Cõi Thanh sơn chòi tranh mà thanh nhã, vui thắng
cảnh của Đất Trời,
Mồi phú quí tợ hoa rơi lá rụng,
- Sóng văn minh dẫy tràn, nền luân lý hoại hư mà
tuyệt chủng,
Người sa mê vật chất như đèn lụn hết tim,
Khiến trần gian bảy nổi ba chìm,
Người mê mẩn khó tìm đường
chánh đại.
- Phật, Thánh, Tiên thở
than cho nhơn loại,
Kiếp hồng gian thế thái ôi ! lại với nhân tình,
Giấc mơ màng rồi môt kiếp phù sanh,
Lằn tên xẹt lo nẻo lợi danh, Ôi ! đành buông theo
miền âm cảnh.
-Tội dương trần nay xem dường như một đảnh,
Cõi thế gian vì không lo tu tánh, nay phải chịu
luôn một cảnh đoạn trường.
Luật công bình nhiều tội phải vấn vương,
Lời chánh trực, ghét thương tại người chiêu tập.
- Nhắn nhủ khuyên đời tỉnh giấc hồng mê, đường
quang minh sẽ gặp,
Đuốc Đại Đồng đã rọi khắp thế gian,
Lời nhủ khuyên chẳng dứt tiếng hỡi đồng bàn,
Đừng ngơ ngáo mà lỡ khoa tràng, chẳng kịp Bát Nhã
thoàn đưa qua bến tục.
- Tìm thấu rõ gươm tinh thần, diệt cho hết loài ma tham dục.
Lấy kiến quang minh mà soi, coit rong đục lòng ta,
Tỉnh lương tâm phân biệt chánh tà,
Minh trí huệ phân đoán Phật cùng Ma, vậy mới là
người Thánh triết.
- Hỡi nguyên sanh ôi ! Là người có tai mà làm tuồng ngơ điếc.
Nghe tiếng đờn tri âm rủ bạn, nên rõ biết đà lên
giọng Tinh Thần.
Tiếng nhặt khoan kêu lánh quán Sở với lầu Tần, (1)
Nầy hỡi bạn đã sa chân, nay nghe đờn giác ngộ nên
bước lần ra cho khỏi
- Thương cảnh chán thay còn lặn lội,
Cõi gian hồng ôi ! Độc khói nó bay tràn,
Người lâm nhầm, hít hơi mất tài khôn thành bịnh mơ
màng.
Oâi ! là cảnh ủ dột, một cuộc điêu tàn chốn cảnh
thanh khách trần gian đành ngơ ngẩn.
- Hỡi tri âm đã chào đời, thấy tuồng chen chen lấn lấn,
Chước Quỉ Vương dắt dẫn cho sái bước lạc đường,
Mến mùi đời, hơi bay dậy thể vật đà ươn,
Mùi tàn nhẫn vển vương, mau mượn nước nhành dương,
mà tắm cho hết mộng trường nơi cõi tạm.
- Lực Kim Tiền, kẻ bua Quan Tinh Thần đành suy giảm,
Người không suy lòng hà lạm mà quên thương cảm kẻ
đê hèn.
Cất giọng cao nhảy nót múa men,
Ra kế độc sang hiếp hèn, lấn chen tuồng dua bợ.
- Tiếng rên siết ôi ! nghe rõ là nghèo hèn thanh thở,
(1) Quán Sở :Tìch vua Tương Vương nước Sở đi chơi ở đầm Vân Mộng, nằm chiêm bao
thấy một thiếu nữ xin hầu chăn gối và tự xưng là thần nữ ở Vu Sơn. Sau vua cho
lập Quán (như đền thờ, am, miễu) ở chân núi Dương dài.
Lầu Tần: tích vua Trần Mục Công thấy Tiêu Sử thổi
ống sáo rất hay nên làm cái lầu cao để Tiêu Sử dạy con gái là Long Ngọc, sau
hai người lấy nhau, hai tích nầy ý tả những tình dục, hoặc sự mộng tưởng mỹ
sắc.
Giọng thảm thương người trắc trở lương tâm.
Hỡi Trượng Phu, nên khêu đèn chánh đại cho sáng chớ
đi thầm,
Nầy Quân Tử đốt đuốc huệ trở lại đường chánh kẻo đi
lầm nơi chước quỉ.
- Ai là gánh vai tuồng Hiếu Trung nên xét kỹ,
Cho lưỡng toàn, chớ học sách ruồi nọ nương đuôi
ngựa, Ký, (1) toan múa mỏ gọi đi xa đường,
Bay ba thước đà hết sức cánh trương,
Nương đuôi ngựa chớ khoe bướng rằng sức giỏi.
- Trong Võ Trụ, hỡi người thông minhc ùng là thấp thỏi,
Biết ăn cơm uống nước, nên biết ơn tạo dựng trong
cõi thế gian nầy.
Đừng mê man vật chất lại quên hẳn ơn nghĩa tớ thầy,
Chờ an thân yên ổn vui vầy, mà mắc lưới trần vây,
khó thoát bầy yêu lộng.
- Gội ơn Trời cao mà đặng sống,
Chớ phui pha phải hiểu lộng lộng bủa lưới Trời
giăng,
Nầy mỗi người đều sẵn trí lương năng.
Lấy Tinh Thần mà diệt tánh kiêu căng, kẻo đến cuộc
ăn năn đà rất muộn.
- Màu sua se đỏ đen, người chóa mắt lòng ưa chuộng,
Chẳng ngờ lòng ham muốn mà phải chịu luống đoạn cam
go.
(1) Ruồi nương
đuôi ngựa ký : Ký là con ngựa hay, câu nầy ý nói "Ruồi đeo đuôi ngựa Ký đi
xa, lạ lấy công người làm công mình, khoe khoan sức giỏi. Để ví người đời chỉ
biết có mình, chứ không biết nhớ ai mà nên".
Cảnh bể dâu như bể nóng nơi lò,
Đường lao lý chịu quanh co, ráng lần mò ra đường
ngay nẻo thẳng.
- Lấy tinh thần hườn lại hột Định Phong Châu (1)
khá trương ra cho biển trần êm gió lặng.
Mượn nước Dương mà tưới sạch lửa hồng gian,
Sẵn dù Trời che chở cơn mưa lạnh nắng chang,
Aáy là phước trời ban, chớ mơ màng, phải thở than
cơn kiếp chót.
- Cây tuy lõi cứng nhưng cũng phải rán lừa loài mọt,
Chớ ỷ mình mà không xem trước coi sau,
Ham trèo cao hớp tớp sẫy chơn té nặng phải chịu
cảnh đớn đau,
Lời hòa hượt cẩn thận vậy mới anh hào ra độ thế.
- Trong nhơn loại khá lần lần ráng lóng nghe câu Thần kệ.
Chạm nơi lòng, chớ khinh để, khó thoát bể trầm
luân,
Chốn trần gian cay đắng
khổ truân
Miền phàm tục tưng bừng lời không
ra Đạo Đức.
- Cõi thế giới không Đạo Trời một ngày kia phải tuyệt dứt,
Bởi vì giấy trắng tươi làm đổ mực ắt phải khó chùi,
Kẻ quáng mù khéo tài khôn dẫn đứa mù đui,
Hai tánh mạng ắt khó dời là kề nơi ao rộng.
- Hỡi trí tài nhờ Tạo Hóa nấng nuôi nên mới sống,
(1) Định Phong Châu : là một hột minh châu
trong sáu hột Trân Châu Liệt Hòa Kỳ ở nước Tây Hạ tấn công cho nhà Tống. Triều
vua Nhơn Tôn, sai Địch Thanh đi lấy, hễ gặp gió lớn mà trương cờ ấy ra, nhờ hột
Định Phong Châu mà gió liền tạnh.
Trong mấy thu vùng vẫy trong cảnh rộng chốn phù
sanh, (2)
Than ôi ! Còn hoi hóp lướt giọng bực hùng anh,
Ngừng trống ngực, trước không chứa đức lành, nay
phải chịu tan tành thêm khổ não.
- Lời khuyên dạy xiết chi là quí báu,
Tiếng dạy đời, ráng uống hườn thuốc cứu khổ cho qua
bịnh Tử Lão nơi cõi trần nầy,
Xuất thanh hồn cỡi hạc nương mây,
Nơi Tiên cảnh vui vầy cùng bạn cũ.
- Hỡi khách trần thế đứng trong Hoàn Vũ,
Khuyên lóng nghe cho đều đủ lời Phật, Tiên khuyên
nhủ từ lành,
Phòng lửa to táp mặt, trước lánh mời khỏi lúc tàn
canh,
Ngừa lánh trước, kẻo nước kề chơn mà nhảy lộn quanh
e khó khỏi.
- Phật Thánh Tiên chẳng nài nơi trần chốn trược kề tai hỏi,
Hỡi nguyên sanh nhìn cảnh ủ dột vậy mắt có mỏi cho
chăng ?
Lực kim tiền màu đen đỏ rực rằn,
Thế vật chất lắm khó khăn, thêm bạn kim bằng khó
kiếm.
- Mấy lời vàng, ráng để vào tâm mà triêm nghiệm,
Khuyên tạc lòng lánh nơi chốn nguy hiểm chông gai,
An phận nhàn thông thả ráng học sách Xích Quày, (1)
(2) Phù Sanh : Chỉ đời người sống gởi trong chốc lát (vie éphémère)
(1) Xích Quày :
Lý Xích Quày hay là Lý Thiết Quả tên là Lý Ngưng Dương đứng đầu trong hàng Bát
Tiên
Chớ ăn cơm Huỳnh Lương như Lữ Động Tân (2) chưa hay
là giấc ngủ.
- Kìa loạn luân là gương Thương Trụ, (3)
nọ thanh liêm Văn Vương an nhủ, nhà khôn đóng cửa,
rất thuần hậu cho phụng gáy non kỳ,
Bảy thu trường nơi Dũ Lý chẳng phiền chi,
Trụ ám hại sau sầu bi, vô nghì cùng ngọn lửa.
- Cuộc cùng cuối thành xiêu tường ngã, thấy hoàn
cảnh càng thêm chan chứa,
Sóng Văn Minh, người mê mẫn, kẻ lụy ứa luống sầu
bi,
Hỡi sung sướng vật chất thấy người đói cơm khát
nước có vui chi,
Kẻ than thở, cảnh sanh ly cùng tử biệt
- Miếng chung đỉnh (1) khiến giành chen vựt người
vào hang hổ huyệt,
chước quyến rù người mê mẫn nên khó biết thoát cảnh
phiền ưu.
(2) Lữ Động Tân : Quán Lữ xem chú giải Huỳnh Lương.
(3) Thương Trụ :
Vua Trụ Vương là ông vua ở cuối đời nhà Thương (1.154-1.135 trước TL) người
dũng mãnh có trí, nhưng mê đắm nàng Đắc Kỷ. Đặt ra thuế khóa nặng nề, dựng lâu
đài, xây ao hồ, chơi bời rất dâm dật. Dùng những hình phạt thảm khốc, đến các
ông Ví Tử, Cơ Tữ, và Tỷ Can là hoàng thân cản ngăn, đều bị thọ cực hình. Bắt
Tây Bá Hầu là Cơ Xương (Văn Vương) giam bảy năm nơi ngục Dũ Lý. Sau con là Phát
lên hội 800 nước Chư hầu, vào đánh vua Trụ. Quân nhà vua trở giáo mở đường cho
quân Tây Bá Phát tiến. Vua Trụ biết cơ nguy ôm bảo ngọc đốt mình mà chết, làm
vua được 32 năm.
(1) Chung đỉnh : đỉnh là vạt, chung là
chuông. Đây nói nhà sang trọng khi ăn phải dùng vạc (nồi đồng lớn) nấu cơm, lúc
ăn phải đánh chuông cho ai nấy nghe xúm lại mà ăn.
Luồng gió cạnh tranh, người thảy mắc mưu,
Khiến cắn xé hận cừu, dụng thầm mưu, mà hại đồng lưu trong màng chung đỉnh.
- Nợ trần ai phủ rồi, chớ cho dấp dính,
Lấy tinh thần soi tỏ một lòng chí kỉnh ơn cao dày.
Thức giấc hồng trời đã rạng đông mai,
Tỉnh ảo mộng, mau kíp quày chơn lại, mới gọi trí
tài thanh quân tử.
- Rộn rực bấy lấn chen quán Lử,
Nhộn nhàn thay tưlực cho khách giang hồ,
Hãy rõ nước mấy đời động trên chốn gò mô,
Cửa trần kẻ đẩy xô, cảnh cơ đồ là ô hô một giấc !
- Lời châu ngọc Phật Thánh Tiên khuyên đời nên xa mùi vật chất,
Tiếng đá vàng đã dạy rõ đành rành,
Khuyên khách trần lánh nơi u trược mà tầm cảnh nhàn
thanh,
Lòng nghe rõ giọng chim Oanh, khuyên nhạn sầu tình,
tỉnh giấc mộng, rọi kiến Hồi minh khử tiêu muội ám.
- Thuốc Trời cứu bịnh trần, người uống vào ắt mười
phần thuyên giảm,
Hoàn Linh Đơn cứu dứt chứng cảm phong trần,
Trái Phan Đào (2) mời khách nên xa lánh chả Phụng
khô Lân
Nếm một miếng rửa cõi trần cho người nguyên nhân
muôn kiếp.
- Trống Lôi Âm đổ thức người đương cơn hồ điệp, (1)
Tỉnh giấc Hòe hươn chạy cho kịp thoa kỳ,
Đã đăng bài Công Bình Bác ái với Từ Bi,
Để rành rõ hiệu Vô Vi Đại Đạo.
- Hỡi khách trần có nhớ bạn tri âm nơi miền Bồng Đảo,
Cõi giang hồ người ham dạo cảnh chứa chan,
Kiếp phù sanh như hoa, mai nở chiều tàn,
Mùi trần thế mơ màng, gẫm xem càng ức lụy.
- Thiên Địa tuần huờn, châu nhi phục thỉ,
Sửa cho đời đặng khỏi chước mị kế tà,
Đạo Tam Kỳ qui Tam Giáo chung hiệp một nhà,
Thêm năm nhánh giáo hóa, cho Đời đặng phong hòa,
đoạt thành lý nhiệm.
- Khuyên quần sanh lánh nơi cõi giang hồ chông gia nguy hiềm,
Tiếng chuông vàng ai khéo động, bay thấu nhiễm vào
tâm
Đờn Tạo Hóa lên đúng dây giọng thanh nhã phù trầm,
Trống tỉnh mộng hỡi người lạc lầm, mau nghe tiếng
khá chỉ châm bước quày trở lại.
- Khuyên khắp cả Hoàn Cầu Thế Giái,
Đứng trong trần người người phải có lý chánh đại
quang minh
Đạo Đời đừng xa phải thể bóng với hình,
Đời không Đạo Luân Lý phải nghiêng chinh, luật Công
bình tán khuynh xiêu đổ.
(2) Trái Phan Đào : hay Bàn Đào là Đào tiên của Bà Tây Vương Mẫu, cây ấy ba
ngàn năm mới trổ bông, ba ngàn năm mới đậu trái, ăn được một trái thì sống ngàn
năm, ý nói nên tìm đạo đức, xa lánh tình đời, rửa sạch bụi trần, trở về cựu vị.
(1) Hồ Điệp : là
giấc bướm. Tích Trang Tử ngày xưa, nằm chiêm bao thấy mình hóa ra con bươm
bướm, lượn đi lượn lại rất thỏa thích, tới khi tỉnh dậy bàng hoàng không biết
ban nãy mình mơ hóa bướm hay bây giờ bướm đang mơ hóa ra mình.
- Đời nương Đạo đặng thuần phong gặp ân Võ Lộ,
Thế Hòa Bình người khỏi hổ với lương tâm,
Buổi thế xây tuyết bủa sa dầm,
Đời cùng cuối kẻ lạc lầm, ráng lóng nghe rõ giọng
phù trầm đờn cứu khổ.
- Nước Từ Bi chảy tràn cứu bịnh trần khắp chỗ,
Đèn Quang Minh tế độ vớt sanh chúng đồng cả hoàn cầu,
Cây sung chồi, siêng bắt độc sâu,
Thì bông nờ đậu trái ngọc châu sai quằn quại.
- Khuyên khắp cả thế gian nhân loại,
Sĩ, Nông, Công, Thương đều thảy vùng vẫy trên mặt
địa cầu
Lấy Tinh Thần mà suy nghiệm Lý Cơ Mầu
Dùng trí huệ vẹt cho sâu, mới rõ tiếng ngọc châu
lời vàng đá.
- Cuộc trần thế sự đời không lạ,
Nẻo vinh hoa người há hưởng lâu dài,
Sao bằng yên cảnh nhàn mùi Đạo Đức vui say
An thanh tịnh là chốn
Bồng Lai tại thế.
- Thấy cảnh điêu tàn kẻ
châu rơi người giọt lệ,
Lời Thần Tiên dạy chẳng nệ, cứu người cho qua khỏi
bể hồng trần.
Đời cuống cùng trời đất xoay vần
Cuộc thế mãn hỡi Nguyên Nhân tỉnh mộng lần, ráng ân
cần tu phước đức.
- Miếng đỉnh chung bớt cơn rộn rực,
Mồi trần gian nên dứt, tua gắng sức theo Thánh
Tiên,
Lướt sông mê sang Bát Nhã thuyền,
Qua biển khổ, Phật, Thánh Tiên chờ kẻ duyên mà đưa
qua miền siêu độ.
- Hỡi sanh chúng dang nắng dầm mưa mồ hôi dường tuyết đổ,
Lo từ trẻ đến già cho đầy rương muôn chỗ, đến lâm
chung khó lo hối lộ cho quỉ Vô Thường.
Tội mình làm mang một gánh nặng, đe, nạp đến Diêm
Vương,
Dây oan nghiệt khéo vấn vương mà tai ương phải
vương lấy.
- Còn hoi hóp lăng xăng vùng vẫy,
Hồn lìa thân mới thấy luật thiên nhiên.
Aên năn dường nước chảy, lương tâm bứt rứt khó yên,
Phải tích đức nay động Đào Nguyên, (1) chờ khách
hữu duyên ở nơi miền trần thế.
- Hỡi Nhân Sĩ ! Đèn sách mấy thu nơi lòng ghi để.
Đạp ngao đầu (1) nơi hoàng bệ thưởng ban,
Chiếm bảng vàng thọ lãnh tước quan,
(1) Động Đào Nguyên : Đời nhà Tấn, ông Đào Tiềm
chép bài Đào Nguyên ký : kể chuyện người đánh cá ở đất Vũ Lăng nhân theo dấu
hoa đào trôi trên khe, đi lần đến một nơi thấy dân cư chạy loạn từ đời Tần. Sau
tìm lại mấy lần không được, nên cho đó là cảnh Tiên.
(1)Đạp ngao đầu : chỉ người thi đậu Trạng nguyên
thời xưa. Tích theo thần thoại ở phía đông biển Bột Hải giữa khe lớn có năm hòn
núi là : Thoại Chi, Viên Kiều, Phương Hồ, Doanh Châu và Bồng Lai, đều là chỗ ở
của Thần, Tên thường theo dòng nước lớn, ròng để chảy lên xuống. Thần Tiên tâu
Ngọc Đế sợ chảy ra bốn phía mới sai mười con ngao to, thay phiên nhau mà đội
năm hòn núi ấy, cứ sáu vạn năm thì thay phiên nhau một lần, cho nên người nay
thi đậu Trạng nguyên thì gọi là đạp ngao đầu hay chiếm ngao đầu.
Lòng khắc bạc, thảm cho kẻ cơ hàn luống thở than,
chẳng an người hèn thấp.
- Quan thanh liêm đốt đuốc rọi kỹ mà khó gặp,
Người vô lương tâm chất ngất tợ Thái Sơn,
Gặp cò bay dạ đưa đẩy tặng là ơn,
Thấy phụng gáy giả tâm luống oán thầm chước độc.
- Ngậm mồi ngon nọc thể như rắn độc,
Hỡi khách trần hưởng lộc, mà có dòm cho kẻ mai khóc
chiều than.
Cuộc vinh huê như hoa nở chẳng mấy lâu rồi cũng
phải xủ tàn,
Sánh với cơ đồ Tạo Hóa mau như nháy mắt rõ ràng cõi
trần gian thấy hiện
- Sao bằng Đạo Đức kia, như Tông Bá muôn năm hưởng
phước trời không rung chuyển.
Tiết Đông Thiên đăng miên viễn hoài hoài,
Lá sum xuê, nhành sung tốt, đời có một không hai,
Oâi ! là Quân Tử hỡi Anh tài, lẽ không biết hai chớ
cũng tường rõ một.
- Nầy Nông Nhân hưởng ân Trời lập nên rường cột,
Đổ mồ hôi, xót con mắt, tom góp cho đủ đầy
Kẻ hữu dư người bất túc, lo lắng tay lấm chơn lầy,
Chịu nắng mưa sương tuyết ngày ngày, luống cực nhọc
đắng cay, nhờ phước Cao Dày đặng hưởng đầy ơn đức trọng.
- Than ôi ! Cháy da phỏng trán chẳng mấy thu rồi cũng ô hô một giấc mộng,
Eùm cho đầy rương gìn giữ cực thân noi kiếp sống,
nhắm mắt rồi cũng hai bàn tay trắng, chẳng dính theo tay một mảy hào ly
Hồn xa xác đà bước đến cảnh sầu bi,
Đành than thở cho cây roi vô nghi của Quỉ sứ.
- Hồn mới rõ : phải chi sanh tiền tu âm chất tích trữ,
Đến lìa cõi trần khỏi bảy lự ba lo,
Aên năn đã muộn, lòng rối tợ tơ vò,
Không thế gỡ, ráng lần mò, ôi ! Rất đắn đo mà không
đặng.
- Sao bằng lúc sanh tiền lập âm chất cho đủ sẵn,
Đã hữu dư trợ người bất túc nơi Tiên bảng rạnh đề.
Sống thương đồng loại mà cứu giúp cảnh ủ ê,
Hồn lìa khỏi xác, nơi Bồng Đảo đặng về, danh bia
tại thế chẳng hề phai lợi.
- Nầy Công Nhân lao nhọc, cuộc đời kể xiết bao là thứ lớp,
Dầm tuyết sương, chải mưa gió, một kiếp vùng vẫy
trong cảnh mê sông,
Aên không ngon lo lắng nơi lòng,
Ngủ chẳng được luống mong trông chờ đợi.
- Của một đồng công một lượng, chỉ quanh lo đường danh lợi,
Mảng thu tàn xuân tới, lo lặn lội mà qua khỏi cuộc
biệt ly chăng ?
Nhọc khó cam trong giấc
mơ màng,
Vô Thường đến tam canh,
của muôn ngàn khó lót lo cho đặng.
- Sao bằng tích phước đức sanh tiền cho đầy đủ, tâm
phàm đà êm lặng,
Phướn Thanh Phước Thần (1) chờ sẵn mà rước trực
thẳng Tây Phương.
(1) Phướn Thanh Phước Thần: Thanh Phước Thành
tên Bá Dám, là Nguyên soái của vua Hiên viên Huỳnh Đế vì đánh giặc Xi Vưu mà
chết. Khi Khương Tử Nha vâng lịnh lập Bảng Phong Thần, được phong chức Thanh
Phước Thần, cầm Bá Linh Phan để rước các vong linh đưa lên bảng Phong Thần lãnh
chức.
Kiếp sanh tiền một mảy Thiện Lương,
Hồn khỏi xác Thiên Đường vầy hiệp.
- Rượu Quỳnh Tương (2) uống vào đặng sanh trường kiếp kiếp,
Đờn cứu khổ đúng dây thẳng nhịp, hỡi khách trần còn
đương giấc Hồ Điệp, nghe đờn không dây ru linh hồn tỉnh mà lánh kiếp trần ai.
Gánh mộng trường trả đừng vay,
Nợ oan nghiệt sẵn trí huệ, ta trổ tài mau bước quày
trở lại Bồng Lai Phật cảnh.
- Nầy thương nhân chịu nắng mưa rõ tuồng đời ấm lạnh,
Chốn thương hồ một cảnh buồn than,
Thợ khéo hay cho mấy không thể đổ thau ra vàng.
Mang một kiếp sống trần gian, trước chẳng lo toan,
hồn khỏi xác, xuống chốn suối vàng, tiền muôn bạc ngàn, khó lo khỏi tội.
- Chốn dương trần vợ con dầu rướt trăm sãi tụng
muôn ngàn khó trong độ rỗi,
Cảnh than phiền nhiều nỗi chịu đắng cay,
Chốn chốn cô độc chịu bi ai, luống than dài thở
vắn.
- Sao bằng lúc sanh tiền tu tâm hành theo kinh kệ
Phật, Thánh Tiên bảo dặn,
Buổi lâm chung đã sẵn Quỉ phục Thần khâm.
Chốn thanh nhàn bạn cùng Tiên Thánh, cờ rượu ca
ngâm,
Nơi thanh nhã muôn năm còn mãi mãi.
- Cả khuyên hết thế gian nhơn loại,
(2) Rượu Quỳnh Tương : Rượu bằng nước Ngọc
Quỳnh, là thứ rượu quí và ngon của Tiên, uống vào đặng thì trường sanh bất tử.
Lời đá vàng lóng nghe rõ, dùng trí huệ tinh thần mà
phủi rảy chốn trần ai,
Mến thương nhau cốt nhục đồng loài,
Thương cầm thú cũng biết sống mà dưỡng dục hôm mai
với nhau trong bốn phương trời rộng.
- Hỡi nguyên sanh, cả thế gian người đồng trí dõng,
Sẵn muôn nghề ngàn nghiệp, ba vạn sáu ngàn ngày ít
ai sống nơi cõi trần mộng nầy chăng ?
Khuyên trước buông nơi ngọn mà tìm cho đến cội căn,
Tu phước đức thuyền Từ Lành mới khỏi lằn sóng trần
lao tràn bủa.
- Vùng vẫy lo bạc vàng tiền của,
Màu đỏ đen nhảy múa lăng xăng,
Chẳng mấy thu hưởng
cuộc trần gian,
Kiếp khổ não buộc ràng
chịu tai nàn, luống thở than, than thở,
- Ráng tu hành phước hiểm nguy
Thánh Thần phò trợ,
Lúc gian truân Phật
tiên giúp đỡ khỏi nàn.
Chí công phu càng trổi
nước
vàng,
Hành Chánh Đạo, nơi chốn thanh nhàn, Tây Phan an
cảnh tịnh.
- Cơ Tạo Hóa tuần hườn luật thiên nhiên đã định,
Cuối Tam ngươn quì Tam giáo chấn chỉnh Lý Chơn
Truyền,
Dạy nhơn sanh trở lại Đức Hiền,
Đời mỹ tục rất nhuần yên trong Thế Giái.
- Chiếu Nhựt Nguyệt quang đồng cho nhơn loại,
Thế hoa bình đức hà hải ơn trên,
Mở chơn truyền người un đúc trí huệ tăng lên,
Gieo giống tốt lập cao nền Đại Đạo.
- Đời Nghiêu Thuấn vẹn tròn thuận thảo,
Bủa phước lành Lý Đạo Vô Vi,
Ban nhơn đức chiếu tỏ rạng quang huy,
Mưa gió thận đời xiết chí ân Võ Lộ.
- Hữu duyên phước mới gặp đặng Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Háo Sanh tạo Hóa cứu khổ cả muôn loài,
Khắp bốn phương đang ngưỡng vọng bái Linh Đài,
Tám hướng gọi Đức Cao Dày ban rưới.
- Cơ cảm hóa cả Hoàn Cầu hưởng thanh nhàn khương thới,
Cõi trần gian phới phới Tinh Thần.
Nghĩa nhân trọn đời Từ
Thiện rất hoan hân,
Trung hiếu vẹn thế muôn
phần hòa hảo.
- Nước Cam Lộ (1) dẫy
tràn người gội nhuần rất nên quí báu.
Đời thuần phong người thể Tiên Phật nhờ Đại Đạo
hoằng khai
Tánh ôn lương hòa nhã Đức Tài
Trí minh, huệ rạng râu mày thanh triết.
- Lời Thánh Huấn khuyến tu rất đặc biệt,
Cả khuyên đời nên rõ Lý Thuyết Huyền Vi,
Mến thương nhau liên kết nghĩa tương tri,
Yêu cả trọn Đạo Tam Kỳ Phước Thiện.
- Đời Nghiêu, Thuấn người un đúc tinh thần càng phát triển,
Thế Hòa Bình điễn tuyến rất bay xa,
Cảnh Thiên Nhiên sơn thủy đặng diềm đà,
Màu thanh nhã nước Ma Ha càng thêm nhuận.
- Cảnh Trời dương ánh vàng đà chói rựng,
Đạo sửa Đời rất cảm ứng Thần Linh.
(1) Nước cam lộ : nước sương ngọt. Sách xưa thường nói : Hễ thiên hạ thái bình,
thì Trời rơi xuống nước sương ngọt.
Dạy nhơn sanh kiến tánh tâm minh,
Sửa thế cuộc đặng an bình nhân loại.
- Đờn KHẢI NGỘ tiếng kêu xa tỉnh thức người quày
bước lần mà trở lại.
Trống GIÁC MÊ đổ mãi khai đường Chánh Đại quang
minh,
Gió mưa hòa trong Hoàn Vũ đời gặp phước Hư Linh.
Vẳng vẳng rõ tiếng kình (1) càng nghe rạnh.
- Khuyên nhơn loại khá tu tâm cùng dưỡng tánh,
Đức Hạnh tròn nơi Tiên cảnh đề danh,
Lọc nước trong mà rửa lần đặng bạch thanh,
Trau trí huệ vẹn tài lành, rạng sử xanh còn hoài
không dứt.
- Khuyên trong Thế giới người khá lo tròn Đạo Đức,
Cảnh thanh nhàn đà sẵn chực kề đưa,
Đại Đạo khai tua khá lập chí Thượng Thừa,
Tam Kỳ Phổ Độ chực đưa người tròn Nhơn cùng vẹn
Đức.
(1) Tiếng kình : Kình là con có Kình. Đại hồng
chung ở chùa có chạm hình con cá Kình nên tiếng Kình là tiếng chuông chùa ngân
dài.
3/ - THI TUYỂN
ĐẠO ĐỨC CHẦU NGỌC KINH
BÀI
Lão Đại Tiên, đêm thanh ngự bút,
Để giáo truyền, giữa lúc canh thâu.
Hạ Ngươn phục thỉ đáo đầu,
Đạo Đức thuần túy hồi chầu ngọc kinh.
Chư đệ muội, đạo huynh chung thủy,
Gìn chơn truyền, khắc kỹ tu
thân.
Giồi
trau mình đức tân dân,
Chí
ư, chí thiện mới hoàn trò Tiên.
Buổi
Hạ Ngươn trần miền thống khổ,
Đức
Từ Bi khai mở Đạo Trời
Tam
Giáo thống hiệp quy nguyên
Độ
tận sanh chúng, phản tiền vị ngôi.
Đường
chánh kỷ chiều mơi kiên cố,
Để
hóa nhơn giác ngộ Đạo nhà.
Căn
bản vong kỷ vị tha,
Đại
đồng thống nhứt hiệp hòa đệ huynh.
Chí
Quân Tử vẹn giữ chữ tin,
Với
tấc lòng phụng minh Cao Đài.
Để lo tu phận kịp ngày,
Long Hoa xây chuyển, Hội khai kề
gần.
Sổ vàng chạm, chí vàng trọn thảo,
Bảng ngọc đề, tâm Đạo sĩ nhu.
Muốn nên danh để nghìn thu,
Sớm hôm công quả, công phu chuyên
cần.
Kẻ đức trí bươn chân bước thẳng,
Dầu phong sương, đày dạn xa xăm.
Trải bao nhiêu cảnh thăng trầm,
Muốn lo trọn phận, hân hoan tấc
lòng
. Muốn đi đến tân dân minh đức,
Phải hành theo đúng mức chơn
truyền.
Kinh văn, chí thủ cần chuyên,
Mới là xứng phận sĩ hiền Đài Cao.
Chư đệ
muội, Đạo mần giác ngộ
Phận
tu mi, bồi bổ ân thâm
Ngày
ngày soi rọi thân tâm
Giồi
trau bản thể, chất âm vun bồi.
Đứng
nam ử chiều mơi phục vụ,
Trang
nữ liệt phận sự vẹn an.
Chí
tâm thẳng bước lối đàng,
Để
đem giáo lý, độ toàn nhơn sanh
.
Chớ đắm thế, mai danh hiền sĩ,
Mãi
luyến trần, phải lụy kiệt hào.
Đời
tàn xô xát khổ đau,
Đoạn
lần quả nghiệp, mới vào bảng Tiên.
Thấy
thế sự ưu phiền lắm khổ,
Nhìn
chúng sanh lụy đổ đôi hàng.
Cuộc
đời nhiều nỗi lo toan,
Họa
tai dồn dập, khắp trán đảo điên.
Đời
Kiệt Trụ, ngửa nghiêng sanh chúng
Vì
nhơn tâm, sử dụng lối nghì
Đồng chung chịu cảnh khuynh nguy
Luệt công thiên định, đâu ly mãi hào.
Trí thấu lý, cần trau linh tánh,
Gần đường chơn, xa cảnh mị tà.
Chánh tà đôi ngã suy ra,
Trược, thanh phân biệt khỏi
sa lụy phiền.
Tâm
thanh bạch bổn nguyên tự giác,
Trí
quang minh thấu đạt diệu minh.
Gắng
lo trau sửa Đạo huỳnh,
Từ
Bi, Bác Aùi, Công Bình, yêu thương.
Kỳ
ngươn hạ phô trương Đại Đạo,
Hiệp
ba nền Tôn giáo thuyết minh,
Để
ra cứu vớt toàn linh,
Rõ
thông giáo lý, phục bình sáng soi.
Đây
là người, kia người ai đó ?
Người
với ta, chỉ có một thôi,
Tranh
nhau, giành giựt mấy hồi,
Hồn
lìa khỏi xác, phủi rồi tay không.
Cửa
thiền môn, lóng lòng trong sạch,
Nền
am tự, định tỉnh đường tu.
Chí
tâm vẹt phá ngút mù,
Giồi
trau linh tánh, thiên thu ánh lòa.
Kẻ
luyến thế, Đạo cha nào thấu,
Người
đắm rtần, cá chậu chim lồng.
Kôn
trong bốn vách quanh vòng,
Khôn vầy nên phải đọa trong luân trầm.
Dại chỉ biết lo tầm lẽ phải,
Dại như vầy, ấy dại ra khôn.
Dại khôn biết tính thiệt hơn,
Dại không hại chúng, tổn nhơn lợi mình.
Tứ Diệu Để, đinh ninh nơi dạ,
Bát Chánh Đạo, mau khá ghi lòng.
Lưu thanh, khử trước lóng
trong,
Đồng
tu trau sửa, chí công thực hành
.
Tâm quãng đại, trọn lòng cho đúng,
Tánh
khoan nghiêm, sử dụng mới nên.
Giới qui căn bản làm nền,
Biết mình nhơn loại, biết trên cha Trời.
Phận
trò tu, trau giồi thanh bạch,
Trên
Thiêng Liêng, chỉ vạch lối đường.
Chung
đồng huynh đệ lo bươn,
Con
đường siêu thoát, thuần lương tấm lòng.
LÝ THÁI BẠCH
CHÁNH
PHÁP, TÀ PHÁP
BÀI
Pháp
cũng có Pháp tà, Pháp chánh,
Chánh
Pháp là trong cảnh toàn chơn.
Chánh
pháp giáo hóa nghĩa nhơn,
Chánh
Pháp dạy rõ nguồn chơn lý mầu
Chánh
Pháp dạy hồi đầu hướng thiện,
Chánh
Pháp là thể hiện Phật, Tiên,
Chánh
Pháp học rõ chơn truyền
Chánh
Pháp chơn chánh, mối giềng từ trên.
Tà
Pháp là lệch chênh tả hữu,
Tà
Pháp là bảo thủ lợi quyền
Tà
Pháp dụ dỗ trần miền,
Theo
đường dục vọng, chẳng yên cõi lòng
Tà với chánh, là trong với đục,
Người tu chơn, trí thức rõ tường,
Phải
cần giữ vững lập trường,
Theo
đường chánh đại, chủ trương của Thầy.
Nên
Đất Việt, nơi đây Thánh Địa,
Thầy
đã gieo, trồng tỉa giống lành.
Là chư đệ muội nhơn sanh,
Hấp
thụ đạo đức trọn lành tốt tươi.
Là
hột giống truyền đời mãi mãi,
Giống
hòa bình đem rãi năm châu,
Năm
châu bốn bể hồi đầu
Để
người phục thiện vào chầu Chí Tôn
Đời
đang lúc dập dồn tai nạn,
Aáy
là cơ độ tận chúng sanh,
Nếu
người giác ngộ đường lành,
Thì
sẽ được cứu lưu danh sau nầy.
Còn
những kẻ tạo gây tội ác,
Chẳng
hồi đâu mạng bẹc tiêu vong,
Ngày nay Thầy mở Hoa Long,
Thừa cơ cứu thế độ trong nhơn
loài.
Hữu
duyên lành ngày nay đệ muội,
Trước
gặp Thầy, tiến tới vị ngôi,
Rõ
thông đạo lý của Thầy,
Thành
tâm, thật ý, mới là thành công.
Chư
đệ muội hiệp đồng chung lại,
Lãnh
vai tuồng trọng đại Thầy giao,
Để
lo hướng dẫn đồng bào,
Lần
ra Vạn Quốc, một màu Đạo Cha.
RÕ
THIÊN CƠ TRỌN DAÏ VÌ THẦY
THI
BÀI
Kìa
thiên lý, du hành bất tức,
Máy
tuần hườn, bĩ cực thới lai,
Hết
đêm rồi tới ban ngày,
Xuân
sanh, Hạ trưởng, Thu lai, Đông tàn.
Chỗ
giáp mối Xuân tàn Đông đến,
Người
chơn tu, tánh mệnh song tu
Phải
lo vén ngút mây mù,
Tâm
linh phát huệ, trăng thu sáng lòa.
Cảnh Hạ Ngươn, Long Hoa chuyển hóa,
Rõ
thiên cơ trọn dạ vì Thầy.
Dức
tin vững chắc đêm ngày,
Trau
giồi tâm tánh, thẳng ngay một đường
Đường
chơn Đạo là phương cứu cánh,
Lý
trung dung, tùy cảnh độ trời,
Khá toan chung thỉ với Trời
Thực hành chơn Đạo, gặp thời Thượng
Ngươn.
Chư
chức sắc nguồn cơ đã rõ,
Vững
lập trường gắn bó theo Thầy,
Thực
hành chơn pháp chớ sai
Bền
tâm nhẫn nại, đêm ngày liệu lo.
Cảnh
Đông tàn, sóng to gió lớn,
Trải
bao phen rùng rợn cảnh nguy.
Người
ti đã rõ Tiên Tri,
Ráng
mà lập chí đủ đầy mới nên.
Chí
Bá Tòng vẫn bền sương tuyết,
Dù
trải chi xiết khó khăn.
Một
lòng tin tưởng Đạo hằng,
Mới
là kết quả, thọ ân phước hồng.
Chư
đệ muội trong vòng chuyển
hóa,
Đã trải qua đường sá niên rồi,
Còn nhiều khổ khó luân vơi,
Ráng
mà chịu đựng, mới thời thành công
Trên
Hội Thánh một lòng một dạ,
Dưới
nữ nam chi sá khổ lao.
Cùng
nhau nhứt trí tâm bào,
Để
lo cơ Đạo, cho mau đắc thành.
Chư
đệ muội hy sanh thêm mãi,
Ráng
xả thân hăng hái đường tu,
Cho
qua những cảnh mịt mù,
Bình
minh sẽ gặp, ca âu thái bình.
Nhắc
nhủ nhau đồng tình lo liệu,
Khuyên
bảo nhau, dạy biểu cho nhau,
Hành y Tân Luật một màu,
Chơn
Truyền Tân Pháp chớ xao nhãng lòng.
Trong nhị niên, Long Hoa chuyển hóa,
Cả nhơn sanh, tai họa vô ngần,
Ráng
mà tin tấn Đạo hằng,
Càng
ngày phát triển, gia tăng phước lành.
Phần
vô vi điển hằng ban bố,
Trợ
giúp người trình độ tiến cao,
Lo
cho cơ Đạo dồi dào,
Lo
cho sanh chúng một màu tu chơn.
Đường
Thiên Lý, nguồn cơ đã rõ,
Cứ
một lòng gắng bó lập công,
Mới
là được hưởng phước hồng,
Mới
là được dự, Hoa Long bảng đề.
LÝ THÁI BẠCH
ẨN
MÌNH TRONG CƠN GIÔNG GIÓ
THI
BÀI
Gà
lẽ Mẹ, gà kêu chiu chít,
Mẹ
túc con, xúm xít hiệp vầy.
Aån
mình, dưới cánh Mẹ đây,
Che
thân qua khỏi, ó bầy xớt đâm.
Kìa
đường rậm, hố hầm đầy vẫy.
Con
ham ăn, chạy bẩy hụt chơn.
Chó,
chồn, sư tử chực hờm,
Nếu
con hờ hững, xác hồn phải tiêu.
Mẹ
túc con, tiếng kêu ríu rít,
Hiệp
chung đồng, khắng khít tình thương.
Ham
mồi, con phải lạc đường,
Kế
gần bên Mẹ, lo lường bình an.
Lão
Giáo Tông, lời tràng ẩn ý,
Chư
hiền toan, nghiệm kỷ tiên tri.
Xét
xem sẽ rõ thời kỳ,
Niên
nầy sắp đến những gì xảy ra.
Hữu
phước gặp Đạo nhà khai mở,
Sẵn
duyên lành, mới nhớ đường tu.
Mau
lo công quả công phu,
Công
trình đầy đủ muôn thu hưởng nhàn. LÝ ĐẠI TIÊN TRƯỞNG
CHƯƠNG
IV
NHỮNG
LỜI DẠY CỦA ĐỨC LÝ
Đời còn gặp mịt mù sương tuyết, Nạn phong ba chi
xiết não nùng, Người tu vững chi Đạo trung, Theo đường chánh giáo, hiệp cùng
Thánh Tiên. Sẽ đến hội đoàn viên bạn lữ, Hưởng cảnh đời phong phú Thuấn Nghiêu,
Thanh bình trở lại sớm chiều, Hưởng an cảnh lạc, tiêu diêu thanh nhàn. LÝ THÁI BẠCH
1/ - Thánh Ngôn 1926-1938
TÂY NINH (Chùa Gò Kén)
năm Bính Dần (1926)
LÝ THÁI BẠCH
Về việc công cử Bàn Trị
Sự, chư Hiền hữu làm không hiệp Thiên ý, vì một người mà lãnh nhiều
trách nhiệm thì sao cho tiện. Thượng Trung Nhựt, hiền hữu rõ việc lắm chớ.
(Thượng Trung Nhựt
bạch ......)
Lão y lời hiền hữu mà xin sửa lại, vì không phải
thiếu người mà làm như thế. Việc đó là việc của chư hiền hữu, Lão đâu dám tiến
cử ai. Nhưng có một điều là một người không nên lãnh hai phần việc.
Thái Thơ Thanh Thủ Bổn và Phó Hội Trưởng không đặng
(hai người trong hội ký tên mới được xuất phát). Lấy theo việc hành chánh thì
không phải tính như vậy được. Đạo cả, chẳng nên tư vị, nghe à !
Lão còn ít lời khuyên chư hiền hữu rằng : công quả
cho kịp kỳ kẻo để nhiều người còn chìm đắm trong khổ hải mà khăng đặng sớm gặp
Tam Kỳ Phổ Độ, nên Lão cũng lấy làm thương xót. Có người thì rủi dường ấy, còn
nhiều kẻ may gặp chánh Đạo, lại có ý cáo thối, lui bước lại đường đời, ấy là
điều đáng lo cho chúng sanh, vì cái gương Đạo mà đem chiếu giữa công chúng, nếu
gương trong thì rỏ rạng, còn gương lờ thì mới sao ?
Phần nhiều để dạ lo thế sự, không hay lẽ chánh, lẽ
tà. Trong Đạo, kẻ ấy, khi nghe lời nghị phản đối, thì ngã theo liền vì quanh
năm cứ mang lấy thói mờ hồ nên phải thua kẻ ngoại Đạo. Vậy cái tiếng mình là
người Đạo chẳng là tiếng hổ thẹn lắm sao ?
Chư hiền hữu, nếu lấy lời của Lão làm phải, thì nên
lưu ý mà lo Đạo, và cũng đem truyền ra cho hết thảy đặng nghe.
Còn có nhiều đạo hữu củng cố công nữa, Lão sẽ nài
xin phong thưởng.
Lão xin chào chư đạo hữu.
THĂNG
"THÁI
BẠCH
"Lão khen chư Đạo hữu, Đại hỉ ! Đại hỉ ! ...
"Mời Chưởng Pháp phái Nho
"Thơ, chư hiền hữu bình thân. Đứng dậy phân
hai bang.
"Chưởng Pháp Đầu Sư tọa vị. Phối Sư tam phái
tới trước
"Thái Thơ Thanh phải đem bộ chú giải các luật
Tân Luật của các hiền hữu đến dâng cho ba vị Đầu Sư. Ba vị Đầu Sư đồng đứng dậy
bái mà tiếp Luật một lượt, thế nào trong sáu bàn tay đều có trong sáu bộ Luật,
ngay giữa, dạy cả ba tiếp dưng lên. Chưởng pháp cũng phải bái mà tiếp một lượt,
đội dưng lên đại diện dạy vô đưa lên chí trán.
"Nghe dạy : Lão giao luật này cho nhị vị
Chường pháp xem xét lại nữa trong một tháng phải rồi và giao lại cho Hộ Pháp
xầu Lão sửa luật. Phải làm một phòng thanh tịnh mà giả làm Hiệp Thiên Đài, thập
nhị thời quân phải có mặt, Thượng Sanh Thượng Phẩm có mặt.
"Phải tái cầu nghe dạy.
"Nhị vị Chưởng Pháp đem luật để ngay tượng Lão
một đêm nay. Đem luật để lên điện rồi xuống tọa vị.
"Chư Thiên Phong đồng lại Thầy.
TÁI
CẦU
"THÁI BẠCH "Thiên điều mầu nhiệm của Đạo
còn thiếu sót lắm.
"Cười ... Những điều ấy có chư hiền hữu biết
đâu mà lập cho đặng. Hai thay ! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì chẳng
thành luật, nếu chẳng thành Luật, thế nào thành đạo ?
"Cười ...
"Lão tâu cùng Đại Từ Bi xin thêm vào luật
những điều bí mật yếu trọng ấy, vậy chư hiền hữu cũng phải cầu khẩn với Lão
...".
LÝ
THÁI BẠCH GIÁNG CƠ
LÝ BẠCH - Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng
sanh.
Thái hòa dương thạnh Đạo nam khai, Bạch tú Thiên
đăng đắc cảm hoài. Kim tác liên tâm cơ hậu thế, Tinh thành lộ dẫn chiếu vân
Đài.
Chư chúng sanh khá đại tịnh đặng tiếp giá Đức Từ
Bi.
Ngày
18 tháng giêng Đ.M (19/2/1927)
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
Viết
CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ, chư nhu.
Thầy để lời mừng các môn đệ nơi đây có dạ kinh
thành và lo phận sự mà dìu dắt sanh linh bước vào nẻo chánh.
Đạo phát trễ một ngày, thì nhân sanh tội lỗi cả
muôn ngàn, vì vậy mà Thầy muốn cho mỗi đứa đều để lòng lo liệu chấn hưng nền
Thánh Giáo.
Điều Thầy vui hơn hết là muốn cho các con thương
yêu giúp lẫn nhau, như con một nhà, phải đồng tâm hiệp chí, chia vui sớt nhọc
cho nhau, nương đỡ dìu dắt nhau, đem lên con đường đạo đức, tránh khỏi bến trần
ai khốn đốn nầy, mà cả muôn triệu sanh linh đã chìm đắm, vì mồi phú quý, bã
vinh hoa.
Thầy trông mong nơi các con, chớ nên vì chuyện nhỏ
mọn phàm tục, mà bứt hẳn mối tương thân, tương ái, thì chẳng phải là đức tánh
của tu hành đó.
THĂNG.
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội.
BÍNH THANH, hình Phật Thích Ca, trước Hiệp Thiên
Đài đó phải làm thế nào cho đừng hư gẫy, vì CHÍ TÔN đã trấn thần chính nơi tay
Người, nghe.
Quả Càn Khôn cũng vậy, khi tháo ra rồi ráp lại y
như vậy, khi tháo ra phải cầu Lão đưa Thần một đỗi, rồi mới đặt tay vào, nghe
à.
Dặn mấy Thánh Thất mới, phải cầu CHÍ TÔN trấn thần.
Lại nữa, Thánh Thất tạm phải cất ngay miếng đất trống, còn Hiệp Thiên Đài tạm
phải cất trước Thánh Thất tạm. Đạo hữu phải khai phá đám rừng trước Thánh Thất
tạm, như vậy ngay trung tim rừng, cách miếng đất trống chừng ba thước rưỡi đóng
một cây nọc đo Hiệp Thiên Đài như vầy : ngoài Bàu Cà Na, đo chừng 50 thước đóng
một cây nọc, ấy là khuôn viên Tòa Thánh. Lão lại dặn, từ cây nọc bên phía miếng
đất phải đo vô Bàu Cà Na 27 thước Langsa, nghe à ! Từ vuông 27 thước mỗi góc
của Đài Bát Quái, nghĩa là hình nhà tròn có 8 nóc, cao từ đất lên thềm 9 thước
langsa, hình nóc tròn mô lên, chỉ có 8 nóc, cho phân minh. Trên đầu đài phải để
cây đèn xanh. Kế nữa là Chánh Điện, bề dài 81 thước, bề ngang 27 thước, lão
phải vẽ mới đặng. Hai bên Hiệp Thiên Đài bên mặt thì có Lôi Âm Cổ Đài, bên tả
thì có Bạch Ngọc Chung Đài, Lão phải vẽ mới đặng.
HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM, nội trưa nầy phải cắm một cây
viết vào đầu cơ, lấy một miếng giấy lớn, vào Điện phò loan cho Lão về.
BÍNH THANH phải có mặt, còn kỳ dư không cho ao vào
Điện hết, nghe à !
Phải mua khoảnh đất Bàu Cà Na làm Động Đình Hồ nghe
à !
THĂNG
(2-3-1927)
LÝ BẠCH
Hỉ chư đạo hữu, chư đạo muội.
Chư đạo hữu, lúc nầy đã đến buổi người hành khách
phải trải qua một lối chông gai. Muốn bước khỏi, cần phải có bền chí tận tâm,
và phải gắng xem Đạo đức là trọng hơn muôn việc vui thích ở cõi trần nầy.
Đao tuy gần thành, nhưng còn phải chịu nhiều việc
trắc trở nữa, ấy là lúc các đạo hữu gặp một trường thi rất khó trong buổi rốt.
Sự phổ độ, Thiên cơ đã định, sức người cũng khó lướt qua. Bần Đạo chỉnh để lời
cho các đạo hữu rõ đặng lưu tâm mà hành sự, chớ con đường tuy chớn chở, triền
núi vẫn khó qua, song ngọn đèn Trời đã chiếu tỏ mà dìu dắt các đạo hữu, thì
nhiều ít gì rồi sau cũng đến chốn được. Hội Tam Giáo đương chầu Đức Từ Bi định
khai Đạo cho khắp nơi khác đặng hiệo theo lẽ Trời cuối kỳ Hạ Ngươn này.
THĂNG
LÝ
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu.
Đạo chẳng phải một món hàng mà nay đem cầu người
nầy, mai đem nài kẻ kia, cho họ biết mà nhìn nhận thật nên nhục Đạo thể quá !
Đấng CHÍ TÔN đã gieo giống quí hóa rồi, thì cần phải vun trồng cho cội sởn sơ.
Cội sởn sơ mới có đâm chồi trổ tược nhành lá sum xuê, hoa đơm sắc sảo, rồi mới
đến trái oằn sai mà thành kết quả xứng đáng. Chừng hương nực mùi, hoa đơm trái
rồi, ngàn dặm cũng tìm đến hưởng nhờ giống quý, nhọc chi phải hạ mình mà làm
cho nhẹ nhàng phẩm giá.
Các đạo hữu cứ đường ngay thẳng tới, chung lưng đâu
cật mà lo việc mình, thì muôn việc đều nơi CHÍ TÔN sắp đạt nghe.
Tr ... hiền hữu rõ chưa ? Đã lầm nhiều rồi đó. Danh
Đạo đã bán một lần rồi, ráng mà chuộc lại. Tòa Thánh là cội nguồn, ngày nào
được sừng sựng đứng vững, nêu trên miền Tây Vức nầy, ấy là ngày họ cầu thỉnh
các Đạo hữu đó. Nên biết mà lo.
THĂNG.
Tòa Thánh, ngày 24 Décembre 1930 (Canh Ngọ)
ĐẠI
ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
LÝ
GIÁO TÔNG
Hỉ chư hiền hữu, chư hiền muội.
Lão mang một cảm tình rất nặng cùng chư hiền hữu,
hiền muội rồi đó. Lão là người đã đứng ngoài vòng thế sự hèn lâu, nên đôi phen
bợ ngợ, phải tìm tàng lượng trí lý mỗi người, ôi ! nghĩ nên rất khó ! Vì khi
nãy, Lão thấy con cái CHÍ TÔN đông đảo dường ấy, may là một nước Việt Nam chưa
đủ trọn, mà dường nầy, ngày nào Đạo đã truyền bá toàn trong nhơn loại, trọn
khắp ngũ châu, mới sao nữa !
Ngán thay cho cái trách nhậm nặng nề, vì trót đã
hứa lời cùng Từ Bi ra tế độ, hễ trách phận đàn anh, tuy nhiên lấy oai quyền
khuyến nhũ trừng trị lấy em mặc dầu chớ cũng nên hiểu tâm của mỗi đứa. Lão chỉ
sợ một điều là Lão không phương gần kẻ tà tâm, toan dạy dỗ. Còn như gần kẻ đạo
đức chơn thành thì rất dễ, song chẳng cần ích, tâm Thánh là ngôi vị của Đấng
Thiêng Liêng, không lo trau giồi thì cũng còn tự nhiên vì vẻ đẹp, còn vẻ đẹp tự
nhiên đã mang nặng thi hài nơi khổ cảnh nầy mà không mất thì đoạt vị đã đặng
rồi, lại cần ai nâng đỡ. Aáy vậy Lão đến mà gieo hột Thánh cốc nơi lòng của kẻ tà
tâm, mong cho đơm bông kết quả, đặng liệu thế hồi tâm chớ chẳng phải đến rước
người hiền ngõ.
Lão đây cũng vậy, mà chư hiền hữu cũng vậy, chúng
ta đã đến tạo thế sửa đời vẫn là phận sự của chùng ta đã hẳn, hãy biết phận
mình mới an tâm, liệu thế chuyển xây, đã có khó ắt có hay, đã có gay thì có
thuận, bền chí xem mảy mún cơ Đời. Chư hiền hữu, chư hiền muội, xem trong năm
khai Đạo, biết bao khổ não truân chuyên, Lão vì đã thấy rõ, nên không nỡ ngồi
an xem cơ thắng bại. Lão nhứt định đứng chung vai đâu cật cùng chư hiền hữu,
chư hiền muội mà chia bớt khổ tâm.
Lão chẳng phải sợ, vì chưa có quyền hành hữu vi nào
mà phạm đến Lão đặng, chỉ sợ giùm chư hiền hữu, chư hiền muội mang nặng thi
phàm mà chịu cường quyền đè nén. Chư hiền hữu, chư hiền muội, có đạt được phép
Tiên tri như vậy đâu mà mong tránh khỏi.
Lão nghĩ như thếm nên nhứt định tái thủ quyền hành,
đem cặp nhãn thiêng liêng thay vì cặp nhãn của Thầy đặng thấy giùm mọi điều cho
chư hiền hữu, chư hiền muội, đặng quyết thắng chúng sanh trong kỳ khai đạo này,
thì Lão tưởng khi Lão chưa phải là người vô dụng vậy.
Lão nặng mang tình nghĩa cùng một bạn thiêng liêng
vì đời lãnh mạng, tạo Đạo đặng cứu chúng sanh mà phải chịu mộng trần vào cảnh
đọa. Lão nên nói rằng : cơ thưởng phạt của thiên thơ thì lắm điều trái hẳn với
trí người tưởng tượng, có nhiều khi thưởng hữu hình mà làm hình phạt vô vi, mà
cũng có khi lấy hình phạt hữu vi mà thưởng thiêng liêng công nghiệp. Vậy cái
thưởng và cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh Giáo, nhiều khi chư hiền hữu
chư hiền muội không thấy lý đặng. Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm, bàn
khúng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe !
THĂNG
Ngày 1-8-1931 (Tân Mùi)
ĐĐTKPĐ
LÝ GIÁO TÔNG
Th ... Tr.... Nh... ngày nay Lão đã nhượng nửa
quyền hành cho đó, là có ý để mắt coi hiền hữu đúng phận cùng chăng ? Lão hạ
mình bỏ quyền Nhứt Trấn, lãnh việc giáo Tông mà lập vị cho đoàn em bước tới.
Lão đã lắm phen thấy điều khó khăn mắc mỏ của phần ấy, nên ra tay giục loạn
đặng phân rõ chánh tà, hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ khử.
Lão để mắt coi cái công bình, phàm của chư hiền hữu
giữa Tòa Tam Giáo là dường nào ? Lão lại còn lấy công bình Thiêng liêng mà để
phương cho mỗi vị tội nhơn cải lỗi mình, ấy là thể lòng từ bi của ĐỨC CHÍ TÔN.
Bằng chẳng thì Lão đã hạ cơ trục xuất cả thảy, chư hiền hữu đừng tưởng lầm rằng
vì Đạo chinh nghiêng mà buộc Lão tùng đời. Aáy là lời tuyên ngôn của Lão đã hứa
quyết. Hiền hữu làm thế nào cho vừa trách nhiệm thì làm cho Lão xem thử.
Ng .....Tr......Th...... Lão để lời ban khen đó,
nên hư của Đạo đều nơi tay hiền hữu, hiền hữu khá liệu lấy mà giữ gìn, Lão ở
trong thân hiền hữu, hiền hữu ở trong thân của Lão. Lão đủ quyền hành mà xây
chuyển thiên cơ được cùng chăng cũng do hiền hữu. Khá kính lịnh CHÍ TÔN để lời
mừng cho hiền hữu.
Th....T.....Th......Lão mừng hiền hữu đó. Lão vì
CHÍ TÔN đã hứa mà lo lập vị cho đáng giá, vậy hiền hữu cũng phải tận tâm mà
chung lo với Lão mới phải.
Ngày nay đã hành chánh, thì cũng nên lập mình cho
đủ tư cách của một người cầm sanh mạng của nhân loại. Chưa có ngôi vị Đế Vương
nào mà sánh với phẩm vị thiêng liêng đặng, khá phân biệt trượng khinh mà giữ
gìn kẻo bị tà tâm rối loạn. Hiểu à.
Lão chưa hề thấy ai để trọn tấm lòng mà làm nên
danh thể cho Đạo, mà kẻ phá Đạo hư rất nhiều. Hiền hữu ráng mà trừ tà, diệt mị
cùng Lão, kẻo ngày sau tránh không qua lời tiên tri của Lão đa nghe ! Phải hiệp
đồng cùng cả Chức sắc Đại Thiên Phong mà khử loạn, bằng chẳng vậy thì Lão nhứt
định không cho ai thăng cấp một người. Hiền hữu biết rằng trong trận trí binh
nầy, nếu không đủ tài tình oai dõng thì chẳng hề thắng đặng. Hiền hữu đã lãnh
trách nhiệm nặng nề giáo hóa, thì khá dạy sanh chúng biết lẽ chánh tà mà toan
độ rỗi, còn mưu chước của quỉ quái, tinh ma là mưu của Lão để phân biệt chơn
giả, vàng thau, cho phẩm giá trọng khinh. Nếu hiền hữu để tai vào lời dối trá
thì là làm binh khí cho chúng nó hại Đạo đa nghe !
THĂNG
HỘ PHÁP ĐƯỜNG, ngày 18 tháng 10 năm Aát Hợi
(13 November 1935)
LÝ
THÁI BẠCH
Lão chào HỘ PHÁP, chư Chức sắc HIỆP THIÊN, CỬU
TRÙNG và HỘI THÁNH NGOAÏI GIÁO.
Đợi Lão biểu CAO THƯỢNG PHẨM nâng loan (buông cơ).
Lão đến tư đường của HỘ PHÁP nên cho miễn lễ, đứng
hết.
HỘ PHÁP, hèn lâu Lão không đến chuyện vãng cùng
nhau đặng, một là không cơ bút, hai là vì Thiên thơ biến chuyển, Lão có đến
cũng chẳng ích gì, nay vì lễ Đạo Triều, nên đến chúc mừng chư hiền hữu, Lão để
lời cám ơn Hộ Pháp đã chịu lắm phen nhọc nhằn khổ não làm cho Đạo ngày nay đặng
ra thiệt tướng. Lão chỉnh thẹn có một điều là Lão chưa giúp hay vào đó. Lão đa
tạ, đa tạ.
HỘ PHÁP bạch...
- Cười, Lão chẳng nói rõ, hiền hữu cũng thấy hiển
nhiên rằng từ thử, thảng lão có muốn nên cho Đạo đi nữa thì cũng không thi thố
chi đặng với một Hội Thánh hữu hư, vô thiệt, như vậy có phải ? May thay ! Thiên
thơ do một mặt chẳng chi dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương
quyền trị thế.
HỘ PHÁP bạch : Thiên thơ đã định, đệ tử xin giao
quyền hành của Quyền Giáo Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên thơ vững
chặt.
- Cười, Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy
lại, hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của
Lão nơi tay thì HỘ PHÁP có thế nào điều hành HỘI THÁNH cho đặng, ấy vậy cứ để
y.
2/ - Cơ Phong Thánh và Nhập Môn
Lundi 13 Décembre 1926 (9 tháng 11 Bính Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư Nhu, chư Thiện nam tín nữ.
Thánh Thất đã an, chư Hiền Hữu phải chỉnh nghi cho
tinh tấn.
Thầy dạy Thượng Trung Nhựt hiền hữu lo sắp đặt cho
ra nghi tiết. Thì sắp đặt sau lưng bàn Hộ Pháp, phải để một miếng nỉ dài một
thước rưỡi, cao ba thước, thêu chữ bùa lão vẽ đây (chữ KHÍ)
Làm một cái bàn thờ ba nấc, giữa cao hai bên bằng
cho Thượng Phẩm và Thượng Sanh đứng.
Chư Đạo hữu chỉnh đàn cho Thầy ngự.
Ai chẳng y quan tử tế xuất ngoại.
Nghe và tuân mạng.
* La T.Hạp :
Hạp theo phong hóa giữ đường tu,
Nước cạn non mòn đạo đức như.
Gió nắng chưa hay ngày vắng dạng,
Muôn đời khoe một nết nên hư.
Thâu.
* Thị Trước :
Trước mai chẳng hiệp nghĩa thơ cưu,
Mấy kiếp vì chưa trả hết thù.
Vẹn Đạo khá lo riêng chút phận,
Cái công nhắn khách gởi đường tu.
Thâu.
* Thị Biện :
Biện phân cho hiểu chút thân sau,
Nhơn trước Thiên môn chửa biết vào.
Thấy lối lành đưa qua mặt thế,
Nỗi lưu ly phận chẳng riêng bâu.
Thâu
* Thị Nhờ :
Nhờ ai nay đặng nghiệp nhà an,
Mà lại cưu cưu muốn phụ phàng.
Dưa muối đã cùng nhau cực nhọc,
Phải nhìn lấy mặt buổi vinh sang.
Thâu
* Thị Bính :
Bính niên canh hạn đã gần qua,
Hết buổi lưu linh tới có nhà.
Đức hạnh một lòng lo trọn Đạo,
Vì tu nên phận đặng nên bà.
Thâu
* Thị Nhân :
Nhân duyên mấy lúc chẳng như ngyền,
Vì dạ con đường lúc đảo điên.
Phải nợ tiền khiên dầu khó nhọc,
Cũng lo trọn Đạo vợ chồng hiền.
Thâu
* Thị Nguyên :
Nguyên tình chớ khá đề riêng lòng,
Muốn tát cho cùng nước biển Đông.
Đồng chí đồng tâm chồng với vợ,
Dầu toan cỡi phụng đến đền Rồng.
Thâu
* Thị Trà :
Trà mi khi đã dựa cung đài,
Căn cứ chi nên phải lạc loài.
Vì đức chẳng dồi lo chút Đạo,
Mà ra rẻ rúng cái nhơn tài.
Thâu
* Thị Xa :
Xa nơi hiền đức giữ căn xưa,
Cái tánh hung hăng biết phải chừa.
Lấn lướt đặng đời Trời ghét mặt,
Hình răn nào phải đợi người thưa.
Thâu
* Thị Chi :
Chi nên an mạng gắng tùy thời,
Chẳng cánh buồm trương ráng sức hơi.
Đừng thấy sang hèn toan đổi dạ,
Nên hư khá nhờ tại nơi Trời.
Thâu
* Quýt :
Quýt cam bồng bưởi vốn như lòng,
Ở thế thì lo một chút công.
Giành giựt cho xong mùi mặn lạt,
Chẳng vì chánh giáo của Thiên công.
Thâu
* Tới :
Tới khi cù đủ gạt vi rồng,
Còn đợi một ngày tiếp sắc phong.
Đều đặn một lời cần Đạo Đức,
Đừng lòng ỷ thế cũng như không.
Thâu
* Miêng :
Miêng trường tánh đức giữ cho bền,
Gia nội phải hòa dưới với trên.
Chẳng khá tranh hơn rồi giận thiệt,
Trên đời nào có cách xa Tiên.
Thâu
* Trồng :
Trồng cau mấy mặt biết lòng cau,
Phải nhớ rằng đời khó chuốt trau.
Nên Thánh nên Hiền chưa thấy mặt,
Gian hùng đầy quận với đầy trào.
Thâu
* Bàng :
Bàng qua thế sự lắm buồn cười,
Nếu cả nhơn sanh phải giống ngươi.
Trời đất chẳng cao và chẳng thấp,
Cũng như lỡ cổng với sào bơi.
Thâu
* Phẩm :
Phẩm hàng cũng nhộn với người đời,
Tính đến chen vai với Đạo chơi.
Thấy mặt ta cho vào đứng đó,
Chừng mô thiệt dạ sẽ trao lời.
Thâu
* Hải :
Hải hồ đưa bước đã cùng nơi,
Ngặt nỗi chưa hay biết mặt Trời.
Tội lỗi dẫy đầy chưa gỡ đặng,
Vào chi cho nhọc kẻ chào mời.
Thâu
* Tương :
Tương giang mấy lúc gió đưa sầu,
Duyên ở đâu mà phận ở đâu ?
Hỏi khách đường xưa ai lấp ngõ,
Nên thân bèo tạt vịnh sông Ngâu.
Thâu
*Niên :
Niên cao chưa đủ trí phen đời,
Nương đỡ nhà tan ngó biển khơi.
Ý quyết non sông lo lập nghiệp,
Thương thay chưa buổi đặng nương thời.
Thâu
* Dọn :
Dọn mình cho sạch bớt phàm tâm,
Lẽ chánh tà kia phải xét thầm.
Đừng bụng nghi nghi rồi hoặc hoặc,
Tự nhiên rõ thấu Đạo cao thâm.
Thâu
*Sửa :
Sửa sang cho vẹn Đạo cang thường,
Phải giữ cho toàn tánh thiện lương.
Đưa rước mặt người hay xảo mị,
Lòng con con biết chớ phô trương.
Thâu
* Két :
Két kêu chẳng sánh cú dời thân,
Mấy lúc con không biết kỉnh Thần.
Nạn gởi tai bay vì chẳng hiếu,
Từ đây sám hối tội hoàn lần.
Thâu
* Chữ :
Chữ rằng Thiên Địa có tuần hườn,
Thiệt thiệt rồi ra có hơn hơn.
Đương buổi thành thì suy lại đến,
Suy rồi có lúc thạnh dồi hơn.
Thâu
* Dần :
Dần dà những mảng cuộc đời lo,
Mà chẳng tu tâm lúc dặn dò.
Cha mẹ hiền - lương duyên để sẵn,
Đưa chơn đường Đạo khá so đo.
Thâu
* Kỳ :
Kỳ khôi bớt tánh thị khi người,
Người ấy là Trời đó hỡi ngươi.
Nếu đặng lòng người Trời chẳng thuận,
Hòa nhơn đâu khá để nên lời.
Thâu
* Sáo :
Sáo sứa việc chi cũng thọc thò,
Chưa hay đặng nhỏ mới gầy
to.
Nhỏ nên việc đặng chờ nên lớn,
Đừng bỏ trôi qua tiếng dặn dò.
Thâu
* Nâu :
Nâu sòng khổ hạnh phép gần Tiên,
Như bước ướt chơn mới đến thuyền.
Gắg chí tập lần thân cực nhọc,
Bền gan tu luyện mới là nên.
Thâu
* Kỳ :
Kỳ ba độ chúng Đạo hòa khai,
Phải đủ địa linh mới kiệt tài.
Thương đám nhơn sanh Trời trổ mặt,
Trả lời như vậy bất kỳ ai.
Thâu
* Xanh :
Xanh xanh nào có phụ người hiền,
Đã thấy trọn quyền Đấng Chí Thiên.
Lo hiệp nghĩa nhơn đồng loại giúp,
Đừng ham quyền thế một mình riêng.
Thâu
* Dước :
Bước giao đưa đẩy đạo nhơn luân
Mà tánh hiền lương chẳng đặng thuần.
Đã rõ
kiếp tu là kiếp sống,
Phải lo sửa nết lại cho nhuần.
Thâu
* Thà
Thà theo nẻo chánh xách đèn giùm,
Thà lạy quỉ vương nói phách um.
Chưa rõ chánh tà Trời với quỉ,
Cũng như cơm nước gói nên dùm.
Thâu
* Chim :
Chim khôn biết kiếm đậu cây lành,
Người thiện phải ngừa đức háo sanh.
Tôn trọng người như Trời với Phật,
Thương yêu hết cả chúng sanh thành.
Thâu
* Đô :
Đô hội thay cửu nhị nguyên nhân,
Muôn kiếp chưa đem hiệp một lần.
Công cả các con là đáng nhứt,
Vì con Bồ tát hết cư trần.
Thâu
* Kiến :
Kiến cơ thì khá biết dùng cơ,
Tu luyện nay xem đã phải giờ.
Một đổi lao thân mà đắc Đạo,
Thương giùm người kiếp trước bơ thờ.
Thâu
* Lợi :
Lợi danh đã đọa biết bao người,
Nhiều kẻ nay còn ý dễ ngươi.
Hễ muốn lợi danh mang thất đức,
Thờ chun danh lợi hết gần Trời.
Thâu
* Sách :
Sách truyện xưa ghi đã lắm điều,
Như chuông tỉnh thế gõ nên kêu.
Đường tu ví bẳng không lo trước,
Đền điện Lương Vương phải cháy tiêu.
Thâu
* Cho :
Cho hay Trời Phật chí công bình,
Trước mắt ai ngờ thấy phép linh.
Huyền diệu mủi kim qua chẳng lọt,
Đừng đừng xảo mị gọi tài tình.
Thâu
* Ngọc :
Ngọc lành đáng giá biết bao lăm,
Để mẻ thì ai chẳng tiếc thầm.
Đạo đức mảng đời vùng trở dữ,
Làm cho mất nghiệp mấy muôn năm.
Thâu
* Khanh :
Khanh tể chưa hay bẳng hiếu thân,
Nhơn luân trọn Đạo đáng nên Thần.
Ví xưa biết trước đường tu niệm,
Thì chắc nay đà ngự các lân.
Thâu
* Keo :
Keo sơn chẳng nhớ một lời thề,
Sau trước chẳng dè để đến chê.
Tánh đức ôn nhu tua tập tánh,
Ngừa cơn xuân mản kế qua hè.
Thâu
* Tâm :
Tâm thành thì ắt đặng đời thành,
Danh chẳng cầu mà lại có danh.
Đặng lúc vinh huê tua giữ phận,
Phòng ngừa kẻ nghịch xúm đua tranh.
Thâu
* Ngăn :
Ngăn ngừa cái thói lả lơi tình,
Đừng động tâm mình thấy sắc xinh.
Đưa bước vào đường đời ngắn ngủi,
Can chi ràng buộc tội
bên mình.
Thâu
* Siêng :
Siêng lo thì ắt đặng no
lòng,
Siêng đạo thì đời phải
lập công.
Đừng tưởng mờ hồ vô hỏi
thử,
Phạt không thành tín
bắt lên đồng.
Thâu
* Thị :
Thị thành quen thú ít ưa quê,
Aên mặn rồi ai cũng muốn chè.
Thế sự những mong ham sang với trọng,
Quên lo hồn phách chẳng nơi về.
Thâu
* Văn :
Văn chương bạc tóc biến thêm nhiều,
Võ lực nửa đời võ phải tiêu.
Đức hạnh lớn hơn quyền thế vậy,
Phải toan cho rạng đức đừng kiêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét