Khảo Cứu Vụ III - Chương Trình Học Đạo Cấp Cao Đẳng - 4 / 4 (Nữ Soạn giả Nguyên Thủy)

Cuộc chiến tranh khủng bố này phải chăng là một cuộc chiến tranh chống Đạo Hồi ? Mặc dầu trong các lời tuyên bố chính thức, cả hai bên đều bác bỏ cách giải thích này nhưng người ta vẫn tìm thấy ở đây ít nhiều  đặc điểm của một cuộc “Thánh chiến”.Về phía Mỹ, Tổng Thống George W. Bush đã vô tình hay cố ý tuyên bố đây là một cuộc “Thập tự chinh”
làm người ta liên tưởng ngay đến các hiệp sĩ thời Trung cổ mang gươm sang vùng Trung Đông đánh chiếm lại những vùng đất Thánh như Palestine, Jérusalem đã bị các giáo chủ Hồi giáo đưa quân xâm lấn. Tổng Thống Mỹ còn nhiều lần lên án những  khủng bố cố ý  nhắm vào dân lành theo các đạo Cơ-Đốc và Do-Thái trên Thế giới. Hàng triệu người Hồi giáo, từ Trung Cận Đông sang Đông Nam-Á, từ vùng Balkan đến các nước Phi châu đều cho rằng đây là một cuộc Thánh chiến mới của họ. Từ Di-hát (Jihâd, Thánh chiến) được thốt lên trên cửa miệng của hàng vạn thanh niên sẵn sàng cầm vũ khí đi bảo vệ Tôn giáo của mình. Nhiều nhà phân tích chánh trị trên thế giới cũng cho đây là giai đoạn mở đầu của một cuộc  “đụng đầu giữa các nền văn minh” mà Giáo sư Samuel Huntington  đã tiên đoán trong một bài báo nổi tiếng đăng trên Tạp chí ngoại giao (Foreign Affair)của Mỹ năm 1995. Quan điểm này cũng được nhiều giới Hồi giáo chấp nhận. Tình hình ở Afghanistan vẫn chưa ổn định, tổ chức Al Qaeda vẫn chưa dẹp tan thì ngày 20 tháng 03 năm 2003, liên quân Mỹ - Anh lại tấn công và xâm lược Iraq, một nước Hồi giáo khác. Sau 20 ngày tiến quân và dùng các vũ khí vô cùng hiện đại tàn phá thủ đô Baghdad của nước này. Mỹ đã lật đổ được chánh quyền hợp pháp của Iraq do Tổng Thống Saddam Hussein lãnh đạo. Mặc dầu cả thế giới đều thấy rõ, động cơ chính của cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai này là tài nguyên dầu mỏ của Iraq, đứng hàng thứ hai trên thế giới chỉ sau Saudi Arabia, mà Mỹ và thế giới rất cần để phát triển, nhưng đối với người dân Hồi giáo nói chung và người dân A-Rập nói riêng, đây là một xúc phạm không tha thứ được đối với tôn giáo của họ. Thành phố Baghdad đã một thời, dưới triều đại các Giáo chủ Áp-bát, là trung tâm huy hoàng của đạo Hồi. Đối với họ, nền văn minh Hồi giáo xưa kia vô cùng xán-lạn nay đang có nguy cơ bị huỷ diệt.”
 (Trích từ trang 7-10- Hồi giáo thế giới Á-Rập)

Nhận xét về Tinh thần Tín ngưỡng Hồi giáo:
Người Hồi giáo quan niệm về Địa Ngục-Thiên Đàng quá đơn sơ giản dị, chưa thoát ra cái sống quá khắc nghiệt của hiện tại làm sao có được cái sống của tâm linh ?

Thứ nhứt họ là người sống trên sa mạc chỉ có nắng gió, thiếu thốn những thức ăn cần thiết làm nhu cầu cho cuộc sống. Thiên đàng của họ là gì ? - Chỉ ước mơ có một nguồn nước trong lành, những quả ngon trái ngọt, sữa tươi. Về tình cảm thì một bóng giai nhân trong mắt người nam, một ánh mắt che chở cho người nữ. Ôi!  Thương hại quá. Họ là những người không được thiên nhiên ưu đãi. Thế nên từ đó dễ bị lạc lỏng về tinh thần nên bị sa ngã, nhiều khi việc làm không ý thức, bạo động, cuồng tín.

Trong khi đó những quốc gia khác như Âu Mỹ thì thừa thãi về mọi phương diện vừa ăn xài vừa đổ bỏ. Có thể nói mỗi bữa ăn của một gia đình người Mỹ bỏ ra có thể nuôi sống trung bình được hai, ba gia đình khác. Hầu như những người Việt Nam sống trên đất Mỹ họ xem việc hoang phí như vậy là một cái “mốt” văn minh và hãnh diện. Tội nghiệp thay ! Họ chạy theo cái bóng mờ !

Chúng ta ước mơ gì ? Nếu mỗi người trong xã hội chúng ta biết chia cơm sẻ áo, biết nghĩ đến những dân tộc bạc phước thì hãy giúp đỡ ngay chính người bạn đồng hương, đồng bào, đồng khổ chung quanh ta gọi là an ủi họ, mà nhứt là có dịp cho mọi người thể hiện đức nhân ái, Từ bi,khoan dung độ lượng đó là con đường dẫn đến Đại đồng

Hỏi vậy Đạo Cao Đài quan niệm thế nào
về Thiên đàng và Địa ngục?

Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài rằng:
…“Quyền tự chủ ấy, vẫn đã định trước làm cho cả nhơn sanh vui theo cơ Tấn Hóa, thì dầu cho Thầy cũng không cải qua đặng; vì hễ sửa cải thì là mất lẽ công bình Thiêng Liêng đã định, làm chinh nghiêng cơ thưởng phạt. Hễ có công thưởng tội trừng thì phải để rộng quyền cho người tự chủ.

Thiên cơ đã lập có Ðiạ Ngục với Thiên Ðàng, ấy cảnh thăng cảnh đọa.
- Ðịa Ngục dành để cho kẻ bạo tàn,
-Thiên Ðàng cho người đạo đức, thì cân công bình Thiêng Liêng đã sẵn. Ấy vậy chẳng buộc ai vào Ðịa Ngục, mà cũng chẳng nâng đỡ ai đến Thiên Ðàng. Ðôi đường hiển hiện, tự quyền người lựa chọn, siêu đọa tại nơi mình, các Ðấng Thiêng Liêng duy có thương mà chỉ dẫn”.

Ngày nay sửa chữ Âm Quang thay cho Địa ngục Toà Thánh, tháng 10-Nhâm Thân (dl: tháng 11-1932).
BÁT NƯƠNG Diêu Trì Cung
Giải thích về Âm quang:

 “Âm quang là khí chất hỗn độn sơ khai khi Chí Tôn chưa tạo hóa. Lằn Âm khí ấy là Diêu Trì Cung chứa để tinh vi vạn vật, tỷ như cái Âm quang của phụ nữ có trứng cho loài người. Khi Chí Tôn đem Dương quang ấm áp mà làm cho hóa sanh, thì cái khoảnh Âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu, là cơ quan sanh hóa vạn linh.

Song lằn Âm quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh quang của Chí Tôn chưa chiếu giám đến thì phải còn tối tăm mịt mờ, chẳng sanh chẳng hóa. Vậy thì nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay là Ðịa ngục, Diêm đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu. Vậy thì chính lời nhiều Tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong Ðô Ðịa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn hồn Giải thân định trí (một nơi trung gian giữa Thiên đường và Ðịa ngục hay là mờ mờ mịt mịt). Ấy là một cái quan ải, các Chơn hồn khi qui Thiên, phải đi ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các Chơn hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy Chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy. Em nói thiệt rằng, mấy anh hiểu thấu, thì kinh  khủng chẳng cùng. Nếu để cho Chơn thần ô trược thì khó mong trở lại cõi thiêng liêng và về cùng Thầy đặng.Em biết đặng nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng.Thất Nương ở đó đặng dạy dỗ, nâng đỡ các Chơn hồn, dầu sa đọa luân hồi, cũng có người giúp đỡ”.

B - ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
mở ra chân TRỜI mới

Với nền Tân Tôn giáo như Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ do chính Đức Thượng-Đế đến lập tại đất nước Việt Nam là một cơ Đại Ân Xá cho toàn cả nhân loại. Vì:

“Thầy đã lập Ðạo nơi cõi Nam nầy, là cốt để ban thưởng một nước từ thuở đến giờ hằng bị lắm cơn thạnh nộ của Thầy. Thầy lại tha thứ, lại còn đến ban thưởng một cách vinh diệu. Từ tạo Thiên lập Ðịa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 nầy đặng vậy”.  (TN: 12-01-Ðinh Mão)

Thế nên Đức Hộ-Pháp mới thuyết THỂ PHÁP và BÍ PHÁP CAO-ĐÀI cho toàn thể nhân tâm hướng về:

Theo truyền thuyết nói rằng: Phật ra đời liền bước đến bảy bước, mỗi bước đi của Ngài nở hoa sen. Liền một tay chỉ lên Trời, một tay chỉ xuống đất nói: “Thiên thượng, thiên hạ duy ngã độc tôn” Ấy cũng là một triết thuyết quá cao siêu của Phật giáo, nhưng người đời lầm tưởng rồi biến thành những huyền thoại cốt làm cho vị Giáo chủ của mình trở nên huyễn hoặc đi tới chỗ không tưởng, tức là một sự Thần Thánh hóa một nhân vật yếu trọng mà thôi. Nhưng Đạo là lý, muốn tìm đến Đạo phải suy từ lý, có đạt lý mới rõ thông lẽ Đạo. Thật ra Ngài đã xuống cõi phàm này rồi cũng phải chịu chung trong cái phàm ấy. Duy tâm linh Ngài cao trọng, siêu phàm mà thôi.

Sở dĩ nói mỗi bước chân Ngài nở hoa sen, vì sen là tượng trưng cho triết lý nhà Phật “bước tới 7 bước”. Số 7 là tượng cho Thất tình mà tất cả chúng sanh đều có. Người tu biến thất tình thành Thất bửu. Thế nên bên trong Đền Thánh, phần Hiệp Thiên Đài có ba tượng của Ba vị: Hộ Pháp (giữa), Thượng Phẩm (bên phải của Hộ-Pháp), Thượng Sanh (bên trái). Nhìn ra phía trước thì có 7 ngai của Chức sắc Cửu Trùng Đài. Nhân sanh đến cúng lạy, chầu Lễ Chí-Tôn ngồi giữa hai khoản ấy. Người có đủ Thất tình là vậy “Duy Ngã độc tôn” chữ Ngã là Ta, tức nhiên là chỉ toàn cả nhân loại, là con người mới được ngôi vị “độc tôn” đồng nghĩa với “Tối linh” mà Kinh Tắm Thánh  xác nhận:
Những vạn vật Âm dương tạo hóa,
Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
Con người đứng phẩm tối linh,
Nửa người, nửa Phật nơi mình anh nhi.

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ  道三期
E: The Great way of the Third Universal Salvation
F: Troisième Amnistie de Dieu en Orient.

A - KHÁI QUÁT:
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một nền Đạo lớn mở ra vào thời kỳ thứ ba để cứu giúp toàn cả chúng sanh nơi cõi trần này, hầu thoát khỏi cảnh khổ của luân hồi mà trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, chính là Niết Bàn đó vậy..(Đại Đạo là một nền Đạo lớn, nhưng khi nói lớn thì không còn gì lớn hơn nữa, nên nói là Đại Đạo. Tam Kỳ là thời kỳ thứ ba. Phổ Độ là cứu giúp chúng sanh rộng khắp). Khi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí Tôn xưng danh hiệu là:“CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT” nên  nền  Đại-Đạo này còn  được gọi theo danh xưng của Đấng Thượng-Đế là ĐẠO CAO ĐÀI. Gọi là Đại Đạo bởi vì Đạo Cao Đài là một nền Đạo lớn do Đức Thượng Đế sáng lập. Mục đích của Đại Đạo là Qui Tam giáo: Nho – Thích - Lão và hiệp nhứt Ngũ Chi là Nhơn đạo - Thần đạo - Thánh đạo - Tiên đạo - Phật đạo.

"Đức Chí-Tôn mở Tam-Kỳ Phổ Độ này gọi là  mở Cơ quan tận độ chúng sanh tức nhiên là lập một khoa thi sang Tam chuyển tái phục Thiêng-liêng vị nơi cảnh vô hình, mỗi chuyển tức nhiên mỗi khoa mục của các Đẳng chơn hồn cần phải thi đoạt vị: thăng hay đoạ. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn gọi là trường thi công quả là vậy. Đức Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập Nhị Thời Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí pháp ấy đặng cho vạn linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu rằng Đức Chí-Tôn buổi mới sơ khai, chưa tạo thiên lập địa, Ngài muốn cho vạn linh  đặng hiệp cùng Nhứt linh của Ngài do quyền năng sở hữu của quyền hạn Thần linh.

Gọi là Tam Kỳ Phổ Độ vì trước đây đã có hai thời kỳ Phổ Độ rồi:
■ Nhứt Kỳ Phổ Độ khai thời thượng cổ có các Tôn giáo:
- Phật giáo do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật khai mở.
- Tiên giáo do Đức Thái Thượng Đạo Tổ khai mở.
- Nho giáo do Đức Văn Tuyên Đế Quân khai mở. 

Đồng thời:
+ Đức Brahma-Phật mở Đạo Bà La Môn.
+ Đức Moïse mở Thánh giáo ở nước Do Thái gọi là

 Do Thái giáo
■ Nhị Kỳ Phổ Độ khai thời Trung cổ có các Tôn giáo:
- Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.
- Đức Lão Tử mở Tiên giáo ở Trung hoa.
- Đức Khổng Tử mở Nho giáo ở Trung hoa.
- Đức Chúa Jésus mở Thánh giáo ở nước Do Thái.

+ Đức Mahomét mở Hồi giáo ở nước Á Rập,
+ Đức Khương Thượng cầm Bảng Phong Thần mở ra Thần đạo ở Trung hoa...

■ Nay, thời Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm cuối Hạ nguơn Tam chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, Đức Chí Tôn đến “Qui nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” vì ngày nay Càn khôn dĩ tận thức, năm châu chung chợ, bốn biển chung nhà, nên Đức Ngài đến mở ra một nền Đại Đạo tại nước Việt Nam, thống nhứt thành một mối, để nhơn loại không còn bị chia rẽ nhau vì khác Tôn giáo, hầu tiến đến một THẾ GIỚI ĐẠI-ĐỒNG.

Vì lẽ đó Đức Chí-Tôn  lập Tam Trấn  Oai  Nghiêm thay quyền Tam giáo mới trấn phục nỗi hoàn cầu, gồm có:
- Phật Quan Âm thay quyền Phật giáo: Nhị trấn Oai Nghiêm.
- Đức Lý Đại Tiên Thái Bạch Kim Tinh thay quyền Tiên giáo, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ.
  - Đức Quan Thánh Đế Quân thay quyền Thánh giáo, là Tam Trấn Oai Nghiêm, lập Nho Tông Chuyển thế.

Tóm tắt ba thời kỳ Phổ Độ:
Đức Chí Tôn cho biết đây là kỳ Phổ Độ chót, trước khi mở  Đại Hội Long Hoa là có cuộc Phán Xét cuối cùng,  tận độ toàn cả chúng sanh, cứu giúp không để sót một ai. Đức Chí Tôn khẳng định“Gặp TAM KỲ PHỔ ĐỘ” nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi”. Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chánh thức mở ra vào ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 19-11-1926) và Đức Chí Tôn chọn dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam để Khai Đạo, dùng Tây Ninh làm Thánh Địa xây dựng các cơ quan trung ương, để từ nơi đây truyền bá khắp hoàn cầu, độ toàn Thế giới.

Thầy dạy: “Chi chi cũng tại TÂY-NINH  mà thôi”.
B - SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ:
Đức Hộ-Pháp nói: “Có nhiều người viết Đạo-sử và đã nói cho người ngoại-quốc hiểu Đạo. Trong ấy có nhiều điều không đúng sự thật,  nhứt là trong các bài Cơ. Đạo ban sơ thế nào? - Nhiều người đã nói đến, đã giảng lịch-sử Đạo, nhưng không đúng lịch-sử chút nào hết. Sự thật như thế này: Trong năm Ất-Sửu: các Thầy, các Ông, từ hàng Thẩm-phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo-lộn trong giới trí-thức đương thời là “Con người có thể thông-công cùng các Đấng thiêng-liêng vô hình được” nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu Châu sôi nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn-cầu do các Hội Thần linh-học và Thông-thiên-học đã khảo-cứu một cách rõ-rệt. “Loài người có thể sống với cảnh thiêng liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy”. Cái triết-lý ấy làm cho nhiều người, nhứt là người học thức muốn tìm tàng thấu đáo. Nơi hạng học-thức ấy có một người cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng-Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương-pháp bên Âu-Châu hay bên Pháp là Xây bàn. Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền-năng thiêng-liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền-vi bí-mật thiêng-liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra Càn Khôn Vũ trụ. Sách vở để lại cũng nhiều, nhưng thật ra lý-thuyết ấy làm cho chúng tôi chưa quyết định về tín-ngưỡng cách nào mà đức-tin đã có thật vậy. Khi Đức Chí-Tôn  đến  với  chúng tôi, Đức Chí Tôn mở ĐẠI ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo CAO-ĐÀI. Tới chừng Ngài biểu chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn bút đi các nơi thâu Môn-Đệ. Trọng-yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này làm môi-giới độ ĐẠO sau này. Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò loan đặng Ngài dùng quyền-năng Thiêng-liêng kêu gọi mấy vị Tông-đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời-quân ấy có Cao Tiếp Đạo ở tại Kim-Biên chớ không phải ở Sài-Gòn. Đi thâu Thập Nhị Thời-Quân rồi, Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo Tông. Trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi! Chúng tôi không hiểu nguyên cớ nào Ông Ngô-văn Chiêu không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô văn-Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ, ở tại Hà Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí-Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng là “CAO ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT.” Trong khi đó Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ. Đức Chí-Tôn chỉ nhà của Ông Ngô-văn-Chiêu cho chúng tôi và nói: Ngô-văn-Chiêu thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết Bạn cùng nó,    cớ  cho nên  chúng  tôi  mới  đến Ông Ngô văn-Chiêu. Một buổi nọ chúng tôi phò-loan học hỏi như thường  ngày. Đức Chí-Tôn kêu  chúng tôi  và Đức  Cao  Thượng Phẩm phải đi vô trong Chợ Lớn, đến tại nhà của Đức Quyền Giáo Tông của chúng ta  bây giờ là Ông Lê Văn Trung. Buổi nọ Ông Lê-Văn-Trung đang làm Thượng Nghị Viện. Hội đồng Thượng Nghị-Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng-Thống đời Pháp thuộc. Chức Nghị Viện lớn lắm ! “

1 - Tìm hiểu Cao-Đài là gì? Lý do nào khai Đạo?

 Đức Hộ-Pháp nói về Tân Tôn giáo Cao-Đài: “Đạo Cao-Đài tức là ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ khai sáng vào thời-kỳ này là do Thiên cơ  tiền định và cũng hợp với lời tiên-tri của các Đấng Giáo Chủ đã khai mở các Đạo-giáo trên thế-giới: Theo Phật-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo thì đều dạy rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ Hạ nguơn khiến đời tận diệt để chuyển xây trở lại Thượng nguơn Thánh-đức với một kỷ nguyên mới. Đặc biệt Đức Thích-Ca Mâu-Ni khi lập giáo có cho biết đến năm 2.500 kỷ-nguyên Phật giáo, là thời-kỳ để cho Đức Di-Lạc ra đời mở Hội-Long Hoa lập một kỷ nguyên mới đó vậy”.

Cao-Đài là gì? Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là Cao thì không còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối đại. Ngày nay chính Đấng Thượng-Đế mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ xưng danh là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương. CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ dẫn 92 ức nguyên-nhân còn mê đắm hồng-trần. Danh xưng “Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ Tát Ma Ha Tát” là gồm cả Tam-giáo, gọi là Tam Giáo Qui Nguyên:
- Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.
- Tiên-Ông là chỉ  Tiên-Giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát  chỉ Phật Giáo.

Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản Càn Khôn vũ trụ là "một mà ba, mà ba cũng như một" đầy đủ đức tính khiêm nhường.

Thầy dạy: “Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!. Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các  con  phải khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói  buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi, đâu đến nhọc công Thầy. Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.

Điều quan trọng hơn hết là Niệm danh Thầy để được giải thoát:
Trong Con đường Thiêng liêng Đức Hộ-Pháp nói: “Đức Chí-Tôn là Đại Từ Phụ khi đến độ Bần Đạo, Bần Đạo có hỏi về phương tận độ các vong linh nhân loại, thì có nói quả quyết như vầy: dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh TA thì cũng đặng giải thoát.” Lại một lần nữa, Đức Hộ-Pháp có nói: “Hỏi thử tội tình  của chúng ta đã làm trong kiếp sanh Đức Chí-Tôn để trong phương pháp nói rằng: tội tình các con đầy dẫy nơi mặt địa cầu này mà đến giờ chót các con biết kêu danh Thầy thì được Thầy đến cứu, Thầy đem Bí-pháp giải thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy, kêu danh Thầy là “Nam-Mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”

Câu niệm này thay cho câu Lục Tự Di-Đà, là câu “Nam Mô A-Di-Đà-Phật”của thời xưa, nay Phật đã đến với danh hiệu CAO-ĐÀI rồi. Giá trị câu niệm này sẽ là một điều mầu nhiệm vô cùng cho người may duyên gặp Đạo.

2 - Tại sao gọi là CAO-ĐÀI ?
"Ngày nay Thầy mới đến lập một cái CAO-ĐÀI 高臺 nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại thế này (La haute Église ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít của hướng Á-Đông là An-Nam ta, đặng cho trọn lời tiên tri “Đạo xuất ư Đông” 道出於東 và cho trúng Thánh-ý chìu lụy hạ mình của Thầy lập thành Hội-Thánh, làm hình thể Thiêng-liêng của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định-tánh làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy mà trở về quê cũ” (PCT)

3 - Hiện-tượng Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài
Chí-Tôn lập Cao Đài để làm Tòa ngự của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến hồng-trần này làm BẠN cùng người, hiệp cả loài người làm một.

Bởi "Đức Chí-Tôn biết tình trạng nhơn-loại đã đến mức tự diệt nhau nên Ngài đến tạo nền Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI, cho nhơn-loại gìn giữ phần hồn đặng định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho nó đến cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh điên tức đến cảnh tự diệt. Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục sinh đặng cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh thần của Đức Chí-Tôn tạo cho họ, ĐẠO CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên Chơn-thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt.                                                                  
Lời  tiên-tri trong sách “Ấu-học Tầm nguyên” về sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài: trong quyển “Giác mê ca” mà tác-giả là một Đạo-gia có ghi lại đoạn văn sau: 
Hữu duyên mới gặp Tam-Kỳ Phổ-Độ
Muôn đời còn tử-phủ nêu danh,
Ba ngàn công-quả đặng viên thành,
Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu.

Đây có mục-đích báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người hữu-duyên mới gặp được Tam Kỳ Phổ Độ, hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà làm phương thoát tục mới mong trở về ngôi xưa vị cũ. Bởi Đạo Cao Đài là Tu nhập thế nên phải lập công bằng cách Phụng sự Vạn linh, mà phụng sự Vạn linh tức nhiên  phụng sự Trời.  Điểm tới đích là Niết-bàn. Đạo Cao-Đài nói là cảnh Thiêng liêng Hằng sống. Niềm tin hứa-hẹn của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đến, đã ứng hiệp, nhất định không có gạt gẫm, nguỵ tạo. Phải lập cho được Ba ngàn công quả chính là phải tu chơn thực theo phương thức sau, mà sách Trang Tử nói: Chí nhân vô kỷ.Thần nhân vô công.Thánh nhân vô danh.
- Quên mình làm nên cho người, đạt (một số 0)
- Làm mà không tính công           đạt  (hai số   0)
- Làm mà không ham danh          đạt  (ba số    0)
Đây là nói lý: phải hiểu rằng: Đặt số 3 trước ba số (000) thành 3.000 công quả.
 “Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật Thiên đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước lên con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn này”.

4 -  Triết-lý  của Đạo-Giáo:  
Đức Hộ-Pháp nói: “Các vị Giáo-Chủ, lập giáo đều nương nơi một tinh thần của họ, tinh-thần hữu-định ấy có căn-nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại. Họ chỉ lấy một thuyết trọng yếu đặng làm triết-lý Đạo-Giáo của họ, tỷ như:
- Thánh-Giáo Gia-Tô  lấy TÂM làm căn bản,
- Lão-Giáo  lấy THÂN làm căn bản,
- Hồi-Giáo  lấy  TÍN-NGƯỠNG làm căn bản.

Mỗi Giáo-lý đều có sở-năng làm trung-tâm-điểm đặng vi-chủ  tinh-thần  của con  người  trong  chỗ  khuyết điểm của họ”.
 “Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy làm sợ sệt hơn hết là nền Tôn-Giáo của Đức Chí-Tôn lấy Tinh Thần làm căn-bản. Hỏi vậy, tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn-minh vật-chất, tinh-thần ấy có đủ quyền-năng tự-vệ lấy họ chăng ?

Tinh-thần họ có đủ lực-lượng chiến thắng chăng? Nếu thoảng tinh-thần của nhơn-loại không quật khởi lên, tự-quyết, tự-chủ, tự định-phận đặng mà phải chịu làm nô lệ cho văn-minh vật-chất, thì tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ ra sao? Mà chẳng những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, mà còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo đức tinh thần của loài người trở mặt ra đối với tinh-thần cường liệt của Chí-Tôn, thì tương-lai nơi mặt thế này sẽ như thế nào? Chúng ta cũng nên để có một câu hỏi. Có một điều ta nên để mắt nhìn coi Chí-Tôn tạo hình thể nào đặng bảo trọng tinh-thần đạo-đức ấy. Ấy là một phương pháp ta nương theo đó đặng tạo dựng khối đức tin vững chắc bền-bỉ vậy.”

5 - Tôn chỉ cao thượng của Đạo Cao-Đài là gì?
Đức Hộ-Pháp nói: “Cái Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là gồm cả ba nhà Đạo Chánh là Nho – Thích - Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm một, nên chi chúng ta tu Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam Giáo mà tập rèn tâm tánh. Nghĩa là phải nắm trọn:
- Tam cang Ngũ Thường      (Nho-giáo)
- Vẹn giữ Tam qui Ngũ giới (Phật-giáo)
- Luyện Tam bửu Ngũ hành (Tiên-giáo)

Người mà gồm được cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy”.
Đạo Cao-Đài là “Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi” cho nên có Tôn chỉ rõ rệt:  
- Tín-ngưỡng thì thờ Trời  và thờ Người.
- Về Luật-pháp thì Bác-ái và Công-Bình.
- Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường Chân- Thiện- Mỹ. Chung qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng  lấy TÂM làm gốc:

Tìm hiểu các nhà Tôn-giáo đã dạy đời những gì, đó chính là Tôn-chỉ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay.
Thích-giáo Phật Thích-Ca làm Chưởng-giáo, dạy:
- Tam qui Ngũ giới
- Minh tâm kiến tánh.
- Thật hành Bác-ái, Từ bi

Tiên-giáo Đức Thái Thượng làm Chưởng-giáo, dạy
-  Tam bửu Ngũ hành.
-  Tu tâm luyện tánh.
-  Thủ cảm ứng chứng minh.

Thánh-giáo  Khổng-Tử làm Chưởng-giáo, dạy:
-  Tam cang Ngũ thường.
-  Tồn tâm dưỡng tánh.
- Lấy Nhân-Nghĩa làm hành tàng.

TÓM LẠI: Nho nói: Tồn tâm dưỡng tánh.
Tiên nói: Tu Tâm luyện tánh.
Thích nói: Minh tâm kiến tánh.
Thích nói: TỪ BI,
Nho nói: TRUNG THỨ
Tiên nói: CẢM ỨNG
Tiên nói: Bảo nguơn thủ nhất.
Thích nói: Vạn pháp qui nhứt.
Nho nói: Chấp trung quán nhứt

Cứ đôi câu đại khái đó thì hiểu biết nghĩa lý nào có khác chi? Nên Đức Thể Hà Tiên có bài thi rằng:
Tam giáo nguyên lai nhứt lý đồng,
Hà tu phân biệt các Tây Đông?
Tam hoa, Tam bửu, Tam tài lý.
Ngũ đức, Ngũ hành, Ngũ giới trung.

Nghĩa là: Tam giáo nguyên lai đồng một lẽ, không tất phân biệt khác nhau làm chi, xem như lời: Tam hoa, tam bửu, tam tài; Ngũ đức, ngũ hành, ngũ giới đều dùng chữ TAM, chữ NGŨ mà dạy đời. Vậy thì từ thuở xưa các Đấng Giáo chủ của Tam giáo đã công nhận Tam giáo y như một, mới có thuyết Tam Giáo đồng nguyên.

Vì lẽ đó mà Tiên giáo mới nói sự ra đời của LÝ LÃO TỮ là do Nàng NGỌC NỮ 玉女 mang thai lúc 8 tuổi, phải 72 năm sau mới nứt nách Mẹ ra chào đời, lúc đó Nàng 80 tuổi. Thật ra lý đạo cao siêu mầu nhiệm vô  cùng, phải do theo lý Dịch mà giải:

Ngọc (5 nét) Nữ (3 nét)
Thay vì nói:
- Trời có Tam bửu    -  Ngũ khí,
- Đất có Tam bửu     -  Ngũ Hành,
- Người có Tam Bửu-  Ngũ Tạng

Thứ nhất từ lý này giải được: (3+5= 8) Ba lần như vậy để thấy rằng:  - Trời (Chí-Tôn) có  Bát quái
- Đất (Phật Mẫu) có Bát Cảnh Cung.
- Người nương theo Bát Chánh Đạo

3 lần 8 là 24 tức là 24 chuyến thuyền Bát nhã mà Phật Mẫu cho toàn linh căn đến trần này. Ngày nay ngôi Tiên Đạo đứng vào chánh trung, mà lý TAM THANH  hiện rõ:

Thế nên:
Màu vàng  (Thái Thanh)      tượng Phật đạo        
Màu xanh  (Thượng Thanh) tượng Tiên đạo
Màu đỏ      (Ngọc Thanh)     tượng Thánh Đạo.

Quả thật câu Kinh “Ánh Thái Dương giọi trước phương Đông” Đạo cũng phát khởi từ phương Đông. Đạo  trải qua nhiều thời kỳ, cũng nhờ vào Đức Phật Tổ (Tổ Sư), Đức (Thái Thượng) Lão Quân, Đức Khổng Thánh (Đức Ông), Giáo Chủ của Tam Giáo duy trì đến nay. “Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông”. Tôn giáo quan trọng nhất là Tâm. Chính cái Tâm này mà Tam giáo làm gốc cho sự qui hợp. Ngày nay, Đạo Cao-Đài Qui Tam Hiệp Ngũ, Vì: “Tam giáo là ba nền Đạo Chánh thuở nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hóa ra phàm giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa đoạ tội lỗi, mạt kiếp chốn A-tỳ, nên nhứt định chuyển "Tam-giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt", chấn hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn đèn thiêng-liêng lên để dìu dắt bước đường cho kẻ có công TU-HÀNH mà khỏi xảy chân, lạc lối. Ấy vậy, tất cả các yếu chỉ này làm tiêu-chuẩn cho mọi hành-vi. Cả Luật Pháp khuôn viên điều-mục của ba nền Tôn giáo ấy từ buổi sơ khai có đủ phương diện, quyền năng dìu đời thống khổ. Nhơn sanh trong thời kỳ Thượng cổ còn tính đức, biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà: Thích- Đạo- Nho tức là Phật, Tiên, Thánh; nghĩa là phải  làm lành lánh dữ, dưỡng tánh  tu tâm, mới chung hưởng thái-bình, hạnh phúc”.

Tại sao Nàng Ngọc Nữ ăn phải trái LÝ CHÍN ?
Trên đã rõ lý Qui Tam Hiệp Ngũ rồi, mới thấy cái điều quan trọng nhứt là ăn phải trái “Lý (7 nét) tượng cho con người có thất tình, từ đó người phải tu hành mới đạt lý tự nhiên là lý Đạo, lý hư vô,…chín  chứ không phải sống. Số 9 là bội số của số 3 làm căn bản cho các số. Như trên đã nói (3x8= 24). Rồi (3x24=72) mà (7+2=9). Bảy mươi hai là số của Thất thập nhị địa là số 72 quả địa cầu mà con người chúng ta ai cũng mang trong người cái Thất tình (số 7) mà lại ở vào Thế giới Nhị nguyên (số 2).

Nàng phải 80 tuổi mới sanh ra đời, tức nhiên người thông suốt được Bát Quái mới thấu triệt lẽ biến thiên của vũ trụ, lẽ dinh, hư, tiêu, trưởng của Trời đất. Qua câu “Nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc hư”  Số 8 là chỉ Bát Quái, Số 0 là Hư vô, là Niết bàn đó vậy.

6 - CAO-ĐÀI là Phật Giáo chấn hưng:
Nền Ðạo lúc sơ khai, vào giữa năm Bính Dần (1926), nhà cầm quyền Pháp hỏi quí vị tiền khai đây là mối Ðạo gì? Quí vị ấy chưa dám nói đây là Ðạo Cao Ðài, là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, vì những từ ngữ nầy còn mới mẻ quá, chỉ nói vắn tắt với nhà cầm quyền Pháp, đây là Phật giáo chấn hưng hay Phật giáo canh tân (Bouddhisme renové). Thật vậy, Ðạo Cao Ðài không những chấn hưng Phật giáo mà chấn hưng cả Tứ giáo nữa: Ðó là chấn hưng Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo và Thánh giáo Gia Tô.”

Theo Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I trang 14, chúng ta nhận thấy Đức Phật Thích Ca giáng cơ dạy về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lần đầu tiên vào ngày 26-2-Bính Dần (dl: 8-4-1926) tại đàn Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc). Bài Thánh ngôn do Đức Thích Ca Mâu Ni giáng “Thích-Ca Mâu-Ni Phật: Chuyển Phật Đạo, Chuyển Phật Pháp, Chuyển Phật Tăng, Qui nguyên Đại Đạo. Tri hồ chư chúng sanh?”

Một đàn khác, Thầy dạy:
- Tam Kỳ Phổ Độ là gì? - Là Phổ Độ lần thứ ba. Sao gọi là Phổ độ ? Phổ độ nghĩa là gì ?

- Phổ là bày ra. Độ là gì? - Là cứu Chúng sanh. Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm thế nào? Chúng sanh là gì ? - Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.

Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm thế nào? Thầy hỏi? - Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa”.

7 - Đạo Cao-Đài là Tôn giáo toàn cầu:
Đức Hộ-Pháp nói: Tôn giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp Tín ngưỡng lại, qui nhứt mà thôi. Nắm cả Tín ngưỡng của loài người lại, chính CHÍ TÔN là CHÚA TỂ Càn Khôn Thế Giái, làm CHÚA nền chính trị tại nước NAM, vi chủ tinh thần loài người tức đủ quyền năng lập QUỐC ĐẠO. Kỳ khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ tạo một linh đài qui Tín ngưỡng của toàn nhơn-loại, đủ quyền năng tiêu-diệt Tà pháp đặng đem nhơn-loại đến ĐẠI-ĐỒNG. Nay Đức Chí Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo lời Sấm truyền của các vì Giáo Chủ ngày xưa.

Chỉ có hai phương diện:    
1 - Là Tam giáo thất kỳ truyền,         
2 - Là chính mình Đức Chí-Tôn giáng cơ lập ĐẠO đặng Qui Nguyên Phục Nhứt, gọi là chấn hưng TAM GIÁO lại cho hoàn toàn, lập Luật Pháp khuôn viên cho phù hợp theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả Tinh thần của các dân tộc biết nhìn nhau một CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ quyền Thương yêu, chung thờ một Tôn-giáo Đại Đồng thì nhơn loại mới gội nhuần ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời Mỹ tục thuần phong thì vạn loại mới chung hưởng cơ Hòa bình, phục hồi Thượng cổ là do Thiên Thơ tiền định buổi Hạ nguơn chuyển thế hoán cựu duy tân.

Tóm lại: Đức Chí-Tôn khai ĐẠO kỳ thứ ba này là thuận theo “Lẽ  tuần-hoàn châu nhi phục thủy”.
 “Đạo Cao-Đài là nền Chánh Giáo tức là nền Đạo Cao-Đài này để thay thế tất cả Tôn Giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn Giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương tri,  lương năng  của  loài người nữa. Hay  nói  một cách khác là các nền Tôn Giáo ấy ngày nay đã bị BẾ. Những điều bí yếu bí trọng trong nền Đạo Cao-Đài, những triết lý cao siêu mà chỉ Đạo Cao-Đài mới có, tuy nhiên âu cũng là một đặc ân của Đức Chí-Tôn dành cho Đạo Cao Đài là Hộ-Pháp thay lời Đức Chí-Tôn nói Đạo cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng là chỗ đó” (ĐHP)

8 - Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà:
Đức Chí-Tôn  đã xác nhận qua bài thơ:
Từ thử nước Nam chẳng Đạo Nhà,
Nay TA gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nã ?
Rằng trẻ noi sau biến hoá già !

Đức Quyền Gíáo-Tông cũng nói rõ lý-do là Việt Nam từ trước đến giờ không có Đạo nhà:     “Quả thật vậy! “Người nước Nam từ cổ chí kim thật không có ĐẠO trong nước nhà, mà người Nam ta có tâm đạo, người Nam trổi danh khắp địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo Phật, đạo Tiên, đạo Nho tuy khai bên ẤN-ĐỘ và TRUNG HOA, sau người Nam biết đặng cũng hết lòng sùng bái. Đạo GIA-TÔ của mấy vị Linh-mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu, đi nhà thờ cầu khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ Trời Phật. Người không đi chùa, đi miễu, không đi nhà thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo NHO. Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ-ràng người Nam-Việt tin-tưởng Trời, Phật, Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt, chớ linh hồn bất tiêu bất-diệt. Vì Đạo-Tâm ấy mà trong thời-kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ (Ân-xá lần thứ ba).

9 - Đức Chí-Tôn đến chuyển Quốc-Đạo:
 (Đức Hộ-Pháp thuyết ngày 14-10-Quí-Tỵ)
 “Thật ra, nếu không phải cái huyền linh vô đối của Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng và qúi hóa như thế này.! ĐẠO CAO-ĐÀI tức Đạo Tổ-Phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi; nếu chúng ta kể từ ngày Chuyển thế của nó. Nhưng Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái Nam Nữ của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ Phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó.” Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó. Để nói rõ Thánh ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì? Giờ phút này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc. Vì vậy: Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó khăn về mọi phương diện. Nhưng đối với Bần-Đạo, Bần-Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-Đạo lại vui mừng mới chướng cho chớ ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không?Cái khó đảm-đương đương-nhiên bây giờ là không làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một Đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí-Tôn có Đức-tin thì hiểu rõ điều ấy.”

C - Nghiên cứu về Chánh-Trị của  ĐẠO  theo
TÂN LUẬT & PHÁP CHÁNH TRUYỀN
Theo lời Đức Hộ-Pháp giảng giải trên cho biết là:
- Đạo Cao Đài thành hình là do HUYỀN DIỆU CƠ BÚT.
- Đức Thượng Phẩm là chi Đạo, tức mở đường xuất Thánh
- Danh “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ” ra đời.
- Thập nhị Thời Quân xuất hiện tức Thập Nhị Thời Thần.
- Trước đó đã có ông Ngô văn Chiêu biết Đạo Thầy.
- Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra  Hội-Thánh Cửu Trùng Đài.

Xem thế thì Đức Chí-Tôn đã “Khai Đạo muôn năm trước định giờ” nhưng khi mở Đạo tại thế gian này thì mở Thể pháp trước.Việt Nam hân hạnh đón nhận nền Đạo mới
1 - Dùng huyền diệu Cơ Bút Chí-Tôn dụng tánh đức lương sanh lập Hội-Thánh
 “Buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ độ là thời kỳ Ân xá tội tình cho toàn cả chúng sanh; lại nhơn buổi văn minh, nhơn loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức, cho nên Đức Chí Tôn dùng Huyền diệu Cơ bút giáng Cơ khai Đại Đạo, chủ nghĩa là độ tận 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đoạ cõi hồng trần nên gọi là cơ quan cứu thế.

Nếu Đức Chí-Tôn chiết chơn linh giáng thế như các vì Giáo chủ trước thì phải tá mẫu đầu thai, mang phàm thể hữu vi, lại nữa là Đạo khai trong nước Việt-Nam thì phải thọ sanh hình hài người Nam Việt thì có thể nào chuyển ba mối Đạo khắp Ngũ châu và toàn cầu thế giới đặng. Lại nữa các dân tộc trong Vạn quốc không thể hiệp đồng sự Tín ngưỡng làm một thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức Chí-Tôn giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng một Đấng Chí-linh  giáng thế cứu đời qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy nhất. Chỉ rõ bằng cớ như kỳ các Tôn giáo tại Luân đôn thì các nước đều công nhận Đạo Cao-Đài là chơn thật  có thể qui nguyên Đại-Đồng Tôn giáo và tại Toà Nội các năm 1933 Hạ Nghị Viện có 424 vị thân sĩ cùng đồng bỏ thăm toàn công nhận Đạo Cao-Đài.

Đức Chí-Tôn chẳng giáng bằng xác thân mà lại dụng tánh đức lương sanh lập quyền Hội-Thánh thay hình thể hữu vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn linh đối phó cùng quyền Chí linh, ấy là cơ mầu nhiệm cứu vớt quần sanh giải thoát khỏi chốn sông mê bể khổ.

Kỳ Hạ nguơn này dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác thế nào cũng không làm hại xác thân của Đức Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy.

Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên Luật pháp xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của tạo hoá. Đức Chí-Tôn khai Đạo kỳ ba này giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút là do nơi Thiên thơ tiền định chuyển Đạo vô vi hiệp Tam giáo Ngũ chi làm một” (ĐHP: 1-7 Mậu-Dần – 1938)

2 - Nước Nam có một CHỦ mà thôi là Thầy
Thầy dạy:  21-8-Bính Dần (Thứ hai, 27-9-1926)
 “Các con. Thầy dặn các con, từ đây ai nói chi tùy ý, cứ nghe một Thầy thì  khỏi lầm lạc.
Con TRUNG cứ lo khai Đạo, món binh khí tà quái vì đó mà tiêu diệt. Nước Nam có một chủ mà thôi:là Thầy. Từ trước vì  nhiều Đạo trong nước mà chẳng một Đạo nào chơn chánh, làm mạnh quốc dân,  nên nước phải yếu, dân phải hèn. Dân tộc các con duy biết làm tớ chớ chưa biết làm Chủ. Thầy vì thất lẽ công bình thiêng liêng ấy mới giáng trần lập Đạo tại Nam phương, tức là  thay  mặt Càn Khôn Thế giới mà qui chánh truyền nhơn loại.

Trong mối Đạo Thầy đã lập thì hằng nói tiên tri rằng: Ngày kia có một nước đương trong vòng nô lệ, vì Ta mà làm Chủ nhơn loại, các con hiểu à !”

Đừng nghe, vì nếu chẳng vậy, ngôi Giáo Tông chẳng ai dám ngồi. Tất cả sáu ngôi kia, hễ các con đến dựa thì quỉ giết chết, nghe à !

Lập Nhơn phẩm làm Thiên phẩm chẳng dễ chi mà không dùng huyền diệu. Các con hơi nào nghe lời thế sự, một điều nào cũng chưa quyết đoán cho cùng phải quấy.
- Khi Thích Ca truyền Đạo, dân Brahma cho là Bàng môn vì  khác Thánh giáo Phật đạo.
- Khi Lão Tử truyền Đạo thì  đời  cho là phép mê  hoặc.
- Khi Chúa Jésus truyền Đạo thì nhà Israel gọi là  cải  Chánh đạo, đến  đỗi  bắt  giết.

Các con muốn vừa lòng Thiên hạ thì là giỏi hơn Thầy rồi. Thầy khuyên đừng nao núng, các con ngó Thầy trước, các con coi bước Thầy đi trước, các con cứ  đi  theo sau Thầy là đủ. Cười !”

3 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI
Pháp Chánh Truyền của Đạo Cao Đài là thành văn Hiến pháp Thiêng Liêng, do Đức Chí-Tôn giáng cơ lập thành sau ngày Khai Đạo (15-10-Bính Dần) một ngày.

Qua ngày 16-10-Bính Dần (dl: 20-11-1926) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp Chánh Truyền tại Thánh Thất Gò Kén (Từ Lâm Tự) Tây Ninh.

Trước tiên là lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài phân định rõ phẩm cấp và chức năng của mỗi phẩm từ Giáo Tông đến Lễ Sanh. Mỗi phẩm đều có chữ GIÁO hay chữ SƯ. Đến phẩm Đầu Sư là Thầy của các Thầy; nghĩa là từ Giáo Hữu trở lên mới đứng vào hàng Chức Sắc, Thánh Thể của Chí-Tôn.

Phẩm Lễ Sanh chưa được vào hàng Chức sắc, chỉ là người có hạnh đức dùng vào việc lễ nghi. Ngày xưa dùng phẩm Lễ sanh này là người dâng Lễ (nay đổi ra là Lễ Sĩ)

Tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ là Phổ Độ, thế nên quyền Chí Tôn hữu hình tại thế là khi nào Giáo Tông hiệp  cùng Hộ-Pháp làm một. Từ khi Đức Lý Giáo Tông hiệp với Đức Hộ-Pháp mới lập thêm Bàn Trị sự gọi là Hội Thánh Em, do vậy mà phẩm Lễ Sanh mới được nâng lên hàng Chức sắc, có trách nhiệm thuyên bổ, đảm trách vụ đặc sứ, sau này Cai quản Tộc Đạo nên còn là Đầu-Tộc Đạo. Hội-Thánh Cửu Trùng Đài là cơ quan Hành pháp, nắm quyền hành-chánh-đạo, phổ thông chơn đạo đến khắp chúng sanh, nên Luật ghi: nếu có vị nào nói rằng không thông lý Đạo thì Chức việc Bàn Trị Sự phải chịu trách nhiệm thiếu giáo hoá mà cấp lãnh đạo là Lễ Sanh và Giáo Hữu (Đầu Tộc đạo, Khâm Châu Đạo).

Ấy phần Thế Đạo tượng trưng xác thể của Chí-Tôn.
4 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN HIỆP-THIÊN-ĐÀI:
Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng liêng mối Đạo. Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn. Hiệp Thiên Đài là Chơn thần trung gian giữa xác và hồn. Cửu Trùng Đài muốn thông công cùng Bát Quái Đài, phải nhờ Hiệp-Thiên-Đài làm trung gian, ấy là nơi của Giáo Tông đến để thông công cùng Tam Thập Lục Thiên và Thất Thập Nhị Địa cầu mà cầu siêu-rỗi cho nhơn loại. Thế nên Pháp Chánh Hiệp-Thiên-Đài phải lập riêng, đó là cơ quan

TƯ PHÁP, bảo thủ chơn truyền.
Ngày 12-01-Đinh Mão (dl: 13-02-1927) Đức Chí Tôn giáng Cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp-Thiên-Đài. Từ đây Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Chưởng Quản của Hộ Pháp,Tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân chia làm ba Chi: Pháp,Đạo, Thế

5 - LẬP PHÁP CHÁNH TRUYỀN  NỮ PHÁI:
Qua tháng Giêng năm Đinh Mão. Đức Lý dạy:
Trước khi bàn đến việc lập Pháp-Chánh-Truyền Nữ phái, nên nói qua lý-do vì sao Đức Chí-Tôn không lập mà để cho Đức Lý đứng ra lập ?
 (Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý Thái-Bạch)

“Hội Thánh nghe Lão ban sắc phục Nữ phái:
PCT:Nữ-phái phải tùng Đầu-sư Nữ-phái, song Đầu sư  lại phải  tùng  quyền của Giáo-Tông  và Chưởng Pháp.

CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải tùng quyền Đầu-sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.Nữ-Đầu-sư quyền như Nam-phái, song điều đình bên Nữ-phái mà thôi, chẳng đặng xen lộn qua Nam, cũng như Nam chẳng đặng xen lộn qua Nữ. Mỗi điều chi thuộc về Nữ-phái thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp chỉ do nơi Nữ-Đầu-sư.

Nhận xét: qua ba lần lập Pháp Chánh Truyền:
* Ngày 16-10-Bính Dần (dl:20-11-1926) lập  Pháp  Chánh
Truyền Cửu Trùng Đài. CTĐ  tượng quẻ Khảm
 (xem Dịch Lý Cao Đài I  cùng Soạn giả có giải rõ)

* Ngày 12-01-Đinh Mão (dl: 13-02-1927) lập Pháp Chánh
Truyền Hiệp-Thiên-Đài. HTĐ  tượng quẻ Ly
* Tháng 01-Đinh Mão lập Pháp Chánh Truyền Nữ-phái
Vậy là đủ Âm Dương rồi. Bấy giờ lập PCT Nữ phái nữa là hoàn thành con số 3 là Tam Tài: Thiên- Địa- Nhân, tức nhiên là lý trung hòa.

“Như vậy số 3 gọi là Tam, mà Tam là Càn khôn vũ trụ định thể. Số 3 là con số thiêng-liêng tạo-đoan vạn-vật là vậy”.

Thấy ra con “SỐ 3” này là con số huyền diệu, là con số căn bản nhất.
Hơn nữa: Thầy lập PCT Cửu Trùng Đài trước rồi mới lập PCT Hiệp Thiên Đài sau, tức là mở Thể pháp trước rồi mở Bí pháp sau. Tất cả đều đi vào nhất quán. Lý  Đạo nhiệm mầu là thế !

Pháp Chánh Truyền tức là cơ quan truyền Chánh Pháp thì do quyền năng của Thượng Đế giáng Cơ lập thành. Song song với thời gian này Đức Chí-Tôn dạy nhơn sanh lập Luật để tu, tức là Tân Luật. Như vậy thì Tân Luật này uyển chuyển hơn, nghĩa là có thể thay đổi tùy theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh.

Nếu Tân Luật là Âm, thì Pháp Chánh Truyền là Dương. Âm Dương tương hiệp thì từ đó mới biến hóa và mãi mãi trường tồn. Đạo Cao Đài thất ức niên là vậy.

Đấy là chủ nghĩa của nền Đại Đạo này thực thi phép Trời – Người đồng trị: Người trị xác, Trời trị hồn. cái lý Âm Dương luôn đứng làm nền tảng dưới mọi hình thức: Lễ nghi, Giáo lý, giáo pháp không đâu là không có. Ấy do câu “Nhứt Âm nhứt Dương chi vị đạo” (một âm một Dương ấy là Đạo)
- LẬP HỘI-THÁNH

Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ gồm ba Đài: Hiệp-Thiên, Cửu Trùng và Bát Quái.         
 “Thể Ðạo của Chí Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới toan thành lập, Chí Tôn định thành Hội Thánh, đặng thay thế hình thể của Người, thì cũng tùng theo phép

Tạo Hóa cá nhân mà gây nên ảnh tượng:
- Cửu Trùng Ðài là thi hài,  ấy là TINH.
- Hiệp Thiên Ðài là chơn thần,  ấy là KHÍ.
- Bát Quái Ðài là linh hồn,  ấy là THẦN.

Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Ðạo cho đặng. Nếu có một quyền hành nào tại thế nầy mà làm cho thân thể Chí Tôn phải chia phui manh mún ra đặng, thì là Ðạo ta là giả Ðạo, tất nó phải tiêu diệt trong một lúc ngắn ngủi chi đây.

Còn như quả là Chí Tôn vì thương yêu con cái của Người, chính mình đến lập Ðạo đặng giải thoát cho chúng sanh, thì những mưu chước của tà quyền ngăn cản bước Ðạo của Thầy khó  mong  nghịch mạng  với Chí Tôn, ắt là không mong bền vững” (PCT).

Hai Đài Hiệp-Thiên và Cửu Trùng thuộc hữu vi, dưới quyền Chưởng quản của Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Âm Dương tương đắc, tương điều hòa nhau. Riêng Bát Quái Đài thuộc vô vi, dưới quyền Đức Chí-Tôn Chưởng Quản, gồm các Đấng Trọn lành (biểu tượng phần trên nóc Tòa Thánh từ Tam Thế Phật đến tượng Đức Di Lạc Vương Phật trên nóc Phi Tưởng Đài) cũng hoàn thành số 3 tam tài

A - Hội-Thánh Cửu Trùng Đài

Lần nầy Thầy chọn đến: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị hiền, Tam Thiên Đồ Đệ.
Thầy dạy: “Giáo-Tông là Anh Cả các con” (PCT)

Chú giải: “Giáo Tông thay mặt cho Thầy, đặng bảo tồn chơn Ðạo của Thầy tại thế, thì Anh Cả nhơn sanh đặng dìu dắt các con cái của Thầy, dầu lớn tuổi hay là nhỏ tuổi, quyền Thiêng Liêng đã định vậy.

Tuy trong Hội Thánh có chia ra hai phần hữu hình là: “Cửu Trùng Ðài” và “Hiệp Thiên Ðài” mà nơi Hiệp Thiên Ðài, dầu cho Hộ Pháp cũng phải là em của Giáo Tông, song Hộ Pháp phải nhỏ về phần hữu hình đã nói trên đây, chớ phần Thiêng Liêng thì đồng vị.”

Thầy mở Đạo kỳ này chọn: nhứt Phật, Tam Tiên, đó là hàng Tiên-vị. Cái siêu tuyệt của Đạo Cao-Đài ở chỗ là quyền-hành Giáo Tông so với Giáo Hoàng của Tòa Thánh Vatican (La Mã) nhưng nhơn sanh chỉ tôn xưng Ngài là “Anh Cả”. Tiếng Anh Cả này tức là “Quyền Huynh thế ngôn” hay là “Quyền Huynh thế phụ” mà thôi. Nghĩa là nền Đại Đạo này là một đại gia đình Tôn giáo. Chữ Huynh là ANH tự nó đã nói lên: Anh là người chỉ dùng miệng (khẩu ) trên, dưới là bộ nhân là người chỉ để khuyên dạy em mà thôi, chứ không được hiếp đáp hành hạ. Bởi “Giáo-Tông là Anh Cả các con”.  Suốt hệ thống tổ chức Cửu Trùng Đài có tính nhất quán như thế:

1 - Hội-Thánh Cửu Trùng Đài Nam phái gồm:
- 1 Phẩm Giáo Tông (Nhứt Phật) Lãnh đạo tối cao toàn Đạo có phận-sự dìu dắt Đạo-hữu trong đường Đạo và đường Đời. Pháp Chánh Truyền qui định:       

“Giáo-Tông là Anh Cả các con. Có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu-dắt các con trong đường Đạo và đường Đời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn. Nó đặng phép thông-công cùng Tam thập lục Thiên, Tam thiên thế-giái, Lục thập thất Địa cầu và Thập điện Diêm-cung đặng cầu rỗi cho các con” (PCT)
- 3 Chưởng Pháp (Tam Tiên) Lãnh nhiệm vụ nghiên cứu Luật Pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn Đạo.
- 3 Đầu Sư (Tam Tiên): Cầm quyền Chánh Trị Đạo ban hành Luật Pháp Đạo.
- 36 Phối Sư (Tam Thập lục Thánh): Mỗi phái 12 vị. Trong số này có 3 vị Chánh Phối Sư làm  đầu, dưới  quyền  ba vị Đầu Sư cai trị Đạo.
- 72 Giáo Sư (Thất thập nhị Hiền): Mỗi phái 24 vị.  Có phận sự dạy dỗ Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Được quyền dâng sớ cầu nài về Luật Lệ làm hại Nhơn Sanh hay là cầu xin chế giảm Luật lệ ấy.
- 3.000 Giáo Hữu (Tam thiên Đồ đệ): Chia đều mỗi phái 1.000, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Lãnh phận sự phổ thông Chơn Đạo.
- Lễ Sanh: Không hạn định số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Đồ.

Nam Phái chia làm 3 phái: Phái Thái (màu vàng), Phái Thượng (màu xanh da trời), Phái Ngọc (màu đỏ). Như vậy các bậc phẩm gồm có: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp với các con số chia đều nhau, lấy số 3 làm ước số. Trừ Giáo Tông có một.mà thôi. Tức nhiên dù hiện tại hay mãi mãi về sau cũng vậy:

GIÁO TÔNG CHỈ CÓ MỘT

Vì là người thay mặt cho Đức Chí-Tôn, chữ  “thay mặt” phải là một người chứ không thể nhiều người được !. Ông Trời chỉ có một, người thay mặt chỉ có một. Không thể nào có ông Trời nơi này, ông Trời nơi khác. Cũng như mặt Trời chỉ có MỘT mà thôi vậy.

Tuy nhiên lý đạo cao siêu mầu nhiệm quá !
Cửu-Trùng-Đài là cơ-quan giáo-hóa nhơn sanh, là môi-trường học-hỏi, tiến-hóa theo ba bực, mỗi bực có ba phẩm-cấp. Như trên đã nói là hàng Tiên-vị tượng-trưng bằng 7 cái Ngai, mà Ngai của Giáo-Tông ở giữa, đặt trên hết và lớn hơn hết. Các phẩm cấp lần-lượt là Tiên-vị, Thánh vị rồi đến Thần-vị. Vậy trường Đại-Đạo theo như Đức Hộ-Pháp dạy:

- “Thể-pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát.”

2 - Trường hợp ngoại lệ:
- Thực tế ngôi Giáo Tông có ba: Hình vẽ sau đây biểu hiện rõ 7 phẩm tước của hàng Tiên vị, Giáo Tông vẫn làm Chủ Cửu-Trùng-Đài. Đồ hình có 7 vòng tròn nhỏ có đường kính bằng nhau. Một vòng giữa định cái tâm, 6 vòng xoay chung quanh là vai trò của mỗi vị gọi là "Các hữu Thái cực" (mỗi người là một Thái cực). Pháp chánh Truyền qui định ngôi Giáo Tông chỉ có một, nhưng thực tế có đến ba:
- Ban đầu Đức Chí-Tôn định phong phẩm Giáo  Tông cho Ông Ngô văn Chiêu, nhưng trong 10 ngày ông không vượt qua được sự thử thách của Quỉ khảo, nên rớt, ông lập Chi phái Chiếu Minh Vô-vi rồi đến Chiếu Minh Tam Thanh..nhưng công quả của Ông là làm nhịp cầu nối cho những người hữu duyên là Thánh Thể Đức Chí-Tôn lần lượt đến với Đạo (Chiêu nghĩa là mời gọi)

- Đối với nền Đại Đạo hiện giờ thì Đức Lê văn Trung là Quyền Giáo Tông để điều hành Hội-Thánh Cửu Trùng Đài hữu hình (Quyền tức là chưa chánh vị).
- Đức Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh quyền hành Nhứt Trấn Oai nghiêm, nay kiêm thêm chức

Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, là Giáo Tông vô vi.
Xem như ba vị Giáo-Tông đứng vào ba đỉnh của Tam giác đều, nội tiếp trong vòng tròn giữa."Một mà ba tuy ba cũng là một” phát xuất từ ý nghĩa “Đạo sanh nhứt, nhứt sanh Nhị, Nhị sanh tam, Tam sanh vạn vật", một là số của Trời, ba là  số của Người. Vậy:
- Đức Lý tượng cho Thần .
- Đức Quyền Giáo Tông tượng cho Khí
- Ngài Ngô văn Chiêu tượng cho Tinh.

Lẽ huyền vi của Đạo thật mầu nhiệm vô cùng, từ hệ thống tổ chức đến các nghi thức đều do theo luật Âm Dương biến hóa một cách chặc chẽ như một tấm lưới, đúng là lưới Trời tuy thưa mà không lọt “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” là vậy. Nếu không nói rằng đây là một niềm tự hào của một nền Đại Đạo
3 - Hành tàng của các Giáo-Tông:
Pháp chánh Truyền dạy: “Giáo Tông chỉ có một” nhưng thực tế thì có đến ba Giáo Tông:

1/ - Ông Ngô văn Chiêu: Đức Hộ-Pháp xác nhận:
 “Đi thâu Thập-Nhị Thời-quân rồi, Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng có một người thờ Ngài là ông Ngô-văn-Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu Ông làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ-lùng suy-nghĩ không ra nguyên-cớ là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối-Sư Hương-Hiếu may sắc-phục Giáo-Tông cho Người, kỳ hạn trong mười ngày Người sẽ được lên làm Giáo Tông. Trong thời-gian mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi ! Chúng tôi không hiểu nguyên-cớ nào Ông Ngô văn Chiêu không hưởng được điạ vị ấy. Ông Ngô-văn Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ-sứ buổi nọ, ở tại Hà-Tiên, do nơi Cơ bút, Đức Chí Tôn đến với Ngài và thâu Ngài làm Môn-Đệ đầu tiên hết, là Người được  Đức  Chí Tôn  xưng là  “CAO  ĐÀI  TIÊN ÔNG ĐẠI-BỒ-TÁT MA-HA-TÁT”.

Ngày 9-1 Bính-Dần (dl 21-2-1926)
Đức Chí-Tôn giáng Cơ ban cho Ông Chiêu bài thơ:
Bao năm dạy-dỗ quá dày công (1)
Lời hứa năm xưa gắng giữ lòng.
Siêu đọa đôi đường tua chọn lấy!
Lơi chơn một bước sẽ hoàn không!
                                                                         ( Cao Đài)

(1) có bản chép “Ba năm” thì hợp với thời gian trường trai mà Thầy đến dạy dỗ ông.

2/ - Đức Lý Giáo Tông ban “Quyền Giáo Tông” cho Ngài Thượng Trung Nhựt
Theo Đạo Nghị Định thứ hai. Điều thứ nhứt:
 “Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo-Tông về phần xác, còn phần Thiêng Liêng có Lão.

Làm tại Toà Thánh Tây Ninh, ngày mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ. Ký tên Hộ-Pháp Phạm Công Tắc và Giáo Tông Lý Thái Bạch”.

Đức Hộ Pháp xác nhận: “Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất-hiện Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài đó vậy. Sự vinh-dự này chính Đức Quyền Giáo-Tông đã được hưởng một cách xứng đáng. Bởi vì chính mình Đức Chí-Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội-Thánh. Ngài đi đến đâu Hộ-Pháp cùng Đức Cao Thượng-Phẩm theo phò-loan để Đức Chí-Tôn thâu Môn-đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu-khẩn Đức Chí-Tôn thâu Môn đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để Phổ-độ chúng-sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí-Tôn sai hết các Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài tức Thập-Nhị Thời Quân đi phò-loan cùng hết, không có chỗ nào không có Cơ Bút. Người thì xuống miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn-đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng không    một  miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo"

3/ - Thầy giao Đức Lý Thái Bạch kiêm nhiệm
Giáo Tông Đại-Đạo:

Từ khi Thầy định ban chức Giáo Tông cho Ngài Ngô văn Chiêu, thì Quỉ Vương xin thử thách ông Chiêu. Ông Chiêu không vượt qua nỗi các thử thách này nên đành chịu mất ngôi Giáo Tông. Kể từ đó ngôi Giáo Tông để trống. Nay cần phải có phẩm vị Giáo Tông để điều hành nền Đạo nên Đức Chí Tôn giao quyền cho Đức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, để điều khiển nền Đạo này. Do Thánh ngôn sau: Ðại Ðàn Chợ Lớn [tại Nhà Ngài Lê văn Trung]
Ngày 23-9-Bính Dần (dl: 29-10-1926)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phương

Hỉ chư Môn đệ, chư Nhu, chư Ái nữ. Các con nghe:
 “Thầy buộc phải nói rõ cho các con đừng lầm mà trách Thầy. Cha hiền chả biết hành hạ con cái bao giờ. Thầy đã đến mà dìu dắt từ đứa thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi. Thầy thấy các con bị phép thử thất Ba Trấn lập thành thì đã hiểu nhiều đứa bị hành. Thầy ngậm đau nuốt thảm ngồi nhìn. Thầy chẳng để thử thất, Ba Trấn trách Thầy vì yêu mến quá lẽ mà làm mất hết công bình, nhứt là Lý Thái Bạch kêu nài hơn hết.

Dầu Quan Âm và Quan Thánh xin cũng chẳng đặng. Nhứt là buổi thử thất ấy, lại nhằm ngày khai Thánh Thất thì các con đủ hiểu  là hại dường nào,  song phải dằn lòng chịu vậy. Các con ngã thì tại nơi Thầy. Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu. Lại để lời tiên tri mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn các con không đọc, lời Thầy nói cũng như không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng thế ấy.

Vậy từ đây, quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái Bạch. Các con liệu mình mà cầu rỗi nơi Người. Thầy dạy dỗ, các con không nghe, đợi có hình phạt thì các con chịu lấy.
 (Ð.Q... thượng sớ). Cười.!...(Đạo Quang)

Ð.Q: Cả môn đệ Thầy duy có biết một chớ không biết hai. Kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa thù nghịch của Thầy. Con hiểu à!

Tái cầu:
LÝ THÁI BẠCH
Hỉ chư Đạo hữu. Thiên phong bình thân.
Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các Đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền Đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng đặng  theo Thánh ý của Thầy, là bậc  Chí Tôn  đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh chúng.

Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo cũng chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy. Thưởng phạt tuy chẳng phải hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng và một sự buồn bã nào sánh đặng. Dầu có ăn năn hối hận mấy kiếp, ngày giờ cũng đã qua rồi. Ngôi Cực Lạc vẫn có người choán hết. Phần nhiều các Đạo hữu dày công mà xây đắp nền Đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế. Công đã nhiều mà bước tới nữa, dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng. Than thay! Tiếc thay!

Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền thế giới dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng bươn chải cho kịp thì, để đua nhau nghĩ tính về miếng đỉnh chung, nếu Thầy chẳng Đại từ Đại bi thì công quả đã chảy theo dòng nước. Từ đây Bần Đạo phải để ý dìu dắt bước đường cho các Đạo Hữu,  phải gắng công thêm nữa  cho hiệp với cơ Trời. Ai hữu phước thì địa vị đặng cao thêm, ai vô phần thì bị đọa Tam pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi may may đừng trách nơi Bần Đạo.Bần Đạo xin chào các Đạo hữu. Bần Đạo kiếu”.

Xem thế:
Từ nay: ngày 29-10-1926, Ðức Chí Tôn giao quyền thưởng phạt Chức sắc cho Ðức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Phép thử thất Ba Trấn lập thành, tức là Cách thử thất do Tam Trấn Oai Nghiêm lập ra để chọn lọc Chức sắc làm cho giá trị thêm cao. Thử thất là bày ra cuộc thi khả năng đạo đức, thử xem ai chịu nỗi thì đậu, ai không chịu nỗi thì rớt..Ba Trấn là Tam Trấn gồm: Lý Thái Bạch, Quan Âm Bồ Tát, Quan Thánh Ðế Quân.

Ð.Q. là Ngài Trần Ðạo Quang, Quyền Thượng Chưởng Pháp. Sau rồi Ngài cũng bỏ Đạo lập Chi Phái.

Ðọa Tam Pháp là nếu “tội phạm Thiên điều” thì bị đọa Tam đồ bất năng thoát tục. Nếu phạm các tội nặng khác như thập ác, ngũ nghịch thì bị đọa vào ba đường khổ trong Lục đạo luân hồi. Ba đường khổ nầy theo Phật giáo là: Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.

Nhân sanh niệm danh Ngài là: “Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”.

Như vậy Giáo Tông có 3 người  tức  nhiên  hiệp  đủ.
TINH- KHÍ –THẦN rồi.
- Ông Ngô văn Chiêu là TINH
- Ông Lê văn Trung thuộc về KHÍ
- Đức Lý thuộc về THẦN
“Ba mà một, một mà ba là vậy”.

4 - Đức Quyền Giáo-Tông thi-hành
Thể-pháp Đại-Đạo
Thế nên, trong buổi Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này: Đức Quyền Giáo-Tông có bổn-phận “Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu chúng”Quyển Thiên-Thơ Ngài đã nắm trọn vào tay.

Vạn sự khởi đầu nan là thế! Nhưng sự kiên-nhẫn đã giúp cho Ngài thành công là thế ! Sau cùng, Ngài đã lập vị một cách vẻ-vang, một cách xứng đáng, tám năm tròn, không dư không thiếu một ngày. Phải chăng Ngài đã thực hiện trọn hai Bát-Quái vào tay mà dìu-dắt nhơn-sanh trên con đường hành-thiện?

Hằng năm toàn Đạo đều ghi nhớ ngày 13-10 âm lịch là ngày qui Thiên của Đức Ngài. Nếu tính:

Từ ngày 15-10-Bính Dần (dl: 19-11-1.926) là ngày Khai minh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ này, Ngài hành  Đạo suốt đến:
Ngày qui 13-10-Giáp Tuất (dl: 19-11-1.934) Tính ra  là tám năm tròn không dư không thiếu một ngày.

Đức Hộ-Pháp thường nhắc-nhớ đến:
 “Cái ngôi của Ngài đã tạo dựng, cái ngôi Giáo Tông-Đường của Ngài ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ để nơi đất nước Việt-Nam này một cái báu-vật quí-giá vô cùng. Từ thử tới giờ chưa hề có. Bần-Đạo ngó qua Vatican, cái Ngai của Đức Giáo-Hoàng Saint Pierre thế nào, thì nay Bần-Đạo có lẽ nói và có thể mơ-ước rằng cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy.”

Tại sao Thầy giảm quyền của GIÁO TÔNG?
Ðây là lời Thánh giáo của Thầy đã dạy Hộ Pháp khi Người hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.

Hộ Pháp hỏi: “Thưa Thầy theo như luật lệ Thánh Giáo Gia Tô Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh chăng ?"

Thầy đáp: "Cười! Ấy là một điều lầm lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt. Hơn nữa, cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.

Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.
Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế.

5 - Người Nữ là Chức sắc và được sự
bình quyền, bình đẳng trong cửa Đạo

* Là Chức sắc: Nữ phái không chia sắc phái và có Đạo phục màu trắng. Quyền hành Nữ Chức sắc Cửu Trùng-Đài cũng y như Nam Phái, song chỉ trông coi phái Nữ mà thôi. Chức Sắc Nữ Phái khởi từ phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh, quyền hành y như Nam, nhưng tất cả tùng lịnh của Giáo Tông và Hộ-Pháp. Nữ chức sắc thì số lượng vô hạn định. Riêng về Nữ Đầu sư (1 vị) Nữ chánh Phối sư (1vị).

Đây là trường hợp hi hữu từ xưa đến giờ, là Nữ phái được tham dự vào việc tu hành: bình đẳng, bình quyền với Nam phái. Nhưng khi hành sự thì Nam chánh, Nữ phó, trong một trật tự nghiêm trang.

Thật ra trên thế giới hiện giờ Nữ phái vẫn còn biểu tình đòi hỏi sự bình quyền, bình đẳng giữa Nam - Nữ. Có nhiều nước vẫn còn nạn kỳ thị này nọ; vẫn còn nạn bán nô lệ và coi nhẹ Nữ giới, nhiều tục lệ xem ra kém văn minh vô cùng. Ngay trong đất nước Việt Nam này một số người chưa biết Đạo vẫn còn một ít gia đình đối xử tệ bạc với Nữ phái, tuy nhiên con số này vẫn rất nhỏ.

Nhưng với nền Đại Đạo này Đức Chí-Tôn mở Đạo là ban cho Nữ phái một sự bình quyền, bình đẳng thật sự. Chính đây là thể hiện “Cơ Đại Ân Xá” lần ba của Chí Tôn mà Thầy đã cho biết:
"Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ lầm tưởng là phân biệt. Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều.”

Hỏi: Vì sao từ xưa Nữ phái không được tu hành, không được học hỏi, không có trí thức, không được tiếp xúc với bên ngoài, thậm chí muốn tu phải cải Nam trang, vậy thì làm sao có được “các Ðấng Nữ Tiên, Nữ  Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều” ?

- Ấy là nhờ huấn ngôn của Mẹ đã truyền dạy từ lúc còn thơ: Nữ công, nữ hạnh, tức là Tứ đức Tam tùng; Ngay từ bé người con gái đã được rèn luyện trong cái khuôn sáo Nho phong đẹp đẽ ấy, dù  không  tu    đã thực sự tu sửa tánh tình, tu tâm dưỡng tánh. Ra lễ vào phép đoan trang. Cái nền luân lý tốt đẹp ấy theo suốt cuộc đời người con gái, cho đến khi làm vợ, làm mẹ, làm dâu thì đã có một tinh thần Phụng sự cao, thể hiện một nếp sống cộng đồng. Những việc này người Nữ đã dọn đường để đi vào thế giới đại đồng trước nhứt. Ngày nay người Nữ đã thuần thục nếp sống Lễ giáo. Sở dĩ như vậy mới có được người vợ tốt, người mẹ hiền, tạo nên những người con tài ba, đạo đức hầu phụng sự cho quốc gia, xã hội và cả đạo pháp nữa.

Xưa nay hầu hết những người con mồ côi cha thường nên danh phận hơn là con mồ côi mẹ. Điển hình là Đức Quyền Giáo Tông nên người là do bàn tay của người Mẹ, ông mồ côi cha lúc hai, ba tuổi. Đức Thượng Sanh cũng nhờ nơi Hiền mẫu mà cả gia đình đều là tay rường cột của Đạo (Mẹ là Nữ Đầu sư Hương Lự, anh cả là Cao Tiếp Đạo- Hiệp Thiên Đài, chị thứ ba là Giáo Sư Hương Cường (CTĐ), người thứ tư là  Ngài- Thượng sanh HTĐ).

Nhưng hầu như người Nữ lúc nào cũng bị một sự áp bức, bất công của một tục lệ khắc khe luôn xem nhẹ, trong cái thuyết “Nam trọng nữ khinh”. Tuy vậy mà họ đã vươn lên, tức nhiên là họ đã tu Nhơn-đạo một cách rất mực, chính chắn, đoan trang. Đến khi thoát xác lìa đời thì gần ngôi Tiên phẩm Phật, ấy là xem như đã bước qua việc tu Thiên Đạo rồi vậy. Đúng với câu: “Dục tu Thiên đạo, tiên tu Nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu Thiên đạo viễn hỉ !” nghĩa là muốn tu Thiên Đạo thì trước phải tu Nhơn đạo, nhơn đạo không tu thì Thiên đạo vẫn xa vời. Có câu Nhơn đạo rành thì Thiên đạo thành. Câu này sẽ đúng ngàn đời, vì có nhiều người đi tu là để trốn trách trách nhiệm đối với gia đình, hoặc là để ẩn dương nương Phật.

Hiện nay: các bậc phẩm của Nữ phái bao gồm: Lễ Sanh, Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư (không có phẩm Chưởng Pháp và Giáo Tông). Bấy nhiêu cũng đủ ngôi Tiên phẩm Phật dành cho người tu hành chân chính, có Tháp dành cho các bậc Nữ Đầu sư một cách vinh diệu.

6 - Đức Quyền Giáo Tông sáng lập Nữ Học Ðường
Khởi điểm là Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung thực hiện trước nhất, trong chương trình mở trường Nữ học mà nhà báo Diệp văn Kỳ viết:
 “Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường: Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn ông, hãy còn phôi thai, cậu nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự Thánh, tự Thần, xách đi cùng Lục tỉnh đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh chàng du học đem về được cái bằng cấp Tú Tài, thì đã hô lớn lên một cách rất vinh diệu, tự đắc rằng mình quên hết tiếng An Nam; đương giữa buổi mà khắp cả cha mẹ trong nước đều công nhận rằng: Cho con gái có nhiều ít học thức là một mối hại lớn cho gia đình, cho xã hội; đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng Nữ học, xin lập trường Nữ học để dạy bên gái bằng như bên trai, có phải là một việc quá bạo gan chăng ? Những người đề xướng có phải là những bực tiên kiến chăng ?

Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, như tuồng cũng cho việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ của An-Nam, nên chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho ra làm chi phí, mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp của công chúng, cất lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye; tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong Nữ giới.Vậy mà nếu ai chịu khó lật cuốn sổ lạc quyên năm nọ ra xem, thì sẽ thấy ở dưới mấy lời tuyên bố có tên của ông Lê Văn Trung là người khởi xướng đứng kế phương danh Bà cụ Tổng-Ðốc Ðỗ-Hữu. Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới chế độ chẳng phải khinh thường mà đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên đây, thời tuy nó chưa phải là những sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế cũng đủ gọi rằng khỏi mang tiếng “quì quì, dạ dạ” là cái danh hiệu của phần đông trong mấy ông Hội Ðồng, từ xưa đến nay, ở xứ này. Ðó là sự nghiệp”

7 - Phái nữ cũng đủ trí thức tài ba như Nam:
Đặc biệt là giờ này giới nữ đã tham dự vào việc công, đủ các ngành nghề trong xã hội, nào Bác sĩ, Kỹ sư, Phi công, nữ Tổng thống, Nữ thủ Tướng..tài ba lỗi lạc không thua kém Nam phái… bấy nhiêu đủ chứng tỏ rằng cái quan niệm cũ của chế độ phong kiến đã lầm, một cái lầm thật vô cùng nguy hiểm. Người Nữ đã chịu trong màn đêm u tối như vậy đã bao ngàn năm !

Từ một sự bất công do thiếu tình thương của gia đình dẫn đến nhiều sự bất công của xã hội, tích lũy thành khối đau thương. Ngày nay Chí-Tôn mới đến mở ra mối Đại Đạo này đã đưa TÌNH THƯƠNG thành LUẬT. Đó là Luật Yêu Thương mà Tam Thánh đã ký Hòa-ước thứ ba với Đức Chí-Tôn phải thực thi hai điều: Bác Ái-Công bình

Nhưng nhìn ra Thế giới chưa có sự Thương Yêu, mà khi nhân loại chưa Thương yêu thì đừng phải dài công luận bàn điều chi thêm nữa, chỉ còn hai chữ NHÂN QỦA đến với nhân loại trong buổi này mà thôi.

8 - Những ưu điểm của Đạo Cao Đài so với
các Đạo khác trên Thế giới

1 - “Nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Đức Thượng Đế đến khai sáng nơi nước Việt-Nam này, điều đặc biệt là Đức Thượng-Đế không mượn xác phàm của người Việt Nam để lập Đạo Cao-Đài. Điều này khác biệt với các Tôn giáo trước kia như Phật giáo thì mượn hình thể Sĩ-Đạt-Ta đến Giáo đạo, Thiên chúa Giáo thì mượn hình thể Đức Jésus. Nay, Ngài chỉ dùng Thiên Nhãn (Con Mắt) làm biểu tượng Đấng Thượng Đế Chúa tể Càn Khôn.

Tại sao mở Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn không giáng bằng xác thân, mà lại giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút?

a/- Mục-đích của Đạo Cao-Đài là tận-độ chúng sanh, độ 92 ức nguyên-nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần.
b/- Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng bằng xác thân mà chỉ giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút, là vì thời kỳ chuyển Đạo vô-vi hiệp Tam-thanh chấn-hưng Tam giáo Phục Nhứt Ngũ Chi nên Đức Chí-Tôn  giáng  bằng Huyền-diệu Cơ bút mới qui đặng cả Đại-Đồng Tam giáo.

 c/- Đức Chí-Tôn làm Giáo-chủ Đại-Đạo là Đấng vô hình, dùng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT dạy Đạo thì dân tộc nào cũng có thể học trực tiếp với ông Thầy Trời được, nếu họ biết dùng phép “Thông-Thần-lực”. Thế là sự bất đồng ngôn ngữ chẳng còn là một sự thắc mắc nữa.”

Bởi:
Nhứt kỳ và Nhị-kỳ Phổ-Độ: Phật, Tiên, Thánh, giáng linh Tam-giáo; nhân buổi nhơn-loại chẳng hiệp đồng nên ba vị Giáo-chủ đã thọ sanh riêng địa-phận, nên hai kỳ khai Đạo vừa qua chỉ Phổ-độ trở về cựu vị có  8 ức nguyên nhân (Phật độ 6 ức, Tiên độ 2 ức).

Còn buổi Hạ-nguơn Tam-Kỳ Phổ-Độ là thời-kỳ Ân xá tội-tình cho toàn cả chúng sanh, lại nhơn buổi văn minh, nhơn-loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức cho nên  Đức Chí-Tôn dùng Huyền Cơ diệu bút, giáng cơ khai Đạo, chủ-nghĩa là tận độ 92 ức nguyên-nhân qui nguyên vị.

2 - Chỉ lập thành Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp Thiên-Đài để thay thế hình ảnh của Đức Thượng-Đế mà dìu độ chúng sanh, cũng như người Đạo Cao-Đài không bị nghiêm cấm vào Chùa hoặc Nhà Thờ (như Hồi giáo chẳng hạn). Tuỳ theo trình độ tiến hoá của nhân loại mà Đạo Cao Đài khai sáng trên đất nước Việt-Nam.

- Lại có Chức-sắc Nữ phái là  đặc ân    khác  biệt với các Tôn giáo trước kia không bao giờ có Chức sắc Nữ phái, tức là Đức Thượng-Đế nâng đỡ phái Nữ ngang hàng bình đẳng với phái Nam”.

Đạo Cao Đài tôn thờ Đức Phật Mẫu là tôn thờ NGÔI ÂM, tức là Ngôi Thứ Nhì, còn NGÔI DƯƠNG là Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Ngôi Thứ Nhứt. Đây là một Triết lý hết sức mới mẻ và đúng đắn mà từ trước tới nay các Tôn giáo chưa từng có. Họ chỉ biết thờ Ngôi Dương mà thôi.

Đặc biệt: Niệm danh Thầy để được giải thoát…
Đức Hộ-Pháp giải trong Con đường Thiêng-liêng Hằng Sống: “Hỏi thử tội tình của chúng ta đã làm trong kiếp sanh, Đức Chí-Tôn để trong phương-pháp nói rằng Tội tình các con đầy dẫy nơi mặt địa cầu này mà đến giờ chót, các con biết kêu danh Thầy thì Thầy đến cứu, Thầy đem bí-pháp giải thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là “Nam-Mô Cao-Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma-Ha-Tát”.

Đề VIII  -  Tâm lý học. Tâm lý con người

- Trong thời bình trị ra sao? Của kẻ phú quí ra sao?
- Nhứt là phương diện Tín-ngưỡng, trình độ nhơn loại hiện giờ ra sao ? Ảnh hưởng phong trào vật chất do khoa học gây nên thế cuộc nào ? Chỉ chỗ sai lầm qua tư tưởng hiện tại.
- Làm cách nào đem con người lại đường Đạo (Sưu tầm các phương pháp hạnh phúc cứu thế)

Muốn thấu triệt và giải được các vấn đề trên một cách thỏa đáng, có thể chỉ nên thu vào hai chữ NHÂN QUẢ. Sau đó sẽ luận về Sự Yêu thương. Bởi vì:

“Chân lý Giải thoát có thể tìm thấy trong các Tôn Giáo: Lão Giáo, Phật giáo, Nho Giáo và Thiên Chúa Giáo khi thể hiện SỰ THƯƠNG YÊU”.

Nhưng tất cả đều thấy nhân loại hiện giờ thiếu chữ  THƯƠNG YÊU. Thiếu vắng một cách trầm trọng.

Những sự kiện này đầy dẫy trên thế giới, ngay cả những nước gọi là văn minh vật chất đã đứng vào bậc nhất cũng chịu nạn khủng bố, như nước Mỹ. Các nước này đã hứng chịu nạn sóng Thần một cách tồi tệ nhất lịch sử. Mà ngay tình đoàn kết giữa con người cũng không có. Họ vẫn đánh nhau giữa bàn Hội nghị. Những nạn biểu tình, xuống đường. Ỷ mạnh hiếp yếu, đem quân sát phạt nước nhỏ vì mục đích tham vọng số mỏ dầu hỏa của Irak mà muốn tiêu diệt cả một chế độ Sadam Hussen. Sự thật ngay cả Iran cũng ngấp nghé triệt tiêu…Hỏi tình người ở đâu?
- Hầu như đã khô cạn hết rồi. Qua hai bài thơ xướng Họa giữa Đức Hộ-Pháp và Bát Nương Diêu-Trì-Cung có câu này cho thấy rõ lòng người của thời buổi nay là thế:
“Năm sông đua chảy năm sông cạn,
“Bảy núi nổi tan bảy núi dời”

Nếu nói rằng sông cạn núi mòn thì ngày nay đã hẳn, nhưng tiếc vì năm sông trong con người tức là Ngũ Luân, Ngũ Thường dường như cũng cạn rồi. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đã mất đi chỗ đứng cao đẹp của thuở nào. Trong nhà nếu Cha không từ làm sao có con hiếu “Phụ từ tử hiểu”. Rồi quân bất minh thần bất trung. “Quân minh thần trung” cũng đã lệch thước nghiêng đòn rồi. Còn tình phu phụ thì thay đổi dễ dàng như thay xiêm đổi áo. Phong dời tục đổi. Những gì gọi là cao quí ngày nào, giờ đây hầu như bán rẻ hết rồi. Lâu nay câu “Tiên học Lễ hậu học văn” đã nằm yên trong xó tối của cuộc đời, giờ này mới được dựng lên khi đó biết bao Thầy Cô giáo đã từng vào Bệnh viện, giờ đây mới xuất hiện để làm lá bùa trừ bọn học trò phản thầy hại bạn, nhưng nhà trường vẫn từng hốt hoảng trước làn sóng bạo hành. Cái dịch bệnh này còn kinh khủng hơn dịch tả, dịch cúm là khác, vì không còn thuốc chữa.

Bảy núi dời tức nhiên Thất tình cũng bị chênh lệch đi nhiều: Hỉ, Ái, Lạc, Dục, Ai, Ố, Nộ đã biến thiên theo sóng Thần cao hạ, theo bão giông mà chữ “yêu” bấy giờ là yêu vội sống cuồng. Con nít còn ôm bình sữa mà cũng biết thẹn thuồng trước trò trai gái. 14 tuổi đã biết làm một sản phụ. Học sinh tới trường trai gái ngồi chung ban đầu mắc cỡ, sau dẫn đến chỗ vắng mà trao đổi “tình yêu đầu đời” khi hãy còn răng sữa. Ôi cái buổi Hạ nguơn sao lắm trò đến thế ! Học sinh đến trường cầm giấy đến phòng tư vấn phá thai, nạo thai nhiều hơn bài học.  

Có lần một người bạn nước ngoài về nói với tôi như vầy: Tại sao người Việt Nam mình mỗi điều gì cũng phải cầu nguyện, việc gì cũng phải coi ngày, nhưng rồi khổ vẫn hoàn khổ, có được gì hơn ? Còn các nước văn minh như Mỹ chẳng hạn sống một cuộc sống hết sức tự do, tự tại.?

Câu trả lời của tôi lúc ấy có thể còn nhiều thiếu sót, tôi chỉ nói rằng: cái phong hóa cao đẹp của Việt Nam nhiều đời. Sống biết tôn trọng người lớn kẻ nhỏ, tuy nhiên còn phải kỉnh trọng cái Nho phong của tiền nhân để lại, tức là cái văn minh tinh thần của dân tộc vậy. Nếu không đi con đường Trung dung (Trung dung Khổng Thánh chỉ rành)  này mà làm lệch cán cân Nhân Nghĩa thì phải chịu luật trả vay nặng nề lắm. Tuy vậy Việt Nam đã phải chịu trả quả rồi, nhưng vì nhờ đạo đức luân thường biết giữ, nên trả từ từ, giống như trả góp vậy. Còn các nước Tây phương đi vào thái quá, đến khi trả phải trả một lần cả vốn lẫn lời e không chịu nỗi. Ngày nay mới chứng minh sự thật về cái “văn minh khoa học” văn minh vật chất cao độ..

Nhìn bạn mình ngày nay đã thi vào quốc tịch Mỹ, Anh, Pháp, thật hết sức huy hoàng rạng rỡ biết bao !. Về lại quê hương sao mà quê mùa dốt nát thế, không chịu nỗi mùi cá kho, nước uống của quê hương, mà phải ôm kè kè chai nước riêng giải khát, không ăn được cơm Việt Nam đạm bạc. Sao mà thiếu vệ sinh đến thế. Anh chị nào cũng đổi tên Mỹ, tên Pháp. Hãnh diện hay đáng thương ? Có ai thương hại giùm một kẻ đã vong bản, một kẻ đã mất gốc  không ? Chối từ tổ quốc, chối cả cái tên cúng cơm mà mẹ cha đã đặt ngày nào. Họ quên đi rồi  cái nôi ngày cũ. 

Thế nên trước tiên nên đề cập về:
Luật nhơn quả để răn Thánh-đức,
Cửa luân-hồi nhắc bực cao-siêu.
Dầu chăng phải mực Thiên-điều,
Cũng quyền tự chủ dắt-dìu thiên-lương.

1 - LUẬT NHÂN QUẢ

 Đức Hộ-pháp thuyết: Đền Thánh đêm 30-5-Nhâm Thìn (1952) rằng: Đêm nay Bần Đạo giảng về Luật nhân quả. Hai chữ nhân quả là danh từ mà Tiên Nho đã đề: Chữ Nhân theo nghĩa chánh của nó là chỉnh lại hay dò lại. Nối luôn theo chữ quả thì chữ nhân ấy đồng khuôn chữ đại. Quả là chắc chắn mạnh mẽ, chúng ta thường hay dùng tiếng quả quyết lắm, dùng chữ quả quyết hay là mạnh mẽ chẳng hạn. Chữ nhân quả dịch ra nghĩa lý tiếng Phạn là tiếng Karma, thiệt tiếng Phạn có nghĩa là làm cái chi phải trả cái nấy, phải bồi thường, ta có thể hiểu nó là khuôn luật “vay trả” đó vậy.

Khuôn luật ấy huyền bí vô cùng, tại liên hệ với chữ Karma. Quyền Chí Tôn tiếng Phạn đề “Boudha, Shama, Saya”. Tức nhiên câu niệm của chúng ta: Phật- Pháp- Tăng. Tiếng Karma liên hệ với Pháp như thế ấy, có định luật thiêng liêng của nó, vì không thể lấy trí khôn ngoan của chúng ta mà suy đoán luận biện cho đặng. Chúng ta thấy cũng như cả toàn thể từ xưa đến giờ dầu cho bực Thánh nhân Hiền triết ta để con mắt quan sát tiềm tàng thấy khuôn luật ấy nó vô hình mà nó quả quyết làm sao, chắc chắn làm sao. Người ta kiếm tìm khuôn luật ấy thì thấy rằng: Có một quyền năng vô đối là quyền năng của Đức Chí Tôn, tức nhiên Đấng tự hữu kia để trong tay Đấng đó mới có thể cầm quyền về khuôn luật đó mà thôi.

Bởi sự quan sát ta thấy luật nhơn quả ấy về cá nhân cũng thế, gia đình cũng thế, xã hội cũng thế, mà nói chung toàn thể nhân quần trên mặt địa cầu này cũng thế. Nhân quả ấy, người ta đã tìm hiểu thấu đáo, hễ càng tìm tòi càng thấy kinh khủng làm sao:

Tỉ như một gia đình, trong một cơ quan tạo dựng gia đình ấy, nó do nơi ác hành tạo dựng, thì gia đình ấy chẳng hề tồn tại. Một xã hội nào, một quốc dân nào do nơi ác-hành mà tạo nghiệp, thì xã hội đó, quốc dân đó không bao giờ bền vững. Nếu chúng ta không nói quả quyết rằng nó sẽ bị tiêu diệt mà chớ. Nhơn quần và cả nhơn loại giờ phút này chúng ta thấy quả quyết làm sao không thể gì luận được.

Luận về nhơn quả cá nhân ta hay một đại nghiệp ta nói: Tỉ như Tần Thủy Hoàng, muốn đem văn hiến của Ấn thay thế văn hiến Nho dám đang tay khi Nho, đốt sách chôn học trò, tưởng thi hành thủ đoạn ấy tiêu diệt nhà Nho được. Chúng ta thấy nhà Nho vẫn còn, còn cơ nghiệp của Tần đã tiêu diệt. Bần Đạo không nói cả cơ nghiệp của Tần mà thôi, mà cả cá nhân của Tần Thủy Hoàng cũng vậy. Ngài Sở Bá Vương vô lấy Ly Sơn rồi biết Tần Thủy Hoàng chôn nhiều vật báu, khi đào lên thì của báu ấy đã tiêu hủy. Chúng ta tưởng coi có một đại cơ nghiệp của nhà Hớn, Hớn Bái Công đã lấy tình đức lập nghiệp, lấy Nhơn Nghĩa làm căn bản tới 800 năm, khi đến nạn diệt tận rồi cũng còn Hớn Hiến Đế nối nghiệp, qua Hớn Chiêu Liệt tức nhiên Lưu Bị biết khí số nhà Hớn đã mãn, muốn kiếm phương kéo dài mảy mún, tức nhiên để lại cho Hậu Chúa một đôi giáp quý vô cùng, Ngài nói với Hậu Chúa tức nhiên Á Đẩu rằng: “Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi, vật dĩ thiện tiêu nhi bất vi”, nghĩa là đừng vì ác nhỏ mà làm và cũng đừng vì thiện nhỏ mà không làm. Về cá nhân hay xã hội đều đứng trong khuôn luật ấy cả.

Bây giờ nói về Tôn-giáo, thì Đức Phật Thích Ca cầm Bình Bát Vu đi xin ăn đặng nuôi kẻ nghèo nàn đói khó nơi “Cấp cô độc viên” mà cái Đạo của Ngài tới 2.500 năm vẫn còn bền vững. Nó vẫn giàu có, cả văn minh Phật Giáo đã truyền bá toàn cõi Á Đông này, nếu chúng ta thấy của cải vô biên vô tận của nó, chúng ta không thể gì tính toán được (vô toán).

Thêm nữa Đấng chịu khổ nhục đi ăn xin từ bữa, chịu hèn hạ ấy lại còn bị chúng bắt đóng đinh trên cây Thập Tự Giá “Lên án là kẻ côn đồ” kẻ hung bạo, cướp bóc. Đấng ấy đã tạo Đạo của Ngài. Giờ phút này nếu cả toàn mặt địa cầu này cũng chưa có ai sang cả cho bằng. Nhơn quả của một người tạo nghiệp hay nhơn quả của vị tạo Đạo; hai cái đó trọng yếu vô cùng không thể gì luận được.

Nãy giờ nói của người ta, bây giờ mình phải nói tới của mình. Đức Chí Tôn nói với môn đệ của Ngài, Ngài lấy kẻ nghèo khó, hạng nhứt là Ngài đến với một quốc dân hèn hạ, quốc dân còn bị lệ thuộc của người, làm tôi đòi thiên hạ, Ngài lấy phần tử ấy làm Thánh Thể của Ngài mà tạo nền Chơn Giáo, Ngài lấy quốc dân nô lệ trong giờ phút tạo nghiệp của Đạo. Cả con cái của Ngài tạo dựng nên hình tướng của nó, không cướp bóc của ai, không cầu lụy ai cho mình mà làm cái nhân ấy quý báu làm sao, lại nữa người tượng trưng lấy nó, cơ thể hữu hình là người chủ quyền lo tạo dựng nó, thân phải hèn hạ truân chuyên, bị thiên hạ áp bức đè nén hiếp đến nỗi thân của họ bị đồ lưu, tù tội, cái nhục nhã hèn hạ của họ, ngày nay đem vô luật nhân quả thế nào? Thì toàn thể con cái của Đức Chí Tôn luận lại thì hiểu”.

Đức Hộ-Pháp thuyết Đạo tại Đền Thánh Tòa Thánh Tây ninh, ngày 15-06-Mậu-Tý (dl: 21-07-1948)

Hôm nay Bần Đạo giảng về Luật Nhân quả vay trả của nhân loại trong thời kỳ Hạ nguơn hầu mãn bước sang thời kỳ Thượng nguơn Thánh Đức.

2 - LUẬT NHƠN-QỦA PHÁP ĐỊNH (Loi Karmique)

Nhơn là cái khởi điểm. Quả là sự thành tựu. Sự nhân quả ấy luôn luôn đúng trong mọi thời gian lẫn không gian, thế nên gọi là Luật, tức là Luật Nhân quả. Dầu trong thiên hạ có người tin đến mức tuyệt đối, thì vẫn có nhân quả; hay chí đến có những kẻ không tin trưởng điều gì cả, thì nhân quả vẫn xảy ra. Pháp định là có trong luật pháp định quyết

Nhơn nghĩa là ta đã có làm điều chi thì Quả của nó trả lụng lại. Cái Luật Nhơn Quả của Phật Thích Ca nó trúng trong chơn lý lạ thường, Đức Ngài cũng thế: Ngài cũng sống, Ngài đã chịu trong cái Luật quả kiếp ấy luân chuyển từ vật hình dĩ chí cho tới Phật vị, cái quả kiếp của Ngài nó phải chơn thật không thể tưởng tượng được, hễ bỏ nó ra không có cái triết lý nào giải nghĩa kiếp sanh con người cho nó mực thước hết. Cái Luật Nhơn Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta.

Đại Từ Phụ đã làm chứng trong Bài Thơ của Ngài:
Đài Vân Quan Võ để Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc cân.
Muôn phước ngàn lần không sót một,
Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần”.

Nói như thế đó, chính mình Đại Từ Phụ đã nói rằng:“Quả kiếp Nhơn quả của con người, luật ấy hiển nhiên vẫn có thiệt đó vậy”.

Đức Hộ-Pháp nói như vầy: Hôm nay, Bần-Đạo giảng về “Luật nhân quả vay trả của nhân lọai" trong thời kỳ Hạ nguơn hầu mãn bước sang thời kỳ Thượng-nguơn Thánh-Đức. Các con ráng ẩn-nhẫn để Ông Trời hát từ màn cho các con coi; các con trông cho đời mau tới, tới chừng tới các con khóc mẹ, khóc cha luôn. Bần-Đạo nói thật cái quyền năng vô đối của Đức Chí-Tôn một nháy mắt không còn một sanh mạng nơi quả địa cầu này, không cần một tích-tắc đồng hồ, những nhân nào quả ấy trả cho rồi đặng lập đời Thánh-đức mà thôi. Một ngày kia Trung-Cộng và Căm-bốt (Cambodge) chết không còn một con đỏ, bởi vì Cambodge nghe lời xúi giục của người ta thành ra phải chết hết. Các con biết sau này sắc tộc, sắc tộc đánh nhau; Tôn giáo, Tôn giáo đánh nhau. Đài-loan từ Hồng-Kông tản cư qua Việt-Nam trước, bởi vậy người hành ác mà mình theo họ, mình ôm eo ếch họ rồi họ trật chân, sút tay, họ té chết thì mình cũng chết theo họ mà thôi, thành ra người Miên (Campuchia) còn có bao nhiêu giống bên Việt-Nam đó thôi, các con ráng thương giùm họ. Nói về Trung-Cộng là đứa con cưng của Đức Chí Tôn, nên Đức Chí Tôn mới cho Lão-Tử, Khổng Tử và Mạnh-Tử giáng trần dạy Đạo: làm lành lánh dữ, nhưng hiện nay Trung-Cộng theo cái thế sắc thủ đắc nguyên tử, sức mạnh là trên hết, tất cả mộng làm bá chủ hoàn cầu Các con nhớ rằng: dữ tận hiền thăng, mạnh thua yếu được, nhu-nhược trường tồn “xỉ cương tắc chiết” nhơn-lọai trả quả với nhau, các con chịu cái nạn chung, trả từ đời Hồng-bàng đến giờ. Tổ-phụ ta khi xưa cũng ác tâm lắm, ỷ mạnh hiếp yếu, diệt chủng những nước yếu hèn nên phải chịu LỤÂT NHƠN QUẢ ngày nay. Bần  Đạo lấy làm mừng cho nước Việt-Nam trả hết món nợ tiền khiên mà Tổ-tiên chúng ta vay từ thuở bị nô lệ, nay không còn nô-lệ nữa. Vậy thời oan trái đã trả xong. Các con để tâm suy nghĩ; ngó thấy ở dưới thế-gian này ai mạnh cho bằng Tần Thủy-Hòang, Thành-Cát Tư Hãn? Có ai mưu sĩ cho bằng Tào-Tháo ? Còn Đức Thích-Ca, Đức Chúa Jésus-Christ không có một tấc thép trong tay để bảo vệ lấy thân mà làm bá chủ hòan cầu mới là lạ cho chớ ! Hành ác trả ác, hành thiện trả lại thiện mà thôi, “Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu” (tuy lưới Trời lồng lộng mà chẳng lọt một mảy lông) không bao giờ sai chạy. Bần-Đạo nói ra đây các con ráng mà nhớ: các con đừng có mộng làm giàu cho mắc công; các con bây giờ sống trên nắp thùng nổ của bom nguyên tử, dù muốn dù không các con phải chịu ăn bom nguyên-tử mà thôi, các con muốn trốn bom nguyên-tử phải chun trong đám đậu nành mà trốn chớ không trốn đâu khỏi hết. Sau này nước Việt-Nam còn sống nhiều nhờ biết chay lạt tu-hành, còn các nước khác chỉ còn sống lưa thưa mà thôi vì họ hành ác chạy đua võ-trang giết người hàng lọat, nên Đức Chí-Tôn mới phạt họ. Năm ngàn năm trở lại đây, biết bao nhiêu Đấng xuống trần dạy Đạo, khuyên nhủ cho người ta biết làm lành lánh dữ, nhưng tánh nào tật nấy, dữ cũng vẫn dữ mà thôi. Họ không có hiền bảo người ta hiền làm sao cho được? Trước khi dạy người, ta phải hiền trước để làm gương mẫu; hiền lành trước đi thì người khác mới noi theo, nên Đức Chí-Tôn mở Đạo lấy THƯƠNG-YÊU làm gốc: CÔNG-BÌNH, BÁC-ÁI. Ngày nào cả nhân-lọai trên mặt địa cầu này biết nhìn nhận Đức Chí-Tôn là Đấng Cha chung thời ngày ấy mới được Hoà-bình vĩnh-cữu.Tóm lại ai hành ác mặc họ, Tín đồ Cao-Đài ráng lo tu, chay lạt, đi cúng hằng ngày, phải nhiều thời, nhiều pháp, nhiều kinh, cầu xin Đức Chí-Tôn giảm tội cho họ. Nếu họ biết ăn năn hối cải mà làm lành lánh dữ, bằng không phải trả giá rất đắc.”HP thuyết 15-6-Mậu-Tý 1948)

Quả thật mấy năm nay nhân loại phải chịu nạn vay trả một cách kinh khủng mà hầu như lịch sử nhân loại chưa lúc nào thảm thương dường ấy. Nào động đất, sóng thần, đất núi lỡ đá chùi, đủ thứ bão: bão bùn, bão giông, bão cát, bão tuyết… thậm chí đến bão mặt trời. Ôi !

3 - ĐỨC THƯƠNG YÊU LÀ CHÚA CỦA THÙ HẬN
 “Thầy đã dạy, Thầy chỉ một lòng mơ ước cho các con biết thương yêu nhau trong Thánh đức của Thầy. Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam thập lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự thương yêu, thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi. Có câu nầy nữa: "Mọi sự khó khăn Thầy gánh vác, chỉ cậy các con thương yêu gắng công độ rỗi".

Đức Hộ-Pháp nói: “Hại thay ! Đến giờ, con cái của Ngài không biết mình ở đâu ? Làm gì ? Đấng Chí-Tôn tạo ra vạn-vật chỉ xin có một điều là THƯƠNG-YÊU với nhau, đặng qui tòan con cái của Ngài cố gắng lập Đại gia-đình làm một. Có con mắt mà thiếu Đức-tin, không cố gắng có trễ hay chăng ?

Đức Ngài quả quyết: “Nó nên hình bởi sự THƯƠNG YÊU, trưởng thành trong sự THƯƠNG YÊU, bởi hình chất của THƯƠNG YÊU. Hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng kiện, nó sẽ làm Chúa cả thù hận và quyền năng thù hận không hề xâm lấn nó được. Nói quả quyết Bần-Ðạo đã đánh tan thù hận ra, khi các phe đảng dùng quyền lực chiếm ngôi vị của Chí-Tôn để tại mặt thế nầy, Bần-Ðạo đã can đảm dùng quyền của Bần Ðạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng thiêng liêng của Ðạo. Bần-Ðạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần Ðạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình thể của Chí-Tôn cho trọn THƯƠNG YÊU. Bần-Ðạo dùng can đảm gánh lấy cả thù hận của thiên hạ mà bảo tồn khối THƯƠNG YÊU của Chí-Tôn vô đối, không cho hoen ố, nhơ bợn. Tại sao mà Bần-Ðạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó ? Bởi biết nó là Chúa cả hình ảnh của quyền trị thế tương lai, nó là Thầy thiên hạ đặng trị thế, nếu không trọn vẹn, nó lưu lại kiểu vở thô bĩ nhơ nhớp, thì không thế gì làm Thầy  thiên hạ đặng.”

4 - PHẢI THƯƠNG YÊU VÔ TẬN NỮA KÌA
Trong Phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo, Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc đã dạy rằng:
 “Phải thương yêu vô tận. Ấy là chìa khóa mở cửa Bát Quái Đài tại thế này.”

Các Tôn giáo cũng đều có dạy sự thương yêu, nhưng  trên căn bản thực thi có khác nhau, như:
- Đạo Nho lấy Nhơn Nghĩa làm căn bản,
- Đạo Lão lấy Công chánh làm căn bản,
- Đạo Phật lấy Từ bi - Bác ái làm căn bản.

Tất cả cũng đều xuất phát từ cái Tâm yêu thương. Nhưng thế nào là “Sự thương yêu vô tận”? Theo chơn truyền của Cao Đài giáo thì sự thương yêu vô tận tức là thương yêu không có phân biệt ranh giới, không có định hướng, tức là thương yêu cả kẻ thù. Lời giáo huấn của Đức Hộ Pháp về “THƯƠNG YÊU VÔ TẬN”.
Chỉ cần con để dạ một chữ Thương.
Thương mình vậy thương ai cũng vậy.
Lòng tình ái sao cho lừng lẫy,
Cái khí thương động dậy Trời già.
Chẳng phải thương chỉ trọng người ta,
Dầu cầm thú cỏ hoa cũng đoái.
Thương chẳng biết biệt phân phải trái
Dầu khôn ngoan ngu dại cũng thương.
Phàm tình thương chẳng có độ lường,
Thương cho đến hơi sương giọt nước.
Tình thương vốn ngoài vòng tội phước,
Với kẻ thù thương được cũng nên thương.
Tình thương kia ví đặng phi thường,
Hòa giọt lụy đau thương lau thế sự.”
                                                              (Phương tu Đại Đạo)

Yêu thương vô tận là sự yêu thương vô điều kiện, không mặc cả, không thiên lệch, không nặng nhẹ, không trông mong sự đền đáp, không trông chờ ân huệ bất cứ từ đâu, ngay cả ân huệ của Thượng Đế, tức là thương yêu lấy thiên lương nhân cách làm căn bản, không do động cơ trục vật, vụ lợi thúc đẩy. Nên Đức Hộ Pháp đã dạy rằng: “Sự thương yêu không thể cần cái này, bỏ cái kia, chê cái nọ, khen cái khác... Thương yêu phải lấy công tâm mà định...”
 (ĐHP: Thuyết đạo đêm 01-08 Canh Dần- 1950).

CHUNG

Thân tặng quí đồng Đạo và toàn Độc giả kính mến
Lời cảm ơn
Trước đây, vào năm 1972 tôi có dịp tham gia chương trình Khảo-Cứu-Vụ của Ngài Hiến Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài tái lập, nhưng chỉ được một vài lần hội họp bàn thảo gì đó rồi vắng bóng luôn. Vì lâu ngày hầu như quên lãng, tuy nhiên cái âm vang này hình như  vẫn còn văng vẳng bên tai…  

Thật ra tôi rất cám ơn Ông Thanh Minh đã gửi cho tôi “Chương trình Khảo Cứu vụ của Đức Hộ-Pháp” đã đề ra từ ngày 15-12-Đinh Hợi (dl: 25-01-1948) nên khi nhận được chương trình chỉ mấy trang thôi mà tôi làm việc ngày đêm, nghe như lòng mình thôi thúc sợ rằng không kịp:
- Phải chăng tôi sợ trước nhất là một người vì Đạo Tâm cao quí như ông Thanh Minh hẳn ông chưa muốn “ra đi”. Vì “đi” sớm là chấm dứt buổi lập công như thế này.
- Thứ hai là tôi ngại rằng chính tôi không đủ thì giờ mà làm một lúc nhiều công việc chăng?

Do vậy mà tôi chỉ dám bạo gan viết đủ ba quyển mà Thầy đã đề ra trong Chương trình “Huấn luyện Cấp Sơ đẳng- Cấp Trung đẳng- Cấp Cao Đẳng” mà thôi.

Riêng tôi xin ghi là “Học Đạo cấp I, II, III”, nhưng khi viết thì thấy rằng phải viết thêm nhiều nhiều để “Trả bài” cho các Bạn là những người bạn quí nhất trong đời tôi hôm nay, vì nghĩ rằng cuộc hành trình, cuộc viễn du nào rồi có lúc phải quay về. Thế nên những lo ngại như vậy mà tôi không đề Tập 1, 2, 3 gì cả. Bây giờ tôi thấy rằng có thể viết được nhiều hơn hầu tặng quí đồng Đạo và độc giả bốn phương. Vậy làm phiền quí đồng Đạo hiểu giùm cho các Quyển không ghi là TẬP 1 cho mỗi quyển I, II, III  chẳng hạn.Vì tôi được các Bạn cho biết là tâm đắc đề tài này hơn

Để đáp lại tình Huynh Muội, thì khi viết xong, tôi  gởi biếu trước Soạn phẩm vừa ra đời cho Ông Thanh Minh,  được ông ghi mấy dòng này để gọi rằng khích lệ:
Rất cám ơn, Cám ơn người, cho tôi lời quí báu !
Tây Vức đồ, Thánh Địa Tây Ninh.
Ngày 26-11-2010 (Âl: 21-10-Canh Dần)
Kính gởi Nữ Soạn giả Nguyên Thủy,

Thưa hiền Muội kính mến,
Tôi vừa nhận được quyển Khảo Cứu vụ III vào lúc 8 giờ ngày 26-11-2010 (Âl: 21-10-Canh Dần).

Mừng thay! Soạn giả đã hoàn thành xuất sắc Chương trình Khảo Cứu vụ do Đức Phật Phạm Hộ-Pháp ban hành từ năm Đinh Hợi đến nay, vẫn chưa có người đạo tâm gia công biên soạn theo hệ thống “Sơ đẳng- Trung đẳng- Cao đẳng” theo kỷ cương Đại Đạo.

Đây là một công trình đại công trong cửa Đạo, đồng thời là một đại ân nhân cho chư độc giả học Đạo, nghiên cứu giáo lý Tam giáo và Ngũ Chi…

Quả thật xứng đáng bậc tài nhân lưu loát Dịch Lý, Đạo-lý uyên thâm, đấy là thiên tài chẳng phải ai muốn cũng được vậy.

Trên tinh thần đạo nghĩa cao đẹp này chắc chắn Soạn giả sẽ được Đức Phật ban đặc ân, khích lệ trí huệ gia tăng. Riêng phần Tôi coi đây là công trình tuyệt tác có một không hai (vì hơn nửa Thế kỷ vẫn chưa có người thực hiện).

Thật trọng ơn, tưởng chừng như không có vinh hạnh được xem trọn bộ ba Tập  vừa tốn công lẫn tài vật của Nữ Soạn giả.
Người gửi
(Ký tên)
PHẠM NATHAN
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét