Mardi 4 Janvier 1927 (1-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh. Bình
thân.
Thượng Trung Nhựt, kêu ai cầu riêng việc Lão cho
vào... (Có người lầm Lý Đại Tiên là Thầy...). Lão chẳng phải là Thầy đừng xưng
hô lộn. Đạo muội khá nhớ Hóa đương tìm tòi gặp chơn Tiên... cười...
* Hóa :
Hóa dương tìm tòi gặp chơn Tiên,
Đạo muội đừng lo chác dạ phiền.
Lưng trống đôi ngày về Đốc Bản,
Thìn lòng nhớ lấy Lão lời khuyên.
Đửa, từ đây Lão cấm hiền hữu uống rượu nghe... như
phạm giái Lão trục xuất nghe à.
Thượng Trung Nhựt, hiền hữu không tuân mạng lịnh
Lão há ?
Đuổi Quới nghe à... chỉnh đàn Thầy ngự.
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
VIẾT
CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG
Chư môn đệ nữ phái thượng sớ. Chư môn đệ bình thân.
Hiếu, hành lễ.
* Phan Thị Lài :
Lài thơm đâu để mọc ngoài rào,
Hiền đức đâu dè đến đổi sao ?
Chẳng biết tu thân đến thế,
Như ao mắc gió mặt lao xao.
Thâu.
* Lang :
Lang đương gặp lúc gió xuân qua,
Cảnh cũ đường xưa lập nghiệp nhà.
Mơ mộng đừng chờ Trời để lộc
Sanh tài phải đủ sắc tài ba.
Thâu.
* Lê Văn Thiệt :
Thiệt hư là tiếng thế đưa oan,
Chẳng rõ cho xa để trí bàn.
Thương ghét chưa ai đem khỏi sự,
Răn đời lấy một tấc gan vàng.
Thâu.
* Trần Thị Hương :
Hương huê đã nực bóng thiều qua,
Tưởng chút nghĩa xưa thắt ruột rà.
Cảm lối mây giăng ngô ngả bóng,
Tư tư nết hạnh phú trăng già.
Thâu.
* Lê Thị Số :
Số mạng đào hoa sức gió dồi,
Tưởng thân đến thế nghĩ thì thôi.
Người sang mình bận điều nhằn nhọc,
Phối nghĩa cùng người bạc quá vôi.
Thâu.
* Nhứt :
Nhứt đem nhẫn mãng độ canh gà,
Từ buổi xuân xanh đến tới già.
Mang mển nợ đến vai nặng trịu,
Còn thân, còn chịu mối ta bà.
Thâu.
* Lưu Thị Chuộng :
Chuộng danh đã đặng gặp danh chưa,
Hay nỗi ở ăn của bỏ thừa.
Một cảnh một tình xưa chẳng chịu,
Mang câu tuyết ngọc ít người ưa.
Thâu.
* Nguyễn Thị Vi :
Vị tình nên phải phận nghèo hèn,
Lòng dạ như dường Lão cũng khen.
Ráng ở cho bền lòng đạo đức,
Đường Tiên sau cũng gặp người quen.
Thâu.
* Lê Thị Hay :
Hay lo những chuyện gọi bao đồng,
Một tánh mạng mình tính chẳng xong.
Lo nợ đôi thân đôi ngoại nội,
Lo con lo cháu tới lo
chồng.
Thâu.
* Nguyễn Thị Lợi :
Lợi không ích kỷ lợi
Trời ban,
Phải tính trí kia xử
vẹn toàn.
Cứu khổ trợ nguy ấm
chất chuộc,
Dầu không ngôi báu cũng
giang san.
Thâu.
* Phan Thị Bề :
Bề ăn cách ở đã an nơi,
Cuộc thế dường ni đủ toại rồi.
Mua Sở bán Tần nương cảnh thế,
Ngàn muôn giàu lớn hạn nơi Trời.
Thâu.
* Huỳnh Thị Thới :
Thới lai bỏ lúc khổ khi xưa,
Những đức tài đông phải tính vừa.
Thương khó khá nhìn mình thuở trước,
Chơi sang mặt quí giúp cơn mưa.
* Lê Thị Tịnh :
Tịnh tâm con khá gắng công tu,
Cái nợ duyên kia chớ vận trù.
Kẻ biết Đạo Đời thì ít mặt,
Những quân xảo láo hiếm phàm phu.
Thâu.
* Vựa :
Vựa vàng chưa ắt để cho con,
Chứa đức muôn năm hưởng cũng còn.
Nếu tính tham tâm giành giựt mãi,
Dầu giàu như núi cũng tiêu mòn.
Thâu.
* Nghĩa :
Nghĩa nhơn con khá giữ lòng lành,
Hễ tính sự ra ắt sự sanh.
Mình muốn an vui đừng
nhọc trí,
Ham theo tục thế vụ đua
tranh.
Thâu.
Toàn thâu : 38 nam + 18
nữ + 17 Thổ nhơn = 73
Mercedi 5 Janvier 1927 (Mùng 2-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh. Thổ
nhơn vào hầu. Thâu.
Nữ phái thượng sớ. Hiếu Hương hành lễ.
* Điều :
Điều hay lẽ phải đã tường nghe,
Phước tội đôi bên khá dặt dè.
Trăm phước chưa hay lòng chí thiện,
Lựa là trên gió mảnh hương hoe.
Thâu.
* Nhàn :
Nhàn trung kiểm điểm sự bình sanh,
Gương bể chưa ai kết đặng lành.
Muôn đức tiêu hao vì một ác,
Chẳng ai giữ vẹn nợ ba sanh.
Thâu.
* Ca :
Ca diêu đã ví giấc Nam Kha,
Kiếp sống dữ răn nết vạy tà.
Chít mát oan gia đôi lứa cách,
Chẳng lo tu tánh đặng từ hòa.
Thâu.
* Toàn thâu : 42 nam + 17 nữ + 3 Thổ nhơn = 62.
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư Nhu
Bình thân. Chư Nhu thượng sớ, Thổ nhơn trước.
Thâu....
Bịnh xin thuốc cho chị. Cười .... đau thì uống
thuốc chẳng chi lạ. Kiếm lá cách đốt với da trăn, bỏ vào tán chung lại chưng
cách thủy, lấy nước cho bịnh nhân ngậm, nuốt nước lần lần thì khỏi.
Thượng sớ.
* Kỳ :
Kỳ tâm đã sẵn tánh ôn nhu,
Đưa bước rừng văn đã tối mù.
Đai mão chưa quen đường hoạn lộ,
Công linh rèn dạ lắm công phu.
Thâu.
* Chỗ :
Chỗ riêng chớ để kẻ dòm hành,
Thà rách mà cam phận rách thanh.
Giữ nghĩa xưa còn chia tấm mẳn,
Nay không đành kết bạn đua lành.
Thâu.
* Hạc :
Hạc mây nhẹ túi gánh phong ba,
Biết hết Thần Tiên phải phế nhà.
Đặng cảnh Bồng Lai xưa ít khách,
Nhẫn ngờ Lục Động bước ta bà.
Thâu.
* Oai :
Oai linh cửa Đạo sấm rền Trời,
Thương kẻ có tròng lại chẳng ngươi.
Một trái địa cầu chưa mấy nặng,
Nâng luôn thế giái một tay dời.
Thâu.
* La :
La nết mà theo cũng cuối đường,
Thấy người tâm Đạo chạnh lòng thương.
Phất trần đưa sẳn bền tay níu,
Cửa Tịnh đã đành phận náo nương.
Thâu.
* Hiệp :
Hiệp sức làm đôi tát biển Đông,
Tuy không phải vợ cũng ông chồng.
Riêng lòng thì ắt ra riêng nghiệp,
Phải phải phân phân khá giữ đồng.
Thâu.
* Học :
Học hỏi làng văn rất nhọc nhằn,
Cũng như đường Đạo bước xung xăng.
Một ngày qua khỏi không lui lại,
Kẻ bước khỏi tu hết ngại ngần.
Thâu.
* Bầu :
Bầu bí chưa ai bỏ lộn giàn,
Mình quê chưa ắt biết cao sang.
Tẻ vui thú vị riêng mùi hưởng,
Đừng tưởng vinh hoa khó phụ phàng.
Toàn thâu : 42 nam + 7 nữ + 17 Thổ nhơn = 66
* * *
* Ven dredi 7 Janvier 1927 (04-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh. Bình
thân. Kêu Thổ nhơn vào. Thâu.
Nữ phái thượng sớ.
Hiếu - Hương, hiền muội hành lễ.
* Trà mi đã ngậm nửa vành rồi,
Một kiếp nhơn sanh đến đó thôi.
Lo dạo đức dồi lo kiếp tới,
Còn chi mong mỏi sự chơi bời.
Thâu.
* Tý :
Tý thời nghịch lẫn ngọ đưa oan,
Mấy lúc chung lo cái vẻ nhàn.
Nỗi nợ nỗi duyên đưa thảm đến,
Thành gia nào kẻ dạ ưu toan.
Thâu.
* Niên :
Niên canh chẳng hiệp mạng nghèo hèn,
Bởi Đạo Đức nhiều mới lấn chen.
Đổi thế chẳng người lo giữ phận,
Chánh tâm Thiên Địa để lời khen.
Thâu.
* Chuốc :
Chuốc trau cho vẹn Đạo Tam Tùng,
Chẳng quí phận chàng thiếp chịu chung.
Hương lửa ba snh Trời đã định,
Căn duyên phải phận giữ cho cùng.
Thâu.
* Kiểu :
Kiểu chăm gia nội đặng an rồi,
Phải biết xét mình đến đó thôi.
Sau đặng nên nhà công chớ nại,
Khiến điều oan trái chớ than ôi.
Thâu.
* Sảnh :
Sảnh sẹ hay lo gánh việc người,
Công linh chẳng để tỉnh thân ngươi.
Quen trò khi bạn lời ganh ghét,
Nể mặt không kiêng có Đất Trời.
Lui.
* Nguyệt :
Nguyệt tà bóng lặn ngã Tây hiên,
Hỏi cớ gì đâu chịu nỗi phiền.
Trước chẳng nghe thân đôi lúc khó,
Nay đem thân gởi cửa vô duyên.
Thâu.
* Nguyện :
Nguyện lo cho hết nợ song thân,
Cái khó nhọc kia đã định phần.
Phẩm gái chưa ai toàn chữ hiếu,
Nên mình phải vẹn nợ thâm ân.
Thâu.
* Nghi :
Nghi nan chớ chác lấy lòng phàm,
Hễ biết Đạo mầu mới biết ham.
Mắt thịt Trời coi thấp chủm,
Hỏi ai cho thấu Đạo khôn tầm.
Thâu.
* Còn :
Còn thân còn nợ cõi trần nầy,
Cứ nhướng mắt tìm cảnh hạc mây.
Cõi tục đã rằng là tục thế,
Bồng Lai nào phải nước non nầy.
Thâu.
* Tư :
Tư lự không qua số mạng Trời,
Phải tìm cảnh Tịnh mới an nơi.
Đưa chơn hiềm nỗi đời gai góc,
Khó nỗi đi tu khó ở đời.
Thâu.
* Mực :
Mực ngay khó nỗi đoán cây cong,
Biết chút công tu đặng thoát vòng.
Thế sự ép oan thêm buộc nghiệt,
Đời kia với Đạo chẳng
so đồng.
Thâu.
* Lang :
Lan chung cỏ chạ ít ai tường,
Bởi kẻ hiền lương chác nỗi thương.
Thương mẹ thương cha thương chủng tộc,
Thương Tông thương Tổ hết Môn Đường.
Thâu.
* Quí :
Quí sang mặc kẻ võng dù riêng,
Phận bạc lo cho hết kiếp khiên.
Lớn thế tùy người là lớn chức,
Mình là phần khó khá tuỳ duyên.
Thâu.
* Võ :
Võ môn mấy lượt đã từng qua,
Nên nghiệp giang san
bởi chữ hòa.
Định thế nên hư lòng chẳng
đổi,
Đoán thời cách bức lánh
chơn ra.
Nước non vùng vẫy đem
thân gởi,
Vàng đá làu làu tấm
thiết tha.
ôm ấp gánh đời đời hà
biết,
Thương lang nước Thánh tấm
thân già.
Thâu.
* Chỗ :
Chỗ hiền khá gởi mảnh thân sau,
Chẳng giữ Đạo nên phụ kẻ giàu.
Mấy mối oan gia còn trước mắt,
Chẳng ghe nghiệp chướng kiếp mình sau.
Thâu.
* Lễ :
Lễ kinh đã dạy kính nhường người,
Cái thói kiêu căng chẳng khó noi.
Bực Thánh Châu Công xưa vẹn đức,
Nếu kiêu đời chẳng gọi nên người.
Thâu.
* Nghĩa :
Nghĩa kia khá trọng quá hơn vàng,
Biết đặng mình sang ấy mới sang.
Dầu khó bữa mơi lo bữa tối,
Nghĩa gìn trọn Đạo ấy giang san.
Thâu.
Toàn thâu : 48 nam + 14
nữ + 7 Thổ = 69.
* * *
* Samedi 8 Javier 1927
(5-12-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo
Muội, chư chúnh sanh.
Thượng Trung Nhựt, hiền hữu khá nói cùng kẻ đến đây
chẳng tâm Đạo, chỉ đến cầu gia đạo và cầu thuốc, biết rằng : Đây vốn là đền thờ
Ngọc Đế chớ chẳng phải là nhà thương hay là tiệm bói, nghe à ! ...
Thượng Hoài Thanh ! Vì lời nguyện hiền hữu. Lão vị
đó chút.
* Hứa Thị Quý :
Long cốt mộc dung bả
nhứt chi,
Xà bì phàn vị hiệp trần
bì,
Mật phong tu thủ dung hồi vị,
Kỳ thọ hàm dương mẫn nhựt thì.
* Hứa Thị Mực :
Lao tâm hỏa vọng thượng đầu tiêu,
Khả dụng lục căn hiệp mộc điều.
Khử hỏa thủy tu tam xích hiệp,
Nhãn trung tẩy uế nhựt hoan thiều...
* Hứa Thị Lang :
Thanh chi bạch truật
hiệp sài hồ,
Phấn tuyết tùy thời đãi
thiệt cô.
Nhứt nhựt khả dùng tam
đảnh được,
Tam viên bất nạp hữu
phong hồ.
* Trì :
Nể nữ song quang hỏa
lậm trung,
Bất cầu vượt thế khả Thiên
tùng.
Nhứt tâm khẩn đảo cam lồ thủy,
Hòa hiệp nhứt tràng bạch lão ông.
Nghe à...
Thượng Hoài Thanh, hiền hữu mời phu nhơn của hiền
hữu kiến ngự Thầy khi chư Nhu xuất ngoại.
Tường cũng vậy. Thổ nhơn thượng sớ... Nữ phái loạn
đàn há ?
* Anh :
Anh phong nhứt thế chiếm quan trường,
Hữu thế hữu thời Đạo khả dương.
Niên ngoạt nhựt thì Thiên dĩ định.
Hữu căn tắc hữu định cao lương.
Thâu.
* Viết :
Viết thầm thì ắt hóa văn hay,
Có chí bình sanh ắt có tài.
Muôn một ít đời lòng khá nhớ,
Trị nhà phải nhớ nước non dài.
Thâu.
* An :
An thân ngự đặng chốn cân đai,
Hai chữ vô tư ráng sức nài.
Nở mặt Tông đường gìn đạo đức,
Nên mình là biết phận làm trai.
Thâu.
* Thiền :
Thiền môn hữu số khả trì tâm,
Chơn đạo lưu niên hữu chí tầm.
Thánh hạnh mạc vong ưu thế tận,
Thiên thơ dĩ hứa phận cao thâm.
Thâu.
* Vưng :
Vưng theo sở lượng của Thiên Công,
Cửa tuyết chen chơn lánh khỏi vòng.
Nặng vẻ công danh thêm nặng phận,
Thà ôm cầm đến chốn rừng tòng.
Thâu.
* Tú :
Tú cẩm chưa khoe đặng rỡ màu,
Ráng theo Đạo hạnh lập thân sau.
Nghèo hèn đừng đổi lòng thành thật,
Mới đặng khi may mặc cẩm bào.
Thâu.
* Sum :
Sum sê trước cửa quế hòe đưa,
Tuổi ấy đi tu gẫm cũng vừa.
Mượn nước Cam lồ lau tục trái,
Đường Tiên nẻo Phật khá đưa chơn.
Thâu.
* Ngà :
Ngà ngọc chưa phen đổi đức tài,
Giá trong ai dám độ nên hay.
Mình vàng chưa phải toàn trong sạch,
Biết chữ chưa hay đủ gọi tài.
Thâu.
* Toàn thâu : 30 nam + 8 nữ = 38.
Thầy ngự, mời chư Nhu ra hết khỏi Đàn. Đóng cửa
lại.
* * *
* Dimanche 9 Janvier 1927 (6-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh.
Thượng Trung Nhựt bình thân. Thổ nhơn....thâu. nữ Thổ
nhơn vào. Đem con chúng nó vô. Đem con nó lại gần. Thượng Trung Nhựt, hiền hữu
khá nói lại với kẻ đến đây chẳng tầm Đạo, chỉ quyết đến bói, ra khỏi Đàn, để
Lão đuổi bị nhục đừng trác, nam nữ cũng vậy.
Kẻ muốn xin Lão chẳng cho, kẻ không xin Lão cho, ấy
cũng là một phương pháp phạt răn những kẻ vô Đạo thôi. Thượng sớ.
* Phú :
Phú hữu thiên gia bất thoát trần,
Vĩnh thế ấm tử độ cô thân.
Hào gia hữu sở thiên niên đọa,
Bất dĩ nhơn sanh, bất dĩ thần.
Thâu.
* Nhạn :
Nhạn trần có thuở nhạn cao bay,
Tài đức vinh huê cũng có ngày.
Rường cột mặc ai đưa nổi núi,
Mình chen vào đám phế cân đai.
Thâu.
* Hườn :
Hườn hành Hớn thất buổi xưa sao,
Chẳng vững giang san chúng đổ nhào.
Ít Đức Đạo cao thêm vẻ gấm,
Thần Tiên Thánh Phật cũng như nhau.
Thâu.
* Dụng :
Dụng nhơn chẳng khác dụng cây sang,
Quí trọng cùng chăng một buổi nhàn.
Đế nghiệp vào tay chưa đủ phước,
Chẳng bằng vai quảy trọn giang san.
Thâu.
* Huất :
Uất lòng dễ tỏ đặng cùng ai,
Hiền đức mà sao chịu khổ hoài.
Lão nói tỏ tường cho đó hiểu,
Cũng là một trả đổi xưa vay.
Thâu.
* Văn :
Văn chương cái thế mãn đời còn,
Đức hạnh vững bền sánh nước non.
Hai lẽ văn tài đồng đức tánh,
Chẳng ngồi bệ ngọc cũng lầu son.
Thâu.
* Khách Trú Định :
Thiên nhiên tánh đức chí công bình,
Hữu số hám tâm thủ địa linh.
Qui phục kim môn thân ngọc mã,
Chỉ tồn hư thiệt bất quang minh.
Thâu.
* Viết :
Viết Thiên viết địa viết nhơn hòa,
Mộng mị thế tình ngữ thập đa.
Bất kiến kỳ nhơn tâm ái chúng,
Thâu danh thủ lợi mảng sinh tà.
Thượng.
* Thiên :
Thiên căn chánh kiếp chỉ tâm hành,
Thán thế bất hòa chỉ cạnh tranh.
Bắc hướng loạn ly nhơn thán oán,
Hành tàng vắn đắ kiến kỳ thanh.
Thượng.
* Cho :
Cho bền dạ sắt với lòng son,
Non nước xưa kia cũng vẫn còn.
Một chiếc xuồng con không chạy biển,
Thầm lo chi hiệp giống nòi còn.
Thâu.
* Phát :
Phát tài cứ tưởng dẩy đầy đầu,
Tài có là đâu Đạo ở đâu.
Có Đạo không cầu Trời thưởng lộc,
Không lo chí thiện mạng không cầu.
Thâu.
* Khương :
Khương ninh nhứt kiếp tại Thiền môn,
Khả chí tâm tu ngã độ hồn.
Mạc nại Thiền môn tăng dối thế,
Thoát trần chủ định tại Thiên Tôn.
Thâu.
* Thành :
Thành tâm khả tụng kệ Di Đà,
Bất vấn trì môn ngữ thậm đa.
Chuyển thế nhứt thời sanh chúng độ,
Nhứt môn toàn hiệp Đạo đồng hòa.
Thâu.
Nam toàn thâu. Thượng Phẩm hiền hữu nhớ : khi Lão
đề "thất" trước, nghĩa là thơ 7 chữ, tam ba chữ, bát tám chữ. Dặn Sĩ
Tải phải nhớ.
* Đây :
Đây chẳng phải nhà Thầy tiệm bói,
Aáy là đèn chói rọi đường tu.
Hạnh Tiên xưa lắm công phu,
Ngoài tai đã chán mắtmù thấy chi.
Việc đời khi.....
Thâu.
* * *
Lundi 10 Janvier 1927 (Mùng 7-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh. Bình
thân chư Nhu "giữ lễ nghe".
Thổ nhơn....thâu. nữ phái thượng sớ. Thượng Phẩm
dặn Sĩ Tải nghe.
* Hiếm :
Hiếm sầu bi,
Cuộc thế mị,
Ham phú quý
Nhiều phen đổ lụy ngậm hờn,
Trăm cay ai để gieo đờn tri âm.
Ruột gan bầm...
Thâu.
* Tại :
Tại nơi chít mát bóng tùng,
Trần hoàn vì nỗi đau lòng hồng nhan.
Chức nữ khóc thầm biệt Ngưu Lang,
Trăng soi thêm chạnh lá gan vàng.
Tri hoan rượu chén cờ bàn,
Cảm cơn hội hiệp mơ màng lúc ly,
Nghe giọng tỳ...
Thâu.
* Nghe :
Nghe giọng tỳ khêu mấy đoạn buồn,
Chạnh cơn thất thố với ly hương.
Chim lìa đảnh hạc bay ngơ ngáo,
Chiếc nhạn kêu thu đến bến Tương.
Thâu.
* Vàng :
Vàng chìm đáy biển nghĩ khôn tầm,
Biết phận tùy thời chốn gởi thân.
Truân chuyên đã bấy nhiêu lần,
Nỗi oan chín khúc ruột dần chạnh đau.
Cha mẹ nơi nào...
Thâu.
* Chín :
Chín chữ cù lao,
Thì mộng Nam giao.
Tịch sinh nan đào,
Phi thường một dự anh
hào,
Đạo, trăm hạnh cũng lần vào nẻo Thiên,
Đặng trọn quyền...
Thâu.
* Kiển :
Kiển thanh há sửa bởi tay phàm ,
Biết Đạo mà sao Đạo chẳng ham.
Uổng kẻ nhiệt thành chiu chít phận,
Phải duyên có thuở gặp Quan Âm.
Thâu.
* Vĩnh :
Vĩnh tồn mạng số tới chừng nầy,
Tu kịp cùng chăng mó đến đây.
Khí chất tiêu hao không thế phục,
Ráng lo âm chất chứa cho đầy.
Thâu.
* Triệu :
Triệu triệu nam nhi một gánh đời,
Chưa rồi công nghiệp đã mòn hơi.
Tánh trung cang đó chưa nên mặt,
Vì thuở cờ Mao chẳng phải hồi.
Thâu.
* Hào :
Hào hiệp lòng quen kết nghĩa cùng,
Anh hùng tứ hải bước thung dung.
Đưa thuyền đấu núi tuy chưa đáng,
Cái dạ trượng phu sánh bá tòng.
Thâu.
Toàn thâu. Chư hiền hữu văn từ dở lắm, trưa bữa nào
cũng cầu Lão dạy.
* * *
Mardi 11 Janvier 1927 (8-12-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy :
Lão viết chậm, Thượng Phẩm hiền hữu dặn Sĩ Tải phải viết cho cẩn thận.
Lịch ráng đọc cho tử tế, bằng chẳng lão đuổi ra ngoài... nghe à.
Điệu văn Động Đình của Lão dạy chư Tiên, chư Phật,
sau có truyền cho Bạch Vân Đạo Sĩ gọi là Trạng Trình, song người học đặng có
một điệu huyền thế gọi là điệu Bạch Vân. Lão lấy đề : Ngụ Đời nghe.
* NGỤ ĐỜI
Đời hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Đạo truyền.
Nhẫng lo trọng tước cao quyền,
Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành lá rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lở chừng độ duyên.
Sắc
Tài
Tửu
Khí
Lưng ơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm Thần huệ dứt lần trái oan.
Vũ chữ nhàn......
* Giải nghĩa : Thầy là cội, chúng sanh là lá...
Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà dứt oan trái đặng tu tâm dưỡng tánh,
hầu vụ chữ nhàn.
* * *
Mardi 11 Janvier 1927 (8-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh. Bình
thân. Thổ nhơn nam và nữ nhập nội đồng quì. Chư Sơn trước... toàn thâu...lui.
Nữ phái thượng sớ.
* Cân :
Cân câu tội phước sửa mình lành,
Cửa ngục Diêm Đình chẳng kể danh.
Thế cuộc như trò khoe mắt tục,
Tội tình khó rửa với khôn lanh.
Thâu.
* Rẩy :
Rẩy bái thà quen thú dốt mình,
Thà là giữa chợ lắm đua tranh.
Nên hư một kiếp nhờ gần gũi,
Kẻ thiện học gương đặng sửa mình.
Thâu.
* Kế :
Kế trăm chước khéo chẳng bằng hiền
Tu bởi biết mình chuộng nết Tiên.
Mối Đạo đỡ nâng phàm hóa Thánh,
Căn xưa bồi sức giúp lòng thiền.
Thâu.
* Vàng :
Vàng tuy quí giá chẳng bằng lòng
Phật tự thuở chừ mến chữ không.
Ham lợi hiếp cô đâu phải Đạo,
Còn gầy oan nghiệt Đạo
chi mong.
Thâu.
* Liêng :
Liệu trì mai nở sắc sen
xưa,
Cải ác ngày nay nghĩ cũng vừa.
Có vị đừng mê phàm mất vị,
Thiên Đình phải phận chịu dư thừa.
Thâu.
* Đó :
Đó đăng phải giữ phận nghèo hèn,
Dầu có rách lành vụ tiếng khen.
Thanh bạch một lòng vì Đạo hạnh,
Có khi lóng đục bởi nhờ phèn.
Thâu.
* Phượng :
Phượng thờ cha mẹ vẹn đôi bên,
Ráng chuộc gái ngoan bởi nết hiền.
Chẳng đợi người khen Trời thấy bụng,
Họa may gỡ vẹn nơ tiền khiên.
Thâu.
* Bảy :
Bảy mươi chưa biết trọn mình lành,
Đừng thị khi đời ỷ miệng lanh.
Lui.
* Nhạn :
Nhạn chiu chít phận một phương Trời,
Kêu bạn canh tàn chẳng mỏn hơi.
Đưa bóng tuyết càng thêm thắc dạ,
Thân lao lục chịu lắm mùi đời.
* Ý :
Ý chẳng phải tu đến hỏi đời,
Ta cho đặng kế thử lòng ngươi.
Có nơi chẳng tưởng gầy oán để,
Đem tiếng thị phi rải lắm lời.
Thâu.
* Nữ :
Nữ trung đã trọn một lòng thờ,
Trinh liệt giữ bền thuở bé thơ.
Nhơn Đạo đã xong lo phận Thánh,
Tham chi cuộc thế vọng rồi ngơ.
Thâu.
Toàn thâu nữ phái. Nam thượng sớ.
* Đâu :
Đâu là cửa Thánh với đâu phàm,
Mà cứ để lòng tính tứ tom.
Học thiện là nguồn gieo chánh Đạo,
Nghe chi miệng quỉ luận tam xàm.
Thâu.
* Mẫn :
Mẫn thế khá tua tính ích đời,
Ích đời mà chẳng vụ một mình ngươi.
Mình ngươi đặng thỏa trăm người thiếu,
Thiếu sót lòng tu chẳng độ đời.
Thâu.
* Châu :
Châu về hiệp phố buổi xưa sao,
Nay nghiệp nhà ngươi có khác nào.
Có đức của rơi còn lượm lại,
Không duyên phẩm hạnh khó nâng cao.
Thâu.
* Thiền :
Thiền cao chưa đủ đở muôn linh
Như thuở Hạng Vương ở Bành Thành.
Chước khéo là thâu lòng với đức,
Xưa Tần vong nghiệp bởi không lành.
* Sơn :
Sơn là cao đã có lời rằng,
Ta thấy tê ngươi... nghiến răng.
Học hỏi chưa thông ngoài chái bếp,
Nhẫng lo cỡi phụng với đua tranh.
Lui.
* Thay :
Thay đời chẳng phải một tên ngươi,
Thấy phách lối kia bắt nực cười.
Lui.
* Hào :
Hào phú chưa ai dám sánh bằng,
Dầu nghèo mà giữ Đạo làm ăn.
Trời soi dạ thẳng trăm oan thoát,
Co lúc vinh huê bỏ nhọc nhằn.
Thâu. Sau trọng dụng.
Toàn thâu bỏ tên : Thiện, Đào, Đài.
* * *
Mercedi 12 Janvier 1927 (9-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư Nhu.
Thượng Trung Nhựt ! hiền hữu phải dặn Lễ Sanh ra
Đại Điện phải đủ lễ, bằng chẳng có ngày lão cho chư Thần vật chết nghe à.
Thượng Phẩm ! Hiền hữu nhớ đã đặng một điệu văn
Động Đình rồi, chừng nào đến điệu Bạch Vân lão sẽ nói...
# 2 :
Mến giang san
Phế bủa quan
Ngừa trị loạn
Xem qua như chốn hí tràng
Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung
Chẳng ai nắm kiếm Thư Hùng
Thành nghiêng khôn đỡ vạt rùng khôn nâng.
Sĩ dân
Soái Tướng
Quân Thần
Chỉnh chuyên thay ! phận phàm nhân
Đỡ nương chẳng biết dựa gần người binh
Nghe thấy bắt động tình.
* Chú giải : rùng là sung sướng, Thư Hùng Kiếm của
Trương Tử Phòng dâng cho Hàn Tín. Cái phận phàm nhơn chịu lắm nỗi chinh chuyên.
* * *
Mecredi 12 Janvier 1927 (9-12-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Chư Nhu thượng sớ...Bình thân.
Thổ nhơn....thâu.
Lão dặn phải nhớ nghe, cái tượng của lão tại Điện
ngó thấy mọi kẻ như người sống kia vậy, nghe à....
* Hổ :
Hổ ngươi đừng cố tội khi xưa,
Cải hóa ăn năn lỗi cũ chừa.
Trước mắt Thần Tiên chưa dễ dấu,
Lẽ thường nào dứt nắng cùng mưa.
Thâu.
* Sàng :
Sàng lấy gạo trơn bỏ trấu ra,
Nay qui Tam Giáo cũng in là.
Giác đời cậy một lòng thành thật,
Trừ tuyệt tiêu điều lũ quỉ ma.
Thâu.
* Mơn :
Mơn lòng cho thuận tấm chơn linh,
Quyết đoán đừng theo thói thế tình.
Lấy mắt Thiêng liêng xem Thánh Đạo,
Đừng ngờ ngoài ngõ đón yêu tinh.
Thâu.
* Hương :
Hương huê quá giấc chẳng lui chơn,
Chẳng phải có thân để bụng hờn.
Nguồn cội khá gìn lòng hiếu hạnh,
Tu thân trước phải sửa nhà hơn.
Lui.
* Tri :
Tri cơ phải kiếm thấu cơ mầu,
Hỏi thử Đạo nầy gốc bởi đâu.
Bởi kiếp nhơn sanh bày biến dữ,
Nên Trời xuống phước vớt con hư.
Thâu.
* Bản :
Biểu đừng tham phú lại khi bần,
Cái phận nếu hiền dựa các lân.
Trăm chước không nên vì khiếm đức,
Hư như cơ nghiệp của nhà Tần.
Thâu.
* Thôi :
Thôi thì phận vậy cũng là an,
Đủ mặt đủ no kiếm chữ nhàn. Đường thế trông qua
nhiều khúc mắc,
Đưa chơn thử viếng núi Kỳ San.
Thâu.
* Soạn :
Soạn sành lại đủ nét nhà ngươi,
Sợ nói ra đây chúng xúm cười.
Lui.
* Cơ :
Cơ Trời xây đổi lập Tân Dân,
Cái hủ tệ xưa phải bỏ lần.
Đừng ỷ văn chương khi ngoại vật
Trên đầu người hỏi chẳng lời phân.
Phải sửa mình. Thâu.
* Đâu :
Đâu là phước tội phải phân minh,
Biết tội phước kia phải xét mình.
Trước muốn hại người mình hỏi thử,
Như ai toan chước hại nơi mình.
Thâu.
* Liền :
Liền nhành xưa đã thệ cùng nhau,
Sao nỡ để gương kép hại đào.
Mở lối vườn xưa ong vắng dạng,
Hại người uống thảm với ăn đau.
Lui.
* Đeo :
Đeo đai chi lắm cái oan gia,
Mà chẳng nghĩ thương nối nghiệp nhà.
Chia sướng sớt vui ai khác hưởng,
Trêu hờn nuốt thảm một mình ta.
Thâu.
* Lợi :
Lợi lộc công danh đã thấy chi,
Đày thân tóc quắn với da chì.
Cơm ngày hai bữa vừa no dạ,
Bạc chứa vàng chôn chẳng ích gì.
Thâu.
* Thành :
Thành tâm sám hối một đôi ngày,
Cải quá những lời chú nói sai.
Lui.
* Tiếc :
Tiếc công trước với mẹ cùng cha,
Hỏi thử chú em đã biết nhà.
Dựakhách chê thân mang tội trọng
Về lo cho đặng tiếng từ hòa.
Đợi sẽ trở lại thâu.
* Mạnh :
Mạnh đặng yếu thua ấy lẽ thường
Phải lo đồng chủng để lòng thương.
Phò nguy trợ yếu anh hùng chí,
Giúp khó làm nên ít thấy thường.
Thâu.
* Niên :
Niên canh chẳng hạp phận nghèo hèn,
Biết Đạo như vầy Lão cũng khen.
Rửa sạch lòng trong nhờ nước Thánh,
Soi lòng minh mẫn phải nhờ đèn.
* * *
Jeudi 13 janvier 1927 (10 - tháng Chạp-Bính Dần)
THÁI
BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư Nhu.
Ngồi kiết tường.
Hộ Pháp hiền hữu ngâm hai bài trước. Thượng Phẩm
hiền hữu dãy đề hai bài số 1 và số 2 Lão còn kết.
Chú giải : chinh chuyên : chinh là nghiêng, chuyên
là chở. Chở nghiêng nghĩa là chở nặng nề.
Thần Huệ Kiếm : Huệ trí vỉ vi kiếm tác Đạo giả :
lấy huệ trí làm gươm mà hành Đạo...
# 3 :
Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh
Nhà dưới phép luật hình
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu.
Non sông nhuộm một màu sầu,
Nền giao cỏ láng sân chầu sương phong.
Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công vua chẳng phải giòng,
Về Đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm ?
# 4 :
Cũng xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,
Cũng văn, cũng pháp, cũng phong, cũng tục Nam.
Cũng xã tắc, cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn,
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Bát Quái :
Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang.
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn,
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình,
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi ?
...Ấy cũng gọi đời.......
Lão dặn Thượng Phẩm phải biên số, là vì điệu văn
Động Đình chẳng phải mỗi điệu vậy là dứt, Lão còn kết thêm nữa. Tỷ như :
Bài số một, gọi là điệu Thái Cực.
Bài thứ nhì gọi là điệu Lưỡng Nghi.
Bài thứ ba gọi là điệu Tứ Tượng.
Bài Lão nói là điệu Bát Quái.
Vậy Lão là tiếp rồi sẽ chỉ.....
BÀI SỐ 4 :
...Hộ Pháp giải nghĩa.... Vậy thì gọi là điệu Thái
Cực là sao ? Lão chỉ cho Thượng Phẩm - Đọc bài số 1, khi nhập đề như vậy thì là
không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là nhập : Hư Vô.
Thái Cực là vì đó một tiếng. Nhập lại Hư Vô. Bài số
2 ba tiếng là Tam giáo.
Sĩ dân hai tiếng ấy là Lưỡng Nghi.
Bài số 3, ngũ ngôn ấy là Ngũ Chi.
Bốn chữ.... Tứ Tượng là đó.
Bài số 4, chí chữ là Cửu Lưu đó.
Tám chữ...ấy là Bát Quái.
Lão sẽ tiếp điệu Biến Hóa Vô Cùng rồi mới kết cho
toàn điệu.
Chư Đạo hữu lấy điệu văn ấy làm ra mỗi người một
bài cho Lão sửa. Phải tùy theo từ chữ, từ giọng, vậy mới trúng niêm luật, bài
của Lão chỉ dùng làm kiểu đó thôi...
* * *
* Jeudi Janvier 1927 (10-12-Bính
Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh.
Thổ nhơn nhập nội...Thâu. như ai có đến nữa thì nói rằng : chẳng bao lâu chư Đạo hữu đến Soài
Riêng.. nghe à. Chư tín hữu thượng sớ. Thái Bính Thanh hành lễ... Tường...
Cười...
* Xuyên :
Xuyên sơn viễn vọng đến nơi đây,
Lẽ phải khuyên em ráng đợi Thầy.
Chưa hiểu rõ cùng nền Đạo cả,
Bến Tre có thuở đặng sum vầy.
Thâu Kỉnh.
* Ắc :
Aùc ai để mặc kẻ lo toan,
Miệng thế đừng nghe tiếng luận bàn.
Kẻ dại mình khôn dìu dắc dẫn,
Thương sanh phải độ đến nơi Đàn.
Thâu
* Út :
Út eo nhưng hiểu giữ bền lòng,
Trinh liệt thờ chồng đã gắng công.
Buổi nhọc đã qua trong lúc sướng
Từ xưa công thưởng trả vay đồng.
Thâu
* Hơn :
Hơn người chẳng phải dụng mưu hay,
Đức phục nhơn tâm mới thiệt tài.
Thuận dưới hòa trên nhà sắp đặt,
Đạo mầu đừng vội trễ nay mai.
Thâu
* Chua :
Chua cay em đã lắm mùi đời,
Chẳng biết buổi nào đặng thảnh thơi.
Nặng chở thuyền con không chắc vững,
Thương thân khá phú tại tay Trời.
Thâu
* Kinh :
Kinh tâm có nhớ lúc xưa chăng ?
Mà đến không lo nết sửa răn.
Mối nợ chưa rồi không lánh mặt,
Thừa ưa đừng tưởng việc đời rằng.
Thượng.
* Thân :
Thân chưa hết nợ dễ chi tu,
Thà gánh cho kham phận mịt mù.
Biết Đạo khó gìn mang lỗi trọng,
Về lo tập tánh đặng ôn nhu.
Thượng.
* Nguyên :
Nguyên nhân thân lại quá như phàm,
Vì lợi cũng tranh, danh cũng tham.
Aên bóc chưa hay dơ ngón
bóc,
Ham phàm ắt phải lụy cùng phàm.
Thâu.
* Sửu :
Sửu niên chẳng vẹn nội nhà mình,
Dầu đến đã đành phận hiển vinh.
Chức Giáo Hữu ban lo Đạo Đức,
Phải truyền chơn Đạo độ nhơn sanh.
Thâu.
Tùng theo thì thế lập thân danh,
Cửa Đạo gởi thân gẫm đã đánh.
Dạy kẻ đặng lành hiền chức sẵn,
Chẳng ai tranh cạnh chẳng ai giành.
Thâu.
Toàn thâu. Thái Bính Thanh, hiền hữu khá dặn những
kẻ thờ tà Thần Tinh Quái nhớ từ bỏ chúng nó nghe.
* * *
* Vendredi 14 Janvier 1927
(11-12-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo Hữu, chư Đạo Muội, chư chúng sanh.
Bình thân. Thâu nam nữ Thổ nhơn. Thái Bính Thanh,
hiền hữu dặn chư Sơn Thổ nhơn nán lại nghe dạy.
Thảm thay ! Thảm thay ! cũng bởi thầy kỳ truyền nên
tu hữu công mà hành Đạo chư hề thấy. Lão sẽ xin lịnh Thầy hội chư Sơn Thổ nhơn
lại đây trong tháng ba đặng truyền Bửu Pháp cho chúng nó luyện Đạo. Thầy thế
nào cũng buộc chúng nó trường trai.
Tường, nói lại với chúng nó.
Chư nữ chức Minh Đường nhập nội.
Nếu Lão chẳng sai kêu thì chắc hiền muội không đến
há ? ...cười...
Trăm ngàn đức tánh chỉ minh tâm,
Đạo đức thương em một mối cầm.
Thành đọa chẳng vì trong lực thế
Than ôi ! huyền diệu chẳng ai tầm.
Thầy dạy Lão phải lập phái nữ cho thành tựu. Em
gắng lo phổ độ nhơn sanh. Cửu nhị nguyên nhân hãy còn trong vòng hắc ám, chẳng
lẽ em biết Đạo ngồi đó cho đành. Lão trông công em. Xin em lui.
Sơ nghe dạy : (Trần Văn Sơ, Kinh Hối Sa Đéc) Trần
Hiền Hữu, Lão chào bạn. Lão giục hiền hữu lên đặng thọ chức trước ngày cải
luật. Thiên danh hiền hữu phải lấy Ngọc Sơ Thanh... Lão phong hiền hữu chức
Giáo Sư phái Ngọc, khá tận tâm hành Đạo nghe à ! ... Hiền hữu lui... Nữ phái
thượng sớ...
* Thống :
Thống tâm biết bấy lúc đau lòng,
Cơ nghiệp chừng nầy ngó trống không.
Hơn thiệt mặt đời mình chịu ép,
Chỗ dư chỗ thiếu trả không đồng.
Thâu.
* Thê :
Thê thằng tử phược tiếng đời rằng,
Chồng bậu cũng vì chịu khó khăn.
Cực nhọc chẳng chia nhau chút ít,
Mà còn tính thiếu lại đua ăn.
Thâu.
* Chối :
Chối ai đâu dễ chối cùng Trời,
Biết Đạo răn mình đã hết hơi.
Từ bỏ lần lần đều lỗi trước,
Tự nhiên biển khổ lánh xa vời.
Thâu.
* Chiếu :
Chiếu diệu thinh không một tấc thành,
Làm cho cám động tấm lòng anh.
Trao gươm thần huệ đôi lời dặn,
Chặt đứt oan khiêng giữ dạ lành.
Thâu. Sau trọng dụng.
* Tròn :
Tròn méo chi chi cũng nợ đời,
Muốn lừa muốn chọn liệu nên nơi.
Cửa Trình dầu đói nên no Đạo,
Đáy biển lòng người khó nỗi soi.
Thâu.
* Lượm :
Lượm từ chút đức để cho con,
Phải biết mình qua nó hỡi còn.
Thiên lý định phần con phải chịu,
Lỗi lầm mẹ đã để cho con.
Thâu.
* Màng :
Màng chi những tiếng thị phi khùng,
Mà để xiêu lòng mất tín trung.
Nghe thấy đủ điều toan trí tính,
Mới là thấu đáo việc đời cùng.
Thâu.
* Biết :
Biết đời phải quấy biết nên hư,
Biết tội lỗi kia phải biết trừ.
Chẳng có điều nào đời gọi khó,
Trong điều dễ khó để lòng tư.
Thâu.
* Thu :
Thu ba đã quá lúc đưa đường,
Chưa biết giựt mình kiếm dựa nương.
Cân chữ sắc tài đời kém mặt,
Trông trăng đừng vội gấp soi gương.
Thâu.
Thu, dặn có vào Thánh Thất, từ đây phải giữ mình
trinh sạch, đừng tưởng ngoài chợ muốn làm chi cũng đặng nghe... Lui nữ phái.
Bên nam phái có một đứa vào đây thử Đạo, Lão khuyên
nó lui ra, kẻo phải chết một cách thê thảm nghe.
* Thôi :
Lượng trên đã phú một tâm linh,
Phải biết cân đo nết thế tình.
Mỗi ám tinh khôn đưa tiếng trách,
Phật Trời mở mắt ngó anh linh.
Thâu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét