Cuộc chiến tranh khủng bố này phải chăng là một cuộc
chiến tranh chống Đạo Hồi ? Mặc dầu trong các lời tuyên bố chính thức, cả hai
bên đều bác bỏ cách giải thích này nhưng người ta vẫn tìm thấy ở đây ít nhiều đặc điểm của một cuộc “Thánh chiến”.Về phía Mỹ,
Tổng Thống George W. Bush đã vô tình hay cố ý tuyên bố đây là một cuộc “Thập tự
chinh”
làm người ta liên tưởng ngay đến các hiệp sĩ thời Trung cổ mang gươm sang vùng Trung Đông đánh chiếm lại những vùng đất Thánh như Palestine, Jérusalem đã bị các giáo chủ Hồi giáo đưa quân xâm lấn. Tổng Thống Mỹ còn nhiều lần lên án những khủng bố cố ý nhắm vào dân lành theo các đạo Cơ-Đốc và Do-Thái trên Thế giới. Hàng triệu người Hồi giáo, từ Trung Cận Đông sang Đông Nam-Á, từ vùng Balkan đến các nước Phi châu đều cho rằng đây là một cuộc Thánh chiến mới của họ. Từ Di-hát (Jihâd, Thánh chiến) được thốt lên trên cửa miệng của hàng vạn thanh niên sẵn sàng cầm vũ khí đi bảo vệ Tôn giáo của mình. Nhiều nhà phân tích chánh trị trên thế giới cũng cho đây là giai đoạn mở đầu của một cuộc “đụng đầu giữa các nền văn minh” mà Giáo sư Samuel Huntington đã tiên đoán trong một bài báo nổi tiếng đăng trên Tạp chí ngoại giao (Foreign Affair)của Mỹ năm 1995. Quan điểm này cũng được nhiều giới Hồi giáo chấp nhận. Tình hình ở Afghanistan vẫn chưa ổn định, tổ chức Al Qaeda vẫn chưa dẹp tan thì ngày 20 tháng 03 năm 2003, liên quân Mỹ - Anh lại tấn công và xâm lược Iraq, một nước Hồi giáo khác. Sau 20 ngày tiến quân và dùng các vũ khí vô cùng hiện đại tàn phá thủ đô Baghdad của nước này. Mỹ đã lật đổ được chánh quyền hợp pháp của Iraq do Tổng Thống Saddam Hussein lãnh đạo. Mặc dầu cả thế giới đều thấy rõ, động cơ chính của cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai này là tài nguyên dầu mỏ của Iraq, đứng hàng thứ hai trên thế giới chỉ sau Saudi Arabia, mà Mỹ và thế giới rất cần để phát triển, nhưng đối với người dân Hồi giáo nói chung và người dân A-Rập nói riêng, đây là một xúc phạm không tha thứ được đối với tôn giáo của họ. Thành phố Baghdad đã một thời, dưới triều đại các Giáo chủ Áp-bát, là trung tâm huy hoàng của đạo Hồi. Đối với họ, nền văn minh Hồi giáo xưa kia vô cùng xán-lạn nay đang có nguy cơ bị huỷ diệt.”
làm người ta liên tưởng ngay đến các hiệp sĩ thời Trung cổ mang gươm sang vùng Trung Đông đánh chiếm lại những vùng đất Thánh như Palestine, Jérusalem đã bị các giáo chủ Hồi giáo đưa quân xâm lấn. Tổng Thống Mỹ còn nhiều lần lên án những khủng bố cố ý nhắm vào dân lành theo các đạo Cơ-Đốc và Do-Thái trên Thế giới. Hàng triệu người Hồi giáo, từ Trung Cận Đông sang Đông Nam-Á, từ vùng Balkan đến các nước Phi châu đều cho rằng đây là một cuộc Thánh chiến mới của họ. Từ Di-hát (Jihâd, Thánh chiến) được thốt lên trên cửa miệng của hàng vạn thanh niên sẵn sàng cầm vũ khí đi bảo vệ Tôn giáo của mình. Nhiều nhà phân tích chánh trị trên thế giới cũng cho đây là giai đoạn mở đầu của một cuộc “đụng đầu giữa các nền văn minh” mà Giáo sư Samuel Huntington đã tiên đoán trong một bài báo nổi tiếng đăng trên Tạp chí ngoại giao (Foreign Affair)của Mỹ năm 1995. Quan điểm này cũng được nhiều giới Hồi giáo chấp nhận. Tình hình ở Afghanistan vẫn chưa ổn định, tổ chức Al Qaeda vẫn chưa dẹp tan thì ngày 20 tháng 03 năm 2003, liên quân Mỹ - Anh lại tấn công và xâm lược Iraq, một nước Hồi giáo khác. Sau 20 ngày tiến quân và dùng các vũ khí vô cùng hiện đại tàn phá thủ đô Baghdad của nước này. Mỹ đã lật đổ được chánh quyền hợp pháp của Iraq do Tổng Thống Saddam Hussein lãnh đạo. Mặc dầu cả thế giới đều thấy rõ, động cơ chính của cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai này là tài nguyên dầu mỏ của Iraq, đứng hàng thứ hai trên thế giới chỉ sau Saudi Arabia, mà Mỹ và thế giới rất cần để phát triển, nhưng đối với người dân Hồi giáo nói chung và người dân A-Rập nói riêng, đây là một xúc phạm không tha thứ được đối với tôn giáo của họ. Thành phố Baghdad đã một thời, dưới triều đại các Giáo chủ Áp-bát, là trung tâm huy hoàng của đạo Hồi. Đối với họ, nền văn minh Hồi giáo xưa kia vô cùng xán-lạn nay đang có nguy cơ bị huỷ diệt.”
(Trích từ trang 7-10- Hồi giáo thế
giới Á-Rập)
Nhận xét về Tinh thần Tín ngưỡng Hồi giáo:
Người Hồi giáo quan niệm về Địa Ngục-Thiên Đàng quá đơn sơ giản dị, chưa
thoát ra cái sống quá khắc nghiệt của hiện tại làm sao có được cái sống của tâm
linh ?
Thứ nhứt họ là người sống trên sa mạc chỉ có nắng gió, thiếu thốn những thức
ăn cần thiết làm nhu cầu cho cuộc sống. Thiên đàng của họ là gì ? - Chỉ ước mơ
có một nguồn nước trong lành, những quả ngon trái ngọt, sữa tươi. Về tình cảm
thì một bóng giai nhân trong mắt người nam, một ánh mắt che chở cho người nữ.
Ôi! Thương hại quá. Họ là những người
không được thiên nhiên ưu đãi. Thế nên từ đó dễ bị lạc lỏng về tinh thần nên bị
sa ngã, nhiều khi việc làm không ý thức, bạo động, cuồng tín.
Trong khi đó những quốc gia khác như Âu Mỹ thì thừa thãi về mọi phương diện
vừa ăn xài vừa đổ bỏ. Có thể nói mỗi bữa ăn của một gia đình người Mỹ bỏ ra có
thể nuôi sống trung bình được hai, ba gia đình khác. Hầu như những người Việt
Nam sống trên đất Mỹ họ xem việc hoang phí như vậy là một cái “mốt” văn minh và
hãnh diện. Tội nghiệp thay ! Họ chạy theo cái bóng mờ !
Chúng ta ước mơ gì ? Nếu mỗi người trong xã hội chúng ta biết chia cơm sẻ
áo, biết nghĩ đến những dân tộc bạc phước thì hãy giúp đỡ ngay chính người bạn
đồng hương, đồng bào, đồng khổ chung quanh ta gọi là an ủi họ, mà nhứt là có dịp
cho mọi người thể hiện đức nhân ái, Từ bi,khoan dung độ lượng đó là con đường dẫn
đến Đại đồng
Hỏi vậy Đạo Cao Đài quan
niệm thế nào
về Thiên đàng và Địa ngục?
Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài rằng:
…“Quyền tự chủ ấy, vẫn đã định trước làm cho cả nhơn sanh vui theo cơ Tấn
Hóa, thì dầu cho Thầy cũng không cải qua đặng; vì hễ sửa cải thì là mất lẽ công
bình Thiêng Liêng đã định, làm chinh nghiêng cơ thưởng phạt. Hễ có công thưởng
tội trừng thì phải để rộng quyền cho người tự chủ.
Thiên cơ đã lập có Ðiạ Ngục với Thiên Ðàng, ấy cảnh thăng cảnh đọa.
- Ðịa Ngục dành để cho kẻ bạo tàn,
-Thiên Ðàng cho người đạo đức, thì cân công bình Thiêng Liêng đã sẵn. Ấy vậy
chẳng buộc ai vào Ðịa Ngục, mà cũng chẳng nâng đỡ ai đến Thiên Ðàng. Ðôi đường
hiển hiện, tự quyền người lựa chọn, siêu đọa tại nơi mình, các Ðấng Thiêng
Liêng duy có thương mà chỉ dẫn”.
Ngày nay sửa chữ Âm Quang thay cho Địa ngục Toà Thánh, tháng 10-Nhâm Thân
(dl: tháng 11-1932).
BÁT NƯƠNG Diêu Trì Cung
Giải thích về Âm quang:
“Âm quang là khí chất hỗn độn sơ
khai khi Chí Tôn chưa tạo hóa. Lằn Âm khí ấy
là Diêu Trì Cung chứa để tinh vi vạn vật, tỷ như cái Âm quang của phụ nữ có trứng
cho loài người. Khi Chí Tôn đem Dương quang ấm áp mà làm cho hóa sanh, thì cái
khoảnh Âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu, là cơ quan sanh hóa vạn linh.
Song lằn Âm quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh quang của Chí
Tôn chưa chiếu giám đến thì phải còn tối tăm mịt mờ, chẳng sanh chẳng hóa. Vậy
thì nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay là Ðịa ngục,
Diêm đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu. Vậy thì chính lời nhiều Tôn giáo, nơi
ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi
chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong Ðô Ðịa phủ của mê tín gieo
truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn hồn Giải thân định trí (một nơi
trung gian giữa Thiên đường và Ðịa ngục hay là mờ mờ mịt mịt). Ấy là một cái
quan ải, các Chơn hồn khi qui Thiên, phải đi ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi
qua đó là đệ nhứt sợ của các Chơn hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt
con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng,
phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy Chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường
trai cũng vì cái quan ải ấy. Em nói thiệt rằng, mấy anh hiểu thấu, thì
kinh khủng chẳng cùng. Nếu để cho Chơn
thần ô trược thì khó mong trở lại cõi thiêng liêng và về cùng Thầy đặng.Em biết
đặng nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng.Thất
Nương ở đó đặng dạy dỗ, nâng đỡ các Chơn hồn, dầu sa đọa luân hồi, cũng có người
giúp đỡ”.
B - ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
mở ra chân TRỜI mới
Với nền Tân Tôn giáo như Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ do chính Đức Thượng-Đế đến lập
tại đất nước Việt Nam là một cơ Đại Ân Xá cho toàn cả nhân loại. Vì:
“Thầy đã lập Ðạo nơi cõi Nam nầy, là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến
giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng
một cách vinh diệu. Từ tạo Thiên lập Ðịa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy
đặng vậy”. (TN: 12-01-Ðinh Mão)
Thế nên Đức Hộ-Pháp mới thuyết THỂ PHÁP và BÍ PHÁP CAO-ĐÀI cho toàn thể
nhân tâm hướng về:
Theo truyền thuyết nói rằng: Phật ra đời liền bước đến bảy bước, mỗi bước
đi của Ngài nở hoa sen. Liền một tay chỉ lên Trời, một tay chỉ xuống đất nói:
“Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn” Ấy cũng là một triết thuyết quá cao
siêu của Phật giáo, nhưng người đời lầm tưởng rồi biến thành những huyền thoại
cốt làm cho vị Giáo chủ của mình trở nên huyễn hoặc đi tới chỗ không tưởng, tức
là một sự Thần Thánh hóa một nhân vật yếu trọng mà thôi. Nhưng Đạo là lý, muốn
tìm đến Đạo phải suy từ lý, có đạt lý mới rõ thông lẽ Đạo. Thật ra Ngài đã xuống
cõi phàm này rồi cũng phải chịu chung trong cái phàm ấy. Duy tâm linh Ngài cao
trọng, siêu phàm mà thôi.
Sở dĩ nói mỗi bước chân Ngài nở hoa sen, vì sen là tượng trưng cho triết lý
nhà Phật “bước tới 7 bước”. Số 7 là tượng cho Thất tình mà tất cả chúng sanh đều
có. Người tu biến thất tình thành Thất bửu. Thế nên bên trong Đền Thánh, phần
Hiệp Thiên Đài có ba tượng của Ba vị: Hộ Pháp (giữa), Thượng Phẩm (bên phải của
Hộ-Pháp), Thượng Sanh (bên trái). Nhìn ra phía trước thì có 7 ngai của Chức sắc
Cửu Trùng Đài. Nhân sanh đến cúng lạy, chầu Lễ Chí-Tôn ngồi giữa hai khoản ấy.
Người có đủ Thất tình là vậy “Duy Ngã độc tôn” chữ Ngã là Ta, tức nhiên là chỉ
toàn cả nhân loại, là con người mới được ngôi vị “độc tôn” đồng nghĩa với “Tối
linh” mà Kinh Tắm Thánh xác nhận:
Những vạn vật Âm dương tạo
hóa,
Dầu cỏ cây hoa quả biến
sanh.
Con người đứng phẩm tối
linh,
Nửa người, nửa Phật nơi
mình anh nhi.
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ 大 道三期 普 度
E: The Great way of the
Third Universal Salvation
F: Troisième Amnistie de Dieu en Orient.
A - KHÁI QUÁT:
Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ là một nền Đạo lớn mở ra vào thời kỳ thứ ba để cứu giúp toàn cả chúng
sanh nơi cõi trần này, hầu thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi
mà trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, chính là Niết Bàn đó vậy..(Đại Đạo là một
nền Đạo lớn, nhưng khi nói lớn thì không còn gì lớn hơn nữa, nên nói là Đại Đạo. Tam Kỳ là thời kỳ thứ ba. Phổ Độ là cứu giúp
chúng sanh rộng khắp). Khi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí Tôn xưng danh hiệu
là:“CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT” nên
nền Đại-Đạo này còn được gọi theo danh xưng của Đấng Thượng-Đế là
ĐẠO CAO ĐÀI. Gọi là Đại Đạo bởi vì Đạo Cao Đài là một nền Đạo lớn do Đức Thượng
Đế sáng lập. Mục đích của Đại Đạo là Qui Tam giáo: Nho – Thích - Lão và hiệp nhứt
Ngũ Chi là Nhơn đạo - Thần đạo - Thánh đạo - Tiên đạo - Phật đạo.
"Đức Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ Độ này gọi là mở Cơ quan tận độ chúng sanh tức nhiên là lập
một khoa thi sang Tam chuyển tái phục Thiêng-liêng vị nơi cảnh vô hình, mỗi
chuyển tức nhiên mỗi khoa mục của các Đẳng chơn hồn cần phải thi đoạt vị: thăng
hay đoạ. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn gọi là trường thi công quả là vậy. Đức
Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập Nhị Thời Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí pháp ấy đặng
cho vạn linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức Chí-Tôn buổi mới sơ khai, chưa
tạo thiên lập địa, Ngài muốn cho vạn linh
đặng hiệp cùng Nhứt linh của Ngài do quyền năng sở hữu của quyền hạn Thần
linh.
Gọi là Tam Kỳ Phổ Độ vì trước đây đã có hai thời kỳ Phổ Độ rồi:
■ Nhứt Kỳ Phổ Độ khai thời thượng cổ có các Tôn giáo:
- Phật giáo do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai mở.
- Tiên giáo do Đức Thái Thượng Đạo Tổ khai mở.
- Nho giáo do Đức Văn Tuyên Đế Quân khai mở.
Đồng thời:
+ Đức Brahma-Phật mở Đạo Bà La Môn.
+ Đức Moïse mở Thánh giáo ở nước Do Thái gọi là
Do Thái giáo
■ Nhị Kỳ Phổ Độ khai thời
Trung cổ có các Tôn giáo:
- Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.
- Đức Lão Tử mở Tiên giáo ở Trung hoa.
- Đức Khổng Tử mở Nho giáo ở Trung hoa.
- Đức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái.
+ Đức Mahomét mở Hồi giáo ở nước Á Rập,
+ Đức Khương Thượng cầm Bảng Phong Thần mở ra Thần đạo ở Trung hoa...
■ Nay, thời Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm cuối Hạ nguơn Tam chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ
Chuyển, Đức Chí Tôn đến “Qui nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” vì ngày nay Càn
khôn dĩ tận thức, năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà, nên Đức Ngài đến mở
ra một nền Đại Đạo tại nước Việt Nam, thống nhứt thành một mối, để nhơn loại
không còn bị chia rẽ nhau vì khác Tôn giáo, hầu tiến đến một THẾ GIỚI ĐẠI-ĐỒNG.
Vì lẽ đó Đức Chí-Tôn
lập Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Tam giáo mới trấn phục nỗi
hoàn cầu, gồm có:
- Phật Quan Âm thay quyền Phật giáo: Nhị trấn Oai
Nghiêm.
- Đức Lý Đại Tiên Thái Bạch Kim Tinh thay quyền Tiên
giáo, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ.
- Đức Quan
Thánh Đế Quân thay quyền Thánh giáo, là Tam Trấn Oai Nghiêm, lập Nho Tông Chuyển
thế.
Tóm tắt ba thời kỳ Phổ
Độ:
Đức Chí Tôn cho biết đây là kỳ Phổ Độ chót, trước khi
mở Đại Hội Long Hoa là có cuộc Phán Xét
cuối cùng, tận độ toàn cả chúng sanh, cứu
giúp không để sót một ai. Đức Chí Tôn khẳng định“Gặp TAM KỲ PHỔ ĐỘ” nầy mà không
tu thì không còn trông mong siêu rỗi”. Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chánh thức mở ra
vào ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 19-11-1926) và Đức Chí Tôn chọn dân tộc
Việt Nam, đất nước Việt Nam để Khai Đạo, dùng Tây Ninh làm Thánh Địa xây dựng
các cơ quan trung ương, để từ nơi đây truyền bá khắp hoàn cầu, độ toàn Thế giới.
Thầy dạy: “Chi chi cũng tại TÂY-NINH mà thôi”.
B - SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ:
Đức Hộ-Pháp nói: “Có nhiều người viết Đạo-sử và đã nói
cho người ngoại-quốc hiểu Đạo. Trong ấy có nhiều điều
không đúng sự thật, nhứt là trong các
bài Cơ. Đạo ban sơ thế nào? - Nhiều người đã nói đến, đã giảng lịch-sử Đạo,
nhưng không đúng lịch-sử chút nào hết. Sự thật như thế này: Trong năm Ất-Sửu:
các Thầy, các Ông, từ hàng Thẩm-phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên
hạ đã làm đảo-lộn trong giới trí-thức đương thời là “Con người có thể
thông-công cùng các Đấng thiêng-liêng vô hình được” nhứt là thuyết này đã làm
cho cả Âu Châu sôi nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn-cầu do các Hội Thần
linh-học và Thông-thiên-học đã khảo-cứu một cách rõ-rệt. “Loài người có thể sống
với cảnh thiêng liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy”. Cái triết-lý ấy làm
cho nhiều người, nhứt là người học thức muốn tìm tàng thấu đáo. Nơi hạng học-thức
ấy có một người cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng-Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ
làm theo phương-pháp bên Âu-Châu hay bên Pháp là Xây bàn. Cái duyên ngộ Đạo của
chúng tôi lúc đó chưa có quyền-năng thiêng-liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi
muốn tìm hiểu huyền-vi bí-mật thiêng-liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra Càn Khôn
Vũ trụ. Sách vở để lại cũng nhiều, nhưng thật ra lý-thuyết ấy làm cho chúng tôi
chưa quyết định về tín-ngưỡng cách nào mà đức-tin đã có thật vậy. Khi Đức
Chí-Tôn đến với
chúng tôi, Đức Chí Tôn mở ĐẠI ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo
CAO-ĐÀI. Tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn bút đi các
nơi thâu Môn-Đệ. Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng trong Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ này làm môi-giới độ ĐẠO sau này. Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò
loan đặng Ngài dùng quyền-năng Thiêng-liêng kêu gọi mấy vị Tông-đồ đó. Quả
nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời-quân
ấy có Cao Tiếp Đạo ở tại Kim-Biên chớ không phải ở Sài-Gòn. Đi thâu Thập Nhị Thời-Quân
rồi, Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một
người thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm
Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức
Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ
hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo Tông. Trong thời-gian mười ngày,
chỉ có mười ngày mà thôi! Chúng tôi không hiểu nguyên cớ nào Ông Ngô-văn Chiêu
không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô văn-Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ,
ở tại Hà Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí-Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ
đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng là “CAO ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT
MA-HA-TÁT.” Trong khi đó Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ.
Đức Chí-Tôn chỉ nhà của Ông Ngô-văn-Chiêu cho chúng tôi và nói: Ngô-văn-Chiêu
thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết Bạn cùng nó, vì cớ cho nên
chúng tôi mới đến
Ông Ngô văn-Chiêu. Một buổi nọ chúng tôi phò-loan học hỏi như thường ngày. Đức Chí-Tôn kêu chúng tôi
và Đức Cao Thượng Phẩm phải đi vô trong Chợ Lớn, đến tại
nhà của Đức Quyền Giáo Tông của chúng ta
bây giờ là Ông Lê Văn Trung. Buổi nọ Ông Lê-Văn-Trung đang làm Thượng
Nghị Viện. Hội đồng Thượng Nghị-Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng-Thống đời
Pháp thuộc. Chức Nghị Viện lớn lắm ! “
1 - Tìm hiểu Cao-Đài là
gì? Lý do nào khai Đạo?
Đức Hộ-Pháp nói
về Tân Tôn giáo Cao-Đài: “Đạo Cao-Đài tức là ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ khai sáng
vào thời-kỳ này là do Thiên cơ tiền định và cũng hợp với lời tiên-tri của
các Đấng Giáo Chủ đã khai mở các Đạo-giáo trên thế-giới:
Theo Phật-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo thì đều dạy rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ
Hạ nguơn khiến đời tận diệt để chuyển xây trở lại Thượng
nguơn Thánh-đức với một kỷ nguyên mới. Đặc biệt Đức Thích-Ca Mâu-Ni khi lập
giáo có cho biết đến năm 2.500 kỷ-nguyên Phật giáo, là thời-kỳ để cho Đức Di-Lạc
ra đời mở Hội-Long Hoa lập một kỷ nguyên mới đó vậy”.
Cao-Đài là gì? Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là
Cao thì không còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối
đại. Ngày nay chính Đấng Thượng-Đế mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ xưng danh là Ngọc-Hoàng
Thượng-Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương.
CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng
tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với
nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ
dẫn 92 ức nguyên-nhân còn mê đắm hồng-trần. Danh xưng “Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ
Tát Ma Ha Tát” là gồm cả Tam-giáo, gọi là Tam Giáo Qui Nguyên:
- Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.
- Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật
Giáo.
Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản
Càn Khôn vũ trụ là "một mà ba, mà ba cũng như một" đầy đủ đức tính
khiêm nhường.
Thầy dạy: “Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi
nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của
Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy
thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!.
Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi
Thiên-hạ đặng. Các con phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại
nói buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi
kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy. Ấy vậy, các con
ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.
Điều quan trọng hơn hết là Niệm danh Thầy để được giải thoát:
Trong Con đường Thiêng liêng Đức Hộ-Pháp nói: “Đức Chí-Tôn là Đại Từ Phụ
khi đến độ Bần Đạo, Bần Đạo có hỏi về phương tận độ các vong linh nhân loại, thì
có nói quả quyết như vầy: dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp
hối rồi chỉ kêu lấy danh TA thì cũng đặng giải thoát.” Lại một lần nữa, Đức Hộ-Pháp
có nói: “Hỏi thử tội tình của chúng ta
đã làm trong kiếp sanh Đức Chí-Tôn để trong phương pháp nói rằng: tội tình các
con đầy dẫy nơi mặt địa cầu này mà đến giờ chót các con biết kêu danh Thầy thì
được Thầy đến cứu, Thầy đem Bí-pháp giải thoát để trong tay các con đặng các
con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy, kêu danh Thầy là “Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông
Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”
Câu niệm này thay cho câu Lục Tự Di-Đà, là câu “Nam Mô A-Di-Đà-Phật”của thời
xưa, nay Phật đã đến với danh hiệu CAO-ĐÀI rồi. Giá trị câu niệm này sẽ là một
điều mầu nhiệm vô cùng cho người may duyên gặp Đạo.
2 - Tại sao gọi là CAO-ĐÀI ?
"Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO-ĐÀI 高臺 nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại thế này (La haute Église
ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít
của hướng Á-Đông là An-Nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri “Đạo xuất ư Đông” 道出於東 và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy lập thành Hội-Thánh, làm
hình thể Thiêng-liêng của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng
truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định-tánh làm cho cả
con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ” (PCT)
3 - Hiện-tượng Đức Chí-Tôn
mở Đạo Cao-Đài
Chí-Tôn lập Cao Đài để làm Tòa ngự của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến hồng-trần
này làm BẠN cùng người, hiệp cả loài người làm một.
Bởi "Đức Chí-Tôn biết tình trạng nhơn-loại đã đến mức tự diệt nhau nên
Ngài đến tạo nền Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI, cho nhơn-loại gìn
giữ phần hồn đặng định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho nó đến cảnh điên của
nó, mà họ đến cảnh điên tức đến cảnh tự diệt. Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc
phục sinh đặng cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh thần của Đức Chí-Tôn tạo
cho họ, ĐẠO CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức
nhiên Chơn-thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt.
Lời tiên-tri trong sách “Ấu-học Tầm
nguyên” về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài: trong quyển “Giác mê ca” mà tác-giả là
một Đạo-gia có ghi lại đoạn văn sau:
Hữu duyên mới gặp Tam-Kỳ
Phổ-Độ
Muôn đời còn tử-phủ nêu danh,
Ba ngàn công-quả đặng viên
thành,
Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu.
Đây có mục-đích báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người hữu-duyên mới
gặp được Tam Kỳ Phổ Độ, hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà làm phương thoát
tục mới mong trở về ngôi xưa vị cũ. Bởi Đạo Cao Đài là Tu nhập thế nên phải lập
công bằng cách Phụng sự Vạn linh, mà phụng sự Vạn linh tức nhiên phụng sự Trời. Điểm tới đích là Niết-bàn. Đạo Cao-Đài nói là
cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Niềm tin hứa-hẹn của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đến, đã ứng
hiệp, nhất định không có gạt gẫm, nguỵ tạo. Phải lập cho được Ba ngàn công quả
chính là phải tu chơn thực theo phương thức sau, mà sách Trang Tử nói: Chí nhân
vô kỷ.Thần nhân vô công.Thánh nhân vô danh.
- Quên mình làm nên cho người, đạt (một số 0)
- Làm mà không tính công đạt (hai số
0)
- Làm mà không ham danh đạt (ba số
0)
Đây là nói lý: phải hiểu rằng: Đặt số 3 trước ba số (000) thành 3.000 công
quả.
“Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật
Thiên đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước
lên con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn
dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực
nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn này”.
4 - Triết-lý
của Đạo-Giáo:
Đức Hộ-Pháp nói: “Các vị Giáo-Chủ, lập giáo đều nương nơi một tinh thần của
họ, tinh-thần hữu-định ấy có căn-nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại. Họ
chỉ lấy một thuyết trọng yếu đặng làm triết-lý Đạo-Giáo của họ, tỷ như:
- Thánh-Giáo Gia-Tô lấy TÂM làm căn
bản,
- Lão-Giáo lấy THÂN làm căn bản,
- Hồi-Giáo lấy TÍN-NGƯỠNG làm căn bản.
Mỗi Giáo-lý đều có sở-năng làm trung-tâm-điểm đặng vi-chủ tinh-thần
của con người trong
chỗ khuyết điểm của họ”.
“Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy
làm sợ sệt hơn hết là nền Tôn-Giáo của Đức Chí-Tôn lấy Tinh Thần làm căn-bản. Hỏi
vậy, tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn-minh vật-chất,
tinh-thần ấy có đủ quyền-năng tự-vệ lấy họ chăng ?
Tinh-thần họ có đủ lực-lượng chiến thắng chăng? Nếu thoảng tinh-thần của
nhơn-loại không quật khởi lên, tự-quyết, tự-chủ, tự định-phận đặng mà phải chịu
làm nô lệ cho văn-minh vật-chất, thì tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ ra sao? Mà chẳng
những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, mà còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo
đức tinh thần của loài người trở mặt ra đối với tinh-thần cường liệt của
Chí-Tôn, thì tương-lai nơi mặt thế này sẽ như thế nào? Chúng ta cũng nên để có
một câu hỏi. Có một điều ta nên để mắt nhìn coi Chí-Tôn tạo hình thể nào đặng bảo
trọng tinh-thần đạo-đức ấy. Ấy là một phương pháp ta nương theo đó đặng tạo dựng
khối đức tin vững chắc bền-bỉ vậy.”
5 - Tôn chỉ cao thượng của
Đạo Cao-Đài là gì?
Đức Hộ-Pháp nói: “Cái Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo
Chánh là Nho – Thích - Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm một, nên chi
chúng ta tu Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam Giáo mà tập rèn tâm tánh.
Nghĩa là phải nắm trọn:
- Tam cang Ngũ Thường (Nho-giáo)
- Vẹn giữ Tam qui Ngũ giới (Phật-giáo)
- Luyện Tam bửu Ngũ hành (Tiên-giáo)
Người mà gồm được cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy”.
Đạo Cao-Đài là “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” cho nên có Tôn chỉ
rõ rệt:
- Tín-ngưỡng thì thờ Trời và thờ Người.
- Về Luật-pháp thì Bác-ái và Công-Bình.
- Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường Chân- Thiện- Mỹ. Chung qui dầu ở
nơi Tôn-giáo nào cũng lấy TÂM làm gốc:
Tìm hiểu các nhà Tôn-giáo đã dạy đời những gì, đó chính là Tôn-chỉ của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay.
Thích-giáo Phật Thích-Ca làm Chưởng-giáo, dạy:
- Tam qui Ngũ giới
- Minh tâm kiến tánh.
- Thật hành Bác-ái, Từ bi
Tiên-giáo Đức Thái Thượng làm Chưởng-giáo, dạy
- Tam bửu Ngũ hành.
- Tu tâm luyện tánh.
- Thủ cảm ứng chứng minh.
Thánh-giáo Khổng-Tử làm Chưởng-giáo, dạy:
- Tam cang Ngũ thường.
- Tồn tâm dưỡng tánh.
- Lấy Nhân-Nghĩa làm hành tàng.
TÓM LẠI: Nho nói: Tồn tâm dưỡng tánh.
Tiên nói: Tu Tâm luyện tánh.
Thích nói: Minh tâm kiến tánh.
Thích nói: TỪ BI,
Nho nói: TRUNG THỨ
Tiên nói: CẢM ỨNG
Tiên nói: Bảo nguơn thủ nhất.
Thích nói: Vạn pháp qui nhứt.
Nho nói: Chấp trung quán nhứt
Cứ đôi câu đại khái đó thì hiểu biết nghĩa lý nào có khác chi? Nên Đức Thể
Hà Tiên có bài thi rằng:
Tam giáo nguyên lai nhứt
lý đồng,
Hà tu phân biệt các Tây Đông?
Tam hoa, Tam bửu, Tam
tài lý.
Ngũ đức, Ngũ hành, Ngũ
giới trung.
Nghĩa là: Tam giáo nguyên lai đồng một lẽ, không tất
phân biệt khác nhau làm chi, xem như lời: Tam hoa, tam bửu,
tam tài; Ngũ đức, ngũ hành, ngũ giới đều dùng chữ TAM, chữ NGŨ mà dạy đời. Vậy
thì từ thuở xưa các Đấng Giáo chủ của Tam giáo đã công nhận Tam giáo y như một,
mới có thuyết Tam Giáo đồng nguyên.
Vì lẽ đó mà Tiên giáo mới nói sự ra đời của LÝ LÃO TỮ là do Nàng NGỌC NỮ 玉女 mang thai lúc 8 tuổi, phải 72 năm sau mới nứt nách Mẹ ra chào đời, lúc đó
Nàng 80 tuổi. Thật ra lý đạo cao siêu mầu nhiệm vô cùng, phải do theo lý Dịch mà giải:
Ngọc 玉 (5 nét) Nữ 女 (3 nét)
Thay vì nói:
- Trời có Tam bửu - Ngũ khí,
- Đất có Tam bửu - Ngũ Hành,
- Người có Tam Bửu- Ngũ Tạng
Thứ nhất từ lý này giải được: (3+5= 8) Ba lần như vậy để thấy rằng: - Trời (Chí-Tôn) có Bát quái
- Đất (Phật Mẫu) có Bát Cảnh Cung.
- Người nương theo Bát Chánh Đạo
3 lần 8 là 24 tức là 24 chuyến thuyền Bát nhã mà Phật Mẫu cho toàn linh căn
đến trần này. Ngày nay ngôi Tiên Đạo đứng vào chánh trung, mà lý TAM THANH hiện rõ:
Thế nên:
Màu vàng (Thái Thanh) tượng Phật đạo
Màu xanh (Thượng Thanh) tượng Tiên đạo
Màu đỏ (Ngọc Thanh) tượng Thánh Đạo.
Quả thật câu Kinh “Ánh Thái Dương giọi trước phương Đông” Đạo cũng phát khởi
từ phương Đông. Đạo trải qua nhiều thời
kỳ, cũng nhờ vào Đức Phật Tổ (Tổ Sư), Đức (Thái Thượng) Lão Quân, Đức Khổng
Thánh (Đức Ông), Giáo Chủ của Tam Giáo duy trì đến nay. “Tổ Sư Thái Thượng Đức
Ông”. Tôn giáo quan trọng nhất là Tâm. Chính cái Tâm này mà Tam giáo làm gốc
cho sự qui hợp. Ngày nay, Đạo Cao-Đài Qui Tam Hiệp Ngũ, Vì: “Tam giáo là ba nền
Đạo Chánh thuở nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà
hóa ra phàm giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa đoạ
tội lỗi, mạt kiếp chốn A-tỳ, nên nhứt định chuyển "Tam-giáo Qui Nguyên Ngũ
Chi Phục Nhứt", chấn hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn
đèn thiêng-liêng lên để dìu dắt bước đường cho kẻ có công TU-HÀNH mà khỏi xảy
chân, lạc lối. Ấy vậy, tất cả các yếu chỉ này làm tiêu-chuẩn cho mọi hành-vi. Cả
Luật Pháp khuôn viên điều-mục của ba nền Tôn giáo ấy từ buổi sơ khai có đủ
phương diện, quyền năng dìu đời thống khổ. Nhơn sanh trong thời kỳ Thượng cổ
còn tính đức, biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà: Thích- Đạo-
Nho tức là Phật, Tiên, Thánh; nghĩa là phải
làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu
tâm, mới chung hưởng thái-bình, hạnh phúc”.
Tại sao Nàng Ngọc Nữ ăn phải
trái LÝ CHÍN ?
Trên đã rõ lý Qui Tam Hiệp Ngũ rồi, mới thấy cái điều quan trọng nhứt là ăn
phải trái “Lý 李 (7 nét) tượng cho con người
có thất tình, từ đó người phải tu hành mới đạt lý tự nhiên là lý Đạo, lý hư
vô,…chín chứ không phải sống. Số 9 là bội
số của số 3 làm căn bản cho các số. Như trên đã nói (3x8= 24). Rồi (3x24=72) mà
(7+2=9). Bảy mươi hai là số của Thất thập nhị địa là số 72 quả địa cầu mà con
người chúng ta ai cũng mang trong người cái Thất tình (số 7) mà lại ở vào Thế
giới Nhị nguyên (số 2).
Nàng phải 80 tuổi mới sanh ra đời, tức nhiên người thông suốt được Bát Quái
mới thấu triệt lẽ biến thiên của vũ trụ, lẽ dinh, hư, tiêu, trưởng của Trời đất.
Qua câu “Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc hư”
Số 8 là chỉ Bát Quái, Số 0 là Hư vô, là Niết bàn đó vậy.
6 - CAO-ĐÀI là Phật Giáo
chấn hưng:
Nền Ðạo lúc sơ khai, vào giữa năm Bính Dần (1926), nhà cầm quyền Pháp hỏi
quí vị tiền khai đây là mối Ðạo gì? Quí vị ấy chưa dám nói đây là Ðạo Cao Ðài,
là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, vì những từ ngữ nầy còn mới mẻ quá, chỉ nói vắn tắt với
nhà cầm quyền Pháp, đây là Phật giáo chấn hưng hay Phật giáo canh tân
(Bouddhisme renové). Thật vậy, Ðạo Cao Ðài không những chấn hưng Phật giáo mà
chấn hưng cả Tứ giáo nữa: Ðó là chấn hưng Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo và
Thánh giáo Gia Tô.”
Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I trang 14, chúng ta nhận thấy Đức Phật
Thích Ca giáng cơ dạy về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần đầu tiên vào ngày 26-2-Bính
Dần (dl: 8-4-1926) tại đàn Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc). Bài Thánh ngôn do Đức
Thích Ca Mâu Ni giáng “Thích-Ca Mâu-Ni Phật: Chuyển Phật Đạo, Chuyển Phật Pháp,
Chuyển Phật Tăng, Qui nguyên Đại Đạo. Tri hồ chư chúng sanh?”
Một đàn khác, Thầy dạy:
- Tam Kỳ Phổ Độ là gì? - Là Phổ Độ lần thứ ba. Sao gọi là Phổ độ ? Phổ độ nghĩa là gì ?
- Phổ là bày ra.
Độ là gì? - Là cứu Chúng sanh. Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm thế nào? Chúng
sanh là gì ? - Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là
lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.
Muốn trọn hai chữ
Phổ Độ phải làm thế nào? Thầy hỏi? - Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa”.
7 - Đạo Cao-Đài là Tôn giáo toàn cầu:
Đức Hộ-Pháp nói:
Tôn giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp Tín ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi. Nắm cả
Tín ngưỡng của loài người lại, chính CHÍ TÔN là CHÚA TỂ
Càn Khôn Thế Giái, làm CHÚA nền chính trị tại nước NAM, vi chủ tinh thần loài
người tức đủ quyền năng lập QUỐC ĐẠO. Kỳ khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ tạo một linh đài
qui Tín ngưỡng của toàn nhơn-loại, đủ quyền năng tiêu-diệt Tà pháp đặng đem
nhơn-loại đến ĐẠI-ĐỒNG. Nay Đức Chí Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo
lời Sấm truyền của các vì Giáo Chủ ngày xưa.
Chỉ có hai phương diện:
1 - Là Tam giáo thất kỳ truyền,
2 - Là chính mình Đức Chí-Tôn giáng cơ lập ĐẠO đặng Qui Nguyên Phục Nhứt, gọi
là chấn hưng TAM GIÁO lại cho hoàn toàn, lập Luật Pháp khuôn viên cho phù hợp
theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả Tinh thần của
các dân tộc biết nhìn nhau một CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ
quyền Thương yêu, chung thờ một Tôn-giáo Đại Đồng thì nhơn loại mới gội nhuần
ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời Mỹ tục thuần phong thì vạn loại
mới chung hưởng cơ Hòa bình, phục hồi Thượng cổ là do Thiên Thơ tiền định buổi
Hạ nguơn chuyển thế hoán cựu duy tân.
Tóm lại: Đức Chí-Tôn khai ĐẠO kỳ thứ ba này là thuận theo “Lẽ tuần-hoàn châu nhi phục thủy”.
“Đạo Cao-Đài là nền Chánh Giáo tức
là nền Đạo Cao-Đài này để thay thế tất cả Tôn Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các
Tôn Giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương tri, lương năng
của loài người nữa. Hay nói một
cách khác là các nền Tôn Giáo ấy ngày nay đã bị BẾ. Những điều bí yếu bí trọng
trong nền Đạo Cao-Đài, những triết lý cao siêu mà chỉ Đạo Cao-Đài mới có, tuy
nhiên âu cũng là một đặc ân của Đức Chí-Tôn dành cho Đạo Cao Đài là Hộ-Pháp
thay lời Đức Chí-Tôn nói Đạo cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng
là chỗ đó” (ĐHP)
8 - Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà:
Đức Chí-Tôn đã xác nhận qua bài thơ:
Từ thử nước Nam chẳng Đạo
Nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên
ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nã
?
Rằng trẻ noi sau biến hoá
già !
Đức Quyền Gíáo-Tông cũng nói rõ lý-do là Việt Nam từ trước đến giờ không có
Đạo nhà: “Quả thật vậy! “Người nước
Nam từ cổ chí kim thật không có ĐẠO trong nước nhà, mà người Nam ta có tâm đạo,
người Nam trổi danh khắp địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo Phật, đạo Tiên, đạo Nho
tuy khai bên ẤN-ĐỘ và TRUNG HOA, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng
bái. Đạo GIA-TÔ của mấy vị Linh-mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì
người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu,
đi nhà thờ cầu khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ Trời Phật. Người không đi
chùa, đi miễu, không đi nhà thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo
NHO. Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ-ràng người Nam-Việt tin-tưởng Trời, Phật,
Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt,
chớ linh hồn bất tiêu bất-diệt. Vì Đạo-Tâm ấy mà trong thời-kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG
CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
(Ân-xá lần thứ ba).
9 - Đức Chí-Tôn đến chuyển
Quốc-Đạo:
(Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 14-10-Quí-Tỵ)
“Thật ra, nếu không phải cái huyền
linh vô đối của Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn
ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng và qúi hóa như thế này.! ĐẠO CAO-ĐÀI
tức Đạo Tổ-Phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi; nếu chúng ta kể từ
ngày Chuyển thế của nó. Nhưng Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái Nam Nữ
của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ Phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó.” Đức
Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó. Để nói rõ Thánh ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài
muốn gì? Giờ phút này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc. Vì vậy: Nội
tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một
khó khăn về mọi phương diện. Nhưng đối với Bần-Đạo, Bần-Đạo thấy mỗi phen Đạo
chịu khổ nhục, chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-Đạo lại vui mừng mới
chướng cho chớ ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó,
tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức
Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay
không?Cái khó đảm-đương đương-nhiên bây giờ là không làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo
là sửa soạn tô điểm đặng một Đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới
đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn có Đức-tin thì hiểu rõ điều ấy.”
C - Nghiên cứu về Chánh-Trị
của ĐẠO
theo
TÂN LUẬT & PHÁP CHÁNH
TRUYỀN
Theo lời Đức Hộ-Pháp giảng giải trên cho biết là:
- Đạo Cao Đài thành hình là do HUYỀN DIỆU CƠ BÚT.
- Đức Thượng Phẩm là chi Đạo, tức mở đường xuất Thánh
- Danh “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ” ra đời.
- Thập nhị Thời Quân xuất hiện tức Thập Nhị Thời Thần.
- Trước đó đã có ông Ngô văn Chiêu biết Đạo Thầy.
- Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra Hội-Thánh Cửu Trùng Đài.
Xem thế thì Đức Chí-Tôn đã “Khai Đạo muôn năm trước định giờ” nhưng khi mở
Đạo tại thế gian này thì mở Thể pháp trước.Việt Nam hân hạnh đón nhận nền Đạo mới
1 - Dùng huyền diệu Cơ Bút
Chí-Tôn dụng tánh đức lương sanh lập Hội-Thánh
“Buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ độ là thời
kỳ Ân xá tội tình cho toàn cả chúng sanh; lại nhơn buổi văn minh, nhơn loại
thông đồng, càn khôn dĩ tận thức, cho nên Đức Chí Tôn dùng Huyền diệu Cơ bút
giáng Cơ khai Đại Đạo, chủ nghĩa là độ tận 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị cho
khỏi sa đoạ cõi hồng trần nên gọi là cơ quan cứu thế.
Nếu Đức Chí-Tôn chiết chơn linh giáng thế như các vì Giáo chủ trước thì phải
tá mẫu đầu thai, mang phàm thể hữu vi, lại nữa là Đạo khai trong nước Việt-Nam
thì phải thọ sanh hình hài người Nam Việt thì có thể nào chuyển ba mối Đạo khắp
Ngũ châu và toàn cầu thế giới đặng. Lại nữa các dân tộc trong Vạn quốc không thể
hiệp đồng sự Tín ngưỡng làm một thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức
Chí-Tôn giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng
một Đấng Chí-linh giáng thế cứu đời qui
tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy nhất. Chỉ rõ bằng cớ như kỳ các Tôn giáo
tại Luân đôn thì các nước đều công nhận Đạo Cao-Đài là chơn thật có thể qui nguyên Đại-Đồng Tôn giáo và tại
Toà Nội các năm 1933 Hạ Nghị Viện có 424 vị thân sĩ cùng đồng bỏ thăm toàn công
nhận Đạo Cao-Đài.
Đức Chí-Tôn chẳng giáng bằng
xác thân mà lại dụng tánh đức lương sanh lập quyền Hội-Thánh thay hình thể hữu
vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn linh
đối phó cùng quyền Chí linh, ấy là cơ mầu nhiệm cứu vớt quần sanh giải thoát khỏi
chốn sông mê bể khổ.
Kỳ Hạ nguơn này dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác thế nào cũng không làm hại
xác thân của Đức Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy.
Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên Luật pháp xây
chuyển cơ Đạo và cơ Đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của tạo hoá. Đức Chí-Tôn
khai Đạo kỳ ba này giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút là do nơi Thiên thơ tiền định
chuyển Đạo vô vi hiệp Tam giáo Ngũ chi làm một” (ĐHP: 1-7 Mậu-Dần – 1938)
2 - Nước Nam có một CHỦ mà
thôi là Thầy
Thầy dạy: 21-8-Bính Dần (Thứ hai,
27-9-1926)
“Các con. Thầy dặn các con, từ đây
ai nói chi tùy ý, cứ nghe một Thầy thì
khỏi lầm lạc.
Con TRUNG cứ lo khai Đạo, món binh khí tà quái vì đó mà tiêu diệt. Nước Nam
có một chủ mà thôi:là Thầy. Từ trước vì
nhiều Đạo trong nước mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc
dân, nên nước phải yếu, dân phải hèn.
Dân tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm Chủ. Thầy vì thất lẽ công
bình thiêng liêng ấy mới giáng trần lập Đạo tại Nam phương, tức là thay mặt
Càn Khôn Thế giới mà qui chánh truyền nhơn loại.
Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri rằng: Ngày kia có một nước
đương trong vòng nô lệ, vì Ta mà làm Chủ nhơn loại, các con hiểu à !”
Đừng nghe, vì nếu chẳng vậy, ngôi Giáo Tông chẳng ai dám ngồi. Tất cả sáu
ngôi kia, hễ các con đến dựa thì quỉ giết chết, nghe à !
Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không dùng huyền diệu. Các con
hơi nào nghe lời thế sự, một điều nào cũng chưa quyết đoán cho cùng phải quấy.
- Khi Thích Ca truyền Đạo, dân Brahma cho là Bàng môn vì khác Thánh giáo Phật đạo.
- Khi Lão Tử truyền Đạo thì đời cho là phép mê hoặc.
- Khi Chúa Jésus truyền Đạo thì nhà Israel gọi là cải
Chánh đạo, đến đỗi bắt giết.
Các con muốn vừa lòng Thiên hạ thì là giỏi hơn Thầy rồi. Thầy khuyên đừng
nao núng, các con ngó Thầy trước, các con coi bước Thầy đi trước, các con cứ đi
theo sau Thầy là đủ. Cười !”
3 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN
CỬU TRÙNG ĐÀI
Pháp Chánh Truyền của Đạo Cao Đài là thành văn Hiến pháp Thiêng Liêng, do Đức
Chí-Tôn giáng cơ lập thành sau ngày Khai Đạo (15-10-Bính Dần) một ngày.
Qua ngày 16-10-Bính Dần (dl: 20-11-1926) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp
Chánh Truyền tại Thánh Thất Gò Kén (Từ Lâm Tự) Tây Ninh.
Trước tiên là lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài phân định rõ phẩm cấp và
chức năng của mỗi phẩm từ Giáo Tông đến Lễ Sanh. Mỗi phẩm đều có chữ GIÁO hay
chữ SƯ. Đến phẩm Đầu Sư là Thầy của các Thầy; nghĩa là từ Giáo Hữu trở lên mới
đứng vào hàng Chức Sắc, Thánh Thể của Chí-Tôn.
Phẩm Lễ Sanh chưa được vào hàng Chức sắc, chỉ là người có hạnh đức dùng vào
việc lễ nghi. Ngày xưa dùng phẩm Lễ sanh này là người dâng Lễ (nay đổi ra là Lễ
Sĩ)
Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ là Phổ Độ, thế nên quyền Chí Tôn hữu hình tại thế
là khi nào Giáo Tông hiệp cùng Hộ-Pháp
làm một. Từ khi Đức Lý Giáo Tông hiệp với Đức Hộ-Pháp mới lập thêm Bàn Trị sự gọi
là Hội Thánh Em, do vậy mà phẩm Lễ Sanh mới được nâng lên hàng Chức sắc, có
trách nhiệm thuyên bổ, đảm trách vụ đặc sứ, sau này Cai quản Tộc Đạo nên còn là
Đầu-Tộc Đạo. Hội-Thánh Cửu Trùng Đài là cơ quan Hành pháp, nắm quyền
hành-chánh-đạo, phổ thông chơn đạo đến khắp chúng sanh, nên Luật ghi: nếu có vị
nào nói rằng không thông lý Đạo thì Chức việc Bàn Trị Sự phải chịu trách nhiệm
thiếu giáo hoá mà cấp lãnh đạo là Lễ Sanh và Giáo Hữu (Đầu Tộc đạo, Khâm Châu Đạo).
Ấy phần Thế Đạo tượng trưng xác thể của Chí-Tôn.
4 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN
HIỆP-THIÊN-ĐÀI:
Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng liêng mối Đạo. Đạo còn thì
Hiệp-Thiên-Đài còn. Hiệp Thiên Đài là Chơn thần trung gian giữa xác và hồn. Cửu
Trùng Đài muốn thông công cùng Bát Quái Đài, phải nhờ Hiệp-Thiên-Đài làm trung
gian, ấy là nơi của Giáo Tông đến để thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất
Thập Nhị Địa cầu mà cầu siêu-rỗi cho nhơn loại. Thế nên Pháp Chánh Hiệp-Thiên-Đài
phải lập riêng, đó là cơ quan
TƯ PHÁP, bảo thủ chơn truyền.
Ngày 12-01-Đinh Mão (dl: 13-02-1927) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp Chánh
Truyền Hiệp-Thiên-Đài. Từ đây Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Chưởng Quản của Hộ
Pháp,Tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân
chia làm ba Chi: Pháp,Đạo, Thế
5 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN NỮ PHÁI:
Qua tháng Giêng năm Đinh Mão. Đức Lý dạy:
Trước khi bàn đến việc lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ phái, nên nói qua lý-do vì
sao Đức Chí-Tôn không lập mà để cho Đức Lý đứng ra lập ?
(Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý
Thái-Bạch)
“Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục Nữ phái:
PCT:Nữ-phái phải tùng Đầu-sư Nữ-phái, song Đầu sư lại phải
tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng Pháp.
CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải tùng quyền Đầu-sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải
tùng quyền Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.Nữ-Đầu-sư quyền như Nam-phái, song điều đình
bên Nữ-phái mà thôi, chẳng đặng xen lộn qua Nam, cũng như Nam chẳng đặng xen lộn
qua Nữ. Mỗi điều chi thuộc về Nữ-phái thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp chỉ do nơi Nữ-Đầu-sư.
Nhận xét: qua ba lần lập
Pháp Chánh Truyền:
* Ngày 16-10-Bính Dần (dl:20-11-1926) lập
Pháp Chánh
Truyền Cửu Trùng Đài. CTĐ tượng quẻ
Khảm ☵
(xem Dịch Lý Cao Đài I cùng Soạn giả có giải rõ)
* Ngày 12-01-Đinh Mão (dl: 13-02-1927) lập Pháp Chánh
Truyền Hiệp-Thiên-Đài. HTĐ tượng quẻ
Ly ☲
* Tháng 01-Đinh Mão lập Pháp Chánh Truyền Nữ-phái
Vậy là đủ Âm Dương rồi. Bấy giờ lập PCT Nữ phái nữa là hoàn thành con số 3
là Tam Tài: Thiên- Địa- Nhân, tức nhiên là lý trung hòa.
“Như vậy số 3 gọi là Tam, mà Tam là Càn khôn vũ trụ định thể. Số 3 là con số
thiêng-liêng tạo-đoan vạn-vật là vậy”.
Thấy ra con “SỐ 3” này là con số huyền diệu,
là con số căn bản nhất.
Hơn nữa: Thầy lập PCT Cửu Trùng Đài trước rồi mới lập PCT Hiệp Thiên Đài
sau, tức là mở Thể pháp trước rồi mở Bí pháp sau. Tất cả đều đi vào nhất quán.
Lý Đạo nhiệm mầu là thế !
Pháp Chánh Truyền tức là cơ quan truyền Chánh Pháp thì do quyền năng của
Thượng Đế giáng Cơ lập thành. Song song với thời gian này Đức Chí-Tôn dạy nhơn
sanh lập Luật để tu, tức là Tân Luật. Như vậy thì Tân Luật này uyển chuyển hơn,
nghĩa là có thể thay đổi tùy theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh.
Nếu Tân Luật là Âm, thì Pháp Chánh Truyền là Dương. Âm Dương tương hiệp thì
từ đó mới biến hóa và mãi mãi trường tồn. Đạo Cao Đài thất ức niên là vậy.
Đấy là chủ nghĩa của nền Đại Đạo này thực thi phép Trời – Người đồng trị:
Người trị xác, Trời trị hồn. cái lý Âm Dương luôn đứng làm nền tảng dưới mọi hình
thức: Lễ nghi, Giáo lý, giáo pháp không đâu là không có. Ấy do câu “Nhứt Âm nhứt
Dương chi vị đạo” (một âm một Dương ấy là Đạo)
- LẬP HỘI-THÁNH
Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gồm ba Đài: Hiệp-Thiên, Cửu Trùng và Bát
Quái.
“Thể Ðạo của Chí Tôn cũng phải nương
theo chữ HÒA mới toan thành lập, Chí Tôn định thành Hội Thánh, đặng thay thế
hình thể của Người, thì cũng tùng theo phép
Tạo Hóa cá nhân mà gây nên ảnh tượng:
- Cửu Trùng Ðài là thi hài, ấy là TINH.
- Hiệp Thiên Ðài
là chơn thần, ấy
là KHÍ.
- Bát Quái Ðài là linh hồn, ấy là THẦN.
Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Ðạo cho đặng. Nếu có một
quyền hành nào tại thế nầy mà làm cho thân thể Chí Tôn phải chia phui manh mún
ra đặng, thì là Ðạo ta là giả Ðạo, tất nó phải tiêu diệt trong một lúc ngắn ngủi
chi đây.
Còn như quả là Chí Tôn vì thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập
Ðạo đặng giải thoát cho chúng sanh, thì những mưu chước của tà quyền ngăn cản
bước Ðạo của Thầy khó mong nghịch mạng
với Chí Tôn, ắt là không mong bền vững” (PCT).
Hai Đài Hiệp-Thiên và Cửu Trùng thuộc hữu vi, dưới quyền Chưởng quản của
Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Âm Dương tương đắc, tương điều hòa nhau. Riêng Bát Quái
Đài thuộc vô vi, dưới quyền Đức Chí-Tôn Chưởng Quản, gồm các Đấng Trọn lành (biểu
tượng phần trên nóc Tòa Thánh từ Tam Thế Phật đến tượng Đức Di Lạc Vương Phật
trên nóc Phi Tưởng Đài) cũng hoàn thành số 3 tam tài
A - Hội-Thánh Cửu Trùng
Đài
Lần nầy Thầy chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập
Nhị hiền, Tam Thiên Đồ Đệ.
Thầy dạy: “Giáo-Tông là Anh Cả các con” (PCT)
Chú giải: “Giáo Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại
thế, thì Anh Cả nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay
là nhỏ tuổi, quyền Thiêng Liêng đã định vậy.
Tuy trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: “Cửu Trùng Ðài” và “Hiệp
Thiên Ðài” mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là em của Giáo
Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ phần Thiêng
Liêng thì đồng vị.”
Thầy mở Đạo kỳ này chọn: nhứt Phật, Tam Tiên, đó là hàng Tiên-vị. Cái siêu
tuyệt của Đạo Cao-Đài ở chỗ là quyền-hành Giáo Tông so với Giáo Hoàng của Tòa
Thánh Vatican (La Mã) nhưng nhơn sanh chỉ tôn xưng Ngài là “Anh Cả”. Tiếng Anh
Cả này tức là “Quyền Huynh thế ngôn” hay là “Quyền Huynh thế phụ” mà thôi. Nghĩa
là nền Đại Đạo này là một đại gia đình Tôn giáo. Chữ Huynh 兄 là ANH tự nó đã nói lên: Anh là người chỉ dùng miệng (khẩu 口) trên, dưới là bộ nhân 儿 là người chỉ để khuyên dạy
em mà thôi, chứ không được hiếp đáp hành hạ. Bởi “Giáo-Tông là Anh Cả các con”. Suốt hệ thống tổ chức Cửu Trùng Đài có tính
nhất quán như thế:
1 - Hội-Thánh Cửu Trùng
Đài Nam phái gồm:
- 1 Phẩm Giáo Tông (Nhứt Phật) Lãnh đạo tối cao toàn Đạo có phận-sự dìu dắt Đạo-hữu trong đường
Đạo và đường Đời. Pháp Chánh Truyền qui định:
“Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con
trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần
hồn. Nó đặng phép thông-công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên thế-giái, Lục
thập thất Địa cầu và Thập điện Diêm-cung đặng cầu rỗi cho các con” (PCT)
- 3 Chưởng Pháp (Tam Tiên) Lãnh nhiệm vụ nghiên cứu Luật Pháp Đạo trước khi ban hành cho
toàn Đạo.
- 3 Đầu Sư (Tam Tiên): Cầm quyền Chánh Trị Đạo ban hành Luật Pháp Đạo.
- 36 Phối Sư (Tam Thập lục Thánh): Mỗi phái 12 vị. Trong số
này có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới
quyền ba vị Đầu Sư cai trị Đạo.
- 72 Giáo Sư (Thất thập nhị Hiền): Mỗi phái 24 vị.
Có phận sự dạy dỗ Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Được quyền dâng
sớ cầu nài về Luật Lệ làm hại Nhơn Sanh hay là cầu xin chế giảm Luật lệ ấy.
- 3.000 Giáo Hữu (Tam thiên Đồ đệ): Chia đều mỗi phái 1.000, chẳng nên tăng thêm hay là giảm
bớt. Lãnh phận sự phổ thông Chơn Đạo.
- Lễ Sanh: Không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai
đàn cho mỗi Tín Đồ.
Nam Phái chia làm 3 phái: Phái Thái (màu vàng), Phái Thượng (màu xanh da trời),
Phái Ngọc (màu đỏ). Như vậy các bậc phẩm gồm có: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối
Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp với các con số chia đều nhau, lấy số 3 làm ước số. Trừ
Giáo Tông có một.mà thôi. Tức nhiên dù hiện tại hay mãi mãi về sau cũng vậy:
GIÁO TÔNG CHỈ CÓ MỘT
Vì là người thay mặt cho Đức Chí-Tôn, chữ
“thay mặt” phải là một người chứ không thể nhiều người được !. Ông Trời
chỉ có một, người thay mặt chỉ có một. Không thể nào có ông Trời nơi này, ông
Trời nơi khác. Cũng như mặt Trời chỉ có MỘT mà thôi vậy.
Tuy nhiên lý đạo cao siêu mầu nhiệm quá !
Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa nhơn sanh, là môi-trường học-hỏi, tiến-hóa
theo ba bực, mỗi bực có ba phẩm-cấp. Như trên đã nói là hàng Tiên-vị tượng-trưng
bằng 7 cái Ngai, mà Ngai của Giáo-Tông ở giữa, đặt trên hết và lớn hơn hết. Các
phẩm cấp lần-lượt là Tiên-vị, Thánh vị rồi đến Thần-vị. Vậy trường Đại-Đạo theo
như Đức Hộ-Pháp dạy:
- “Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường
công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con
cái của Ngài giải-thoát.”
2 - Trường hợp ngoại lệ:
- Thực tế ngôi Giáo Tông có ba: Hình vẽ sau đây biểu hiện rõ 7 phẩm tước của
hàng Tiên vị, Giáo Tông vẫn làm Chủ Cửu-Trùng-Đài. Đồ hình có 7 vòng tròn nhỏ
có đường kính bằng nhau. Một vòng giữa định cái tâm, 6 vòng xoay chung quanh là
vai trò của mỗi vị gọi là "Các hữu Thái cực" (mỗi người là một Thái cực).
Pháp chánh Truyền qui định ngôi Giáo Tông chỉ có một, nhưng thực tế có đến ba:
- Ban đầu Đức Chí-Tôn định phong phẩm Giáo
Tông cho Ông Ngô văn Chiêu, nhưng trong 10 ngày ông không vượt qua được
sự thử thách của Quỉ khảo, nên rớt, ông lập Chi phái Chiếu Minh Vô-vi rồi đến
Chiếu Minh Tam Thanh..nhưng công quả của Ông là làm nhịp cầu nối cho những người
hữu duyên là Thánh Thể Đức Chí-Tôn lần lượt đến với Đạo (Chiêu nghĩa là mời gọi)
- Đối với nền Đại Đạo hiện giờ thì Đức Lê văn Trung là Quyền Giáo Tông để
điều hành Hội-Thánh Cửu Trùng Đài hữu hình (Quyền tức là chưa chánh vị).
- Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh quyền hành Nhứt Trấn Oai
nghiêm, nay kiêm thêm chức
Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là Giáo Tông vô vi.
Xem như ba vị Giáo-Tông đứng vào ba đỉnh của Tam giác đều, nội tiếp trong vòng
tròn giữa."Một mà ba tuy ba cũng là một” phát xuất từ ý nghĩa “Đạo sanh nhứt,
nhứt sanh Nhị, Nhị sanh tam, Tam sanh vạn vật", một là số của Trời, ba
là số của Người. Vậy:
- Đức Lý tượng cho Thần .
- Đức Quyền Giáo Tông tượng cho Khí
- Ngài Ngô văn Chiêu tượng cho Tinh.
Lẽ huyền vi của Đạo thật mầu nhiệm vô cùng, từ hệ thống tổ chức đến các
nghi thức đều do theo luật Âm Dương biến hóa một cách chặc chẽ như một tấm lưới,
đúng là lưới Trời tuy thưa mà không lọt “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”
là vậy. Nếu không nói rằng đây là một niềm tự hào của một nền Đại Đạo
3 - Hành tàng của các
Giáo-Tông:
Pháp chánh Truyền dạy: “Giáo Tông chỉ có một” nhưng thực tế thì có đến ba Giáo
Tông:
1/ - Ông Ngô văn Chiêu: Đức Hộ-Pháp xác nhận:
“Đi thâu Thập-Nhị Thời-quân rồi, Đức
Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người
thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm
Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức
Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ
hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo Tông. Trong thời-gian mười ngày,
chỉ có mười ngày mà thôi ! Chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào Ông Ngô văn Chiêu
không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô-văn Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ,
ở tại Hà-Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ
đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn
xưng là “CAO ĐÀI
TIÊN ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT”.
Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926)
Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ:
Bao năm dạy-dỗ quá dày
công (1)
Lời hứa năm xưa gắng giữ
lòng.
Siêu đọa đôi đường tua chọn
lấy!
Lơi chơn một bước sẽ hoàn không!
( Cao Đài)
(1) có bản chép “Ba năm” thì hợp với thời gian trường trai mà Thầy đến dạy
dỗ ông.
2/ - Đức Lý Giáo Tông ban “Quyền Giáo Tông” cho Ngài
Thượng Trung Nhựt
Theo Đạo Nghị Định thứ hai. Điều thứ nhứt:
“Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư
thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo-Tông về phần xác, còn phần Thiêng
Liêng có Lão.
Làm tại Toà Thánh Tây Ninh, ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ. Ký tên Hộ-Pháp
Phạm Công Tắc và Giáo Tông Lý Thái Bạch”.
Đức Hộ Pháp xác nhận: “Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới
xuất-hiện Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài đó vậy. Sự vinh-dự này chính Đức Quyền
Giáo-Tông đã được hưởng một cách xứng đáng. Bởi vì chính mình Đức Chí-Tôn đến
thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội-Thánh. Ngài đi đến đâu Hộ-Pháp cùng Đức Cao
Thượng-Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ, thâu được bao nhiêu thì
giao cho Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu-khẩn
Đức Chí-Tôn thâu Môn đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để Phổ-độ chúng-sanh, nhứt
là trước ngày mở Đạo, Đức Chí-Tôn sai hết các Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài tức Thập-Nhị
Thời Quân đi phò-loan cùng hết, không có chỗ nào không có Cơ Bút. Người thì xuống
miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn-đệ xong, Thầy dạy chúng
tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng không có một miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo"
3/ - Thầy giao Đức Lý Thái
Bạch kiêm nhiệm
Giáo Tông Đại-Đạo:
Từ khi Thầy định ban chức Giáo Tông cho Ngài Ngô văn Chiêu, thì Quỉ Vương
xin thử thách ông Chiêu. Ông Chiêu không vượt qua nỗi các thử thách này nên
đành chịu mất ngôi Giáo Tông. Kể từ đó ngôi Giáo Tông để trống. Nay cần phải có
phẩm vị Giáo Tông để điều hành nền Đạo nên Đức Chí Tôn giao quyền cho Đức Lý
Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để điều
khiển nền Đạo này. Do Thánh ngôn sau: Ðại Ðàn Chợ Lớn [tại Nhà Ngài Lê văn
Trung]
Ngày 23-9-Bính Dần (dl: 29-10-1926)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phương
Hỉ chư Môn đệ, chư Nhu, chư Ái nữ. Các con nghe:
“Thầy buộc phải nói rõ cho các con đừng
lầm mà trách Thầy. Cha hiền chả biết hành hạ con cái bao giờ. Thầy đã đến mà
dìu dắt từ đứa thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi. Thầy thấy các con bị phép thử
thất Ba Trấn lập thành thì đã hiểu nhiều đứa bị hành. Thầy ngậm đau nuốt thảm
ngồi nhìn. Thầy chẳng để thử thất, Ba Trấn trách Thầy vì yêu mến quá lẽ mà làm
mất hết công bình, nhứt là Lý Thái Bạch kêu nài hơn hết.
Dầu Quan Âm và Quan Thánh xin cũng chẳng đặng. Nhứt là buổi thử thất ấy, lại
nhằm ngày khai Thánh Thất thì các con đủ hiểu
là hại dường nào, song phải dằn lòng
chịu vậy. Các con ngã thì tại nơi Thầy. Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế
nào cũng chẳng chịu. Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn các
con không đọc, lời Thầy nói cũng như không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng
thế ấy.
Vậy từ đây, quyền thưởng
phạt đã giao vào tay Lý Thái Bạch. Các con liệu mình mà cầu rỗi nơi Người. Thầy
dạy dỗ, các con không nghe, đợi có hình phạt thì các con chịu lấy.
(Ð.Q... thượng sớ). Cười.!...(Đạo
Quang)
Ð.Q: Cả môn đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai. Kẻ nào cưu tâm chia
phe phân phái là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à!
Tái cầu:
LÝ THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo hữu. Thiên phong bình thân.
Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các Đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền Đạo cho vững vàng, hiệp
ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì
đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn
đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.
Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một
mối Đạo cũng chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng
phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy. Thưởng
phạt tuy chẳng phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở
thế nào bằng và một sự buồn bã nào sánh đặng. Dầu có ăn năn hối hận mấy kiếp,
ngày giờ cũng đã qua rồi. Ngôi Cực Lạc vẫn có người choán hết. Phần nhiều các Đạo
hữu dày công mà xây đắp nền Đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế.
Công đã nhiều mà bước tới nữa, dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng.
Than thay! Tiếc thay!
Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng bươn chải
cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng đỉnh chung, nếu Thầy chẳng Đại từ Đại
bi thì công quả đã chảy theo dòng nước. Từ đây Bần Đạo phải để ý dìu dắt bước
đường cho các Đạo Hữu, phải gắng công
thêm nữa cho hiệp với cơ Trời. Ai hữu
phước thì địa vị đặng cao thêm, ai vô phần thì bị đọa Tam pháp. Phước phần cũng
khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách nơi Bần Đạo.Bần Đạo xin chào các Đạo
hữu. Bần Đạo kiếu”.
Xem thế:
Từ nay: ngày 29-10-1926, Ðức Chí Tôn giao quyền thưởng phạt Chức sắc cho Ðức
Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Phép thử thất Ba Trấn lập thành, tức là Cách thử thất do Tam Trấn Oai
Nghiêm lập ra để chọn lọc Chức sắc làm cho giá trị thêm cao. Thử thất là bày ra
cuộc thi khả năng đạo đức, thử xem ai chịu nỗi thì đậu, ai không chịu nỗi thì rớt..Ba
Trấn là Tam Trấn gồm: Lý Thái Bạch, Quan Âm Bồ Tát, Quan Thánh Ðế Quân.
Ð.Q. là Ngài Trần Ðạo
Quang, Quyền Thượng Chưởng Pháp. Sau rồi Ngài cũng bỏ Đạo
lập Chi Phái.
Ðọa Tam Pháp là nếu “tội phạm Thiên điều” thì bị đọa Tam đồ bất năng thoát
tục. Nếu phạm các tội nặng khác như thập ác, ngũ nghịch thì bị đọa vào ba đường
khổ trong Lục đạo luân hồi. Ba đường khổ nầy theo Phật giáo là: Ðịa ngục, Ngạ
quỉ, Súc sanh.
Nhân sanh niệm danh Ngài là: “Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại-Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ”.
Như vậy Giáo Tông có 3 người tức nhiên
hiệp đủ.
TINH- KHÍ –THẦN rồi.
- Ông Ngô văn Chiêu là TINH
- Ông Lê văn Trung thuộc về KHÍ
- Đức Lý thuộc về THẦN
“Ba mà một, một mà ba là vậy”.
4 - Đức Quyền Giáo-Tông
thi-hành
Thể-pháp Đại-Đạo
Thế nên, trong buổi Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này: Đức Quyền Giáo-Tông có bổn-phận
“Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng”Quyển Thiên-Thơ Ngài đã nắm trọn vào tay.
Vạn sự khởi đầu nan là thế! Nhưng sự kiên-nhẫn đã giúp cho Ngài thành công
là thế ! Sau cùng, Ngài đã lập vị một cách vẻ-vang, một cách xứng đáng, tám năm
tròn, không dư không thiếu một ngày. Phải chăng Ngài đã thực hiện trọn hai
Bát-Quái vào tay mà dìu-dắt nhơn-sanh trên con đường hành-thiện?
Hằng năm toàn Đạo đều ghi nhớ ngày 13-10 âm lịch là ngày qui Thiên của Đức
Ngài. Nếu tính:
Từ ngày 15-10-Bính Dần (dl: 19-11-1.926) là ngày Khai minh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ này, Ngài
hành Đạo suốt đến:
Ngày qui 13-10-Giáp Tuất (dl: 19-11-1.934) Tính ra là tám
năm tròn không dư không thiếu một ngày.
Đức Hộ-Pháp thường nhắc-nhớ
đến:
“Cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái
ngôi Giáo Tông-Đường của Ngài ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ để
nơi đất nước Việt-Nam này một cái báu-vật quí-giá vô cùng. Từ thử tới giờ chưa
hề có. Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo-Hoàng Saint Pierre thế
nào, thì nay Bần-Đạo có lẽ nói và có thể mơ-ước rằng cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt
lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”
Tại sao Thầy giảm quyền của
GIÁO TÔNG?
Ðây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của
Giáo Tông.
Hộ Pháp hỏi: “Thưa Thầy theo như luật lệ Thánh Giáo Gia Tô Thầy truyền tại
thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương
quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày
nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người
không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng ?"
Thầy đáp: "Cười! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể
mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai
Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn
cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt. Hơn nữa, cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng
vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho
các con.
Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại
của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không
cho một người nhứt thống.
Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền
chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì
nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.
5 - Người Nữ là Chức sắc
và được sự
bình quyền, bình đẳng
trong cửa Đạo
* Là Chức sắc: Nữ phái không chia sắc phái và có Đạo phục màu trắng. Quyền hành Nữ Chức
sắc Cửu Trùng-Đài cũng y như Nam Phái, song chỉ trông coi phái Nữ mà thôi. Chức
Sắc Nữ Phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh, quyền hành y như Nam, nhưng
tất cả tùng lịnh của Giáo Tông và Hộ-Pháp. Nữ chức sắc thì số lượng vô hạn định.
Riêng về Nữ Đầu sư (1 vị) Nữ chánh Phối sư (1vị).
Đây là trường hợp hi hữu từ xưa đến giờ, là Nữ phái được tham dự vào việc
tu hành: bình đẳng, bình quyền với Nam phái. Nhưng khi hành sự thì Nam chánh, Nữ
phó, trong một trật tự nghiêm trang.
Thật ra trên thế giới hiện giờ Nữ phái vẫn còn biểu tình đòi hỏi sự bình
quyền, bình đẳng giữa Nam - Nữ. Có nhiều nước vẫn còn nạn kỳ thị này nọ; vẫn
còn nạn bán nô lệ và coi nhẹ Nữ giới, nhiều tục lệ xem ra kém văn minh vô cùng.
Ngay trong đất nước Việt Nam này một số người chưa biết Đạo vẫn còn một ít gia
đình đối xử tệ bạc với Nữ phái, tuy nhiên con số này vẫn rất nhỏ.
Nhưng với nền Đại Đạo này Đức Chí-Tôn mở Đạo là ban cho Nữ phái một sự bình
quyền, bình đẳng thật sự. Chính đây là thể hiện “Cơ Đại Ân Xá” lần ba của Chí
Tôn mà Thầy đã cho biết:
"Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ lầm tưởng là phân biệt.
Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều.”
Hỏi: Vì sao từ xưa Nữ phái không được tu hành, không được học hỏi, không có
trí thức, không được tiếp xúc với bên ngoài, thậm chí muốn tu phải cải Nam
trang, vậy thì làm sao có được “các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều” ?
- Ấy là nhờ huấn ngôn của Mẹ đã truyền dạy từ lúc còn thơ: Nữ công, nữ hạnh,
tức là Tứ đức Tam tùng; Ngay từ bé người con gái đã được rèn luyện trong cái
khuôn sáo Nho phong đẹp đẽ ấy, dù
không tu mà đã
thực sự tu sửa tánh tình, tu tâm dưỡng tánh. Ra lễ vào phép đoan trang. Cái nền
luân lý tốt đẹp ấy theo suốt cuộc đời người con gái, cho đến khi làm vợ, làm mẹ,
làm dâu thì đã có một tinh thần Phụng sự cao, thể hiện một nếp sống cộng đồng.
Những việc này người Nữ đã dọn đường để đi vào thế giới đại đồng trước nhứt.
Ngày nay người Nữ đã thuần thục nếp sống Lễ giáo. Sở dĩ như vậy mới có được người
vợ tốt, người mẹ hiền, tạo nên những người con tài ba, đạo đức hầu phụng sự cho
quốc gia, xã hội và cả đạo pháp nữa.
Xưa nay hầu hết những người con mồ côi cha thường nên danh phận hơn là con
mồ côi mẹ. Điển hình là Đức Quyền Giáo Tông nên người là do bàn tay của người Mẹ,
ông mồ côi cha lúc hai, ba tuổi. Đức Thượng Sanh cũng nhờ nơi Hiền mẫu mà cả
gia đình đều là tay rường cột của Đạo (Mẹ là Nữ Đầu sư Hương Lự, anh cả là Cao
Tiếp Đạo- Hiệp Thiên Đài, chị thứ ba là Giáo Sư Hương Cường (CTĐ), người thứ tư
là Ngài- Thượng sanh HTĐ).
Nhưng hầu như người Nữ lúc nào cũng bị một sự áp bức, bất công của một tục
lệ khắc khe luôn xem nhẹ, trong cái thuyết “Nam trọng nữ khinh”. Tuy vậy mà họ
đã vươn lên, tức nhiên là họ đã tu Nhơn-đạo một cách rất mực, chính chắn, đoan
trang. Đến khi thoát xác lìa đời thì gần ngôi Tiên phẩm Phật, ấy là xem như đã
bước qua việc tu Thiên Đạo rồi vậy. Đúng với câu: “Dục tu Thiên đạo, tiên tu
Nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu Thiên đạo viễn hỉ !” nghĩa là muốn tu Thiên Đạo thì
trước phải tu Nhơn đạo, nhơn đạo không tu thì Thiên đạo vẫn xa vời. Có câu Nhơn
đạo rành thì Thiên đạo thành. Câu này sẽ đúng ngàn đời, vì có nhiều người đi tu
là để trốn trách trách nhiệm đối với gia đình, hoặc là để ẩn dương nương Phật.
Hiện nay: các bậc phẩm của Nữ phái bao gồm: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối
Sư, Đầu Sư (không có phẩm Chưởng Pháp và Giáo Tông). Bấy nhiêu cũng đủ ngôi
Tiên phẩm Phật dành cho người tu hành chân chính, có Tháp dành cho các bậc Nữ Đầu
sư một cách vinh diệu.
6 - Đức Quyền Giáo Tông
sáng lập Nữ Học Ðường
Khởi điểm là Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung thực hiện trước nhất, trong
chương trình mở trường Nữ học mà nhà báo Diệp văn Kỳ viết:
“Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường:
Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn ông, hãy còn phôi thai, cậu
nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự Thánh, tự Thần, xách đi cùng Lục tỉnh
đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh chàng du học đem về được cái bằng
cấp Tú Tài, thì đã hô lớn lên một cách rất vinh diệu, tự đắc rằng mình quên hết
tiếng An Nam; đương giữa buổi mà khắp cả cha mẹ trong nước đều công nhận rằng:
Cho con gái có nhiều ít học thức là một mối hại lớn cho gia đình, cho xã hội;
đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng Nữ học, xin lập trường Nữ học để dạy
bên gái bằng như bên trai, có phải là một việc quá bạo gan chăng ? Những người
đề xướng có phải là những bực tiên kiến chăng ?
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, như tuồng cũng cho việc
ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ của An-Nam, nên chi
tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho ra làm chi phí, mà chỉ
để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp của công chúng, cất lên được
mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy
đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong Nữ giới.Vậy mà nếu ai chịu khó lật
cuốn sổ lạc quyên năm nọ ra xem, thì sẽ thấy ở dưới mấy lời tuyên bố có tên của
ông Lê Văn Trung là người khởi xướng đứng kế phương danh Bà cụ Tổng-Ðốc Ðỗ-Hữu.
Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới chế độ chẳng phải khinh thường mà
đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên đây, thời tuy nó chưa phải là những
sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế cũng đủ gọi rằng khỏi mang tiếng “quì
quì, dạ dạ” là cái danh hiệu của phần đông trong mấy ông Hội Ðồng, từ xưa đến
nay, ở xứ này. Ðó là sự nghiệp”
7 - Phái nữ cũng đủ trí thức
tài ba như Nam:
Đặc biệt là giờ này giới nữ đã tham dự vào việc công, đủ các ngành nghề
trong xã hội, nào Bác sĩ, Kỹ sư, Phi công, nữ Tổng thống, Nữ thủ Tướng..tài ba
lỗi lạc không thua kém Nam phái… bấy nhiêu đủ chứng tỏ rằng cái quan niệm cũ của
chế độ phong kiến đã lầm, một cái lầm thật vô cùng nguy hiểm. Người Nữ đã chịu
trong màn đêm u tối như vậy đã bao ngàn năm !
Từ một sự bất công do thiếu tình thương của gia đình dẫn đến nhiều sự bất
công của xã hội, tích lũy thành khối đau thương. Ngày nay Chí-Tôn mới đến mở ra
mối Đại Đạo này đã đưa TÌNH THƯƠNG thành LUẬT. Đó là Luật Yêu Thương mà Tam
Thánh đã ký Hòa-ước thứ ba với Đức Chí-Tôn phải thực thi hai điều: Bác Ái-Công
bình
Nhưng nhìn ra Thế giới chưa có sự Thương Yêu, mà khi nhân loại chưa Thương
yêu thì đừng phải dài công luận bàn điều chi thêm nữa, chỉ còn hai chữ NHÂN QỦA
đến với nhân loại trong buổi này mà thôi.
8 - Những ưu điểm của Đạo
Cao Đài so với
các Đạo khác trên Thế giới
1 - “Nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Đức Thượng Đế đến khai sáng nơi nước Việt-Nam
này, điều đặc biệt là Đức Thượng-Đế không mượn xác phàm của người Việt Nam để lập
Đạo Cao-Đài. Điều này khác biệt với các Tôn giáo trước kia như Phật giáo thì mượn
hình thể Sĩ-Đạt-Ta đến Giáo đạo, Thiên chúa Giáo thì mượn hình thể Đức Jésus.
Nay, Ngài chỉ dùng Thiên Nhãn (Con Mắt) làm biểu tượng Đấng Thượng Đế Chúa tể Càn
Khôn.
Tại sao mở Đạo Cao-Đài Đức
Chí-Tôn không giáng bằng xác thân, mà lại giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút?
a/- Mục-đích của Đạo Cao-Đài là tận-độ chúng sanh, độ 92 ức nguyên-nhân qui
hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần.
b/- Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng bằng xác thân mà chỉ giáng bằng
Huyền-diệu Cơ bút, là vì thời kỳ chuyển Đạo vô-vi hiệp Tam-thanh chấn-hưng Tam
giáo Phục Nhứt Ngũ Chi nên Đức Chí-Tôn
giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút mới
qui đặng cả Đại-Đồng Tam giáo.
c/- Đức Chí-Tôn làm Giáo-chủ Đại-Đạo
là Đấng vô hình, dùng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT dạy Đạo thì dân tộc nào cũng có thể học
trực tiếp với ông Thầy Trời được, nếu họ biết dùng phép “Thông-Thần-lực”. Thế
là sự bất đồng ngôn ngữ chẳng còn là một sự thắc mắc nữa.”
Bởi:
Nhứt kỳ và Nhị-kỳ Phổ-Độ: Phật, Tiên, Thánh, giáng linh Tam-giáo; nhân buổi
nhơn-loại chẳng hiệp đồng nên ba vị Giáo-chủ đã thọ sanh riêng địa-phận, nên
hai kỳ khai Đạo vừa qua chỉ Phổ-độ trở về cựu vị có 8 ức nguyên nhân (Phật độ 6 ức, Tiên độ 2 ức).
Còn buổi Hạ-nguơn Tam-Kỳ Phổ-Độ là thời-kỳ Ân xá tội-tình cho toàn cả chúng
sanh, lại nhơn buổi văn minh, nhơn-loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức cho
nên Đức Chí-Tôn dùng Huyền Cơ diệu bút,
giáng cơ khai Đạo, chủ-nghĩa là tận độ 92 ức nguyên-nhân qui nguyên vị.
2 - Chỉ lập thành Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp Thiên-Đài để thay thế hình
ảnh của Đức Thượng-Đế mà dìu độ chúng sanh, cũng như người Đạo Cao-Đài không bị
nghiêm cấm vào Chùa hoặc Nhà Thờ (như Hồi giáo chẳng hạn). Tuỳ theo trình độ tiến
hoá của nhân loại mà Đạo Cao Đài khai sáng trên đất nước Việt-Nam.
- Lại có Chức-sắc Nữ phái là đặc
ân và
khác biệt với các Tôn giáo trước
kia không bao giờ có Chức sắc Nữ phái, tức là Đức Thượng-Đế nâng đỡ phái Nữ
ngang hàng bình đẳng với phái Nam”.
Đạo Cao Đài tôn thờ Đức Phật
Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nhì, còn NGÔI
DƯƠNG là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Ngôi Thứ Nhứt. Đây là một Triết lý
hết sức mới mẻ và đúng đắn mà từ trước tới nay các Tôn giáo chưa từng có. Họ chỉ
biết thờ Ngôi Dương mà thôi.
Đặc biệt: Niệm danh Thầy để
được giải thoát…
Đức Hộ-Pháp giải trong Con đường Thiêng-liêng Hằng Sống: “Hỏi thử tội tình
của chúng ta đã làm trong kiếp sanh, Đức Chí-Tôn để trong phương-pháp nói rằng
Tội tình các con đầy dẫy nơi mặt địa cầu này mà đến giờ chót, các con biết kêu
danh Thầy thì Thầy đến cứu, Thầy đem bí-pháp giải thoát để trong tay các con đặng
các con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là “Nam-Mô Cao-Ðài Tiên
Ông Ðại Bồ Tát Ma-Ha-Tát”.
Đề VIII - Tâm
lý học. Tâm lý con người
- Trong thời bình trị ra
sao? Của kẻ phú quí ra sao?
- Nhứt là phương diện
Tín-ngưỡng, trình độ nhơn loại hiện giờ ra sao ? Ảnh hưởng phong trào vật chất
do khoa học gây nên thế cuộc nào ? Chỉ chỗ sai lầm qua tư tưởng hiện tại.
- Làm cách nào đem con người
lại đường Đạo (Sưu tầm các phương pháp hạnh phúc cứu thế)
Muốn thấu triệt và giải được các vấn đề trên một cách thỏa đáng, có thể chỉ
nên thu vào hai chữ NHÂN QUẢ. Sau đó sẽ luận về Sự Yêu thương. Bởi vì:
“Chân lý Giải thoát có thể tìm thấy trong các Tôn Giáo: Lão Giáo, Phật
giáo, Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo khi thể hiện SỰ THƯƠNG YÊU”.
Nhưng tất cả đều thấy nhân loại hiện giờ thiếu chữ THƯƠNG YÊU. Thiếu vắng một cách trầm trọng.
Những sự kiện này đầy dẫy trên thế giới, ngay cả những nước gọi là văn minh
vật chất đã đứng vào bậc nhất cũng chịu nạn khủng bố, như nước Mỹ. Các nước này
đã hứng chịu nạn sóng Thần một cách tồi tệ nhất lịch sử. Mà ngay tình đoàn kết
giữa con người cũng không có. Họ vẫn đánh nhau giữa bàn Hội nghị. Những nạn biểu
tình, xuống đường. Ỷ mạnh hiếp yếu, đem quân sát phạt nước nhỏ vì mục đích tham
vọng số mỏ dầu hỏa của Irak mà muốn tiêu diệt cả một chế độ Sadam Hussen. Sự thật
ngay cả Iran cũng ngấp nghé triệt tiêu…Hỏi tình người ở đâu?
- Hầu như đã khô cạn hết rồi. Qua hai bài thơ xướng Họa giữa Đức Hộ-Pháp và
Bát Nương Diêu-Trì-Cung có câu này cho thấy rõ lòng người của thời buổi nay là
thế:
“Năm sông đua chảy năm
sông cạn,
“Bảy núi nổi tan bảy núi dời”
Nếu nói rằng sông cạn núi mòn thì ngày nay đã hẳn, nhưng tiếc vì năm sông
trong con người tức là Ngũ Luân, Ngũ Thường dường như cũng cạn rồi. Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đã mất đi chỗ đứng cao đẹp của thuở nào. Trong nhà nếu Cha
không từ làm sao có con hiếu “Phụ từ tử hiểu”. Rồi quân bất minh thần bất
trung. “Quân minh thần trung” cũng đã lệch thước nghiêng đòn rồi. Còn tình phu
phụ thì thay đổi dễ dàng như thay xiêm đổi áo. Phong dời tục đổi. Những gì gọi
là cao quí ngày nào, giờ đây hầu như bán rẻ hết rồi. Lâu nay câu “Tiên học Lễ hậu
học văn” đã nằm yên trong xó tối của cuộc đời, giờ này mới được dựng lên khi đó
biết bao Thầy Cô giáo đã từng vào Bệnh viện, giờ đây mới xuất hiện để làm lá
bùa trừ bọn học trò phản thầy hại bạn, nhưng nhà trường vẫn từng hốt hoảng trước
làn sóng bạo hành. Cái dịch bệnh này còn kinh khủng hơn dịch tả, dịch cúm là khác,
vì không còn thuốc chữa.
Bảy núi dời tức nhiên Thất tình cũng bị chênh lệch đi nhiều: Hỉ, Ái, Lạc, Dục,
Ai, Ố, Nộ đã biến thiên theo sóng Thần cao hạ, theo bão giông mà chữ “yêu” bấy
giờ là yêu vội sống cuồng. Con nít còn ôm bình sữa mà cũng biết thẹn thuồng trước
trò trai gái. 14 tuổi đã biết làm một sản phụ. Học sinh tới trường trai gái ngồi
chung ban đầu mắc cỡ, sau dẫn đến chỗ vắng mà trao đổi “tình yêu đầu đời” khi
hãy còn răng sữa. Ôi cái buổi Hạ nguơn sao lắm trò đến thế ! Học sinh đến trường
cầm giấy đến phòng tư vấn phá thai, nạo thai nhiều hơn bài học.
Có lần một người bạn nước ngoài về nói với tôi như vầy: Tại sao người Việt
Nam mình mỗi điều gì cũng phải cầu nguyện, việc gì cũng phải coi ngày, nhưng rồi
khổ vẫn hoàn khổ, có được gì hơn ? Còn các nước văn minh như Mỹ chẳng hạn sống
một cuộc sống hết sức tự do, tự tại.?
Câu trả lời của tôi lúc ấy có thể còn nhiều thiếu sót, tôi chỉ nói rằng:
cái phong hóa cao đẹp của Việt Nam nhiều đời. Sống biết tôn trọng người lớn kẻ
nhỏ, tuy nhiên còn phải kỉnh trọng cái Nho phong của tiền nhân để lại, tức là
cái văn minh tinh thần của dân tộc vậy. Nếu không đi con đường Trung dung
(Trung dung Khổng Thánh chỉ rành) này mà
làm lệch cán cân Nhân Nghĩa thì phải chịu luật trả vay nặng nề lắm. Tuy vậy Việt
Nam đã phải chịu trả quả rồi, nhưng vì nhờ đạo đức luân thường biết giữ, nên trả
từ từ, giống như trả góp vậy. Còn các nước Tây phương đi vào thái quá, đến khi
trả phải trả một lần cả vốn lẫn lời e không chịu nỗi. Ngày nay mới chứng minh sự
thật về cái “văn minh khoa học” văn minh vật chất cao độ..
Nhìn bạn mình ngày nay đã thi vào quốc tịch Mỹ, Anh, Pháp, thật hết sức huy
hoàng rạng rỡ biết bao !. Về lại quê hương sao mà quê mùa dốt nát thế, không chịu
nỗi mùi cá kho, nước uống của quê hương, mà phải ôm kè kè chai nước riêng giải
khát, không ăn được cơm Việt Nam đạm bạc. Sao mà thiếu vệ sinh đến thế. Anh chị
nào cũng đổi tên Mỹ, tên Pháp. Hãnh diện hay đáng thương ? Có ai thương hại
giùm một kẻ đã vong bản, một kẻ đã mất gốc
không ? Chối từ tổ quốc, chối cả cái tên cúng cơm mà mẹ cha đã đặt ngày
nào. Họ quên đi rồi cái nôi ngày
cũ.
Thế nên trước tiên nên đề cập về:
Luật nhơn quả để răn
Thánh-đức,
Cửa luân-hồi nhắc bực
cao-siêu.
Dầu chăng phải mực
Thiên-điều,
Cũng quyền tự chủ dắt-dìu
thiên-lương.
1 - LUẬT NHÂN QUẢ
Đức Hộ-pháp thuyết: Đền Thánh đêm
30-5-Nhâm Thìn (1952) rằng: Đêm nay Bần Đạo giảng về Luật nhân quả. Hai chữ
nhân quả là danh từ mà Tiên Nho đã đề: Chữ Nhân 因 theo nghĩa chánh của nó là chỉnh lại hay dò lại. Nối luôn theo chữ quả 果 thì chữ nhân ấy đồng khuôn chữ đại. Quả là chắc chắn mạnh mẽ, chúng ta thường
hay dùng tiếng quả quyết lắm, dùng chữ quả quyết hay là mạnh mẽ chẳng hạn. Chữ
nhân quả dịch ra nghĩa lý tiếng Phạn là tiếng Karma, thiệt tiếng Phạn có nghĩa
là làm cái chi phải trả cái nấy, phải bồi thường, ta có thể hiểu nó là khuôn luật
“vay trả” đó vậy.
Khuôn luật ấy huyền bí vô cùng, tại liên hệ với chữ Karma. Quyền Chí Tôn tiếng
Phạn đề “Boudha, Shama, Saya”. Tức nhiên câu niệm của chúng ta: Phật- Pháp-
Tăng. Tiếng Karma liên hệ với Pháp như thế ấy, có định luật thiêng liêng của
nó, vì không thể lấy trí khôn ngoan của chúng ta mà suy đoán luận biện cho đặng.
Chúng ta thấy cũng như cả toàn thể từ xưa đến giờ dầu cho bực Thánh nhân Hiền
triết ta để con mắt quan sát tiềm tàng thấy khuôn luật ấy nó vô hình mà nó quả
quyết làm sao, chắc chắn làm sao. Người ta kiếm tìm khuôn luật ấy thì thấy rằng:
Có một quyền năng vô đối là quyền năng của Đức Chí Tôn, tức nhiên Đấng tự hữu
kia để trong tay Đấng đó mới có thể cầm quyền về khuôn luật đó mà thôi.
Bởi sự quan sát ta thấy luật nhơn quả ấy về cá nhân cũng thế, gia đình cũng
thế, xã hội cũng thế, mà nói chung toàn thể nhân quần trên mặt địa cầu này cũng
thế. Nhân quả ấy, người ta đã tìm hiểu thấu đáo, hễ càng tìm tòi càng thấy kinh
khủng làm sao:
Tỉ như một gia đình, trong một cơ quan tạo dựng gia đình ấy, nó do nơi ác
hành tạo dựng, thì gia đình ấy chẳng hề tồn tại. Một xã hội nào, một quốc dân
nào do nơi ác-hành mà tạo nghiệp, thì xã hội đó, quốc dân đó không bao giờ bền
vững. Nếu chúng ta không nói quả quyết rằng nó sẽ bị tiêu diệt mà chớ. Nhơn quần
và cả nhơn loại giờ phút này chúng ta thấy quả quyết làm sao không thể gì luận
được.
Luận về nhơn quả cá nhân ta hay một đại nghiệp ta nói: Tỉ như Tần Thủy
Hoàng, muốn đem văn hiến của Ấn thay thế văn hiến Nho dám đang tay khi Nho, đốt
sách chôn học trò, tưởng thi hành thủ đoạn ấy tiêu diệt nhà Nho được. Chúng ta
thấy nhà Nho vẫn còn, còn cơ nghiệp của Tần đã tiêu diệt. Bần Đạo không nói cả
cơ nghiệp của Tần mà thôi, mà cả cá nhân của Tần Thủy Hoàng cũng vậy. Ngài Sở
Bá Vương vô lấy Ly Sơn rồi biết Tần Thủy Hoàng chôn nhiều vật báu, khi đào lên
thì của báu ấy đã tiêu hủy. Chúng ta tưởng coi có một đại cơ nghiệp của nhà Hớn,
Hớn Bái Công đã lấy tình đức lập nghiệp, lấy Nhơn Nghĩa làm căn bản tới 800
năm, khi đến nạn diệt tận rồi cũng còn Hớn Hiến Đế nối nghiệp, qua Hớn Chiêu Liệt
tức nhiên Lưu Bị biết khí số nhà Hớn đã mãn, muốn kiếm phương kéo dài mảy mún,
tức nhiên để lại cho Hậu Chúa một đôi giáp quý vô cùng, Ngài nói với Hậu Chúa tức
nhiên Á Đẩu rằng: “Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi, vật dĩ thiện tiêu nhi bất vi”,
nghĩa là đừng vì ác nhỏ mà làm và cũng đừng vì thiện nhỏ mà không làm. Về cá
nhân hay xã hội đều đứng trong khuôn luật ấy cả.
Bây giờ nói về Tôn-giáo, thì Đức Phật Thích Ca cầm Bình Bát Vu đi xin ăn đặng
nuôi kẻ nghèo nàn đói khó nơi “Cấp cô độc viên” mà cái Đạo của Ngài tới 2.500
năm vẫn còn bền vững. Nó vẫn giàu có, cả văn minh Phật Giáo đã truyền bá toàn
cõi Á Đông này, nếu chúng ta thấy của cải vô biên vô tận của nó, chúng ta không
thể gì tính toán được (vô toán).
Thêm nữa Đấng chịu khổ nhục đi ăn xin từ bữa, chịu hèn hạ ấy lại còn bị
chúng bắt đóng đinh trên cây Thập Tự Giá “Lên án là kẻ côn đồ” kẻ hung bạo, cướp
bóc. Đấng ấy đã tạo Đạo của Ngài. Giờ phút này nếu cả toàn mặt địa cầu này cũng
chưa có ai sang cả cho bằng. Nhơn quả của một người tạo nghiệp hay nhơn quả của
vị tạo Đạo; hai cái đó trọng yếu vô cùng không thể gì luận được.
Nãy giờ nói của người ta, bây giờ mình phải nói tới của mình. Đức Chí Tôn
nói với môn đệ của Ngài, Ngài lấy kẻ nghèo khó, hạng nhứt là Ngài đến với một
quốc dân hèn hạ, quốc dân còn bị lệ thuộc của người, làm tôi đòi thiên hạ, Ngài
lấy phần tử ấy làm Thánh Thể của Ngài mà tạo nền Chơn Giáo, Ngài lấy quốc dân
nô lệ trong giờ phút tạo nghiệp của Đạo. Cả con cái của Ngài tạo dựng nên hình
tướng của nó, không cướp bóc của ai, không cầu lụy ai cho mình mà làm cái nhân ấy
quý báu làm sao, lại nữa người tượng trưng lấy nó, cơ thể hữu hình là người chủ
quyền lo tạo dựng nó, thân phải hèn hạ truân chuyên, bị thiên hạ áp bức đè nén
hiếp đến nỗi thân của họ bị đồ lưu, tù tội, cái nhục nhã hèn hạ của họ, ngày
nay đem vô luật nhân quả thế nào? Thì toàn thể con cái của Đức Chí Tôn luận lại
thì hiểu”.
Đức Hộ-Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh Tòa Thánh Tây ninh, ngày 15-06-Mậu-Tý
(dl: 21-07-1948)
Hôm nay Bần Đạo giảng về Luật Nhân quả vay trả của nhân loại trong thời kỳ
Hạ nguơn hầu mãn bước sang thời kỳ Thượng nguơn Thánh Đức.
2 - LUẬT NHƠN-QỦA PHÁP
ĐỊNH (Loi Karmique)
Nhơn là cái khởi điểm. Quả là sự thành tựu. Sự nhân quả ấy luôn luôn đúng
trong mọi thời gian lẫn không gian, thế nên gọi là Luật, tức là Luật Nhân quả.
Dầu trong thiên hạ có người tin đến mức tuyệt đối, thì vẫn có nhân quả; hay chí
đến có những kẻ không tin trưởng điều gì cả, thì nhân quả vẫn xảy ra. Pháp định
là có trong luật pháp định quyết
Nhơn 因 nghĩa là ta đã có làm điều chi thì Quả 果 của nó trả lụng lại. Cái Luật Nhơn Quả của Phật Thích Ca nó trúng trong
chơn lý lạ thường, Đức Ngài cũng thế: Ngài cũng sống, Ngài đã chịu trong cái Luật
quả kiếp ấy luân chuyển từ vật hình dĩ chí cho tới Phật vị, cái quả kiếp của
Ngài nó phải chơn thật không thể tưởng tượng được, hễ bỏ nó ra không có cái triết
lý nào giải nghĩa kiếp sanh con người cho nó mực thước hết. Cái Luật Nhơn Quả ấy
nó là căn kiếp sống của ta.
Đại Từ Phụ đã làm chứng trong Bài Thơ của Ngài:
Đài Vân Quan Võ để Phong
Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc
cân.
Muôn phước ngàn lần không
sót một,
Bao nhiêu công quả bấy
nhiêu phần”.
Nói như thế đó, chính mình Đại Từ Phụ đã nói rằng:“Quả kiếp Nhơn quả của
con người, luật ấy hiển nhiên vẫn có thiệt đó vậy”.
Đức Hộ-Pháp nói như vầy: Hôm nay, Bần-Đạo giảng về “Luật nhân quả vay trả của
nhân lọai" trong thời kỳ Hạ nguơn hầu mãn bước sang thời kỳ Thượng-nguơn
Thánh-Đức. Các con ráng ẩn-nhẫn để Ông Trời hát từ màn cho các con coi; các con
trông cho đời mau tới, tới chừng tới các con khóc mẹ, khóc cha luôn. Bần-Đạo
nói thật cái quyền năng vô đối của Đức Chí-Tôn một nháy mắt không còn một sanh
mạng nơi quả địa cầu này, không cần một tích-tắc đồng hồ, những nhân nào quả ấy
trả cho rồi đặng lập đời Thánh-đức mà thôi. Một ngày kia Trung-Cộng và Căm-bốt
(Cambodge) chết không còn một con đỏ, bởi vì Cambodge nghe lời xúi giục của người
ta thành ra phải chết hết. Các con biết sau này sắc tộc, sắc tộc đánh nhau; Tôn
giáo, Tôn giáo đánh nhau. Đài-loan từ Hồng-Kông tản cư qua Việt-Nam trước, bởi
vậy người hành ác mà mình theo họ, mình ôm eo ếch họ rồi họ trật chân, sút tay,
họ té chết thì mình cũng chết theo họ mà thôi, thành ra người Miên (Campuchia)
còn có bao nhiêu giống bên Việt-Nam đó thôi, các con ráng thương giùm họ. Nói về
Trung-Cộng là đứa con cưng của Đức Chí Tôn, nên Đức Chí Tôn mới cho Lão-Tử, Khổng
Tử và Mạnh-Tử giáng trần dạy Đạo: làm lành lánh dữ, nhưng hiện nay Trung-Cộng
theo cái thế sắc thủ đắc nguyên tử, sức mạnh là trên hết, tất cả mộng làm bá chủ
hoàn cầu Các con nhớ rằng: dữ tận hiền thăng, mạnh thua yếu được, nhu-nhược trường
tồn “xỉ cương tắc chiết” nhơn-lọai trả quả với nhau, các con chịu cái nạn
chung, trả từ đời Hồng-bàng đến giờ. Tổ-phụ ta khi xưa cũng ác tâm lắm, ỷ mạnh
hiếp yếu, diệt chủng những nước yếu hèn nên phải chịu LỤÂT NHƠN QUẢ ngày nay. Bần Đạo lấy làm mừng cho nước Việt-Nam trả hết
món nợ tiền khiên mà Tổ-tiên chúng ta vay từ thuở bị nô lệ, nay không còn nô-lệ
nữa. Vậy thời oan trái đã trả xong. Các con để tâm suy nghĩ; ngó thấy ở dưới thế-gian
này ai mạnh cho bằng Tần Thủy-Hòang, Thành-Cát Tư Hãn? Có ai mưu sĩ cho bằng
Tào-Tháo ? Còn Đức Thích-Ca, Đức Chúa Jésus-Christ không có một tấc thép trong
tay để bảo vệ lấy thân mà làm bá chủ hòan cầu mới là lạ cho chớ ! Hành ác trả
ác, hành thiện trả lại thiện mà thôi, “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu”
(tuy lưới Trời lồng lộng mà chẳng lọt một mảy lông) không bao giờ sai chạy. Bần-Đạo
nói ra đây các con ráng mà nhớ: các con đừng có mộng làm giàu cho mắc công; các
con bây giờ sống trên nắp thùng nổ của bom nguyên tử, dù muốn dù không các con
phải chịu ăn bom nguyên-tử mà thôi, các con muốn trốn bom nguyên-tử phải chun
trong đám đậu nành mà trốn chớ không trốn đâu khỏi hết. Sau này nước Việt-Nam còn
sống nhiều nhờ biết chay lạt tu-hành, còn các nước khác chỉ còn sống lưa thưa
mà thôi vì họ hành ác chạy đua võ-trang giết người hàng lọat, nên Đức Chí-Tôn mới
phạt họ. Năm ngàn năm trở lại đây, biết bao nhiêu Đấng xuống trần dạy Đạo,
khuyên nhủ cho người ta biết làm lành lánh dữ, nhưng tánh nào tật nấy, dữ cũng
vẫn dữ mà thôi. Họ không có hiền bảo người ta hiền làm sao cho được? Trước khi
dạy người, ta phải hiền trước để làm gương mẫu; hiền lành trước đi thì người
khác mới noi theo, nên Đức Chí-Tôn mở Đạo lấy THƯƠNG-YÊU làm gốc: CÔNG-BÌNH,
BÁC-ÁI. Ngày nào cả nhân-lọai trên mặt địa cầu này biết nhìn nhận Đức Chí-Tôn
là Đấng Cha chung thời ngày ấy mới được Hoà-bình vĩnh-cữu.Tóm lại ai hành ác mặc
họ, Tín đồ Cao-Đài ráng lo tu, chay lạt, đi cúng hằng ngày, phải nhiều thời,
nhiều pháp, nhiều kinh, cầu xin Đức Chí-Tôn giảm tội cho họ. Nếu họ biết ăn năn
hối cải mà làm lành lánh dữ, bằng không phải trả giá rất đắc.”HP thuyết 15-6-Mậu-Tý
1948)
Quả thật mấy năm nay nhân loại phải chịu nạn vay trả một cách kinh khủng mà
hầu như lịch sử nhân loại chưa lúc nào thảm thương dường ấy. Nào động đất, sóng
thần, đất núi lỡ đá chùi, đủ thứ bão: bão bùn, bão giông, bão cát, bão tuyết…
thậm chí đến bão mặt trời. Ôi !
3 - ĐỨC THƯƠNG YÊU LÀ CHÚA
CỦA THÙ HẬN
“Thầy đã dạy, Thầy chỉ một lòng mơ ước
cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa
khóa mở Tam thập lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự
thương yêu, thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi. Có câu nầy nữa: "Mọi sự
khó khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con thương yêu gắng công độ rỗi".
Đức Hộ-Pháp nói: “Hại thay ! Đến giờ, con cái của Ngài không biết mình ở
đâu ? Làm gì ? Đấng Chí-Tôn tạo ra vạn-vật chỉ xin có một điều là THƯƠNG-YÊU với
nhau, đặng qui tòan con cái của Ngài cố gắng lập Đại gia-đình làm một. Có con mắt
mà thiếu Đức-tin, không cố gắng có trễ hay chăng ?
Đức Ngài quả quyết: “Nó nên hình bởi sự THƯƠNG YÊU, trưởng thành trong sự
THƯƠNG YÊU, bởi hình chất của THƯƠNG YÊU. Hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng
kiện, nó sẽ làm Chúa cả thù hận và quyền năng thù hận không hề xâm lấn nó được.
Nói quả quyết Bần-Ðạo đã đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực
chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế nầy, Bần-Ðạo đã can đảm dùng quyền của
Bần Ðạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng thiêng liêng của Ðạo. Bần-Ðạo
lỗ vốn cũng nhiều. Bần Ðạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình thể của
Chí-Tôn cho trọn THƯƠNG YÊU. Bần-Ðạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên
hạ mà bảo tồn khối THƯƠNG YÊU của Chí-Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn. Tại
sao mà Bần-Ðạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó ? Bởi biết nó là
Chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là Thầy thiên hạ đặng trị thế,
nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bĩ nhơ nhớp, thì không thế gì làm Thầy thiên hạ đặng.”
4 - PHẢI THƯƠNG YÊU VÔ TẬN
NỮA KÌA
Trong Phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo, Đức Hộ pháp Phạm
Công Tắc đã dạy rằng:
“Phải thương yêu vô tận. Ấy là chìa
khóa mở cửa Bát Quái Đài tại thế này.”
Các Tôn giáo cũng đều có dạy sự thương yêu, nhưng trên căn bản thực thi có khác nhau, như:
- Đạo Nho lấy Nhơn Nghĩa làm căn bản,
- Đạo Lão lấy Công chánh làm căn bản,
- Đạo Phật lấy Từ bi - Bác ái làm căn bản.
Tất cả cũng đều xuất phát từ cái Tâm yêu thương. Nhưng thế nào là “Sự
thương yêu vô tận”? Theo chơn truyền của Cao Đài giáo thì sự thương yêu vô tận
tức là thương yêu không có phân biệt ranh giới, không có định hướng, tức là
thương yêu cả kẻ thù. Lời giáo huấn của Đức Hộ Pháp về “THƯƠNG YÊU VÔ TẬN”.
Chỉ cần con để dạ một chữ
Thương.
Thương mình vậy thương ai
cũng vậy.
Lòng tình ái sao cho lừng
lẫy,
Cái khí thương động dậy Trời
già.
Chẳng phải thương chỉ trọng
người ta,
Dầu cầm thú cỏ hoa cũng
đoái.
Thương chẳng biết biệt
phân phải trái
Dầu khôn ngoan ngu dại
cũng thương.
Phàm tình thương chẳng có
độ lường,
Thương cho đến hơi sương
giọt nước.
Tình thương vốn ngoài vòng
tội phước,
Với kẻ thù thương được
cũng nên thương.
Tình thương kia ví đặng
phi thường,
Hòa giọt lụy đau thương
lau thế sự.”
(Phương tu Đại Đạo)
Yêu thương vô tận là sự yêu thương vô điều kiện, không mặc cả, không thiên
lệch, không nặng nhẹ, không trông mong sự đền đáp, không trông chờ ân huệ bất cứ
từ đâu, ngay cả ân huệ của Thượng Đế, tức là thương yêu lấy thiên lương nhân
cách làm căn bản, không do động cơ trục vật, vụ lợi thúc đẩy. Nên Đức Hộ Pháp đã
dạy rằng: “Sự thương yêu không thể cần cái này, bỏ cái kia, chê cái nọ, khen
cái khác... Thương yêu phải lấy công tâm mà định...”
(ĐHP: Thuyết đạo đêm 01-08 Canh Dần-
1950).
CHUNG
Thân tặng quí đồng Đạo và toàn Độc giả kính mến
Lời cảm ơn
Trước đây, vào năm 1972 tôi có dịp tham gia chương trình Khảo-Cứu-Vụ của
Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài tái lập, nhưng chỉ được một vài lần hội
họp bàn thảo gì đó rồi vắng bóng luôn. Vì lâu ngày hầu như quên lãng, tuy nhiên
cái âm vang này hình như vẫn còn văng vẳng
bên tai…
Thật ra tôi rất cám ơn Ông Thanh Minh đã gửi cho tôi “Chương trình Khảo Cứu
vụ của Đức Hộ-Pháp” đã đề ra từ ngày 15-12-Đinh Hợi (dl: 25-01-1948) nên khi nhận
được chương trình chỉ mấy trang thôi mà tôi làm việc ngày đêm, nghe như lòng
mình thôi thúc sợ rằng không kịp:
- Phải chăng tôi sợ trước nhất là một người vì Đạo Tâm cao quí như ông
Thanh Minh hẳn ông chưa muốn “ra đi”. Vì “đi” sớm là chấm dứt buổi lập công như
thế này.
- Thứ hai là tôi ngại rằng chính tôi không đủ thì giờ mà làm một lúc nhiều
công việc chăng?
Do vậy mà tôi chỉ dám bạo gan viết đủ ba quyển mà Thầy đã đề ra trong
Chương trình “Huấn luyện Cấp Sơ đẳng- Cấp Trung đẳng- Cấp Cao Đẳng” mà thôi.
Riêng tôi xin ghi là “Học Đạo cấp I, II, III”, nhưng khi viết thì thấy rằng
phải viết thêm nhiều nhiều để “Trả bài” cho các Bạn là những người bạn quí nhất
trong đời tôi hôm nay, vì nghĩ rằng cuộc hành trình, cuộc viễn du nào rồi có
lúc phải quay về. Thế nên những lo ngại như vậy mà tôi không đề Tập 1, 2, 3 gì
cả. Bây giờ tôi thấy rằng có thể viết được nhiều hơn hầu tặng quí đồng Đạo và độc
giả bốn phương. Vậy làm phiền quí đồng Đạo hiểu giùm cho các Quyển không ghi là
TẬP 1 cho mỗi quyển I, II, III chẳng hạn.Vì
tôi được các Bạn cho biết là tâm đắc đề tài này hơn
Để đáp lại tình Huynh Muội, thì khi viết xong, tôi gởi biếu trước Soạn phẩm vừa ra đời cho Ông
Thanh Minh, được ông ghi mấy dòng này để
gọi rằng khích lệ:
Rất cám ơn, Cám ơn người, cho tôi lời quí báu !
Tây Vức đồ, Thánh Địa Tây Ninh.
Ngày 26-11-2010 (Âl: 21-10-Canh Dần)
Kính gởi Nữ Soạn giả Nguyên Thủy,
Thưa hiền Muội kính mến,
Tôi vừa nhận được quyển Khảo Cứu vụ III vào lúc 8 giờ ngày 26-11-2010 (Âl:
21-10-Canh Dần).
Mừng thay! Soạn giả đã hoàn thành xuất sắc Chương trình Khảo Cứu vụ do Đức
Phật Phạm Hộ-Pháp ban hành từ năm Đinh Hợi đến nay, vẫn chưa có người đạo tâm
gia công biên soạn theo hệ thống “Sơ đẳng- Trung đẳng- Cao đẳng” theo kỷ cương
Đại Đạo.
Đây là một công trình đại công trong cửa Đạo, đồng thời là một đại ân nhân
cho chư độc giả học Đạo, nghiên cứu giáo lý Tam giáo và Ngũ Chi…
Quả thật xứng đáng bậc tài nhân lưu loát Dịch Lý, Đạo-lý uyên thâm, đấy là
thiên tài chẳng phải ai muốn cũng được vậy.
Trên tinh thần đạo nghĩa cao đẹp này chắc chắn Soạn giả sẽ được Đức Phật
ban đặc ân, khích lệ trí huệ gia tăng. Riêng phần Tôi coi đây là công trình tuyệt
tác có một không hai (vì hơn nửa Thế kỷ vẫn chưa có người thực hiện).
Thật trọng ơn, tưởng chừng như không có vinh hạnh được xem trọn bộ ba Tập vừa tốn công lẫn tài vật của Nữ Soạn giả.
Người gửi
(Ký tên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét