Theo tinh thần phổ thông nền Chơn Đạo của Thầy
ra khắp Năm châu Thế giới, nhưng trải qua nhiều sự biến chuyển của Đạo quyền
quá khắc khe, nên vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy mà chương trình Khảo Cứu Vụ của ĐỨC HỘ-PHÁP đề ra vào năm
Đinh Hợi (1948) cũng không tồn tại được bao lâu. Sau đó Ngài Hiến Pháp Quyền Chưởng quản Hiệp
Thiên Đài TRƯƠNG HỮU ĐỨC ra một Thánh lịnh mới để thực hiện Ban Khảo-Cứu-Vụ
tại Tòa-Thánh, ngày 04 tháng 05 Nhâm-Tý (dl: 14-06-1972) nhưng rồi vẫn bị thời cuộc biến thiên mà tất cả phải bị ngừng lại.
tại Tòa-Thánh, ngày 04 tháng 05 Nhâm-Tý (dl: 14-06-1972) nhưng rồi vẫn bị thời cuộc biến thiên mà tất cả phải bị ngừng lại.
Vừa qua chúng ta thực hiện
được Chương trình “Học tập Cấp Sơ đẳng” xem như là bài học nhập môn vậy.
Qua phần II này Thầy hướng
dẫn Chương trình cấp Trung Đẳng. Chúng ta nên nghiên cứu qua về Dịch Học để bắt
đầu tìm hiểu về Bát Quái như thế nào hòa hợp với chương trình Đạo học như
chương trình dẫn thượng. Mọi cố gắng hôm nay xin góp bàn tay PHỤNG SỰ và HIẾN
DÂNG trên tinh thần NHÂN NGHĨA và làm sáng danh Đạo Trời kỳ Ba Cứu thế và
Chuyển Thế. Xin xem lại Chương trình Khảo Cứu Vụ đầy đủ hơn nơi Phần I: Cấp Sơ
Đẳng.
Cám ơn ông Quang Minh đã
khuyến khích nên chúng tôi thực hiện được sớm hơn thời gian dự định.
Trân trọng làm món quà
thân ái nhứt gởi đồng Đạo.
Tây Ninh Thánh
Địa, mùa Hội-Yến Diêu-Trì.
Năm Kỷ Sửu (dl:
16-08-2009)
Nữ Soạn giả
NGUYÊN THỦY
Nguyên văn Thánh Lịnh của
Đức Hộ-Pháp
Hộ-Pháp Đường ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ÐỘ
Văn Phòng (Nhị Thập Tam Niên)
Số: 114 / TL TÒA THÁNH TÂY NINH
THÁNH LỊNH
Hộ-Pháp Chưởng
Quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp-Thiên và Cửu
Trùng.
Chiếu y Đạo Luật ngày
16-01-Mậu Dần (dl: 15-02-1938) giao quyền Thống nhất Chánh Trị Đạo cho Đức Hộ
Pháp nắm giữ cho đến ngày có Đầu sư chánh vị.
Nghĩ vì sự Phổ thông Chơn
truyền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là việc rất cần ích trong lúc nhơn sanh đang tiến
trên con đường Hạnh phúc Hoà bình.
Nghĩ vì mục đích Cao-Đài
Đại-Đạo là đem nhân loại đến chỗ Đại-Đồng tạo Tân Dân chỉ ư chí thiện trong khuôn
viên Tân-Luật Pháp-Chánh-Truyền
Nghĩ vì Chánh giáo của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là QUI NGUYÊN TAM GIÁO PHỤC NHỨT NGŨ CHI cho đặng Phổ
thông Chơn Đạo phải thông hiểu rành mạch nguyên lý của các Tôn-giáo. Nên:
THÁNH LỊNH
Điều thứ nhứt:
1 - Thiết lập Khảo-Cứu-Vụ
tại Toà-Thánh để sưu tập Kinh điển và Thánh Ngôn, Thánh Giáo đặng khảo cứu
Triết lý Cao-Đài Đại-Đạo và Kinh sách của Tôn-giáo khác mà ra Kinh sách để Phổ
thông Đại-Đạo Tam-Kỳ.
2 - Tổ chức các
cuộc giảng Đạo tại Toà Thánh và
các Châu Đạo để phổ thông Triết lý của Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ.
3 - Tổ chức các lớp Huấn
luyện Chức sắc, Chức việc để đủ tài liệu truyền Giáo.
4 - Ra báo chí để Phổ
thông Chơn Đạo.
ĐIỀU 2 & 3 (xem ở
quyển I: Cấp Sơ Đẳng đầy đủ)
Điều thứ tư:
CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN
1 - Cấp Sơ đẳng (Đã phổ biến)
1 - Đạo là gì? Tu là gì?
2 - Tiểu sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
3 - Nghi tiết và ý nghĩa của các tổ chức thờ phượng.
4 - Tân Luật và Pháp Chánh
Truyền.
5 - Tam Qui Ngũ giới.
6 - Tiểu sử sơ đẳng của Tứ
Thánh, Tam Trấn, Đức Khương Thái Công.
7 - Địa dư Việt Nam về mặt
Kinh tế, Chánh trị và Tôn giáo
8 - Phép tu luyện, trau
lòng đạo đức cho trong sạch (Phương pháp này sẽ chỉ riêng)
2 - Cấp Trung đẳng:
1 - Tại sao khai Đạo ? Tại sao bế Đạo ?
2 - Lịch sử Đại-Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ và chánh trị của Đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
3 - Tiểu sử của Tứ Thánh,
Tam Trấn, Đức Khương Thái Công, Bát Tiên (Tham khảo)
4 - Địa dư các cường quốc
và hoàn cầu về phương diện Kinh tế, Chánh Trị, Tôn giáo.
5 - Tu niệm theo phép:
GIỚI- ĐỊNH- HUỆ.
3 - Cấp Cao đẳng:
1 - Triết lý Phật Giáo
2 - Triết lý Đạo Giáo
3 - Triết lý Nho Giáo
4 - Triết lý Gia-Tô-Giáo
5 - Triết lý Hồi Giáo
6 - Triết lý Bà-La-Môn
Giáo
7 - So-sánh các triết lý
Tôn giáo với các Triết lý Cao-Đài giáo để phân rành chỗ hơn chỗ kém của đôi
bên.
8 - Tâm-lý-học: tâm lý con người:
- Trong thời bình trị ra
sao ? Của kẻ phú quí ra sao?
- Nhứt là phương diện tín
ngưỡng trình độ nhơn loại hiện giờ ra sao? Ảnh hưởng phong trào vật chất do khoa học
gây nên thế cuộc nào ? Chỉ chỗ sai lầm qua tư tưởng hiện tại.
- Làm cách nào đem con
người lại đường Đạo (Sưu tầm các phương pháp hạnh phúc cứu thế)
4 - Phép tu luyện:
1 - Thật hành: Giới- Định-
Huệ
2 - Pháp tham thiền nhập
định và tiếp điển Tiên Thiên cho thân hình được tráng kiện.
Điều thứ năm:
Vị Bảo Thế (Lê Thiện Phước) thừa quyền Hộ Pháp
lãnh thi hành Thánh Lịnh này.
Lập tại Toà Thánh
ngày 15 tháng 12-Đinh Hợi
(Dl: 25-01-1948)
HỘ-PHÁP
PHẠM-CÔNG-TẮC
KHÁI NIỆM
Về
Phương TU theo THỂ- PHÁP THIÊN-ĐẠO
Người tu theo Đạo Cao Đài
là tu theo Thiên Đạo, cũng có hai phần: Thể pháp và Bí pháp của Thiên Đạo.
Đức Thượng-Phẩm dạy về:
Thể pháp Thiên Đạo là
những nơi học hỏi để cung ứng tinh thần trên khuôn viên Chánh pháp.
Trong Thể pháp Thiên-Đạo
chia ra làm ba thời-kỳ:
1 - Thứ nhứt là thời-kỳ
khai thác.
2 - Thứ nhì là thời-kỳ
luyện tập.
3 - Thứ ba là thời-kỳ thi-hành.
Trong thời-kỳ sau này mới
thường gặp những cơ khảo đảo đặng thử-thách tinh-thần.
- Về thời-kỳ thứ nhứt là những tạo tác nơi qui
họp Đức-tin cho con cái Chí-Tôn, tức là các Đền Thờ đó vậy. Khi một Môn-đồ đã
thọ môn tùng giáo thì phải do nơi các Đền Thờ đặng tựu họp Đức-tin. Đó là bước
đầu tiên của Thể-Pháp Thiên-đạo; do đó sự cúng-kiến, niệm kinh là điều
yếu-trọng vậy.
- Qua thời-kỳ thứ nhì là
đem ĐỨC TIN đã thụ được đặng tập luyện
tâm tánh và khởi lập công trừ quả đặng tự giải khổ cho mình và giúp phương cứu
khổ cho toàn nhân loại. Ấy là phương tập luyện tánh thành, tâm niệm đó vậy.
- Qua thời-kỳ thứ ba là
thi-thố những Đức-tin hầu lấy phương giải khổ mà đem gieo truyền hột giống
Thương yêu, ấy là phương CỨU KHỔ đó vậy.
Trong lúc này tinh-thần
hay gặp những chướng ngại hoặc làm cho nao-núng tan rã Đức-tin, hoặc theo đường
quỉ-mị, CHIA PHE PHÂN PHÁI mà nên TẢ ĐẠO BÀNG MÔN như hằng hữu đã xảy ra đó.
Trong ba
thời-kỳ này:
- Thứ
nhứt là Lập Đức,
- Thứ
nhì là Lập Công,
- Thứ ba
là Lập Ngôn.
Đó là Thể-Pháp Thiên-Đạo.
Khi đã trọn phần THỂ PHÁP rồi liền bước qua mặt
BÍ-PHÁP là những phương-pháp Tu tâm sửa tánh hầu lập thành Chơn-khí thanh-khiết
mà hiệp với Chơn-thần đặng tiếp Chơn-linh để giải phương cứu khổ thêm bề sâu,
siêu lý diệu chơn. Ấy là phương
tầm hiểu chơn-truyền chánh pháp đó.
Khi đã vẹn sạch Tinh -Khí
-Thần là đắc pháp vậy.
Mấy Em đã học qua về
khoa Bí-pháp khẩu tụng. Vậy khá để tâm học hỏi cho được Tâm-truyền thì
công phu của mấy Em đã được phần thưởng vô giá đó.
- Nói về THIÊN-ĐẠO tức là luận về vũ-trụ
triết-lý, tức là nói về Không-gian.
- Còn nói về THẾ-ĐẠO là luận về nhân-sanh triết
lý, tức là nói về Thời-gian.
Mấy Em khá hiểu cho lắm mới được. Phải để tâm
suy nghiệm đó nghe !”
(Trích
Tam thể xác thân của Đức Thượng-Phẩm)
Đức Hộ-Pháp cũng cho biết:
“Đức Chí-Tôn để cả hai triết-lý cho nhơn-loại
biết sự thật. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn đến: Ngài đến đặng giải một triết lý,
một công-lý hiện hữu tại mặt thế gian này: Sự chơn thật.
Ngài đã giải sự chơn thật.
Phải hiểu THỂ-PHÁP, biết
Thể-pháp rồi mới thấu đến BÍ-PHÁP. Khó lắm! Phải để tinh-thần tìm hiểu cho lắm!
Khó lắm ! Phải rán học cho lắm mới có
thể đoạt đặng! Điều rất
khó-khăn là phải viết sách.(ĐHP 5-4 Kỷ-Sửu)
Vì : “Có Thể pháp thì có
Bí-pháp!
Các vị Giáo-chủ cũng phải
tùng theo khuôn luật đó, một nền Tôn giáo có:
- THỂ PHÁP là cơ-quan GIẢI
KHỔ cho chúng sanh, tức nhiên phải có:
- BÍ-PHÁP đặng làm cơ-quan
GIẢI THOÁT cho chúng sanh. Hễ độ phần xác tức nhiên phải độ phần hồn cho toàn
vẹn.
Một nền TÔN GIÁO đã xuất
hiện tại thế gian này dầu Thể-Pháp cao siêu bao nhiêu đi nữa, nếu không có Bí
Pháp làm tướng diện căn bản thì nền Tôn Giáo ấy chỉ là Bàng môn Tả đạo mà
thôi”. (ĐHP: 9-4 Kỷ Sửu 1949)
“Hồi tưởng lại việc đã qua
trong các thời xưa, nhứt là thời cận đại và lấy kinh-nghiệm xét-đoán, chúng tôi
nhận thấy hễ nơi nào sôi-nổi phong-trào náo loạn lôi cuốn con người vào chốn
diệt vong thì cập theo đó sản-xuất một mối Đạo mới để cứu vớt sanh-linh khỏi
cơn đồ thán.
Như trước kỷ-nguyên
Thiên-Chuá giáng sanh, nhơn-loại cơ hồ bỏ qua lời truyền của Đức Phật Thích-Ca
vạch rõ con đường Bát-chánh để làm phương giải khổ.
Quên hẳn lời dạy của Đức
Khổng-Tử giữ Đạo Nhân-luân, tạo nhân kết nghĩa để làm cửa điều-hoà xã-hội và vì
khinh-thường Huấn-ngôn của các Đấng ấy, nên cơ Đời thuở nọ lâm cơn hỗn-độn thì
Cơ-Đốc-Giáo ra đời Cứu-Thế. Chưa mãn hai
ngàn năm hoằng khai Công-giáo thì nhơn-loại lần lần không quan-tâm đến lời của
Đấng Christ tiên-tri số-phận điêu-linh của loài người trong khoảng đời mạt kiếp
này. Lời tiên-tri đã ứng-nghiệm thì ĐẠI-ĐẠO CAO-ĐÀI xuất hiện.
CHƯƠNG I
CÂU 1- Tại
sao khai Đạo? Tại sao bế Đạo?
Lý Đạo trong trời đất lẽ
ra là nhiên nhiên bất hoại, bất dịch nhiệm-mầu, không có khai, cũng không có
bế, cũng như không một ai có quyền chỉnh sửa được, vì Đạo vốn là vô-vi, như
không-khí được ban cho người và vật có sự sống. Không khí không bao giờ mất ở
trong vũ-trụ này, nhưng tại người làm cho không-khí bị nhiễm trược tức là tự
người làm cho mất đi sự thanh-khiết mà thôi. Sau cùng là người phải chịu
trách-nhiệm cho việc làm vô-ý-thức của mình. Hậu quả là Bịnh! Ngày nay sinh ra đủ thứ Dịch bịnh
ĐẠO thì mênh-mông ví như biển cả tiếp nhận nước
từ mọi dòng sông luân-lưu đổ ra, ấy là
lúc nước chảy thông. Nếu có người đắp đập ngăn sông làm cho nước phải ứ đọng
rồi chảy vòng-vèo cho đến khi không còn luân-lưu được nữa, ấy là lúc Đạo BẾ.
Rồi đến khi có người đứng ra khai cho dòng nước chảy thì lại thông, rồi lại bế;
cứ thế mà thời THÁI, BĨ cứ xoay quanh trong lẽ dinh, hư, tiêu, trưởng là như
vậy.
Đạo Cao Đài hôm nay ra
đời, ấy cũng vì các Tôn Giáo khác đã qua nhiều thời kỳ bị BẾ, nay Thầy là Đức
Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng-Đế đến để khai thông mối Đạo làm nên thời THÁI. Như
vậy sự thông hay bế cũng do vật dục của con người làm nên mà chuyển xây thành
ra THÁI là thời Đạo khai; BĨ là thời Đạo bế.
Đây là lời xác nhận:
“ÐẠI ÐAO TAM KỲ PHỔ ÐỘ khai sáng tại Việt Nam
từ năm 1926, người bổn Ðạo lúc ấy còn bị quyền Ðời bó buộc. Mãi tới năm 1956 Hội Thánh
ký thỏa ước
với Chánh Phủ Cộng Hòa ước hẹn không làm chính trị và được trọn quyền
truyền bá mối Ðạo khắp xứ Việt Nam”.
Về mặt Thiên Cơ Thầy có dạy:
“Từ trước, TA giáng sanh lập Phật giáo gần sáu
ngàn năm thì Phật-Đạo chánh truyền gần thay đổi. TA hằng nghe chúng sanh nói
“Phật giả vô ngôn”! Nay nhứt định lấy Huyền-diệu mà giáo Đạo, chớ không giáng
sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
Dường nầy từ đây chư chúng
sanh chẳng TU bị đọa A-Tỳ thì hết lời nói rằng “Phật Tông vô giáo” mà chối tội
nữa. TA nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp TAM KỲ PHỔ ÐỘ nầy mà không TU thì
không còn trông mong siêu rỗi”.
Qua thời gian vật đổi sao
dời, Đạo cũng như Đời đã trải qua biết bao lẽ Thịnh - Suy, BĨ - THÁI..
BĨ là gì?
Bĩ 否 nghĩa là bế tắc, gồm có chữ bất 不 ở trên, chữ
Khẩu 口 ở dưới, là ám chỉ con người không có miệng
hay nói khác đi dầu cho có miệng cũng không nói được thành lời, dẫu có nói đi nữa
là phải nói theo sự đặt để của người khác.Cũng như chữ Phỉ 匪 chữ Phi 非 nghĩa là không vậy.
Ở trong trời đất vẫn có đủ cả vạn-vật. Nhưng ở trong vạn-vật thì người là một
giống tối linh. Vậy nên chỉ nói “người”thời đại-biểu được cả vạn-vật. Người, thật
ra là phối với trời đất mà làm ra Tam Tài, nên đạo người tức là đạo trời đất,
mà đạo trời đất chính là ở con người hiện hữu
Đạo trời là gì?
Đạo trời là gì?
- Là Khí Dương.
Đạo đất là gì?
Âm Dương hoà hợp nhau thì sanh thành được vạn vật, đạo người cũng nhân đó mà
còn. Âm Dương cách tuyệt với nhau thời chẳng sanh thành được vạn-vật, đạo người cũng nhân đó mà mất.
Đặc tính của quẻ BĨ:
Càn Khôn là hai cánh cửa để đi vào Đạo Dịch. Vậy khi cha mẹ phối hợp tức là
Âm Dương giao nhau thì hình thể thứ ba ra đời, là sự thành hình của người con.
Đứa bé sanh thuận, nghĩa là đầu quay xuống thì thấy trước nhất là:
Ba nét liền tượng ba hào Dương gọi là quẻ Kiền ☰
1 hậu môn
1 bộ sinh-dục.
Một miệng.
Hai lỗ mũi.
Hai con mắt.
Hai lỗ tai.
Một quẻ kép như trên có Kiền vi Thiên ở trên, Khôn vi Địa ở dưới đọc là
Thiên Địa Bĩ
Một đứa bé ra đời thì đầu quay xuống phía dưới đất, để cho Âm Dương hoà hợp
(đầu là Dương, đất là Âm) tức nhiên một hài-nhi mới ra đời thân thể yếu-ớt là từ
chỗ tối-tăm đi ra là thời BĨ (cần phải được nuôi dưỡng săn sóc)
- Thứ nhất: Đầu quay xuống như thân cây mới mọc.
- Giai đoạn thứ nhì đứa bé nằm ngang, đầu và mình ngang nhau, chống tay bò
như con thú bốn chân.
- Giai đoạn thứ ba đứa bé đứng thẳng, đầu hướng lên trời, chân đặt lên đất.
Đó chứng tỏ là con người đã phải theo định luật tiến-hoá của Bát-hồn.
Hình dạng các khiếu trên tạo nên quẻ Thiên Địa Bĩ.
Luật tiến-hoá của vũ-trụ là một vòng tròn không đầu mối, thế nên hết Thái đến
Bĩ, qua Bĩ rồi lại Thái. Đó là chuyện hữu hình. Vô vi cũng vậy.
Con người mới ra đời, đầu quay xuống gọi là “sanh thuận” tức là mới khởi là
phải “đương đầu” với một thế giới mới, tuy mọi sự đều khó-khăn, phải phấn-đấu lắm
mới được. Rồi một phen trở về cũng vậy, tức là chết. Chơn hồn cũng quay đầu về
trình Mẹ ở Cung Diêu-Trì là Cung Tạo Hoá Thiên (số 9), thì cũng phải chịu thời
Bĩ để thích nghi với một thế giới mới nữa. Thế nên Ông Bà ta đã rõ thông luật
tiến-hoá ấy mà khi người chết đặt nằm, đầu phải quay ra ngoài là thuận lý Âm
Dương của Trời đất (Trở về là thời Âm,
Cung Mẹ là Dương đối với Âm) Vì chữ ngoài đây tức là Thượng là hướng thượng,
như quẻ ngoại là quẻ “Thượng” là nằm trên. Quẻ nội nằm dưới.
Lại nữa qua hai quẻ THÁI, BĨ đi liền nhau mà bao quát được vô số vấn đề Đạo-lý
trong vũ-trụ.
Thời Bĩ này Âm-khí ở dưới chẳng chịu thượng giao với Dương, dương-khí ở
trên chẳng chịu giao tiếp với âm. Âm
Dương cách tuyệt nhau như thế, tất nhiên vạn vật chẳng sinh thành, còn gì là đạo
làm người nữa, nên nói rằng: chẳng phải đạo làm người. Dịch nói Bĩ chi phỉ nhân
.
Việc trời đất lớn rộng để chỉ cái bao la, còn thân người nếu âm-khí không
xung lên, dương khí không giáng xuống thành bịnh quan cách bất thông.
Tâm thuật cũng vậy, nếu bên ngoài hưng phấn mà bên trong chứa nhiều nhân dục,
cũng gọi là phỉ nhân vì còn nhiều thú tính, thì sao xứng đáng vào hàng Tam Tài?
Quẻ BĨthì Kiền ☰ trên, Khôn ☷ dưới, thoạt nhìn thì thấy
vị trí của hai quẻ có vẻ là thuận, nhưng luận về khí-hóa thì khí Dương ở Kiền
có tính bốc lên và khí Âm ở Khôn thì lắng xuống dưới, hai khí có chiều hướng
khác nhau thì làm sao hòa nhau được, đã không hòa được thì vận Bĩ phải đến mà
thôi.Quẻ Thiên-Địa BĨ là lúc bế tàng.Khi Đạo Bế là phần Dương cuối cùng muốn đứt,
chuyển biến ra Âm. Hết thạnh đến suy, nhơn vật thay đổi: Thời Đạo Bế, người
sinh ác tâm, bạo ngược, gian tham xảo trá, giao cảm ác khí nên tội-lỗi làm chìm
đắm sa đoạ, nhơn vật điêu tàn. Phần Dương tiêu huỷ, phần Âm thạnh phát. Ấy là
lúc Âm thạnh Dương suy.BĨ là thời kỳ Đạo bế.
Đạo vận có một phần Dương, một phần Âm hiệp thành Càn Khôn Thế giái, thì Âm Dương
chuyển vận tuần hoàn mà sanh sanh hoá hoá mới có đêm tối ngày sáng.
Bĩ là bế tàng, là cùng tận. Bởi Quẻ Thuần Kiềnchủ cát tường là điều lành. Nhưng cái khó ở
đây là quẻ Thuần Kiền đã biến thành Thiên Địa Bĩ vì mất đi ba hào Dương ở dưới, Âm cứ tiến dần
lên (Dương biến Âm)
- THỜI ĐẠO BẾ:
Thánh giáo của Phật Thích Ca giáng Cơ tại Hội Phước Tự (Cần Giuộc). Ngày
05-04-Bính Dần (Samedi 5 Juin 1926) có lời rằng:
“Chư sơn nghe dạy:
“Vốn từ LỤC TỔ thì Phật Giáo đã bị bế
lại, cho nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh Pháp bị nơi Thần Tú làm
cho ra mất Chánh Giáo, lập riêng pháp luật buộc mối Ðạo Thiền.
TA vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật Tông thất
chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ, Thiên Ðịa hoằng khai, nơi “Tây
Phương Cực Lạc” và “Ngọc Hư Cung” mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh.
Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu
trước đến buổi hôm
nay rồi; tại Tăng đồ
không kiếm chơn lý mà hiểu.
Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo... Ôi ! Thương thay ! Công có công, mà thưởng
chưa hề có thưởng; vì vậy mà TA rất đau lòng.
TA đến chẳng phải cứu một mình chư Tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc Thần,
Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, TA đương lo cứu vớt.
Chư Tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ Ðộ nầy là lần
chót; phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật. Chư Sơn đắc Đạo cùng chăng là do nơi mình hành Đạo. Phép hành đạo Phật Giáo dường như
ra sái hết, tương tợ như gần biến "Tả Ðạo Bàng Môn". Kỳ truyền đã thất,
chư Sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào; cứ ôm
theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây Phương mà cửa Tây Phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành chánh quả do nơi
nào mà biết chắc vậy. TA đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây TA cũng cho chư
Tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà
chịu thất kỳ truyền. Chư Tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa”.
Bài Thánh giáo này cũng như hầu hết các Bài giáng Cơ khác ở buổi tiền khai
Đại-Đạo đều xuất phát từ các ngôi Chùa Phật, như Đàn Cơ này tại Chùa:
Hội Phước Tự là một ngôi chùa ở Cần Giuộc mà vị sư trụ trì là Yết Ma Luật
(Nguyễn văn Luật). Tháng 4 năm Bính Dần (1926), Hội Phước Tự tổ chức trường
hương, Hòa Thượng Thích Thiện Minh làm Thiền chủ. Chư vị lập đàn cầu cơ, tiếp
được bài Thánh Ngôn nầy. Hòa Thượng Thiện Minh được Ðức Chí Tôn phong làm Ðầu
Sư phái Thái, Thánh danh Thái Minh Tinh. Sau, Yết Ma Luật được Ðức Chí Tôn
phong Giáo Sư phái Thái là Thái Luật Thanh. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)
Vì sao phải lập Đàn nơi chùa Phật?
- Thứ nhứt là thời tiền khai Đại Đạo nên chưa có một cơ sở vật chất nào, nếu
có chỉ là tạm mượn nhà riêng thôi
- Thứ hai là Đức Thượng Đế muốn cảnh tỉnh các vị Đại Đức, Thượng Toạ cùng
các Phật tử biết rằng thời kỳ của Phật Thích Ca đã mãn, Đạo Cao Đài ra đời chỉ
là Phật giáo chấn hưng, mục đích Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi.
Thế nên trong ngày Lễ khai Đạo: rằm tháng 10 năm Bính Dần (dl: 19-11-1926)
tại Từ Lâm Tự (Chùa Gò Kén –Tây Ninh) chính Thầy có giáng ban cho đôi câu đối:
- DI-LẠC thất bá thiên niên khởi khai Đại-Đạo
- THÍCH CA nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn.
Để xác nhận rằng: nguơn hội này của Đức Di-Lạc đến để khai mối Đại-Đạo Tam
kỳ. Còn Đức Thích Ca thì qua 2.500 năm (25 thế kỷ) kết thúc mối đạo Thiền.
Thầy cho biết Ðạo bị bế lại là vì Chánh pháp tu đắc đạo bị đóng lại, làm
cho người tu không thể thành Chánh quả được; giống như trường thi đóng cửa,
không tổ chức thi tuyển thì đâu có ai đậu đạt được?Tu không thành là vậy
Hai nhân vật: Huệ Năng và Thần Tú Thầy có nhắc đến. Hai vị nầy đều là học
trò của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn của Phật giáo Trung Hoa. Thần Tú học với Hoằng Nhẫn
nhiều năm nhưng chưa tỏ ngộ được Chơn tánh. Huệ năng mới học với Ngũ Tổ có 8
tháng nhưng lại ngộ Đạo, thấy được Chơn tánh, đạt được trí huệ. Do đó, Ngũ Tổ
truyền Y Bát cho Huệ Năng làm Lục Tổ Phật giáo, dạy xuống miền Nam hoằng pháp,
truyền bá phép tu Ðốn ngộ.
Sư Thần Tú có phần buồn nên đi lên phía Bắc hành đạo, truyền bá phép tu Tiệm
ngộ. Lúc bấy giờ, Phật giáo Trung hoa chia ra: Nam Tông của Lục Tổ Huệ Năng và
Bắc Tông của Ðại sư Thần Tú. Nhưng Nam
Tông mới là chánh truyền vì Lục Tổ Huệ
Năng cóYbát nên làm Lục Tổ
Thế nên có Mật chiếu tức là Mệnh lệnh
bí mật của Ðức Chí Tôn cho biết rõ “.. từ LỤC TỔ thì Phật Giáo đã bị bế lại.”
Trong sách Phật Tông Nguyên Lý tức là quyển Kinh Phật viết vào thời Nhị Kỳ Phổ
Ðộ, trong đó có nêu 6 chữ “Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ” viết rằng: Sau Ðức Thích Ca sẽ
có một Ðức Phật rất lớn giáng trần mở Đạo. Ấy là Ðức Chí Tôn mở Ðại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ ngày nay đó !
Các mối Đạo nay đã thất kỳ truyền tức là chơn lý Chánh truyền đã mất. Chơn
truyền là giáo lý chơn thật đúng đắn được Ðấng Giáo chủ truyền lại cho các Môn
đồ ngay từ buổi ban đầu.Lâu ngày bị sửa đổi thành phàm giáo
Thế là khi BĨ cực thì THÁI lai:
Theo lý Dịch, Đạo khai 開 là thời THÁI, là hình ảnh hai tay đẩy hai cánh cửa (môn là
cửa) 門 ra ngoài..
Lúc Đạo khai là thời của quẻ THÁIÂm
khí của Khôn giáng xuống, Dương khí của Kiền thăng lên hoà hợp, ấy là lúc hanh
thông, vậy phần Âm sau cùng vừa tận thì đến phần Dương phát khởi chuyển hoá. Ấy
là thời-kỳ phổ khai, nhơn loại đặng từ-thiện minh chánh, những hung ác bạo tàn
đều tiều tuỵ. Lúc ấy là Dương thạnh Âm suy, nhơn vật tuần hoàn đến kỳ thoát
hoá, người lo tu tâm dưỡng tánh, cọng hưởng thái-bình. Do máy Âm Dương chuyển vận
đến hết phần Âm cuối cùng là Thái.
Nguyên Đạo-lý trong vũ-trụ chỉ có lẽ tương-đối, mà không lẽ gì tuyệt-đối. Hễ
sau lúc đã Thái (Địa Thiên Thái) là hanh
thông rồi, tất nhiên vận cùng khó tới vậy. Nên, sau quẻ Thái tiếp lấy quẻ Bĩ.
Thái cực thì Bĩ lai, Bĩ cực Thái lai, chuyện đời đầy vơi là như thế.
Về quẻ THÁI theo khí-hậu thì khí Âm và khí Dương giao nhau, dung hòa nhau
được thì mới hanh THÁI.
Ngay thời-điểm cực kỳ đen tối như xã hội Việt Nam lúc bấy giờ (vào khoản
năm 1926):
- Trong thì tâm lý nhơn sanh còn nhiều phức tạp theo đa thần giáo, tinh thần
Tôn giáo chưa chuyên nhất nào là theo bóng, chàng, đồng, cốt, thầy phù, thầy
pháp đủ loại, mặc dầu tín ngưỡng cao nhưng NHÂN TÂM bất nhất
- Ngoài thì dân tộc chịu lệ thuộc dưới quyền thống trị của người Pháp. Dân
sinh chịu đau khổ dằng dai.
Đức Chí-Tôn đến, Ngài đến để xoay thành vận THÁI, tức là đem lại sự
hanh-thông, sáng-sủa, huy-hoàng cho dân-tộc Việt, đồng thời để giải nguy cho
nhân-loại đang lâm vào cảnh đau thương nhất, loạn-ly nhất như hiện tại đã thấy
trong thời kỳ Hạ nguơn mạt pháp này:
“Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ
tức là Đạo Cao-Đài đặng mở một kỷ-nguyên mới, Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi, lập thành một nền
Tôn-giáo Đại-Đồng cho hiệp với trình-độ tiến-hóa của nhơn-loại và của quả địa cầu
68 của chúng ta, dọn đường cho Đức Di-Lạc ra đời”.
“Vì muốn độ 92 ức nguyên-nhân qui hồi
cựu vị cho khỏi sa-đọa cõi hồng-trần. Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng
trần bằng xác thân mà chỉ giáng bằng Huyền-diệu Cơ-Bút mới qui đặng cả Đại-Đồng Thế-giới”.
Xếp đặt quẻ,Thánh nhân lấy theo hình ảnh con người Luận về Lý Dịch qua con
người:
(Tài-liệu này trích trong Dịch-lý Cao-Đài I cùng Soạn-giả)
Tại sao phải lấy hình ảnh của con người?
- Vì tất cả con người trên thế giới này đều có những bộ-phận giống nhau về
Âm Dương, nam nữ. Bộ sinh dục nam thì tượng Dương vẽ một gạch liền Nữ tượng Âm, vẽ gạch đứt Dựa theo nguyên tắc này mà Thánh nhân làm ra
bộ Kinh Dịch, ký hiệu toàn bằng
những vạch liền, vạch đứt thay đổi nhau mà làm nên quẻ biến đó vậy.
Vì người là một sản phẩm hoàn hảo nhất của Thượng Đế. Thánh-nhân do theo đó mà làm nên nét chẵn,
lẻ; Âm, Dương để diễn-tả sự chuyển biến trong vũ-trụ này. Do vậy nét đứt biểu thị bằng hào Âm, nét liền tượng hào
Dương Nét liền, nét đứt đều do từ lý tính của người. Chính do Âm Dương này đã
trở thành đầu mối của Càn Khôn Vũ Trụ mà Thánh-nhân đã luận nên tất cả những sự
biến thiên trong trời đất, không đâu là không có hình ảnh Âm Dương. Dù vật lý học,
nguyên tử học, sinh học, triết học, lịch học và nhất là TRIẾT LÝ CAO-ĐÀI.
Theo trên, với con số 7 là 7 khiếu (khiếu là lỗ) ở trên mặt, tức là 7 khiếu
Dương; nhờ Dương-điển trên mặt nên tất cả con người dù xứ nóng hay xứ lạnh đều
chịu được thời tiết mỗi nơi khác nhau, nếu khí Âm lên đến đầu hay mặt, là bịnh.
Thế nên Pháp Chánh Truyền qui định cho phái Nữ chỉ đến phẩm Đầu Sư mà thôi.
Còn hai phẩm Giáo Tông và Chưởng Pháp thì không được dự vào cũng vì lẽ ấy.
Con số 7 có liên-hệ đến thất tình và thất khiếu sanh quang của
con người. Do các số này đã làm
nên phương trình Đạo học, đang áp-dụng trong thế giới lòai người.
Xưa Phật chỉ độ phần Dương mà thôi, tức là độ hồn mà không độ xác, độ tử
không độ sanh, độ Nam mà không độ Nữ, nên Phật-giáo chỉ làm tuần thất (nghĩa là
7x7=49 ngày)
Ngày nay, chính Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo, là cơ quan tận-độ chúng-sanh, tức
là thực hiện cả con số 9 (hình ảnh của toàn Cửu khiếu =7 khiếu dương + 2 khiếu
âm) tức nhiên Kỳ Ba này độ cả hồn lẫn xác, độ tử và độ sanh, độ Nam và Nữ, độ toàn cả nhân-loại trên Càn
khôn Thế giới và vật loại; không phân biệt giống dân nào; vì tất cả đều là con
của Thượng-Đế. Đạo Cao Đài làm tuần Cửu (9x9=81)
Điều này ứng với Sám Trạng Trình, rằng:
“Cửu Cửu Càn Khôn dĩ định,
“Thanh Minh thời tiết hoa tàn”.
Bởi thế nên đúng thời này Thầy lập Cửu-Trùng-Đài là
con đường vào Cửu-Trùng-Thiên, từng bước lên nấc thang tiến-hóa
qua Cửu-Phẩm Thần-Tiên để đến nơi tuyệt phẩm là Niết Bàn, theo như Phật giáo
quan-niệm đó.
Chỉ có con người mới được hình ảnh của quẻ THÁI mà thôi, tức nhiên đứng thẳng
đầu đội trời chân đạp đất.
Trong khi đó Khôn ( 6 vạch đứt) là Âm ở trên, quẻ KIỀN dương ở dưới, chỉ một
sự bao dung, như tình cha mẹ thương con. Quẻ Kiền ☰ (3 nét liền) cọng chung là 9 nét. Người Á Đông nói
Kiền là Cha, Khôn là Mẹ.
Khi trời đất giao nhau, Âm Dương hoà hiệp thì muôn vật sinh trưởng cho nên
mới nói THÁI: "Âm Dương hoà hiệp, thiên địa tương giao vị chi THÁI."
THÁI còn có nghĩa nhỏ đi lớn lại, Âm đi Dương lại. Thế của khí Âm Dương trời
đất giao nhau mà muôn vật hanh thông, trên dưới giao nhau mà chí khí giống in
nhau. Trong Dương mà ngoài Âm, trong mạnh mà ngoài thuận. Đạo quân tử ngày một
tăng trưởng, đạo tiểu nhân ngày một tiêu mòn.
Soán viết: Thái, tiểu vãng đại lai cát hanh, tắc thị thiên Địa giao nhi vạn
vật thông dã. Nội Dương ngoại Âm, nội kiện ngoại thuận. Quân tử đạo trưởng, tiểu
nhân đạo tiêu.
Vậy thì trời đất giao nhau, Âm Dương hoà hợp là quẻ THÁI. Muôn vật tươi tốt.
Đấng nhân quân phải làm thế nào giữ được mức quân bình: không thái quá mà cũng
không bất cập, cốt thực hành, vun bồi, sửa sang giúp đỡ cho nên việc của Trời đất
và phù trợ cho dân sanh.
Hãy xem giữa trời đất và con người có những điểm tương đồng, tức nhiên “Trời
đất in ta một chữ đồng”. đúng như câu của các Triết gia Đông Tây đều nhìn nhận:
Con người là một Tiểu Vũ trụ “Nhân thân tiểu vũ trụ”.
“Con người đứng phẩm tối linh,
“Nửa người nửa Phật nơi mình anh
nhi”.
Trời đất, vạn vật đều có đầy đủ trong con người của chúng ta. Sự tương ứng
giữa hình tượng và các số của Đại Vũ trụ (Macrocosme) tức là trời đất với Tiểu
Vũ trụ (Microcosme) tức là con người.
Sau đây là những phần tiêu biểu:
Trời đất Con người
Đại Vũ trụ (Macrocosme)
Tiểu Vũ trụ (Microcosme)
Trời: Tròn
Đầu: tròn
Đất: vuông không hẳn vuông
Chân: vuông, xếp khít 2 chân đứng thẳng, gần như vuông.
Tam Bửu: Tinh- Khí- Thần
- Trời: Nhựt, Nguyệt, Tinh
- Đất: Thuỷ, Hoả, Phong
- Người: Tinh- Khí- Thần
Tứ Tượng:
Trời: Thái Dương ,
Thiếu Dương, Thái âm Tứ chánh: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Trời: Thái Dương ,
Thiếu Dương, Thái âm Tứ chánh: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người: Tứ chi: 2 tay 2 chân Thiếu Âm,
Ngũ Hành:
Kim, Mộc,Thuỷ, Hoả, Thổ
Ngũ tạng: Tâm, can, Tỳ, phế, thận
Lục khí: Âm, dương, gió, mưa, Tối, sáng
Lục phủ: Ruột già, ruột non, Tam tiêu, bàng quang, Bao tử, túi mật.
Thất chánh: mặt trời, trăng và 5 ngôi sao: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Thất khiếu: trên mặt người 7 khiếu: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, 1 miệng
Bát tiết: lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí,
Đông chí;
Bát mạch: phù, trầm, trì, sát, Tế, Đại, đoản, trường.
Bát cương: Âm, dương, biểu, lý, hàn, nhiệt, hư, thiệt.
Cửu Tinh: Thất chánh và Thiên hà, Bắc đẩu.
Cửu khiếu: trên mặt 7 khiếu.
2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, 1 miệng và dưới có 2 khiếu Âm: lỗ tiêu, lỗ tiểu
Thập Can: Giáp, Ât, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Thập chỉ: 10 ngón tay
Thập nhị Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,Thìn,Tỵ, Ngọ,Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Thập nhị khí quản: 12 lóng khí quản.
Trời đất có 24 khí Âm Dương: tiếp dẫn 12 tháng nuôi dưỡng 4 mùa: Xuân, Hạ,
Thu, Đông.
Trời đất: 1 năm có hơn 360 ngày.
Người có 24 khúc đại trường tiếp dẫn 12 kinh môn phân ra nuôi Tứ tướng: Mắt,
mũi, tai, Lưỡi.
Người gồm có hơn 360 đốt xương.
Trờiđất: vận chuyển một ngày.
Một đêm là 13.500 độ (1 vạn 3 ngàn năm trăm độ)
Người: một ngày một đêm thở hít gồm có 13.500 hơi thở (1vạn 3 ngàn 5 trăm
hơi thở)
Khắp cả bầu trời có 36.000 tinh tú (ba vạn 6 ngàn Tinh tú)
Khắp châu thân người có 36.000 lỗ chân lông (ba vạn 6 ngàn lỗ chân lông)
(Tài liệu này trích Trung Thiên Dịch
–Trung thiên Đạo của Trần Cao Vân).
Nếu so với lời giảng giải của Thầy thì có 3.072 ngôi sao. Do đó mà Đức
Chí-Tôn bảo ông Phối sư Bính phải vẽ đủ 3.072 vì Tinh tú (Sao) trên Quả Càn
Khôn, có CON MẮT của Thầy. Chúng ta cùng nghiên cứu sau, về con số sai biệt
này, hẳn có duyên cớ.
Trên người một bậc là Thánh nhân là bậc đại nhân thông minh huệ trí, nhân đức
tuyệt vời, tự nhiên lấy sứ mệnh Thiêng liêng của Trời đất giao phó “Tham Thiên
hoá dục” để thay Trời đất mà hoàn thành công việc che chở của Hoá công, để cuộc
sống con người ngày thêm tiến hoá.
Luận về Đạo-pháp:
Nếu thời THÁI là hanh thông, thời BĨ là bế tàng thì trong trời đất mọi thứ
đều có ảnh hưởng lẫn nhau, mà thời tiết, khí hậu của mỗi thời điểm có thể định
quyết cho các thứ thịnh suy Bĩ Thái, cũng như việc Đạo: BĨ là thời-kỳ
Đạo Bế, Thái là thời kỳ Đạo Khai.
Trước hết nên xét qua:
Về thời tiết:
Quẻ Bĩ nếu xét trong 12 tháng của 12 Thiên-Tử quái thì Bĩ nằm vào tháng 7,
mà cũng chỉ vào 7 khiếu dương ở trên mặt, vì
chính nó phải chịu đựng đủ các thời
tiết nóng lạnh và “đối mặt” với đời.
Dưới đây là bản đồ ghi rõ 12 tháng trong một năm, mỗi tháng ứng vào một
Cung. Phân ra hai bên:Âm Dương:
- Khởi ở Tý là tháng 11 là quẻ Phục (Địa Lôi Phục).
- Tháng Sửu là tháng12 ứng quẻ Lâm (Địa Trạch Lâm).
- Tháng1 (giêng) Dần, ứng vào quẻ Thái (Địa Thiên Thái).
- Tháng 2 là Mẹo ứng quẻ Đại-Tráng (Lôi Thiên Đại-Tráng)
- Tháng 3 là Thìn ứng quẻ Quyết (hay Quải) (Trạch Thiên Quyết)
( H.1) 12 tháng của một năm gọi là
12 Thiên Tử Quái
Dương bắt đầu thăng từ 1 Dương ở quẻ Phục tiến dần đến khi thuần Dương ở quẻ
Kiền có 6 hào Dương. Đây là Dương tiến, thì Âm thoái tức là Âm tiêu Dương trưởng,
nghĩa là Âm lui dần.
- Tháng 5 là Ngọ ứng vào quẻ Cấu (Thiên Phong Cấu)
- Tháng 6 là Mùi ứng vào quẻ Độn (Thiên Sơn Độn)
- Tháng 7 là Thân ứng vào quẻ Bĩ (Thiên Địa Bĩ)
- Tháng 8 là Dậu ứng vào quẻ Quán (Phong Địa Quán)
- Tháng 9 là Tuất ứng với quẻ Bác
(Sơn Địa Bác)
- Tháng 10 là Hợi ứng với quẻ Khôn (Bát Thuần Khôn)
Với 6 quẻ của 6 tháng sau từ quẻ Cấu trở đi thì Âm xuất hiện. Quẻ Cấu có một
Âm ở dưới tiến dần lên đến Khôn là hoàn-toàn Âm, Ấy là Âm trưởng thì Dương
tiêu. Hình vẽ trên khi nhìn
xuyên tâm đối, qua trục ngang thấy bên này là THÁI (Dương) bên kia là BĨ (Âm)
mà con người đang sống trong thế giới Nhị nguyên nên cứ mãi lẩn-quẩn không bao
giờ thoát ly được. Các quẻ trên đồ hình chỉ cân bằng được qua TÂM mà thôi. Muốn
thoát ly các việc luân hồi sanh tử, giàu nghèo, sướng khổ ấy phải đi vào tâm của
vòng tròn, mà tâm của vòng tròn là ngôi của Thượng Đế. Muốn nhập vào Đại ngã để
về với Thượng-Đế thì phải TU. Đó là con đường ngắn nhất, là thành công nhất ! Đạo
Cao-Đài chính là con đường tu tắt trong nguơn hội này. Chứng tỏ đây là thời
THÁI, là hanh thông vậy! Dịch gọi Âm là thời Tiểu-nhân, Dương là thời Quân-tử.
- Quẻ Bĩ thuộc tháng 7 trong chu-kỳ
12 tháng.
- Quẻ Thái thuộc tháng giêng trong chu kỳ 12 tháng
12 tháng của một năm gọi là 12 Thiên-tử Quái.
Sở dĩ gọi là “12 Thiên tử quái” bởi vì 12 quẻ này là đại diện (là vua) của
64 quẻ biến. Mà 64 quẻ biến được sản sinh cũng từ Bát Quái mà ra. Thầy có cho
biết:
…“Thái cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ
Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới thành ra Càn
Khôn Thế giái” .
Đây là điểm mấu chốt,căn bản sự biến hoá của Dịch
Với con số 12 quẻ là nền tảng của Đạo Cao Đài khi luận qua về Thập Nhị Thời
Thần, Thập nhị Thời Quân, Thập Nhị Bảo Quân…Riêng Thầy thì dạy rằng:
“Thập Nhị khai Thiên là Thầy, Chúa cả
Càn Khôn Thế giái; nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của
Thầy”.
Nguyên-lý về SỐ: Số 12 là số đặc-biệt tức là 9+3.
9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là CƠ QUI
NHỨT, nắm cả các PHÁP trong tay mà người nắm pháp ấy là chủ tể càn khôn vũ trụ,
nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy. Nếu cộng lại là 1+2 = 3 tức
là ba ngôi đầu tiên.
Nếu tính theo hàng là 1 và 2 tức là lý Thái-cực đứng trước luật ÂmDương thì
thấy rõ quyền-năng Chưởng quản trong đó. Vì thế Thầy nói chi chi cũng có luật định,
không vật chi ngoài quyền sở định của tạo hóa hết”.
Đặc biệt là các quẻ xuyên tâm đối nếu ta cộng lại sẽ có một tổng số giống
nhau. Ví như quẻ Địa Thiên Thái có biệt số là 81 (Khôn vi Địa số 8, Càn vi
thiên số 1) Trái lại quẻ Thiên Địa Bĩ sẽ có biệt số là 18 (tức nhiên Càn 1 Khôn
8). Nếu cọng cả hai số này lại sẽ là 81+18= 99. Tất cả 31 đôi quẻ còn lại nếu đặt
trên vòng tròn cũng có kết quả giống nhau như thế. Nhìn lại Đảo Phú-quốc có cả
thảy 99 hòn, như thế có ngẫu nhiên không? Từ Sài-Gòn đến Tây Ninh 99 km có phải là ngẫu nhiên không ?
Lại nữa Càn (11) trên, Khôn (88) dưới, hiệp số cũng là 99. Nhìn vào Toà
Thánh: Hai Đài Lôi-Âm-Cổ (lầu trống) và Bạch-Ngọc-Chung (lầu chuông) mỗi Đài
cao 36m (3+6=9) nếu đặt hai số liền nhau thành ra 99 có ngẫu nhiên không? Bên trong hai hàng cột Rồng xanh mỗi bên là 9, vậy 99 có ngẫu nhiên không ?
99 là thành số của hai quẻ Càn Khôn là đầu mối của vạn vật:CÀN ☰ (3 vạch liền), KHÔN ☷ (6 vạch đứt) hiệp lại thành 9. Hai số 9 đặt liền
nhau là 99, hoá thành con số 36m cũng trở lại với Dịch số, cùng như nhau.
Tóm lại hai quẻ CÀN KHÔN là cánh cửa để đi vào ĐẠO DỊCH. Chỉ đến thời kỳ
này Đức Chí-Tôn mở Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ mới phô bày hết những nét tinh hoa của
Đạo Dịch, hoàn thành các con số, phù hợp với thời kỳ văn minh của “Kỹ thuật số”.
Căn bản đó là BÁT-QUÁI.
Thánh ngôn Thầy dạy (TN I /15)
“Muốn trọn hai chữ PHỔ ĐỘ phải làm
thế nào ? Thầy hỏi?– Phải bày Bửu pháp chớ không đặng dấu nữa!”
Bửu Pháp ở đâu ? – Đó là Đền Thánh
Tây-Ninh.
Đền Thánh này là nơi chứa đầy Bí-Pháp.
Về nguyên lý của Vũ trụ thì trong trời đất luôn luôn qua những giai đoạn:
Dinh, hư, tiêu, trưởng cũng đều do Bát Quái biến hoá. Người, là đứng vào phẩm tối
linh, gần gũi với Trời đất, hấp thụ lẽ đạo mầu, nắm vững sự cùng thông, âm
dương tiêu trưởng. Nhờ vậy mới thấy cuộc thế là trò chơi, sự sống chết là lý vô
thường: giàu không lấy làm tự tôn, nghèo không tự ty. Thánh nhân đạt Đạo mới thấy
rằng: sớm mai nghe Đạo chiều chết cũng vui “Triêu văn Đạo tịch tử khả hỉ
!”.Trong lòng lúc nào cũng ung dung tự tại được. Bởi vì:
Luật của Vũ-trụ khi THÁI, lúc BĨ vẫn cứ thay nhau như con đường đi vậy,
không bao giờ bằng phẳng cả. Đó là nói cái lý tương đối mà thôi chứ không bao
giờ có tuyệt đối, mà định-luật trời đất cũng không bao giờ để cho đến mức thái
quá.Nếu vậy thì sự nghèo khổ tận cùng mà không phương giải quyết thì người
nghèo chắc không sống nỗi. Âu đó cũng là bài học hay cho nhân-loại khi đến cõi
trần này, mục đích là tiến hoá chứ không phải thụ hưởng. Có nhận rõ như thế mới
thấy rằng người là Lữ khách dừng chân nơi quán trọ. Cuộc đời này là giả cảnh.
Nhưng phải lướt qua sông mê bể khổ, khó nhứt là sông “Ngân hà”! Ngân hà là gì ?
– Là sông tiền, sông bạc, nó là thứ làm cho con người từ cổ chí kim luôn điêu đứng.
Kiếm ra tiền bạc là một nỗi khổ, nhưng đến lúc phải quên nó đi cũng là một nỗi
khổ gấp vạn lần ! Làm sao quên được ? Thầy dạy: TU.
Có câu: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả.
“Anh-hùng hào kiệt có hơn
ai ?”
Xem lại hai quẻ THÁI và BĨ đi liền nhau cũng thấy cả triết-lý của cuộc đời
nằm trong đó. Đời cứ hết thịnh đến suy, qua cơn BĨ cực đến hồi THÁI lai. Để nhắc-nhở
rằng khi được an-nhàn tự-toại hãy nghĩ đến sự khó-khăn, khổ sở của Đời mà quan
tâm giúp đỡ. Khi gặp cơn nguy khó cũng đừng làm mất nét anh-phong của trời đã
phú cho. Tục ngữ có câu “Mua danh ba vạn,
bán danh ba đồng”, hoặc “Quan nhất thời, dân vạn đại” là chỉ đời vô thường. Chính Đức Phật Thích Ca đã nhiều lần nhắc nhở:
- “TA nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp TAM KỲ PHỔ ĐỘ này mà KHÔNG TU, thì
không còn trông mong siêu rỗi” (TN I /20)
- “Con chỉ có TU
mà đắc Đạo. Phải ngó đến hằng ức, thiên, vạn kẻ nhơn sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng Từ-bi độ rỗi kẻo tội nghiệp” (TN I / 21)
- “THẦY
nhứt định đến chính mình THẦY độ
rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa. nhưng mà buộc phải lập Chánh thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau,
Anh trước Em sau mà đến nơi Bồng đảo” (TN I /18)
KẾT LUẬN CÂU 1:
Nền Đại Đạo này có bị BẾ không?
[Sài gòn, 7-7-Bính Dần (Thứ bảy,
14-8-1926)]
Lời Thầy: Các con nghe dạy:
“Vẫn từ ngày Đại Đạo bế lại, Chánh
quyền đều vào một tay Chúa Quỉ. Cười !
Khi Ngọc Hư Cung và Lôi-Âm-Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, Chúa Quỉ biết cơ mầu
nhiệm ấy và hiểu rõ rằng Tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến, nó đã hiểu
rõ rằng bề nào Thầy cũng phải chiếu y
Thánh ý: Tam Giáo Qui Nhứt mà dùng danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT,
nên chúng đã dùng chữ CAO ĐÀI trước Thầy
mà lập Tả Đạo Bàng Môn.
Thầy hỏi các con: Vậy chớ Tà quái nhận tên ấy là chủ ý gì ? Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy, để cho
các con nghi ngờ mà lánh xa Thánh giáo như đàn Cái Khế vậy.
Nhưng có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy, tiện dụng làm một vị Tiên Ông mà thôi.
Cười…Vậy, các con khi nghe nói Cao Đài nơi nầy, Cao Đài nơi kia, đừng vội
tin mà lầm mưu Tà mị. Các con nghe và tuân theo. (TNCT. TTT. 263) (ĐS. II. 236)
“Đạo khai Tà khởi” như Thầy đã dạy.
Lại nữa Thầy cũng cho biết luôn “Danh Ta nó còn mượn duy ngai Ta nó chẳng dám
ngồi”.
Lời sau đây chính ông Nguyễn Ngọc Tương đã thuộc nằm lòng, nên đã viết thơ
khuyên Ông THÁI CA khi ông ấy bỏ Đạo, thật là tha thiết, rằng:
“Vì không có cái chi mà làm bằng cớ chắc chắn buộc cho Anh phải tin rằng
thiệt Tiên Phật có giáng cơ ký tên. Thầy đã dạy “Đạo khai thì Tà khởi” Nó cũng
dám lấy tên Thầy mà cám dỗ lựa là tên Tiên Phật, nên Thầy đã căn dặn: Ngoài Thập
Nhị Thời quân của Thầy đã chọn đừng vội tin Thầy có giáng Cơ nơi này nơi nọ, mà
phải bị lầm mưu Tà quái cám dỗ. Vậy nên Anh rất thong-thả mà nghe hay không
nghe, tin hay không tin, tự nơi Anh, không có một mảy chi bó buộc Anh hết, đặng
ngày sau Anh không sang sớt một mảy chi cho ai hết.”
Thế rồi, sau đó ít lâu chính hai Ông: Tương và Trang lại vứt áo ra đi, lập
Chi phái Bến Tre: Ban Chỉnh Đạo…thì quả thật “ngày sau Anh không sang sớt một mảy
chi cho ai hết.”
Xưa nay người làm luật thường chết trên luật là đó!
1 - Yếu lý mà Đức Thượng Đế đến với nhân loại qua danh:
“THÍCH CA MÂU NI PHẬT tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT Giáo Đạo
Nam Phương”.
Buổi đầu Thầy thường giáng Đàn nơi các chùa Phật:
- Mục đích là cho biết nhiệm kỳ Phật
giáo đã mãn
- Vốn từ Đạo bị BẾ lại thì phần nhiều hữu công tu mà thành thì ít thành
- Cái tận tất là đến cuối cùng, mà hễ cuối cùng chẳng dứt thì phải Qui Nguyên
lại trước, nên gọi là tuần hoàn.
- Thầy nói: Nơi đây là Thánh địa, TA lập Thánh Thất TA đã nhứt định đến với
huyền diệu đặng chuyển Phật Giáo lại cho hoàn toàn.
- Tiếng AN NAM từ đây Thầy cho là CHÁNH TƯ đặng lập Đạo của Thầy.
- Thầy giao cho ông Như Nhãn “lập thành Tân Luật Thích giáo” để không một
ai ra khỏi Tân Luật Đại Đạo.
Những vấn đề trên Thầy đã thông qua Hoà Thượng Như Nhãn là nhân vật điển
hình “để thâu phục Thích Đạo”
Như nhãn là ai?
NHƯ NHÃN tên NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1874-1938)
Chính là Hoà Thượng Giác Hải. Đức Chí-Tôn phong “Quản Pháp Thiền Sư Thích Ðạo
Chuyển Luật Linh Diêu Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thái". Là người đứng
ra hiến ngôi Từ Lâm Tự (Gò kén- Tây Ninh) cho Cao-Đài làm Lễ Khai Đạo Nhưng sau
khi có biến cố trong ngày Đại Lễ thì Hoà Thượng Như Nhãn đòi Chùa lại, đuổi Đạo,
buộc phải dời cơ sở vật chất đi trong vòng ba tháng, nếu không thì đưa ra Tòa.
Từ đó Ông trở về vị thế cũ và cũng bị Đức Lý cách chức luôn.
Tiểu sử: Hòa Thượng Như Nhãn pháp danh là Thích Từ Phong, thế danh là Nguyễn
văn Tường, trụ trì chùa Giác Hải ở gần cầu Ông Buông (Phú Lâm) Chợ Lớn. Ngài có
quyên góp tiền trong Phật tử để mua đất xây ngôi Từ Lâm Tự tức Gò Kén, Tây
Ninh. Ông Bà: Nguyễn Ngọc Thơ và Lâm Ngọc Thanh đóng góp nhiều tiền bạc cho việc
xây cất chùa Từ Lâm nầy. Sau, nhờ huyền diệu Cơ Bút, Ðức Chí Tôn độ cho Ông Bà
Nguyễn Ngọc Thơ và Hòa Thượng Như Nhãn theo Ðạo Cao Ðài. Do đó, Hòa Thượng Như
Nhãn hiến chùa Từ Lâm ở Gò Kén cho Ðạo Cao Ðài dùng làm Thánh Thất để tổ chức Ðại
Lễ Khai Ðạo ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần (dl 19-11-1926).
Trong Ðại Lễ Khai Ðạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt ếm sót một cửa, do đó Quỉ
Vương nhập Đàn phá khuấy, nhập vào ông Lê Thế Vĩnh mạo xưng Tề Thiên Ðại Thánh
và nhập vào Cô Vương Thanh Chi (con ông Vương Quan Kỳ) mạo xưng Quan Âm Bồ Tát,
hai người nhảy múa lung tung, khiến Hòa Thượng Như Nhãn mất đức tin, số nữ đệ tử
của Ngài xúi đòi chùa Từ Lâm lại, nên sau cùng Ðức Lý Thái Bạch khuyên dạy Hội
Thánh trả chùa và hướng dẫn Hội Thánh mua đất ở Long Thành xây dựng khu Nội Ô
Tòa Thánh vĩ đại như ngày nay.
Thầy có dạy riêng Hoà Thượng Như Nhãn nhiều Đàn Cơ, ghi thêm làm tài liệu,
để thấy rõ mục đích của Thầy trong cơ Chuyển Thế này.
* Ngày 16-7-Bính Dần (dl: 23-8-1926 )
THÍCH CA MÂU NI PHẬT tá
danh
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT
Giáo Đạo Nam phương
Như Nhãn Hiền Đồ, nghe dạy:
Vốn từ ĐẠO BỊ BẾ lại thì phần nhiều hữu công tu mà thành thì ít thành, TA rất
yêu thương.
Hiền Đồ có lòng giữ gìn Phật Tông Chánh pháp, cái địa vị cao thượng của TA
ban cho Hiền Đồ từ thử là cốt để đợi cho tới ngày khởi định lập pháp TAM KỲ PHỔ
ĐỘ cho Hiền Đồ có đủ quyền thế mà hành chánh với TA.
Thiên cơ khó lậu, nếu tỏ tường chơn pháp của Lôi Âm Tự và Bạch Ngọc Kinh ra
thì chưa ắt ngày nào Đạo đặng mở, Tam Giáo Qui Nhứt.
Hiền Đồ cũng hằng trông mong cho Đạo đặng vậy. Hiền Đồ đủ hiểu, Thánh Đạo gọi
GIA TÔ lập ĐẠO sau hết mà Thánh quyền cao thượng là chừng nào chưa ? Mà tiếc
cho Tiên Đạo và Phật Đạo là mối ĐẠI ĐẠO đã khai từ mới tạo Thiên lập Địa.
Mỗi sự chi cũng hữu chung hữu thỉ, cái tận tất là đến cuối cùng, mà hễ cuối cùng
chẳng dứt thì phải Qui Nguyên lại trước, nên gọi là tuần hoàn.
Ngày nay là buổi tuần hoàn Đại Đạo, Thiên Địa hoằng khai, TA trông công Hiền
Đồ mà lập thành cho nước NAM làm CHỦ nền Chơn Đạo của TA.
Nơi đây là Thánh địa, TA lập Thánh Thất. Hiền đồ có lòng giúp Ta chăng ?
Chỉ Hiệp làm một mà thôi, vì TA đã nhứt định đến với huyền diệu đặng chuyển
Phật Giáo lại cho hoàn toàn. Hiền Đồ đừng ái ngại.
CƯ khá đọc Thánh Ngôn cho Như Nhãn
Hiền đồ nghe. TẮC tụng Nhơn Quả cho chúng sanh nghe”.
* Thiền Lâm Tự: 29-7-Bính Dần [Chúa
nhựt 5-9-1926]
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết
CAO ĐÀI
Giáo Đạo Nam Phương
…Như Nhãn Hiền Đồ ! THẦY không muốn nói với con bằng tiếng Hớn Ngôn, vì tiếng
AN NAM từ đây Thầy cho là CHÁNH TƯ đặng lập Đạo của Thầy, nên buộc phải nói rõ
ràng với con.
Thời kỳ dấu diếm Thiên cơ đã qua rồi, Thầy phong cho con là: Quản Pháp Thiền
Sư Thích Đạo Chuyển Luật Lịnh Diêu Đạo Sĩ, con vừa lòng chăng?
Con đã giúp Thầy gìn giữ Thích Đạo nguyên Luật từ thử, nay mới còn đặng như
vầy, không thì đã ra Bàng Môn Tả Đạo rồi.
Con phải biết THẦY ngày nay trông công con mà lập thành Tân Luật Thích
giáo. Con phải đại tịnh kể từ tháng 9
cho tới Rằm tháng 10,
Thầy không muốn cho con lo lắng
điều gì khác hơn là xét xem Kinh điển lại.
Con biết Ngũ Chi: Minh Đường, Minh Sư, Minh Tân, Minh Lý, Minh Thiện, cũng
đều do nơi Phật pháp mà ra, duy giáo lý của các Chi ấy thì có: Tiểu Học, Đại Học,
Trung Dung và Tứ Thơ là kinh điển mà thôi.
Còn phái Lão duy có Đạo Đức Kinh và Huỳnh Đình Kinh là căn bổn.
Con phải xem xét hết lại mà lập TÂN LUẬT.
Thầy nhứt định giao Thánh Thất nầy lại cho Thơ lo lắng thế cho con, song sự
thờ phượng phải có thay đổi chút ít, sau Thầy sẽ dạy chư Đạo hữu con định liệu.
Rằm tháng 10 nầy, Thầy xin con Hội cả chư Hòa Thượng tại Thánh Thất đây
chung lo lập TÂN LUẬT. Ngày ấy Thầy sẽ dạy cho hai vị Hòa Thượng phò loan, đặng
có điều chi bợ ngợ thì cầu Thầy mà thôi.
Thầy phú thác một trách nhậm nặng nề cho con, nhưng mà con đừng ái ngại.
Danh giá con, Thánh Đạo Thầy trong ấy, con khá hết lòng.
Con phải hiểu rằng, hội chư Hòa Thượng trọn đôi ba tháng thì là hao tốn,
song chẳng hề chi, để Thầy định liệu. Tuy vân, Thầy biết sức một mình con cũng đủ lập
TÂN LUẬT, nhưng mà Thầy muốn có Hòa Thượng đặng cho khỏi trành tròn,
lại còn làm tay chơn Thầy để thâu phục Thích Đạo.
Thầy cậy con một điều là đòi MINH, vì nó là Môn đệ của con, đặng giao chức
Thái Đầu Sư cho nó đi Phổ Độ nhơn sanh. Cái trách nhậm ấy đáng lẽ về phần con,
song con tuổi đã cao rồi, khó bề cực nhọc, nghe à !
Thầy để con trọn quyền mà Thầy xin con an lòng, Thầy lo chung cùng con, Thầy
trông cậy nơi con lắm đó !”
(ĐS. II. 238)
* Chùa Giác Hải, Sài gòn: 15-8-Bính Dần (dl: 21-9-1926)
Thử xem hậu vận của Hoà Thượng Như
Nhãn !
Mặc dầu Đức Chí-Tôn ban cho những lời giáo huấn hết sức ân cần như vậy, thế
mà Hòa Thượng Như Nhãn cũng bị mất đức tin và phản ngôn. Mặt khác, số đệ tử của
Hòa Thượng Như Nhãn yêu cầu Ngài bỏ Ðạo Cao Ðài và đòi chùa lại. Hòa Thượng Như
Nhãn nghe theo và quyết định đòi chùa Từ Lâm, không hiến cho Ðạo Cao Ðài nữa, hẹn
trong 3 tháng Ðạo Cao Ðài phải dời.
Ngày 19-11-Bính Dần, Hòa Thượng Như Nhãn bị thiêng liêng quở phạt, đau nặng.
Ngày 01-12-Bính Dần, Ðức Chí Tôn giáng cơ quở phái Thái và Hòa Thượng Như
Nhãn, tỏ ý muốn phế bỏ phái Thái. Ðức Phổ Hiền Bồ Tát cầu xin Đức Chí Tôn tha
thứ cho phái Thái và đừng bỏ phái Thái (phái Phật).
Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ trục xuất Hòa Thượng Như Nhãn ra khỏi Ðạo Cao
Ðài.
Tháng 2 năm Ðinh Mão, Ðức Lý Giáo Tông quyết định trả chùa Từ Lâm cho Hòa
Thượng Như Nhãn và chỉ dẫn Hội Thánh tìm mua được 96 mẫu đất tại làng Long
Thành (Tây Ninh) để dời các cơ sở của Ðạo về nơi đây, lập thành Tòa Thánh Trung
ương của Ðạo Cao Ðài như ngày nay, ấy là Bạch Ngọc Kinh tại thế.
Hòa Thượng Như Nhãn qui liễu vào ngày 5-12-Mậu Dần (dl 24-1-1939) hưởng thọ
75 tuổi. Tháp của Ngài được xây ngay trước Từ Lâm Tự (nay là Thiền Lâm Tự) Gò
Kén -Tây ninh).
Lập lại lời của Đức Hộ-Pháp nói về việc mượn chùa Từ Lâm của Hoà Thượng
Giác Hải:
“Đức Chí Tôn nói “chi chi cũng tại Tòa Thánh Tây Ninh nầy mà thôi”. Ngó lại
thấy hiện tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ Lâm
Tự của nhà Thiền tức của Hòa Thượng Giác Hải làm mới nửa chừng, họ muốn cho mượn
đặng lợi dụng mình làm cho xong. Xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời
quyền Đạo xúm lại đè nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá trị, đòi chùa lại, đuổi
đi.
Thật vậy, họ đuổi đi, phải đi cấp thời, mua được đất Long Thành ngó lại
toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ. Như thế ấy mà nói chi chi cũng tại Tòa
Thánh Tây Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức tin không vững chắc còn có nước
trốn mà đi. Một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức tin một chút
nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương lai sẽ như thế nào? Nếu nên thì mình theo,
bằng không nên thì đả đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì
thương chúng sanh, kính trọng con cái Đức Chí Tôn, đem đức tin để trọn vẹn nơi
Ngài, lo lắng cho tương lai của nhơn sanh, tự hỏi: nếu lời hứa của Đức Chí Tôn
không thành tựu thì Đạo Cao Đài thành sao đặng? Vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả
nhiệt huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí Tôn, đem cả đức tin thực
hiện cho thành tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn loại mà hy sinh tạo
nghiệp. Bần Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh mạng về gởi rừng
nầy nơi nước độc bệnh chướng, nhìn lại Thánh Địa biết bao nhiêu mồ mã, biết bao
xương máu.”
(Trích từ “Chi Phái quyển I” cùng Soạn giả)
LUẬN VỀ CHỮ ĐẠO 道 (12 nét)
Phân tích chữ ĐẠO 道 (12 nét) Trên: hai nét phết,
là Âm Dương của trời đất hoá sanh, nói gần hơn là do cha mẹ phàm thể sanh ra người,
chỉ Âm Dương tương-hiệp. Nét nhứt一 đặt nằm ngang ở dưới là chỉ người đứng đầu Vạn linh, hiệp chung lại là đủ
Tam Tài: Thiên- Địa- Nhân.
Giữa là chữ Mục目 là con mắt, có 5 nét, tượng
lý Ngũ-hành thuộc Thổ, Thổ ở trung-ương, tính chất thuộc màu vàng, sắc dân là
châu Á, Việt Nam ở vào châu Á, là Thánh Địa, mà Tây Ninh là Thánh Địa của Việt
Nam.
Câu liễn thứ nhứt ở cổng Toà Thánh như vầy:
* Cao thượng Chí-Tôn Đại-Đạo
hoà-bình dân chủ MỤC.
Chữ Mục目(5 nét) thêm nét phết thành chữ Tự 自(6 nét) Tự là chính mình, do vậy mà sự tu-hành là điều tự quyết, tự chủ, tự
quyền, tự lập…để định cho phương châm hành sử của mình. Thế nên số 6 là con số
bình-hoà, hạnh-phúc. Câu liễn đối thứ nhì ở Toà-Thánh là:
* Đài tiền sùng bái Tam-Kỳ
cọng hưởng TỰ do quyền.
Cả hai bộ-phận trên dưới ráp lại thành chữ Thủ 首 (9 nét) Thủ là đầu, là khởi điểm. Khởi điểm con người là Cung Mẹ Diêu-Trì
thuộc từng thứ 9, nên khởi xuất từ đây mà khi trở về cũng là đây. Nhưng nơi đây
chưa phải là bến ước mơ cho linh-hồn khi thoát xác mà phải có đủ Tam lập nữa;
tượng bằng bộ sước 辶(3 nét) họp lại mới thành
ra chữ ĐẠO 道 (9 nét+3nét=12 nét). Số 12 là con số của Thầy, tức
nhiên người tu hành đi vào Cửu phẩm Thần Tiên mà phải hành đủ Tam lập là Lập đức,
Lập công, lập Ngôn. Chính là con đường Thiêng-liêng Hằng sống, là về bến ước mơ
của linh-hồn: Là cõi Niết Bàn đó vậy.
Chữ Mục目 phải thêm chữ Cấn 艮 nữa mới thành chữ NHÃN 眼. Tuỳ theo trình độ tu tiến
mà có được Tâm Nhãn, Thần Nhãn, Thánh Nhãn…đến Thiên Nhãn. Thờ Thiên Nhãn để
cho người Cao-Đài thấy rằng chính đây là Đạo Trời, người Việt cũng như đất Việt
được may mắn đón nhận, có trách nhiệm trong sứ mạng khai Đạo cứu Đời trong
Cơ Chuyển Thế và Cứu Thế này.
Nay, Đức Chí-Tôn mở nền ĐẠI-ĐẠO.Vậy nên biết qua chữ Đại大 để tìm hiểu giá trị và phân tích chữ ấy:
Chữ Đại 大 là lớn. Đã rằng lớn thì có chi lớn hơn nữa! Nó có thể bao quát cả Càn Khôn vũ trụ, nó cao
thượng vô hình, không chi ở ngoài nó đặng. Đã vậy nó còn có một cái nghĩa riêng
về lẽ Đạo nữa. Nghĩa riêng ấy là:
Chữ Đại là hợp bởi chữ Nhơn 人 là người và chữ Nhứt 一là một. Nhơn 人 viết hai phết là chỉ Âm dương hiệp nhứt, là phát khởi Càn Khôn hoá sanh vạn
vật. Vì nhơn là người, mà người biết tu luyện thì đoạt đặng cơ mầu nhiệm Hoá
công thì là đắc nhứt. Nhơn mà đắc nhứt nữa (chữ Nhơn thêm chữ nhứt thành chữ Đại)
thì vĩnh kiếp trường tồn, diên niên bất hoại. Đắc Nhứt là gì? – Nghĩa là đặng Một.
“Một” tức là cái pháp độc nhứt vô nhị, cái pháp kín nhiệm huyền vi của Tiên Phật,
khẩu truyền tâm thọ, để cỗi xác phi thăng, siêu phàm nhập Thánh. Có câu “Thiên
đắc Nhứt: Thanh, Địa đắc Nhứt: Ninh; Nhơn đắc Nhứt: Thành.” Có nghĩa là Trời đặng
một ấy là khinh thanh, đất đặng một ấy mà bền vững, người đặng một ấy mà trường
tồn. Thế nên chỉ có NGƯỜI tu mới đắc Đạo
mà thôi.
Thánh-Ngôn II/3 Thầy dạy về chữ ĐẠO:
Đạo là gì? Sao gọi Đạo?
“ĐẠO, tức là con đường để cho Thánh,
Tiên, Phật đoạ trần do theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm do
theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo, thì các bậc ấy đều lạc
bước mà mất hết ngôi phẩm. Đạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao
nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền-bí khác cho đích xác đặng. Đời cũng thế,
Đạo cũng thế, chẳng Đạo chẳng nên Đời. Đời Đạo chẳng trọn, lấy Đạo trau Đời, mượn
Đời giồi Đạo, Đạo nên Đời rạng, giũ áo phồn hoa, nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc,
tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn thì có chi hơn.
Vậy là mầu, vậy là trí” .
CHƯƠNG II
CÂU II: Lịch sử
ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
và Chánh- Trị của ĐẠO theo
TÂN LUẬT & PHÁP CHÁNH
TRUYỀN
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
大 道 三 期 普 度
E: The Great Way of Third Universal Salvation
F: Troisième Amnistie de Dieu en Orient.
Chương II: Câu 2: Lịch sử Đại Đạo Tam kỳ Phổ Độ và chánh Trị của Đạo theo Tân Luật và Pháp Chánh Truyền.
A - KHÁI QUÁT:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền Đạo lớn mở ra vào thời kỳ thứ ba để cứu
giúp toàn cả chúng sanh nơi cõi trần này, hầu thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi
mà trở về cõi Thiêng-Liêng Hằng Sống, chính là Niết Bàn đó vậy..
(Đại Đạo là một nền Đạo lớn, nhưng
khi nói lớn thì không còn gì lớn hơn nữa, nên nói là Đại Đạo.Tam Kỳ là thời kỳ
thứ ba. Phổ Độ là cứu giúp chúng sanh rộng khắp)
Khi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn xưng danh hiệu là:“CAO ĐÀI TIÊN
ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT” nên nền Đại-Đạo
này còn được gọi theo danh xưng của
Đấng Thượng-Đế là ĐẠO CAO ĐÀI.
Gọi là Đại Đạo bởi vì Đạo Cao Đài là một nền Đạo lớn do Đức Thượng Đế sáng
lập. Mục đích của Đại Đạo là Qui Tam giáo: Nho – Thích - Lão và hiệp nhứt Ngũ
Chi là
Nhơn đạo - Thần đạo - Thánh đạo - Tiên đạo - Phật đạo.
Gọi là Tam Kỳ Phổ Độ là vì trước đây đã có hai thời kỳ Phổ Độ:
■ Nhứt Kỳ Phổ Độ khai thời thượng cổ có các Tôn giáo:
- Phật giáo do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai mở .
- Tiên giáo do Đức Thái Thượng Đạo Tổ khai mở.
- Nho giáo do Đức Văn Tuyên Đế Quân khai mở.
Đồng thời:
- Đức Brahma-Phật mở Đạo Bà La Môn,
- Đức Moïse mở Thánh giáo ở nước Do Thái gọi là Do Thái giáo.
■ Nhị Kỳ Phổ Độ khai thời Trung cổ có các Tôn giáo:
- Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.
- Đức Lão Tử mở Tiên giáo ở Trung hoa.
- Đức Khổng Tử mở Nho giáo ở Trung hoa.
- Đức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái.
- Đức Mahomét mở Hồi giáo ở nước Á Rập,
- Đức Khương Thượng cầm Bảng Phong Thần mở ra Thần đạo Trung hoa...
■ Nay, thời Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng
nguơn Tứ Chuyển, Đức Chí Tôn đến “Qui nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” vì
ngày nay Càn khôn dĩ tận thức, năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà, nên Đức
Ngài đến mở ra một nền Đại Đạo tại nước Việt Nam, thống nhứt thành một mối, để
nhơn loại không còn bị chia rẽ nhau vì khác Tôn giáo, hầu tiến đến một THẾ GIỚI
ĐẠI-ĐỒNG.
Vì lẽ đó Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn Oai
Nghiêm thay quyền Tam giáo mới trấn phục nỗi hoàn cầu, gồm có:
- Phật Quan Âm thay quyền Phật giáo, là Nhị trấn Oai Nghiêm.
- Đức Lý Đại Tiên Thái Bạch Kim Tinh thay
quyền Tiên giáo, là Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Đức Quan Thánh Đế Quân thay quyền Thánh giáo, là Tam Trấn Oai Nghiêm, lập
Nho Tông Chuyển thế.
Đức Chí Tôn cho
biết đây là kỳ Phổ Độ chót, trước khi mở
Đại Hội Long Hoa là có cuộc Phán Xét cuối cùng, tận độ toàn cả chúng sanh, cứu giúp không để
sót một ai. Đức Chí Tôn khẳng định:
“Gặp TAM KỲ PHỔ
ĐỘ” nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi”.
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chánh thức mở ra vào ngày 15
tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 19-11-1926) và Đức Chí Tôn chọn dân tộc Việt Nam, đất
nước Việt Nam để Khai Đạo, dùng Tây Ninh làm Thánh Địa xây dựng các cơ quan
trung ương, để từ nơi đây truyền bá khắp hoàn cầu.
Thầy dạy: “Chi chi cũng tại TÂY-NINH mà thôi”.
B - SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Đức Hộ-Pháp nói:“Có nhiều người viết Đạo-sử và đã nói
cho người ngoại-quốc hiểu Đạo. Trong ấy có nhiều điều
không đúng sự thật, nhứt là trong các
bài Cơ.
Đạo ban sơ thế nào? - Nhiều người đã nói đến, đã giảng lịch-sử Đạo, nhưng
không đúng lịch-sử chút nào hết. Sự thật như thế này:
Trong năm Ất-Sửu: các Thầy, các Ông, từ hàng Thẩm-phán, Phủ, Huyện, muốn
tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo-lộn trong giới trí-thức đương thời là
“Con người có thể thông-công cùng các Đấng thiêng-liêng vô hình được” nhứt là
thuyết này đã làm cho cả Âu-Châu sôi nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn-cầu
do các Hội Thần linh-học và Thông-thiên-học đã khảo-cứu một cách rõ-rệt. “Loài
người có thể sống với cảnh thiêng-liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy”
.Cái triết-lý ấy làm cho nhiều người, nhứt là người học-thức muốn tìm-tàng thấu
đáo.
Nơi hạng học-thức ấy có một người cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng-Phẩm.
Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương-pháp bên Âu-Châu hay bên Pháp là Xây
bàn.
Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền-năng thiêng-liêng xúi
biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền-vi bí-mật thiêng-liêng của Đức
Chí Tôn đã tạo ra CànKhôn Vũ trụ. Sách vở để lại cũng nhiều, nhưng thật ra
lý-thuyết ấy làm cho chúng tôi chưa quyết định về tín-ngưỡng cách nào mà đức-tin
đã có thật vậy.
Khi Đức Chí-Tôn đến với
chúng tôi, Đức Chí Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo CAO-ĐÀI.
Tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn
bút đi các
nơi thâu Môn-Đệ. Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng
trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này làm môi-giới độ ĐẠO sau này.
Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò-loan đặng Ngài dùng quyền-năng Thiêng-liêng
kêu gọi mấy vị Tông-đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển
hiện ra, trong số các vị Thời-quân ấy có Cao Tiếp Đạo ở tại Kim-Biên chớ không
phải ở Sài-Gòn.
Đi thâu Thập-Nhị Thời-quân rồi, Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới
chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức
nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng
suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu
may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm
Giáo Tông.
Trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi ! Chúng tôi không hiểu
nguyên-cớ nào Ông Ngô-văn Chiêu không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô-văn-Chiêu
là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ, ở tại Hà-Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí-Tôn đến
với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng
là “CAO ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.”
Trong khi đó Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Đức
Chí-Tôn chỉ nhà của Ông Ngô-văn-Chiêu cho chúng tôi và nói:
- Ngô-văn-Chiêu thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết Bạn cùng nó, vì cớ cho nên
chúng tôi mới đến
Ông Ngô-văn-Chiêu.
Một buổi nọ chúng tôi phò-loan học hỏi như thường ngày. Đức
Chí-Tôn kêu chúng tôi và Đức
Cao Thượng Phẩm phải đi vô trong
Chợ Lớn, đến tại nhà của Đức Quyền Giáo-Tông của chúng ta bây giờ là Ông Lê-Văn Trung. Buổi nọ Ông
Lê-Văn-Trung đang làm Thượng nghị-Viện. Hội-đồng Thượng-Nghị-Viện chẳng khác
bây giờ là một vị Tổng-Thống đời Pháp-thuộc. Chức Nghị Viện lớn lắm! Ông là người
Nam làm đến bực đó thôi; mà nghe ra Ông là người quá sức đời, Tôi với Đức Cao
Thượng-Phẩm không hạp chút nào! Nhứt định không làm điều đó được, nghe danh quá
đời, chơi bời phóng túng không thể tả hết; buổi chúng tôi ôm Cơ đến nhà Ngài đặng
Đức Chí-Tôn độ Ngài. Khi vô tới nhà, thú thật với Ngài rằng:
- “Chúng tôi được lịnh của Đức Chí-Tôn dạy Đạo, Anh tính sao Anh tính !”
Ngộ quá chừng quá đỗi. Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi biết: lo sắp đặt bàn
ghế, sửa-soạn buổi phò loan; rồi thì chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông
Nhập-môn đủ hết; chúng tôi không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí-Tôn hay không?
Có khi tưởng Ông không tin nơi Đức Chí Tôn nữa chớ! Trong nhà Ông có nuôi một
người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12, 13 tuổi gì đó. Hai Cha con kiếm đâu
ra được một cây Cơ không biết. Vái Đức Chí-Tôn rồi cầu Cơ. Khi phò-loan, thằng
nhỏ kia cầm đến cây Cơ thì ngủ, ông thì thức, Cơ thì chạy hoài. Đức Chí-Tôn dạy
Ông nhiều lắm, không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có
hai người biết với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin nơi Đức Chí Tôn.
Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền
Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra Hội-Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng thì chúng tôi có thể nói rằng: Do
nơi Đức Quyền Giáo Tông mới xuất hiện ra Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
đó vậy.
Ngôi vị của Ông Saint-Pière, Giáo-Hoàng của Thiên Chúa-Giáo ở La-Mã như thế
nào thì ngôi vị của Đức Quyền Giáo-Tông ngày nay cũng thế. Bởi vì chính mình Đức
Chí-Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội Thánh. Ngài đi đến đâu, Tôi và Đức
Cao Thượng Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-Đệ, thâu được bao nhiêu
thì giao cho Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung-Nhựt giáo-hóa, chính do nơi Ngài
cầu khẩn Đức Chí-Tôn thâu Môn-Đệ. Ngài
luôn luôn đi các nơi để Phổ độ chúng sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo. Đức
Chí-Tôn sai hết chúng tôi, tức Thập-Nhị Thời-Quân đi phò-loan cùng hết, không
chỗ nào không có Cơ Bút:
Người thì xuống miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn đệ
xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng, không có một
miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo?
Khi đó Đức Chí-Tôn thâu Ông Nguyễn-Ngọc Thơ tức là Phối-Sư Thái-Thơ Thanh
làm Môn-Đệ, Thái Thơ Thanh tức là bạn chí-thân, tức là chồng của Bà Nữ Đầu Sư
Lâm Hương Thanh. Thành thử mỗi người đều có Thiên mạng nơi mình mà không ai biết,
chính Bà là người cầm đầu Nữ-phái đó vậy. Đức Chí Tôn thâu rồi mới biểu hai vợ
chồng Ông Thái-Thơ Thanh vào mượn Từ Lâm Tự ở Gò kén đặng mở Đạo; Chùa Từ-Lâm
chưa xong gì hết, có Chánh điện, còn Đông-lang, Tây-lang thì chưa có, đằng này
mấy Anh lớn họp nhau xuất tiền ra làm cho xong.
Đến ngày rằm tháng mười năm Bính-Dần thì mở Đạo, chúng tôi gởi Đơn lên
Chánh-phủ Pháp xin mở Đạo công-khai, trong đơn có kể tên những người Môn-Đệ đầu
tiên. Sau khi mở Đạo nơi Chùa
Gò-kén, tức là
Chùa Từ Lâm-Tự. Người cầu Đạo càng ngày càng đông. Người Pháp buổi nọ sợ
chúng tôi làm loạn, nên xúi-giục Hoà Thượng Giác-Hải đòi chùa ấy lại, đuổi
chúng tôi đi cho hết mở Đạo; đồng thời người Pháp bắt đầu làm khó Đạo, hăm he
các Chức-sắc, họ lập hồ-sơ đen để trừng-trị những người theo Đạo.
Riêng phần Bần-Đạo là Công-chức, khi
vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến Chùa Gò-kén mở Đạo, Bần-Đạo có xin phép nghỉ sáu
tháng, đến chừng trở lại làm việc người ta không cho Bần đạo ở Nam-Việt nữa, đổi
Bần-Đạo lên Kim Biên, tức Nam-Vang ( xứ Cam-Bốt bây giờ ).
Nơi đó Bần-Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo, mục đích là làm thế nào cho Đạo
chóng thành-tựu. Riêng phần mấy Anh lớn trong hàng phủ, huyện, đã có chức phận
làm quan triều Pháp bị người doạ nạt đủ điều. Nếu theo Đạo Cao-Đài người ta sẽ
bắt bỏ tù, người ta còn hăm-he con cái Đức Chí-Tôn sẽ bị Chánh-quyền Pháp triệt-để
bắt bớ nữa, vì cớ cho nên mấy Anh phải sợ, một cái sợ rất nên phi-lý. Nhưng người
Pháp buổi nọ cầm quyền sanh-sát trong tay, hễ thuận thì còn, nghịch thì chết,
không còn ai lạ gì việc đó nữa. Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ chỉ còn lại
có ba người. Ba người ấy thiên-hạ gọi là ba người lỳ. Ba người ấy là:
- Đức Quyền Giáo-Tông,
- Đức Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo đây.
Chúng tôi nhứt trí quyết làm cho thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí-Tôn, bởi
vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức
Chí Tôn và tự-nhiên quyền-năng Thiêng-liêng giúp chúng tôi biết Đạo Cao-Đài này
tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng tộc và giống-nòi, chúng tôi hiểu rõ-rệt như thế,
nên ba Anh em chúng tôi nhứt định hy-sinh kiếp sống mình, hy sinh cả hạnh-phúc
để tạo cho nên tướng, nhứt quyết như thế nào, bất kể sống chết. Cả ba chúng
tôi, nhứt định phải làm cho Đạo Cao-Đài thành, thành đặng cứu khổ, cứu chủng tộc
chúng tôi. Sự quyết chí về tương-lai như thế, nên phải bỏ Chùa Gò-kén, tức là Từ-Lâm
Tự, để về đây, về làng Long-Thành Tây-Ninh để lập nên Toà-Thánh bây giờ.
Trong lúc chinh-nghiêng như vậy, tiếc thay Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Cao
Thượng Phẩm phải về cảnh Thiêng-liêng trước, còn lại có một mình Bần-Đạo, Bần Đạo
thấy rằng nạn nước nguy-vong, thân nô-lệ ra với hai bàn tay trắng, bắt gió nắn
hình, muôn điều khổ-não, lập nghiệp Đạo cho thành, cho con cái Đức Chí-Tôn. Hôm
nay Đạo là máu, là xương của con cái Chí-hiếu của Ngài dựng thành đó vậy.
Ba mươi năm khổ não, toàn con cái Đức Chí-Tôn lập nghiệp cho Đạo hôm nay đặng
thành tựu. Ngó dĩ-vãng, ngó đương nhiên bây giờ xa cách như Trời với vực. Yếu
buổi nọ, so-sánh mạnh hôm nay. Nhục buổi nọ so-sánh vinh-hiển hôm nay, giá-trị
xa nhau thiên-lý.
Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn từ khi lập Đạo chịu khổ-hạnh truân-chuyên, chịu
nhục-nhã, chịu mọi điều thống-khổ, thì hôm nay được vinh hiển như thế. Bây giờ
Đạo nên hình là cả một khối tâm-đức vô biên của con cái Đức Chí-Tôn tạo nên tướng”
(ĐHP:13-10-Giáp-Ngọ 1.954).
1 - Tìm hiểu Cao-Đài là gì? Lý do nào khai Đạo?
Đức Hộ-Pháp nói về Tân giáo Cao-Đài:
“Đạo Cao-Đài tức
là ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ khai sáng vào thời-kỳ này là do Thiên cơ tiền định và cũng hợp với lời
tiên-tri của các Đấng Giáo Chủ đã khai mở các Đạo-giáo trên thế-giới.
“Theo Phật-giáo,
Lão-giáo và Khổng-giáo thì đều dạy rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ Hạ nguơn khiến đời tận diệt để chuyển xây trở lại Thượng nguơn Thánh-đức với một
kỷ-nguyên mới. Đặc biệt Đức Thích-Ca Mâu-Ni khi lập giáo có cho biết đến năm
2.500 kỷ-nguyên Phật giáo, là thời-kỳ để cho Đức Di-Lạc ra đời mở Hội-Long Hoa
lập một kỷ nguyên mới đó vậy”.
Cao-Đài là gì?
Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là Cao thì không
còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối đại. Ngày
nay chính Đấng Thượng-Đế mở Đại-ĐạoTam-Kỳ Phổ-Độ xưng danh là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế
viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương.
CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng
tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với
nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt-Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ
dẫn 92 ức nguyên-nhân còn mê đắm hồng-trần.Danh xưng “Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ
Tát Ma Ha Tát” là gồm cả Tam-giáo, gọi là Tam Giáo Qui Nguyên:
- Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.
- Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật
Giáo.
Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản
Càn Khôn vũ trụ là một mà ba,mà ba cũng như một đầy đủ đức tính khiêm nhường
Thầy dạy:
“Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà
hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát
là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao
tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho
Thầy là nhỏ. Cười..!.
“Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa
con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải
khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói
buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi,
đâu đến nhọc công Thầy.
“Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi
là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.
2 - Tại sao gọi là CAO-ĐÀI ?
Có nhiều Hội-giáo đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo đặng dạy lần
cho Vạn-quốc rõ thấu chánh-truyền.
"Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO-ĐÀI 高臺 nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại thế này (La haute Église
ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít
của hướng Á-Đông là An-Nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri “Đạo xuất ư Đông” 道出於東 và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy lập thành Hội-Thánh, làm
hình thể Thiêng-liêng của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng
truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định-tánh làm cho cả
con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ” (PCT)
3 - Hiện-tượng Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài Chí-Tôn lập Cao Đài để làm Tòa ngự
của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến hồng-trần này làm BẠN cùng người, hiệp cả
loài người làm một.
Đức Hộ-Pháp cũng xác nhận rằng:
Nếu giờ phút này thiên-hạ đừng cho ta dị-đoan, chúng ta có thể nói Đức Chí-Tôn
biết tình trạng nhơn-loại đã đến mức tự diệt nhau nên Ngài đến tạo nền
Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI, cho nhơn-loại gìn giữ phần hồn đặng
định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho nó đến cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh
điên tức đến cảnh tự diệt. Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục sinh đặng
cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh thần của Đức Chí-Tôn tạo cho họ, ĐẠO
CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên
Chơn-thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt.
Lời tiên-tri trong sách “Ấu-học Tầm
nguyên” về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài: trong quyển “Giác mê ca” mà tác-giả là
một Đạo-gia có ghi lại đoạn văn sau:
Hữu duyên mới gặp Tam-kỳ Phổ-độ
Muôn đời còn tử-phủ nêu
danh,
Ba ngàn công-quả đặng viên
thành,
Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu.
Đây có mục-đích báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người hữu-duyên mới
gặp được Tam Kỳ Phổ Độ, hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà làm phương thoát
tục mới mong trở về ngôi xưa vị cũ. Bởi Đạo Cao Đài là Tu nhập thế nên phải lập
công bằng cách Phụng sự Vạn linh, mà phụng sự Vạn linh tức nhiên phụng sự Trời. Điểm tới đích là Niết-bàn.Đạo Cao-Đài nói là
cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Niềm tin hứa-hẹn của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đến, đã ứng
hiệp,nhất định không có gạt gẫm, nguỵ tạo.
Phải lập cho được Ba ngàn công quả chính là phải tu chơn thực theo phương
thức sau, mà sách Trang Tử nói:
Chí nhân vô kỷ.Thần nhân vô công.Thánh nhân vô danh.
- Quên mình làm nên cho người, đạt (một số 0)
- Làm mà không tính công đạt (hai số 0)
Đây là nói lý: phải hiểu rằng: Đặt số 3 trước ba số (000) thành 3.000 công
quả.
4 - Đạo Cao-Đài dạy phải lập cho được 3.000 công quả nghĩa là gì ?
Đúng như lời tiên-tri. Nay người tu theo Cao-Đài phải lập
cho được “Ba ngàn công-quả” ấy là cơ đắc Đạo tại thế đó vậy. Bởi:
* Chí-nhân vô kỷ: người có lòng nhân thì quên mình mà lo cho người. Không
nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ đến người,đến chúng-sanh, đến mối Đạo phải được sớm
hoằng khai, sớm được Phổ-độ. Hằng ngày ta cầu nguyện gì ?
"Nam mô nhứt nguyện Đại-đạo
hoằng khai,
"Nhì nguyện Phổ độ
chúng sanh"...
* Thần-nhân vô công: đứng bậc Thần, làm mà không tính công. Người làm Đạo
phải hết mình lo cho lý tưởng Đạo-pháp, làm cho hết việc chớ chẳng phải đợi hết
giờ.
* Thánh-nhân vô danh: vào bậc Thánh thì làm mà không kể đến danh. Không
tham công, chẳng mến danh mới đạt được
cái chơn lý phụng sự. Một người tu hành thật sự là phải thể-hiện cho được các yếu
lý ấy, mà cũng là lúc được Đức Phật-Mẫu ban cho Quả Đào Tiên. Chính là người TU
phải nắm vững đầu mối hai quẻ Càn Khôn, là am tường về Bát Quái. Nếu nói như vậy
thì tại sao các Chức-sắc ngày hôm nay
theo luật công-cử phải có đủ thời-gian công-quả ?
- Đó chỉ là cái lằn mức để được thăng phẩm-vị hầu tiếp-tục con đường Phụng
sự, còn đã là công-quả thật sự thì phải đo bằng “cây thước lương-tâm”chứ không
phải là cây thước thời gian. Dù cho nói rằng năm năm, ba năm, nhưng chính thực
mỗi người phải “tự biết xét mình” là điều trọng-hệ nhứt.
Đạo là lý, muốn cho thấu-lý Đạo phải luận, từ đó mới có lý-luận, thuyết-luận,
giảng-luận, luận đạo.
Lẽ ra phải nói là “Tam vô” nhưng từ này, nó sẽ trùng hợp với những gì đã có
trong cơ hữu hình rồi.
Truyền thuyết cho rằng vườn Đào của Đức Phật Mẫu
Phải 3.000 năm đào mới trổ bông, 3.000 năm đào mới sanh trái, 3.000 năm đào
mới chín. Như vậy muốn ăn một trái đào chín như vậy phải qua 9.000 năm. Nếu thật
như thế thì chắc không một ai hưởng được.
Nhưng người Đạo Cao-Đài vẫn được “ăn Đào” mỗi năm. Vì sao ? Đây là lý Đạo
nhiệm mầu để tượng trưng: Nếu lấy Cửu Trùng Đài làm chuẩn, cùng các đối phẩm,
thì Cửu Trùng Đài có 3 cấp, mỗi cấp có 3 phẩm. Mỗi phẩm như vậy là phải đạt cho
được 3.000 công quả như nói trên (vô kỷ, vô công, vô danh). Khi đạt đến bực
Thiên Tiên tức nhiên hoàn thành con số 9 (Ấy là lúc Đào Chín: "Tây Vương Mẫu
vườn đào ướm chín" (Cửu II) để thưởng công cho người đắc Đạo.
“Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật
Thiên đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước
lên con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn
dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực
nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn này”.
5 - Triết-lý của Đạo-Giáo
Đức Hộ-Pháp nói:
“Các vị Giáo-Chủ, lập giáo đều nương nơi một tinh thần của họ, tinh-thần hữu-định
ấy có căn-nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại. Họ chỉ lấy một thuyết trọng
yếu đặng làm triết-lý Đạo-Giáo của họ, tỷ như:
- Thánh-Giáo Gia-Tô lấy TÂM làm căn
bản,
- Lão-Giáo lấy THÂN làm căn bản,
- Hồi-Giáo lấy TÍN-NGƯỠNG làm căn bản.
Mỗi Giáo-lý đều có sở-năng làm trung-tâm-điểm đặng vi-chủ tinh-thần của con
người trong chỗ khuyết điểm của họ”.
“Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy
làm sợ sệt hơn hết là nền Tôn-Giáo của Đức Chí-Tôn lấy Tinh Thần làm căn-bản. Hỏi
vậy, tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn-minh vật-chất,
tinh-thần ấy có đủ quyền-năng tự-vệ lấy họ chăng?
Tinh-thần họ có đủ lực-lượng chiến thắng chăng? Nếu thoảng tinh-thần của
nhơn-loại không quật khởi lên, tự-quyết, tự-chủ, tự định-phận đặng mà phải chịu
làm nô lệ cho văn-minh vật-chất, thì tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ ra sao? Mà chẳng
những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, mà còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo
đức tinh thần của loài người trở mặt ra đối với tinh-thần cường liệt của
Chí-Tôn, thì tương-lai nơi mặt thế này sẽ như thế nào? Chúng ta cũng nên để có
một câu hỏi. Có một điều ta nên để mắt nhìn coi Chí-Tôn tạo hình thể nào đặng bảo
trọng tinh-thần đạo-đức ấy. Ấy là một phương pháp ta nương theo đó đặng tạo dựng
khối đức tin vững chắc bền-bĩ vậy.”
Qua hình vẽ tượng trưng dưới đây thì Lão giáo do Đức Lão Tử làm Chưởng
Giáo, chủ trương rằng chính con người khổ đây là vì có THÂN này, nếu không có
thân thì đâu có khổ.“Hữu THÂN hữu khổ”.Thế nên Lão Giáo老 教 thì cho vạn vật đều gốc ở Đạo, Đời là một cuộc phù
vân, hơi đâu mà để trí lo-nghĩ, người ta chỉ nên cùng với Đạo mà vui chơi cùng
Tạo hóa, không cần chi đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí; không thiết gì đến pháp luật,
chế độ, miễn là được thảnh thơi vô-vi thì thôi. Vì THâN đây chính là cái gốc
làm ra Tứ khổ của con người, là lý do đó.
Thánh Giáo Gia Tô, Đức Chúa đã chịu chết trên cây Thánh giá để chịu tội cho
nhân loại, phải chịu một mũi kiếm đâm vào trái tim Ngài, là tinh thần phụng sự
cao độ.
Hồi-Giáo thì lấy Tín ngưỡng làm căn bản: Tín ngưỡng cũng có hai: Chánh tín
và Mê tín. Nếu là chánh tín thì Tôn giáo ấy bền bĩ, lâu dài với thời gian..
Ngày nay ĐẠO CAO ĐÀI chủ trương tu nhập thế là phải Tu thân, Tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Tập sửa tánh thành cho ngoài trong trọn vẹn, lập ba ngàn công quả
như đã nói trên, theo phương Luyện kỷ của Đức Hộ-Pháp đặng vào Con đường thứ ba
Đại-Đạo. Hay nói khác đi là TÁNH MẠNG SONG TU: tức là phải tu cả Tâm và Thân.
Ấy là lấy cả TINH THẦN triết lý của các Tôn giáo trên Thế giới từ xưa đến
giờ đó vậy.
6 - Tôn chỉ cao thượng của Đạo Cao-Đài là gì?
Đức Hộ-Pháp nói: “Cái Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo
Chánh là Nho – Thích - Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm một, nên chi
chúng ta tu Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam Giáo mà tập rèn tâm tánh.
Nghĩa là phải nắm trọn:
- Tam cang Ngũ Thường (Nho-giáo)
- Vẹn giữ Tam qui Ngũ giới (Phật-giáo)
- Luyện Tam bửu Ngũ hành (Tiên-giáo)
Người mà gồm được cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy”.
Đạo Cao-Đài là “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” cho nên có Tôn chỉ
rõ rệt:
- Tín-ngưỡng thì thờ Trời và thờ Người.
- Về Luật-pháp thì Bác-ái và Công-Bình.
- Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường Chân- Thiện- Mỹ. Chung
qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng lấy TÂM
làm gốc:
Tìm hiểu các nhà Tôn-giáo đã dạy đời những gì, đó chính là Tôn-chỉ của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay.
- Thích-giáo Phật Thích-Ca làm Chưởng-giáo,
dạy:
. Tam qui Ngũ giới
. Minh tâm kiến tánh.
. Thật hành Bác-ái, Từ bi
- Tiên-giáo Đức Thái Thượng làm Chưởng-giáo, dạy
. Tam bửu Ngũ hành.
. Tu tâm luyện tánh.
. Thủ cảm ứng chứng minh.
- Thánh-giáo Khổng-Tử làm Chưởng-giáo,
dạy:
. Tam cang Ngũ thường.
. Tồn tâm dưỡng tánh.
. Lấy Nhân-Nghĩa làm hành tàng.
TÓM LẠI: Nho nói: Tồn tâm dưỡng tánh.
Tiên nói: Tu Tâm luyện tánh.
Thích nói: Minh tâm kiến tánh.
Thích nói: TỪ BI,
Nho nói: TRUNG THỨ
Tiên nói: CẢM ỨNG
Tiên nói: Bảo nguơn thủ nhất.
Thích nói: Vạn pháp qui nhứt.
Nho nói: Chấp trung quán nhứt
Cứ đôi câu đại khái đó thì hiểu biết nghĩa lý nào có khác chi? Nên Đức Thể
Hà Tiên có bài thi rằng:
Tam giáo nguyên lai nhứt
lý đồng,
Hà tu phân biệt các Tây Đông?
Tam hoa, Tam bửu, Tam
tài lý.
Ngũ đức, Ngũ hành, Ngũ
giới trung.
Nghĩa là: Tam giáo nguyên lai đồng một lẽ, không tất
phân biệt khác nhau làm chi, xem như lời: Tam hoa, tam bửu,
tam tài; Ngũ đức, ngũ hành, ngũ giới đều dùng chữ TAM, chữ NGŨ mà dạy đời. Vậy
thì từ thuở xưa các Đấng Giáo chủ của Tam giáo đã công nhận Tam giáo y nhau như
một mới có thuyết Tam Giáo đồng nguyên..
Bài Khai Kinh (Trong Kinh Tứ thời nhựt tụng) nầy do Đức Lữ Tổ (Đại Tiên Lữ-Đồng-Tân)
giáng cơ ban cho Minh Lý Đạo (Tam Tông Miếu). Đây chỉ là bài diễn nôm của bài
Khai Kinh Kệ Hán-văn trong Kinh Huyền Môn Nhựt Tụng, từ bên Tàu truyền sang nước
Ta.
Hội Thánh vâng lịnh Đức Chí Tôn đến Minh Lý Đạo thỉnh bài Khai Kinh nầy về
làm Kinh Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ. Nguyên
văn bài Khai Kinh bằng Hán văn:
Trần hải man man thủy nhựt
Đông,
Vãn hồi toàn trượng Chủ
Nhân Công.
Yếu tri Tam giáo TÂM
nguyên hiệp,
Trung Thứ, Từ Bi, Cảm Ứng,
đồng.
塵 海 茫 茫 水 日 東
挽 回 全 仗 主 人 公
要 知 三 教 心 源 合
忠 恕 慈 悲 感 應 同
Giải câu 1: Biển trần bát ngát mênh mông nước, mặt Trời mọc ở phương Đông. Đạo cũng
phát khởi từ phương Đông.
Câu 2: Đạo được trải qua nhiều thời kỳ, cũng nhờ vào Đức Phật Tổ (Tổ Sư), Đức
Thái Thượng Lão Quân, Đức Khổng Thánh, Giáo Chủ của Tam Giáo duy trì đến nay.
Câu 3: Tôn giáo quan trọng nhất là Tâm.
Chính cái Tâm này mà Tam giáo làm gốc cho sự qui hợp.
Câu 4: Nho dạy Trung thứ, Phật dạy Từ bi, Lão dạy Cảm ứng (Kinh Cảm Ứng), tất cả đều có bộ TÂM 心.
Bài Khai Kinh được dịch ra như sau:
“Biển trần khổ vơi vơi Trời nước,
Ánh Thái Dương giọi trước
phương Đông..
Tổ Sư, Thái Thượng, Đức
Ông,
Ra tay dẫn độ, dày công
giúp Đời.
Trong Tam giáo có lời
khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải
làm lành,
Trung Dung Khổng Thánh
chỉ rành,
TỪ BI Phật dặn: Lòng thành, lòng nhơn.
Phép Tiên Đạo: Tu chơn dưỡng
tánh,
Một cội sanh ba nhánh in
nhau,
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu
Thánh Kinh”.
câu Hán văn trên được Đức Lữ Tổ giáng cơ diễn nôm thành bài Khai Kinh mà
chúng ta thường tụng: Đặc biệt là câu cuối dùng cách chơi chữ rất tuyệt; tức
nhiên mỗi chữ trong các từ này đều có bộ TÂM đặt ở dưới Trung thứ 忠 恕 hết lòng thật của mình là Trung, đem lòng mình nghĩ đến người là Thứ.
Trung thứ chính là đạo Nhân Nghĩa của Đức Khổng Tử.
Từ bi 慈悲 là lòng thương người mến vật, thương khắp chúng
sanh và muốn giúp chúng sanh thoát khổ. Từ bi là hạnh đặc trưng của Phật.
Cảm ứng 感應 lấy tinh thần mà cảm với Thần linh: Cảm là nhân, ứng
là quả; cảm là nguyên động lực, ứng là bị động lực; tỷ như thiện cảm thì phước
báo ứng, ác cảm thì họa báo ứng.
Ngày nay, Đạo Cao-Đài Qui Tam Hiệp Ngũ, bởi vì:
“Tam giáo là ba nền Đạo Chánh thuở
nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hóa ra phàm
giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa đoạ tội lỗi, mạt
kiếp chốn A-tỳ, nên nhứt định chuyển "Tam-giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt",
chấn hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn đèn thiêng-liêng lên để
dìu dắt bước đường cho kẻ có công TU- HÀNH mà khỏi xảy chân, lạc lối.
Ấy vậy, tất cả các yếu chỉ này làm tiêu-chuẩn cho mọi hành-vi. Cả Luật-Pháp
khuôn viên điều-mục của ba nền Tôn-giáo ấy từ buổi sơ khai có đủ phương diện,
quyền năng dìu đời thống khổ. Nhơn sanh trong thời kỳ Thượng cổ còn tính đức,
biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà: Thích- Đạo- Nho tức là Phật,
Tiên, Thánh; nghĩa là phải làm lành lánh
dữ, dưỡng tánh tu tâm, mới chung hưởng thái-bình, hạnh-phúc.”
7 - CAO-ĐÀI là Phật Giáo
chấn hưng:
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I trang 14, chúng ta nhận thấy Đức Phật
Thích Ca giáng cơ dạy về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần đầu tiên vào ngày 26-2-Bính
Dần (dl: 8-4-1926) tại đàn Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc). Bài Thánh ngôn do Đức
Thích Ca Mâu Ni giáng
THÍCH CA MÂU NI PHẬT:
Chuyển Phật Đạo,
Chuyển Phật Pháp,
Chuyển Phật Tăng,
Qui nguyên Đại Đạo.
Tri hồ chư chúng sanh?
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ.
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đại hỷ phát đại tiếu.
Ngã vô lự tam đồ chi khổ.
Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Thích nghĩa: Qui nguyên Đại Đạo: Trở
về nguồn gốc là nền Đại Đạo. Tri hồ chư chúng sanh? Chư chúng sanh có biết
chăng? Khánh hỷ: Vui mừng. Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ: Hợp được vào Tam Kỳ Phổ Độ. Đại
hỷ phát đại tiếu: Mừng lớn, phát cười lớn tiếng. Ngã vô lự tam đồ chi khổ: Ta
không lo cái khổ của ba đường luân hồi đày đọa. Khả tùng giáo Ngọc Đế: Khá nghe
theo lời dạy của Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế.)
Cũng trong đàn cơ nầy, khi tái cầu, Đức Chí Tôn giáng dạy như sau đây:
CAO ĐÀI
Lịch! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
- Tam Kỳ Phổ Độ là gì? - Là Phổ Độ lần thứ ba.
Sao gọi là Phổ độ?
Phổ độ nghĩa là gì?
- Phổ là bày ra.
Độ là gì? - Là cứu Chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ
Phổ Độ phải làm thế nào? Chúng sanh là gì?
- Chúng sanh là
toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn
một phần người, như ý phàm các con tính rối. Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm thế nào? Thầy
hỏi? - Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa.”
8 - Đạo Cao-Đài
là Tôn giáo toàn cầu
Đức Hộ-Pháp nói:
Tôn giáo, Ngài
vi chủ năm châu hiệp Tín ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi. Nắm cả Tín-ngưỡng của loài người lại, chính CHÍ TÔN là CHÚA TỂ Càn Khôn Thế Giái, làm
CHÚA nền chính trị tại nước NAM, vi chủ tinh thần loài người tức đủ quyền năng
lập QUỐC ĐẠO.
Kỳ khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ tạo một linh-đài qui Tín ngưỡng của toàn nhơn-loại,
đủ quyền năng tiêu-diệt Tà pháp đặng đem nhơn-loại đến ĐẠI-ĐỒNG.
Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo lời Sấm truyền của
các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.
Chỉ có hai phương diện:
1 - Là do TAM GIÁO thất kỳ
truyền,
2 - Là chính mình ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ lập ĐẠO đặng Qui Nguyên Phục Nhứt, gọi là chấn hưng
TAM GIÁO lại cho hoàn toàn, lập Luật Pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí
buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả TINH THẦN của các dân tộc biết
nhìn nhau một CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền THƯƠNG-YÊU,
chung thờ một Tôn-giáo ĐẠI ĐỒNG thì nhơn loại mới gội nhuần ân huệ và đời tranh
đấu tự diệt sẽ trở nên đời MỸ TỤC THUẦN PHONG thì vạn loại mới chung hưởng cơ
HÒA-BÌNH, phục hồi THƯỢNG CỔ là do THIÊN THƠ tiền định buổi Hạ nguơn chuyển thế
hoán cựu duy tân.
Tóm lại: ĐỨC CHÍ TÔN khai ĐẠO kỳ thứ ba này là thuận theo “Lẽ tuần-hoàn châu nhi phục thủy”.
“ĐẠO CAO ĐÀI là nền CHÁNH GIÁO tức
là nền ĐẠO CAO ĐÀI này để thay thế tất cả Tôn Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các
Tôn Giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương tri, lương năng
của loài người nữa. Hay nói một cách
khác là các nền Tôn Giáo ấy ngày nay đã bị BẾ.
“Những điều bí yếu bí trọng trong nền
ĐẠO CAO ĐÀI, những triết lý cao siêu mà chỉ ĐẠO CAO ĐÀI mới có, tuy nhiên âu
cũng là một đặc ân của ĐỨC CHÍ TÔN dành cho ĐẠO CAO ĐÀI là HỘ PHÁP thay lời ĐỨC
CHÍ TÔN nói ĐẠO cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng là chỗ đó” (ĐHP).
9 - Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà:
Đức Chí-Tôn đã xác nhận qua bài thơ:
Từ thử nước Nam chẳng Đạo
Nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nã
?
Rằng trẻ noi sau biến hoá
già !
Đức Quyền Gíáo-Tông cũng nói rõ lý-do là Việt Nam từ trước đến giờ không có
Đạo nhà:
“Quả thật vậy !
“Người nước Nam từ cổ chí kim thật
không có ĐẠO trong nưóc nhà, mà người Nam ta có tâm đạo, người Nam trổi danh khắp
địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo PHẬT, đạo TIÊN, đạo NHO tuy khai bên ẤN-ĐỘ và
TRUNG HOA, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái. Đạo GIA-TÔ của mấy vị
Linh-mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng.
Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu, đi nhà thờ cầu-khẩn, vọng
tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ trời Phật. Người không đi chùa, đi miễu, không đi nhà
thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo NHO.
Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ-ràng người Nam-Việt tin-tưởng Trời, Phật,
Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt,
chớ linh hồn bất tiêu bất-diệt. Vì Đạo-Tâm ấy mà trong thời-kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG
CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
(Ân-xá lần thứ ba).
10 - Đức Chí-Tôn đến chuyển Quốc-Đạo:
(Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 14-10-Quí-Tỵ)
“Thật ra, nếu không phải cái huyền
linh vô đối của Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn
ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng và qúi hóa như thế này.!
ĐẠO CAO-ĐÀI tức Đạo Tổ-Phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi; nếu
chúng ta kể từ ngày Chuyển thế của nó. Nhưng Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn thể
con cái Nam Nữ của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ Phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải
nhớ điều đó.
Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó.
Để nói rõ Thánh ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì ? Giờ phút
này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc. Vì vậy: Nội tình của Đạo gặp
nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó khăn về mọi
phương diện.
Nhưng đối với Bần-Đạo, Bần-Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó
khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-Đạo lại vui mừng mới chướng cho chớ ! Bởi
mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa
vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo
để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không?
Cái khó đảm-đương đương-nhiên bây giờ là không làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo
là sửa soạn tô điểm đặng một Đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới
đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn có Đức-tin thì hiểu rõ điều ấy.”
C - Nghiên cứu về Chánh-Trị
của ĐẠO
theo TÂN LUẬT & PHÁP CHÁNH TRUYỀN
Theo lời Đức Hộ-Pháp giảng giải trên cho biết là:
- Đạo Cao Đài thành hình là do HUYỀN DIỆU CƠ BÚT.
- Đức Thượng Phẩm là chi Đạo, tức mở đường xuất Thánh
- Danh “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ” ra đời.
- Thập nhị Thời Quân xuất hiện tức Thập Nhị Thời Thần.
- Trước đó đã có ông Ngô văn Chiêu biết Đạo Thầy.
- Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra
Hội-Thánh Cửu Trùng Đài..
Xem thế thì Đức Chí-Tôn đã “Khai Đạo muôn năm trước định giờ” nhưng khi mở
Đạo tại thế gian này thì mở Thể pháp trước.Việt Nam hân hạnh đón nhận nền Đạo mới
1 - Dùng huyền diệu Cơ Bút Chí-Tôn dụng tánh đức lương sanh lập Hội-Thánh “Buổi
Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ độ là thời kỳ Ân xá tội tình cho toàn cả chúng sanh; lại
nhơn buổi văn minh, nhơn loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức, cho nên Đức
Chí-Tôn dùng Huyền diệu Cơ bút giáng Cơ khai Đại Đạo, chủ nghĩa là độ tận 92 ức
nguyên nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đoạ cõi hồng trần nên gọi là cơ quan cứu
thế.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét