Lời Tựa
(Tăng Bổ Lần Thứ Ba)
Tín ngưỡng Việt Nam phản ánh đậm nét nguyên lý âm dương, từ Trời Đất, Tiên
Rồng cho đến Cha Mẹ. "Đạo thờ Cha mẹ tâm linh dân tộc cần được giữ gìn và
phát huy. Bởi đó chính là tinh thần văn hoá, là kinh nghiệm lịch sữ, là sự độc
đáo của Việt Nam không thể xoá bỏ được" (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số
8/1996).
Song hành với nguyên lý âm dương là khuynh hướng đề
cao nữ tính như
Phật Mẫu, Thánh Mẫu, Mẹ sanh, Mẹ độ…nhất là việc tôn thờ Mẫu Liễu (Ngũ Nương DTC) ở các tỉnh phía Bắc và việc thờ Đức Phật Mẫu ở các tỉnh phía Nam trở thành Đạo Mẫu (Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, Hà Nội 1996). Đạo Cao Đài đề cao Tam giáo, thờ Phật Mẫu đã bắt nguồn từ truyền thống văn hoá nông nghiệp của đất nước ta.
Phật Mẫu, Thánh Mẫu, Mẹ sanh, Mẹ độ…nhất là việc tôn thờ Mẫu Liễu (Ngũ Nương DTC) ở các tỉnh phía Bắc và việc thờ Đức Phật Mẫu ở các tỉnh phía Nam trở thành Đạo Mẫu (Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, Hà Nội 1996). Đạo Cao Đài đề cao Tam giáo, thờ Phật Mẫu đã bắt nguồn từ truyền thống văn hoá nông nghiệp của đất nước ta.
Không phải ngẫu nhiên mà Đức Hộ Pháp chọn tranh Hán
Võ Đế (140-78) rước Đức Phật Mẫu đắp vẽ làm biểu tượng tôn vinh trong ngôi đền
thờ Phật Mẫu, mà bắt nguồn từ sự quy nguyên Tam Giáo. Trong bức tranh có đủ Tam
Giáo : Phật Mẫu (Phật giáo), Đông Phương Sóc (Tiên giáo), Hán Võ Đế (Nho giáo).
"Ông (Hán Võ Đế) đã theo lời dạy khuyên của Đổng Trọng Thư ra lệnh bãi bỏ
các học thuyết khác, lần đầu tiên đưa Nho giáo lên địa vị Quốc giáo" .
(Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, trang 512).
Đạo Cao Đài không những thờ Đức Phật Mẫu trong một
đền riêng mà bên cạnh đó còn " 13 mụ bà" gồm Cửu vị Nữ Phật và bốn vị
: Quảng Sanh Phật, Dưỡng Dục Phật, Chưởng Hậu Phật, Thủ Luân Phật. Đó là hội
các bà mẹ bảo trợ con người, nhằm độ người từ lúc hoài thai, lớn lên, chết, rồi
chuyển kiếp…
Mời đọc giả đọc dần các trang trong sách này sẽ tìm
thấy được những điều đó.
Soạn giả Cẩn Chí
Trần Văn Rạng
Lời Dân
Vào cuối tháng 11 năm 1970, sau khi gởi tặng Đức
Cao Thượng Sanh quyển Đại Đạo Sử Cương, tôi có đến yết kiến Ngài để xin lời chỉ
giáo.
Ngài cho biết sách viết được những nét cơ bản của
nền Đạo, tuy nhiên cần phải biên chép sâu sắc hơn. Nhân tiện, Ngài nói: Từ lâu
Ngài hoài vọng viết một quyển sách cho phái nữ. Khi Đức Lý Giáo Tông, theo sắc
lệnh của Đức Chí Tôn, ban phẩm hàm cho phái nữ ngang hàng cùng phái nam, thì
Hội Thánh chưa soạn một quyển sách chuyên biệt nào để nâng cao trí thức và bồi
bổ con đường tu của phái nữ. Ngài định soạn thảo "Công đức Đức Phật Mẫu và
Cửu Vị Tiên Nương", tuy tài liệu cầu cơ học hỏi buổi đầu đã có ghi chép,
nhưng chưa hệ thống hoá được. Ngài hỏi tôi đảm nhận việc đó được chăng? Tôi hứa
cố gắng làm bổn phận nếu được giao tài liệu và chỉ giáo cặn kẽ hơn.
Ngài hẹn 3 hôm tôi đến Ngài giao tài liệu, đồng
thời Ngài căn dặn phải kê cứu thêm Thánh ngôn, sách sử bên ngoài.
Dưới đây là trang đầu của tài liệu :
- Nhứt Nương tên Hoàng Thiều Hoa, người Bắc phần
VN.
- Nhị Nương tên Cẩm Tú, bà Chúa Chân Lạp.
-Tam Nương tên Kim Tuyến, ở cung Diêu Trì (Thiên
Mụ).
- Tứ Nương tên Lê Ngọc Gấm, ở Nghệ An (Trung phần),
hậu thân là Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
- Ngũ Nương tên Liễu Hạnh, ở Nam Định (Bắc phần) :
Mẫu Liễu.
- Lục Nương tên Jeanne d'Arc, ở Pháp, hậu kiếp tên
Hồ Thị Huệ, người Biên Hoà (Nam phần).
- Thất Nương tên Vương Thị Lễ, người Chợ Lớn.
- Bát Nương tên Hớn Liên Bạch, ở đời Hán bên Tàu,
hậu kiếp tên Hồ Đề ở Bắc phần.
- Cửu Nương là công chúa Ngọc Vạn (con Chúa
Nguyễn), hậu kiếp là Cao Thoại Khiết ở Bạc Liêu.
Thú thật, khi đọc qua căn cơ của cửu vị Tiên Nương,
tôi lấy làm lo không biết mình có làm tròn trách nhiệm không ?
Ngài lại tiếp lời ;"Khi Qua ở Sài Gòn, Qua
nghe khách bàng quan trích điểm về Giáo Lý Đạo Cao Đài nhiều lắm, bởi lẽ người
trong Đạo chưa viết được một quyển sách đúng với Giáo lý chơn truyền; hầu hết các
sách viết trước, do hạn chế về lý luận và nguồn gốc Đạo mà họ theo trước khi
gặp Đạo Tam Kỳ, nên họ chỉ viết cái mà họ biết được.
Người gốc theo Đạo Phật thì cho Đạo Cao Đài là
"Phật giáo Chấn hưng"; người gốc theo Đạo Lão thì cho là "Thiên
Khai Huỳnh Lão".
Thật ra, Đạo Cao Đài, muốn hiểu được bổn nguyên tư
tưởng phải lấy Thánh Ngôn, kinh sách trong Kỳ Ba Phổ độ nầy mà giải thích.
Đạo Cao Đài như một bức khảm xà cừ : nhìn thẳng
thấy màu trắng, nhìn nghiêng bên phải thấy màu xanh phơn phớt, nhìn nghiêng bên
trái thấy màu đỏ tía và nhìn xuống phía dưới thấy màu vàng nhạt.
Các màu vàng (Phật), xanh (Lão), đỏ (Khổng) chỉ là
những cách thể hiện các giai đoạn ban sơ của Đạo. Thật ra Đạo Cao Đài là màu
trắng, phải hiểu Đạo Cao Đài với tinh hoa bổn nguyên triết lý của chính nền Đạo
mới nầy.
Em nghĩ ngày nào đóù, em triển khai được ý Qua
không ?"
Cho đến nay, tôi vẫn còn nghe văng vẳng lời Đức
Ngài dạy, tâm tư thao thức mà vẫn chưa tìm ra câu giải đáp.
Xin các bậc cao minh thức giả nghĩ hộ !
Tôi cố gắng lắm mới viết được quyển sách nhỏ nầy để
giữ lời hứa với Tôn sư.
Tam Tê Anh, Mùa Hội Yến,
Hiền Tài: TRẦN VĂN RẠNG
CHƯƠNG
I
ĐỨC
PHẬT MẪU
TIẾT
1
BÁO
ÂN TỪ
Báo Ân Từ được xây dựng vào đầu năm 1932 với cột gỗ
vách đất và mái ngói. Đến năm 1952, được xây dựng lại kiên cố với kết cấu bền
vững bằng gạch đá và bê tông cốt sắt. Sau ba năm thi công, ngôi đền được khánh
thành vào năm 1955.
Báo Ân Từ tức đền báo ơn tất cả danh nhân liệt sĩ,
liệt thánh nên mới có phù điêu Nhị Thập Tứ Hiếu tạc quanh mặt tiền. Nhất là
những chư chức sắc có công với nền Đạo Cao Đài đều được làm phép xác và thờ nơi
đây.
Vì toàn Đạo vừa xây dựng xong Toà Thánh nên nguồn
vật lực cạn kiệt, do đó Đức Phạm Hộ Pháp mới cho lệnh sửa Báo Ân Từ rộng lớn
hơn để làm đền thờ Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật. Bởi lẽ đó, Báo Ân Từ tạm gọi
là Đền Thờ Phật Mẫu (xem Đền Thờ Phật Mẫu ở chương III).
Ngôi đền nằm trên đại lộ Phạm Hộ Pháp, quay mặt về
hướng Đông, ngược hướng với Toà Thánh, hướng Đông thuộc cung chấn nơi vạn vật
bắt đầu pháp sinh do Đức Mẹ hoá sanh.
Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung là ngày hội lớn kéo dài
trong 3 ngày, không kể những ngày chưng hoa quả hiến Mẹ.
- Ngày 14-8 âm lịch : con cái của Mẹ từ khắp nơi về
bông hình Tiên Phật và chưng quả phẩm.
- Ngày 15-8 : phần hội có dựng cộ Bông Đức Phật Mẫu
và Cửu Vị Nữ Phật, có Long Mã, tứ linh phụ diễn, thật là huyên náo.
Phần lễ Hội Yến Diêu Trì Cung lúc 21 giờ trang
nghiêm do chức sắc Hiệp Thiên Đài chủ lễ để nhớ ơn Đức Mẹ dìu dẫn vào đường đạo
mới. Các con dâng mẹ linh hồn cả thể xác bằng tinh khí thần, bằng những cánh
hoa cúc vàng Mẹ ban lại các con "những quả đào tiên" tượng trưng cho
sự trường sinh bất tử.
- Ngày 16-8 : buổi sáng các con viếng thăm Mẹ sanh
(đẻ) tặng quà và tặngbông cúc trắngbiểu tượng lòng hiếu thảo của các con, buổi
chiều, tại Trai Đường phát quà bánh đã cúng Đức Mẹ cho các em trẻ vì trong Đạo
coi ngày 16-8 âm lịch trăng tròn là ngày Tết Nhi đồng. Những năm đầu khai Đạo,
các học sinh, nhi đồng dâng cộ đèn, lồng đèn có giải thưởng giá trị, trao giải
thưởng công trình chưng bông trái theo hình thú của các nghệ nhân và thi trẻ em
khoẻ đẹp của các bà mẹ trẻ. Ngày nay không còn thấy truyền thống đẹp đẽ đó nữa.
Báo Ân Từ trong ngày lễ cũng như ngày thường là
ngôi đền kiến trúc đẹp đẽ, chỉ đứng sau Toà Thánh. Báo Ân Từ có vẻ đẹp nhẹ
nhàng giản dị mà thanh thoát tạo nên bởi sự phối hợp các khối hình của tường
bao, cột chạm và mái nhà cong, khiến cho khách thập phương có ấn tượng ấm áp
gần gũi.
Toàn bộ ngôi đền cấu trúc giống như một ngôi nhà
dài mà phần chính xây dựng theo kiểu nhà ba nhịp dài 36 mét, rộng 12 mét với 14
gian. Báo Ân Từ xây hành lang rộng 2 mét bao quanh. Gian đầu tiên phía trước,
hành lang được nới rộng tới ba mét tạo thành tiền sảnh thoáng đạt, có bề ngang
19 mét.
Chiều dài ngôi Báo Ân Từ là 61 mét. Kế tiếp gian
đầu là 9 gian nối theo là phần chánh điện đúng số 10 của Chư Phật. Nơi Trần
Thiết thờ Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật.
Bốn gian cuối dùng làm hậu điện có bàn thờ Tam Đa :
Phước, Lộc, Thọ. Nơi đây để đãi tiệc trà sau lễ Phật Mẫu, lễ tang các chức sắc
và lễ cưới của chư tín đồ. Mặt tiền của Báo Ân Từ chỉ là một nhà trệt, với hai
mái bê tông giả ngói ống. Mỗi mái chia thành ba cấp. Gian đầu giáp tiền sảnh và
một phần hành lang phía trước được xây một trệt, một lầu với hai lớp mái bê
tông tạo dáng mái ngói ống. Ở gian giữa thuộc phần lầu còn có một tháp cao ba
tầng, tiết diện tháp hình vuông, thu nhỏ dần về phía trên, mỗi tầng có một lớp
mái giả ngói lợp quanh. Trên cao là bốn mái chụm lại đỡ một hoa sen. Môtip (?)
bông sen được lặp lại trên nóc mái phía sau và trên lan can tầng lầu với những
hình cách điệu rất sinh động.
Thêm vào những kiến thức chính, còn những
"công xon" tạo phù điêu chim phụng, hay hình kỉ hà được vuốt cong ở
các góc. Nhiều bức tranh trang trí trên những mảnh khung tường hành lang hay
phía trước tiền sảnh mô tả các điển tích hiếu nghĩa của người xưa.
Bên trong Báo Ân Từ, trên nhịp giữa có trần hình
vòm cong, các la phong dù, gắn kiếng sao trên nền mây trắng làm ta nhớ câu nói
của Địch Nhơn Kiệt "Nơi mây trắng kia là nhà cha mẹ ta". Các mảnh
trần khác trang trí bằng các hình đắp nổi hoa dây và tứ linh biểu tượng bốn đức
tính của vạn vật.
Báo Ân Từ bên trong phân làm ba gian, gian giữa
rộng hơn hai bên. Từ ngoài vào tới cung thờ có tất cả 8 lồng căn, gọi là Bát
Cảnh Cung, trên hai hàng cột phân lòng căn có treo mặt hình nộm hình quả tim
sơn vàng và cắm cờ vàng hàm ý nghĩa : "Phái vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ
thơ".
Báo Ân Từ có tháp chuông cao 18 mét, nên có thể đặt
toàn thể mặt đứng công trình trong hình hộp vuông mỗi chiều 18 mét (một cộng
tám là chín). Tháp chuông nơi Đền Thánh cao 36 mét (ba cộng sáu là chín). Trong
Đạo Đức Kinh, Đức Lão Tử viết 81 chương (tám cộng một là chín), chín là số của
Lạc Thư; chín là số cửu thiên khai hoá; chín là số của Cửu Vị Nữ Phật, thể hiện
một bí pháp huyền nhiệm .
Tóm lại Báo Ân Từ có lối kiến trúc hài hoà giản dị
gần gũi dân gian. Đền có dáng nét truyền thống dân tộc. Tất cả các mái đều được
cong nhẹ và duyên dáng khác nào các mái chùa cổ kín. Thêm vào đó, các hàng cột
giữa đền tiết diện tròn có rãnh lõm đầu cột trang trí hình hoa lá. Các cột
vuông khác đều được vuốt cong ở góc tạo thành những nét mềm mại uyển chuyển gợi
lên những nỗi niềm nhẹ nhàng thanh thoát ngày về với Mẹ hiền.
TIẾT 2
TƯỜNG THUẬT
ÐẠI LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG
Trong hai tuần lễ trước ngày Đại lễ,
hàng trăm nhân viên công quả thuộc Công viện Hành chánh Phước Thiện đã chung lo
dựng hai dãy nhà rạp và lễ đài nơi sân lễ Báo Ân Từ.
Rạp lễ năm nay cũng được trang trí vô cùng công phu
và tuyệt mỹ như những năm về trước, với đủ màu sắc thanh lịch, dịu mắt, với đạo
kỳ phất phới, với tranh cảnh nổi, với các bức rèm ni-lon tam thanh, nhiều đèn
màu, nhiều lồng đèn nhiều góc toả ánh thanh, xích và huỳnh quang. Hằng mấy trăm
bàn tay tuyệt xảo đã tạo nên cảnh trí huy hoàng của rạp lễ. Các dãy cột chánh
thuộc mặt tiền được bông làm các chim phụng hoàng chầu lễ.
Theo chương trình lễ, năm nay, có cộ hoa bông hình
Đức Phật Mẫu kỵ thanh loan do Công viện Phước Thiện đảm trách. Ban nhà thuyền
ngày đêm lo làm tứ linh (Long, Lân, Qui, Phụng), Ban Tổng Trạo lo dợt lại Ngọc
Kỳ Lân, học sinh Đạo Đức Học Đường chuẩn bị các loại đèn giấy để diễn hành vào
đêm trung thu Hội Yến Diêu Trì Cung v.v…
Ngày rằm tháng 8 Tân Hợi (dl, 03.10.1971)
Trong suốt ngày này, các cơ quan Đạo và 19 phận Đạo
thuộc Châu Thành Thánh Địa cùng các Châu, Tộc Đạo lo chưng bày các mâm quả phẩm
gồm đủ loại bánh mứt hoa quả hương đăng, trên các dãy bàn nơi hai nhà rạp lễ và
bên trong cũng như nơi Hậu điện Báo Ân Từ.
Nơi Chánh điện, bàn ghế, bình hoa quả phẩm cùng các
nghi thức đặc biệt dành cho Đại hội Bàn đào cũng đã được chuẩn bị châu tất với
nhiều màu tuyệt mỹ toả ánh ngọc quang lấp lánh.
Nơi Đền Thánh và Báo Ân Từ không dứt lớp sóng người
vào lễ bái. Tất cả mọi người đều thành kính và lộ vẻ hân hoan tiềm ẩn một sức
sống Đạo cao thâm khó diễn nên lời….
Vào Ngọ thời, Hội Thánh cử hành lễ cúng tiểu đàn
tại Đền Thánh với sự dự lễ cúng đông đảo của chư Chức sắc, Chức việc cùng chư
tín hữu.
Ngài Hiến pháp Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài
dâng Sớ cầu nguyện.
Lễ cúng kết thúc vào lúc 13 giờ 40' cùng ngày.
Cũng trong Ngọ thời nầy, Hội Thánh cử hành lễ cúng
Đại đàn tại Điện thờ Đức Phật Mẫu với sự dự cúng đông đảo của chư nam nữ đồng
đạo.
Ngài Thời Quân Hiến Đạo H.T.Đ dâng Sớ cầu nguyện.
Lễ cúng Đại đàn kết thúc vào lúc 13 giờ 50' cùng
ngày.
17 giờ Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước
Thiện đến sân lễ Báo Ân Từ, đi xem qua các quả phẩm hiến lễ lên Đức Mẹ đã chưng
bày tuyệt xảo và tràn đầy trên khoảng 50 dãy bàn, mỗi dãy dài 3 thước, rộng 1
mét 2.
Sau 15 phút xem sơ qua các quả phẩm, Ngài Thời Quân
Bảo Đạo H.T.Đ được Ban Tổ Chức cung thỉnh lên giảng dài gần dưới chân cột phướn
đối diện trước Báo Ân Từ để thuyết đạo. Ngài đã thuyết về ý nghĩa và Bí pháp
Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung (xin xem nguyên văn trong Thông tin số 38…)
17 giờ 30' Bà Đạo Nhơn Tạ Thị Thế, quyền Thượng
Thống Lại Viện Phước Thiện thay mặt Bà Chơn Nhơn Phó Chưởng Quản Phước Thiện Nữ
phái được Ban Tổ chức cung thỉnh thuyết Đạo (thông tin số 38…)
Buổi thuyết Đạo kết thúc vào lúc 17 giờ 40"
Số tín hữu dự nghe buổi thuyết Đạo kể trên đến hàng
vạn người….
Bấy giờ (sau khi thuyết đạo) trời đổ một cơn mưa
nặng hạt, kéo dài khoảng 15 phút. Nước đọng trên góc đường về mặt phía Đông Bắc
Báo Ân Từ và dọc hai bên vệ đường Phạm Hộ Pháp đã được hàng mấy trăm ngàn gót
chân chư đồng đạo dự lễ dẫm qua dẫm lại, thành bùn nhão….Hàng trăm ngàn tà áo
trắng tinh đã phải kêu khổ vì dính phải những vết bùn đỏ lỗ chổ, khó coi và vô
cùng khó tẩy sạch nầy !
19 giờ trên Đại lộ Phạm Hộ Pháp dài khoảng 1.000
mét, rộng hơn 20 mét, từ trước cửa Đền Thánh đến trước sân lễ Báo Ân Từ, một
biển người dày đặc lớp sóng người mỗi lúc một kéo về tập nập hơn, dày đặc hơn,
để rồi sau cùng chen chân không lọt !
Nơi góc đường phía Tây Báo Ân Từ, tức là nơi hông
phía bắc rạp lễ số chư Đồng đạo chen chân nhau như nêm, đến đổi, ai có việc cần
kíp, nếu phải đi xuyên qua ngã nầy, có lẽ phải mất khoảng 10 phút mới đi được
một thước tây….
Có thể nói, năm nay số chư đồng đạo đổ về dự lễ Hội
Yến Diêu Trì Cung, đông đảo gấp 10 lần năm vừa qua.
Một điễm khác cũng nên ghi thêm, một số đông đảo
các cô các bà đã suốt ngày lẫn đêm đến cầu nguyện xin Phật Mẫu ban cho quẻ xăm.
Hằng ngàn du khách từ bốn phương cũng đã đến bái lễ và xin Phật Mẫu ban cho các
quẻ xăm…..
19 giờ 35' Ban Trật Tự và hàng trăm nhân viên Cơ
Thánh vệ đã vô cùng vất vả để giữ gìn trật tự cho một khoảng sân lễ nơi Báo Ân
Từ được trống để cho Long Mã có chỗ lượn bay theo nhịp trống. Lớp sóng người
vào lúc bấy giờ như nước vỡ bờ tràn đến sân lễ Báo Ân Từ, khiến cho Ban Trật Tự
và nhơn viên Thánh vệ phải vô cùng vất vả.
Người ta thừa biết rằng, thuở Đức Hộ Pháp còn tại
Toà Thánh, Đức Ngài đã cho tổ chức đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung vô cùng trọng
thể, với nhiều cộ hoa do các Phận, các cơ quan Đạo thực hiện. Nhưng từ khi Đức
Ngài phải tự lưu đày nơi Vương quốc Cam Bốt vì thời thế…và đã phải gởi mảnh
Thánh hài nơi tha bang cho đến khi nào quê mẹ Việt Nam được thật sự hoà bình
thì toàn Đạo mới được cung nghinh Liên đài Đức Ngài về Toà Thánh ….
Tấm lòng khao khát và hoài vọng của nhơn sanh suốt
15 năm dài đăng đẳng, khao khát và hoài mong sức sống cao độ Thánh khiết, đại
trí dũng của đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung được phục hồi như những năm Tôn sư Hộ
Pháp còn ở tại Toà Thánh đã thể hiện trước mắt nhơn sanh….
Cho nên năm nay dù thời cuộc sôi sục bất ổn….nhưng
nhơn sanh nghe nói chương trình đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung được Ngài Hiến
Pháp quyền Chưởng Quản H.T.Đ cho cử hành khá long trọng, có cộ Tiên, có tứ
linh…..Nhơn sanh đổ về dự lễ đông đảo gấp 10 lần hơn năm vừa qua…
Đoàn Long Mã, cộ hoa, lồng đèn đuốc lửa do khoảng
bốn ngàn học sinh Đạo Đức Học Đường, Trung học Lê Văn Trung, Đại Đạo Thanh Niên
Hội và Hướng Đạo đoàn Đại Đạo cầm tay đã được sắp hàng dài hàng cây số, từ ngã
tư đại lộ Phạm Hộ Pháp và Oai Linh Tiên đến cửa trường Đạo Đức Học Đường…
19 giờ 45' Đoàn diễn hành bắt đầu chuyển mình dưới
những hạt mưa lấm tấm như sao trời rải nhẹ xuống trần ai.
Năm phút sau đó, cờ Đạo, bảng Đạo và Long Mã đến
sân lễ Báo Ân Từ. Long Mã uy nghi lượn múa và bái lễ trước đền thờ Đức Phật
Mẫu, vũ lộng những đường múa thật cao, thật đẹp nhưng nhẹ nhàng bay theo nhịp
trống Long Mã giục thúc, nhịp trống Tần nhơn dòn dã ….
Giữa lúc nầy, hàng vạn ánh đuốc của đồng bào sơn
cước mặt rằn ri, vền vện quấn khố, ở trần, lưng giắt đầy lá rừng từ phía sau
Hậu điện chạy cặp theo hông phía Bắc Báo Ân Từ ra đại lộ Phạm Hộ Pháp để tháp
tùng theo đoàn người diễn hành. Đoàn người sơn cước này do Hướng Đạo đoàn và
Đại Đạo Thanh Niên Hội cải trang thành, họ vừa chạy, vừa reo hò những âm thanh
miền sơn cước. Trông đến đoàn người ai cũng tức cười và cảm thấy một nguồn vui
mới mẽ khác thường dâng dậy ngập cả tâm hồn…
Đồng thời trong khoảng thời gian nầy, Vân xa (cộ
hoa) Đức Phật Mẫu kỵ Thanh loan có chín vị Nữ Phật phò tá cùng bốn vị Tiên
nương hầu cận đã đến trước sân lễ và dừng lại. Aùnh hào quang phía sau đầu Đức
Phật Mẫu quay tít và phát ra muôn ngàn ánh điện chớp nhoáng giữa hư không.
Ai nhìn thấy ánh hào quang nầy cũng sững sờ. Có lẽ,
mọi người đều chung một cảm nghĩ bửu tượng Đức Phật Mẹ linh động, thiêng
liêng….
Chín vị Nữ Phật, mỗi vị cầm một bửu pháp và tọa vị
theo thứ tự. Ngoài ra, bốn vị Tiên nữ hầu cận Đức Phật Mẹ cũng hầu quạt y như
các hình ảnh mà chúng ta thờ tại Điện thờ Đức Phật Mẫu. Quanh trên cộ hoa nầy
nhiều tràng pháo bông đã được đốt cháy, muôn ngàn giọt lửa sáng rực rơi rơi
liên tục xuống mặt đất…
Bấy giờ rồng nhang dài 36 thước, đường kính khoảng
1 thước 2, vảy vàng hực, từ ngoài đại lộ Phạm Hộ Pháp cuộn mình rồi bay là đà
vào sân Báo Ân Từ, uốn khúc, vẫy đuôi, trườn mình, đầu ngất cao, há miệng phun
lửa lên cao ngất trời, muôn ngàn ánh sáng trên khắp thân mình rồng vàng nhấp
nhoáng, lập loè…..Hai phút sau, một con Ngọc Kỳ Lân cũng bay đến phun lửa đỏ
trời. Bên dưới linh vật là hàng trăm anh em nhơn viên nhà thuyền và Ban Tổng
Trạo vừa lượn múa theo rồng và Ngọc Kỳ Lân, vừa hô vang những âm thanh đặc biệt
dành cho việc múa rồng….Nhịp trống vang rền, bước chân rầm rập đã làm cho biển
người đứng xung quanh say mê theo dõi và hoan hô vang dậy…
TIẾT 3
ĐỨC PHẬT MẪU
Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên
Thiên thiên cửu phẩm đắc cao huyền
Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ
Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.
THÍCH NGHĨA :
Quán thủ từ trên xuống
: Cửu Thiên Huyền Nữ.
Từ đời vua Hiên Viên
đến nay, chín lần thọ sắc Trời phổ độ chúng sanh.
Trên cõi trời, Bà trên
Cửu phẩm Thần Tiên và được nắm mầu nhiệm sâu kín.
Huyền Nữ nơi Hư Linh
dùng quyền thể cai quản từ Thần Nữ đến Tiên Nữ.
Người phái Nữ nào tốt phước
có thiện căn cũng lên ngôi Cửu Trùng Thiên khi qui liễu.
GIẢI
NGHĨA :
Hiên Viên tức vua Hoàng đế nước Trung Hoa thời thái
cổ, họ Công tôn, sanh ở Gò Hiên Viên, dựng nước Hữu Hùng. Nhờ diệt được Xi Vưu,
chư hầu mới tôn Hiên Viên làm vua thế cho họ Thần Nông.
Ý nói, từ thời có loài người xuất hiện ở thế gian
thì Đức Phật Mẫu đắc lịnh Đức Chí Tôn xuống trần dạy Đạo cho chúng sanh. Trong
Kỳ ba Tam chuyển nầy, Cung Tạo Hoá Thiên cũng được Đức Chí Tôn phái Cửu Vị Tiên
Nương giáng trần khai Đạo Cao Đài.
Trên cõi Thượng giới, Đức Phật Mẫu nắm Bí pháp âm
quang cai quản các Thần Tiên Nữ, phổ độ dìu dắt phái Nữ theo đường đạo đức để
đạt được ngôi vị Cửu phẩm Thần Tiên (tức các Chức sắc Cửu Trùng Đài) ngang hàng
như phái Nam. Đây là đặc điểm của nền Tân tôn giáo.
SỰ
TÍCH LỄ HỘI YẾN :
Công đức của Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương thật
vô cùng to lớn. Nếu không có sự phổ độ của Diêu Trì Cung thì cũng không có Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Thất Nương đã dẫn dắt ba vị Thiên sứ từ ngâm thơ
vịnh phú đến với Đấng A Ă Â (tức Đức Cao Đài) chỉ vẽ Hội Yến Diêu Trì Cung. Từ
ngày lễ đầu tiên 15-8 năm Aát Sửu tại nhà Đức Cao Thượng Phẩm, nay ngày lễ ấy
thành truyền thống, ngày Hội lớn vui vẻ của toàn Đạo.
Trước Đền thờ Phật Mẫu được che rạp thêm, chỗ Bá
Huê Viên xây đài Cửu Long rất thẩm mỹ. Rạp trước Đêàn là nơi triển lãm trưng
bày các mỹ phẩm, thành tích một năm lao động cần cù của phái Nữ. Từ Long, Lân,
Qui, Phụng, quả bánh với nhiều màu sắc, hoa quả với nhiều chất lượng cao như
hoa lớn, trái to….Các bức thêu, bức khảm lấp lánh với muôn màu kim tuyến.
Ngoài ra còn thi trẻ em đẹp, thi gia đình đông con,
nuôi và dạy con ngoan. Tất cả đều được giải thưởng và được cấp bằng khen của
Hội Thánh.
Tối đến, dâng cộ bông của 18 phận Đạo. Dẫn đầu là
cộ bông của Hội Thánh Phước Thiện bông hình Phật Mẫu, còn Cửu vị Tiên Nương thì
do đồng nhi hoá trang mặc áo màu xanh da trời, cô nào cô nấy sặc sỡ như Tiên nữ
giáng trần. Kế đến, cộ đèn của học sinh các trường trong Đạo, đủ loại màu sắc :
từ mặt trăng, ngọc thố, long lân, đèn sao…..mỗi đèn mỗi vẽ riêng vì do chính
học sinh làm hoặc do cha mẹ khéo tay làm giúp. Các cộ bông và lồng đèn đều có
giải thưởng riêng.
Nơi Đại Đồng Xã, không lập Văn Minh Điện ra thai đố
như ngày Lễ Vía Đức Chí Tôn mà thay bằng lửa trại của thanh niên Bá nghệ đoàn,
có nhiều tiết mục vui nhộn.
Ngày 15-8 Lễ Đức Mẹ, khắp miền Trung, miền Nam, bạn
đạo nô nức hướng về Toà Thánh, di chuyển bằng đủ mọi phương tiện : thuyền, ghe,
xe gắn máy, xe du lịch, thông dụng nhất là xe đò. Đa số đều tá túc nơi các nhà
thân nhân, một số muốn xem cho đầy đủ lễ, họ neo xe ở rừng Thiên Nhiên, đợi lễ
nửa đêm, tức Lễ Hội Yến.
Mới 20 giờ, mọi nẻo đường dẫn tới Đền thờ Phật Mẫu
chật ních cả rừng người. Người người về với Mẹ đều mặc áo quần trắng, không
mang phẩm phục. Đây là ngày Hội lớn của Đại gia đình Đạo : Anh lớn, em nhỏ, chị
cả, em hiền. Nét mặt mọi người đều lộ vẻ hân hoan chào hỏi nhau về tiểu gia
đình, về công ăn việc làm trong năm.
Đúng 21 giờ, trước Bửu Điện, lễ Hội Yến bắt đầu.
Đức Hộ Pháp giải thích (15-8-Kỷ Sửu) như sau :
"Buổi ban sơ, Đấng A Ă Â ra lịnh biểu làm một
cái tiệc. Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Mười Đấng vô hình : Đức Phật Mẫu
và Cửu Vị Tiên Nương. Phần hữu hình có 3 người : Thượng Sanh, Thượng Phẩm và Hộ
Pháp. Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu vâng lệnh tạo thành một tiệc : trên bàn
thờ Phật Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế như có người ngồi. Chén, đũa, muỗng, dĩa,
bất kỳ cái gì cũng giống như hữu hình vậy, duy có 3 người xác thịt là Thượng
Sanh, Thượng Phẩm và Hộ Pháp".
" Cổ pháp định cho các chơn hồn về nơi Diêu
Trì Cung hưởng được Hội Yến Bàn Đào,tức nhiên là hưởng Hội Yến Diêu Trì Cung,
ăn được quả đào Tiên, uống được Tiên tửu, mới nhập vô cảnh thiêng liêng hằng
sống". Lễ này đặc biệt chỉ có tại Toà Thánh do H.T.Đ tổ chức.
Như vậy, Hội Yến Diêu Trì là ngày Hội lớn để con
cái của Đức Chí Tôn về báo hiếu với Đức Mẹ về công sanh thành dưỡng dục và phổ
độ vào đường Đạo. Thứ đến, Hội Yến Diêu Trì Cung tức Hội Yến Bàn Đào tại thế,
ai dự hưởng được món ăn hoa quả như ăn được quả đào Tiên mà trường sanh bất tử,
sau khi thoát tục mới về cõi Thiêng liêng hằng sống dược.
SỰ
TÍCH ĐỨC PHẬT MẪU :
Đức Phật Mẫu còn gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ, Thiên
Hậu, Tây Vương Mẫu theo thần thoại Trung Hoa, Thiên Mẫu, Cửu Trùng Thánh Mẫu
hay Mẹ Sanh theo tín ngưỡng dân gian. Nay Đạo Cao Đài gọi là Đức Diêu Trì Phật
Mẫu hay Kim Mẫu (gọi tắt của chữ Kim Bàn Phật Mẫu).
Như thế, chỉ có từ ngữ Đức Mẹ mà vừa là Thánh, là
Tiên, là Phật.
Quyền lực của Đức Phật Mẫu rất to lớn, Đức Phạm Hộ
Pháp đã thuyết đạo trên Cửu Long Đài 16 giờ ngày 15-8-Đinh Hợi (1947) có câu :
" Bần Đạo tưởng cả thảy toàn đạo nên biết quyền hành ấy, Bần Đạo giải
nghĩa bài kinh Đức Phật Mẫu mà ta thường đọc hằng ngày đó…( xem trang 145).
"Phật Mẫu là chủ Âm quang, Chí Tôn là chủ
Dương quang, Âm Dương tương hiệp, Đạo Cao Đài nương theo năng lực của hai khối
Âm Dương đó mà phát triển".
Như thế, quyền lực của Đức Phật Mẫu đồng đẳng với
Đức Chí Tôn. Đó là quan điểm mới mẽ của nền Tân tôn giáo. Còn theo Kinh Phật
Mẫu là Mẹ sanh của toàn cả nhơn loại, chưởng quản Cung Tạo Hoá, Ngài sanh ra
con, rồi Ngài dẫn dắt về cõi Thiêng liêng hằng sống. Trên cõi hư linh, Phật Mẫu
là Đức Mẹ tinh thần của cả Thần Thánh Tiên Phật.
Nơi Đức Phật Mẫu ngự là Cung Tạo Hoá Thiên Diêu Trì
Cung, Tây Hoa Cung ( Hoàng Xuân Hãn, Bích Câu Kỳ Ngộ, Đại Học Huế 1964) hay ở
Côn Lôn ( Hoàng Trọng Miên, VN văn học toàn thư, Quốc hoa 1959) và theo Văn
chầu chỉ Thiên Hậu có nhiều cung, lắm Điện, ở mỗi nơi Người mặc một sắc áo
riêng ( Nguyễn Đăng Thục, Tín ngưỡng dân gian, Sàigon 1964).
Đức Phật mẫu cho Nhị Nương coi vườn Đào, " Cứ
ba nghìn năm trái chín một lần, ăn vào thì được trường sinh bất tử, thường dùng
để bày tiệc đãi các vị Thần Tiên" ( Hoàng Trọng Miên, VN văn học toàn thư,
Quốc hoa 1959)
Tóm lại, theo Kinh Phật Mẫu và theo tín ngưỡng dân
gian. Đức Phật Mẫu là biểu tượng cao cả phổ quát (trong ý niệm vừa là Mẹ, là
Thánh, là Tiên, là Phật) của nguồn sống (Vườn Đào), sức cần lao ( giữ Vườn Ngạn
Uyển) và nguồn vui ( đãi yến, sum họp gia đình). Còn việc thay cung đổi cáo (?)
là do vận hành theo thời gian, do thời tiết, do trình độ tiến hoá của con người
nhằm để phổ độ đúng với câu : "Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên".
Từ vua Hiên Viên Hoàng Đế, Đức Phật Mẫu đã chín lần
thay hình đổi dạng giáng trần để phổ độ con cái của Ngài.
Ta có thể kể như dưới đây :
1 . Đời vua Hiên Viên Hoàng Đế giáng trần phổ độ con người Trung Hoa, truyền
sách lục nhâm độn giáp.
2 . Đức mẹ ISIS ở đền Memphis nước Ai Cập, tay cầm Thiên thơ hoá sanh vạn
vật.
3 . Thiên Hậu Héra (Junon) nghiêm trang ngự trên ngai rực rỡ bên phải Thiên
Đế Zeus để trị vì Thiên đình ở Hy Lạp.
4 . Đức mẹ Lémêter ở Hy Lạp là Thánh Mẫu của vũ trụ.
5 . Mayâ, Mẹ sanh của Thích Ca (Sakya-Mouni) tại
kinh thành Ca Tỳ La Vệ được 7 ngày thì bà qui Tiên ( 536 trước T.L)
6 . Đức Mẹ Devi Bhagava (hay Jagadambâ) ở Aán Độ, hiện thân của tình mẫu tử,
chan chứa lòng từ bi bác ái, luôn luôn chăm sóc chúng sanh và vạn loại.
7 . Thánh Mẫu Maria sanh Chúa Hài đồng ở hang BêLem thuộc xứ Jérusalem (Do
Thái ).
8 . Đức Phật Mẫu giáng hạ ban cho vua Hán Võ Đế quả Đào Tiên và độ vua tu
hành ( Sự tích này được Đạo Cao Đài tạc tượng phụng thờ).
9 . Kỳ Ba Phổ Độ này, Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương giáng trần khai mở
Đạo Cao Đài.
Khi tuần du trong Càn khôn Thế giới để thăm con
cái, Đức Phật Mẫu ngự trên lưng chim thanh loan. Chim Loan là một loài linh
điểu, khi nào thái bình thịnh trị mới xuất hiện.
Theo nhà điểu học Nhật Bản Hachisuka đã viết về hai
thứ chim mà Trung Hoa và Nhật Bản gọi là Phượng và Loan như sau :
"Vì sự tương tự như nhau, người ta thường lầm
hai thứ chim phượng loan". Thật sự, phượng là giống chim thanh cao, ưa
thích âm nhạc, tượng trưng cho điềm lành, giống chim nầy chỉ xuất hiện để báo
hiệu Thánh nhân ra đời, nên "phụng gáy Kỳ Sơn" thì Văn Vương xuất
hiện. Loan cũng là giống chim ngũ sắc, cũng biểu tượng cho điềm lành, nhưng sắc
xanh nhiều hơn, còn chim phụng cũng có lông ngũ sắc như sắc đỏ nhiều hơn. (Theo
Đại Đạo Tầm Nguyên, TN 1970)
Tóm lại, sự hiện hữu Đức Phật Mẫu trong tâm linh
nhơn loại như người mẹ hiền, nhân hậu, rộng lượng và đảm đang. Đức Mẹ là biểu
tượng cho Nguồn sống (Vườn Đào là sự sống trường tồn), Cần lao ( săn sóc Vườn
Đào, Vườn Ngạn Uyển, hoa héo sức khoẻ một người tiêu tan), và Nguồn vui ( ngày
lễ Mẹ được đãi yến tiệc, được sum họp anh em).
Đạo Cao Đài phát sinh dựa trên hai nền tảng :
1 . Khoa học tâm linh như Thần Linh học, Thông
Thiên học, nhất là phong trào xây bàn (La table tournante) ở Châu Aâu vào đầu
thế kỷ XX.
2 . Xã hội tính Việt Nam chung đúc qua bốn ngàn năm văn hiến từ Hùng Vương
đến Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn. Đó là văn hoá của Phật Khổng Lão, sau cùng là
Thiên Chúa giáo (Nam phong thử nhựt biến nhơn phong).
Căn cứ vào đó, Đạo Cao Đài đã làm sáng ngôi Âm Phật
Mẫu theo chiều hướng tập hợp và sáng tạo từ tín ngưỡng đại chúng; để cụ thể hoá
được ý niệm Âm Dương tương hiệp hoá sanh vạn vật.
Vì Đạo Cao Đài là tôn giáo nhập thế nên tư tưởng
triết lý Đạo phải chịu thử thách của cuộc đời. Nếu tư tưởng không dung hợp được
cuộc sống thì tư tưởng ấy không có giá trị thực tiễn, không phải là tư tưởng
nhập thế. Tuy vật chất không là thước đo được giá trị tư tưởng, nhưng nếu tư
tưởng không dung hợp được cuộc sống thì đó chỉ là hư tưởng.
THI VĂN DẠY ÐẠO
1 . Bà Thiên Hậu ( cho chung )
Trước
có căn duyên ở Ngọc cung,
Cầu
con nên phải đến phân cùng.
Thiên
cơ mạc lộ chờ đôi lúc
Nương
cậy về sau khỏi não nồng
(21-12-1925)
2 . Bà
Thiên Hậu (cho ông Cao Quỳnh Cư)
Hỏi
số từ thân sẽ thế nào ?
Tám
mươi gần mãn số Thiên Tào.
Cháu
con sum hội yên thân Lão,
Sung
túc dài dòng dõi họ Cao.
(22-12-1925)
3 . Diêu Trì Nương Nương (cho ông Cao Hoài Sang)
Bước
đời chìm nổi bấy nhiêu niên,
Tâm
chí ghe phen dập lửa phiền.
Âm
lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui
buồn chưa vẹn buổi hàn huyên.
Lòng
trần nung nấu trăm mùi khổ,
Biển
ái đầy vơi một chiếc thuyền.
Nín
nẩm chờ ngày tiền quả sạch,
Trau
dồi đạo hạnh hưởng ân thiên.
(03-07-1927)
4 . Hỡi con
Vú
Mẹ chưa lìa đám trẻ con,
Độ
sanh chưa rõ phận vuông tròn.
Quyền cao Ngự mã là vinh bấy
Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ
còn.
Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo
Vẻ tươi bợn thế nét đò đon.
Thà xưa ví bẳng nay gìn vậy,
Lòng mẹ ngại ngùng con hỡi con !
(12-2-1933)
5 . Diêu trì Kim Mẫu
"Mẹ vui được thấy các con biết lo cho chúng sanh tức là lo cho mình
vậy…..phải hiểu cho rõ, nếu chúng sanh chưa ai đắc đạo thì ta phải cầu nguyện cho người đắc đạo trước ta.
Nếu mình cứ mong cho cao phẩm giá, tức là trái với
Thiên ý, mình phải hằng trau dồi tánh đức, lo chung cho thiên hạ ấy là phương
pháp tu tắt đó…
Đạo chia ra 3 chi : Thế, Pháp, Đạo. Mình tu cho
đúng theo luật, hành theo pháp thì chúng sanh nơi thế ca tụng công đức mình, ấy
là mình đắc thế. Hễ đắc thế thì phải tầm pháp đặng (cứu chửa) dạy bảo theo
pháp. Nếu mình hành pháp hiển linh, chúng sanh ứng mộ thì mình đắc pháp; nếu
đắc pháp thì phải tầm đạo là vô vi….; nếu đắc đạo thì nhập cõi Niết Bàn.
Mẹ ban ơn các con Nam
Nữ"
Thu
cúc hứng sương khách nếm mùi,
Chín
cô cùng mẹ đến chung vui.
Thương
nhau tầm kiếm chừng nào gặp,
Công
đức vẹn toàn sẽ hiệp ngôi.
(15-8-Nhâm Ngọ,
2-9-1942)
6 . Dạy lập thảo đường
Thảo
đường phước địa ngộ tùng hoa,
Lục
ức dư niên vũ trụ hoà.
Cộng
hưởng trần gian an lập nghiệp,
Thế
đăng đồng đạo thịnh âu ca.(1)
(Khổ Hiền Trang,
Kỷ Tỵ 1928)
(1) Có nơi viết
là: Thế đăng Bồng Đảo thịnh âu ca.
7 . Thơ Vịnh
Khảm
thuỷ tinh trên Trời nhấp nhoá,
Tượng
tầng Trời Tạo Hoá Cửu Thiên.
Tả
hữu thờ các tiên hiền,
Xả
thân vì đạo lưu truyền tuổi tên.
Bốn
Ngọc Nữ sau hầu Đức Mẹ,
Cảnh
tôn thờ rạng vẻ uy linh.
Dưới
hình Thượng Phẩm cung nghinh,
Với
Đông Phương Sóc, niềm tin Hớn đài.
Tiếp
đào Tiên, đôi tay dâng thẳng,
Tích
xưa còn ghi hẳn nơi đây.
Hớn
Võ Đế trước thế nầy,
Thượng
Phẩm nay thỉnh đủ đầy ân quang.
H.P
8 . Hựu
Diêu
Trì Kim Mẫu huệ an ban,
Hiện
rõ nơi đây cõi Niết Bàn.
Cửu
Vị điều hành cơ tiến hoá,
Bát
hồn nhuần đượm phước sanh quang.
Lọc
lừa Thánh chất, Tam Kỳ đó,
Đưa
rước Tiên căn, Bát Nhã thoàn.
Cửu
nhị nguyên nhân còn tại thế,
Mừng thay Đức Mẹ ngự trần gian.
H.P
9 . Độ ai ?
"Thiếp vì cảm tình
xưa
mà phải chính mình đến cùng Cửu Nương giúp cho hiểu mọi
điều.
Diêu Trì Cung đã thượng sớ lên Chí Tôn, Bảo Đạo
Chơn Quân kiện nơi Ngọc Hư Cung. Thiếp còn nhớ khi đến dìu dắt chư đạo hữu vào
đường đạo, phải mở Đ.Đ.T.K.P.Đ thì thiếp đã nói vì tình riêng của mấy đấng Chơn
quân đến lo cứu độ chớ không phận sự chi trong lúc nầy và cũng bởi lịnh Chí Tôn
sai khiến, chắc rằng nếu không phải thiếp mở Đạo thì không phương hành đạo cho
đặng.
Khi Thiếp mở Đạo thì độ ai ? Có phải là cả Chức sắc
Hiệp Thiên Đài, các chơn quân thiệt tình của Thiếp là ai chăng ?"
Tái
cầu.
"Cười …..ôi ! cũng bởi nơi Thiếp mà chư hiền
hữu phải chịu hành hà phàm xác, khổ não muôn phần.
Chí Tôn có hứa khi ấy với Thiếp rằng : Thế nào cũng
nâng đỡ chư hiền hữu mà chẳng cho ai ỷ lộng quyền mà lấn hiếp. Thiếp mới đến
khai Đạo cho chúng sanh đặng phụ mẫu song toàn. Nào dè, vì lòng đại từ đại bi
quá thương nhơn loại, đành để chư hiền hữu chịu hành hà đến đổi Thiếp đã dâng
sớ cầu xin Chí Tôn lượng xét, còn Bảo Đạo kiện cùng Ngọc Hư Cung những kẻ vô
đạo của Cửu Trùng Đài.
Thiếp đã thấy chán chường, Lý Thái Bạch muốn lo hoà
đặng Đạo cho thành, nên đã nhìn nhận tội lỗi của nhiều người, nhưng vì công dầy
nên không đành để Thiên Điều định án, buộc giải nạp những kẻ ấy ra Toà Tam
Giáo. Lý Thái Bạch đành nhận quyền hành của Hiệp Thiên Đài từ đây, không ai
chối cãi nữa cho đặng.
(TXHC, 20-1-1929)
CHƯƠNG
II
CỬU
VỊ TIÊN NƯƠNG
Nếu quan niệm rằng Phật Mẫu là tín ngưỡng sẵn có
trong dân gian được Đạo Cao Đài phát triển thành một sắc thái đặc thù thì Cửu
Vị Tiên Nương hoàn toàn chưa hề có trong lịch sử các tôn giáo. Đây là nét độc
đáo, làm cho Đạo Cao Đài có bản sắc riêng. Sự hiện diện của Chín Cô (gọi theo
bài Tán tụng công đức Diêu Trì Cung) xây dựng cho Đạo Cao Đài những tư tưởng
giải thích được :
1 . Chín từng Trời ( theo Kinh Niệm Hương)
2 . Chủ trương Nam Nữ bình đẳng
3 . Con đường cứu rỗi (độ) của Đạo Cao Đài
4 . Hội Kim Bàn hay Hội các bà mẹ bảo trợ con người (không phải bảo trợ thiếu
nhi)
Phát biểu những điều trên là dựa theo Kinh Phật
Mẫu, các bài Kinh Cửu, các bài Thài, có thể bổ sung thêm Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,
Kinh Di Lặc. Thiết nghĩ, người nào muốn hiểu Đạo Cao Đài theo bổn nguyên của nó
cũng phải dựa theo những Thánh Ngôn, những kinh giảng do các Đấng giáng cho
trong kỳ ba phổ độ nầy.
1 . CHÍN TỪNG TRỜI :
Theo Kinh Lễ, trong các bài Kinh Cửu thì Chín Từng
Trời từ dưới lên trên là ( xem hình)
- Thanh Thiên
- Huỳnh Thiên
- Xích Thiên
- Kim Thiên
- Hạo Nhiên Thiên
- Phi Tưởng Thiên
- Tạo Hoá Thiên
- Hư Vô Thiên
- Hỗn Ngươn Thiên
2 . CHỦ TRƯƠNG NAM NỮ BÌNH
QUYỀN :
Đạo Cao Đài thành lập năm 1925 trong một nước thuộc
địa, nửa phong kiến, mà chủ trương Nam Nữ bình đẳng là đi trước thời cuộc và xã
hội, tránh sao chánh quyền bảo hộ thực dân Pháp đã cho rằng Đạo Cao Đài có màu
sắc chính trị ( Le Caodaisme (quyển VII), Hà nội 1934) .
Đức Chí Tôn giáng dạy "Hễ bao nhiêu Nam tức
cũng bấy nhiêu Nữ, Nam Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến phong cho Nữ phái buổi lập
Pháp Chánh Truyền" ( Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Paris Gasnier 1952).
Đức Lý Giáo Tông cũng dạy : "Nam Nữ vốn đồng
quyền ….Giáo hữu Nam phái cũng chịu dưới quyền Giáo sư Nữ phái (Tân Luật, Pháp
Chánh Truyền, Paris Gasnier 1952). Trong khi phụ nữ Hồi giáo không được đến nhà
thờ, phụ nữ Thiên Chúa giáo không được làm Linh Mục…"
Nhất là Bà Bát Nương, tư tưởng gia của nền Đại Đạo,
thì phát biểu mạnh mẽ rằng : ( Đàn 2-8-Đinh Hợi 1947)
"Ôm
ấp mãi lấy phần phụ nữ,
Cửa
công khanh đoán thử bao người ?"
Hoặc khi Bà giáng cơ thấy vắng mặt Giáo hữu Hương
Hồ vì cô nầy có kinh nguyệt, thì Bà Bát Nương phán rằng :
"Đâu
còn nguyệt huyết kỵ anh linh"
Quả thật là một cuộc cách mạng to lớn. Dù trong thời
kỳ kinh nguyệt, vẫn đi làm việc, lao động bình thường miễn là vén khéo giữ vệ
sinh. Trong lúc xã hội còn nặng hủ tục "Nữ khuê môn bất xuất", "
nữ Tam tòng Tứ đức".
Quả thật, giáo lý Cao Đài đã giải phóng phụ nữ
trước thời đại; lớn hơn tầm vóc họ đang mong quá nhiều.
3 .
CON ĐƯỜNG CỨU RỖI CỦA ÐẠO CAO ĐÀI :
Thánh giáo dạy về việc độ rỗi con người khi còn
trong bụng mẹ "độ dẫn hoài sanh". Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu, Lục
Nương, Bát Nương…. Cũng hết lòng phổ độ quần sanh.
Trong buổi đầu khai đạo, có người còn chưa tin, làm
khải để thử "Có đâu Tiên Phật giáng phàm gian" liền được họa đáp lại.
Đồng thời Đức Chí Tôn cho chuyển nhiều huyền diệu như trị các bịnh ngặt nghèo,
cứu người bằng âm dương thuỷ. Đức Chí Tôn dạy " Tuy con không thấy Thầy
nhưng nghe Thầy dạy thì con nên tin đó là sự thật".
"Có lắm người tưởng rằng ta phải thấy Chúa y
như Chúa đứng bên nầy, còn ta đứng bên kia, đâu phải vậy. Chúa với tôi chỉ là
một trong động tác thấy chúa của tôi" (Eckhart). Vả lại cơ thể của Thần
Tiên thật là tinh tế, mắt thường đâu thể nhìn thấy được.
Chúng sanh muốn sờ mó được cái gì cứu rỗi, nên Đức
Chí Tôn, Phật Mẫu mới giao con thuyền Bát Nhã làm Thể pháp cho Tam Nương độ
đời. Ngài dạy :
"Khuôn
thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi
quá như bông, nặng quá kim.
Có
Đạo trong muôn ngồi cũng đủ,
Không
duyên một đứa cũng là chìm."
Bài vịnh Thuyền Bát Nhã đại biểu cho cả giáo lý Cao
Đài, nghĩa là giáo lý chỉ là phương tiện, nếu ta đọc kinh sách Đạo với tâm
trạng thao thức suy nghĩ, ta sẽ thấy được nghĩa lý uyên thâm của nó. Trong mỗi
trường hợp, mỗi lời Thánh dạy có lối giải thích theo trạng huống, nếu ta nhận
định đúng Thánh ngôn trong mỗi trường hợp, ta sẽ thấy lý ưng của nó.
Đức Chí Tôn dạy : Thầy không bao giờ nghĩ rằng
chúng sanh sẽ đọc giáo lý của Thầy để đạt đạo vì giáo lý chỉ là những bài luân
lý đơn thuần, không phải chỉ đọc được nó mà thành đạo.
Vả lại, giáo lý thâm hậu không thể nói bằng lời,
diễn bằng bút. Các Chức sắc giảng đạo là chỉ gợi lên hoặc hướng dẫn các tín hữu
nhiều điều dẫn đến chân lý. Ai thấy thì thấy liền, ai không thấy, càng tìm càng
tối tăm.
Giáo lý Đạo Cao Đài chỉ là hướng đạo tri thức, chỉ
ra con đường cứu rỗi. Thầy không hề tiết lộ bằng con đường hiểu đạo ( tri thức)
hoặc siêu hình của sự cứu rỗi mà phải tự giác ngộ, mỗi người riêng rẻ không thể
giải thích được mà chỉ có thể chứng nghiệm bằng nội lực và nội tâm của mình. Cố
gắng là nhân tố rất quan trọng trong sự tu luyện vì không có sự giải thoát nào
nếu không có sự cố gắng của cá nhân.
Xem như thế, Thuyền Bát Nhã cũng chỉ là phương tiện
mà cứu cánh là tu luyện. Con thuyền chẳng hề chìm, lướt nhẹ như bông, nhưng sao
lại nặng tợ kim loại ? Đó là do chỗ không biết đạo, không ngộ đạo. Ở thế, ai
muốn nằm ngồi trên thuyền cũng được vì đó là con thuyền gỗ với đôi bánh xe cao
su. Thuyền chỉ là phương tiện, là lớp vỏ bên ngoài như cái áo của nhà tu, nếu
chỉ mặc áo mà thành đạo thì ai cũng làm được. Đạo phải trụ vững trong lòng, con
đường tu như sóng dồi thuyền lúc bổng lúc trầm, ta không trì chí bền lòng
(không duyên) thì con Thuyền Bát Nhã của Tam Nương (chớ không phải bằng cây gỗ
ở Khách Đình) sẽ nhận ta chìm.
Thầy cũng dạy : "Giáo lý Thầy như đũa ăn cơm,
không đũa ta ăn cơm cũng được". Thế thì đũa cũng chỉ là phương tiện.
(Người Aán Độ ăn bốc). Việc cầu kinh hằng ngày, với các nghi lễ phức tạp chỉ là
phần hành của đường tu. Ta chỉ có thể thấy được sự cứu rỗi bằng sự tồn tâm
dưỡng tánh, tự đọc kinh sách với tâm trạng thao thức. Thế nên, khi đọc Thánh
ngôn, không phải chăm chú vào những từ ngữ có vẻ bình dân quê kệch của đầu thế
kỷ 20, mà nên coi văn tự chỉ là phương tiện trình bày chân lý bên trong. Dù
vậy, giáo lý tuy là phương tiện, nhưng bỏ mất giáo lý thì không có cái gì để
đạt được cứu cánh, bằng ý nghĩ đó, nếu bỏ thuyền thì có gì để đưa xác đến phước
địa được.
Do đó, khi đọc giáo lý, phải tư duy sinh động, phải
băn khoăn. Cái hay của giáo lý là thế hệ nầy đọc, hoàn cảnh nầy nghe thì phù
hợp ngay; đến thế hệ sau, tình huống khác thì nó cũng thích hợp. Giáo lý Cao
Đài thọ truyền bất hủ lậu là vậy. Bởi lẽ, khi nghe ai nói đây là Kinh và Thánh
ngôn của Đạo Cao Đài thì không vội chấp nhận, không vội gác bỏ (vì ngoài Thập
Nhị Thời Quân của Thầy còn nhiều cặp đồng tử của các phái đạo), nên nghiên cứu
tường tận rồi so sánh, nếu không phù hợp với Kinh, Thánh ngôn của Thầy thì chắc
chắn không phải là bổn nguyên giáo lý của Đạo Cao Đài.
Luận giải như vậy, Thuyền Bát Nhã vẫn là biểu tượng
cứu rỗi của Đạo, nhưng những ai "không duyên một đứa cũng là chìm".
Đức Chí Tôn lại dạy về Thuyền Bát Nhã chính ở trong
tâm.
"Biển
khổ nơi mình chớ đâu xa,
Thuyền
kêu Bát Nhã kiếm đâu mà ?
Biển
Thuyền đồng ở trong tâm dạ,
Biết
Đạo lần tìm mối cũng ra".
Con đường cứu rỗi mà Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên
Nương gọi là con đường Thiêng Liêng Hằng Sống. Khi theo con đường nầy thì con
người sẽ được cứu rỗi đời dời, diễn ra như sau :
Khởi đầu, Đức Phật Mẫu dùng Bí pháp mà hoá kiếp :
" Bát hồn vận chuyển hoá thành chúng sanh" ( Xem Đạo Cao Đài Tôn giáo
Đại đồng nhơn loại) rồi được Nhứt Nương săn sóc sức khoẻ, mỗi bông hoa ở vườn
Ngạn Uyển là tinh hoa của người tại thế, tức linh hồn. Khi hoa héo thì người ấy
chết. Lúc sống như khi chết, Cửu Nương giáo hoá về khoa học mỹ thuật. Thất
Nương khêu đuốc đạo mầu. Khi chết Nhị Nương cho uống thuốc trường sanh rồi được
Tam Nương siêu độ cho tiêu tan Thất Tình Lục Dục và dùng Thuyền Bát Nhã đưa lên
cõi Huỳnh Thiên. Ngũ Nương giúp linh hồn "Khai Kinh Vô tự đặng nhìn quả
duyên" mà siêu độ. Lục Nương dùng phướn Tiêu diêu trục trừ ô uế. Thất
Nương tiếp tục đưa hồn đến Niết Bàn. Bát Nương đưa hồn tới Cung Diệt Bửu dứt
hẳn nghiệp chướng hữu hình mang ảo tượng vô vi. Sau đó, Cửu Nương đưa đến Cung
Tạo Hoá Thiên xem thưởng phạt đoạ hay thăng.
Đạo Cao Đài công nhận có thuyết chuyển luân "
Chuyển luân định phẩm cao thăng" (Kinh Phật Mẫu), còn cửa Địa ngục và cửa
quỉ bị đóng lại vì đây là Kỳ Ba Đại Ân Xá (Troisième Amnistie).
Bởi lẽ giáo lý Đạo Cao Đài dạy : chết là chấm dứt
đời sống vật lý và tâm sinh lý, hiện tượng tử sanh như dòng thời gian trôi
không ngừng nghỉ, linh hồn con người vẫn còn mãi mãi. Vì lẽ, linh hồn là một
điểm linh quang (gọi là Tiểu Thiên địa khi tái kiếp) của Đức Chí Tôn. Đức Chí
Tôn là Đại Linh quang, Đại Thiên Địa, cái máy phát ra luồng điện bao trùm khắp
vũ trụ nên các đồng tử mang sẳn luồng điện cùng tần số khi được cảm ứng thì cơ
giáng và có thể Đức Chí Tôn giáng một lúc ở nhiều nơi, chẳng khác nào khi mọi
người bật nút điện Radio nghe cùng một đài phát.
Claude Bernard cũng xác nhận : "Cơ thể tự
thành một nguyên vị điều hoà, một vũ trụ nhỏ (microcosme) trong vũ trụ lớn
(Macrocosme) ( Chaude Bernard, Introduction à l'étude de la médecine
expérimentale, Saigon 1960, trang 49)
Fred Hoyle cũng xác nhận : "Trên dãy Ngân Hà
có lối một triệu hành tinh có sự sống" ( Fred Hoyle, The Nature of
Universe, trang 87, 89)
Thuyết chuyển luân của Đạo Cao Đài hay thuyết luân
hồi của các Đạo khác không mới lạ gì với nhơn loại.
Schopenhauer viết như sau : "Thuyết luân hồi
khởi xuất từ thuở sơ khai….luôn luôn lan rộng trong dân gian, được coi là tín
ngưỡng phần lớn và cũng là giáo lý của tất cả tôn giáo. Cho đến nay, một phần
lớn các dân tộc Á đông không phải Hồi giáo vẫn tin tưởng chắc chắn vào thuyết
luân hồi và đời sống thực tế hằng ngày vẫn chịu sâu sắc của thuyết ấy"
(Schopenhauer, The World as will and idea, trang 451)
Nhưng thuyết chuyển luân của Đạo Cao Đài không có
địa ngục như Aán giáo, cùng lắm là hoá kiếp thành một trong Bát hồn như Kim
thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn ( Xem Bát Cảnh Cung, trang 67)
Nếu tại Cung Tạo Hoá xét thấy linh hồn xứng đáng
thì được vào Cung Trí Giác trụ tinh thần mà thành Tiên. Cao hơn nữa đến Hư Vô
Thiên đắc quả Dà Lam, chờ dự "Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị" ở cõi
Hỗn Ngươn Thiên (Kinh Đại Tường).
Con đường cứu rỗi của Đạo Cao Đài nếu tính từng
bước : Nhập vào hàng tín đồ tu theo Nhơn đạo, rồi bước dần qua hàng Chức sắc
Cửu Trùng Đài ( theo Cửu phẩm Thần Tiên) hoặc qua hàng Chức sắc Phước Thiện
(Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng). Hai con đường nầy tu theo đường TIỆM NGỘ, tức
là từng bước một từ thấp lên cao thao Tân luật, Pháp Chánh Truyền.
Con đường thứ ba là tu tịnh; phải vào tịnh thất, có
điều lệ riêng ghi trong Tân Luật. Cách tịnh luyện thế nào có thể tìm đọc
"Phương luyện kỷ tu theo con đường thứ ba Đại Đạo" (Tài liệu do
Trương Hiến Pháp cung cấp). Tu theo con đường nầy gọi là ĐỐN NGỘ. Tín đồ thường
cũng có thể vào Tịnh Thất mà giác ngộ ngay, đây là tu tắt cho những ai có căn
duyên. Tu tịnh cần đến sự cố gắng phi thường của cá nhân. Cố gắng là nhân tố
rất quan trọng vì không cố gắng theo sự chỉ dẫn của chủ Tịnh Thất thì không thể
tự giác ngộ hay đốn ngộ được.
Ngoài ra, cả ba đường tu mà không đạt đến đích cuối
cùng thì linh hồn được cứu rỗi theo Kinh Cửu do các Đấng và Cửu Nương đưa lối
như đã trình bày ở trên.
4 . HỘI
KIM BÀN HAY HỘI CÁC BÀ MẸ BẢO TRỢ CON NGƯỜI :
Đây cũng là chủ trương mới mẽ của nền Tân tôn giáo.
Thế thường, người ta nói Hội các bà mẹ bảo trợ trẻ em, chớ không ai dám nói bảo
trợ con người, nhưng Cửu Vị Tiên Nương lãnh lịnh Hội Kim Bàn bảo trợ con người,
từ lúc hoài thai cho tới chết, rồi cho đến lúc con người đầu thai tái kiếp theo
một chu trình kín không ngừng nghỉ, nếu linh hồn chưa qui hồi cựu vị :
"Chưởng (quản) Kim Bàn (là) Phật Mẫu Diêu
Trì"
Từ khi Đức Phật Mẫu tạo ra hình hài:
"Hiệp
Âm Dương hữu hạp biến sanh,
Càn
khôn sản xuất hữu hình".
Thì Nhứt Nương lo săn sóc chăm giữ hằng ngày. Tất
cả linh hồn con người đều tập trung ở Vườn Ngạn Uyển, Nhị Nương lo nuôi sống
bảo sanh, Cửu Nương giáo hoá về khoa học, mỹ thuật, văn chương, bá nghệ… Thất
Nương dạy đạo, Tứ Nương khai khiếu dạy học. Khi qua đời, Tam Nương đưa Thuyền
Bát Nhã đến siêu độ khách trần, Ngũ Nương phò trợ cho linh hồn mau đắc đạo, Lục
Nương chiêu hồn, tẩy sạch bợn trần, Bát Nương giúp linh hồn diệt hẳn những việc
hữu hình còn đeo đẳng để khoát áo vô vi. Đến Cửu Nương là định sự thưởng phạt
hoặc tái kiếp hoặc được Phật Mẫu độ vào "Cung Trí Giác trụ tinh thần"
mà "đăng Tiên".
Để phổ độ 92 ức nguyên nhân và không bỏ sót một ai
kể cả hàng Hoá nhân, Quỉ nhân trong các kỳ phổ độ trước còn lại, Hội Kim Bàn đã
chia vùng trách nhiệm như sau :
- Hoa - Nhứt Nương phổ độ miền Bắc VN.
- Cẩm Tú - Nhị nương phổ độ dân Chân Lạp, Cao Miên.
- Tuyến - Tam Nương phổ độ miền Trung VN.
- Gấm - Tứ Nương phổ độ giới văn chương khoa bảng ở
các thành thị Bắc VN.
- Liễu Hạnh - Ngũ Nương phổ độ đồng bằng Bắc Phần
và Bắc Trung Phần Việt Nam.
- Huê - Lục Nương phổ độ miền Đông Nam phần và
hoàng tộc nhà Nguyễn. Jeanne d'Arc phổ độ dân Pháp.
- Lễ - Thất Nương phổ độ các Thiên sứ và vùng
Saigon, Gia Định, miền Đông Nam phần.
- Hớn Liên Bạch - Bát Nương phổ độ dân Trung Hoa.
Hồ Đề (vua Thiên Sứ) phổ độ dân tộc ít người.
- Khiết - Cửu Nương phổ độ miền Tây Nam phần.
Do trên, ta thấy việc phổ độ buổi đầu chú trọng
nhiều vào Việt Nam, kế đến Campuchia, Trung Hoa và Pháp.
Việc biết tên và do lai các cô là do chính các cô
cho biết hoặc cầu cơ học hỏi.
Nhứt Nương giáng cơ đêm 14-1-1926 cho biết.
"Hoa - Nhứt Nương.
Em cám ơn hai anh, em xin hai anh gắng công học
đạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc đạo" ( Đầu sư Hương Hiếu, Đạo
sử xây bàn, Tây Ninh 1967. tr.40)
Các Đấng cũng cho biết Cô Lễ là Thất Nương Diêu Trì
Cung. Do đó, chữ đầu các bài thài cho ta biết tên các cô. Tuy nhiên, Bà Jeanne
d' Arc giáng cơ xưng là Lục Nương mà trong bài thài thì ghi tên là Huê. Như
vậy, khi giáng trần trong Kỳ Ba Phổ độ nầy. Cô có tên là Huê.
Còn Bát Nương cho câu đầu bài thài : "Hồ Hớn
hoa sen trắng nở ngày", rõ ràng Hồ Hớn là họ chớ không phải tên. Cô Thất
Nương cho biết : "Chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương với Nhứt Nương làm thi hay
lắm. ( Hương Hiếu, sách đã dẫn, tr.6) . Vậy thì Bát Nương tên là Hán Liên Bạch
(hoa sen trắng nở ngày), còn Hồ là họ tái kiếp (Xem phần sau).
Cô Nhị Nương có tên là Cẩm Tú, Đức Cao Thượng Sanh
cho biết bà là Nữ Vương của Chân Lạp, mà Nữ Vương Chân Lạp có tên là
Cambhupura, đúng ra phiên âm là Cẩm Bửu. Ta cũng thấy bài Kinh Khi đi về, chữ
Kantaca (Kiền trắc) phiên âm ra là Găngtaca (3 Kinh Lễ, sách đã dẫn)3 không
biết phải do diễn ký viết nhầm hay thợ nhà in xếp chữ nhầm. (phiên âm đúng là
Căn-ta-ca).
Tóm lại, tên các cô có 3 cách thiết lập : một là
chữ tên đứng đầu câu như Hoa, Lễ, Gấm …..hai là chữ họ đứng đầu câu như Hồ Hớn,
ba là chữ phiên âm như Cambhupra hoặc không dịch như Jeanne d'Arc .
Về ngôn từ, có 3 hình thức : cả bài toàn chữ Hán
như bài thài Phật Mẫu, nửa Hán nửa Việt như bài thài Nhị Nương, Tam Nương và
toàn tiếng Việt như bài thài Nhứt Nương, Tứ Nương, Ngũ Nương.
Về nội dung, ta có thể chia làm hai thể loại : loại
một là tự vịnh phong cách như bài thài Phật Mẫu, Tam Nương, Tứ Nương, loại hai
là tả tâm sự như bài thài Thất Nương, Cửu Nương.....
TIẾT
I
HOA
NHẤT NƯƠNG
(Thủ bối : Tỳ Bà)
Hoa
thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa
thu ba e tuyết đông về.
Non
sông trải cánh tiên loè,
Mượn
câu thi hứng vui đề chào nhau.
TRÍCH
NGHĨA :
Hoa thu tức thu cúc vàng nhưng kém màu vàng của
trăng.
Giữa mặt hoa ( thu ba là sóng mùa thu, nghĩa bóng
là sóng mắt) sợ mùa đông đến.
Nhưng trong mùa thu khắp nơi cánh hoa tiên nở sáng
rực.
Nhân hứng, Nhất Nương mượn đề vịnh hoa cúc để làm
thơ chào nhau.
GIẢI
NGHĨA :
Hoa cúc trồng vào mùa Xuân, có hoa vào mùa thu ,
gặt hái hoa vào mùa đông để ướp trà hoặc để làm thuốc, nên "giữa thu ba e
tuyết đông về" là vậy. Chữ thu ba là vừa dùng nghĩa bóng, vừa dùng cách
hoán vụ ( lấy một phần để chỉ toàn thể).
Vào mùa thu, khắp nơi đất nước hoa cúc đều nở rộ
" trải cánh tiên loè", đến mùa đông thì bắt đầu tàn.
Theo Kinh Đệ Nhất Cửu, nhiệm vụ của Nhứt Nương là
chăm sóc vườn Ngạn Uyển. Cô thường coi các bông trong vườn mà biết được số kiếp
con người, vì trong vườn có bao nhiêu đoá hoa là có bao nhiêu linh hồn nhơn
loại ở thế gian.
Hoa nào héo thì "giải thi thoát khổ, diệt
(hữu) hình đoạn căn (duyên)". Như vậy, Nhứt Nương là vị chăm sóc sức khoẻ
cho chúng sanh. Cô có nhiệm vụ phổ độ nhơn sanh miền Bắc VN.
SỰ
TÍCH :
Theo sự cầu cơ học hỏi của Đức Cao Thượng Sanh,
Nhứt Nương tên là Hoàng Thiều Hoa, tướng của Hai Bà Trưng.
Như vậy, HOA tức là Hoàng Thiều Hoa, người có công
dẹp giặc nên được Hai Bà Trưng phong là Đông cung Công chúa và được dân tôn thờ
ở chùa Phúc Khánh và miếu thờ ở xã Song Quang (nay là xã Hiền Quang, huyện Tam
Nông, Vĩnh Phú).
Hai vợ chồng Hoàng Phụ nhà nghèo, ở với nhau lâu mà
không con. Ngày kia hai vợ chồng đi kiếm củi ở núi Tản Viên. Khi mệt nhọc, cả
hai nằm ngủ, người vợ mộng thấy có một người con gái xinh đẹp từ trong núi đi
ra, ngã đầu chào.
Người vợ nắm chặt tay nàng và hỏi: Nàng ở đâu đến ?
Nàng đáp : Con là con gái của Sơn Thánh Tản Viên
tên là Thiều Hoa.
Ông bà có muốn nhận con làm con không ?
Bà âu yếm đáp : - Nếu ta được con, ta sẽ coi con
như con đẻ.
Sau đó, bà Đào thị sanh được một người con gái đẹp
như Tiên, giống như người trong mộng, nên đặt tên là Thiều Hoa. Từ khi có nàng,
vợ chồng Hoàng Phụ đỡ vất vả. Năm 13 tuổi, cô ném đá vào quân Hán để cứu người.
Năm sau, cha mẹ đều mất cả, cô phải đi chăn trâu ở xã Song Quan. Một hôm, Cô
đứng trên gò cao nhìn xuống bãi sông thấy quân Hán nắm râu một cụ già lôi đi.
Cô tức giận, lấy gậy chạy xuống bãi, chợt nghe tiếng gọi, cô thấy một Ni cô
đang vẫy tay. Cô chạy tới, Ni cô bảo :
- Con tuy có sức khoẻ, nhưng việc con làm chưa có
ích gì cho dân tộc, ta không chỉ lo cho một người khỏi bị đánh mà phải lo cho
cả nước khỏi bị đô hộ.
- Thiều Hoa tỉnh ngộ thưa rằng :
- Từ nay, con xin ghi nhớ lời Thầy. Xin Thầy cho
con làm đệ tử của Thầy.
Ni cô khẻ đáp : - Ta là người tu hành nhưng không
quên việc cứu sanh linh ra khỏi cảnh trầm luân. Nếu con có chí lớn thì theo ta
về chùa.
Từ đó, vườn chùa đã trở thành nơi rèn luyện của
những người nghĩa dũng yêu nước. Năm 18 tuổi, cô từ giã Ni cô đi Mê Linh đầu
quân, được Hai Bà Trưng cho về sông Quan mộ nghĩa sĩ.
Khi lệnh khởi nghĩa ban ra, cô dẫn 500 trai gái
Sông Thao kéo về Mê Linh, được Hai Bà Trưng phong chức Tiên phong Hữu tướng.
Trong trận đánh Luy Lâu, Cô lập được nhiều công
lớn. Khi Hai Bà Trưng lên ngôi vua, cô được phong là Đông Cung Công Chúa.
Quả thật cô đã rạng danh: "Non sông trải cánh
Tiên loè".
Trong kỳ Ba phổ độ nầy, cô là Nhứt Nương Diêu trì
Cung có bổn phận phổ độ nhơn sanh miền thượng du và trung du Bắc VN theo Đạo
mới .
THI
VĂN DẠY ÐẠO
1 . VIỆC DẠY ÐẠO ĐẦU TIÊN :
Vào ngày 27-01-1926, Nhứt Nương giáng cơ dạy Đạo
cho các ông Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và bà
Nguyễn Thị Hiếu như sau :
"Nhứt Nương, Em chào các anh và đại tỷ.
Cái bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn một kiếp
người, vì nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà buổi sớm còn có sắc, chớ người
đời sanh ra chỉ để thọ khổ mà thôi. Chung qui, dù sống trăm tuổi chưa được một
điều đắc chí, chết thì hết cái đời tạm nầy.
Em xin ba anh coi sự trường sanh của mình làm
trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nở bỏ đi, em chỉ tiếc dùm đó thôi.
Đã vào đường chánh, cứ lo bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng.
Khi ông Lê Văn Trung hỏi : - Có duyên luyện đạo
được cùng chăng ? Xin em mách bảo dùm.
Nhứt Nương đáp : - "Đã gặp Đạo tức có duyên
phần. Rán tu luyện ! Siêng thì thành, biếng thì đoạ, liệu lấy mà răn mình. Phải
tính sớm, một ngày qua, một ngày chết, đừng dụ dự.
Em xin kiếu".
2 .
NHỨT NƯƠNG KÍNH TẶNG :
Nhứt
khí tạo đoan cả địa cầu,
Nương
theo Mẹ cả giáng vài câu
Kính
dâng tam bửu hằng năm vẹn,
Tặng
lễ mừng thầm đắc chẳng lâu. 15-8-Nhâm Ngọ (2-9-1942)
3 .
THƠ VỊNH.
Cô
Nhứt Nương coi Vườn Ngạn Uyển,
Cầm
tỳ bà điều khiển cơ sinh.
Mỗi
đoá hoa, mỗi chơn linh,
Trong
vòng luân chuyển mắt nhìn biết ngay.
Quyền
chưởng quản trong tay nắm giữ,
Các
nguyên nhân sanh tử hản toàn.
Từ
cõi Thiên chí dinh hoàn,
Hoa
nở đầu kiếp, hoa tàn hồn qui. H.P
LỜI HAY Khi mở Đạo Cao Đài, Chí Tôn chỉ định cho
Phật Mẫu đến giáo đạo cho chúng ta, bảo trọng nuôi nấng dạy dỗ chúng ta, thì
không ơn đức nào bằng. (Phạm Hộ Pháp)
TIẾT
II
CẨM
TÚ NHỊ NƯƠNG
(Thủ bối : Lư Hương)
CẨM
TÚ văn chương hà kháchđạo ?
Thi
thần, tửu Thánh vấn thuỳ nhân ?
Tuy
mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh
Tiên còn mến, cõi trần anh thư
THÍCH
NGHĨA :
Người khách đạo văn chương như gấm như thêu ở đâu ?
Làm thơ như Thần, uống rượu như Thánh hỏi được mấy
ai ?
Tuy sanh ra là con gái (hồng quần), nhưng là bậc
anh thư ở cõi trần và một vị Tiên ở cõi trên.
GIẢI
NGHĨA :
Cô Cẩm Tú (do kỵ quí, lấy công trình nổi tiếng thay
tên thật) là một người khách đạo, nghĩa là không phải người trong nước Việt
Nam. Cô làm thơ như Thần, uống rượu như Thánh, hỏi mấy ai sánh kịp ? Ở cõi
trần, Cô là bậc vua chúa, ở cõi trên là một vị Tiên Nữ.
Nhiệm vụ Nhị Nương là giữ Vườn Đào, dọn yến tiệc và
đãi thuốc trường sanh cho các đẳng linh hồn, rồi đưa đến cõi Thanh Thiên. Như
vậy, Nhị Nương có bổn phận bảo sanh con người lúc sống như lúc chết và phổ độ
người Chân Lạp (Cao Miên nay là Campuchia) theo Đạo mới.
SỰ
TÍCH :
Bài thài của Nhị Nương có câu : "Cẩm Tú văn
chương hà khách đạo ?" Cẩm Tú hay Cẩm Bửu (Cambhupura) là công trình văn
hoá lớn của người khách Đạo (bạn đạo nước ngoài) tên là Jyeshthâryâ, người Thuỷ
Chân Lạp. Nước Thuỷ Chân Lạp ( Theo truyền thuyết, vị thần dựng nước Chân Lạp
tên Kambu, nên tên nước là Kambujâ tức Chân Lạp, Pháp dịch Cambodge, Cambhu là
Cẩm Bửu, Pura là thành thị. Tên ghép là thành thị Cẩm Bửu) gồm lưu vực sông
Mékong và Miền Nam VN ngày nay. Lúc ấy bị chia làm nhiều khu vực do các vị
Hoàng thân và tướng lãnh Phù Nam thống trị.
Nữ Vương Jyeshthâryâ là cháu 3 đời của Quốc Vương
INDRAKOLA cai trị vùng đất quanh tỉnh Kratié ngày nay, đồng thời với vua
Jayavarman II (802-850). Năm 803, Nữ Vương xây một ngôi tháp ở Cambhupura , là
đế đô cũ của vua Mahendravarman (600-615). Kiến trúc của tháp nầy ảnh hưởng đạo
Bà La Môn, nét hoa văn trang trí trên tháp như cẩm tú (như gấm như thêu). Bà
thật xứng đáng bậc anh thư Chân Lạp.
"Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh tiên còn mến, cõi trần anh thư"
Nữ Vương theo Bà La Môn, tôn thờ các đấng Bhrama,
Christna, Civa mà Đạo Cao Đài tạc tượng thờ trên nóc Bát Quái Đài. Ngươn linh
của Bà là Nhị Nương ở cung Diêu Trì, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân Cao Miên (Campuchia)
theo Đạo mới. Nhờ vậy, mà việc phá rừng xây cất Toà Thánh trong buổi đầu mới
thành tựu được.
KINH
CỨU ĐỘ :
Nhiệm vụ trọng yếu của Nhị Nương là ở Thượng giới,
giữ Vườn Đào của Tây Vương Mẫu rất nghiêm nhặt. Bà còn lo luyện thuốc trường
sanh để ban yến tiệc cho các đẳng linh hồn theo lịnh Cung Diêu Trì. Xin đọc bài
kinh sau đây thì rõ :
Tây
Vương Mẫu vườn Đạo ướm chín,
Chén
trường sanh có lịnh ngự ban.
Tiệc
hồng đã dọn sẵn sàng,
Chơn
thần khá đến hội hàng chư linh.
Đã
thấy đủ Thiên đình huyền pháp,
Cổi
giác thân lên đạp Ngân kiều.
Đẩu
tinh chiếu thấu Nguyên tiêu,
Kim
quang kiệu đỡ đến triều Ngọc Hư.
Khí
trong trẻo dường như băng tuyết,
Thần
im đìm dường nét thiều quang,
Xa
chừng thế giái Địa hoàn,
Cõi
Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
1 . NHỊ NƯƠNG KÍNH TẶNG :
Nhị
châu Chơn Võ nhớ cùng không ?
Nương
cõi Thiên cung gởi bóng hồng,
Kính
tặng vài câu mừng bạn cũ,
Tặng
người trinh tiết chịu phòng không.
(2-9-1942)
2 . THƠ VỊNH :
Cô
Nhị Nương từ bi độ rỗi,
Cầm
lư hương mở hội trường sinh.
Bàn Đào
mời đủ chư linh,
Ngân
kiều đỡ gót về trình Ngọc Hư.
H.P
TIẾT
III
TUYẾN
TAM NƯƠNG
(Thủ bối :Long Tu Phiến)
TUYẾN
đức năng thành đạo,
Quảng
trí đắc cao quyền.
Biển
mê lắc lẻo con thuyền,
Chở
che khách tục Cửu tuyền ngăn sông.
THÍCH
NGHĨA :
Thường tích đức thì thành đạo. (Tuyến đức là đường
đạo đức). Hiểu biết rộng thì được quyền cao. Biển trần (mê tân), Cô đưa Thuyền
Bát Nhã bập bềnh để chở khách trần tục khỏi đoạ xuống Chín suối (Cửu tuyền).
GIẢI
NGHĨA :
Cô Tam Nương chất chứa nhiều đức và sự hiểu biết về
Đạo hơn người tức nhiên được thành đạo và đắc vị Tiên Nương. Cô có bổn phận
chèo thuyền Bát Nhã đưa khách trần khỏi bến mê để về cõi Tiên. Như vậy, Cô có
nhiệm vụ siêu độ khách trần và phổ độ dân miền Trung VN theo Đạo mới.
SỰ
TÍCH :
Tam Nương rất quảng trí xuất hiện trần gian để độ
thế, thường Cô chỉ mặc áo tràng trắng có viền kim tuyến (giống áo Chức sắc Nữ
phái) : "Tuyến đức năng thành đạo", mỗi khi Cô hiển hiện. Thế nên
người đời thường gọi Cô là Bà Kim Tuyến.
Người ta còn truyền lại : Khi Nguyễn Hoàng rời bỏ
họ Trịnh, từ Thăng Long vào miền Trung tìm nơi đóng đô chưa được, thì may thay
gặp một bà già mặc áo quần trắng có viền kim tuyến trên một ngọn đồi. Bà trao
cho Nguyễn Hoàng một nén hương đang cháy và dạy :
- Ngươi hãy cầm nén hương nầy mà đi, bao giờ hương
tắt thì đó là nơi đóng đô.
Theo lời dạy, khi nhang tàn, quả nhiên Nguyễn Hoàng
thấy trước mắt một vùng núi sông hiền hoà (sông Hương núi Ngự). Thế nên Nguyễn
Hoàng quyết chọn làng Phú Xuân (nay là Huế) làm kinh đô.
Để nhớ ơn bà già tặng nhang, Nguyễn Hoàng cho xây
dựng trên ngọn đồi nầy một ngôi chùa. Đó là chùa Thiên Mụ bên sông Hương. Trong
chùa có tháp Phước duyên làm biểu tượng của Huế, có tượng thờ Đức Di Lạc ; nổi
tiếng nhứt là tiếng chuông Thiên Mụ (Thiên Mụ là người đàn bà ở cõi Trời). Vì
thế, Bà giáng hạ có phận sự độ khách tục khỏi biển mê và Cửu tuyền vì giáo lý
Cao Đài dạy : Vô Địa ngục, Vô Qủi quan.
"Biển mê lắc lẻo con thuyền,
Chở che khách tục Cửu tuyền ngăn sông".
Bà Tam Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ lương
dân miền Trung và Nam Trung phần VN theo Đạo mới.
KINH
CỨU ĐỘ
Bà Tam Nương cũng có nhiệm vụ trọng yếu ở Thượng
giới, hành pháp ở cõi Thanh Thiên, tức là cõi Tiên ngự. Bà có bổn phận đưa chơn
hồn đến động Thiên Thai được bảy Lão ra đón rước (vốn Thất Hiền buổi xưa) rưới
nước Cam Lồ cho tiêu tan Thất tình Lục dục. Sau đó Bà đưa hồn đến Hội Thánh
Minh để đọc sách Trường Xuân, tạo điều kiện lên cõi Huỳnh Thiên.
Xin đọc bài kinh
sau đây thì rõ :
Cõi
Thanh Thiên lên miền Bồng đảo,
Động
Thiên Thai bảy Lão đón đường.
Cam
lồ rưới giọt nhành dương,
Thất
tình Lục dục như dường tiêu tan.
Cung
Đẩu Tốt nhặt khoan tiếng nhạc,
Đệ
lịnh bài cánh hạc đưa linh.
Tiêu
thiều lấp tiếng dục tình,
Bờ
dương bóng phụng đưa mình nâng thân.
Cung
Như Ý Lão quân tiếp khách,
Hội
Thánh Minh giáo sách Trường Xuân.
Thanh
quang rỡ rỡ đòi ngàn,
Chơn
hồn khoái lạc lên đàng vọng Thiên.
1 . TAM NƯƠNG KÍNH TẶNG :
Tam
kỳ khai mở Đạo lần ba,
Nương
náu ít lâu rõ báu hoà
Kính
lượng bề trên ban đức tánh,
Tặng
người tài trí hứng đài cao.
(2-9-1942)
2 . THƠ VỊNH
Cô
Tam Nương thuyền từ nhẹ thả,
Cầm
Long tu phiến độ khách trần.
Biển
mê Bát Nhã dò lần,
Thanh
Thiên mở lối chơn thần qui nguyên. H.P
TIẾT
IV
GẤM
TỨ NƯƠNG
(Thủ bối : Kim Bãng)
Gấm
lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng
treo nhà ít học không ưa.
Đợi
trông nho sĩ tài vừa,
Đằng
giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi.
THÍCH
NGHĨA :
Gấm vóc có trải dài theo đường ngõ, Cô cũng không
màng . Ngày xưa, việc thách cưới phải mâm cao cổ đầy, vàng bạc châu báu. Nhưng
ở đây, Cô không ưa cả vòng vàng treo đầy nhà, của để đầy kho, mà chỉ kén bậc
nho sĩ tài ba để kết duyên.
Đằng giao khởi phụng là rồng bay phụng dậy, tức ám
chỉ người tài hoa xuất chúng, thi phú như Tiên.
GIẢI
NGHĨA :
Đây là bài tự vịnh phong cách của Bà Đoàn Thị Điểm,
hiện thân của Cô Lê Ngọc Gấm. Xin đọc phần sự tích dưới đây sẽ rõ .
Bà Đoàn Thị Điểm đã giáng cho nhiều bài Kinh thuộc
phần Thế Đạo như : Kinh tụng khi Thầy qui vị, Kinh Cầu Tổ phụ đã qui liễu, Kinh
tụng khi chồng hoặc vợ qui vị, v.v…(Xem Kinh Lễ).
Theo Thánh ngôn, Bà là nhà bác học về chân thiện
mỹ, có phận sự phổ độ chúng sanh khoa bảng văn chương ở các thành thị miền Bắc
VN.
SỰ
TÍCH :
Vào năm 1655, Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Tiến
,Nguyễn Hữu Dật đem quân vượt Sông Gianh ra Bắc đánh quân Trịnh. Trịnh Đào thua
chạy về An Trường (nay là Nghệ An).
Quân Nguyễn thừa thắng đuổi theo chém giết vô kể,
rồi chiếm Nghệ An. Cô Lê Ngọc Gấm sanh trong một gia đình thủ công nghệ bị chết
trong cảnh loạn quân đó, lúc đó mới 9 tuổi. Linh hồn Cô phảng phất và tá túc ở
Đền Sòng (Thanh Hoá nơi thờ Bà Liễu Hạnh).
Năm 1705, Cô chuyển kiếp vào nhà họ Lê ở Văn Giang,
ông Hương Cống Lê Doãn Nghi nằm mộng thấy linh thần tặng cho họ Đoàn nên đổi từ
họ Lê sang họ Đoàn. Ông Nghi lập gia đình, sau sinh được hai người con đều hay
chữ là Tiến sĩ Đoàn Doãn Luân và bà Đoàn Thị Điểm.
Như vậy cô Gấm là tiền thân của bà Đoàn Thị Điểm.
Bà bẩm sinh tư chất thông minh, văn hay chữ tốt,
một giai nhân khiêm cung đức độ, được vậy là nhờ bà là chơn linh của Tứ Nương.
Dưỡng phụ Bà là Thượng thư Lê Anh Tuấn tiến cử Bà vào Cung Chúa Trịnh, nhưng
bình sanh Bà không ưa cảnh quan quyền nên khước từ.
Bà dốc hết tâm trí vào việc trau dồi văn chương cho
được "Đằng giao khởi phụng". Bà mở trường dạy học và dạy nữ công (nên
tượng Tứ Nương cầm cây Kim Bãng). Bà chế ra hai cái túi : Một cái thêu kiểu tam
hữu (Tùng, trước, mai) và một cái thêu kiểu Bát Quái, ám chỉ Bà là Tiên nữ.
Năm 1927, Cha mất, Bà cùng mẹ về Hưng yên, nơi anh
bà là Đoàn Doãn Luân đang dạy học. Ông Luân thường bày nhiều cuộc xướng hoạ để
thử tài Bà. Một hôm, ông lấy chữ trong Sử Ký nói về Hán Cao Tổ để bà đối lại.
Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi.
(Con rắn trắng đón đường, Ông Quí rút gươm ra chém.
Bà liền dùng một câu nguyên văn trong Sử Ký (sách
của Tư Mã Thiên) thuộc đời Ngu Thuấn nói về ông Hạ Vũ để đối lại :
Hoàng long phụ châu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết.
(Con rồng vàng đội thuyền, ông Vũ nhìn Trời mà
than).
Còn nhiều giai thoại giữa ông Luân và Bà, và nhiều
thi nhân khác. Nhiều người giàu có đỗ đạt nghe tiếng muốn cầu hôn đều bị bà
khước từ và cho họ là bọn học vẹt, chớ không có thực tài văn chương như Tiến sĩ
Nguyễn Công Thái, Nhữ Đình Toản.
Thật đúng với hai câu :
"Gấm
lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng
treo nhà ít học không ưa".
Bà chỉ ước mong có một người tài ba là Nguyễn Kiều
đỗ Tiến sĩ lúc 21 tuổi , văn võ song toàn.
"Đợi
trông nho sĩ tài vừa,
Đằng
giao khởi phụng chẳng ngừa Tiên thi".
Nhưng mãi đến năm bà 37 tuổi, ông Nguyễn Kiều mới
xin cầu hôn với bà. Năm 1748, Nguyễn Kiều được bổ làm Tham Thị ở Nghệ An, Bà
xuống thuyền theo chồng đến Đền Sòng (dưới chân núi Sùng), nơi thờ bà Công chúa
Liễu Hạnh, Bà bị cảm nặng và mất ở đó vào ngày 11-9-1748, nhập vào chơn linh
nàng Gấm. Đó là ngày tái hợp mà nàng Gấm đã hẹn với bà Liễu Hạnh (vốn là Ngũ
Nương Diêu Trì Cung).
Ông Nguyễn Kiều thương tiếc làm bài văn tế như sau
:
"Ô
hô ! Hỡi nàng !
Huệ
tốt, lan thơm,
Phong
tư lộng lẫy, cử chỉ đoan trang,
Nữ
đức trọn vẹn, tài học ngỡ ngàng.
Giáo
mác, ấy bàn luận;
Gấm
vóc, ấy văn chương;
Nữ
trung hiếm có như nàng :
v.v.." (Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ Ngâm bị khảo).
Bà vốn là Tứ Nương Diêu Trì Cung, có phận sự mở
kiến thức khiếu linh quang cho nhơn loại và nâng đỡ người sống như linh hồn
được linh hoạt hay linh hiển để học hỏi giỏi giang ở tại cõi đời hoặc cõi vô
hình.
Bà có phận sự phổ độ những nho sĩ, những người văn
chương khoa bảng thành thị Bắc phần VN theo Đạo mới.
THI
VĂN DẠY ÐẠO :
Bà Đoàn Thị Điểm đã giáng cho nhiều Kinh Thế Đạo
như các bài : Kinh tụng khi Vua thăng hà, Kinh tụng khi Thầy qui vị, Kinh Cầu
Tổ phụ đã qui liễu, Kinh tụng Cha mẹ đã qui liễu, Kinh cầu bà con thân bằng cố
hữu đã qui liễu, Kinh tụng Huynh đệ mãn phần, Kinh tụng khi chồng qui vị, Kinh
tụng khi vợ qui liễu. Cộng chung là 8 bài.
Nhất là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, theo thể thơ song
thất lục bát (giống như tác phẩm Chinh phụ ngâm, bà làm khi còn sống) gồm 350
vế, 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu :
"Đời
đời danh chói Cao Đài"
Bà cho biết tác phẩm ra đời là "Giục tài Nữ sĩ
sánh bì cùng Nam" bởi theo quan niệm phong kiến "Nam trọng Nữ
khinh", nên vế khởi đầu Bà viết:
Dụng
văn hoá trau tria nữ phách
Lấy
kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm
thư giúp sức gươm hùng,
Điểm
tô nghiệp cả con rồng cháu Tiên.
Những câu thơ tiếp, Bà dạy phận làm con gái, làm
vợ, công việc trong nhà ngoài ngõ, bổn phận dạy con, Bà viết :
"
Lựa cho học các công các nghệ,
Tính
cho hay mọi vẻ văn tài.
Sĩ,
Nông, Công, Cổ sanh nhai,
Ngư,
Tiều, Canh,Mục làm bài bảo thân.
Hễ
phải mặt văn nhân tài tử,
Dạy
con nên vẹn giữ nhơn luân.
Văn
là thượng sĩ danh thần,
Võ
thì bạt tụy siêu quần quân trung".
Tác phẩm có hạn chế về thời gian (thời phong kiến),
người sáng tác, nhưng lấy ý mà hiểu thì trung với quân biến đổi thành trung với
dân. Khi tác phẩm ra đời, nước ta còn lệ thuộc Pháp, nên Bà Đoàn dạy :
"Nào
quốc thể người khi kẻ thị,
Nào
dân đen phép quỉ hớp hồn.
Nấu
sôi cái máu anh phong,
An
bang tế thế một lòng lo
âu".
Bà còn dạy trẻ thờ cha
mẹ, kính thầy cô, phân biệt thật giả, học cho đến nơi đến chốn. Bà viết:
"Học cho rộng giao thông tứ xứ,
Học cho cùng xử sự ngoại lân
Học cho đúng bậc tài thần,
Ưu
quân ái quốc vua cần dân nghinh.
Học
cho thấu máy linh cơ tạo,
Học
cho toàn trí xảo văn minh.
Thâu
tài hay, nhập nước mình,
Làm
cho dân hưởng thái bình giàu sang".
2 . TỨ NƯƠNG KÍNH TẶNG :
Tứ
đức vẹn toàn mới xứng danh
Nương
hơi nhang khói chỉ điềm lành.
Kính
mừng quí vị ân cần tịnh,
Tặng
khách nâu sòng diệt quới khanh.
(2-9-1942)
3 . THƠ VỊNH :
Cô
Tứ Nương cầm riêng Kim Bãng
Cõi
Huỳnh Thiên điểm rạng văn tài.
Nắm quyền giám khảo trong tay,
Chọn người đức hạnh học hay tuyển
vì.
H.P
TIẾT V
LIỄU NGŨ NƯƠNG
(Thủ bối : Như Ý)
LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiêu hiêu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mây lướt gió thần đưa
hương.
THÍCH NGHĨA :
Cây liễu mềm mại yểu điệu còn thua nét đẹp duyên
dáng của Cô. Tuyết trong ngần làm sao sánh kịp da dẻ trắng hồng của Cô.
Cô coi nhẹ chốn bụi trần mà nhẹ gót thơ thới theo
mây gió về cõi Phật (Đài sen).
GIẢI
NGHĨA :
Cô Liễu Hạnh tự vịnh phong cách của mình với cây
liễu . Cô là Ngũ Nương Diêu Trì Cung, có bổn phận siêu độ các linh hồn đắc đạo
về Bạch Ngọc Kinh (tức cõi Thiêng liêng Hằng sống). Nhờ xe Như Ý đưa linh hồn
viên mãn đến cõi Xích Thiên, khai Kinh Vô Tự phán đoán căn quả.
SỰ
TÍCH :
Vào đời Hậu Lê, năm 1557 ở thôn Thái An, tình Nam
Định, có nhà họ Lê, vợ mắc bệnh suy nhược không sinh đẻ được.
Một hôm, có một vị đạo sĩ đến nhà xin trị bịnh,
bằng cách cho người chồng là Lê Thái Công đánh thiếp lên Thiên đình. Ông Lê
Thái Công tình cờ thấy công chúa Quỳnh Hương lỡ tay làm bể chén ngọc, nên bị
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đày xuống trần. Khi xả đồng tỉnh lại, Lê Thái Công
được tin vợ sanh được một người con gái đẹp như Tiên giáng trần, đặt tên là
Liễu Hạnh.
"Liễu
yểu điệu còn ghen nét đẹp"
Năm 1578, đột nhiên Cô Liễu "hiêu hiêu nhẹ gót
phong trần" trút xác phàm trở về Thượng giới trong khi chưa hết hạn làm
khách trần chuộc tội. Thế nên sau đó Đức Thượng Đế ra lịnh Cô xuống trần lần
nữa. Chính lần nầy Cô gặp Cô Gấm (Tứ Nương). Để công phổ độ sớm hoàn thành, Cô
đi khắp vùng Bắc phần và Bắc Trung phần VN để giúp nhơn sanh. Cô xuất hiện giữa
ban ngày ở vùng Phố Cát (Thanh Hoá) và nhiều nơi khác.
Để tỏ lòng biết ơn Bà, dân chúng xây đền thờ Bà ở
nhiều nơi như: Phủ Giầy (Nam Định), Đền Sòng, Phố Cát (Thanh Hoá), Đền Sùng Sơn
(Hà Nội).
Triều đình nghe danh phong tặng Bà là "Thượng
đẳng Phúc Thần" (Thần ban phúc). Nhân dân gọi Bà là Mẫu Liễu, lễ vía vào
ngày 3-3 Âm lịch.
Đến cuối đời Hậu Lê, một vị quan nằm mộng thấy Bà
Liễu lên xe mây về Trời. ( Hoàng Trọng Miên, Việt Nam văn Học toàn thư. Sài Gòn
1959)
Bà là Ngũ Nương ở Cung Diêu Trì, có phận sự phổ độ
nhơn sanh đồng bằng Bắc phần và Bắc Trung phần VN theo Đạo Cao Đài.
KINH
CỨU ĐỘ:
Bà Ngũ Nương có nhiệm vụ trọng yếu ở Thượng giới
nên Bà ít giáng cơ ở cõi trần gian. Bà hành pháp ở cõi Xích Thiên, tức là miền
Thánh vức. Bà tiếp các linh hồn và đưa họ đến Đài Chiếu Giám để xem rõ tội
phước (Hồi quang phản chiếu), rồi đến Cung Ngọc Diệt Hình mà khai Kinh Vô Tự
đạêng thấy quả duyên, sau đó nhờ xe Như Ý đưa linh hồn lên cõi trên.
Xin đọc bài kinh sau đây thì rõ:
Aùnh
hồng chiếu đường mây rỡ rỡ,
Cõi
xích thiên vội mở ải quan.
Thiên
quan diêu động linh quan,
Cả
miền Thánh vức nhộn nhàng tiếp nghinh.
Đài
Chiếu Giám Cảnh Minh nhẹ bước,
Xem
rõ ràng tội phước căn sinh.
Lần
vào Cung Ngọc Diệt Hình,
Khai
Kinh Vô Tự đặng nhìn quả duyên.
Đắc
văn sách thông Thiên định Địa,
Phép
huyền công trụ nghĩa hoá thân.
Kỵ
kim quang kiến Lão Quân,
Dựa
xe Như Ý oai Thần tiển thăng.
1 .
NGŨ NƯƠNG KÍNH TẶNG :
Ngũ
hành vận chuyển đoạt huyền thiên,
Nương
níu đôi năm khoẻ tự nhiên.
Kính
có công tu nay gặ p hội,
Tặng
người hữu hạnh phục qui nguyên.
(2-9-1942)
2 . THƠ VỊNH :
Cô
Ngũ Nương đưa cao Như Ý,
Ra
lịnh cùng Chư vị Thần Tiên
Tiếp
hồn về cõi Xích Thiên
Thông
kinh Vô tự quả duyên mỹ miều. H.P
TIẾT VI
HUÊ LỤC NƯƠNG
(Thủ bối : Phướn Tiêu
Diêu)
Huê
ngào ngạt đưa hơi vò diệu,
Đứng
tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương
mây như thả cánh hồng,
Tiêu
diêu phất phướn cõi tòng đưa Tiên.
THÍCH
NGHĨA :
Huê là bông có hương thơm êm dịu. Cô là người tài
ba có đầy đủ phong cách riêng và bay trên mây như chim hồng phượng, một loài
với chim loan (Đức Phật Mẫu kỵ Thanh loan) nhưng sắc đỏ (hồng) nhiều hơn (xin
xem ở trước). Cô thích ở cõi Tiên phất phướn Chiêu hồn (Tiêu diêu).
GIẢI
NGHĨA :
Cô Hồ Thị Huê vốn là con nhà quan, nhờ có đầy đủ tư
cách : thục, thận, hiền, trinh mà được tiến vào cung vua. Nhưng chẳng bao lâu
bỏ cảnh hồng trần về cõi Tiên.
Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Trì, điều khiển phướn
Chiêu hồn nhằm tẩy sạch bợn trần để đưa các linh hồn vào cửa Tây phương ( Đại
Đạo Tầm Nguyên, TN.1970 , tr.38)1
"Lục Nương phất phướn truy hồn,
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh"
SỰ
TÍCH:
Cô Hồ Thị Huê là hậu thân của bà Jean D'Arc, theo
Thánh giáo:
Jean D'Arc (1412-1431) tự là Pucelle d'Orléans, nữ
anh hùng nước Pháp, sanh ở Domreny (biên giới tỉnh Lorraine và Champagne). Bà
thuộc gia đình nông dân, hiếu thảo vẹn toàn. Năm 13 tuổi (1428) trong lúc chăn
cừu, Bà nghe tiếng nói thiêng liêng giục Bà cứu Hoàng Thái Tử Charles VII và
giải nguy cho nước Pháp.
Quân Anh vây Orléans, khi sắp hạ thành thì Bà xuất
hiện (30-4) với một đội quân dũng cảm. Ngày 8-5, Bà đánh bại quân Anh. Nhờ đó,
nhân dân Pháp vùng dậy tràn đầy hy vọng, thừa thắng xông lên. Sau đó Bà rước
vua Charles VII về Rêm (Reims) để làm lễ tấn phong theo tục lệ bấy giờ. Năm
1430, Bà không chịu được thái độ của bọn cựu thần và cũng vì chán sống cảnh an
nhàn sa đọa của triều đình phong kiến, Bà lại ra quân giải vây thành Compiègne.
Bà bị quân Bourguignon bắt, bán lại cho người Anh.
Bà bị giam cầm khổ sở. Sau cùng, tôn giáo pháp đình
của người Anh kết án Bà là tà giáo phải bị hỏa thiêu vào ngày 30-5-1431 tại
Rouen. Năm ấy Bà mới có 19 tuổi.
Bà Jean d'Arc là anh hùng nông dân Pháp, một biểu
tượng trong sạch từ thể xác tới tinh thần. Sự xuất hiện của Bà chứng tỏ rằng sứ
mạng của bọn quý tộc phong kiến và võ sĩ đã chấm dứt.
Năm 1920, lễ kỷ niệm Bà được nhân dân Pháp tôn vinh
là quốc lễ.
Bà là Lục Nương, có phận sự bảo hộ và phổ độ dân
tộc Pháp theo Đạo mới. Bà đã phổ độ nhà văn G. Gobron đắc phong Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn và nhiều người khác.
Sau Bà Jean d'Arc chuyển kiếp đầu thai ở Việt Nam
tên là Hồ Thị Huê (hay Hoa) sanh năm 1790, con của ông Khâm sai Hồ Văn Vui và
bà Hoàng Thị, người huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa.
Lăng mộ họ Hồ hiện ở gần Thị trấn Thủ Đức. Chính Bà
đã phổ độ ông huyện Thơ ở Thủ Đức (sau đắc phong Đầu Sư) và hướng dẫn Đức
Hộ-Pháp hành pháp tại Long Vân Thánh Tịnh (gần cây mùa cua Thủ Đức) trong buổi
đầu khai Đạo.
Năm Bính Dần niên hiệu Gia Long thứ 5 (1805), Thế
Tổ Cao Hoàng Đế và Hoàng hậu lựa chọn Bà Hồ Thị Huê làm phối thất cho vua Minh
Mạng, khiến Bà vào chầu nơi Tiềm để.
Bà có đủ các đức (tư phong) : Thục, Thận, Hiền,
Trinh, hết đạo hiếu kính. Vua Thế Tổ khen ngợi đặt tên là Thật. Thế Tổ bảo :
Phi nguyên tên là Huê, hoa thì chỉ nghe thơm mà thôi, chi bằng chữ Thật, Thật
là gồm có quả phúc, nên trong bài thài có hai câu :
"Huê ngào ngạt đưa hơi vò diệu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong"
.
Tháng 5-1807, Bà sinh ra Thiệu Trị được 13 ngày thì
Bà băng, lúc mới 17 tuổi : "Nương mây như thả cánh hồng".
Bà là Lục Nương ở Cung Diêu Trì có phận sự phổ độ
những người trong Hoàng tộc theo Đạo mới, như bà Từ Cung, mẹ của vua Bảo Đại.
Bà Từ Cung được ân phong phối sư Nữ Phái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét