, dầu cho một vị
Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh
linh, nhờ tay có sáu đứa Môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ. Thầy vui mừng,
Thầy khen tặng hết cả bốn muôn Môn-đệ của Thầy ..”
CHUNG
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét