Khảo Cứu Vụ II. Chương Trình Học Đạo Cấp Trung Đẳng - 2 / 3 (Nữ Soạn giả Nguyên Thủy)

Nếu Đức Chí-Tôn chiết chơn linh giáng thế như các vì Giáo chủ trước thì phải tá mẫu đầu thai, mang phàm thể hữu vi, lại nữa là Đạo khai trong nước Việt-Nam thì phải thọ sanh hình hài người Nam Việt thì có thể nào chuyển ba mối Đạo khắp Ngũ châu và toàn cầu thế giới đặng. Lại nữa các dân tộc trong Vạn quốc không thể hiệp đồng sự Tín ngưỡng làm một thì khó mà
độ tận chúng sanh, cho nên Đức Chí-Tôn giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng một Đấng Chí-linh  giáng thế cứu đời qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy nhất. Chỉ rõ bằng cớ như kỳ các Tôn giáo tại Luân đôn thì các nước đều công nhận Đạo Cao-Đài là chơn thật  có thể qui nguyên Đại-Đồng Tôn giáo và tại Toà Nội các năm 1933 Hạ Nghị Viện có 424 vị thân sĩ cùng đồng bỏ thăm toàn công nhận Đạo Cao-Đài.

Đức Chí-Tôn chẳng giáng bằng xác thân mà lại dụng tánh đức lương sanh lập quyền Hội-Thánh thay hình thể hữu vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn linh đối phó cùng quyền Chí linh, ấy là cơ mầu nhiệm cứu vớt quần sanh giải thoát khỏi chốn sông mê bể khổ.

Kỳ Hạ nguơn này dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác thế nào cũng không làm hại xác thân của Đức Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy.

Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên Luật pháp xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của tạo hoá. Đức Chí-Tôn khai Đạo kỳ ba này giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút là do nơi Thiên thơ tiền định chuyển Đạo vô vi hiệp Tam giáo Ngũ chi làm một”   (ĐHP: 1-7 Mậu-Dần – 1938)

2 - Nước Nam có một CHỦ mà thôi: là Thầy.
Thầy dạy: ngày 21-8-Bính Dần ( Thứ hai, 27-9-1926)
 “Các con. Thầy dặn các con, từ đây ai nói chi tùy ý, cứ nghe một Thầy thì  khỏi lầm lạc.
Con TRUNG cứ lo khai Đạo, món binh khí tà quái vì đó mà tiêu diệt. Nước Nam có một chủ mà thôi:là Thầy. Từ trước vì nhiều Đạo trong nước mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc dân,  nên nước phải yếu, dân phải hèn. Dân tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm Chủ. Thầy vì thất lẽ công bình thiêng liêng ấy mới giáng trần lập Đạo tại Nam phương, tức là  thay  mặt Càn Khôn Thế giới mà qui chánh truyền nhơn loại.

Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri rằng: Ngày kia có một nước đương trong vòng nô lệ, vì Ta mà làm Chủ nhơn loại, các con hiểu à !”

Đừng nghe, vì nếu chẳng vậy, ngôi Giáo Tông chẳng ai dám ngồi. Tất cả sáu ngôi kia, hễ các con đến dựa thì quỉ giết chết, nghe à !

Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không dùng huyền diệu.
Còn Nhạc Lễ là phép nhà Nam, Thầy muốn giữ gìn sao cho trọn vẹn, các con hiểu ?
Các con hơi nào nghe lời thế sự, một điều nào cũng chưa quyết đoán cho cùng phải quấy.
- Khi Thích Ca truyền Đạo, dân Brahma cho là Bàng môn vì  khác Thánh giáo Phật đạo.
- Khi Lão Tử truyền Đạo thì  đời  cho là phép mê  hoặc.
- Khi Chúa Jésus truyền Đạo thì nhà Israel gọi là  cải  Chánh đạo, đến  đỗi  bắt  giết.

Các con muốn vừa lòng Thiên hạ thì là giỏi hơn Thầy rồi. Thầy khuyên đừng nao núng, các con ngó Thầy trước, các con coi bước Thầy đi trước, các con cứ  đi  theo sau Thầy là đủ. Cười !”

3 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI
Pháp Chánh Truyền của Đạo Cao Đài là thành văn Hiến pháp Thiêng Liêng, do Đức Chí-Tôn giáng cơ lập thành sau ngày Khai Đạo (là 15-10-Bính Dần) một ngày

Qua ngày 16-10-Bính Dần (dl 20-11-1926) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp Chánh Truyền tại Thánh Thất Gò Kén (Từ Lâm Tự) Tây Ninh.

Trước  tiên  là lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài phân định rõ phẩm cấp và chức năng của mỗi phẩm từ Giáo Tông đến Lễ Sanh. Mỗi phẩm đều có chữ GIÁO hay chữ SƯ. Đến phẩm Đầu Sư là Thầy của các Thầy; nghĩa là từ Giáo Hữu trở lên mới đứng vào hàng Chức Sắc, Thánh

Thể của Chí-Tôn.
Phẩm Lễ Sanh chưa được vào hàng Chức sắc, chỉ là người có hạnh đức dùng vào việc lễ nghi. Ngày xưa dùng phẩm Lễ sanh này là người dâng Lễ (nay đổi ra là Lễ Sĩ)

Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ là Phổ Độ, thế nên quyền Chí Tôn hữu hình tại thế là khi nào Giáo Tông hiệp  cùng Hộ-Pháp làm một.Từ khi Đức Lý Giáo Tông hiệp với Đức Hộ-Pháp mới lập thêm Bàn Trị sự gọi là Hội Thánh Em, do vậy mà phẩm Lễ Sanh mới được nâng lên hàng Chức sắc, có trách nhiệm thuyên bổ, đảm trách vụ đặc sứ, sau này Cai quản Tộc Đạo nên còn là Đầu-Tộc Đạo.

Hội-Thánh Cửu Trùng Đài là cơ quan Hành pháp, nắm quyền hành-chánh-đạo, phổ thông chơn đạo đến khắp chúng sanh, nên Luật ghi: nếu có vị nào nói rằng không thông lý Đạo thì Chức việc Bàn Trị Sự phải chịu trách nhiệm thiếu giáo hoá mà cấp lãnh đạo là Lễ Sanh và Giáo Hữu (Đầu Tộc đạo, Khâm Châu Đạo).
Ấy phần Thế Đạo tượng trưng xác thể của Chí-Tôn.

4 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN HIỆP-THIÊN-ĐÀI:
Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng liêng mối Đạo. Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn. Hiệp Thiên Đài là Chơn thần trung gian giữa xác và hồn. Cửu Trùng Đài muốn thông công cùng Bát Quái Đài, phải nhờ Hiệp-Thiên-Đài làm trung gian, ấy là nơi của Giáo Tông đến để thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Địa cầu mà cầu siêu-rỗi cho nhơn loại. Thế nên Pháp Chánh Hiệp-Thiên-Đài phải lập riêng, đó là cơ quan TƯ PHÁP, bảo thủ chơn truyền.

Ngày 12-01-Đinh Mão (dl 13-02-1927) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên-Đài. Từ đây Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Chưởng Quản của Hộ Pháp,Tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân chia làm ba Chi: Pháp,Đạo, Thế

5 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN  NỮ PHÁI:
Qua tháng Giêng năm Đinh Mão. Đức Lý dạy:
Trước khi bàn đến việc lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ phái, nên nói qua lý-do vì sao Đức Chí-Tôn không lập mà để cho Đức Lý đứng ra lập ?
 (Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý Thái-Bạch)

“Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục Nữ phái:
PCT: Nữ-phái phải tùng Đầu-sư Nữ-phái, songĐầu sư  lại phải  tùng  quyền của Giáo-Tông  và Chưởng Pháp.

CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải tùng quyền Đầu-sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo-Tông và Chưởng-Pháp. Nữ-Đầu-sư quyền như Nam-phái, song điều đình bên Nữ-phái mà thôi, chẳng đặng xen lộn qua Nam, cũng như Nam chẳng đặng xen lộn qua Nữ. Mỗi điều chi thuộc về Nữ-phái thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp chỉ do nơi Nữ-Đầu-sư.

PCT: “Đầu sư Nữ phái chịu công cử theo luật Hội Thánh ban hành, theo luật Hội-Thánh phân xử đường Đời và đường Đạo”.

Chú-giải: Đầu Sư Nữ-phái phải tuân y Tân-Luật của Hội Thánh về đường Đạo và đường Đời, phải chịu dưới quyền Hội-Thánh xử trị cũng như Nam-phái vậy, dầu cho sự công cử lên các phẩm vị cũng phải tùng y như luật Hội Thánh ban hành; nhứt nhứt y quyền Nam-phái, không điều chi cải sửa, dầu cho sự hành chánh cũng vậy. Quyền hành sự cũng về nơi Chánh Phối-sư. Đầu-sư không đặng phép lấn quyền; hễ lấn quyền thì phạm Pháp Chánh Truyền, cũng như Đầu sư Nam-phái vậy.

PCT: Đầu-sư Nữ-phái mặc một bộ Đạo phục y như  Đạo phục Đầu sư Nam phái, phải đội một Ni-Kim-Cô như các Vãi Chùa, toàn hàng trắng, áo chín dải có thêu bông sen. Trên Kim Cô có choàng từ đầu tới gót. Đội Mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngay đầu tóc có Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày vô ưu màu trắng, trên chót có đề chữ “Hương” nghe à!”.

Chú Gỉai: Đầu-sư Nữ phái mặc một bộ Đạo phục toàn là hàng trắng có thêu bông sen, y như Đạo phục Đầu sư Nam phái, áo chín dải, đội một cái Ni-kim-cô; nghĩa là cái Ni kim Cô bằng hàng trắng, y như của các vãi chùa, có thêu bông sen, bao quanh đầu một cái Kim-Cô bằng vàng. Trên Ni-kim-cô ấy phải choàng một cái Mão Phương Thiên, nghĩa là: cái choàng bằng hàng cho thiêt mỏng, trên chót thêm một cái Mũ bằng vàng chụp trọn đầu tóc, chính giữa ngay trước mặt có chạm Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng Minh Khí. Cái choàng của Mão Phương Thiên phải cho thiệt dài, ba thước ba tấc ba phân, vì mỗi phen lên ngự trên Ngai; thì phải có hai vị Lễ Sanh Nữ phái theo sau, nâng đỡ chẳng cho phết dưới đất, chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng trắng, trên chót mũi giày có chữ “HƯƠNG” là Tịch Đạo.”

Nhận thấy qua ba thời điểm lập Pháp Chánh Truyền:
* Ngày 16-10-Bính Dần (dl:20-11-1926) lập  Pháp  Chánh
Truyền Cửu Trùng Đài.Cửu Trùng Đài tượng quẻ Khảm (xem Dịch Lý Cao Đài I  cùng Soạn giả có giải rõ)
- Ngày 12-01-Đinh Mão (dl: 13-02-1927) lập Pháp Chánh
Truyền Hiệp-Thiên-Đài. Hiệp Thiên Đài tượng quẻ Ly
- Tháng 1 năm Đinh Mão lập Pháp Chánh Truyền Nữ-phái

Vậy là đủ Âm Dương rồi. Bấy giờ lập PCT Nữ phái nữa là hoàn thành con số 3 là Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân.

“Như vậy số 3 gọi là Tam, mà Tam là Càn khôn vũ trụ định thể. Số 3 là con số thiêng-liêng tạo-đoan vạn-vật là vậy”.

Thấy ra con “SỐ 3” này là con số huyền diệu, là con số căn bản nhất.

Hơn nữa: Thầy lập PCT Cửu Trùng Đài trước rồi mới lập PCT Hiệp Thiên Đài sau, tức là mở Thể pháp trước, mở Bí pháp sau. Tất cả đều đi vào nhất quán. Lý  Đạo nhiệm mầu là thế !

Pháp Chánh Truyền tức là cơ quan truyền Chánh Pháp thì do quyền năng của Thượng Đế giáng Cơ lập thành. Song song với thời gian này Đức Chí-Tôn dạy nhơn sanh lập Luật để tu, tức là Tân Luật. Như vậy thì Tân Luật này uyển chuyển hơn, tức là có thể thay đổi tùy theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh.

Nếu Tân Luật là Âm, thì Pháp Chánh Truyền là Dương. Âm Dương tương hiệp thì từ đó mới biến hóa và mãi mãi trường tồn. Đạo Cao Đài thất ức niên là bởi đó.  Lại nữa

- LẬP HỘI-THÁNH

Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gồm ba Đài: Hiệp-Thiên, Cửu Trùng và Bát Quái.         

“Thể Ðạo của Chí Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới toan thành lập, Chí Tôn định thành Hội Thánh, đặng thay thế hình thể của Người, thì cũng tùng theo phép Tạo Hóa cá nhân mà gây nên ảnh tượng:
- Cửu Trùng Ðài là thi hài,  ấy là TINH.
- Hiệp Thiên Ðài là chơn thần,  ấy là KHÍ.
- Bát Quái Ðài là linh hồn,  ấy là THẦN.

Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Ðạo cho đặng. Nếu có một quyền hành nào tại thế nầy mà làm cho thân thể Chí Tôn phải chia phui manh mún ra đặng, thì là Ðạo ta là giả Ðạo, tất nó phải tiêu diệt trong một lúc ngắn ngủi chi đây.

Còn như quả là Chí Tôn vì thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập Ðạo đặng giải thoát cho chúng sanh, thì những mưu chước của tà quyền ngăn cản bước Ðạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí Tôn, ắt là không mong bền vững” (PCT).

Hai Đài Hiệp-Thiên và Cửu Trùng thuộc hữu vi, dưới quyền Chưởng quản của Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Âm Dương tương đắc, tương điều hòa nhau. Riêng Bát Quái Đài thuộc vô vi, dưới quyền Đức Chí-Tôn Chưởng Quản, gồm các Đấng Trọn lành (biểu tượng phần trên nóc Tòa Thánh từ Tam Thế Phật đến tượng Đức Di Lạc Vương Phật trên nóc Phi Tưởng Đài) cũng hoàn thành số 3 tam tài

A - Hội-Thánh Cửu Trùng Đài
Lần nầy Thầy chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị hiền, Tam Thiên Đồ Đệ.
Thầy dạy: “Giáo-Tông là Anh Cả các con” (PCT)

Chú giải: “Giáo Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì Anh Cả nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền Thiêng Liêng đã định vậy.

Tuy trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: “Cửu Trùng Ðài” và “Hiệp Thiên Ðài” mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là em của Giáo Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ phần Thiêng Liêng thì đồng vị.”

Thầy mở Đạo kỳ này chọn: nhứt Phật, Tam Tiên, đó là hàng Tiên-vị. Cái siêu tuyệt của Đạo Cao-Đài ở chỗ là quyền Giáo Tông so với Giáo Hoàng của Tòa Thánh Vatican (La Mã) nhưng nhơn sanh chỉ xem Ngài là “Anh Cả”. Tiếng Anh Cả này tức là “Quyền Huynh thế ngôn” hay là “Quyền Huynh thế phụ” mà thôi. Nghĩa là nền Đại Đạo này là một đại gia đình Tôn giáo. Chữ Huynh là ANH tự nó đã nói lên: Anh là người chỉ dùng miệng (khẩu ) để khuyên dạy em mà thôi, chứ không được đánh đập hành hạ. Bởi “Giáo-Tông là Anh Cả các con”.  Suốt hệ thống tổ chức Cửu Trùng Đài có tính nhất quán như thế:

1 - Hội-Thánh Cửu Trùng Đài Nam phái gồm:
- 1 Phẩm Giáo Tông (Nhứt Phật) Lãnh đạo tối cao toàn Đạo có phận-sự dìu dắt Đạo-hữu trong đường Đạo và đường Đời. Pháp Chánh Truyền qui định:      
 “Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông-công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên thế-giái, Lục thập thất Địa cầu và Thập điện Diêm-cung đặng cầu rỗi cho các con” (PCT)

- 3 Chưởng Pháp (Tam Tiên) Lãnh nhiệm vụ nghiên cứu Luật Pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn Đạo.
- 3 Đầu Sư (Tam Tiên): Cầm quyền Chánh Trị Đạo ban hành Luật Pháp Đạo.
- 36 Phối Sư (Tam Thập lục Thánh): Mỗi phái 12 vị. Trong số này có 3 vị Chánh Phối Sư làm  đầu, dưới  quyền  ba vị Đầu Sư cai trị Đạo.
- 72 Giáo Sư (Thất thập nhị Hiền): Mỗi phái 24 vị.  Có phận sự dạy dỗ Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Được quyền dâng sớ cầu nài về Luật Lệ làm hại Nhơn Sanh hay là cầu xin chế giảm Luật lệ ấy.
- 3.000 Giáo Hữu (Tam thiên Đồ đệ): Chia đều mỗi phái 1.000, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Lãnh phận sự phổ thông Chơn Đạo.
- Lễ Sanh: Không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Đồ.

Nam Phái chia làm 3 phái: Phái Thái (màu vàng), Phái Thượng (màu xanh da trời), Phái Ngọc (màu đỏ). Như vậy các bậc phẩm gồm có: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp với các con số chia đều nhau, lấy số 3 làm ước số. Trừ Giáo Tông có một.mà thôi. Tức nhiên dù hiện tại hay mãi mãi về sau cũng vậy:

GIÁO TÔNG CHỈ CÓ MỘT.

Vì là người thay mặt cho Đức Chí-Tôn, chữ  “thay mặt” phải là một người chứ không thể nhiều người được ?. Ông Trời chỉ có một, người thay mặt chỉ có một. Không thể nào có ông Trời nơi này, ông Trời nơi khác. Cũng như mặt Trời chỉ có MỘT mà thôi vậy.

Tuy nhiên lý đạo cao siêu mầu nhiệm quá !
Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa nhơn sanh, là môi-trường học-hỏi, tiến-hóa theo ba bực, mỗi bực có ba phẩm-cấp. Như trên đã nói là hàng Tiên-vị tượng-trưng bằng 7 cái Ngai, mà Ngai của Giáo-Tông ở giữa, đặt trên hết và lớn hơn hết. Các phẩm cấp lần-lượt là Tiên-vị, Thánh vị rồi đến Thần-vị.Vậy trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy:

- “Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.

- Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát.”

2 - Trường hợp ngoại lệ:
- Thực tế ngôi Giáo Tông có ba:

Hình vẽ sau đây biểu hiện rõ 7 phẩm tước của hàng Tiên vị, Giáo Tông vẫn làm Chủ Cửu Trùng Đài. Đồ hình có 7 vòng tròn nhỏ có đường kính bằng nhau. Một vòng giữa định cái tâm, 6 vòng xoay chung quanh là vai trò của mỗi vị gọi là "Các hữu thái cực". Pháp chánh Truyền qui định ngôi Giáo Tông chỉ có một, nhưng thực tế có ba:

- Ban đầu Đức Chí-Tôn định phong phẩm Giáo Tông cho Ông Ngô văn Chiêu, nhưng trong 10 ngày ông không vượt qua được sự thử thách của Quỉ khảo, nên rớt, ông lập Chi phái Chiếu Minh Vô vi rồi đến Chiếu Minh Tam Thanh...
- Đối với nền  Đại Đạo  hiện giờ  thì Đức Lê văn Trung là Quyền Giáo Tông để điều hành Hội-Thánh Cửu Trùng Đài hữu hình (Quyền tức là chưa chánh vị).
- Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh giờ này kiêm thêm chức Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức là Giáo Tông vô vi.

Xem như ba vị Giáo-Tông đứng vào ba đỉnh của Tam giác nội tiếp trong vòng tròn giữa, là hình ảnh của KHÍ mà ba ly rượu trên Thiên bàn  (6-7-8) làm biểu tượng.

Vậy:  - Đức Lý tượng cho Thần (số 8).
- Đức Quyền Giáo Tông tượng cho Khí (số 7)
- Ngài Ngô văn Chiêu tượng cho Tinh (Ngài tượng cho số 6 như nói trên, tức là còn chịu ảnh hưởng của Lục dục, do đó Ngài không thắng nỗi Tà quái khảo. Sau  Ngài lập phái Chiếu Minh và khi Ngài qui thì liệm xác hài trong tháp hình Lục giác) (số 6)

Đức Quyền Giáo Tông đăng Tiên nhập bửu tháp hình Bát giác. Tuy số 7 tượng Thất tình nhưng Ngài đã biến nó thành Thất bửu, tức là thăng hoa vào hàng Tiên vị.
Số 8 là thuần thành, là đạt LÝ vậy (Lý Đại Tiên) "Một mà ba, tuy ba mà một" là vậy.
3 - Hành tàng của các Giáo-Tông:
Pháp chánh Truyền dạy: “Giáo Tông chỉ có một” nhưng thực tế thì có đến ba Giáo Tông:
1/ - Ông Ngô văn Chiêu:
Đức Hộ-Pháp xác nhận:
 “Đi thâu Thập-Nhị Thời-quân rồi, Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo Tông. Trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi ! Chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào Ông Ngô văn Chiêu không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô-văn Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ, ở tại Hà-Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng là “CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT”.

Đàn Ngày  25-6-Bính Dần (dl: 3-8-1926) có giải rõ:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI Giáo Đạo Nam Phương.

“Chư môn đệ nghe dạy:
Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy, nền Chánh giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên đồ đệ, Chưởng quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.

CHIÊU, thiệt là Nhứt Phật đó. Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo Tông cho nó, thì Chúa Quỉ sai Tam thập lục động địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy và kiện rằng Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng TA. Ta có cãi lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo Tông cho nó. Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó và phải để cho Tam thập lục động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.

Rủi thay ! Đau đớn thay ! Buổi khảo nó phải bị Tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải Tịnh thất.
Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? Ta phải giáng cơ biểu nó.
Con Thơ! con phải tuân nơi lịnh Thầy đã dạy khi Thầy giáng cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe. Kẻ bị tù còn có thế rỗi ai chăng?
Chư Môn đệ khá nghe lịnh dạy, từ đây, ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của Thầy.” Thầy thăng.
(Trích trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, trang 237)

Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926)
Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ:
Bao năm dạy-dỗ quá dày công (1) .
Lời hứa năm xưa gắng giữ lòng.
Siêu đọa đôi đường tua chọn lấy.
Lơi chơn một bước sẽ hoàn không!
                                                                      Cao Đài

(1) có bản chép “Ba năm” thì hợp với thời gian trường trai mà Thầy đến dạy dỗ ông.

2/ - Đức Lý Giáo Tông ban “Quyền Giáo Tông” cho Ngài Thượng Trung Nhựt
Theo Đạo Nghị Định thứ hai. Điều thứ nhứt:
 “Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo-Tông về phần xác, còn phần Thiêng Liêng có Lão.

Làm tại Toà Thánh Tây Ninh, ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ. Ký tên Hộ-Pháp Phạm Công Tắc và Giáo Tông Lý Thái Bạch”.

Đức Hộ Pháp xác nhận:
 “Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất-hiện Hội-Thánh Cửu Trùng-Đài đó vậy. Sự vinh-dự này chính Đức Quyền Giáo-Tông đã được hưởng một cách xứng đáng. Bởi vì chính mình Đức Chí-Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội-Thánh. Ngài đi đến đâu Hộ-Pháp cùng Đức Cao Thượng-Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu-khẩn Đức Chí-Tôn thâu Môn đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để Phổ-độ chúng-sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí-Tôn sai hết các Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài tức Thập-Nhị Thời Quân đi phò-loan cùng

hết, không có chỗ nào không có Cơ Bút. Người thì xuống miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết.
Thâu Môn-đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng không    một  miếng  đất cắm dùi làm sao mở Đạo !”

Khi Đức quyền Giáo-tông qui Tiên, Ngài ngậm ngùi:
- “Vì sao Ðức Thượng-Ðế không chọn người nào khác, lại đem mối Ðạo lớn lao mà trao lại cho Người lúc ban sơ ? Mà những người có công tu luyện theo Ðạo này, Ðạo khác cũng chẳng hiếm gì, mà sao Ðấng Chí-Tôn không dùng ai trước ? Có ai dám nói Ðấng Chí-Tôn dùng lầm ! Vậy thì, Tôn-chỉ của Ðại-Ðạo đã biểu lộ ra rõ-ràng, bí quyết đoạt Ðạo chẳng phải do một mặt yểm thế để tịnh dưỡng tinh thần, mà lại phải lịch-lãm nhơn sự và phải siêu quần xuất chúng, rồi lấy đạo đức mà cứu vớt nhơn quần. xã hội, phải tùy sở nhu của chúng sanh mà lập phương phổ hóa, thì cái công tu luyện kia mới bổ ích cho. Vì vậy mà Anh Cả chúng tôi mới đắc dụng trong Ðại-Ðạo Tam Kỳ Phổ-Ðộ.

Anh Cả chúng tôi là người gồm có nhiều điều kiện hạp với tân thời, mà cũng không nghịch với phong hóa cũ. Vậy nên, Ðấng Chí-Tôn mới dùng Người để làm mô phạm cho anh em Ðạo Hữu và cho Đời thấy rõ một phần chơn lý trong Tôn chỉ Ðại-Ðạo. Theo thời đại khoa học đương nỗ lực phát dương này, nếu  đem cái thuyết Duy tâm cực đoan mà phổ hóa chúng sanh không khỏi bĩ-lậu, còn nếu chuyên một mặt Duy vật mà tiến hành thì xã hội phải có ngày tiêu diệt về nạn cạnh tranh phấn đấu. Vậy phải chiết trung hai thuyết mà dung hòa thì đời mới đặng vừa tấn hóa theo văn minh khoa học, vừa duy trì đặng tâm hồn đạo đức. Nhờ hiểu ý nghĩa cao thâm như vậy mà Anh Cả chúng tôi không vì hoàn cảnh mà phải  quá ư thiên lệch về một mặt nào.

Chúng tôi còn nhớ lời tuyên bố rất thành thật của Anh Cả chúng tôi như vầy: “Ngày nào nhơn sanh còn khốn khổ, thì chưa phải ngày Anh tọa hưởng an nhàn. Dầu Anh đắc quả mà qui Tiên đặng sớm, Anh cũng nguyện tái kiếp để độ tận chúng sanh”.

3/ - Thầy giao Đức Lý Thái Bạch kiêm nhiệm Giáo Tông Đại-Đạo:
Từ khi Thầy định ban chức Giáo Tông cho Ngài Ngô văn Chiêu, thì Quỉ Vương xin thử thách ông Chiêu. Ông Chiêu không vượt qua nỗi các thử thách này nên đành chịu mất ngôi Giáo Tông. Kể từ đó ngôi Giáo Tông  để trống. Nay cần phải có phẩm vị Giáo Tông để điều hành nền Đạo nên Đức Chí Tôn giao quyền cho Đức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để điều khiển nền Đạo này. Do Thánh ngôn sau đây:
Ðại Ðàn Chợ Lớn [tại Nhà Ngài Lê văn Trung]

Ngày 23-9-Bính Dần (dl: 29-10-1926)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phương

Hỉ chư Môn đệ, chư Nhu, chư Ái nữ. Các con nghe:
 “Thầy buộc phải nói rõ cho các con đừng lầm mà trách Thầy. Cha hiền chả biết hành hạ con cái bao giờ. Thầy đã đến mà dìu dắt từ đứa thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi. Thầy thấy các con bị phép thử thất Ba Trấn lập thành thì đã hiểu nhiều đứa bị hành. Thầy ngậm đau nuốt thảm ngồi nhìn. Thầy chẳng để thử thất, Ba Trấn trách Thầy vì yêu mến quá lẽ mà làm mất hết công bình, nhứt là Lý Thái Bạch kêu nài hơn hết.

Dầu Quan Âm và Quan Thánh xin cũng chẳng đặng. Nhứt là buổi thử thất ấy, lại nhằm ngày khai Thánh Thất thì các con đủ hiểu  là hại dường nào,  song phải dằn lòng chịu vậy. Các con ngã thì tại nơi Thầy. Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu. Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn  các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng thế ấy.

Vậy từ đây, quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái Bạch. Các con liệu mình mà cầu rỗi nơi Người. Thầy dạy dỗ, các con không nghe, đợi có hình phạt thì các con chịu lấy.
 (Ð.Q... thượng sớ). Cười.!...

Ð.Q: Cả môn đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai. Kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à!

Tái cầu:
LÝ THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo hữu. Thiên phong bình thân.
Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các Đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền Đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng  theo  Thánh ý của Thầy, là bậc  Chí Tôn  đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.

Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo cũng chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy.

Thưởng phạt tuy chẳng phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng và một sự buồn bã nào sánh đặng. Dầu có ăn năn hối hận mấy kiếp, ngày giờ cũng đã qua rồi. Ngôi Cực Lạc vẫn có người choán hết. Phần nhiều các Đạo hữu dày công mà xây đắp nền Đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế. Công đã nhiều mà bước tới nữa, dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng. Than thay!  Tiếc thay!

Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng bươn chải cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng đỉnh chung, nếu Thầy chẳng Đại từ Đại bi thì công quả đã chảy theo dòng nước.

Từ đây Bần Đạo phải để ý dìu dắt bước đường cho các Đạo Hữu,  phải gắng công thêm nữa  cho hiệp với cơ Trời. Ai hữu phước thì địa vị đặng cao thêm, ai vô phần thì bị đọa Tam pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách nơi Bần Đạo.
Bần Đạo xin chào các Đạo hữu. Bần Đạo kiếu”.

Xem thế:
Từ nay: ngày 29-10-1926, Ðức Chí Tôn giao quyền thưởng phạt Chức sắc cho Ðức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Phép thử thất Ba Trấn lập thành, tức là Cách thử thất do Tam Trấn Oai Nghiêm lập ra để chọn lọc Chức sắc làm cho giá trị thêm cao. Thử thất là bày ra cuộc thi khả năng đạo đức, thử xem ai chịu nỗi thì đậu, ai không chịu nỗi thì rớt..Ba Trấn là Tam Trấn gồm: Lý Thái Bạch, Quan Âm Bồ Tát, Quan Thánh Ðế Quân.

Ð.Q. là Ngài Trần Ðạo Quang, Quyền Thượng Chưởng Pháp. Sau rồi Ngài cũng bỏ Đạo lập Chi Phái.
Ðọa Tam Pháp là nếu “tội phạm Thiên điều” thì bị đọa Tam đồ bất năng thoát tục. Nếu phạm các tội nặng khác như thập ác, ngũ nghịch thì bị đọa vào ba đường khổ trong Lục đạo luân hồi. Ba đường khổ nầy theo Phật giáo là: Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.

Nhân sanh niệm danh Ngài là:“Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.

Như vậy Giáo Tông có 3 người  tức nhiên  hiệp đủ TINH- KHÍ –THẦN rồi.
- Ông Ngô văn Chiêu là TINH.
- Ông Lê văn Trung thuộc về KHÍ.
- Đức Lý thuộc về THẦN.
“Ba mà một, một mà ba là vậy”.

4 - Đức Quyền Giáo-Tông thi-hành
Thể-pháp Đại-Đạo
Nơi Cửu-Trùng-Đài “Thầy định-quyết cho Người (Giáo-Tông) có quyền dạy-dỗ mà thôi, song quyền-hành có rộng thêm đôi chút là dạy-dỗ trọn cả đường Đạo và đường Đời. Nghĩ cũng chẳng chi làm lạ, vì cả Chức-sắc Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài của Thầy lập, phải tùy theo tôn chỉ Đạo, nghĩa là xu-hướng về phần giáo-dục mà thôi. Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ, còn tên của Chức-sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự giáo-hóa, là chánh vai của mỗi người, như Giáo Hữu, Giáo-Sư, Phối-Sư, Đầu sư, Giáo Tông…Xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ “Giáo” hay chữ “Sư”. Cơ Đạo từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời này “Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo”. Thầy chỉ cậy Hội Thánh Thầy đã đến lập, thay quyền cho Thầy mà dạy-dỗ cả con cái của Thầy, nghĩa là chúng sanh đặng lành, ấy là phận-sự cần nhứt của Hội-Thánh đó”  (PCT)

Thế nên, trong buổi Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này:
Đức Quyền Giáo-Tông có bổn-phận “Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng”.
Quyển Thiên-Thơ Ngài đã nắm trọn vào tay.
Vạn sự khởi đầu nan là thế! Nhưng sự kiên-nhẫn đã giúp các Ngài thành công là thế ! Sau cùng, Ngài đã lập vị một cách vẻ-vang, một cách xứng đáng, tám năm tròn, không dư không thiếu một ngày. Phải chăng Ngài đã thực hiện trọn hai Bát-Quái vào tay mà dìu-dắt nhơn-sanh trên con đường hành-thiện?

Hằng năm toàn Đạo đều ghi nhớ ngày 13-10 âm lịch là ngày qui Thiên của Đức Ngài. Nếu tính:
Từ ngày 14-10 Bính-Dần dl 19-11-1.926 là ngày nhập vào Đại-Đạo Tam-Kỳ này, Ngài hành  Đạo suốt đến:

Ngày qui 13-10 Giáp-Tuất dl 19-11-1.934
Tính ra là tám năm tròn không dư không thiếu một ngày.

Đức Hộ-Pháp thường nhắc-nhớ đến:
 “Cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái ngôi Giáo Tông-Đường của Ngài ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất nước Việt-Nam này một cái báu-vật quí-giá vô cùng. Từ thử tới giờ chưa hề có. Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo-Hoàng Saint Pierre thế nào, thì nay Bần-Đạo có lẽ nói và có thể mơ-ước rằng cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”

Về Đạo phục thì “Nơi mão Ðại phục của Ðức Giáo Tông thì lại có ba Cổ Pháp khác nữa, nghĩa là:
- Long Tu Phiến. - Thư Hùng Kiếm - Phất Chủ.
Ấy là Cổ Pháp của Thượng Phẩm cùng Thượng Sanh.

Mỗi Chưởng Pháp phải có ấn riêng:
Ba ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành”.
- Thái Chưởng Pháp thì bình Bát Vu,
- Thượng Chưởng Pháp thì cây Phất Chủ,
- Ngọc Chưởng Pháp thì bộ Xuân Thu .

Hiệp một gọi là Cổ Pháp. Ba cái Cổ Pháp ấy vốn của Hộ Pháp hằng kỉnh trọng. Nơi mão Tiểu phục của Người phải có ba Cổ Pháp ấy.

Thầy dạy: “Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài”.Phải nói rằng sự tuyệt diệu về chánh trị của Đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền quá cao siêu. Âm Dương luôn hòa quyện vào nhau như mắc lưới, ấy Lưới Trời: Pháp luật Thiên điều không còn một kẽ hở !

Tóm lại: Ðây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.

Hộ Pháp hỏi:
“Thưa Thầy theo như luật lệ Thánh Giáo Gia Tô Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng ?"

Thầy đáp: "Cười! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt hơn nữa. Cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.

Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.

Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.

4 - Người Nữ rất nhiều quyền lợi: là Chức sắc cũng như bình quyền, bình đẳng trong cửa Đạo
* Là Chức sắc: Nữ phái không chia phái và có Đạo phục màu trắng. Quyền hành Nữ Chức sắc Cửu Trùng-Đài cũng y như Nam Phái, song chỉ trông coi phái Nữ mà thôi. Chức Sắc Nữ Phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh, quyền hành y như Nam. Nhưng tất cả tùng lịnh của Giáo Tông và Hộ-Pháp.Về Nữ chức sắc thì số lượng vô hạn định. Riêng về Nữ Đầu sư (1 vị) Nữ chánh Phối sư (1vị)

Đây là một trường hợp hi hữu từ xưa đến giờ là Nữ phái được tham dự vào việc tu hành: bình đẳng, bình quyền với Nam phái. Nhưng khi hành sự thì Nam chánh, Nữ phó, trong một trật tự nghiêm trang. Chính đây là thể hiện “Cơ Đại Ân Xá của Chí-Tôn” mà Thầy đã cho biết:
"Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ lầm tưởng là phân biệt. Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều.”

Hỏi: Vì sao từ xưa Nữ phái không được tu hành, không được học hỏi có trí thức, không được tiếp xúc với bên ngoài, thậm chí muốn tu phải cải Nam trang, vậy thì làm sao có được “các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều” ?

- Ấy là nhờ huấn ngôn của Mẹ đã truyền dạy từ lúc còn thơ: Nữ công, nữ hạnh, tức là Tứ đức Tam tùng; ngay từ bé người con gái đã được rèn luyện trong cái khuôn sáo Nho phong đẹp đẽ ấy, dù  không  tu    đã thực sự tu sửa tánh tình, tu tâm dưỡng tánh. Ra lễ vào phép đoan trang. Cái nền luân lý tốt đẹp ấy theo suốt cuộc đời người con gái, cho đến khi làm vợ, làm mẹ, làm dâu thì đã quá thuần thục rồi. Tức nhiên người Nữ đã tu Nhơn đạo một cách rất mực, chính chắn, đoan trang Vậy khi thoát xác lìa đời thì gần ngôi Tiên phẩm Phật, ấy là xem như đã bước qua tu Thiên Đạo rồi vậy. Đúng với câu: “Dục tu Thiên đạo, tiên tu Nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu Thiên đạo viễn hỉ !”

Hiện nay: các bậc phẩm của Nữ phái bao gồm: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư (không có phẩm Chưởng Pháp và Giáo Tông).
“Xem rõ lại thì Pháp Chánh Truyền truất quyền Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông.

Hộ Pháp để lời phân phiền cùng Thầy như vầy:
- “Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông, thì con e mất lẽ công bình chăng?

Thầy dạy: Thiên Ðịa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ Dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương quang đã tuyệt, Âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế Giái phải chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái cầm quyền Giáo Tông làm chủ nền Ðạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Ðạo ắt bị tiêu tàn ám muội.

Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng: Thầy truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.

Thầy dạy: "Chưởng Pháp cũng là Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ Pháp con ! Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp!”

* Vinh diệu của người NỮ PHÁI:
Tuy nhiên người Nữ-phái nếu biết làm trách nhiệm của mình cho xứng phận là dạy dỗ con cái cho nên người, thì sau này con nên danh phận, khi về Thiêng liêng thì hình ảnh của Mẹ sẽ là hình ảnh của Đức Phật Mẫu đó.  Đức Hộ-Pháp nói về “Huyền-bí vô biên của Phật-Mẫu”:

“Bần-Đạo nói sơ lược huyền-năng thế nào, mà khi chúng ta vào kiến diện Ngài, ta ngó trên mặt Ngài ta thấy mặt Bà Mẹ ta, sanh ta, đương như buổi sống, đương lo buổi trở về, Bần-Đạo tưởng ngó thấy Bà Mẹ sanh Bần Đạo, tưởng cả thảy cũng đều ngó thấy người Mẹ của họ vậy. Nếu lấy theo cái trí học tưởng-tượng không biết con mắt Thiêng-Liêng có chiếu hình Mẹ ta chiếu diệu ra không? Hay là huyền-diệu vô biên của Phật-Mẫu cho chúng ta thấy như vậy. Bà Mẹ hình hài chúng ta đây, là nhơn-viên của Đức Phật-Mẫu bên phái Nữ đó.

Phái Nữ rán để tâm nghe điều ấy, là nhân-viên mật thiết của Đức Phật-Mẫu, trước khi đã để tại thế-gian này một hình-hài vào lòng mình sản-xuất, tức nhiên là Phật Mẫu đã giao quyền năng Tạo Đoan trong tay mình đó vậy.

Chẳng cần nói cái vinh-diệu của người đàn bà khi người con ấy nên người, biết dục tấn trên con đường Thiêng Liêng Hằng-Sống. Mình về tại Cung Diêu-Trì dòm lên thấy tượng ảnh của mình, không vinh-diệu nào bằng, cái vinh-diệu ấy, có điều trọng hệ là dầu Nam, Nữ cũng vậy rán giữ một điều này: coi chừng đừng thất hiếu với cha mẹ. Ngày mình ngó thấy hình ảnh của Đức Phật-Mẫu thì thấy người Mẹ nhơn từ, hiền-hậu vô cùng, hạnh-phúc mình được hưởng đó, còn trái ngược lụng lại nếu ta thất hiếu, ta dòm vào hình ảnh của Phật-Mẫu, ta thấy nét mặt nghiêm-nghị và lãnh đạm, chúng ta sẽ hết sức đau khổ đó”

* Đạo vợ chồng: tương kính như tân.
Một điều tuyệt diệu là chỉ Đạo Cao Đài ngày nay mới có là: Thầy đã cho Nam Nữ bình quyền, không cần đòi hỏi, xuống đường biểu tình hay hô hào chi cả. Luật của Đạo Cao-Đài là vợ chồng phải biết tôn trọng nhau: “tương kính như tân” tức nhiên là xem nhau như khách.

Đức Hộ Pháp nhắc nhở qua Con đường Hằng Sống:
 “Đạo vợ chồng ở trên thế gian này chúng ta nên cẩn thận để ngày kia về đến Bát-Quái-Đài khỏi thất lỗi với vợ, nếu người vợ đối tròn bổn-phận với mình thì họ được hóa Nam, chừng ấy là người bạn mật thiết với chúng ta; thoảng như chúng ta làm sai với Bạn chúng ta, thì ngày kia Bạn ta trách ta rằng: Tôi xuống trần chung sống với Bạn, những cảnh khổ Bạn không dìu dắt tôi, Bạn còn hân hủi tôi nữa, câu trách ấy ta phải chịu không thể gì trả lời được. Vì cớ cho nên Phật-Giáo cho Nữ đồng quyền Nam, Bần-Đạo nói quả quyết rằng: Chừng nào chúng ta thấy nơi mặt thế này đoàn em Nữ phái mình biết sợ, kiêng nể Pháp Luật thì nó cũng như Nam vậy. Nếu bạc đãi nó, hủy bỏ nó không dìu-dắt đồng sống nhau, ngày giờ đến Bát Quái-Đài nó hóa Nam dòm lại nó là người Bạn quí nhứt của mình, cũng chịu đau khổ trọn kiếp sanh, chúng ta tưởng lấy làm đau đớn không giúp được, trái lại còn khi rẻ gớm ghiết. Chúng ta đến sẽ thấy chỗ đó không còn Nam Nữ nữa. Hư-Linh kia quả quyết rằng: Có nhiều bạn Nam ta quen biết, đầu kiếp Nữ tại thế-gian này, không biết là bao nhiêu, nhiều lắm.”

 * Đặc biệt là tự vận thác vì tình, là một đại tội:
 “Là những người trước kia đã có tình thương yêu với nhau mà những khi có sự trắc trở nhơn tình nên họ bị quả kiếp mà họ phải tự sát lấy họ. Người đàn bà nào tự vận hay người đàn ông nào tự sát, rồi người nào có thiệt lòng thương yêu chơn thật ấy, trước đã xuống Uổng-Tử Thành để đầu kiếp mà trở lại căn quả, vì không trọn căn số của mình còn niên kỷ bao nhiêu cũng phải trở lại đầu kiếp. Vừa đến tuổi cập kê Nam Nữ đôi bên vừa có tình-dục đã phát động ra thì là chết, làm cho chết, dầu hai đàng đứng trước mặt nhau cũng không khi nào làm chồng vợ với nhau đặng. Chừng ấy người trọn lòng thương yêu chơn thật thì Đức Phật-Mẫu siêu độ cầu rỗi với Đức Chí Tôn đem vào cảnh Thiêng-Liêng Hằng Sống, còn người nào không biết tình thương, thương bằng tình giả dối xảo trá phải đầu kiếp trao lại từ người.”

* Tam Cang Ngũ thường- Tam Tùng Tứ đức
 trong nguơn hội Cao-Đài có nên giữ lại không ?
Nếu giữ lại có bị xem là hủ lậu không ? Tại sao?

Đây là tất cả giềng mối nhân-luân đạo trọng của dân-tộc Á-Đông luôn có nền-nếp văn minh tinh-thần bất khuất, dù ngày nay lượn sóng văn-minh vật-chất có lôi cuốn nhân-lọai vào cơn xáo-trộn kinh-hòang! Chắc-chắn những cái gì hay đẹp truyền thống không bao giờ mất được.Chính Đức Chí-Tôn đến để lập lại cán cân công bình ấy để được sống lại thuần-phong  mỹ tục cho Việt-Nam làm khởi điểm mà cũng làm gương cho cả  nhân-loại;  tức là làm người thật xứng đáng với đạo làm người!

Đức Chí-Tôn đã quyết-định cho:
"Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo.
"Nam-phong thử nhựt biến Nhơn-phong".

Vì lẽ đó nên  Đức Hộ-Pháp quả-quyết:
 “Tân-luật Đức Chí-Tôn cốt-yếu muốn cho ta làm, đặng ta bảo-vệ Tam cang Ngũ thường của nhân-lọai. Nói về phương Đông này dầu cho luận tới các quốc-gia, xã-hội đến đâu đi nữa, họ tự trọng, họ văn-minh thế nào họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm-luật ấy bao giờ. Nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã-hội của họ, thì họ sẽ thành cái gì chớ không thành xã-hội !"

 “Trong Tân-luật ấy Đức Chí-Tôn định cho Ngũ giới-cấm, Tứ đại điều-qui và trong ấy cốt-yếu bảo-vệ Tam cang Ngũ thường cho tòan thể con cái của Ngài. Thật ra cái Thiên-luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài”.

Thánh-ngôn: Đàn tại An-hóa, ngày 19-12 Bính-Dần (dl: 22-1-1927). Thầy dạy:
"Chư Ái-Nữ. Thầy vì Tam-Kỳ Phổ-Ðộ chẳng phân cao thấp, sang hèn, Thầy chỉ khuyên một điều là Ðạo hạnh các con phải giữ hàng ngày cho nhằm phương pháp Nhơn đạo, tức là Tứ-Ðức đó vậy, các con hiểu à! Nền nhơn luân của con nhà Nam-Việt chẳng lầm, mà tại các con hay nhiễm thường tình mà hư hoại, nên chi Thầy phải nhắc lại cho các con đừng lầm nữa, nghe các con !

Nam phái vào. Các con nghe cho rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con có biết vì tại sao chăng? Như kẻ làm quan ỷ quyền ức hiếp dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng?... Tại vô Ðạo...”
Đàn cơ tại Phước-Long-Tự, 1 Mars 1927                              

Thầy có dạy như vầy: “Chúng nó lại tưởng rằng:
kiếp người là kiếp sống chỉ có giây giờ rồi tiêu mất, nên tìm những chước sâu kế độc cho đặng của nhiều, no lòng sướng dạ, trối kệ luân hồi. Thầy hỏi: Vậy chớ cái trí khôn của con người biết thương ghét, vui buồn mà toàn nhơn loại đều có, khi rốt cuộc thì trí khôn ấy đi đâu ? Không lẽ cái trí khôn ngoan dường ấy mà cũng mất đi đặng sao các con ? Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa về suy nghĩ mà trả lời cho mình. Hễ trả lời phù hạp thì dễ biết Ðạo, còn ngu xuẩn thì cũng huờn ngu xuẩn...

Thầy dạy Nữ-Phái biết trọng Tam Tùng, Tứ Ðức, Nam-Phái Tam-Cang Ngũ-Thường. Hễ Nhơn-đạo thành thì phù hạp Thiên-đạo, nghe !”

Những lời giảng dạy trên chắc chắn rằng đã có những kết quả thỏa đáng mà từ xưa đến giờ cái qui luật này khiến nhân sanh hoang mang. Nhất là phía Nữ phái rất ngán, nếu chưa nói là “chán ghét”. Phải thật lòng mà nói không chán ghét sao được, vì Nữ phái chịu một áp lực quá khắt khe, đến độ bị hành hạ, áp bức quá đỗi, gần như biến thành nô lệ, bị lợi dụng đủ điều– đây chỉ nói chung chung- chứ cũng còn một số ngoại lệ, là tốt đẹp, hạnh phúc.

Chính Đạo Nho đã có câu: “Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo” tức là dù triết lý nhân sinh hay vũ trụ cũng vậy: chỉ một Âm, một Dương mà cấu tạo thành, mới đúng nghĩa của Đạo.

Hãy xem: Mặt trời (chữ nhật ) chỉ có một, mặt trăng (chữ nguyệt ) chỉ có một, kết hợp hai ánh sáng này lại thành ra chữ Minh Nghĩa lý rõ rệt như vậy, mà các nhà làm Luật ngày xưa chỉ độc quyền là Nam, cho nên các ông muốn bảo thủ, muốn lợi cho riêng mình mà sẵn sàng đàn áp Nữ phái. Hỏi những thành kiến này do ai bày ra, mà chính đó là những luật tồn tại đến bao ngàn năm rồi ? “Nhứt nam viết hữu thập nữ viết vô” (một trai cũng xem là có, mười gái cũng kể như không) hoặc “Nữ sanh ngoại tộc” (ca dao đã thành hình: Con gái là con người ta. Con dâu mới thật mẹ cha mua về). Hơn thế nữa câu  “Trai năm thê bảy thiếp. Gái chính chuyên một chồng”.Thật là bọn hủ nho đã bôi lọ cái nền văn hóa Nho phong tốt đẹp, cái nền văn minh tinh thần cao đẹp mà chính các bậc Tiền Thánh tiền Hiền đã dày công xây dựng, giờ đây chỉ vì “Sự đam mê” mà bôi xóa đi những gì tốt đẹp để di hận đến ngày nay. Hậu quả là Nữ giới chịu dốt nát, bị lợi dụng, thậm chí bán nô lệ, nạn mãi dâm…Hỡi những người kém đạo đức, chính các người đã gây nên những lý do làm lệch lạc đi cái khuôn luật tốt lành này, chính các người đã bẻ méo vo tròn cái Thiên luật ngàn đời của Đức Chí-Tôn. Ngày nay chính ĐẤNG ấy đã đến ban cho đầy đủ tất cả, Ngài đã cầm vững cán Cân Công bình Tạo hóa.

Khởi điểm là Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung thực hiện trước nhất, trong chương trình mở trường Nữ học mà nhà báo Diệp văn Kỳ viết:

“Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường:
 “Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn ông, hãy còn phôi thai, cậu nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự Thánh, tự Thần, xách đi cùng Lục tỉnh đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh chàng du học đem về được cái bằng cấp Tú Tài, thì đã hô lớn lên một cách rất vinh diệu, tự đắc rằng mình quên hết tiếng An Nam; đương giữa buổi mà khắp cả cha mẹ trong nước đều công nhận rằng: Cho con gái có nhiều ít học thức là một mối hại lớn cho gia đình, cho xã hội; đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng Nữ học, xin lập trường Nữ học để dạy bên gái bằng như bên trai, có phải là một việc quá bạo gan chăng ? Những người đề xướng có phải là những bực tiên kiến chăng ?

Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, như tuồng cũng cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ của An-Nam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp của công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong Nữ giới. Vậy mà nếu ai chịu khó lật cuốn sổ lạc quyên năm nọ ra xem, thì sẽ thấy ở dưới mấy lời tuyên bố có tên của ông Lê Văn Trung là người khởi xướng đứng kế phương danh Bà cụ Tổng-Ðốc Ðỗ-Hữu. Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới chế độ chẳng phải khinh thường mà đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên đây, thời tuy nó chưa phải là những sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế cũng đủ gọi rằng khỏi mang tiếng “quì quì, dạ dạ” là cái danh hiệu của phần đông trong mấy ông Hội Ðồng, từ xưa đến nay, ở xứ này. Ðó là sự nghiệp”

Trở lại vấn đề “Tam cang Ngũ thường, Tam Tùng Tứ đức” này hỏi bắt nguồn từ đâu ? Nếu quả thật xuất phát từ văn hóa Nho phong thì nó sẽ bất diệt cũng là tất nhiên. Bởi Đạo Cao-Đài ngày nay lấy Nho-Tông để Chuyển thế. Tức là nó bắt nguồn từ các Quẻ Dịch mà ra vậy. Hãy xem: Tính chất Âm Dương của quẻ:

Điều đáng chú-ý là quẻ có quẻ ÂM, có quẻ DƯƠNG.
Gọi là Quẻ khi có đủ ba Hào ấy là một quẻ đơn.  Ví như:
Quẻ Càncó 3 vạch liền:quẻ Dương (vạch gọi là Hào)
Quẻ Khôn có ba vạch đứt: quẻ Âm (có 3 hào Âm)

Hào có hào Âm, hào Dương.                                                                         
Hai quẻ Càn Khôn là quẻ chủ trong 8 quẻ (gọi là Bát-Quái) tượng trưng cha, mẹ. Còn lại là 6 con, 3 nam (Dương), 3 nữ (Âm).

* Gọi là Quẻ Âm là quẻ trong đó chỉ có 1 hào Âm, như:
Tốn có một Âm dưới cùng gọi là Trưởng-nữ.
Ly có một Âm ở giữa gọi là trung-nữ.
Đòai có một Âm trên cùng gọi là thiếu-nữ.

* Gọi Quẻ Dương là quẻ chỉ có một  hào Dương, như:
Chấn có 1dương dưới cùng, gọi là trưởng-nam.
Khảm có một dương ở giữa gọi là trung-nam.
Cấn có 1 dương mới sinh ở trên, là thiếu nam.

Sở dĩ gọi là Trưởng là vì hào dưới cùng là gốc, biến hóa sau hết trong ba hào (trưởng nữ, trưởng nam)

Gọi là Trung vì hào này biến-hóa ở giai-đọan thứ nhì (trung nữ, trung nam)
Gọi là Thiếu vì hào này biến-hóa trước nhất, nên còn trẻ nhất (thiếu nữ, thiếu nam).

Nhận định:
Gọi là hào Dương   vì chỉ có một vạch liền.
Gọi là  hào Âm  vì hào này là một vạch đứt.

* Nhìn vào 3 quẻ Âm (mỗi quẻ đều có 3 hào, 4 vạch) Đó là: Tốn, Ly, Đòai
* Ba quẻ Dương (mỗi quẻ có 3 hào, 5 vạch

Là:  Chấn, Khảm, Cấn. 
Đây là lý-do vì sao Thánh-nhân dạy trai Tam cang Ngũ thường, Gái Tam tùng Tứ đức, là khởi điểm từ nguyên nhân Lý DỊCH này đây.

3 - Tam Cang Ngũ Thường khởi từ lý Dịch:
* Bởi những quẻ tượng Dương thì mỗi quẻ có 3 hào và 5 vạch; tức nhiên Dương tượng cho Nam-Phái, mỗi quẻ có ba hào không bao giờ thay đổi, lấy tính-chất vững bền đó làm qui-luật, giềng mối gọi là Tam Cang. Các quẻ Dương dù ở hình thức nào cũng vẫn có 5 vạch. Sự cố định ấy lấy làm thường-đạo cho Nam làm Ngũ thường là vậy. Thế nên, Nam thì lấy Tam cang Ngũ thường làm giềng mối.

* Những quẻ tượng Âm thì mỗi quẻ có 3 hào  4 vạch:
Cũng tương-tự như trên: quẻ Âm tượng cho Nữ giới, mỗi quẻ đơn Âm cũng chỉ có ba hào không đổi, lấy làm tính-chất căn-bản cho phái-nữ là đạo Tam Tùng, quẻ Âm vẫn luôn luôn có 4 vạch, với tính cách vững-chắc như vậy dùng làm Tứ Đức cho giới nữ-lưu. Thế nên lấy đạo nhơn luân làm trọng thì Nữ giữ lấy Tam Tùng Tứ đức.

Vậy bất cứ hình thức nào trong cửa Đại-Đạo mà  Đức Thượng Đế đặt định ra cũng đều có nguyên cớ. Nhưng phương thức áp dụng chắc chắn rằng phải đi vào khuôn viên: BÁC ÁI, CÔNG BÌNH, THƯƠNG YÊU.

Ngày nay những điều lệ này đã thành LUẬT và chính TAM THÁNH đã ký Hòa ước với Đức Chí-Tôn thành văn bản đó là: "Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa ước" vậy. 

CỬU TRÙNG ĐÀI:
CƠ QUAN QUẢN TRỊ CÀN KHÔN THẾ GIỚI

Cửu Trùng Đài: Cơ quan quản trị Càn khôn thế giới.
*Tìm về 4 vị Chưởng pháp đầu tiên:
1 - Thái chưởng Pháp.
2 - Thượng Chưởng Pháp: Lão sư Nguyễn văn Tương.
3 - Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão sư Trần văn Thụ.
4 - Ngọc Chưởng Pháp: Thái Lão sư Trần đạo Quang.

*Tìm về 4 Đầu sư đầu tiên:
1 - ĐS. Ngọc Lịch Nguyệt.
2 - Thái Đầu sư: Thái Nương Tinh.
3 - Thượng Đầu sư: Thượng Trung Nhựt.
4 - Thái Đầu sư Thái Minh Tinh.

Ngôi vị Giáo Tông nếu vẽ bằng hình sẽ thấy:
Vòng tròn tượng-trưng cho cơ-quan Cửu Trùng-Đài.
Tâm 0 là ngôi-vị Giáo-Tông (giữa vòng tròn).

Dưới quyền Giáo-Tông, hàng Tiên vị có hai con số 3: tượng tam Âm tam Dương. Tam Âm tam Dương là gì?

Như đã nói Tam âm tam Dương sẽ vẽ nên hình sao sáu cánh, tức là do hai hình tam giác đều gát chồng lên nhau, đặt nghịch chiều mà thành. Biểu tượng bằng 3 ngôi Chưởng-Pháp và 3 ngôi Đầu-sư:
- 3 ngôi Chưởng-pháp (là người của Hiệp Thiên Đài, tượng Dương)  đỉnh tam giác quay lên.
- 3 ngôi Đầu-sư (Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, tượng cơ Âm)  đỉnh tam giác quay xuống dưới.

Tức là trong Âm có Dương; âm dương tương hiệp, tương đắc, tương-hòa. Từ đó mới biến hằng hà sa số.                                                                                        

Mỗi phẩm có ba phái, trừ ngôi Giáo-Tông chỉ có 1 và Ngài mặc sắc phục trắng. (Hình ảnh Ngài khi mặc phẩm-phục xanh là còn ở ngôi vị Thượng Đầu-sư, là phẩm được thọ phong trước. Sau đó Ngài mới được ân-phong thêm một phẩm mới nữa là Quyền Giáo-Tông tức là Giáo Tông chưa vào chánh vị. Giáo-Tông mặc phẩm-phục trắng

Trên hình vẽ làm biểu-tượng cho thấy:                                      
- Chữ A, tượng ngôi Thượng Chưởng-Pháp.
- Chữ B, tượng  ngôi Thái Chưởng-Pháp.
- Chữ C, tượng ngôi Ngọc Chưởng-Pháp.          
Như vậy, ngôi Chưởng-Pháp thuộc về Đạo, nên đỉnh Tam-giác quay lên trên.
Ba ngôi Đầu-sư là Đời trong Đạo nên đỉnh tam giác quay xuống phía dưới, do đó:
- A’ là tượng cho ngôi Thượng Đầu-sư.
- B’ là tượng cho ngôi Thái Đầu-sư.
- C’ là tượng cho ngôi Ngọc Đầu-sư.

Ba phái: Thái, Thượng, Ngọc tức là đại diện cho Tam-giáo Phật, Tiên, Thánh trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ..
- Chưởng-Pháp thế quyền cho Hộ-Pháp nơi Cửu Trùng-Đài thuộc về Đạo.
- Đầu-sư đặng quyền thay mặt cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp trước mặt nhơn-sanh thuộc về Đời trong Đạo. 

Hai hình tam-giác này là tam-giác đều nội tiếp trong trong vòng tròn, gát chồng lên nhau, tượng  trưng    Âm Dương, Đạo Đời tương-đắc. Đây là hình ảnh “Một Trời”

Thầy dạy: “Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy” không ngoài ý nghĩa Vạn linh hiệp Chí linh.

Quyền Trời là Chí linh, toàn cả nhơn loại và vạn vật ấy là Vạn linh. Thế nên Vạn linh đối quyền Chí Linh. Qua hình vẽ, hai tam giác đặt thuận nghịch đã nói lên lý Đạo nhiệm mầu ấy là: Trời người đồng trị: Người trị xác, trời trị hồn. Ấy cũng là một Đại Ân xá trong cửa Đạo Cao-Đài ngày nay, nên lúc nào “Mắt Trời”cũng luôn luôn soi xét đến mọi hành tàng của người mà luôn giúp đỡ và bố hóa.
- Tại sao lại đặt chữ Thượng trên đỉnh của tam giác?
- Bởi Đạo lúc nào cũng lấy trung, chánh làm điểm yếu-trọng, mà ba phái theo thứ tự thì (Thái chỉ về Phật, bên trái; Thượng chỉ về Tiên ở giữa; Ngọc chỉ về Thánh, bên phải: nhìn đối diện). Nếu làm lệch đi Chơn truyền thì gọi là loạn pháp rồi dẫn theo là loạn Đạo, sau hết là thất pháp và kẻ làm thất pháp bị thất đạo. Mỗi hình tam-giác được thành hình là do 1 sanh ba, 3 sanh vạn-vật, thuộc về cơ-quan Chưởng Quản; do đó mà ngôi Giáo Tông ở vào tâm của vòng tròn, mà vòng tròn chỉ Càn Khôn vũ trụ, cho nên Cửu-Trùng Đài là cơ-quan quản trị Càn Khôn Vũ-trụ  thuộc về Trời là vậy. Mỗi phẩm có 3 ngôi mà “pháp-luật Tam giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như một.” Vốn cũng đồng quyền, đồng đẳng nhau. Thế nên ba cạnh của Tam giác cũng chỉ vào Tam giáo: Phật-Tiên- Thánh, nên dưới mắt Thầy, Tam giáo đồng nguyên là vậy.

Số 3 là hình ảnh của Tam-giác đều có ba cạnh bằng nhau và ba góc bằng nhau, bằng 600. Tam giác đều nội tiếp trong vòng tròn và đồng tâm với vòng tròn. Đặc biệt là ba đường phân giác gặp nhau ở tâm của vòng tròn, mà Đạo Cao-Đài biểu tượng bằng “Thiên Nhãn Thầy”. Thầy cũng dạy rằng: Nếu đến ngã ba không biết đường đi nữa thì đứng đó chờ Thầy. Phải chăng thời buổi này nhơn sanh đang chơi vơi, lạc lỏng không biết sẽ đi đường nào? Phải bước tới? Bước lui hay bước ngang ? – Mà thực ra phải đứng tại ngã ba; tức là nhìn vào tâm của Tam giác này tức là phải nhớ câu “Thầy khuyên các con nên nhớ hoài rằng: Thầy của các con là Ông Thầy Trời, nên biết một Ổng mà thôi thì đủ, nghe à!”.

Biết một ổng chính là “Trung với Đạo, hiếu với Chí-Tôn và Phật Mẫu”.Là lúc nào cũng phải nhớ lời Đức Hộ Pháp dạy về phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại-Đạo (xem câu 5, câu sau cùng trong tập sách)  Tổng quát hơn thì Tam giác này do hình ảnh của quẻ CÀN KHÔN dựng lên mà thành. Là cánh cửa của Đạo Dịch luôn mở rộng.                   

Huyền vi của Đạo là luôn có Âm Dương, sáng tối đi liền nhau không bao giờ dứt. Hai lý này để hỗ trợ nhau  Dù Pháp Chánh Truyền qui định phần Tiên-vị cho Cửu Trùng Đài là ngoài ngôi Giáo Tông ra, còn lại thì mỗi phẩm có ba vị, là: 3 Chưởng-Pháp, 3 Đầu-Sư (Dịch gọi là Tam Âm tam Dương) Nhưng thực tế mỗi phẩm lại có 4 vị (tức là 4 Chưởng-Pháp, 4 Đầu Sư)

5 - Vậy hiện tại đã có 4 Chưởng-Pháp:

1 - Thái ChưởngPháp Nguyễn-văn-Tường (1864-1939) Tức là Hòa-Thượng Như Nhãn, được phong Thái Chưởng Pháp ngày 24-7-Bính Dần. Về sau bỏ Đạo.       

2 - Thượng Chưởng-Pháp Nguyễn-văn Tương (1897-1927) được phong Thượng Chưởng Pháp ngày  24-7-Bính Dần

* Ngọc Chưởng-Pháp có hai vị:
3 - Ngọc Chưởng Pháp Trần-văn-Thụ (1857-1927) phái Minh sư, được phong Chưởng Pháp ngày 10-9-Bính Dần.
4 - Ngọc Chưởng Pháp Trần-Đạo-Quang  (1870-1946). Về sau cũng bỏ Đạo.
- Hiện tại có 4 Đầu-sư:
- Thái Đầu-Sư có hai vị:
1 - Hòa Thượng Thiện Minh, Thiên phong Đầu sư phái Thái, Thánh danh là Thái-Minh-Tinh, ngày 13-10-Bính Dần (mất năm 1927) sau bị Đức Lý ngưng quyền, chức.
2 - Thái-Nương-Tinh  (1870-1929)
3 - Thượng Đầu-sư Thượng-Trung-Nhựt (1876-1934) thế danh Lê-văn-Trung. Thiên phong Đầu Sư phái Thượng, ngày 12-03-Bính Dần (dl 23-04-1926)

4 - Ngọc Đầu-sư Ngọc-Lịch-Nguyệt (1890-1947) Thế danh Lê-văn-Lịch. Thiên phong Đầu Sư phái Ngọc, ngày 13-10-Bính Dần (Sau lập Chi phái)
Số 4 thuộc Âm phải có mặt (đó là tứ Âm tứ Dương)

Tức nhiên là chỉ “Một đất” mà bài thơ Đức Chí-Tôn đã cho thật là ứng hợp. “Một Trời, một đất, một nhà riêng”

Đức Lý dạy: “Chư Chưởng Pháp, Đầu Sư phải sắm ấn tín theo Tam Kỳ Phổ Độ: Tỷ như mấy vị Chưởng Pháp thì ấn lớn hơn ấn của Đầu Sư một thí, phải làm tròn như con dấu thường, để chung quanh vòng ngoài chữ  Lang sa: 3è AMNISTIE DE DIEU EN ORIENT, vòng trong để chung quanh chữ Đại Đạo Tam Kỳ  Phổ Độ, bằng chữ Nho:

- Phái Thiền thì khắc ngay giữa một cái hình Bình BÁT VU,  Đạo thì cây PHẤT CHỦ,  Nho thì Bộ XUÂN THU.- Ấn của Đầu Sư cũng in vậy, song chính giữa để chữ Thái Thượng Ngọc (chữ Nho) đem vào Tòa Luật  đời cầu chứng cho khỏi mạo nhận. Khá làm các điều ấy, sau Lão dạy thêm nữa”. THĂNG.(ĐS. II. 222)       

5 - Tại sao lại có con số 4 này ?

Xem ra: con số 3 ở trên là con số Thiên định, nhưng khi hành sự thì đây là sự biến dịch bởi con người, dù biến đổi thế nào cũng trong vòng luật định mà thôi. Vì vậy hình vuông ứng với cơ Âm. Điều này cũng cho ta thấy rằng: Trong hình ngôi sao, thực-tế là sáu cánh, nhưng có tâm ở giữa, cộng chung là 7 điểm.
Đồ hình tiếp theo có hai hình vuông họp lại tuy có 8 góc mà có 1 tâm, thành ra 9 điểm. Đây cũng trở lại số 7, số 9 tức là nằm trong lý “thất phản cửu hoàn” vậy (7+9=16) là hình thành nên hai Bát Quái Cao Đài. Ấy là Bát Quái Đồ Thiên và Bát Quái Hư vô (sẽ bàn sau).

Số 7 này là ứng với 7 khiếu dương ở trên mặt. Thêm hai khiếu Âm ở hạ bộ thành ra 9 khiếu. Đây cũng là định luật “thất phản cửu hoàn” ở con người. Thế nên vạn vật đồng nhất thể là như thế.

Cũng như đã chứng minh Tòa Thánh có bảy chữ SƠN Nhìn ra phía Đại Đồng xã có Cửu Trùng Thiên, đó cũng là mang con số “Thất phản Cửu hoàn” vậy.

 Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Giáo-Tông thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.”

            Do vậy mà chữ “phần xác và phần hồn” là chỉ về Đời trong Đạo, là Thiên Đạo đó vậy. Hay nói khác đi là Thể pháp và Bí pháp của Thiên Đạo đã ứng với hai hình ảnh Âm Dương trên đây: Chính phần hành của Giáo-Tông phải đảm trách.

Thời tiền khai Đại-Đạo Thầy cũng có ban cho Ngài Lê văn Trung bài thơ ứng với những lời lẽ trên, đồng thời là ban quyền hành cho Ngài đó vậy.
THI
Một Trời, một Đất, một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Đạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.

(Xem Dịch Lý Cao Đài I cùng Soạn giả, có giải đầy đủ)

6 - Bát-Quái thành hình:
Bây giờ hai hình tam-giác và hai hình vuông phối hợp vào nhau sẽ thành hình thứ 3, là một hình toàn diện, đó là Bát-Quái Đồ Thiên mà ngày nay chính Đức Chí Tôn sử dụng trong Đạo Cao-Đài, mà chỉ riêng Đạo Cao Đài mới dùng Bát-Quái này, nên cũng còn gọi là Bát Quái Cao Đài. Người nắm Bát-Quái này vào tay chính là Giáo Tông. Hình thứ 3 cũng ứng vào chữ “Một nhà riêng” trong câu thơ “Một Trời, Một đất, Một nhà riêng.”                     

Do vậy mà câu thơ này đã nói lên đầy-đủ cho một BÁT-QUÁI  thành hình. Khi đã có một Bát-Quái toàn diện như vậy, chúng ta có quyền đặt tên các quẻ vào các góc cạnh tương-ứng, ta sẽ được hình dưới đây là do lời dạy của Thầy khi Thánh-ý Chí-Tôn dạy sắp 7 cái ngai:

Thầy dạy:
 “Tòa-Thánh day mặt ngay hướng Tây là chánh cung Đoài ấy là Cung Đạo. Bên mặt Thầy là cung KHÔN, bên trái Thầy là cung CÀN. Đáng lẽ phải để 7 cái ngai của phái Nam bên trái Thầy là cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể Nhơn-đạo cho đủ Ngũ chi nên Thầy buộc phải để Cung Đạo là cung Đoài cho đủ số”.

7 - Đây: Bát-Quái Đồ Thiên hay Bát-Quái Cao-Đài                                                                      
Nhìn vào Bát-Quái dưới đây, tức nhiên các Cung được xác-định qua trục đứng là Đông Tây, trục nằm là hướng Nam Bắc, tức là hướng của Đền Thánh Toà-Thánh Tây Ninh hiện giờ:                                                                                                                                                                 
Đoài chánh Tây (cung Đạo, ở chính giữa và là mặt tiền  của Đền-Thánh).
Càn Tây Nam (trong Đền nhìn ra bên tay trái của Thầy)
Khôn Tây Bắc (trong Đền nhìn ra bên phải của Thầy) Khi ba Cung đã được định hướng rồi thì những Cung còn lại của Bát-Quái Đồ Thiên  cứ  theo  thứ  tự của Bát Quái Hậu-Thiên mà xếp các quẻ còn lại vào vị-trí.

CÀN là hướng khởi ở Tây Nam
(thay vì Tây Bắc của Bát-Quái Hậu-thiên).

Như vậy, Bát-Quái mà Giáo-Tông làm chủ đây là Bát-Quái Đồ-Thiên, chỉ riêng Đạo Cao-Đài mới có; đó là tổng hợp của hai khối Âm Dương hợp lại, tức là âm-dương hỗn-hợp trong cơ sanh biến của Vạn-linh. Vậy là kỳ khai Đại-Đạo này Ngài đã đặt Ly lên Khảm và đặt Khảm lên Ly để tất cả thành quẻ CÀN Gọi là "Chiết Khảm điền Ly phản vị CÀN"

Đồ hình dưới đây là kết quả của hai hình tam giác và hai hình vuông phối hợp vào nhau mà thành, cũng chính do Đức Giáo-Tông làm chủ ứng với chữ “Một nhà riêng” ấy. Như vậy câu thơ trên mà Đức Chí-Tôn ban cho Ngài trong buổi đầu chính là phân định quyền hành cho Ngài rồi. Làm sao mà có tên các quẻ đặt vào đồ hình ?
Trước đây đã có Bát quái Tiên Thiên (Bí pháp) và Hậu Thiên (Thể pháp), chính đó là của Thế Đạo, mà các tiền Thánh đã tìm ra cho nhân loại hằng 6.000 năm nay rồi. Giờ đây Đức Chí-Tôn đến ban cho nhân loại hai Bát Quái nữa, tức là mở ra con đường Thiên Đạo cũng có Thể Pháp và Bí pháp. Chính Bát quái Đồ Thiên mà chúng ta sắp nói tới đây là Thể pháp của Thiên Đạo. Còn một Bát Quái Hư vô là Bí Pháp Thiên đạo (sẽ bàn sau hoặc xin xem quyển I Dịch lý Cao-Đài cùng soạn giả)

Hân hạnh cho dân tộc Việt Nam được đón nhận trước nhất. Cũng vì sự xướng xuất ra Bát Quái này mà Cụ  Trần Cao Vân phải bị án tử hình qua đề tài “Trung Thiên Dịch – Trung Thiên đạo”.

Đây, Bát Quái Đồ Thiên lấy theo thứ tự quẻ của Hậu Thiên là “nhứt Khảm, Nhì Khôn, tam Chấn, Tứ Tốn, ngũ trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, Cửu Ly”, nhưng với Bát Quái Hậu thiên thì các quẻ xếp trên vòng tròn, thuận chiều với kim đồng hồ; Riêng Bát Quái Cao Đài xếp nghịch chiều với kim đồng hồ. Tại sao vậy ?

Vì thời gian qua là nhân loại hướng về Thế đạo để làm nên nền văn minh vật chất, hay còn gọi là văn minh hóa học. Bát quái Hậu Thiên thuận chiều kim đồng hồ, giống như nước xuôi dòng đổ ra biển cả, nếu cứ thế thì biết bao giờ mới trở lại quê xưa vị cũ ? Nay là thời Thượng nguơn tứ chuyển, tức là cơ qui nhứt, thế nên Bát Quái phải chuyển nghịch chiều với kim đồng hồ, tức là Đức Thượng Đế mở cho nhân loại một nền văn minh tinh thần, là con đường Thiên đạo, các quẻ được định vị theo các phương hướng sau đây:
Vì vậy người tu theo Đạo Cao Đài cần nhất là phải đủ Tam Lập là lập đức, lập công, lập ngôn, tức nhiên là Thầy mở ra con đường phụng sự:

Đức Chí Tôn ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng sự cho cả toàn nhơn sanh mặt địa cầu 68 này, Ngài phải làm thế nào? Ngài cũng phải mượn loài người phụng sự cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng làm Thánh Thể cho Ngài là lập triều chính của Ngài.

Chúng ta ngó thấy Đức Chí Tôn đến lập Đạo, lập Đạo phải lập Hội Thánh đặng phụng sự cho Vạn Linh trên mặt địa cầu 68 này. Chúng ta ngó thấy cái quyền rồi, ban cho cái quyền luật định phụng sự, vì phụng sự ấy mới làm chúa như con ong kia, con mối kia, vì phụng sự mới làm chúa. Ông Vua cũng vì phụng sự cho dân mới làm Vua, bây giờ Đức Chí Tôn vì phụng sự cho Vạn Linh mới làm Trời. Ngài phải lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập Thánh Thể của Ngài. Triều chính tức nhiên Thánh Thể của Ngài chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội Thánh cầm quyền thống trị đặng phụng sự cho Vạn Linh, Ngài phải lập triều chính, triều chính là ngôi Thần, Tiên, Thánh, Phật đó vậy. Ngài lập Thánh Thể cũng như thế ấy; vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên Hội Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế này.

Tìm về Tiểu sử của bốn Chưởng Pháp,
4 Đầu sư.
1 . Thái Chưởng Pháp
Hòa Thượng Như Nhãn (1864-1939)
Hòa Thượng Như Nhãn, thế danh là Nguyễn Văn Tường, sanh năm 1864, con của ông Nguyễn Văn Bầu và bà Ðoàn Diệu Hoa, quê quán ở Ðức Hòa (Long An), đi tu từ năm 17 tuổi, qui y với Hòa Thượng Thích Trí Lượng (Minh Ðạt) trụ trì ở chùa Thiền Lâm Cổ Tự (xóm Chùa, tỉnh Tây Ninh) thọ Pháp danh là Thích Từ Phong.

Nguyên vào năm Mậu Tý (1888), tại vùng Phú Lâm Chợ Lớn, (đường Bà Kế, khu vực Chợ Gạo, nay là Bến Phú Lâm, Quận 6), bà Hồ Thị Lộc có xây một ngôi chùa lớn, đặt tên là Chùa Giác Hải, bà giao cho ông Thủ Tọa Nguyễn Minh Sự coi sóc. Ông Sự mất năm 1908.

Sư Thích Từ Phong về đây kế nghiệp, trụ trì Chùa Giác Hải. Năm 1912, Ngài Thích Từ Phong giữ chức Yết Ma và năm 1924, Ngài được phong chức Hòa Thượng, nên các Phật tử tại vùng nầy thường gọi Ngài là Hòa Thượng Giác Hải. Trong lúc trụ trì ở chùa Giác Hải, Hòa Thượng Giác Hải có quyên góp tiền bạc trong bổn đạo để mua đất và lập một cảnh chùa tại vùng Gò Kén, Tây Ninh, lấy tên là Từ Lâm Tự (sau đổi lại là Thiền Lâm Tự). Chùa được xây dựng trên một khu đất gò rộng 4 mẫu, dựa quốc lộ Sài Gòn Tây Ninh, cách quốc lộ khoảng 200 mét và cách thị xã Tây Ninh chừng 5 cây số, phía trước cất chùa, phía sau làm nghĩa địa. Trong số bổn đạo đóng góp tiền mua đất và xây chùa Từ Lâm ở Gò Kén, ông bà Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đóng góp tiền bạc nhiều hơn cả. Chùa mới vừa xây dựng xong phần chánh, chưa trang trí, chưa làm đường lớn từ quốc lộ vào chùa. Lúc đó là vào năm 1925.

Vào giữa năm Bính Dần (1926), ông bà Nguyễn Ngọc Thơ được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ, nhập vào Ðạo Cao Ðài. Hai ông bà cũng muốn Ðức Chí Tôn thâu phục Hòa Thượng Như Nhãn, nên ông bà thuyết phục Hòa Thượng đến dự một đàn cơ cầu Ðức Chí Tôn tại nhà Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Ðịnh. Ðức Chí Tôn giáng cơ thâu phục được Hòa Thượng Như Nhãn.

Giữa tháng 7 năm Bính Dần (1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ. Sau đó, do sự yêu cầu của ông bà Thơ, Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm (Gò Kén) cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất tổ chức Lễ Khai Ðạo.(Có lẽ trong thời gian xây dựng chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Hòa thượng Giác Hải lấy hiệu là Như Nhãn).

Ngày 29-7-Bính Dần (dl: 5-9-1926), Hòa Thượng Như Nhãn được Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong là: Quảng Pháp Thiền Sư Thích Ðạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Thái.

Ngày 15-10-Bính Dần (dl: 11-11-1926), Ðại Lễ Khai Ðạo Cao Ðài được tổ chức long trọng tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh), có hằng vạn Tín đồ Cao Ðài dự lễ, số quan khách người đời đến dự rất đông.

Ðêm 14 rạng 15 tháng 10 âm-lịch, tổ chức đàn cơ trong Thánh Thất, Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt trấn pháp sót một cửa, nên thừa dịp nầy, quỉ nhập vào đàn, một  quỉ nhập vào ông Lê Thế Vĩnh xưng là Tề Thiên Ðại Thánh, một quỉ khác nhập vào cô Vương Thanh Chi xưng là Lê Sơn Thánh Mẫu, nói năng lộn xộn, rồi nắm tay nhau nhảy múa, khiến cho nhiều người mới vào Ðạo Cao Ðài mất đức tin. Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin luôn. Mặc khác, số đệ tử của Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài bỏ Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời đi.

Ngày 19-11-Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng phạt làm cho đau nặng.

Ngày 01-12-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Chí Tôn tha thứ phái Thái và đừng truất bỏ phái Thái (phái Phật).

Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao Ðài.
Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa Thượng Như Nhãn và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung ương của Ðạo Cao Ðài.

Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl: 24-1-1939) hưởng thọ 75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước chùa Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò Kén (Tây Ninh)

Trên bia mộ có đề chữ Hán, dịch ra như sau đây: Ngài là Ðại Lão Hòa Thượng Thiền Tông Lâm Tế đời thứ 39. Ngày sanh: 15-3-Giáp Tý (1864). Ngày qui: 5-12-Mậu Dần (1939), thọ 75 tuổi. Tháp của Hòa Thượng Như Nhãn xây ở chính giữa, hai tháp hai bên là của hai vị - Hoà Thượng Minh Ðạt, thầy của Ngài Như Nhãn - Hòa Thượng Hồng Tằng, học trò của Ngài Như Nhãn.
Thầy có dạy riêng Hoà Thượng Như Nhãn; Chùa Giác Hải, Sài gòn.

Ngày 21-9-1926 (âl 15-8-Bính Dần)
THÍCH CA MÂU NI PHẬT viết
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
chuyển Phật giáo Nam phương

“Như Nhãn, con nghe Thầy: Khi giáng trần Chí Tôn Phật Tổ, Thầy duy đặng có bốn Môn đệ, chúng nó đều chối Thầy. Khi giáng lập Đạo Tiên, Thầy có một trò là Nguơn Thỉ. Khi lập Đạo Thánh thì đặng mười hai môn đệ, song đến khi bị bắt và hành hình thì chúng nó đều trốn hết, lại còn bán xác Thầy nữa. Còn nay, Thầy đã sắm sẵn Môn đệ cho con cũng đã nhiều, con đừng thối chí.

Thầy thường than rằng: Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh, nên Thầy nôn nóng nhưng Thiên cơ chẳng nghịch đặng. Ma quỉ hằng phá Chánh mà giữ Tà, chư Tiên Phật trước chưa hề tránh khỏi. Còn cái địa vị cao trọng, nó làm cho nhơn tâm ganh gổ. Con phải lấy Phật tâm con mà dòm ngó đám sanh linh bị phạt, luân hồi chưa dứt, thì tưởng đến Thầy mà cam chịu nhục nhã, lòng từ bi có vậy mới xứng đáng là tôi con Thầy.

Nếu Thầy dùng quyền pháp Chí Tôn thì mất lẽ công bình thiêng liêng Tạo hóa. Con cứ lo lập Luật, để công phổ độ cho chư Đạo hữu con hưởng chút ít.
…Như Nhãn, con nhớ lời tiên tri của Thầy, đọc Thánh Ngôn lại. Thăng.”
Thứ ba, 4-1-1927 (âl 1-12-Bính Dần).

Trung bạch về sự Giác Hải và Thánh Thất.
-“Thầy chẳng qua yêu mến đạo Thiền, quyết gom tóm các con lại làm một nên giữ ThánhThất đến ngày nay, đặng qui tụ các em con đến cho đủ mặt. Như  Thiên Cơ phải  y  như lời xin của Phổ Hiền Bồ Tát thì chẳng ép lòng bỏ chết phái ấy. Thầy sẽ coi ngày Như Nhãn đòi Thánh Thất lại thế nào, rồi mới trả.”

Đức Lý dạy: Ngày 19-2-1927 (âl 18-1-Đinh Mão).
“Chẳng vì Thánh Thất, Như Nhãn phản ngôn mà trễ phổ thông Thánh giáo. Cười…Đã hiểu đời còn mê muội, chẳng phân đặng chơn giả thế nào, thảm thay !

Có một điều đáng trách là một phái yêu dấu của Chí Tôn (phái Thái) dám cả gan nghịch Thiên mà phải đọa trầm luân muôn kiếp, xét đến công tu, khó ngăn  giọt  lụy. Chí Tôn đau đớn bấy nhiêu, Lão càng giận bấy nhiêu. Biết bao phen, Lão cầm viết toan bôi xóa cho rồi trọn phái oan nghiệt mà Chí Tôn nằn nằn xin Lão để cho Người gia công độ rỗi. Ngày nay, Lão nhứt định trả lại chùa nầy. Song, trước khi trả, phải cất Thánh Thất cho xong y như  lời  dạy. Chư Đạo hữu phải hiệp sức nhau đặng lập thành Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi,    là Thánh Địa,  vả  lại  phong  thổ  thuận cho nhiều nước ngoại quốc đến đây học Đạo. Lão muốn nơi khác mà Chí Tôn không chịu”

2 . Thượng Chưởng Pháp
Lão Sư Nguyễn Văn Tương (1879-1926)
Ngài Nguyễn Văn Tương sanh năm Kỷ Mão (1879) tại làng Hữu Ðạo, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, con của ông Nguyễn Văn Tỵ và bà Cao Thị Huề.

Nhờ có học thức, Ngài được cử làm Hương Bộ trong làng, nên người ta gọi Ngài là ông Bộ Tương. Khoảng năm 30 tuổi, Ngài Nguyễn Văn Tương tu theo Ðạo Minh Sư, thọ giáo với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Ngài Nguyễn Văn Tương theo Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang về hành đạo nơi chùa Linh Quang Tự ở làng Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Gia Ðịnh. Ngài tu đến bậc Lão Sư. Ngài Nguyễn Văn Tương được Ðức Chí Tôn thâu làm Môn đệ trước Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Do đó, Ngài Tương cùng với đệ tử của Ngài là Nguyễn Văn Kinh xin với Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang lập đàn cơ tại Linh Quang Tự - Gò Vấp để Ðức Chí Tôn độ Thái Lão Sư, và được kết quả tốt đẹp.

Trong Phổ Cáo Chúng Sanh có ghi một đoạn như sau "Có hai Ðạo hữu: Tương, Kinh, vẫn trước khi nhập môn thì đã thọ nghĩa thầy trò cùng vị Lão thành pháp danh là Ðạo Quang nơi chùa Minh Ðường (Hạnh Thông Tây).

Nhằm ngày 21 tháng 8 năm Bính Dần, Đức Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ tại chùa ấy dạy việc, luôn dịp có để lời rằng: “Tương, Kinh, hai con phải lạy Ðạo Quang trước mặt Thầy, rồi từ đây gọi là Anh mà thôi, còn Thầy duy có một Thầy”.

Ngày 24-7-Bính Dần (dl: 31-8-1926), Ðức Chí Tôn ân phong cho Ngài Nguyễn Văn Tương là: Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ- Chưởng Pháp phái Thượng.

Ngài Nguyễn Văn Tương có người vợ là Bà Võ Thị Tước (1880-1947) và con gái thứ hai là Nguyễn Thị Quyền (1900-1987) cũng đều tùng giáo Cao Ðài. Trong kỳ phong Thánh Nữ phái lần đầu tiên vào ngày 14-1-Ðinh

Mão (dl:15-2-1927)  Ðức Chí Tôn ân phong:
- Bà Võ Thị Tước: Lễ Sanh.
- Cô Nguyễn Thị Quyền: Giáo Hữu.
 (Trích  Ðạo Sử Q.2 của Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, tr.218)
Ngày 5-11-Bính Dần (dl: 11-12-1926), Ngài Chưởng  Pháp Nguyễn Văn Tương thọ bệnh và đăng Tiên, chỉ hưởng được 48 tuổi tại tư gia ở làng Hữu Ðạo. Các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài đến làm lễ tang cho Ngài rất long trọng. Lúc đó, mới khai Đạo được khoảng 20 ngày, còn tạm tại Chùa Gò Kén, nên thi hài được an táng nơi quê nhà là làng Hữu Ðạo (gần Chợ Thuộc Nhiêu) quận Cai Lậy, Mỹ Tho. Sau những năm chiến tranh, ngôi mộ của Ngài hoàn toàn bị hư hại. Năm 1997, nhân dịp Thanh Minh, một vài vị Ðạo tâm tìm tòi biết được vị trí ngôi mộ của Ngài, nên kết hợp với người cháu nội của Ngài là ông Nguyễn Văn Bá, xây dựng lại trên nền mộ cũ một cái tháp nhỏ cao 3 thước 6 tấc.

 (Chúng ta lưu ý trong các Chức sắc cao cấp của Ðạo Cao Ðài thuở đầu tiên có 2 vị tên TƯƠNG: - một là Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương, - hai là Thượng Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Tương, sau được thăng phẩm Quyền Thượng Ðầu Sư, và sau đó tách khỏi Hội Thánh Tòa-Thánh Tây-Ninh để lập ra Ban Chỉnh Ðạo ở Bến Tre và trở thành Giáo Tông chi phái Bến Tre. Ngay sau khi Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên, ngày 7-11-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy hai Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt:
 “Thầy, các con. Trung, Lịch! Hai con phải dụng Ðại lễ mà an táng cho Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó đợi nơi Ðông Ðại Bộ Châu mà chờ Tòa Tam Giáo phát lạc. Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến. Các con nghe à!

Vậy trong hịch văn Sớ tấu, các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.

Lịch bạch Thầy về sự Ðại lễ . . . . . . .
- Không con! .Ðại lễ là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe ! . ." (trích trong Ðạo Sử II tr. 86)

Ngay Tết Ðinh Mão, ngày 1-1-Ðinh Mão (dl 1-2-1927), Ngài Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương giáng cơ:
Thượng Chưởng Pháp TƯƠNG
"Hỷ chư Ðạo hữu, chư Ðạo muội.
Mừng ... Mừng ... Mừng ... Vui ... Vui ... Vui ...

Ðại phước cho cả nhơn sanh, đại hạnh cho Ðịa cầu 68 nầy! Em còn phải công quả phổ độ mới vào đặng Tam thập lục Thiên, nhờ Ðại Từ Phụ cứu độ Em, khuyên nhủ cùng chư Huynh khá coi Thiên vị mình là trọng, vì là của quí báu vô giá, còn sụt sè đường Ðạo, xin nhớ lấy danh Em cự chống cùng tà ma quỉ mị cám dỗ. Tương đây, công cán chẳng chi mà còn đặng địa vị nầy, huống lựa là mấy anh độ rỗi toàn cả Cửu nhị Nguyên nhơn thì phẩm cựu sẽ đặng trổi thêm thế nào ! Xét lấy đủ vui lòng hành đạo." (TNHT. I. tr 92).

3 . Ngọc Chưởng Pháp
Thái Lão Sư Trần Văn Thụ (1857-1927)
Ngài Trần Văn Thụ sanh năm Ðinh Tỵ (1857), tại làng Ðức Hưng, tổng Dương Hòa Hạ, tỉnh Gia Ðịnh.

Thuở nhỏ Ngài học chữ Nho, lớn lên làm nghề dạy học. Năm Ðinh Mùi (1907), Ngài đến chùa Vĩnh Nguyên Tự tại làng Long An, quận Cần Giuộc, thọ giáo với Thái Lão Sư Lê Ðạo Long, thế danh là Lê Văn Tiểng (1843-1913) để học Ðạo Minh Sư. Ngài được Sư phụ Lê Ðạo Long thâu nhận và ban cho pháp danh là Trần Ðạo Minh. Ngài là đệ tử lớn nhứt trong các đệ tử của Thái Lão Sư Lê Ðạo Long nơi Vĩnh Nguyên Tự. Ðến năm Bính Dần (1926), tức là sau khi Thái Lão Sư Lê Ðạo Long liễu đạo 12 năm, Thái Lão Sư giáng cơ cho biết là Ngài đã đắc quả Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn, và khuyên các đệ tử nay tùng giáo theo Ðức Cao Ðài Ngọc Ðế.

Các đệ tử vâng theo lời Ngài và do đó, Vĩnh Nguyên Tự trở thành cơ quan của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thuở đầu tiên và sau nầy trở thành Thánh Thất của Ðạo Cao Ðài gọi là Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự.

Ngài Trần Ðạo Minh lúc đó đã tu lên đến bực Thái Lão Sư và con trai Ngài Lê Ðạo Long là Lê Văn Lịch tu tới bực Dẫn Ân, đạo hiệu Lê Xương Tịnh, cùng các đệ tử khác tại Vĩnh Nguyên Tự, đều vâng lịnh Ðức Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn, tùng giáo Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

- Ngài Trần Văn Thụ (pháp danh Trần Ðạo Minh) được Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong là: Nho Tông Chưởng Giáo Tuyên Ðạo Thiền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Ngọc, trong đàn cơ tại Vĩnh Nguyên Tự đêm  mùng 10-9-Bính Dần (dl: 16-10-1926).

Kể từ khi Ngài Trần Văn Thụ thọ phong Ngọc Chưởng Pháp, Ngài vâng lịnh Ðức Chí Tôn, cùng với các vị Chức sắc Thiên phong khác lo đi hành đạo, phổ độ nhơn sanh. Khi làm lễ Khai Ðạo tại Thánh Thất tạm ở Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh), ngày 15-10-Bính Dần (1926) thì Ngài Ngọc Chưởng Pháp thường xuyên hành đạo tại đó, để cùng quí Chức sắc cao cấp khác soạn thảo Tân Luật theo lịnh dạy của Ðức Chí Tôn.

Qua năm sau, tức là năm Ðinh Mão (1927), Ngài Ngọc Chưởng Pháp lâm bịnh, Ngài trở về nhà an dưỡng tại làng Trường Bình, quận Cần Giuộc. Sau đó Ngài đăng Tiên vào ngày 14-5-Ðinh Mão (dl: 13-6-1927), hưởng thọ 71 tuổi. Tất cả các Ngài: Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh, Phối Sư Thái Ca Thanh, cùng nhiều Chức sắc khác đến thọ tang và phúng điếu. Bởi cơ Ðạo còn sơ khai, đang tạm ở Từ Lâm Tự, nên gia đình Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đưa linh cữu của Ngài an táng nơi quê nhà ở làng Thới Hiệp, cạnh ngôi chùa cũ của Ngài, nay là Ấp 1 Xã Hiệp Phước, quận Nhà Bè. Năm 1996 (Bính Tý), Ban Cai Quản Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự đã lấy cốt của Ngài Ngọc Chưởng Pháp đem cải táng về đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, nằm cạnh ngôi mộ của Ngài Thái Lão Sư Lê Ðạo Long. Di ảnh của Ngài Ngọc Chưởng Pháp được thờ nơi Hậu Ðiện Vĩnh Nguyên Tự, cùng với di ảnh của Ðức Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn và của Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Ðức Ngọc Chưởng Pháp thường giáng cơ dạy đạo tại Vĩnh Nguyên Tự, xưng hiệu là: Thiết Quang Chơn Nhơn. Trong quyển sách ÐẠO NGUYÊN CHÁNH NGHĨA do Vĩnh Nguyên Tự in năm 1939, có in hình Ðức Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ, đề là: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Minh
Thiết Quang Chơn Nhơn, Ngọc Chiếu, với hai câu liễn đặt ở hai bên ảnh là:
- CHƯỞNG khai Nho phái Tam Kỳ Ðạo,
- PHÁP hóa Thiền Tông Tứ giáo truyền

4 . Ngọc Chưởng Pháp
Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang (1870-1946)
Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl: 31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ. Năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, tu theo đạo Minh Sư. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường. Thái Lão Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài. Năm 21 tuổi, Ngài xuất gia tu hành, bắt đầu tu Nhứt Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân; rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc: Ðảnh Hàng, lấy đạo hiệu Trần Vận Quang. Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Năm nầy Ngài được 45 tuổi.

Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế ở Việt Nam..Tổ Sư của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư bên Tàu là Thái Lão Sư Trần Ðạo Khánh dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm "Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ" của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)

Trong lúc đó thì Lão Sư Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Văn Kinh đã được Ðức Chí Tôn độ theo Ðạo Cao Ðài, nên hai Ngài xin lập đàn cơ tại Linh Quang Tự để Ðức Chí Tôn độ Ngài Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang luôn thể và Ngài Trần Ðạo Quang được Ðức Chí Tôn độ nên bằng lòng qui hiệp vào Ðạo Cao Ðài.

Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần (dl: 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của Bà NÐS Hương Hiếu Q.2 trang 172 và 192)

Phải chăng vì Ngài Thượng Chưởng Pháp Tương qui Thiên sớm, nên phải phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp để dâng Luật lên cho có đủ số chăng ? Rồi sau đó mới ân phong Ngọc Chưởng Pháp.  Khi Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị. Nhưng Ngài vẫn xuất ra lập Chi phái. Ấy là từ trong cơ Ðạo phân chia ra mới gọi là Chi phái Cao-Đài.

Năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.

Năm 1937, Ngài Ngọc Chưởng ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài Ngọc Chưởng Pháp không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Cho nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh Thất Trung Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.

Ngày 17-2-Bính Tuất (dl: 20-3-1946), Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang qui thiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi. Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.

*  *  *

Tiểu sử bốn vị Nam Đầu Sư đầu tiên
Trong năm Khai Đạo, Đức Chí Tôn Thiên phong ba vị sau đây vào phẩm Đầu Sư đầu tiên của Đạo Cao Đài, đặc biệt lấy ba chữ Tam Bửu của trời ban cho Cửu Trùng Đài. Ngoài ra thì tất cả đều lấy chữ tịch đạo là “Thanh”
■ Đầu Sư phái Ngọc: Ngài Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc Lịch Nguyệt.
■ Đầu Sư phái Thượng: Ngài Lê Văn Trung, Thánh danh Thượng Trung Nhựt, sau được thăng Quyền Giáo Tông.
■ Đầu Sư phái Thái: Hòa Thượng Thiện Minh, Thánh danh là Thái Minh Tinh.

Ngài Thiện Minh là học trò của Hòa Thượng Như Nhãn, được Thiên phong ngày 13-10-Bính Dần, nhưng Ngài không hành Đạo, nên ngày 12-12-Bính Dần (dl 15-1-1927), Đức Lý Giáo Tông cất chức Thái Đầu Sư của Ngài Thiện Minh.

Cũng trong ngày nầy: 12-12-Bính Dần, Đức Chí Tôn phong Ngài Dương Văn Nương chức Thái Đầu Sư, Thánh danh Thái Nương Tinh. Ngài Thái Nương Tinh cũng không hành đạo.

1 - Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (1890-1947)
Ngọc Lịch Nguyệt là Thánh danh của Ngài Lê Văn Lịch, khi Đức Chí Tôn phong Ngài làm Đầu Sư phái Ngọc. Ngài Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Thiên phong đầu tiên tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, vào đêm 12-3-Bính Dần (dl: 23-4-1926). Đạo hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (dl: 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Thân sinh của Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, hiệu Lê Đạo Long, là người sáng lập ngôi chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc. Cụ Tiểng tu đắc đạo, sau khi qui liễu, đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Cụ có lời di chúc: “Lập Vĩnh Nguyên Tự để sau nầy có Thập nhị Khai Thiên đến mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.”

Thân mẫu của Ngài Lê Văn Lịch là Cụ Bà Trần Thị Đắc. Ở đây có sự liên hệ gia đình với Ngài Trần Văn Thụ (Ngọc Chưởng Pháp). Ngài Trần văn Thụ có người con gái quí danh là Trần Thị Khá, được gả cho Ngài Lê Văn Lịch. Ông Bà Lê Văn Lịch hạ sanh một người con gái là Cô Lê Ngọc Trang, Đạo hiệu Bạch Tuyết.

Ngài Lê Văn Lịch thọ nhận từ phụ thân bí thuật huyền môn của Đạo Lão (Tiên giáo) và Y thuật. Sau khi nhập môn vào Đạo Cao Đài, Ngài không dùng bí thuật huyền môn nữa, chỉ truyền lại cho con gái Lê Ngọc Trang về Y học cổ truyền.

Đầu năm Bính Dần 1926, quí Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc được lịnh Cơ Bút dạy xuống Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu cơ, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn (Cụ Lê Văn Tiểng, đạo hiệu Lê Đạo Long, thân sinh của Ngài Lịch) giáng cơ dạy Ngài Lịch, lúc bấy giờ đã tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quí Ngài Cư, Tắc để mở Đạo Cao Đài.

Trong thời gian nầy, Ngài Đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương đang làm Chủ quận Cần Giuộc đã gia nhập Đạo Cao Đài, nên cũng khuyên Ngài Lê Văn Lịch nhập môn vào Đạo. Đêm 12-3-Bính Dần (dl: 23-4-1926), Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong Ngọc Đầu Sư, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tổ chức tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn. Trong Thánh ngôn, Đức Chí Tôn có giáng cơ dạy Ngài Ngọc Lịch Nguyệt như sau:

TNHT. I.14: "CAO ĐÀI. Lịch ! Con nghe Phật Như Lai nói chưa ? Tam Kỳ Phổ Độ là gì ? Là phổ độ lần thứ ba. Sao gọi là phổ độ ? Phổ độ nghĩa là gì?

- Phổ là bày ra, độ là cứu chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào?

Chúng sanh là gì?
- Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.

Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Thầy hỏi? Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng năm nầy về theo Trung đi truyền đạo. Nghe và tuân theo...
Phải mặc y phục như Trung, mà màu hồng."
TNHT. I. 22:

"Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Nhữ tri hồ?
Hữu Ngã đồ Thái Đầu Sư tại thử, nhĩ vô thức luyện đạo, Ngã phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.Tam thập tứ vị chúng sơn bất tri Chơn lý luyện thành. Ngã vi Chủ khảo giáo hóa. Khả tuân Ngã mạng.
Nhữ đẳng tu thọ pháp, tu thọ pháp. Khâm tai!"

Diễn nôm:
Thích Ca Như Lai là Thầy (Ta), muốn cứu chúng sanh, mượn danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Con biết không? Có học trò của Thầy là Thái Đầu Sư tại đây, nó không biết luyện đạo. Thầy phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp. 34 vị tăng không biết Chơn lý luyện thành. Thầy là Chủ khảo giáo hóa. Khá tuân lịnh Thầy. Các con tu thọ pháp, tu thọ pháp. Kính vậy thay!

Những ngày đầu Khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt đóng vai trò quan trọng không kém Ngài Thượng Trung Nhựt. Ngài được lịnh Đức Chí Tôn sưu tập 3 bài Kinh Tam giáo trong Kinh Tam Thánh Đại Động để làm Kinh của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt phụng soạn và ban hành quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH", trong đó các bài Kinh Nhựt Tụng của Đạo Cao Đài được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm và chữ quốc ngữ, cùng là giải thích ý nghĩa tổng quát của mỗi câu kinh, có phần phụ thêm giải về Nghi tiết phụng thờ của Đạo Cao Đài, in và ban hành vào năm Mậu Thìn (1928).

Khi hai Ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre, thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Tòa  Thánh,  trở về Vĩnh Nguyên Tự tu hành theo lối “độc thiện kỳ thân”.

Năm 1943, trong công cuộc nhà cầm quyền Pháp khủng bố Đạo Cao Đài, Ngài bị họ bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945 Ngài mới được trả tự do trở về. Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài qui thiên tại Chợ Lớn ngày 2-9-Đinh Hợi (dl: 15-10-1947) thọ 58 tuổi. Mộ của Ngài đặt tại phần đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng.

Ngài Ngọc Lịch Nguyệt thỉnh thoảng có giáng cơ tại đàn cơ ở Vĩnh Nguyên Tự. Ngày 7-1-Ất Tỵ (1965), Ngài Ngọc Lịch Nguyệt giáng cơ, xin trích lục ra sau đây:
THI:
NGỌC chiếu khai xuân đã vẹn tròn,
LỊCH trình quí giá đáng vàng son.
NGUYỆT lai sẽ rõ cơ mầu nhiệm,
Mừng thấy đệ huynh chí chẳng mòn.

Hỡi chư Hiền đệ, Hiền muội!

THI
Bần Đạo thấy khắp trong huynh đệ,
Gối đã dùn, chẳng nệ mỏi xương.
Bạc màu tóc đã điểm sương,
Mà không nệ nhọc trên đường quả công.
Thiệt quí giá phúc hồng hiếm có,
Bước dặm trường đi đó đi đây.
Phổ thông giáo lý Đạo Thầy,
Thiêng liêng nương đó giải bày thiệt hơn.
Dầu nóng bức chẳng sờn cực nhọc,
Dẫu ngày đêm lăn lóc phụng hành.
Hiệp hòa lớn nhỏ em anh,
Rày đây mai đó chẳng canh cải lời.
Bần Đạo thấy nghĩ thôi quá tiếc!
Mảnh thân phàm bị diệt tiêu tan.
Lấy đâu làm một con thoàn,
Để cùng huynh đệ một đàng thi đua.
Còn ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương cõi đời giả, tạo cái Chân.
Có nhiều phương tiện xa gần,
Để mà khuyến thiện dìu nhân trở về.
Như Bần Đạo lỡ bề thoát tục,
Cõi vô hình mấy lúc tiếc thương.
Tùng chung Tiên Phật một đường,
Muốn dìu sanh chúng phải nương cơ huyền.
Vì lẽ đó lời khuyên hơn thiệt,
Để đệ huynh nghiệm biết gần xa.
Ráng mà khắc kỷ xông pha,
Ráng mà giữ tánh để ra giúp đời.
Đừng bê trễ than ôi uổng bấy!
Đời mỏi mòn chẳng phải còn xa.
Trước tiên gìn giữ chữ HÒA,
Tuy rằng số ít mà ra muôn phần.
Đến chùa, Thất, rửa lần tội lỗi,
Nghe kệ kinh tắm gội linh hồn.
Mau chân mà tiến bước dồn,
Quả đầy công đủ bảo tồn nguyên căn.

THI
Căn lành gìn giữ chớ buông lơi,
Dù mấy năm qua cũng một đời.
Mải miết mặc, ăn cùng chỗ ở,
Hơi tàn vạn sự thảy buông trôi.

2 . Thái  Đầu Sư Thái Nương Tinh (1870-1929)
Ngài Thái Nương Tinh, thế danh là Dương Văn Nương, làm Tri Huyện Hàm tại Sa-Đéc, sanh năm Canh Ngọ (1870) tại Sa-đéc và mất ngày 25-10-Kỷ Tỵ (dl 25-11-1929) tại Sa-đéc, hưởng thọ 60 tuổi.  Mộ của Ngài hiện ở phần đất dành làm nghĩa trang gia đình của hai họ Dương và Phạm, tại đường Đinh Tiên Hoàng (Tạ Thu Thâu cũ), Thị xã Sa-đéc, cách chợ chừng hơn 1000 thước.

Được biết, trước kia, mộ của Ngài ở Chợ Cồn xã Tân Qui Đông, Sa-đéc, bên bờ sông Tiền Giang. Vì bờ sông bị đất lở, nên con cháu trong gia đình cải táng về đây ngày 21-8-1959. Kế bên mộ của Ngài là mộ của Bà Huyện Dương Văn Nương, nhũ danh Nguyễn Thị Quế (1876-1951) cũng được cải táng về đây ngày 24-4-1960.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét