Ðến năm 30 tuổi nghe Saint Jean Baptiste truyền giáo
tại bờ sông Jourdain, cũng trong lúc đó, Ðức Chúa đến gặp ông đang giải oan cho
thiên hạ. Khi vừa thấy Ðức Chúa ở xa xa đi đến thì ông đã biết là Ðấng Chúa Cứu
Thế, mới nói: "Từ sáng đến giờ tôi chỉ chờ có một người nầy thôi”. Ðức
Chúa đến thọ giáo nơi ông Thánh Saint Jean Baptiste và thọ phép
Giải Oan của Ngài. Trong buổi vừa hành pháp xong, Ðức Chúa ở bờ sông Jourdain vừa bước lên thì trên không trung hiện ra hào quang sáng suốt, hiện ra giống như chim bồ câu trắng (colombe) sa giữa đầu Chúa, ngay giữa thinh không có tiếng nói: "Nầy con yêu dấu của TA, cả ân đức của Ta để cho Ngươi đó". Từ ngày đó Ðức Chúa Jésus là chơn linh Ðấng Christna giáng hạ cho nên đi truyền giáo nơi nào, chơn linh Ngài không phải như ngày sanh nhựt nữa, mà đã biến thành Chí Thánh vậy. Ngài là chơn linh Thánh sống trước mắt cả thiên hạ đạt cả Ðạo Giáo, Ngài quan sát nơi mặt thế nầy, Ðức Jésus Christ không kém hơn ai trong hàng Giáo Chủ. Ngài để nhứt tâm lẫn tuất thương sanh, yêu ái người thật nồng nàn chơn chất. Ðức Thích Ca thế nào thì Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên hạ thương mến nghe theo Ðạo Giáo của Ngài. Dân Juif các vì Giáo Chủ buổi nọ, luôn các vua chúa Palestine, thấy Ðức Chúa Jésus Christ thuyết Ðạo Giáo có một chí hướng chơn truyền phản khắc với tôn chỉ của họ, họ oán ghét, tìm phương giết Chúa, đến đầu cáo với César rằng: "Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn Juif ra khỏi sự thống trị của chế độ Romain", nhưng họ cáo đủ thứ cũng không được, vì Thánh đức của Chúa không thể phạm vào được. Họ lại tìm cách bài bác Luật Ðạo, tạo một ban tuyên truyền làm cho nhơn gian sợ di hại liên lụy không dám gần Chúa. Mấy Giáo Chủ (Caiphe) ấy bắt Jésus giao cho Nguyên Soái Pilate lên án tử hình. Tuyên truyền thế nào không biết cho đến ngày Lễ Pâques là ngày thả tù nhơn, có tên Barabbas là Tướng hung dữ, sát nhơn đủ tội lỗi mà toàn dân Juif đồng tha bổng, còn Ðức Chúa Jésus chúng không tha, lên án tử hình và đem ra giết, đóng đinh trên cây Thập Tự.
Giải Oan của Ngài. Trong buổi vừa hành pháp xong, Ðức Chúa ở bờ sông Jourdain vừa bước lên thì trên không trung hiện ra hào quang sáng suốt, hiện ra giống như chim bồ câu trắng (colombe) sa giữa đầu Chúa, ngay giữa thinh không có tiếng nói: "Nầy con yêu dấu của TA, cả ân đức của Ta để cho Ngươi đó". Từ ngày đó Ðức Chúa Jésus là chơn linh Ðấng Christna giáng hạ cho nên đi truyền giáo nơi nào, chơn linh Ngài không phải như ngày sanh nhựt nữa, mà đã biến thành Chí Thánh vậy. Ngài là chơn linh Thánh sống trước mắt cả thiên hạ đạt cả Ðạo Giáo, Ngài quan sát nơi mặt thế nầy, Ðức Jésus Christ không kém hơn ai trong hàng Giáo Chủ. Ngài để nhứt tâm lẫn tuất thương sanh, yêu ái người thật nồng nàn chơn chất. Ðức Thích Ca thế nào thì Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên hạ thương mến nghe theo Ðạo Giáo của Ngài. Dân Juif các vì Giáo Chủ buổi nọ, luôn các vua chúa Palestine, thấy Ðức Chúa Jésus Christ thuyết Ðạo Giáo có một chí hướng chơn truyền phản khắc với tôn chỉ của họ, họ oán ghét, tìm phương giết Chúa, đến đầu cáo với César rằng: "Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn Juif ra khỏi sự thống trị của chế độ Romain", nhưng họ cáo đủ thứ cũng không được, vì Thánh đức của Chúa không thể phạm vào được. Họ lại tìm cách bài bác Luật Ðạo, tạo một ban tuyên truyền làm cho nhơn gian sợ di hại liên lụy không dám gần Chúa. Mấy Giáo Chủ (Caiphe) ấy bắt Jésus giao cho Nguyên Soái Pilate lên án tử hình. Tuyên truyền thế nào không biết cho đến ngày Lễ Pâques là ngày thả tù nhơn, có tên Barabbas là Tướng hung dữ, sát nhơn đủ tội lỗi mà toàn dân Juif đồng tha bổng, còn Ðức Chúa Jésus chúng không tha, lên án tử hình và đem ra giết, đóng đinh trên cây Thập Tự.
Cái chết của
Jésus Christ là gì? Là Ngài đem xác Thánh trọng quí dâng cho Chí Tôn làm tế vật,
xác Thánh chết trên Thánh Giá là Lễ Tế đồng thể với Tam Bửu của chúng ta dâng
cùng Ðức Chí Tôn ngày nay đó. Vậy, Ðức Chúa Jésus Christ đã làm con tế vật cho
Ðức Chí Tôn đặng cứu chuộc tội lỗi của loài người, nhứt là các sắc dân Âu Châu, nên danh thể Ngài để hai chữ Cứu Thế chẳng
có chi là quá đáng. Thật ra Ðấng Cứu Thế ấy là Tam Thế Chí Tôn giáng linh tức
Christna tái thế.”
2 - LỄ CẦU SIÊU CHIẾN SĨ
TRẬN VONG.
Đối với đạo Chúa gọi Thánh Tử Đạo tức là người vì Chúa mà chết oan, chết
thay cho Chúa. Nay Đạo Cao Đài những người vì đại nghiệp mà hy sinh cho Tổ quốc
cũng được gọi là Thánh tử đạo vậy. Thế nên toàn Đạo nhớ ơn nên có ngày cầu nguyện
này
Đức Hộ-Pháp thuyết lúc 8 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 10 năm Mậu Tý (1948) rằng:
“Ngày nay là ngày cầu-nguyện cho các
Thánh-Tử Ðạo tức nhiên là ngày lễ các Thánh. Nguyên căn ngày nay là khi Ðức
Chúa Jésus Christ giáng sanh có tiên-tri rằng Chúa Cứu Thế sẽ ra đời làm chủ
tinh-thần thiên hạ. Các vị Vua Chúa ác sợ mất quyền tìm cách giết Chúa. Nhưng vì
đã lánh khỏi, chúng biết ngày sanh, vì oán hờn mà đeo đuổi bắt con nít đẻ trùng
ngày với Ðức Chúa mà giết. Kẻ bị giết ngày ấy đều đặng hiển Thánh, vì Chúa mà
chết thay thế cho Chúa, nên Thiên-Chúa-Giáo lấy ngày ấy làm ngày kỹ-niệm các
Thánh bỏ mình vì Chúa. Ngày nay là ngày kỹ-niệm các chiến-sĩ trận vong, các chiến-sĩ
ấy hy-sinh cho quốc gia, vì nước nhà, vì nòi giống, vì nhơn loại họ không tiếc
mạng sống, đứng lên để mưu hạnh phúc cho toàn cầu gầy dựng lại Quốc-gia.
Ấy là các Thánh vô tội đã hy-sinh tạo hạnh-phúc cho toàn thiên hạ, cho kẻ
khác hưởng, bởi thế ngày nay chúng ta nên hội hiệp nhau lại làm lễ cho long-trọng
mà cầu siêu cho các chiến-sĩ đã hy-sinh bảo vệ sanh mạng tồn tại của thiên-hạ.
Ngày nay là ngày trọng yếu, mà lại là ngày lễ của Chính-phủ chọn lựa. Chúng ta
nên để tâm cầu nguyện đặng tỏ rằng người sống không bao giờ quên kẻ chết và kẻ
chết cùng người sống vẫn có một quan niệm chung thờ một chủ-nghĩa; duy có khác
là cái chết và cái sống. Ngoài ra không ai phân biệt được, mà nếu không phân biệt
được thì nhơn loại có một mà thôi. Tinh thần vẫn một, sự phân biệt đó là tại
tâm lý phàm phân chia, chớ tinh thần không phân màu sắc dân tộc nào hết, chỉ có
một quê hương chung là cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, có một Ðấng Chúa Tể là Trời.
Cả thảy chúng ta ngày nay chung hiệp lại để cầu nguyện cho các bạn ta hay
người ân của ta để cho các Ðấng linh hồn đặng siêu thăng. Và chúng ta cũng hiến
trọn cả thi hài nầy cho Chí-Tôn, thì bất kỳ cầu-chuyện chi, ta làm sự gì tức là
dâng cho Ngài cả.
Xin Chư Chức-Sắc Thiên-Phong và Chư Chức-việc Ðạo-hữu phải thành tâm hiến lễ
cho Chí-Tôn như chúng ta dâng mảnh thân mình cho Ngài vậy.
Lập một ông Trời kế vị
Ðền Thánh, ngày 29 tháng 4 năm Ðinh Hợi (1947)
“Tuy trong buổi Tam Kỳ Phổ Ðộ, Bần Ðạo biết mở
Ðạo Cao Ðài đặng tuyển chọn trong hàng Phật đạt kiếp từ tạo Càn Khôn Thế Giới
đến kế vị Ngài. Trong buổi Ðại Từ Phụ mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ có treo bảng ở
Ngọc Hư Cung, lập một ông Trời kế vị Ngài, nhưng chúng ta thấy trong hàng Phật
có ba người:
1 - Phật Thích Ca .
2 - Phật Di Lặc .
3 - Ðức Chúa Christ.
Thử hỏi ba người ai sẽ làm Trời. Ta tưởng ba người sẽ có một người làm được,
mà người đó chúng ta biết chắc có, tuy không quyết đoán trước đặng, chúng ta mơ
màng ngó thấy nhưng không dám nói.
Hễ Ðấng nào đủ quyền năng trị thế, tinh thần cho cao trọng thâu phục cả tâm
lý nhơn sanh vào khuôn Ðại Ðạo, gồm tinh thần tư tưởng loài người lại được, thì
Ðấng ấy sẽ kế nghiệp Ðức Chí Tôn.”
3 - LỄ HẠ NGUƠN NĂM MẬU TÝ
Ðền Thánh, đêm rằm tháng 10 năm Mậu Tý (1948)
Kỳ lễ Hạ Nguơn nầy nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn đã đặng 24 tuổi. Trong thời
gian 24 năm, nền Chánh Giáo của Ðức Chí Tôn đã trải qua biết bao nhiêu nỗi khó
khăn thiên chuyển: buồn có, khóc có, vui có, nhục có, vinh có, hận có. Trong 24
năm cả thảy Thánh Thể của Ngài và toàn con cái của Ngài nam, nữ đã chịu biết
bao nhiêu khổ hạnh, đã chịu biết bao nhiêu nỗi thê lương, buồn thảm; chúng ta dòm
lại ngày nay, cái nền Chánh Giáo Ðức Chí Tôn cho nòi giống chúng ta, đã thành tựu
rồi đó. Chúng ta suy đoán coi nó có đặng giá trị mà chúng ta đã mua chuộc trong
24 năm trường chăng? Hồi tưởng, nếu chúng ta công tâm, nhất là cho cái lương
tri, nghĩa là lấy trí não xét đoán, thì chúng ta biết nhìn nhận rằng:Với cái đại
nghiệp Thiêng Liêng dường ấy, một cái cơ-quan trọng-yếu đã độ được toàn thể quốc
dân, về phần xác và phần hồn, mà đổi chuộc cái khổ hạnh của chúng ta thì không
có nghĩa lý gì hết. Chúng ta xem lại, lấy công tâm suy đoán, những khổ hạnh của
các vị Giáo Chủ từ trước, vâng mạng lịnh của Ðức Chí Tôn, đến tạo Ðạo cứu Ðời
chẳng phải chịu khổ não về phần hồn mà thôi, về phần xác của họ cũng bị đọa đày
thảm thiết. Còn nói về nhục thì thôi: Không vị nào không khổ nhục Chơn linh.
Đó ! Chúng ta nhìn thấy Chí-Tôn không có thiếu nợ chúng ta bao giờ. Bởi vì
Ngài không khi nào thiếu nợ con cái của Ngài, dầu tình cũng vậy. Ngài chỉ biết
cho mà không biết hưởng. Từ thử đến giờ chưa có kẻ phàm nào đã đem tinh thần,
trí não, tâm hồn dùng làm tôi tớ cho Ngài mà bị lỗ lã bao giờ, chỉ đặng lời mà
thôi. Thế gian người ta thường nói chúng ta chết là hết, chúng ta thử suy đoán:
với một kẻ mà đã đem trọn kiếp sanh mình làm con tế vật cứu thế như Ðức Chúa
Jésus Christ đem thân ra chịu khổ hạnh truyền giáo thật ra chỉ vỏn vẹn có hai
năm thôi, kế bị dân Do-Thái đóng đinh trên cây Thánh-Giá như kẻ thường tình
kia.
Một Ðấng Quân-Vương, một Ðấng chủ trương, bất kỳ là xã hội nào hay là một cơ
đồ nào, đối với một tội dường ấy có thể nói đến Ðấng Jésus-Christ. Hồi còn sanh
tiền đi truyền giáo cho dân lại bị khổ nhục, nhứt là bị bắt buộc mãi trong vòng
tù tội, nỗi khổ hạnh cái nào mà Ngài không có; cho đến Ngài chịu chết trên cây
Thánh Giá. Ngài chưa biết buổi nào là hạnh phúc trong kiếp sanh của Ngài hết.
Ngài chết trên cây Thánh-Giá với mảnh thân tù và tội tử hình. Chỉ có Ðức Jésus
Christ cho một Ðấng thiếu nợ mà thôi, mà Ðấng ấy là Ðức Chí-Tôn là Ðại-Từ Phụ
là Thầy của chúng ta ngày nay đó vậy. Có một Ðấng đó thiếu nợ tiền-khiên, mà đã
hai ngàn năm Ðạo Thánh Gia-Tô làm chủ tâm lý cả toàn thiên hạ trên khắp mặt địa
cầu nầy. Còn cái vinh diệu của Ngài, ôi vô đối !
Buổi nọ Ngài nói “Con chim có tổ, con chồn có hang mà con người nầy chỉ bởi
theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chỗ để gối đầu”. Chúng ta thấy lời than
của Ngài thì biết: đời chẳng ai nghèo nàn hơn Ðức Chúa Jésus-Christ. Ngày nay
hiển nhiên trước mắt chúng ta thấy vinh quang vô đối của Ngài, về mặt xác thịt
và linh hồn làm Chúa cả gần toàn mặt địa cầu nầy. Hỏi nợ ấy ai trả đặng, chỉ có
Người đó cho, là Người đó trả, với một kiếp sanh vinh diệu, sang trọng oai quyền.
Từ thử đến giờ dưới thế gian Ðức Chí-Tôn chưa cho người nào khác nữa. Ấy vậy
một Ðấng không từ chối cái nợ của mình, với kẻ chết mà đã 2.000 năm vẫn tiếp tục
đền bồi cái nợ ấy. Ðấng ấy chẳng khi nào phụ rãy cái Thánh-Thể của Ngài và con
cái của Ngài. Bần-Ðạo biết hẳn vậy, hằng khuyên chúng ta giữ đạo đức tinh thần
đặng làm tôi tớ của Ngài, làm Môn-đệ của Ngài, hay là đặng làm con của Ngài, vì
có bao nhiêu đó mà thôi.
Ðấng ấy không hề chịu nợ tình với chúng ta. Trong 24 năm tạo nên hình tướng
nền Ðạo, tạo dựng Ðền Thờ tối cao tối trọng nơi thế gian nầy, thì Ngài không hề
phụ rãy bao giờ.”
4 - SỰ HIỂN THÁNH CỦA CHÚA
CỨU THẾ
Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh
đêm 24 tháng 11 năm Mậu Tý (dl: 24-12-1948) nhân ngày Vía Đức Chúa Jésus
Christ.
“1948 năm trước, lúc nầy có một vị
Chí Tôn giáng trần giáo Ðạo tại Tây Phương, vị Chí Tôn an bang tế thế mang xác
phàm lập giáo để lại một nền văn minh vĩ đại cho nhơn loại, tính ra được 1948
năm.
Trước buổi Ðức Thích Ca gần qui liễu, ANANDA và A-Nan-Ca-Diếp đến bên Ngài
khóc lóc hỏi Ngài rằng: Thầy qui rồi ai dạy chúng con?
Ðức Thích Ca nói: Có một Ðấng đến
sau ta, oai quyền hơn ta nữa. Ðức Phật Thích Ca đã nói một vị Tây Phương Giáo
Chủ Jésus Christ đó vậy. Ấy là một đàn anh đã thông tri cho nhơn loại biết người
em kế vị của mình sắp đến, Ngài có nói trước còn oai quyền hơn ta nữa, thì thật
quả vậy.
Khi Ðức Chúa Jésus Christ giáng sanh ở Tây Phương gần thọ hình, các vị
Thánh Tông Ðồ tức nhiên là Môn đệ của Ngài than rằng: Nếu Thầy thọ hình ai dạy
chúng con? Ngài nói: Cần yếu ta phải đi, cần yếu ta phải về với Cha ta, ta phải
về đặng an vui, rồi sau nầy sẽ có một người đến cùng các ngươi đặng an ủi dạy dỗ
các ngươi nhiều điều huyền vi bí mật.
Ðức Phật Thích Ca nói sau nầy Ðấng ấy còn oai quyền hơn ta nữa, Ðấng ấy tức
nhiên là Tây Phương Giáo Chủ Jésus Christ và Chúa đã cho nhơn loại hay: Sau Ðạo
Thánh Gia Tô có Ðạo Cao Ðài xuất hiện đó vậy.
Có một Ðấng Chơn linh Tam Thế Chí Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó:
- Nhứt Thế BRAHMA Phật, tức nhiên là Tạo Hóa,
- Nhị Thế CIVA Phật tức nhiên Tấn Hóa,
- Tam Thế CHRISTNA Phật tức nhiên Bảo Tồn. Ðấng trọn quyền bảo tồn ấy là
lòng ái tuất thương sanh (1) vậy. Vì cớ cho nên Ðức Chúa Jésus Christ thương
nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy, Ngài đã ngó thấy Nhứt Kỳ Phổ Ðộ nhơn loại
ký Hòa ước với Chí Tôn mà đã bội
Chú thích: (1) ÁI TUẤT THƯƠNG
SANH 愛 恤 蒼 生
E: To have compassion on
people.
F: Avoir la compassion du
peuple.
Ái tuất thương sanh là thương xót và cứu giúp dân chúng. (Ái: yêu, ưa
thích. Tuất: Thương xót một cách nồng nàn. Thương: Màu xanh. Sanh: Sống. Ái tuất
là thương xót cứu giúp người bằng một tình yêu mến nồng nàn. Thương sanh là đồng bào, dân chúng trong mọi giới)
Trong các tài liệu Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp đều ghi là “Ái Truất thương
sanh”, Tôi rất hoài nghi từ này chưa chính xác. Soạn giả có gặp nhiều vị Tốc ký
ngày xưa, như Anh Ngô Công Phát, hỏi rằng Anh có biết chữ Hán không?- Không.
Anh có thấy tài liệu viết tay của Đức Ngài không?- không. Anh có nghĩ rằng lời
Đức Ngài nói Anh nghe thoáng qua tức là không rõ không?- Có. Xong rồi anh lấy Tự
điển Hán Việt của Đào duy Anh ra để tra
chữ “TUẤT” và chữ “TRUẤT” thì chữ “truất” nghĩa là bỏ, như truất phế, thì nghĩa lý không rõ bằng chữ TUẤT
恤 Phân tích sẽ
thấy bên trái là bộ tâm 忄(tấm lòng) bên phải là chữ huyết 血 là máu. Có nghĩa là tình thương bằng cả tim máu của con người, dịch là tình
thương nồng nàn, thì rõ nghĩa hơn. Xin trưng cầu ý kiến của đồng đạo. (chờ có
Hàn Lâm viện Cao Đài sẽ giải rõ). Tôi thấy Cao Đài Tự điển của anh Hồng
cũng đồng tình như vậy (Trích “Cao Đài
Đại Từ điển” cùng Soạn giả sắp in)
ước, nên phạm Thiên Ðiều, nhơn quả nhơn loại gớm ghiết, do nhơn quả ấy mà tội
tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay, Thánh Giáo gọi "tội tổ tông",
chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để ký đệ
nhị hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị hòa ước đặng dìu
dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là Ðức Chí Tôn, là Ðại
Từ Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.
Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy đầy, Ngài chỉ xuống tại
mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem
quyền của Chí Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký Đệ Nhị Hòa-ước cho
nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào?
Do tay Ngài ký tờ hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh
trên cây Thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng
sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh Giá, còn
trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông
của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy
để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt
nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng Năm 1948 nhơn loại không tầm
Giáo lý của Ngài nữa, chắc chắn như vậy. Bần Ðạo nói quả quyết rằng, nhơn loại
đã quên hẳn Ngài rồi đó. Cho đến ngày nay cả toàn nhơn loại trên địa cầu nầy,
không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên nạn tương tàn tương sát
lẫn nhau sắp diễn ra gần đây, nhưng nếu chừng nào toàn cả nhơn loại biết tôn
sùng nhau, vì tình cốt nhục, thì cái nạn tương tàn tương sát trên mặt địa cầu nầy
sẽ không có nữa. Hai tấn tuồng, hai thảm trạng như thế có thể đưa nhơn loại đến
chỗ tiêu diệt mà chớ, vì nhơn loại không biết nghe, Ðấng ấy đã lấy máu thịt của
mình làm con tế vật dâng hiến cho Ðức Chí Tôn, để cầu xin tha tội cho nhơn loại.
Nhơn loại sẽ mất đức vì không nghe theo Ðấng Cứu Thế, Ðấng ấy đã bảo anh em phải
yêu ái lẫn nhau, giúp đỡ nhau, sống cùng nhau cho trọn vẹn kiếp sanh. Trái ngược
lại Đệ nhị Hòa ước kia đã ký kết với Ðức Chí Tôn bị nhơn loại bội ước nữa, vì bội
ước mà bảo sao nhơn loại không bị tội tình mắc mỏ sao được?
Ðêm nay là nhờ hiển Thánh anh linh của Ðấng Cứu Thế, Ðấng đã để lòng ưu ái
vô tận mong cứu vãn tình thế nguy ngập, lấy cả tình ái ấy làm phương giải khổ
cho nhơn loại. Chúng ta để tâm cầu nguyện cùng Ngài, để Ngài mở con mắt Thiêng
Liêng cho chúng sanh đặng nhìn thấy cái chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng
mê muội đừng ngu dốt, lấy tinh thần sáng suốt bỏ cái lục dục thất tình đầy tội
ác nầy. Muốn tránh cái nạn tương tàn tương sát kia, muốn cứu rỗi lấy họ, hầu
làm cái nạn tiêu diệt kia được thoát khỏi ấy là lời cầu nguyện của chúng ta đêm
nay đó. Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ
phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí
Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy”.
5 - Biết hy sinh cái chết
đặng
đạt cho được cái sống.
Lòng hoài vọng của Đấng Giáo Chủ Cao Đài cũng như toàn Đạo hằng năm, cứ đến
Đêm kỹ-niệm của Đức Chúa Jésus Christ, tức nhiên Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, đều
thiết lễ Đại Đàn cầu nguyện Đức Ngài ban ân lành cho toàn sanh chúng. Đức Hộ-Pháp
nói rằng:
“Từ khi mở Đạo đến giờ cả Thánh-Thể Đức Chí Tôn và Bần-Đạo đã thuyết minh một
cái đời hy sinh đạo đức của Ngài, cả thảy đều biết, không cần thuyết lại nữa, lập
đi lập lại cũng không bổ ích vào đâu cho lắm. Chúng ta thử tìm trong các Thánh-ngữ
của Ngài để lại. Hiểu thấu cái huyền vi bí ẩn Đạo-giáo của Ngài thế nào, cái ấy
có lẽ hữu ích hơn, nên Bần-Đạo lấy lời triết lý của Ngài đã nói lưu trong Thánh
ngữ của Ngài để lại cho các Thánh Tông Đồ có câu nói cao sâu bí ẩn mà thiết thật
làm sao hay làm sao! Ngài nói rằng: Biết
hy sinh cái chết đặng đạt cho đặng cái sống. Vì lời Thánh giáo ấy mà những kẻ
tìm Đạo thường hay bàn luận tìm cái nghĩa lý của nó, Đức Chúa Jésus-Christ đã
sanh ra thì bị cường bức, Đạo của Ngài truyền giáo thiên hạ không hiểu thấu và
người ta đã bắt bớ, người ta đã đè nén, người ta đã âm mưu hại Ngài, cho nên lời
nói ấy cốt yếu giục các Môn-đệ của Ngài quyết chiến đấu và quyết thắng, điều ấy
chưa phải lẽ.
Bần-Đạo đã thuyết minh tới đây, kẻ thì nói Ngài đến lập nền Thánh-Giáo của
Ngài, Ngài lập cái đền thờ thiêng liêng Đạo-Giáo của Ngài tại thế gian này,
Ngài xưng mình là con chiên hy sinh đặng làm con tế vật của Đức Chúa Trời, để cứu
rỗi tội tình thiên hạ, tức nhiên con chiên chí Thánh. Tánh mạng của Ngài, thi
hài của Ngài chịu chết trên cây Thập-Tự-Giá, cốt yếu làm con tế vật ấy để dâng
cho Đức Chí-Tôn đó vậy. Sự hy sinh của Ngài làm con tế vật ấy là Thánh Thể, tức
nhiên của toàn cả tín đồ tin tưởng nơi Ngài, đã thọ phép chơn giáo của Ngài coi
như Đấng chí Thánh. Vì lẽ ấy cho nên Ngài thuyết câu đó, cốt yếu Ngài dám hy
sinh tử đạo đặng bảo thủ chơn truyền của Ngài, cũng có lý nhưng chưa phải lẽ,
cái bí mật trong lời nói ấy là vầy: Phải biết làm sao cái chết thật, mà phải biết
làm sao cái sống là thật. Cái sống và cái chết, ta cũng nên tìm hiểu điều ấy. Vả
chăng chúng ta sanh ra có hai cái sống và có hai cái chết.
- Chúng ta ngó thấy xác thịt của chúng ta không phải là cái sống, bởi vật
thể nó phải chịu tiêu hủy tức nhiên nó phải chết, mà thiệt cái chết của nó chẳng
phải chết vì cái xác thịt mà thôi, mà chết vì danh giá, kiếp sống của mình, cái
lời nói là chết.
- Còn bây giờ cái sống không phải cái xác thịt chúng ta đã ngó thấy trước mắt,
bất quá con người sanh ra một trăm năm là nhiều rồi chết trước mắt. Ấy vậy cái
sống thật chỗ nào? Cái sống thật của chúng ta là cái sống về tinh thần hiện tại
của chúng ta cho trường tồn, tức nhiên nói về linh hồn chúng ta vậy.
Cái đó mới thiệt sống, cái sống với linh hồn là cái sống thật, sống với xác
thịt tức nhiên sống giả. Bây giờ còn cái sống nữa, sống thế nào đồng sống cả vạn
loại, cả cái sống Đại-Đồng sống trong cái sống ấy mà muốn đồng sống, chúng ta
phải hiệp làm một cùng vạn loại, biết nó là cái sống của mình, biết mình là cái
sống của nó. Cái sống ấy là cái sống của Đức Chí-Tôn nắm trong tay của Ngài đó
vậy. Cái sống trên cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống của Ngài đã tạo dựng cho nó, trước
khi ta đến đầu kiếp làm con người ở mặt thế gian này, cái sống ấy phải sống.
Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus Christ, phải biết hy sinh cái chết mới tìm
cái sống. Đạo giáo nào kiếm mắc mỏ khó khăn, chớ Đạo giáo Cao-Đài Đức Chí Tôn để
Bí pháp ấy trong Thánh-Thể của Ngài. Ngài nói những kẻ nào dám chết về Đời, sống
vì Đạo, những kẻ ấy mới đáng làm Thánh-Thể của ta nơi mặt thế gian này. Cả toàn
Thánh Thể đã hiểu lắm, tới phẩm Giáo-Hữu phải chết, chết vì Đời rồi sống lại sống
vì Đạo. Tức nhiên Đức Chúa Jésus Christ nói cao sâu rằng: Nếu ai đã biết ai, đã
biết cái sống của chúng ta đã ban cho mà dám hy sinh cái kiếp chết của họ, là
cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường tồn vĩnh cửu, tức nhiên
Thiêng Liêng Hằng Sống của Cha ta đã dành để.
Bần Đạo thuyết điều ấy cốt yếu nói cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn, dầu
cho hàng tín đồ nam nữ dĩ chí Đại-Thiên-Phong cũng vậy, mỗi phần tử Thánh-Thể của
Ngài phải biết cái mạnh của mình là cái sống thật, cái yếu của mình là cái sống
giả, phải có can đảm hy sinh cái chết, cái thi hài thúi tha của ta đây đặng mà
đạt cho đặng cái danh Hằng sống và chúng ta đặng ngôi vị Thiêng Liêng Hằng Sống;
Nơi cửa Thiêng Liêng kia của Ngài đã dành để, tức nhiên là đại nghiệp của Ngài
đã chia chung cho mỗi đứa con. Đức Chí Tôn nói rằng: Thầy dành để đại nghiệp
cho các con, Thầy không có quyền đem cho kẻ khác duy có kẻ nào từ bỏ, thì Thầy
mới có quyền đem cho kẻ khác mà thôi. Cái sống đó mới sống thật, sống trường tồn,
sống vĩnh cửu. Sống Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn mới thật sống đó.!
(Đức Hộ-Pháp: 26-11-Tân-Mão (dl: 24-12-1951)
6 - Hạnh phúc thay cho những kẻ khờ khạo!
Đức Ngài nói tiếp: đêm 30-12-Tân-Mão (1952)
Một ông cha thương yêu vô tận, hạnh-phúc cho chúng ta đã sanh ra lại ngộ Đạo.
Đấng đã cầm quyền cả Càn Khôn Vũ Trụ nơi tay, làm Chúa cả cái sống cái chết của
Càn Khôn Vũ Trụ đến chung ở chúng ta, cái hạnh phúc ấy, cái vinh diệu ấy còn
chi hơn nữa. Bởi thế cho nên khi Ngài đến cầm cây Linh bút đặng mở chơn-truyền
của Ngài, những kẻ phàm tâm kia lấy làm lạ lùng và không có thể tưởng tượng đặng
và không có thể tin đặng. Ôi! Một trường ngôn luận buổi nọ biết bao nhiêu kẻ
chê bai, khinh rẽ là thế nào. Trong một bài thơ Ngài than như vầy:
Cười khan mà khóc bởi
thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả
bầy.
Biết phận già không chờ chống
gậy.
Nương theo con dại mới ra
vầy."
Thật vậy, Ngài quá thương con cái mới ra nông nỗi đó, tưởng lòng thương yêu
vô tận ấy không thể gì ta tưởng tượng đặng, không thể gì chúng ta biết đặng cái
giá trị nồng nàn yêu ái vô biên vô tận ấy, chỉ vì “Nương theo con dại mới ra vầy”
câu ấy nồng nàn thấm thúy đau đớn làm sao, câu nói đó là vì thương con dại của
Ngài, mà toàn thể anh em chúng ta có hiểu cái tiếng “dại” ấy là thế nào không?
Bần-Đạo xin nhắc lại lời nói của Đức Chúa Jésus Christ đã nói:
- Hạnh phúc thay cho những kẻ khờ khạo! Vì nó được quyền năng của ông Cha của
Thiêng Liêng kia binh vực nó, hồi nó sống đây nó dại khờ, nhưng không phải cái
dại ấy mà nó cô độc, bởi vì nó còn ông Cha oai quyền vô tận vô biên, Ổng thay
thế cái khôn cho nó.
- Hạnh phúc thay cho những kẻ yếu hèn! Những kẻ yếu hèn với những người
sang cả, khi trở về cùng Cha của họ nơi nước Hằng Sống của Đức Chí-Tôn đã dành
để cho con cái đau khổ của Ngài, cái giá trị vẫn khác.
- Khốn khổ thay những kẻ miệt sát kẻ yếu hèn. Khốn khổ thay cho những kẻ áp
bức, hiếp đáp những người cô thế, trẻ con, góa bụa, tật nguyền, bởi vì nó miệt
sát nhục mạ con cái của Ngài tức là nhục mạ Đấng Tạo đoan, như vậy là còn tội
tình nào lớn hơn điều ấy. Nếu quả nhiên sắp con của Ngài phải chịu hèn hạ khổ não,
ngu khờ là tại Ngài muốn vậy, Ngài muốn dành để cái oai quyền binh vực của Ngài
cho chúng nó”.
7 - NHỮNG ĐÀN CƠ DÀNH CHO
NGƯỜI PHÁP
Thuở tiền khai Đại-Đạo có nhiều Đàn Cơ có người Pháp đến hầu Đàn được Đức
Chí-Tôn giáng dạy riêng:
Ghi chú: Sau đây là 8 đàn cơ được Đức
Chí-Tôn giáng cho những người Pháp đến hầu
đàn học hỏi nơi Người.
Trích từ Thánh ngôn Hiệp-Tuyển I: Phần Việt văn:
Ngày 26 tháng 4 Bính-Dần (dl Mardi 8 Juin 1926)
Loài người từ đâu đến?
“Hỡi nầy dân-tộc có diễm phước: Thầy
sẽ làm thỏa mãn tánh hiếu-kỳ của con. Là loài người, các con có biết tự đâu các
con đến chăng?
Trong vạn-vật hiện hữu trên qủa địa-cầu nầy, các con là kẻ được ban ân huệ
nhiều hơn cả. Thầy đem các con đến tận Thầy, bằng cả tinh thần lẫn trí-huệ. Các
con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng phẩm-vị thiêng liêng. Chúa Cứu
Thế đã đến với các con. Người đã phải chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài
người. Trong 2000 năm vắng mặt Người, các con đã làm gì hữu ích ?
Các con truyền-bá Đạo Người, nhưng chính các con cũng không hiểu chi cả.
Các con lại làm sai-lạc bản chất Tôn-chỉ của nền Thánh-giáo. Nhân-loại phải chịu
đau khổ vì sự biến thể của các Thánh Tông-Ðồ. Chiếc Ngai quí báu nhứt trên thế
gian nầy hiện là chiếc Ngai của vị Đệ nhứt Cao-đồ của Người. Giáo-lý ấy đáng lẽ
phải đem lại Hòa bình và tương ái cho loài người, nhưng trái lại nó gây mầm
chia rẻ và chiến tranh.Bởi thế, nên nay chính Thầy phải đến để đem lại cho các
con nền Hoà-bình đã từng hứa hẹn.
Rồi đây Chúa Cứu-thế sẽ trở xuống sau. Thầy giã từ các con. Các con sẽ còn
học-hỏi nhiều việc khác nữa với mấy vị Môn-đồ của Thầy.”
Thời kỳ tận-diệt đã hầu kề (Vendredi, 1 Octobre 1926)
… “Các con có biết chăng hiện nay vì thế gian rất hung bạo nên thời kỳ tận-diệt
đã hầu kề. Nhơn loại tàn sát lẫn nhau, bởi không biết dùng khoa học vào việc phải,
nên nó mới biến thành chia rẽ và chiến tranh.
Thánh-Ðạo của Chúa Cứu-Thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng-gia dục-vọng của kẻ mạnh
đối với người yếu và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới.
Phải có một giáo-lý mới-mẻ đủ khả năng kềm chế nhơn-loại trong sự thương
xót chúng sanh.
Chỉ có xứ Việt-Nam còn duy trì được sự tôn sùng Tổ-Phụ theo tục lệ cổ-truyền,
mặc dầu xứ ấy chỉ biết chịu ở dưới quyền lệ thuộc từ ngày được tạo lập tới giờ.
Ý Thầy muốn nó được giữ nguyên thể như vậy mãi”...
[Ngày 17-9
Bính-Dần (Mercredi 27 Octobre 1926)]
“Nhơn-loại hiện chịu đau khổ bởi nhiều cuộc tai biến. Thầy đã sai
Allan-Kardec, Flammarion cũng như Elie và Thánh Jean-Baptiste là những bực tiền
Thánh báo tin ngày giáng-sinh chấn động của Chuá Cứu-thế Jésus, nhưng chúng nó
đứa thì bị hành hạ, đứa khác bị giết chết, bởi ai? Cũng bởi loài người. Chính
con của Thầy cũng bị các con giết mất. Các con chỉ biết tôn sùng Người bằng
tinh-thần chớ không bằng Thánh-chất. Thầy đã muốn nói với các con chỉ một lần
mà thôi, hồi thời kỳ Thánh Moise trên ngọn núi Sinai, nhưng các con không hiểu
được ý Thầy. Lời hứa của Thầy với Tổ-tiên các con về việc xin chuộc tội cho các
con và ngày giáng sinh của Chúa Cứu thế là việc đã có lời Sấm tiên tri rồi mà
các con không chịu quan tâm đến. Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp huyền
diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi nữa được trước Tòa
phán-xét chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn-loại bằng những phương-pháp công hiệu.
Dầu Thầy có khoan dung cách mấy đi nữa Thầy cũng không thể bôi xóa được những tội
lỗi của các con đã làm từ lúc tạo thành nhơn-loại. Từ nay thế-giới phải chịu
trong vòng hắc ám. Tinh-thần đạo-đức đã tiêu mất, sự thù hận tràn ngập khắp
hoàn cầu...
Dân-tộc Pháp-Việt là hai dân-tộc được nhiều huệ phúc nhất. Thầy muốn sao cả
hai được hòa hiệp nhau mãi mãi. Giáo-lý của Thầy có mục-đích dạy dỗ các con hòa
hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền-lợi và sinh hoạt. Vậy các con hãy
chung hiệp nhau mãi mãi theo ý muốn của Thầy và hãy truyền-bá khắp hoàn-cầu
thuyết hòa bình tương-thân tương-ái”.
(28 Octobre 1926 (18 -9-Bính Dần)
… “Các con tưởng rằng ông Trời không thể làm cái gì mà ông muốn sao?
M... Thầy chỉ định các con lãnh một vai trò bạc-bẽo mà nhân-đạo. Con vì
tâm-tình cao-thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của một dân-tộc đã hấp thụ một nền văn
minh tối cổ. Con tự hy-sinh để đem lại cho dân tộc ấy một nền đạo lý
chơn-chánh, đó là công-nghiệp dành sẵn cho con. Hãy đọc các Thánh-Ngôn của Thầy.
Giáo-lý của Thầy sẽ là Đại-đồng. Nếu nhơn-loại biết tu-hành thì đó sẽ là nền
Hoà-bình hứa hẹn chung cho tất cả các dân-tộc. Con sẽ tỏ cho nước Pháp biết: Nước
Việt-Nam là nước xứng đáng đối với Pháp. Thôi có bấy nhiêu cho con hôm nay”.
Dimanche 28-10-1926 (24 tháng 10 năm Bính Dần)
“Một đàn cơ riêng biệt ít khi được
thiết lập cho ai, mặc dầu lời thỉnh nguyện có quan-hệ cách mấy đi nữa cũng
không đặng. Nhưng đối với con, Thầy được hiểu lòng nhơn-đức, tánh từ-thiện của
con, nên Thầy cho con được thỏa nguyện. Ngoài ý-chí đạo-đức của con, con còn có
ý tìm hiểu giáo-lý mới mẻ nầy, giáo-lý mà một vài đồng bào của con đã giải
thích xuyên tạc dưới một hình thức tinh ranh. Nơi xứ nầy dân tình rất thuần-hậu
và ôn hòa nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để bài trừ tà
thuyết và truyền bá chơn Ðạo trên toàn cầu. Người sống trên thế-gian nầy, dầu
thuộc giống dân nào, cũng chỉ có một cha chung mà thôi, ấy là Trời đang chế ngự
số-mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất-đồng đạo-lý, mà
chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của các con ở cõi
thế gian nầy. Con để chơn vào con đường đưa đến cảnh an nhàn hưởng những chuỗi
ngày hạnh phúc nơi cõi Niết Bàn. Con rán tiếp tục đi trên con đường vạch sẵn ấy
để theo đuổi đến mức cuối cùng. Nhiều Ðấng anh-linh sẽ dìu bước cho con. Các lời
cầu nguyện của con sẽ được chuẩn nhận. Bấy nhiêu đây đủ rồị- Từ giã con!
[Mercredi 15-12-1926 (11 tháng 11
năm Bính Dần)]
“Mọi việc đều đúng giờ đã định. Con đã thấy và hiểu những điều mà phần đông
đồng bào của con đang tìm hiểu. Chỉ sau nhiều cuộc khảo cứu và sưu-tầm về Thần
linh học mà Thầy đem truyền nền đạo-lý mới mẻ nầy.
Thầy há chẳng có lời tiên-tri rằng Thần-linh-học là một nền Ðạo tương lai sao ? Hẳn nhiên con đã thành tâm thật ý muốn gây tại
xứ nầy tình liên-lạc tinh-thần giữa hai dân tộc Pháp-Việt mà Thầy chí quyết cho
họ được chung sống trong cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt.
Con sẽ đắc kỳ sở nguyện của một người làm phải. Lời khẩn nguyện của con sẽ
được chấp thuận. Sau nầy con sẽ là một trong các Môn-đồ trung thành của Thầy để
đi truyền-bá hòa-bình và tương-ái trên khắp hoàn cầu.
Ban truyền giáo Pháp sẽ được thành lập gần đây.
Con cần phải về Pháp trong năm 1928 để binh vực giáo lý của Thầy tại Hội-Nghị
Ðại-Ðồng Tôn-Giáo.
Con sẽ trọng đại và đủ quyền năng do Thiên-Ý.
[Vendredi 17--1926 (13 tháng 11 năm
Bính Dần )]
“Thầy cho con hiểu rằng nếu không có ý muốn của Thầy, thì trên quả địa-cầu
nầy chẳng có vật chi sanh tồn tất cả. Lại
có lắm kẻ đáng thương hại lại tự-phụ rằng họ hiểu thấu cả lẽ mầu-nhiệm của Ðấng
Tạo-Hóa. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu
Thiên-cơ cả. Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện. Thầy không bao giờ không cảm ứng
với những lời cầu nguyện chơn-thành. Như thế đủ chứng tỏ cho các con tin rằng
Thầy là Ðức Jéhovah của dân Hébreux vị chủ tể của quân-lực dân Israel, vị Thánh
vô danh của dân Do Thái, Ðức Ðại-Từ-Phụ của chúa Jésus Cứu Thế. Con chỉ cần cầu-nguyện
Thầy với danh hiệu Cao-Ðài thì sẽ có sự cảm ứng chấp-thuận. Con đến đây với tấm
lòng thành thật để làm việc phải cho giống dân biết phục-thiện hiện đang giao
phó cho con. Vậy Thầy nhờ con truyền bá giáo-lý nầy cho dân tộc đặt dưới quyền
bảo hộ của con. Chỉ có cách đó mới có thể kềm giữ nhơn-loại trong tình yêu
sanh-chúng và đem lại cho con một cuộc đời hòa bình bền bỉ.
-- O0O --
Dimanche 19
Décembre 1926
15 tháng 11 năm
Bính Dần
Thầy các con
Các con phần nhiều
biết tiếng Langsa, Thầy dùng nói cho dễ hiểu đạo-lý.
- Phẩm-tước là
gì? Của cải danh-vọng là gì?
Phẩm tước là sự tổng-hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người hoặc ít hoặc nhiều.
Những chức-tước ấy do người đời tạo ra phong-thưởng kẻ khác.
- Giá-trị của
các chức-tước ấy ra sao? Giá-trị những chức tước ấy tuỳ theo mà tạo nó ra.
- Việc chi do người đều phàm cả nó không bền, thường thường bị hư hỏng và tiêu tan ngay sau
khi người đã được nó tặng bị cướp mất sự sống. Các con hãy tìm tước phẩm nơi cõi thiêng-liêng, tước phẩm ấy mới là vĩnh viễn. Còn tài-sản là tổng-quát các vật quý-giá của
con người để thu nhặt trên thế-gian nầy.
- Của cải ấy gồm những gì?
- Vàng bạc chỉ là loại kim-khí tầm thường.
- Hồng là một chất màu.
- Còn lục là chất do loài vật cấu thành ra. Các con xem của ấy là quý giá
thật-sự sao? - Xét từ nơi sản xuất các vật ấy, đều không đáng kể. Các con nên tìm
sự giàu đức-tính của Trời. Chỉ có cách đó, mới gọi là vĩnh-cửu. Của quý ấy
không ai ăn cướp đặng cả. Danh vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất
ngắn ngủi và thường thành tựu nhờ sự gian trá.
- Danh-quyền nơi Trời là bền chắc nhứt. Và danh quyền ấy mới chịu đựng nỗi
bao sự thử thách.
(Trung bạch: - Mấy con phải làm sao mà tìm đặng phẩm-tước của cải và danh-vọng
của Trời).
- Thầy trả lời: “TU”.
V - TRIẾT LÝ HỒI GÍAO
HỒI GIÁO (Mahométisme, Islamisme)
Hồi-giáo là một Tôn Giáo dạy các Tín đồ phải phục tùng Thượng-Đế một cách hoàn toàn tuyệt đối, không thắc mắc, không bàn cải, vô điều
kiện (Hồi được dịch tiếng Á Rập: Islam nghĩa là Phục Tùng. Giáo: Tôn giáo)
Đây là một Tôn Giáo độc Thần tiêu biểu nhứt, nó có tính cách cứng rắn, đưa
người Hồi giáo lẫn lộn giữa Đạo và Đời. Hồi Giáo được Giáo-Chủ Mahomet chánh thức
mở ra từ ngày 16-07-622 (Sau kỷ nguyên Tây lịch) tại thành phố Medina nước Á-Rập
và ngày này được dùng làm kỷ nguyên Hồi Giáo.
Quyển sách căn bản của Hồi Giáo là Thánh Kinh Coran, ghi chép những điều giảng
dạy của Giáo chủ Mahomet Kinh Thánh Co-ran là văn bản thiêng-liêng và duy nhứt
làm nền móng cho Đạo Hồi. Nó là nhân tố thiết yếu gắn bó mọi Tín đồ Hồi-giáo
trên thế giới, hằng ngày mỗi Tín đồ phải cầu nguyện bằng cách đọc thuộc lòng một
vài đoạn Kinh Coran. Co-ran theo tiếng Á-Rập: Qurân có nghĩa là tụng niệm. Đấy
là những lời của chính Thượng Đế truyền lại cho Đấng Tiên tri. Kinh Co-ran có
tính thiêng liêng đến nỗi trong các nước Hồi Giáo, người ta không bán và cũng
không mua quyển Kinh này, những người dơ bẩn không được rờ mó đến nó và người
ngoại Đạo không được phép cất giữ Kinh Co-ran. Kinh này được viết bằng tiếng
Á-Rập và không ai được quyền dịch ra môt thứ tiếng khác, mọi Tín đồ dù thuộc quốc
tịch nào cũng phải tụng Kinh Co-ran bằng tiếng Á-Rập.
Kinh Co-ran tuy không được viết dưới dạng thơ, nhưng nhịp điệu và cách đọc
Kinh làm cho nó giống như một tập thi ca viết bằng những từ-ngữ rất đẹp, rất
trong sáng. Chính chất lượng của Kinh đã làm cho các Tín đồ càng tin rằng đó thật là những lời của Thượng
Đế, vì con người không ai sáng tác nỗi một tác phẩm siêu phàm như vậy. Ngay
trong Kinh Co-ran cũng có đoạn nói người và Thần Thánh dù có họp sức, giúp đỡ
nhau cũng không sao tạo ra được một công trình đẹp đẽ như Kinh Co-ran này (Chương
17, Câu 88). Đây cũng là tác phẩm số 1 của nền văn học Á-Rập. Trẻ con lúc học vỡ
lòng đã phải thuộc từng đoạn Co-ran. Nó sẽ theo dõi suốt đời người Hồi giáo vì
họ tin rằng nó mang lại giải đáp cho tất cả vấn đề mà con người và xã hội đặt
ra. Thật ra trong Đạo Hồi không hề có sự phân biệt giữa Đạo và Đời. Kinh Co-ran
có nói trong chương 4 câu 13 “Trên trời dưới đất tất cả đều thuộc Thượng Đế”.
Hình thức Kinh Co-ran:
Kinh Thánh Co-ran có cả thảy 114 chương gọi là sua-rát “Surâ”. Mỗi chương mang một tên do đời sau đặt cho và
chia thành nhiều câu hay vần thơ (Âya) chương ngắn nhất có 3 câu và chương dài
nhất có 228 câu. Tổng cộng có cả thảy 6.219 câu trong Co-ran. Gần 3.500 câu là
những lời cầu nguyện hay những mệnh lệnh của Thượng Đế. Phần còn lại nêu lên những
sự kiện đã dẫn trong Tân ước và Cựu-ước của các Đạo Do-Thái và Cơ Đốc.
Các chương trong Kinh Co-ran không được sắp xếp theo thứ tự thời gian mà
theo độ dài ngắn để đọc dễ nhớ, trừ chương I, chương mở đầu, mặc dầu chỉ có 5
câu nhưng quan trọng ở chỗ nó lại làm đầu đề cho mọi chương khác. Câu 1 của
chương 1 là: “Nhân danh Thượng Đế khoan dung độ lượng”. Đây cũng là câu mà mọi
Tín đồ Hồi giáo dùng để chào hỏi nhau và là câu gốc của mọi lời cầu nguyện.
Trên đầu 29 chương, người ta còn thấy những chữ bí mật, có lẽ là những dấu hiệu
viết tắt mà đến nay chưa ai giải đoán được.
Kinh Co-ran không phải là một tập thơ, nhưng các câu của nó có vần có điệu.
Khi tụng kinh người ta phải dừng lại đúng chỗ trong mỗi câu. Chính cách tụng niệm
lại có tầm quan trọng của nó đưa đến cho người nghe một cảm giác thiêng liêng,
huyền bí
Nội dung Kinh CO-RAN:
Giáo lý và quan niệm xã hội.
Đạo Hồi là một Tôn giáo tương đối đơn giản trong Giáo lý và trong nghi thức.
Kinh Co-ran chi tiết hóa những điểm này. Đạo Hồi không tự xem mình là một Tôn
giáo mới, mà chỉ kế tục các Tôn giáo có trước trong vùng là Do Thái và Cơ-Đốc-Giáo.
Đạo Hồi lập lại giáo thuyết đơn thần của Abraham và kêu gọi Tín đồ chỉ thờ một
Thượng Đế duy nhất chống lại thuyết ba ngôi của Đạo Cơ Đốc. Những nghi thức như
cách tụng niệm, tháng trai giới hay nghĩa vụ hành hương đều mượn từ các Tôn
giáo có trước.
Theo Đạo Hồi, chỉ có một Thượng Đế nhân từ và kiến tạo, con người nhận biết
Thượng Đế qua các dấu vết để lại. Thượng Đế tạo ra Trời và đất, xây dựng trật tự
trong vũ trụ và lấy bụi bặm để nặn ra con người. Tình thương và lòng Bác ái
cũng là những điển hình kiến tạo của Thượng Đế. Thượng đế đã giao phó cho một số
người gọi là các Đấng Tiên tri nhiệm vụ truyền đạt lại cho thế gian những Thông
điệp của mình. Các Đấng Tiên tri gồm có Adam, Noah, Abraham, Mô-i-dơ, Giê-su và
cuối cùng là Mu-ha-mát, tất cả đều là người Do-Thái, trừ Mu-ha-mát. Sau
Mu-ha-mát sẽ không còn Đấng Tiên tri nào nữa. Kinh Co-ran xem Chúa Giê-su của Đạo
Cơ-Đốc như một Đấng Tiên tri chứ không phải là con Thượng Đế vì trong chương
112 có câu “Thượng Đế là duy nhất, Thượng Đế là tuyệt đối, Thượng Đế không sinh
ra ai mà cũng không do ai sinh ra, không
ai sánh ngang tầm Thượng-Đế”. Trong các cuộc chiến tranh giữa người Cơ-Đốc-giáo
và người Hồi-giáo, khi bên này hay bên kia bắt được tù binh, họ đều ép người bị
bắt phải phủ định hay khẳng định chương 112 này. Sự tuân thủ tuyệt đối của giáo
chúng vào Kinh Co-ran từ hàng nghìn năm nay, mặc dầu Kinh này ra đời trong bối
cảnh một xã hội còn lạc hậu đã dẫn đến nhiều hành động mà phương Tây xem là lỗi
thời. Người Hồi giáo có nhiệm vụ phục tùng tuyệt đối vào các lời dạy trong Kinh
Co-ran và đặt lòng tin vào năm chân lý chủ yếu: đó là Thượng-Đế, các Thiên Thần, Ngày Phán xử cuối cùng, các
Kinh điển (của cả ba Tôn giáo là Kinh Tora, Kinh Phúc âm và Kinh Co-ran) và các
Đấng Tiên tri.
Theo kinh Co-ran, Tín đồ Hồi giáo phải theo năm điều luật gọi là “Năm trụ cột
của Đạo Hồi”. Đó là:
- Lời tuyên thệ (Shahâda) giống như lời qui y của Đạo Phật.
- Cầu Kinh (Salât) 5 lần mỗi ngày, ngày thứ sáu cầu Kinh ở Đền.
- Trai giới (sawm), trong tháng
Ra-ma-dan Hồi giáo.
- Bố thí (zakât), ban đầu là để giúp đỡ người nghèo trong cộng đồng.
- Hành hương (hajj) đến Mecca, ít ra
cũng một lần trong đời.
Thêm vào đấy, cộng đồng Hồi giáo còn đưa ra nhiệm vụ Thánh chiến (jihâd) với
mục đích đem lại cho toàn thể nhân loại những“quyền con người” ghi trong Kinh
Co-ran.
Lời tuyên thệ là nghi thức qua đó người Hồi giáo nói lên sự gia nhập của mình vào cộng đồng.
Lời tuyên thệ này phải được đọc trước hai nhân chứng đã là Tín đồ Hồi giáo và
sau đó phải nhắc lại trong mọi thời điểm quan trọng của mình. Lời tuyên thệ này
khẳng định rõ rệt tính đơn thuần của Đạo Hồi. Nó rất đơn giản:
“Không có Thượng-Đế nào
khác ngoài An-la.
“Mu-Ha-mát là sứ giả của
Thượng Đế”.
Cầu nguyện là nhiệm vụ quan trọng nhất của người ngoan Đạo. Lời cầu nguyện trong Hồi
giáo chỉ nói lên sự thần phục và tình thương yêu đối với Thượng-Đế An-la. Lời cầu
nguyện phải theo những công thức bất di bất dịch, người cầu nguyện không được
thêm thắt hay lược bỏ đi phần nào như được phép trong các Tôn giáo khác. Mỗi
ngày, Tín đồ Hồi giáo phải cầu nguyện 5 lần hướng về Mecca sau khi đã rửa ráy sạch
sẽ, nếu trong sa mạc không có nước thì phải lau bằng cát. Ngày Thứ Sáu tại các
Đền Hồi giáo, người ta tổ chức những buổi cầu nguyện tập thể dưới sự hướng dẫn
của các Giáo sĩ. Nên biết là Hồi giáo không có một hàng giáo phẩm nào có uy quyền
thay Thượng Đế quản lý giáo dân. Dựa trên tinh thần bình đẳng tuyệt đối giữa
các Tín đồ, các giáo sĩ Hồi giáo chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn mà thôi.
Trai giới là một nghi thức Hồi giáo có mục đích tập luyện cho giáo dân tính tự chủ
và khả năng chịu đựng khổ hạnh. Trong mùa trai giới, tháng Ra-ma-dan của lịch Hồi
giáo, các Tín đồ không được ăn uống từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn.
Trong mùa này giáo dân cũng không được phép hút thuốc và có quan hệ tình dục.
Mùa trai giới cũng là cơ hội cộng đồng Hồi giáo nắm vững Tín đồ của mình nên người
ta tổ chức nhiều buổi cầu nguyện, nhiều bài giảng và nhiều lớp ôn tập giáo lý.
Hằng năm các nhà Thiên văn học Hồi giáo xác định đúng ngày bắt đầu và ngày kết
thúc mùa trai giới
Tiền bố thí có mục đích củng cố tình đoàn kết trong cộng đồng, người có của giúp người
nghèo khó. Hơn nữa tài sản trên đời không phải của riêng ai mà tất cả thuộc về
Thượng Đế, đóng góp một phần cho Thượng đế thì mới có thể hưởng thụ phần còn lại.
Về sau tiền bố thí này trở thành một loại thuế, ai cũng phải đóng từ 1/20 đến
1/5 thu nhập hàng năm cho những nhân viên thu thuế để họ phân phát lại cho người
nghèo, cho người nô lệ tìm tự do, khách lỡ độ đường hay cho các chiến sĩ Thánh
chiến. Ngoài phần bố thí bắt buộc này, Tín đồ Hồi giáo còn có thể tự nguyện
đóng góp thêm.
Hành hương đến Mecca là nhiệm vụ của mọi Tín đồ trưởng thành, ít ra cũng một lần
trong đời. Những người có bệnh tật hay nghèo khó có thể nhờ người khác đi hành
hương thay cho mình. Nghi thức hành hương đã được xác định từ nguồn
Do-Thái-Giáo vì cũng để tưởng niệm giáo trưởng Abraham của Đạo Do-Thái, người Á
Rập và người Do-Thái đều có chung Abraham là Thuỷ tổ.
Có hai loại hành hương:
- Tiểu hành hương (umra) có thể thực hiện bất kỳ lúc nào.
- Đại hành hương (hadj) là cuộc hành hương tập thể vào tháng 12 âm lịch Hồi giáo, tức là
hai tháng sau mùa trai giới Ra-ma-dam. Kinh Co-ran có qui định các nghi thức
hành hương trong chương 22 mang tựa đề “Hành hương. Vùng đất Thánh” xung quanh
Mecca gọi là Haram.
(Haram có nghĩa là thiêng liêng) là nơi thiêng liêng nhất của Đạo Hồi, kẻ
ngoại đạo không được bén mảng đến. Medina và Mecca và hành lang nối hai thành
phố này nay trở thành hai vùng Thánh Địa (al-Haramayn) người ngoại đạo nếu
không được phép mà đến đây có thể bị tử hình. Người Hồi giáo đi hành hương mặc
một bộ quần áo đặc biệt làm bằng hai mảnh vải bông trắng, không có đường khâu.
Bộ này sẽ được người hành hương giữ cho đến lúc chết để làm vải liệm xác. Khi
vào khu Thánh địa, Tín đồ phải tắm rửa sạch sẽ, cạo hết lông trên người. Cuộc đại
hành hương trước đây thường do một đại diện của Giáo chủ Hồi giáo đứng ra tổ chức,
ngày nay chính hoàng gia Saudi Arabia đảm đương trách nhiệm này. Người hành
hương phải chạy 7 vòng chung quanh Thánh địa Ka-ba, ngược chiều kim đồng hồ.
Sau khi Mu-ha-mát cho huỷ tất cả các thần tượng thì trong Ka-ba chỉ còn lại một
hòn thiên thạch màu đen mà theo truyền thuyết thì do chính Abraham đem từ
Thiên đường xuống. Lúc đầu hòn đá này trắng
toát nhưng vì nhiễm các tội lỗi của nhân loại nên trở thành đen.
Cuộc hành hương kéo dài 7 ngày, con số 7 là số thiêng liêng của Đạo Do-Thái
và đạo Hồi. Trên đường về các Tín đồ thường đến viếng mộ Ma-Ha-mát ở Medina, đến
Jérusalem thăm mõm đá là nơi trước kia có Đền của Salomon. Họ cũng có thể thăm
đất Thánh thứ tư của Đạo Hồi là Hebron ở Palestine nơi chôn Abraham.
Thực hiện được cuộc hành hương, người Tín đồ mang danh hiệu hadj gắn vào
tên mình và được cấp một chứng chỉ hành hương mà họ sẽ nâng niu thờ phượng suốt
đời. Nghi thức hành hương chủ yếu để chứng minh sự thống nhứt của cộng đồng Hồi
giáo, không phân biệt các dân tộc hay các quốc gia khác nhau. Cuộc đại hành
hương hàng năm qui tụ rất nhiều tín đồ, cả Nam lẫn nữ, có lúc trên hai triệu
người.
Nhiều người lại xem nghĩa vụ Thánh chiến là cột trụ thứ sáu của đạo Hồi.
Đây là một nhiệm vụ nhất thời, không thường xuyên 5 nghĩa vụ trước vì nó chỉ bắt
buộc khi đạo Hồi lâm nguy, cần được bảo vệ. Thật ra ý nghĩa chánh của từ
jihâd trong Co-ran là “nỗ lực”, tín đồ
phải tránh được các lỗi lầm để trở thành người thiện. Về sau người ta ghép cho
từ này ý nghĩa chiến đấu vũ trang, vì theo Kinh Co-ran, phải chiến đấu để bảo vệ
hay tấn công, chiến đấu để dẫn dắt mọi người tiến lên trên đường phục tùng Thượng
Đế. Các cuộc Thánh chiến đầu tiên xảy ra khi Đấng Tiên-tri Mu-Ha-mát lãnh đạo
giáo dân chống lại các cuộc tấn công và bao vây của Mecca. Về sau, khi bị các
Thập Tự quân Cơ Đốc giáo đến chiếm vùng đất Thánh, các Giáo chủ Hồi giáo cũng
ban sắc lịnh Thánh chiến và trong những thế kỷ gần đây, cuộc chống trả chiến
tranh thuộc địa của các nước phương Tây cũng là một Thánh chiến mới.
Trước đây, chính các giáo chủ Hồi giáo phát động Thánh chiến khi cần thiết.
Các chiến lợi phẩm được chia làm năm phần, Giáo chủ được toàn quyền sử dụng một
phần, bốn phần còn lại thì chia cho các chiến sĩ còn sống sót. Các chiến sĩ
tham gia Thánh chiến (mujahidin) sẽ được xoá bỏ mọi lỗi lầm đã phạm trên đời và nếu hy sinh tánh mạng thì được
lên thẳng Thiên đường .
Các khái niệm Thiên đường và Địa ngục trong Hồi giáo được lấy ra từ
Do-Thái-giáo và cũng giống như Kinh Thánh của Đạo Cơ-Đốc. Người ta hình dung Địa
ngục là 7 từng lửa cháy, có quỉ dữ tưới nước sôi vào những người can tội: ở đây
người Á-Rập chỉ muốn mô tả ở mức cao nhứt Địa ngục trần gian là các sa mạc nóng
bỏng, nơi họ đang sinh sống. Tương tự như vậy, Thiên Đường là nơi có tất cả những
điều mà người dân du mục trên sa mạc hằng mong ước: vườn tược, cây cối, sông nước,
hoa nở quanh năm. Kẻ vào được Thiên đường sẽ được hưởng tất cả những thứ mà họ
không có được ở hạ giới như trái cây, nước uống, sữa tươi, đường mật hay những
thứ họ không được phép dùng như rượu. Họ
được mặc những bộ quần áo lộng lẫy, được những chàng thanh niên đẹp trai hầu hạ
và những cô vợ (houri) mắt to, da trắng vĩnh viễn xinh tươi để chung chăn gối.
Đạo Cơ Đốc giáo đã từng mô tả Thiên đường một cách gần giống Đạo Hồi, nhưng từ
ban đầu Thánh Phao-lồ và các tu sĩ khác đều chống chủ nghĩa hoan lạc cho nên
các thành viên của Thiên đường Cơ Đốc giáo đều không có giới tính. Để biện minh
cho quan điểm của mình, các nhà Thần học Hồi giáo cho rằng việc hưởng thụ vật
chất chỉ làm phát triển thêm nhân cách con người. Kinh Co-ran được xem là bất
di bất dịch, không ai có quyền sửa câu, đổi chữ. Vì thế mà ở thế kỷ thứ 21, người
dân Hồi giáo vẫn phải quan niệm đời sống và xã hội như ở các thế kỷ đầu của
Công nguyên trong những bộ lạc dân du mục.
Tổ chức xã hội theo Kinh Co-ran.
Khi xây dựng Đạo Hồi, Đấng Tiên tri Mu-ha-mát muốn tiến
hành một cuộc cách mạng xã hội với những tư tưởng rất tiến bộ của thời bấy giờ. Mu-Ha-mát muốn xây dựng một xã hội
không giai cấp, một xã hội bình đằng trong đấy mọi người có bổn phận giúp đỡ lẫn
nhau. Kinh Co-ran cũng có qui định về pháp luật trong xã hội Hồi giáo và cách tổ
chức các cơ quan quyền lực về hành pháp, Tư pháp, Lập Pháp.
Để bổ sung cho Kinh Co-ran, các đời sau sưu tầm những mẫu chuyện và những
bài giảng của Đấng Tiên tri trong tập sách sun-na để mọi người do theo đó mà học
tập theo gương Đấng Tiên tri. Giáo phái chính thống của Đạo Hồi ngày nay được gọi
là giáo phái sun-ni. Các dữ kiện trong sun-na chỉ tồn tại do truyền khẩu từ đời
này sang đời kia để lại nên ít chính xác. Các mẫu chuyện về cuộc đời và các lời
dạy của Đấng Tiên tri còn được gọi là Hi-đi-thơ (hadith truyền thống). Mặc dầu
các ha-đi-thơ giúp người ta tìm hiểu cuộc đời của Mu-ha-mát nhưng chúng ít có
giá trị vì hay bị sửa đổi hay được bịa đặt ra do các nhu cầu chánh trị và giáo
lý của mỗi thời đại. Đến thế kỷ thứ 9, người ta đã thu thập được trăm nghìn
ha-đi-thơ trong số đó có rất nhiều chuyện do dân gian bày đặt ra. Cuối cùng,
sau khi loại bỏ dần dần, các nhà Thần học Hồi giáo chỉ còn giữ lại 6 tập ha-đi-thơ
do 6 tác giả biên soạn, thí dụ như tác giả Al-Bukhari (chết năm 870) chỉ giữ lại
8.000 trong số 300.000 ha-đi-thơ sưu tầm được.
Sách sun-na qui định luật pháp của Đạo Hồi, đấy là những hướng dẫn trên mặt
Tôn giáo, tổ chức xã hội và cả những hình phạt đối với người phạm pháp. Các hướng
dẫn này được đưa ra sau khi Đấng Tiên tri Mu-ha-mát qua đời và là những suy luận
từ các câu của Kinh Co-ran. Thí dụ như việc cấm uống rượu thì Kinh Co-ran không
nói đến trực tiếp nhưng các nhà thần học dựa vào hai câu để cấm giáo dân uống
rượu: đó là câu 43, chương 4 nói là không được cầu nguyện trong lúc say sưa và
câu 91, chương 5 nói là quỉ Sa-tăng dùng rượu vang để kích thích lòng thù hận của
người đời.
Do việc Kinh Co-ran có nhiều chỗ mơ hồ nên các nhà thần học có thể suy luận
theo nhiều cách khác nhau. Kết quả là giáo phái sun-ni của Đạo Hồi về sau chia
làm 4 trường phái mang tên 4 vị thần học sáng lập ra chúng:đó là Trường phái
Ma-lích-kít (doMalik, người Medina, chết năm 795 lập ra)
Trường phái ha-na-phít (do Hanifa, người Iraq, chết năm 767 lập ra)
Trường phái sa-phít (do Safi, người Mecca, chết năm 820 lập ra)
Trường phái han-ban-lít là trường phái bảo thủ nhứt chống lại mọi cải cách
và vì nó dễ hiểu đối với người ít học cho nên nó là nơi qui tụ các nhóm Hồi
giáo chính thống và quá khích ngày nay, nhất là Saudi Arabia.
Kinh Co-ran phân biệt rõ lãnh thổ của Hồi giáo.
(dân Al Islam) và lãnh thổ ngoại đạo (dâr al harb có nghĩa là vùng đất của
chiến tranh và mâu thuẫn) Trong các xã hội thần quyền Hồi giáo được tổ chức dựa
trên Kinh Coran, mọi hành động đều phải tuân theo các hướng dẫn của Kinh, pháp
luật và các hình phạt cũng do Kinh Co-ran qui định. Trong thế giới hiện đại, với
sự thông thương đi lại, với cuộc cách mạng về thông tin, rất khó mà một quốc
gia có thể có các tổ chức chánh trị, kinh tế, xã hội chỉ dựa trên Kinh Co-ran
mà thôi. Vì vậy các chế độ thần quyền của các giáo chủ ay-a-tô-la ở Iran hay của
các gíao sĩ mô-la ở Afghanistan trước đây đều gặp nhiều khó khăn để hoà mình
vào thế giới bên ngoài.
Về mặt tổ chức gia đình, Kinh Co-ran nhấn mạnh đến chế độ gia trưởng theo
đúng tục lệ cổ truyền của người Á-Rập. Nhưng Kinh Co-ran cũng cho phép ngưới phụ
nữ có một số quyền lợi: đây là điểm tiến bộ quan trọng so với thời tiền Hồi
giáo nhưng nếu đối chiếu với địa vị của người phụ nữ hiện nay trong các xã hội
khác thì còn nhiều thiếu sót. Các xã hội trước hay có hủ tục giết con gái, điều
mà Kinh Co-ran nghiêm cấm trong xã hội Hồi giáo. Mu-ha-mát cũng cho phép nuôi
con trai vì chính ông cũng nuôi một người nô lệ làm con sau khi các con đẻ của
ông lần lượt qua đời. Nhưng về sau, ông xác định lại là chỉ có con đẻ mới có tất
cả các quyền lợi. Các giáo chủ nối tiếp còn hạn chế hơn nữa bằng cách xoá bỏ
nhiều quyền lợi của con nuôi. Tên con thường được gắn vào họ của bố bằng chữ
ibn, bin hay ben. Con trai sống với mẹ cho đến 7 tuổi sau đấy theo cha học nghề
hay được nhận vào các trường Hồi giáo miễn phí ma-dra-sa (madrasa) và trở thành
sinh viên Thần học (taliban)
Đạo Hồi xem việc lập gia đình như một nghĩa vụ, sống độc thân là một tội lỗi,
người phụ nữ độc thân không có tư cách pháp nhân nào cả. Đàn ông Hồi giáo có thể
lấy vợ ngoại Đạo nhưng con cái sinh ra bắt buộc phải theo Hồi giáo, trái lại phụ
nữ Hồi giáo chỉ có thể lấy chồng đồng đạo mà thôi. Kinh Co-ran cho phép đàn ông
lấy 4 vợ chính thức, không phân biệt cả lẻ, còn số nàng hầu xuất thân từ thành
phần nô lệ thì không hạn chế. Chế độ đa thê này là một điều cần thiết khi số
nam giới Hồi giáo bị hao mòn liên tục vì chiến trận liên miên. Người phụ nữ
không có quyền từ chối một người đàn ông đã do cha, anh hay chú, bác lựa chọn.
Còn người phụ nữ ngoại tình sẽ bị đánh đập hay bị tù chung thân, nhiều khi bị xử
ném đá ngoài đường cho đến chết. Phải đủ 4 nhân chứng mới được kết tội ngoại
tình một người phụ nữ.Đàn ông có quyền bỏ vợ hay ly hôn nhưng phải có nhiệm vụ
cấp tiền nuôi dưỡng người vợ cũ.
Phụ nữ Hồi giáo có nhiều quyền sở hữu của cải như nam giới và có thể đi học
trong một chừng mực nào. Kinh Co-ran khuyên người phụ nữ che tóc theo tập tục
có sẵn của dân trong vùng vì họ xem tóc người phụ nữ có tính cách thiêng liêng.
Trong xã hội Hồi giáo, hai giới nam và nữ phải luôn luôn cách biệt kể cả trong
các bữa ăn hay các hội hè đình đám. Cuộc sống ngoài xã hội chỉ dành riêng cho
nam giới, phụ nữ ít khi ra khỏi nhà, khi cần phải ra ngoài như đến nghĩa địa
hay đến các phòng tắm thì mang mạng che mặt. Chỉ trong các cuộc hành hương ở
Mecca là nam nữ được lẫn lộn nhau vì
theo nguyên tắc, ở đây nghiêm cấm các quan hệ tình dục.
Kinh Co-ran cũng cho phép người ta có quyền mua, bán và sở hữu nô lệ. Nếu bố
mẹ là nô lệ thì con cái sinh ra là nô lệ từ thuở lọt lòng. Người Hồi giáo không
được bắt người đồng đạo làm nô lệ và người ngoại đạo không có quyền làm chủ người
nô lệ Hồi giáo. Các phụ nữ nô lệ được lấy làm hầu đều không đến từ nguồn mua
bán mà do bắt được trong các cuộc chiến tranh. Kinh Co-ran khuyên tín đồ nên đối
xử tử tế với người nô lệ, đó là một điểm tiến bộ so với luật pháp La-mã cổ xưa
vì luật pháp này cho quyền chủ nhân giết nô lệ của mình. Mặc dầu tất cả các tín
đồ Hồi giáo đều là anh em chung một nhà và bình đẳng trên mọi mặt (Kinh Co-ran
chương 49, câu 10) nhưng người nô lệ khi được nhận vào đạo Hồi thì cũng vẫn chưa
được ngang hàng với các tín đồ khác và để phân biệt họ phải đeo một chiếc vòng ở
tai.
Xã hội Hồi giáo, ngay từ buổi đầu đã gồm cả những người ngoại đạo, gọi là
những người được che chở (dhimmi). Mặc dầu phải đóng một thứ thuế thân gọi là
di di-ya (djiziya), số phận của họ cũng chẳng tốt đẹp gì cho lắm. Họ không có
quyền mang vũ khí, không được đi ngựa, không có tư cách làm nhân chứng ở các
toà án, không được đọc Kinh Co-ran, phải mặc một loại áo quần đặc biệt, trong
thành phố thì bị dồn vào sinh sống ở một khu riêng biệt, nhà cửa phải thấp hơn
nhà của người Hồi giáo. Từ thế kỷ thứ 10 trở đi, các cộng đồng không phải Hồi
giáo (milla hay millet trong đế quốc ốt-tô-man), có thể tự quản lý, bầu ra những
lãnh đạo để đại diện cộng đồng trước nhà nước Hồi giáo. Tuy nhiên những thương
nhân ngoại quốc khi đến một nước Hồi giáo đầu tư và làm ăn, buôn bán thì được
hưởng một qui chế đặc biệt.
Trong đời sống hằng ngày, các cấm đoán từ Kinh Co-ran cũng khá nhiều, đặc
biệt về thực phẩm, tín đồ không được ăn thịt heo, thịt chó, thịt chim. Các thứ
thịt khác thì được ăn nhưng phải được chuẩn bị và chế biến theo những nghi thức
đặc biệt trong các cửa hàng Hồi giáo
Trên mặt kinh tế, đạo Hồi nghiêm cấm việc cho vay nặng lãi nhưng lại cho
phép người ta làm giàu vì của cải làm ăn uy tín của con người. Kinh Co-ran có rất
nhiều qui định về thương nghiệp, điều này cũng dễ hiểu vì chính Đấng Tiên tri
Mu-ha-mát xuất thân từ nghề dẫn các đoàn lạc đà đi buôn bán, các tín đồ đến với
đạo Hồi sớm nhất đều thuộc giới thương gia kể cả các vị giáo chủ đầu tiên.
Trong xã hội Hồi giáo ban đầu, công nghiệp tập trung vào việc khai thác các hầm
mỏ. Mặc dầu hầm mỏ, trên nguyên tắc là sở hữu của Thượng Đế, tức là của cộng đồng
nhưng những người chủ mỏ được hưởng chế độ khoán sản phẩm, chỉ đóng cho nhà nước
1/5 sản lượng hàng năm. Các ngành tiểu, thủ công nghiệp trong các thành phố thường
có đại diện được bầu ra để giao thiệp với chánh quyền trên mặt hành chánh. Tuy
nhiên tiếng nói của họ rất yếu ớt so với các nhóm thương gia. Dầu sao thì đây
cũng là hình thức công đoàn để bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Tổ chức chánh trị trong một xã hội Hồi giáo theo một cơ cấu thần quyền, trong đó chính Thượng
Đế giao phó cho một người đại diện nắm giữ mọi quyền lực thế tục, người đại diện
này lúc đầu là Đấng Tiên tri Mu-ha-mát, sau đấy là các vị giáo chủ kế tục Đấng
Tiên tri. Các vị giáo-c.hủ lại uỷ quyền cho một bộ máy hành chánh để điều hành
mọi công việc trong nước.
Quyền hành pháp đều do các giáo chủ nắm trong tay. Bất kỳ người Hồi giáo nào cũng có thể
trở thành giáo chủ. Lúc đầu các giáo chủ được bầu ra, nhưng sau đó lại theo chế
độ cha truyền con nối như các Hoàng Đế, tuy nhiên khác với Hoàng đế, các giáo
chủ vừa là vị lãnh tụ ngoài đời vừa là người có quyền lực tôn giáo cao nhứt vì
ngay từ vị giáo chủ thứ hai của Hồi giáo là Umar, các giáo chủ còn mang thêm
danh hiệu “Thống lãnh các tín đồ” (amir al muminin). Quyền lực của các giáo chủ
thật là tuyệt đối nên hay có lạm dụng và
trong lịch sử, nhiều cuộc nổi dậy đã xảy ra chống lại quyền lực này. Bộ máy
chánh quyền giúp giáo-chủ được đặt dưới sự lãnh đạo của một tể tướng vi-dia
(vizir có nghĩa là người phụ tá mang gánh nặng) và gồm nhiều bộ trưởng. Tại các
địa phương giáo chủ uỷ quyền chỉ huy quân sự và dân sự cho các tiểu vương (amir hay emir có nghĩa là thống lãnh).
Dân chúng chỉ tiếp xúc với chính quyền chủ yếu qua trung gian các cán bộ thu
thuế.
Quyền lập pháp trong xã hội Hồi giáo hầu như không có, vì đã có Kinh Co-ran làm cơ sở.
Tuy nhiên, trong chi tiết, khi có một vấn đề nào đó được đặt ra, các nhà thần học
(ulamât) bắt đầu nghiên cứu để đi đến một kết luận mà theo họ là theo đúng tinh
thần Kinh Co-ran. Các kết luận này sau được đưa vào bộ luật Hồi giáo gọi là
sa-ri-a (charia có nghĩa là con đường phải theo).
Vì có 4 trường-phái giáo lý khác nhau nên cũng có những khác biệt trong luật
pháp Hồi-giáo tuỳ theo từng vùng. Vì luật pháp Hồi-giáo không đòi hỏi một văn bản
chính thức nên các quan toà (cadi) khi xét xử chỉ dựa vào các quyết định
(fatwa) mà các cố vấn pháp luật (mufti)
đã đưa ra. Luật Hồi-giáo có bản chất khắc nghiệt hơn luật của các tôn giáo khác
vì nó xem đây là mệnh lệnh bất di bất dịch của Thượng Đế trong kinh luật Do
thái (Tora) chẳng hạn chỉ là một hợp đồng giữa Thượng-đế và dân Do-Thái. Các xã
hội Hồi giáo thần quyền nguyên thuỷ (và cả ngày nay) đều áp dụng luật sa-ri-a,
xem nó là biểu tượng của quyền lực mà Thượng Đế đã trao cho các lãnh đạo nơi trần
thế. Trong luật pháp Hồi giáo, các hình phạt đều được qui định rõ tuỳ theo từng
tội danh. Nặng nhất là tội bỏ đạo thì bị xử tử hình cũng như tội cướp bóc. Trộm
cắp bị xử chặt tay (Coran 5/38), trai gái bị 100 roi, vu cáo bị đánh bằng roi
cũng như tội rượu chè. Những tội nhẹ thường chỉ bị khiển trách, xử lý hành
chánh. Nhiều tội nhẹ vì không có hình phạt qui định chính thức và lại do các
nhân viên cảnh sát xét xử nên nhiều khi
khá tuỳ tiện. Mỗi vùng lãnh thổ có một vị chánh án do giáo chủ bổ nhiệm, các địa
phương thì có những quan toà cấp dưới. Ngoài ra còn có những phụ tá thẩm
phán (muhtaib) để theo dõi các vấn đề
liên quan đến thương mãi như nghiên cứu các hợp đồng mua bán, kiểm tra chất lượng
hàng hoá, kiểm tra việc cân đo, giữ gìn trật tự trong các chợ và dàn xếp các
tranh chấp giữa chủ và thợ
Luật Hồi giáo có nhiều điều khoản liên quan
đến các tranh chấp về việc sử dụng nước tưới tiêu trong nông nghiệp. Điều
này cũng dễ hiểu, vì các nước Hồi-giáo nằm
trong những vùng đất đai khô cằn, việc phân phối nguồn nước phải được qui định
rất rõ ràng. Khi Đạo Hồi chinh phục Tây Ban Nha họ có lập ra ở đây những toà án
chuyên về các vấn đề nguồn nước, ngày
nay vẫn còn tồn tại.
Về mặt thuế khoá, người Hồi-giáo phải đóng thuế bố thí bắt buộc da-cát và người
ngoại đạo đóng thuế di-di-ya để được nhà nước bảo vệ. Những người ngoại đạo còn
phải trả thuế điền thổ gọi là kha-rát (kharadj), cách tính thuế này rất phức tạp
vì nó tuỳ thuộc diện tích canh tác, mức độ phì nhiêu của đất đai, chủng loại
cây trồng, năng suất đạt được…Cũng nên biết rằng luật thuế má hà khắc đối với
những người ngoại đạo đã có trong Đế-quốc Cơ đốc By-dăng, những ai không theo đạo
của Giê-su phải trả một khoản thuế thân hết sức nặng nề. Tất cả thuế má thâu được
đều tập trung vào công quĩ nhà nước.
Kinh Co-ran được xem là bộ luật cơ bản đặt mọi tín đồ Hồi giáo vào cộng đồng
Um-ma. Dưới thời giáo chủ Uthman (644-656) Kinh Co-ran được hoàn chỉnh thêm và
được công bố dưới dạng chính thức, nhờ đó Hồi-giáo tạo ra được một con người mới,
con người Hồi giáo, có lòng tin vững chắc vào chân lý của mình, có lòng tự hào
vào cộng đồng Um-ma, một cộng đồng có tính đoàn kết và gắn bó cao độ. Tính thống
nhất cuả cộng đồng còn được phát huy hơn nữa khi các tín đồ phải luôn luôn cầm
vũ khí chiến đấu chống lại đạo Cơ-đốc mà chủ trương lúc ấy là tiêu diệt hết người
Hồi giáo hay ít ra cũng bắt họ bỏ đạo theo mình. Qua các cuộc Thánh chiến thắng
lợi, người Hồi giáo thấy mình hơn hẳn các tín đồ tôn giáo khác, đặc biệt là
Cơ-Đốc giáo, chiến đấu liên tục chống lại hai đế quốc Cơ đốc La mã và By-dăng,
quân Hồi giáo đã nhiều lần tấn công vào các thủ đô Roma và Constantinople rồi
cuối cùng diệt tan đế quốc By-dăng, tạo nên một vùng lãnh thổ Hồi giáo hùng mạnh.
(Trích quyển Đạo Hồi thế giới Á-Rập-
Văn minh- Lịch sử. Nhà xb tổng hợp TP. HCM
Từ trang-45 . Kinh Thánh Coran)
VI - Triết lý Bà-La-Môn-Giáo
BÀ-LA-MÔN 婆 羅 門 (Tôn giáo)
Bà-La-Môn ( S, P: brāhmaṇa) [Phật học]
Theo Phật học
thì: Danh từ chỉ một cấp, một hạng người tại Ấn Ðộ. Thuộc về cấp
Bà-La-Môn là các tu sĩ, triết gia, học giả và các vị lĩnh đạo Tôn giáo. Dân
chúng Ấn Ðộ rất tôn trọng cấp người này. Trong thời Đức Phật
hoằng hóa, cấp này là cấp thứ hai của bốn cấp (sau thời Đức Phật đến bây giờ là
cấp cao nhất) trong hệ-thống xã hội và vì vậy, họ rất kiêu mạn. Nhiều Bà-La-Môn
cho rằng, chỉ họ mới mang dòng máu “trắng” là dòng máu trong sạch và tất cả các
hạng người còn lại chỉ sống để phụng thờ họ. Trong những bài kinh thuộc văn hệ
Pā-li (Bộ kinh), Phật không hề chống đối giai cấp Bà-La-Môn nhưng lại bảo rằng,
không phải sinh ra trong một gia đình, dòng dõi Bà La-Môn là tự nhiên trở thành
một Bà-La Môn. Người ta “trở thành” một Bà-La-Môn với những hành động, những ý
nghĩ cao thượng và đó chính là những tiêu chuẩn đích thật. Bất cứ người nào
cũng có thể được gọi là Bà-La-Môn nếu họ đạt những tư cách nói trên. Ðây là một
chiến thuật tuyệt vời của Đức Phật khi Ngài chuyển ý nghĩa “giai cấp Bà-La-Môn”
thành một danh từ đạo đức Bà-La-Môn, tức là một người có đầy đủ đức hạnh, vượt
mọi giai cấp xã hội thời đó (Tập bộ kinh). Phật thuyết trong Tiểu bộ kinh (Tự
thuyết I. 5, udāna):
Ai lìa bất thiện nghiệp.
Ði trên đường thanh tịnh.
Tinh tiến, thoát trói buộc.
Ta gọi BÀ-LA-MÔN
Đức Hộ-Pháp nói: “Còn nữa, còn Đạo Brahma, tức là Đạo Bà La Môn cho rằng:
thuyết giải thoát của Ngài là thuyết do nhiên chứ không có gì hết, sau chính
mình Ngài tạo phẩm vị đi từ Nhơn vị, Tiên vị, lên đến Phật vị, ai cũng có thể
đi đến được hết. Luật giải thoát của Ngài do nhiên chứ không có chi lạ. Những
lý lẽ ấy làm cho đầu óc con người tầm chơn càng suy nghĩ càng khó quyết định được.
Ta tự hỏi, thế nào gọi là chơn ? Thế nào gọi là giả ? Theo lý trí của con người
có lẽ này "Tầm chơn là đúng sự thật hơn hết”.
Bà-La-Môn giáo dưới mắt
Cao-Đài:
“Ấn-Độ thuở trước tin thờ lý thuyết Đa Thần (Polythéisme) vì tư tưởng cổ
nhân thường hay ngó cả quyền năng Tạo-hóa mà so-sánh cùng mình, bởi thế mà cho
các quyền lực vô hình cũng có đủ khôn ngoan cùng sự quyết định. Sau lại tư tưởng
ấy trở lại xu hướng về Đấng Chí-Tôn dựng căn bổn cho Đạo Bà-La-Môn (Brahmanis-me)
từ thử. Tạo hóa Càn Khôn sanh ra do một chủ quyền của Trời. Trời lập nên đời vì
Ái, mà Ái kia pha lẫn cùng Tình. Ngài tạo ra gọi là Brahma, Ngài diệt gọi là
Civa, Ngài bảo tồn gọi là Vichnou, ấy mới gọi Chí-Tôn Tam Thế (La Trinité)”.
(Khuê bài Thiêng liêng vị)
ĐỊNH NGHĨA:
Bà-La-Môn là tiếng phiên âm từ tiếng Phạn: Brahma. Đạo Bà-la-Môn là một Tôn
giáo rất cổ của Ấn Độ, xuất hiện trước thời Đức Phật Thích-Ca, tức là thuộc Nhứt
kỳ Phổ Độ. Đạo Bà-La-Môn bắt nguồn từ Vệ-Đà-giáo (cũng phiên âm là Phệ-Đà-giáo)
Đạo Bà-La-Môn phát triển đến thế kỷ thứ
nhứt sau Tây lịch thì biến thành Ấn-Độ-Giáo.
Đạo Bà-La-Môn thờ Đấng Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh hồn của vũ
trụ.
Những công trình kiến trúc nổi tiếng của Ấn-Độ và các nước Đông-Nam-Á như:
Konarac, Kharujaho, Angkor Watt, Mahabalipuram, Loro Jong Grang, Tháp Chàm ở Việt-Nam
và nhiều tác phẩm triết học lớn ở Ấn Độ như Ramayana, Mahabharata, đều ra đời
trên nền tảng của Đạo
Bà-La-Môn.
Sau đây lần lượt khảo sát qua: Vệ-đà-giáo, Đạo Bà La-Môn và Ấn-Độ-giáo.
I - VỆ-ĐÀ-GIÁO: Đây là một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ. Gọi là Vệ Đà giáo vì tôn giáo nầy
xây dựng giáo thuyết trên Kinh Vệ Đà. (Véda: Phiên âm Vệ-Đà hay Phệ-Đà, nghĩa là Thông hiểu). Vệ-Đà-giáo thờ cúng
thiên nhiên, gồm nhiều tín ngưỡng, có nghi lễ, có bùa chú, do các truyền thuyết
của thổ dân da đen Dravidian ở bán đảo Ấn Độ, phối hợp với các tín ngưỡng của
dân tộc da trắng từ phương Tây Bắc đến xâm lăng, nhất là dân da trắng Aryan
tràn vào phía Bắc Ấn Độ, khoảng 1550 năm trước Tây lịch.
Bộ Kinh Vệ-Đà viết bằng tiếng Phạn, của người Aryan, gồm 4 tập, trong đó có
các bài hát ca tụng Thần linh, những lời cầu nguyện, nghi thức tế tự và các câu
phù chú bí mật, như sau:
1 - Rig Véda: Phỏng theo ý mà dịch thì Rig Véda có nghĩa là Luận rõ về sự khen ngợi
(tán tụng), hình thành vào thế kỷ thứ 20 TTL (trước Tây lịch), gồm 10 quyển, tập
hợp các bài ca ngợi Thần linh, được 1028 bài.
2 - Sama Véda: Phỏng theo ý mà dịch thì Sama Véda có nghĩa là Luận rõ về các sự ca vịnh,
hình thành vào thế kỷ thứ 10 TTL, gồm các bài dùng để hát xướng khi cúng tế, tổng
cộng 1549 bài.
3 - Yayur Véda: Phỏng theo ý mà dịch thì Yayur Véda có nghĩa là Luận rõ về các việc tế tự
cầu đảo, trong ấy bao gồm các bài cầu nguyện trong nghi thức tế lễ. Ba loại
Kinh Véda trên được sử dụng trong thời gian tế lễ, đều do hàng Tăng lữ tùy nghi chủ xướng, phúng tụng. 4 - Atharva Véda: Sưu tập các chú thuật, không quan hệ đến việc
cúng tế, hình thành vào thế kỷ thứ 10 TTL, tổng cộng có 20 quyển. Tuy chủ yếu
chép các phép thuật và bùa chú, nhưng xen kẽ vào đó có các bài khoa học làm mầm
móng cho Thiên văn học và Y học sau nầy.
Bốn bộ kinh Véda trên, sau nầy đều có những sách viết bằng tiếng Phạn giải
thích riêng cho mỗi bộ.
Giáo lý cơ bản của Vệ-Đà giáo cho rằng, con người thường xuyên có mối quan
hệ với Thần linh và có sự hòa đồng với vũ trụ. Do đó, chỉ có cúng tế, cầu đảo
thì con người mới được Thần linh phò hộ
trong mọi công việc. Song hành với các buổi cầu nguyện là những cuộc hiến tế lớn.
Những đồ hiến tế như : Thịt, bơ, sữa, rượu, được dâng lên Thần linh bằng cách đốt
trên giàn hỏa.
Việc cúng tế Thần linh rất quan trọng, nên dần dần đội ngũ các thầy cúng tế
trở nên quan trọng, có uy tín và quyền lực nhất trong xã hội Ấn Độ, hình thành
đẳng cấp Tăng lữ Bà-La-Môn sau nầy.
II - Bà-La-Môn
giáo:
Đạo Bà-La-Môn
hình thành trên cơ sở Vệ-đà-giáo khoảng 800 năm
trước Tây lịch, tức là một thời gian không dài lắm trước khi Đức Phật Thích-Ca
mở Phật giáo ở Ấn-Độ. Đạo Bà-La-Môn đưa ra những kinh sách giải thích và bình
luận kinh Véda như: Kinh Brahmana, kinh Upanishad, giải thích về Maya (tức là
Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn. Đạo Bà-La-Môn thờ đấng Brahma là Đấng tối cao
tối linh, là linh hồn của vũ trụ.
1 - Sự phân chia giai cấp
xã hội:
Đạo Bà-La Môn phân chia xã hội Ấn-Độ làm năm giai cấp. Ai sanh ra trong
giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời.
a/ - Giai cấp trên hết là cấp Tăng lữ Bà la môn: Họ tự cho rằng họ được
sanh ra từ miệng của đấng Phạm thiên (Brahma) nên họ được quyền giữ địa vị tối
cao trong xã hội, độc quyền cúng tế Thượng-Đế và các thần linh.
b/ - Giai cấp thứ nhì là Sát-Đế-Lỵ: Họ được sanh ra từ vai của Đấng Phạm
Thiên. Giai cấp này gồm các bậc vua chúa, quí tộc, trưởng giả, công hầu, khanh
tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng phạt dân chúng.
c/ - Giai cấp thứ ba là Phệ-xá: họ được sanh ra từ hông của Đấng Phạm
thiên. Giai cấp này gồm các nhà thương mãi, các trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế,
chuyên môn mua bán làm ăn với từng lớp
dân chúng trong xã hội.
d/ - Giai cấp thứ tư là Thủ-đà-la: Họ được sanh ra từ chân của Đấng Phạm
Thiên. Giai cấp này gồm các nông dân và công nhân nghèo khổ
e/ - Giai cấp thứ năm là Chiên-đà-La: Đây là giai cấp thấp kém nhứt trong xã
hội Ấn độ, gồm các người làm nghề hèn hạ như: ở đợ, làm mướn, chèo ghe, giết
súc vật...
Giai cấp trên hết là cấp Tăng lữ Bà la môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng
cố địa vị và quyền lợi của họ. Họ tìm đủ phương pháp để bảo hộ và duy trì chế độ
giai cấp, nương theo thần thoại, chế ra luật pháp Manu, kỳ thị giai cấp, không
cho gả cưới giữa hai giai cấp khác nhau.
2 - Giáo luật: Giới Tăng lữ Bà la môn được chia làm ba bực: Sơ khởi, Trung và Thượng Sơ
khởi là những vị sư cúng lễ thường và những
vị phục sự nơi đền chùa. Họ tụng ba bộ Kinh Véda đầu, gồm:
Rig-Véda, Sama-Véda, Yayur-Véda. Họ hành lễ, chứng lễ các cuộc cúng tế nên
thường trực tiếp với dân chúng.
Bực Trung: là những vị sư bói toán, tiên tri, thỉnh quỉ thần, thỉnh thoảng
họ làm vài phép linh cho dân chúng phục. Hạng này đọc và giảng giải bộ kinh
Véda thứ tư và Atharva Véda. Bộ kinh thứ tư này có nội dung cao hơn ba bộ kinh
trước và có những câu thần chú.
Bực Thượng là những bực cao hơn hết,
gồm các vị sư không còn trực tiếp với dân chúng. Hạng này chuyên nghiên cứu các
lực vô hình trong vũ trụ.
Hạng Bà-La-Môn Sơ khởi phải tu học 20 năm mới lên hạng trung. Hạng trung tu
học 20 năm mới lên hạng thượng.
Trên hết là một vị sư chưởng quản Tôn giáo làm Giáo chủ. Vị giáo chủ này có
70 vị sư phụ tá. Các Tăng lữ Bà-La-Môn phải giữ 10 điều giới luật, là:
1 - Nhẫn nhục.
2 - Làm phải (lấy điều lành mà trả điều ác)
3 - Điều độ. 4-Ngay thật. 5-Giữ
mình trong sạch. 6-Làm chủ giác quan. 7-Biết ràng Kinh luật Véda. 8-Biết rõ Đấng
Phạm Thiên. 9-Nói lời chơn thật. 10-Giữ mình đừng giận.
3 - Thuyết Ashrama: Thuyết Ashrama về 4 giai đoạn mà con người phải trải qua để cho đời sống
trần thế nhập vào việc hành sự Tôn giáo, như sau:
a/ - Phạn hành kỳ: Theo Thầy học tập Kinh Véda, tiếp thu huấn luyện Tôn
giáo, thời gian là 12 năm.
b/ - Gia trú kỳ: Sống cuộc sống thế tục ở gia đình, lấy vợ sanh con, làm
các ngành nghề trong xã hội để mưu cầu cuộc sống, không vi phạm chống lại bổn
phận của một Tín đồ Bà-La-Môn, tiến hành việc thờ cúng ở gia đình và bố thí.
c/ - Lâm thế kỳ: Việc nhà đã xong, bản thân hoặc dắt theo vợ vào ẩn cư
trong rừng, sống đời khổ hạnh để bản thân chứng ngộ được Đấng Brahma.
d/ - Độn thế kỳ: bỏ nhà đi vân du bốn phương, sống bằng cách nhận bố thí của
dân chúng, mục đích để đạt được sự giải thoát của linh hồn.
4 - Brahman và Atman:
Brahman là nguồn gốc tối cao của vũ trụ, tức là Đại ngã, Đại vũ trụ, Đại hồn,
nay thường gọi là Thượng đế Atman là bản ngã của con người, là bản ngã, là Tiểu
hồn, Tiểu vũ trụ. Nó chỉ là một phần rất nhỏ của Đại ngã. Do đó Brahman và
Atman đồng bản chất, nên thông đồng được với nhau. Tu luyện là để đạt được sự
giải thoát của linh hồn khỏi các khổ não ràng buộc nơi cõi trần để đem Atman trở
về hiệp nhứt với Brahman.
Nhận thức được chân lý này, không phải do trí tuệ, mà do sự giác ngộ của
toàn bộ bản thể. Nếu không giải thoát được thì không dứt khỏi Nghiệp (Karma), tức
là không dứt khỏi Luân hồi, phải đầu thai trở lại cõi trần, hết kiếp nọ tới kiếp
kia.
5 - Nghiệp báo - Luân hồi:
Kinh Upanishad đã nêu ra vấn đề Nghiệp
báo và Luân hồi một cách có hệ thống.
Nghiệp (Karma) được tạo ra bởi những hành vi thiện ác của con người, sẽ quyết
định việc Luân hồi chuyển kiếp của Linh hồn người ấy sau khi chết. Nếu người
nào làm điều thiện, Linh hồn sẽ được chuyển kiếp thành người ở giai cấp cao hơn
và có thể thành một vị Thần, nhập vào Thiên Đạo. Nếu người ấy làm nhiều điều ác
thì Linh hồn sẽ chuyển kiếp đầu thai vào những giai cấp thấp kém khổ sở và có
thể bị trừng phạt đọa đày.
Con đường giải thoát là Thiền định, nhưng con đường tu này quá khổ hạnh, ít
người theo được, nên đa số Tín đồ theo việc thờ cúng thần linh, tự kềm chế dục
vọng của mình mà làm việc từ thiện.
III - Ấn-Độ-giáo:
Đạo Bà-La-Môn là một quốc giáo của nước Ấn Độ. Nhưng khi Phật giáo của Đức
Phật Thích-Ca truyền bá thì ảnh hưởng của Đạo Bà-La-Môn thu hẹp dần. Qua nhiều
lần cải cách để phù hợp phần nào trào lưu tiến hóa của dân chúng, đến thế kỷ thứ
nhứt sau Tây lịch, Đạo Bà-La-Môn biến
thành Ấn-Độ-giáo (nói tắt là Ấn-giáo)
Ấn-Độ-giáo vẫn giữ những nét chánh của Đạo Bà La-Môn, thờ đấng Brahma, về
sau thờ thêm hai Đấng nữa là Civa (Shiva) và Vishnu (hay Chrisna).
- Đấng Brahma là Thần Sáng tạo.
- Đấng Civa là Thấn tranh đấu.
- Đấng Vishnu là Thần Bảo tồn.
Ba Đấng ấy hợp lại gọi là Tam Vị nhất thể (Đạo Cao-Đài tôn các Đấng ấy là
Tam Thế Phật cai quản ba Nguơn:Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn, hiện tạc Tượng
đặt trên nóc Bát-Quái-Đài- Tòa Thánh Tây Ninh.
Ấn-Độ-giáo còn thờ các vị thần thuở xưa khác như:
Thần Sấm Indra, thần Mặt trời Surya, Thần lửa Agni, Thần gió Vayu, thần
không trung Varuna.
Ấn-Độ-giáo vẫn giữ sự phân chia giai cấp của xã hội giống như Đạo
Bà-La-môn.
Ấn-Độ-giáo phân thành nhiều Chi phái, chủ yếu có hai giáo phái lớn là Vihnu
và Civa (Siva) đồng thời nuôi dưỡng nhiều môn phái triết học mà nổi tiếng nhứt
là hai môn phái: Védanta và Yoga.
Để dễ dàng hòa nhập vào đông đảo dân chúng ở giai đoạn này, nhiều nghi thức
tế lễ được đơn giản hóa, những sự hiến tế súc vật tốn kém được bãi bỏ. Đến thế
kỷ thứ 19 và 20, một số nhà hoạt động nổi tiếng của Ấn Độ như: Ram Mohan Roy,
Rama Krishna, Viveka Nanda, đã làm cuộc canh tân lớn đối với Ấn Độ giáo, phục hồi
những giá trị cơ bản và loại trừ các yếu tố lạc hậu và thái quá ra khỏi tư tưởng
của Đạo này. Chính nhờ khả năng thay đổi thích ứng mà Ấn-độ-giáo vẫn luôn luôn
là Tôn giáo chính của người Ấn và có ảnh hưởng sâu xa đến mọi từng lớp dân
chúng từ xưa đến nay.
Theo thống kê sơ lược năm 1980, Ấn-độ-giáo
hiện nay có tới 554 triệu tín đồ, đa số là người Ấn-Độ.
Trong những năm gần đây, những hoạt động mang tính Quốc tế của Ấn-độ-giáo rất
phong phú:
Năm 1979 tại Allahabad (Ấn độ), năm 1980 tại Colombo (Tích lan), năm 1981 tại
Népal, đã lần lượt triệu tập Đại hội các
Tín đồ theo Ấn-độ-giáo trên toàn Thế giới, để thảo luận các vấn đề khó-khăn của
Ấn-độ-giáo, làm thế nào cho Ấn-độ-giáo thích ứng với đời sống văn minh của dân
chúng hiện đại và thiết lập những mối liên hệ quốc tế giữa Ấn độ giáo với các
Tôn giáo một cách hữu nghị tốt đẹp.
* Vệ-Đà giáo (Vedism)
* Bà-La-Môn giáo (Brahmanism)
* Ấn Độ giáo (Hinduism)
VII - SO SÁNH CÁC TRIẾT LÝ
TÔN GIÁO
VỚI CÁC TRIẾT LÝ CAO ĐÀI
GIÁO
ĐỂ PHÂN RÀNH CHỖ HƠN CHỖ
KÉM CỦA ĐÔI BÊN
A - TAM GIÁO THẤT KỲ TRUYỀN
Duyên khởi: Thầy đã dạy rõ ngay từ buổi đầu trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển còn
ghi lại những nguyên nhân chính về việc thất kỳ truyền của các Tôn giáo, nên mới
có xuất hiện Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ buổi nay:
1 - PHẬT GIÁO:
Từ việc Phật giáo bị bế đến
Kỳ truyền đã thất:
Ngày19 tháng 4 Bính Dần (dl: 30 Mai
1926):
Phật dạy: “Từ trước TA giáng sanh lập Phật Giáo gần sáu ngàn năm thì Phật Ðạo chánh
truyền gần thay đổi. TA hằng nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn! Nay nhứt định
lấy Huyền diệu mà giáo Ðạo, chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật Giáo lại
cho hoàn toàn.
Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu bị đọa A TỲ, thì hết lời nói rằng“Phật
tông vô giáo” mà chối tội nữa. TA nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp TAM KỲ PHỔ
ÐỘ nầy mà không tu, thì không còn trông mong siêu rỗi”.
Nhưng hại thay Phật Thích Ca đau đớn
bởi lý do:
(Ngày 5-4-Bính Dần (Samedi 5 Juin
1926).
“Vốn từ Lục Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho nên tu hữu công mà thành thì
bất thành; Chánh Pháp bị nơi THẦN TÚ làm cho ra mất Chánh Giáo, lập riêng pháp
luật buộc mối Ðạo Thiền.
TA vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để vậy, làm cho Phật Tông thất
chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì TAM KỲ PHỔ ÐỘ, Thiên Ðịa hoằng khai, nơi
"Tây Phương Cực Lạc” và "Ngọc Hư Cung” mật chiếu đã truyền siêu rỗi
chúng sanh. Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi; tại
Tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.
Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo. Ôi! Thương thay! Công có công, mà thưởng
chưa hề có thưởng; vì vậy mà TA rất đau lòng.
TA đến chẳng phải cứu một mình chư Tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc Thần,
Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, TA đương lo cứu vớt.
Chư Tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp KỲ PHỔ Ðộ nầy là lần
chót; phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả luật. Chư Sơn đắc đạo
cùng chăng là do nơi mình hành đạo. Phép hành đạo Phật Giáo dường như ra sái hết,
tương tợ như gần biến “Tả Ðạo Bàng Môn”. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết
cái sai ấy do tại nơi nào; cứ ôm theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây
Phương mà cửa Tây Phương vẫn cứ bị đóng, thì cơ thành chánh quả do nơi nào mà
biết chắc vậy. Ta đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây TA cũng cho chư Tăng
dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất học mà chịu
thất kỳ truyền. Chư Tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn nữa.”
1/ - Tại sao Thầy nói:
Phép hành-đạo Phật Giáo dường như ra sái hết,
tương tợ như gần biến
“Tả Ðạo Bàng Môn”?
1 - Phải thấy rằng phép tu hành của Phật giáo quá cao siêu và khó khăn vô cùng:
Thứ nhứt là Kinh của Phật gốc từ tiếng Phạn, là một điều khó; lại nữa Đức
Tam Tạng khi thỉnh Kinh về rồi Ngài dịch ra tiếng Trung hoa là một điều khó thứ
hai, vì với chính Ngài mà còn sợ không dịch hết ý, huống chi đối với người nước
ngoài muốn học Phật thật khó quá, vì ngôn ngữ bất đồng. Vả lại tiếng Trung hoa
lại khó học mà khó viết nữa, trong khi tiếng Trung hoa có đến 214 bộ gốc, so với
tiếng Việt chỉ có 24 chữ cái mà thôi, dù là tiếng đơn âm, nhưng một chữ rất nhiều
nghĩa “Nhất tự lục nghì”mà !
Thử đơn cử một bài kinh “Vãng sanh Thần Chú” gốc tiếng Phạn là một bài duy nhất trong Kinh
Cao-Đài, mà có bao nhiêu người hiểu được nghĩa của Kinh, đừng nói chi đến sự
quán triệt. Đây là bài chú đọc lên để cầu nguyện cho hồn người quá vãng sớm được
siêu thoát:
“Nam-Mô A-Di-Đa Bà Dạ, Đa Tha Dà Đa
Dạ, Đa Điệt Dạ Tha, A-Di Rị-Đô Bà-Tì, A-Di Rị-Đa Tất Đam Bà Tì, A-Di Rị-Đa,
Tì-Ca Lan-Đế, A-Di Rị-Đa Tì-Ca-Lan Đa, Dà Di-Nị-Dà Dà-Na Chỉ-Đa Ca-Lệ
Ta-Bà-Ha”.
Thiết nghĩ rằng những người theo Phật trừ ra những bậc đại đức, Hòa Thượng
ngày xưa thì không dám bàn chứ còn hơn 99% dù có đọc râm ran Kinh Phật nhưng chắc
chắn rằng không ai hiểu được gì hết. Chỉ có điều là mặc áo có màu sắc và kiểu vở
giống như của Phật mà thôi. Hỏi vậy đọc Kinh mà không thấu đáo nghĩa lý của
Kinh thì làm sao có cảm, không cảm làm sao có ứng. Thế nên việc “thất Kỳ truyền”
là một việc đương nhiên. Vì vậy Phật giáo qua hai kỳ Phổ Độ chỉ độ có 6 ức
nguyên nhân thôi.
Từ sự sai lệch nhỏ biến sanh nhiều sai biệt lớn mới nảy ra việc “Thầy Tụng”
nhận tiền tụng kinh mướn làm nghề sống. Từ đó để lại nhiều sự mai mỉa cho đời.
Nếu so ra Đạo Cao Đài chỉ lo việc Phổ độ, không nhận tiền của bất cứ ai,
trên tinh thần Nghĩa Nhân đạo đức thật sự; còn Kinh Cao-Đài nhất định khi đọc
lên là hiểu ngay, cảm động ngay. Hơn nữa cái lối văn vần như lối văn Lục bát,
hoặc Song thất lục bát hay là Tứ tuyệt cũng tạo nên những âm thanh trầm bổng, rất
dễ hiểu, dễ nhớ, dễ học và tạo một âm hưởng thâm cảm vô cùng. Nhất là những buổi
chiều hay giờ khuya, giờ sáng mà nghe Kinh Phật Mẫu vang vang lên nó mới thấm
thía làm sao:
Ngồi trông con đặng phi
thường,
Mẹ đem con đến tận đường Hằng
Sanh.
Xưa con không thấu cội
nhành,
Vì đường Đạo bế biệt cành
hoa rơi…
Nhưng có một điều dễ nhận ra nhứt là dầu Phật đã trên 2.500 năm, Chúa đã hơn
hai ngàn năm mà các vị theo Phật, theo Chúa mỗi lần đọc Kinh đều phải “cầm bổn”
tức là phải có quyển Kinh trước mặt. Tất nhiên là câu Kinh khó thuộc, khó nhớ.
Khi đã không thuộc, không nhớ mà đọc thì cũng giống như đọc sách mà chưa hiểu
nghĩa cho chính mình thì người khác làm sao hiểu?
Khác với người Đạo Cao Đài ở điểm đó, khi đã bước chân vào cửa Đạo, luật buộc
sáu tháng phải thuộc Kinh, dẫu chưa thuộc thì trong cộng đồng, trong tập thể tụng
đọc rồi nghe theo cũng nhớ, cũng thuộc luôn. Người ngoại quốc có sự nễ phục Đạo
Cao-Đài ở chỗ đó: khi thấy trong thời Cúng dù mấy tiếng đồng hồ mà kinh vẫn thuộc
một cách thuần thục, giọng trầm bổng theo tiếng đờn du dương, nhịp nhàng; người
người trật tự, im lặng. Không ai làm một điều gì ngoài những nghi thức của thời
cúng.
Trong khi đó các Tôn giáo khác chưa được sự trật tự, nề nếp như vậy. Họ vô
nhà Thờ, đến chùa, mạnh ai nấy đứng ngồi chỗ nào tùy ý, muốn đọc Kinh gì thì đọc,
muốn ra về lúc nào không ai bắt buộc. Muốn thắp nhang tùy ý, họ đốt nguyên một
bó nhang bất cứ lớn nhỏ, vừa cắm vào thì
có người đem quăng vào lò lửa cho cháy tiêu để khỏi phải ngột ngạt, hoặc gây nạn
cháy rừng (như ở núi Bà). Xem ra như vậy thì họ đốt tiền, chứ không có sự kỉnh
thành gì hết. Nhiều người phản đối việc nghi thức khắc khe của Đạo Cao Đài
không cho họ tự ý đốt nhang. Với Đạo Cao Đài là phải thắp nhang cho trúng kiểu
cách, đúng nghi thức: Chỉ dành riêng cho người có bổn phận trực nơi đó mà thôi,
chứ không một ai được quyền làm theo ý riêng
2/ - Đạo Cao Đài có Thể
pháp và Bí pháp
Người tu theo Đạo Cao-Đài là hành Thể pháp để đạt được Bí pháp, từng bước,
từng bước đi trên con đường Thể pháp là Phụng sự nhân sanh, phụng sự vạn linh tức
là phụng sự Chí linh, mà Phụng sự Chí linh tức là Phụng sự cho Trời. Mà ông trời
thì không bao giờ thiếu nợ một ai tất cả “Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần”
ông sẽ trả đủ hay là hơn nữa, tức nhiên trả lại cho ngôi vị Thần, Thánh, Tiên,
Phật. Nơi cõi thiêng liêng tất nhiên phải được công nhận khi công đầy quả đủ.
3/ - Giáo chủ các Tôn giáo
không còn
là huyền thoại
Đức Hộ-pháp nói: “Đức Phật Tổ, tức nhiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cả thảy
con cái Đức Chí Tôn đã nghe Đức Narada Thera thuyết Đạo rồi. Ngài nói Đức Phật
Thích Ca là người cũng như chúng ta, có xác thân như ta, sống chết như ta, chớ
không phải là người ở trong Thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài,
về tiền căn Thiêng liêng của Ngài lên tới Phật vị. Ngài tái kiếp làm người với
mảnh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy”
2 - LÃO GIÁO: Với Đức Thái
Thượng Đạo Quân
Đến đời vua Võ Đinh nhà Thương bên Tàu (1324 trước Tây lịch), Đức Ngài mới
giáng sanh xuống trần danh là Lão-Tử. Việc giáng sanh của Ngài rất huyền diệu
phi thường. Theo truyền thuyết: vào đời vua Bàn Canh nhà Thương (1461 trước Tây
lịch), có một nàng con gái gọi là Ngọc-Nữ 玊女 vừa được 8 tuổi, con của một gia đình đạo đức, ra chơi sau vườn, thấy trên
cây Lý có một trái chín thật ngon, cô liền hái ăn. Ăn xong, cô cảm thấy mỏi mệt
và có thai. Cha của Ngọc-Nữ thấy sự lạ kỳ, liền toán quẻ Âm Dương, đoán biết có
một vị Đại Tiên giáng trần trong bụng con gái của mình, nên mừng rỡ và nuôi con
gái rất kỹ. Nàng Ngọc-Nữ chịu mang thai như vậy mãi cho đến già mà không sanh.
Đến năm Ngọc-Nữ 80 tuổi, tức là đã mang thai ngót 72 năm. Trong Kinh Tiên giáo
có câu: “Nhị ngoạt thập ngũ, Phân tánh giáng sanh”.
Nghĩa là chơn linh Ngài giáng sanh xuống cõi trần vào ngày 15 tháng 2 âm-lịch.
Đức Lão Tử có giáng cơ cho biết năm giáng sanh của Ngài trong 4 câu thơ sau
đây:
LÝ đào mầm tược tượng long lân,
LÃO luyện đơn thành nhị xác thân.
TỬ phủ ngồi tu lo nấu thuốc,
GIÁNG sanh Thương đợi Võ Đinh quân.
Bài thơ khoán thủ 4 chữ: “Lý Lão Tử giáng”. Câu thơ cuối có nghĩa là Giáng
sanh vào thời nhà Thương, đợi đến vua Võ Đinh mới chào đời.
Thật là huyền thoại. Đã biết huyền thoại tại sao không bỏ qua mà vẫn duy
trì đến ngày nay và mãi mãi? Ấy là một triết thuyết cao siêu, cho đến ngày nay
là thời kỳ mà văn minh khoa học xem như cân bằng với đạo học mới có thể giải được
bằng thuyết khoa học, nguyên tử.
Bấy nhiêu bằng chứng cho thấy rằng: Đức Lão Tử là một Đại Tiên nên cái lý Thiên biến vạn hóa ấy bàng bạc có
thể tóm tắt mấy câu:
Trước nhứt là Ngọc-Nữ 玊女vừa được 8 tuổi, thì chữ
Ngọc 玊 (5 nét) nữ 女 (3 nét) Cộng chung là số 8, phù hợp với 8 tuổi, đây là đủ Âm Dương Bát
Quái: tức là Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái thành hình. Số 3 là chỉ Người đứng
vào hàng tam tài đó. Tam tài hiệp với Âm Dương thành Ngũ hành (số 5) Mà chính
hai khí này tạo thành một mẫu người LÃO TỬ thông Dịch; Ngài cũng muốn dạy người
đời phải hiểu Dịch đến mức cao siêu mới thấu được lý biến hóa của vũ trụ. Khi
người Cha nàng đoán quẻ Âm Dương biết có thiên Thần giáng. Thế mà đến năm 80
(ba lần con số 8 là 24, tức là 24 chuyến thuyền Bát Nhã mà Đức Chí-Tôn dùng chở
nguyên nhân đến trần. Bát nhã tức là Trí huệ của người tu. Buổi Ngài mới chào đời
bên cội LÝ 李 (7 nét) Số 7 là nguyên nhân của thất tình tạo ra
con người; mà khởi nguyên để có Ngài cũng do cây LÝ, mà người muốn hiểu được
Ngài, muốn đến với ĐẠO phải hiểu LÝ 理 (12 nét) của trời đất. Vậy Đạo là Lý, thế nên từ xưa đến giờ qua các thời
kỳ mở đạo đều có “Thái Thượng Đạo Tổ” là tiền thân, sau là “Lý Lão Quân”. Nay
qua Tam kỳ thì có “Lý Thái Bạch”, có nghĩa là muốn tìm đến Tiên đạo phải hiểu
sâu về “LÝ” “Làm người rõ thấu lý sâu”. Nếu cứ hiểu nguyên nghĩa thì thấy ra toàn
là những điều hoang tưởng, tức là tưởng tượng ra những chuyện hoang đường. Vì lẽ
đó mà những người có chút ít khoa học thì cho rằng Tôn giáo xa rời khoa học, rồi
tự họ tìm đến khoa học thực nghiệm hầu để đánh đổ Tôn giáo một phần; phần khác
họ đưa khoa học đến đỉnh cao mong thỏa mãn cuộc đời vật chất này. Nhưng rốt lại
rồi thiên tai phút chốc phá tiêu công trình ngàn năm, ngàn năm của họ, một phần
chìm đắm vào con đường vật chất đến sa đọa. Đây là một cái bịnh trầm trọng của
nhân loại nữa kìa.
Vì sao ? -Vì cái lý đạo bị tắt nghẽn không ai giải thích giùm. Mà thực sự
thời ấy có giải thích cũng không hiểu. Bởi vì khoa học thực nghiệm đi sau khoa
học siêu hình nhiều quá. Bằng chứng trước mắt là dân Việt Nam hãnh diện mình là
“Con Rồng cháu Tiên” “giòng Hồng giống Lạc” thế mà ta có bao giờ thấy Rồng, thấy
Tiên chưa? – Chưa ! chưa bao giờ thấy! chưa thấy thì lấy gì làm tự hào ? Tổ
tiên ta ngày trước sanh trứng (một bọc trăm trứng) mà sao giờ này chúng ta sanh
con ? Nếu đứng về nhân văn thì chúng ta bị mất gốc, bị lai giống chăng?
Nếu đứng về khoa học thì vô lý, Rồng Tiên không thấy bao giờ thì ai là vật
tổ ? Nếu là hoang đường, là huyễn hoặc, là phi lý sao không bỏ đi ?
Cũng như Thiên Chúa giáo nói là Tổ tông là hai Đấng đầu tiên là Ông Adam và
Bà Eva kết hợp. Ban đầu ông Adam một mình buồn mới móc xương sườn trái nắn nên
Bà Eva, nhưng Đức Chúa Trời cho họ sống trong vườn Địa đàng yên ấm quá mà lại
nghe lời dụ dỗ của loài rắn, ăn phải trái cấm nên bị đuổi ra khỏi Địa đàng.
Nhìn kỹ thì cũng toàn là điều huyễn hoặc nhưng sao vẫn tin ? Người lãnh đạo
hẳn biết rõ nhưng không thể giải bằng lý ra được, vì trình độ tiến hóa của nhân
loại ở 2000 năm trước đây thì không giải bằng khoa học cho tường tận được. Cũng
không thể dẫn chứng bằng Lý Âm Dương như ngày nay. Nghe ra nào có khác với thỉ
Tổ Việt Nam là Rồng Tiên đâu ! Tất cả không ngoài lý Càn Khôn biến hóa. Từ Thái
cực sanh Lưỡng Nghi mà ra. Thế rồi người có lòng tín ngưỡng cứ nhắm mắt nghe
theo, người không tín ngưỡng thì bài bác, người có quyền thế thì bắt bớ, giam cầm
tù đày người theo Đạo cho là “mê tín dị đoan”. Than ôi, bao ngàn năm nay rồi, nếu
không có những bậc nguyên căn đến “Tạo Đạo cứu đời”, không có những cái tâm
“chí Thánh” thì Tôn giáo ở toàn cầu bị diệt hết rồi. May thay Đức Chí-Tôn đã đến để cứu nhân loại!
Tuy hai phương trời Đông- Tây xem như chẳng bao giờ hòa hợp nhưng mà có
chung một Triết thuyết cao siêu tuyệt vời. Dù họ có chối Chúa, phản Thầy, giết
đạo họ cũng vẫn nằm trong vòng định mệnh của Hóa công. Sau khi bị phá sản hoàn
toàn rồi họ cũng cất tiếng than dài: “TRỜI ƠI ! THIÊN TAI !”.
3 - Thiên Chúa Giáo:
Với Chúa Cứu Thế từ xưa đến giờ cũng vì muốn Ngài là một thần thoại đầy sự
kỳ bí nên truyền rằng Chúa là do Thiên Thần giáng điển linh. Nhưng vì thuyết
này mà Đạo Chúa phân làm hai:
- Một bên tuyệt đối tin rằng Đức Mẹ đồng trinh Maria, thế nên phân ra Công
Giáo
- Một bên không tin như thế, mà là tất cả đều phải thọ đủ Âm Dương phụ mẫu
mới sanh hóa ra con người. Chính cái linh diệu là do Chơn linh cao trọng. Từ đấy
phân ra Đạo Tin lành.
Nhưng hãy nghe Đức Hộ-Pháp nói để xác định:
…“Từ khi Chúa về nhà thì cũng như mọi đứa trẻ khác, cũng đi đội nước, cũng
đục đẽo làm thợ mộc phục tùng cha mẹ hiếu hạnh đủ điều. Trong nhà em út bất hòa,
còn ông Jésus hiền lắm, tánh hay nhịn nhục nên mấy người em thường hay ăn hiếp.
Ở nhà không yên, ông đi làm thợ lấy tiền về nuôi cha mẹ lây lất qua ngày”.
Vậy là thuyết về Mẹ đồng trinh không đứng vững. Và Chúa có nhiều em út nữa.
Nhưng dù thế nào chăng nữa toàn cầu vẫn tôn thờ Chúa Cứu thế trên hai ngàn năm
nay rồi và chắc chắn sẽ mãi mãi được tôn vinh.
Ngoài ra còn những việc
khác:
NHẬN ĐỊNH VỀ VIỆC
VATICAN XIN THA TỘI
(Bùi kha)
(Trích VATICAN thú tội và xin lỗi-
Giao điểm 2001)
Ngày Chủ nhựt, 12 tháng 3 năm 2000, Giáo Hội Ca Tô (1)
Vatican lại một lần nữa công khai xin tha thứ lỗi lầm mà Giáo
hội đã tác hại cho nhân loại suốt hai ngàn năm qua. Việc làm này được thế giới
và các cơ quan truyền thống quốc tế quan tâm đón nhận và loan báo.
Có thể nói đây là một việc làm đáng ca ngợi vì ít ra Giáo hội Ca-Tô, nhất
là giáo Hoàng John Paul II, đã đến lúc không thể dấu diếm tội lỗi nên phải đành
công khai. Xem thế còn hay hơn, còn quân tử hơn so với một số lãnh đạo các Tôn
giáo khác như giáo hội Ca-Tô Việt Nam tìm cách bào chữa để ém nhẹm những tội lỗi
của mình.
Tuy vậy điều đáng phàn nàn là Giáo hội Ca-Tô La Mã và Giáo Hoàng Phao-lô II
(John Paul II) thiếu thành thực và thiếu sót trong việc nhân loại tha thứ các
núi tội mà Giáo hội đã phạm. Để đọc giả thấy rõ thế nào là thiếu thành thật và
thiếu sót, tôi xin tóm lược nội dung những tội ác mà Giáo hội đã đọc trong buổi
Lễ mà xin tha thứ.
BẢY NÚI TỘI
1/ - Xưng thú tội lỗi
chung: đó là các tội đi ngược lại với Thánh Kinh và từ
chối vâng phục Chúa: “Chúng ta khiêm nhường nhìn lại tội lỗi”.
2/ - Xưng thú lỗi lầm đã
phạm lúc phục vụ chân lý: những người con của Giáo
hội đôi lúc vì hăng say bảo vệ chân lý nên đã sống bất khoan hoà và không chân
thành với giới luật yêu thương.
3/ - Xưng thú tội lỗi đã lắm
lúc tổn thương đến sự hiệp nhất: làm tổn thương tinh thần
bác ái huynh đệ giữa tất cả các Ki-Tô hữu, đôi lúc chống đối và gây chiến với
nhau
4/ - Xưng thú các tội chống
lại dân Do Thái (Israel) xin tha thứ tội lỗi chống lại dân của giao ước
và các lời chúc lành.
5/ - Xưng thú các tội đã
phạm khi hành động ngược lại đức yêu thương, hoà bình,
những quyền của các dân tộc. Kính trọng các nền văn hoá và Tôn giáo: các Ki-Tô
hữu có thể sám hối về những lời nói và thái độ gây ra bởi sự kiêu ngạo, hận
thù, muốn thống trị kẻ khác, thù nghịch bởi những người theo các Tôn giáo khác
và các nhóm người yếu kém lang thang trong xã hội.
6/ - Xưng thú các tội chống
lại phẩm giá phụ nữ và sự hiệp nhất của nhân loại: các Ki-Tô-hữu đã phạm tội khi có những thái độ hất hủi và loại trừ phụ nữ
và kỳ thị chủng tộc cùng sắc tộc.
7/ - Xưng thú các tội liên
quan đến các quyền căn bản của con người.
Trên đây là bảy tội mà Giáo hội Ca-Tô Vatican đọc trong buỗi Lễ xưng tội và
xin tha thứ. Mỗi tội do một đại diện của giáo triều Vatican đọc trong buổi cầu
nguyện có tên là “Universal Prayer Confession of Sins and Asking for
Forgiveness” (Cầu nguyện phổ quát Sám hối tội lỗi và xin tha thứ).
Bảy tội tóm lược ở trên là căn cứ theo bản tiếng Anh do báo Hiệp nhứt của
Giáo phận Orange California, Hoa kỳ, dịch ra tiếng Việt được tuần báo Sài-gòn
Post đăng lại với phụ bản tiếng Anh.
THIẾU SÓT VÀ THIẾU THÀNH
THẬT
LÚC XƯNG TỘI.
Để bắt đầu nhận định việc Giáo hội Vatican xin tha tội, tôi trích một số ý
kiến của “Học Hội Đức Giê-su KiTô phục sinh (HHĐGSKTPS). Cần nói thêm rằng Học
Hội này là một ban nghiên cứu gồm nhiều trí thức Ca-Tô, Bang Texas, Hoa Kỳ. Dưới
đây là đoạn tóm lược:
(1) Ca Tô: phiên âm từ chữ Catholic, tức là Đạo chúa hay Đạo Công
giáo
“Giáo Hội dạy giáo lý nhồi sọ giáo
dân rằng TỘI là Quỉ SATAN và Quỉ SATAN là TỘI, người phạm tội là người của Quỉ
SATAN, người có tội bị SATAN bắt linh hồn, nắm đầu nắm cổ và chịu sai khiến như
tù nhân khổ sai…Giáo hội công Giáo Roma La-tinh ôm ấp 7 mối tội to như 7 trái
núi hàng ngàn năm và 7 chương tội là 7 đàn Quỉ có sừng có đuôi hàng triệu đứa.
Giáo hội nắm gọn trong tay 7 đàn quỉ này thống tri, Giáo hội công Giáo Roma La
tinh còn thiếu một chương thứ tám “về tội trong hoàng cung và triều đình Giáo
Hoàng”.
Ví dụ Giáo Hoàng Tây Ban Nha dòng Borgia là Alexander VI (1492-1503) hiện
nguyên hình là một “ con quỉ râu xanh loạn luân ba đời trực hệ đàn bà”, con
trai là C ésare và con gái là Lucrezia lộng hành đến nỗi thay cha cai trị Giáo
hội, có lần Lucrezia ngồi trên toà Phêrô và các triều thần, các thầy dòng xúm
vào hôn chân nàng…đây là chuyện “thất tình lục dục” của ngàn năm thứ hai. Nếu
ngược lên ngàn năm thứ nhất, có chuyện cổ kim đông Tây độc nhất vô nhị là
“Phiên toà Đại hình Khai quật xác Giáo
Hoàng Formosus (891-896) chết đã mục xương ngồi vào ghế bị cáo”, sử gọi là
“CADAVER SYNOD” một phiên Toà Giáo hoàng xử tội GiÁO Hoàng mà người đời mường
tượng ra cảnh dưới Âm-Ty cắt lưỡi, móc mắt, chặt từ ngón tay, phân thây ra trăm
mảnh ném xuống sông Tiber. Năm sau Giáo Hoàng Stephen VI và người bố trí phiên
Toà xử xác chết này bị lật đổ, bị tù và
bị thắt cổ cho chết. Hàng trăm cuộc phế lập, tranh quyền, thanh trừng, cướp
ngôi Giáo Hoàng cực kỳ hung bạo, tàn nhẫn, vô luân, y hệt thời Xuân Thu chiến
quốc”.
Hàng ngàn năm, để che dấu và bưng bít 7 chương tội đối ngoại và 1 chương đối
nội là tám- Nghệ thuật tuyên truyền của giáo hội Roma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo
diệu, thiên biến vạn hoá, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật
tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo hội là Thánh, Giáo hội là mầu nhiệm, Giáo
hội là bí tích, Giáo hội là hiền thê Đức Giê-su, Giáo hội là duy nhất, thánh
Thiện, Công giáo và Tông truyền, Giáo hội là vương quốc của Thiên Chúa …Giáo hội
tự nhận cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng
siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngoài nghệ thuật
tuyên truyền, Giáo hội vẫn phải xây “Vạn lý trường thành đức tin” và buông “bức
màn sắt thần học” lên đầu đoàn chiên. Một toà giảng là một cái loa tuyên truyền,
dựa vào khoa thần học phù phép ảo thuật biến núi tội thành con chuột” “cho kẻ
cướp mặc áo thầy tu” và “Quỉ SATAN có diện mạo ông thánh”.
Trong 7 chương tội mà Giáo hội công giáo Roma La tinh cáo thú, có nhiều tội
danh phải kể là “ vượt tội” mang cấp số cộng hay cấp số nhân.
Ví dụ: Giáo hội phạm tội A, muốn giấu kín
và bưng bít tội A, Giáo hội nhắm mắt phạm thêm tội B để bảo vệ tính bí mật,
mầu nhiệm của tội A. Giáo hội bị cuốn hút vào qui luật dây chuyền của những con
bài Dominos. Giáo hội phạm tội C để bảo vệ A+B.. Thử tưởng tượng từ ngày Giám mục
Pierre Cochon (đồng nghĩa với con heo) thiêu sống Bà THÁNH JEANNE D’ARC (1),
cho đến ngày Bà được phong Thánh là 400 năm, các toà giảng của Giáo hội trên khắp
cõi Âu châu phải ăn gian nói dối và vu oan giá hoạ cho bà bao nhiêu lần ? Giết
Bà cũng một tay Giáo hội, phong Thánh cũng một tay Giáo hội, nhưng có mấy ai được
may mắn như Bà. Hầu hết các trọng tội Giáo hội phạm tại các “Toà điều tra dị
giáo” là tội đẻ ra tội theo cấp số cộng và cấp số nhân”.
Buổi lễ xưng tội và xin tha thứ trông có vẻ rình rang nhưng thực sự quá đơn
giản, kiểu đại khái để lấy lòng người, nhưng không có một hình ảnh tương đối khả
dĩ cho thấy Vatican thành thật trong vấn đề. Đã thế, Giáo hội Ca Tô Vatican còn
dùng những danh từ trịch thượng như. “khiêm nhường nhìn lại tội lỗi”, Giáo Hoàng tha thứ và xin được tha thứ (May we forgive and
request forgiveness). Nhất là phát ngôn viên của Vatican , Joaquin Navarro-Valls còn xác định rõ-ràng rằng:
Giáo Hội xin Thiên chúa tha thứ chứ không phải xin các nạn nhân của Giáo hội
tha thứ.
Theo sử liệu thì Giáo hội đã tạo ra vô số rừng tội, sa
mạc tội, chứ không nằm gọn trong 7 loại tội như buổi lễ đề cập. Các tội ác dã man tàn bạo và khủng khiếp nhất trong
lịch sử loài người. Theo đó hơn cả trăm triệu người đã bị Giáo hội giết bằng bom đạn, thiêu sống, trấn
nước và chết vì những hệ quả do chính sách bất lương của Giáo hội. Chỉ riêng
các toà án xử các người khác tín ngưỡng hoặc khác ý kiến với Giáo hội cũng đã
lên đến con số trên 11 triệu người (more than eleven million people had
been killed by the Inquisition of the
Church).
Nói như đại tư tưởng gia Voltaire là “Giáo hội Gia tô La Mã không làm gì
ích lợi mà chỉ làm hại cho nhân loại mà thôi” (donc nothing but harm).
Những rừng tội không thể kể hết. Dưới đây chỉ đơn cử vài tội ác tiêu biểu:
hơn tám cuộc Thập Ác chiến, các toà án dị giáo xử tử người khác Tôn giáo kéo
dài trên 500 năm. Toa rập và dẫn đầu trong các phong trào đánh chiếm thuộc địa.
đốt phá đình, chùa, tượng, tháp của các quốc gia bị
xâm chiếm; đốt phá tiêu huỷ các Thánh tích cơ sở văn
Chú thích: (1) Bà THÁNH JEANNE D’ARC là Lục Nương Diêu Trì
Cung trong cửa Đạo Cao Đài ngày nay, gốc người Pháp hoá và thư viện của nhiều
quốc gia. Đe doạ, cản trở các công trình phát minh khoa học. Đào tạo các đạo
quân xung kích để lật đổ các chính quyền hợp pháp. Trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia các cuộc chiến tranh diệt chủng. Đầu tư mua bán cổ phần trong các công
ty sản xuất khí giới và dụng cụ chiến tranh. Mở công ty ma, chuyển ngân bất hợp
pháp, giết các người giàu để cướp tài sản. Đầu tư vào công ty thuốc ngừa thai,
nhưng bên ngoài Giáo hội luôn luôn phản đối các phương tiện và thuốc ngừa thai,
liên hệ và cấu kết với các chính quyền quân Phiệt và Phát xít trong hai cuộc
chiến tranh thế giới. Âm mưu tận diệt Do-Thái.
Riêng vào cuối Thế chiến thứ II, 1945, sáu triệu dân Do-thái bị giết (By the
end of was, some six million Jews had been perished). Đã thế, Giáo hội Vatican còn ăn cắp vàng của các nạn nhân (…for dealing in
gold plundered by Nazis during World War II, a US.government document came to
light… containing evidence that links the Vatican with such dealings. L.A Times July 23, 1997 ). Giết dân mọi da đỏ ở Bắc Mỹ. Buôn bán nô lệ dân Phi
châu. Mua linh hồn qua các chương trình từ thiện. Cổ võ và thực hiện các chương trình giáo dục ngu dân và cuồng
tín để dễ dàng bóc lột tín đồ. Giáo hội đã không từ bỏ một chương trình, một hành động đẫm máu và phi nhân nào trên thế
gian.
Gần đây, từ tháng 4 cho đến tháng 7, 1994 có đến 800
(tám trăm ngàn) dân tộc thiểu số Tutsis, nước Rwanda (Phi châu) bị giết, lại có sự liên hệ của Giáo hội Vatican La-Mã trong tội ác tắm máu dã man này. Hơn 20 Linh mục và Bà Sơ đã bị Toà xét xử, trong
đó có hai Linh mục đã bị án tử hình (The highly publicized trial strained
Rwand’s relations with the Vatican . Misago is the highest ranking Roma Catholic cleric
among morc than 20 nuns and priets accused of participating in the genocide; two priests have already been convicted and sentenced to death [ (L.A.
Times 16-6-2000 ]
(trích Vatican Thú tội và xin lỗi- trang 1-8)
NHỮNG TỘI ÁC CỦA GIÁO HỘI
CA-TÔ VIỆT NAM
ĐỐI VỚI TỔ QUỐC
Ôn lại một số tội mà Giáo hội Ca-tô Việt Nam đối với dân tộc, không nhằm mục đích khơi lại đống
tro tàn của những năm xưa. Nhưng không thể có sự hoà đồng Tôn giáo hay đoàn kết
Tôn giáo, để xây dựng xứ sở sau bao năm tang tóc vì chiến tranh, mà không phân
biệt rõ chánh tà phải trái để cái đúng thì theo, điều sai thì bỏ và nên bỏ hẳn
thề không bao giờ tái phạm ! Hoặc cứ vì rụt rè, sợ mất lòng, sợ đụng chạm, hoặc
sợ tánh mạng thiếu an toàn, không dám nói ra, thì lịch sử luôn luôn sẽ bị xuyên
tạc, bị bóp méo, bị tráo trở. Mà hậu quả của vấn đề ngại ngùng sợ sệt này làm
cho trắng đen lẫn lộn, chân giả giống nhau, những bước đi sai lầm của quá khứ vẫn
còn duy trì và tiếp tục thì làm thế nào
để có thể đoàn kết và phát triển quốc gia cho kịp đà văn minh của nhân loại.?
Do đó, những ai cảm thấy sự vinh nhục của Tổ quốc cũng
là sự vinh nhục của chính mình, sự phồn thịnh của dòng giống Việt cũng là điều
hãnh diện của những ai đã từng sinh ra lớn lên trên mảnh đất hình cong chữ S,
đã từng ăn mắm ăn cà để nhớ quê hương bốn ngàn năm văn hiến.
Hơn bốn ngàn năm lấy xương máu đắp giang san. Giặc ngoại xâm nào cuối cùng cũng
phải cuốn gói, sức mạnh của bất cứ cường quốc nào sớm muộn cũng phải dẹp tan, để
giang san gấm vóc Việt Nam vẫn là của người Việt oai hùng lẫm liệt trên quả địa
cầu này.
Trong tâm tình và suy nghĩ ấy, tôi muốn nêu ra một vài lỗi lầm nghiêm trọng
mà các nhà truyền giáo Tây phương và Giáo hội Ca-Tô Việt Nam đã gieo rắc đau
thương cho dân tộc Việt. Để từ đó chúng ta sẽ rút tỉa được một bài học thích đáng
ngõ hầu tránh sự tái phạm trong tương lai:
1 - Chỉ thị từ La-Mã:
Sắc lệnh của
Giáo-Hoàng Borgia Alexandre VI, 1493 là một tai hoạ lớn cho các nước Á-Châu trong đó có Việt Nam. Theo đó, Alexandre VI chia thế giới làm
hai, chỉ dành riêng cho Bồ đào Nha và Tây ban Nha mà thôi và buộc họ đi chiếm
thuộc địa để cưỡng bách dân bản xứ cải Đạo. Nhưng sắc lệnh này là một cản trở lớn
cho việc bành trướng của Giáo Hội Ca-Tô Pháp vào Á-châu, nhất là Việt Nam. Vì
thế ngày 11-9-1652 Linh mục dòng Tên Alexandre de Rhodes (Rốt) được sự đồng ý của
Giáo hoàng Innocent X để đi Pháp vận động chánh phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam.
Cuộc vận động này được chính Rốt chứ không phải ai khác, đã nói rõ trong cuốn “Du hành và Truyền giáo” (Divers Voyages
Et Missions) in tại Pháp năm 1653 trang 73-74, mà chúng tôi đã trình bày tường
tận trong các cuốn “Alexandre de Rhodes người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt
Nam và chữ Quốc ngữ” và Linh Mục Trần Lục: “thực chất con người và Sự nghiệp”
(Giao điểm xb 1999, các trang 193-194)
Để có một cái nhìn tương đối tổng quát về thảm hoạ mà các nước Á-châu bao gồm
cả Việt Nam, phải gánh chịu do Ki-Tô giáo (cả Công giáo lẫn Tin lành) mang đến,
chúng ta nên đọc một đoạn trong cuốn “Catholic Imperialism and World Freedom”
Chủ nghĩa đế quốc Ca Tô và Tự do Thế giới) của Sử gia Avro Manhattan (tr.341)
“Những công vụ truyền giáo của Ki-Tô không bao giờ chỉ là thuần tuý truyền
giáo. Những công vụ truyền giáo này luôn luôn hoặc theo sau, hoặc đồng hành, hoặc
làm đạo quân tiên phong cho những kho hàng Tây phương ngoại giao, Tây phương và
những binh đội Tây phương. Bất kể sự diễn tiến như thế nào, kết quả đều giống
nhau, những dân tộc Á-châu mất đi hoặc một phần, hoặc toàn phần sự tự do của họ,
bất cứ khi nào và ở nơi nào mà cái Thánh giá cùng cái mũ Tây phương xuất hiện.
Sự chấp nhận, tự nguyện hay cưỡng bức, hai thứ trên được tuyên dương là chiến
thắng của nền văn minh Ki-Tô và văn minh Ki-Tô có nghĩa là bất cứ cái gì có
tính cách thống trị - hay nói khác đi, bất cứ cái gì của Tây phương- sự thành
công thường tuỳ thuộc ở sự hiện diện của những hạm đội ở ngoài khơi” .
Đoạn văn trên có hai điểm cho thấy rõ ràng công việc các người truyền giáo
gắn liền với các phong trào chiếm thuộc địa và sự thành công của việc truyền đạo
tuỳ thuộc vào khí giới Tây phương.
Lúc cải đạo bị bắt buộc hay tự nguyện con người sẽ bị tẩy não, bị tuyên
truyền rằng tất cả đất đai đều thuộc của Chúa Trời, mà Giáo Hoàng ở Vatican là
đại diện cho Chúa Trời. Nói khác đi, tất cả đất đai của các quốc gia trên thế
giới là của Vatican. Trong chiêu bài ấy, các Linh mục, Giám mục đã biến họ và
biến con chiên thành một đội quân nội gián chống lại quê hương. Họ là những
thành phần “ăn cơm quốc gia thờ ma đế quốc”. Bởi thế chúng ta không lấy làm lạ
tại sao Giáo hội Ca-Tô Việt Nam lại chạy theo Pháp rồi lại chạy theo Mỹ và Giáo
hội Tin lành Việt Nam lại muốn biến các vùng Cao nguyên dân tộc thiểu số trở
thành nhiều “Quốc gia” độc lập tự trị của phong trào Ful-rô trước 1975 và vụ
dân Hmong (Mường) ở vùng Cao bằng, Lạng sơn hiện nay là những bằng chứng. Vấn đề
này tôi đã trình bày khá đầy đủ trong “Tự do tôn-giáo thế giới” (báo Giao điểm
số 33, 1999).
2 - Chạy theo ngoại bang:
Các Sử gia đã viết nhiều về vấn đề này, nhưng ít ai dùng những danh từ “mạnh”
để mô tả vì vấn đề tế nhị, sợ đụng chạm đến tôn giáo. Nhưng dẫu có nói quanh
co, bóng gió thế nào đi nữa thì người ta vẫn ám chỉ và đồng ý rằng Giáo hội Ca-Tô Việt Nam là thành phần Việt
Nam bán nước. Vì sao ?
a/ - Giám mục Nguyễn Bá Tòng:
Chúng ta biết rằng theo cuốn “Atour des Fêtes du 3 Décembre 1940 à Phát Diệm
(chung quanh đại lễ ngày 3-12-1940 ở Phát Diệm - do chánh phó Giám mục. Linh mục
và các Giáo hữu địa phận Phát Diệm chủ trương) thì Nguyễn Bá Tòng là người Việt
Nam đầu tiên được phong Giám-mục. Trong buổi lễ tại Phát Diệm nói trên, Toàn
quyền Decoux thay mặt Thống Tướng Pétain, Chánh phủ thực dân Pháp trao tặng cho
Giám mục Nguyễn Bá Tòng Ngũ đẳng Bắc đẩu Bội Tinh. “Đức cha Tòng đọc bài Diễn
văn tỏ lòng cảm ơn Chánh phủ, tỏ lòng trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu
quốc” (Dẫn theo Toan Ánh trong “Nếp cũ hội hè đình đám”, quyển Thượng, Sài-gòn
1969, trang 292). Một Giám-Mục đầu tiên của Giáo hội Ca-Tô Việt Nam nhờ công
lao phục vụ đắc lực cho Chánh phủ thục dân Pháp trong việc chiếm đóng và đô hộ
nước ta nên được tặng huy chương cao cấp nói trên. Đã thế còn thề thốt “Tỏ lòng
trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu Quốc”. Nếu không tiếm xưng chữ con dân
và nói cho đúng ý, đúng thực chất thì phải nói rằng “Giáo Hội Ca-Tô Việt
Nam tỏ lòng trung thành với Mẫu Quốc
Pháp”.
Công lao phục vụ thực dân lớn lao như thế nên Nguyễn Bá Tòng luôn luôn được
Giáo hội Ca-Tô Việt Nam vận động đặt tên đường, tên trường học Nguyễn Bá Tòng trước
1975 tại Sài-Gòn. Hình như ngày nay các địa danh này vẫn còn tồn tại trên đất
nước (Phải chăng vì sự “tế nhị chánh trị” nên chính quyền Việt Nam chưa quyết
xét tới chăng?)
b/ - Giám mục Ngô Đình Thục:
Trong bức thư viết tay của Giám mục Ngô Đình Thục gởi cho Đô Đốc Jean Giám
mục Ngô Đình Thục: Toàn quyền Đông Dương ngày 21-8-1944, từ Toà truyền giáo
Vĩnh Long để xin thực dân Decoux thả Ngô
Đình Khôi và Ngô Đình Diệm bị Pháp bắt vì lý do hai ông này chạy theo thực dân
Nhật sau khi không được thực dân Pháp trọng dụng như trước. Trong thư Giám Mục
Ngô Đình Thục có những lời lẽ trần tình với Pháp như sau:
“Nếu hoạt động của hai em
tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì- với tư cách của một
Giám Mục, của một người An-Nam và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp
trong các cuộc hành quân mà Cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân chống lại
các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy tại Nghệ an và Hà Tĩnh- Tôi, tự đáy
lòng, không chấp nhận hoạt động của các em tôi”.
… “Có thể tôi lầm, tuy
nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thật là không tin – cho đến khi được chứng minh
ngược lại- rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến
như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong
khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp.
…Tôi nêu ra điều này khi
xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước
Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi,
một quá trình được hình thành bằng lòng tận tuỵ vô bờ của các em tôi đối với nước
Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp”.
Lá thư này viết bằng tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Việt, đã đăng tải trong
các cuốn “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” (Hồi ký của cựu tướng Hoành Linh Đỗ Mậu
và trong “Tại sao Tôi không theo Đạo Chúa?” (Tuyển tập I, in tại Texas Hoa-Kỳ,
1994, có cả phóng ảnh bản viết tay của Ngô Đình Thục)
c/ - Linh Mục Trần Lục:
Nguyên là cai quản Chánh xứ Phát Diệm một thời. Ngày 5-12-1873 Trần Lục
giúp đội quân do một Chuẩn uý thực dân Pháp cầm đầu chiếm thành Ninh Bình. Năm
1886 Trần Lục dẫn 5.000 giáo dân đến giúp quân đội Pháp đánh chiếm chiến luỹ
Ba-Đình của nhà ái quốc Đinh Công Tráng. Trần Lục là đàn em của Giám Mục thực
dân cuồng nhiệt và gian ác Puginier, người chủ trương đồng hoá toàn dân Việt
Nam và biến Bắc kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông. Nhờ công lao giúp
thực dân Pháp đô hộ dân tộc ta, nên Trần Lục được chính phủ thực dân Pháp trao
tặng hai Huân chương đặc biệt và cao cấp: Ngũ đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh năm 1899
(theo Linh Mục Trần Ngọc Thụ trong cuốn “Trần Lục”, Canada, 1996, nhiều tác giả,
trang 18). Muốn rõ thêm chi tiết, mời đọc giả xem thêm cuốn “Linh Mục Trần Lục:
thực chất con người và Sự nghiệp”, (của Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, Giao điểm,
1999). Cùng nêu rõ thêm rằng tên Giám Mục gian ác và nguy hiểm Puginier cũng chỉ
được tặng đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân chương, trong khi Trần Lục được đến hai
cái.
Trần Lục với những tội danh bán nước chạy theo thực dân Pháp mà lịch sử cho
thấy như thế, nhưng nhiều năm qua Giáo hội Ca-Tô Việt Nam đã đặt tên trường để
vinh danh ông. Gần đây, ngày 17-7-1999 Giáo Hội Ca-Tô Việt Nam lại làm lễ kỷ niệm
có tính cách Quốc tế để vinh danh ông Linh Mục Việt gian này. Một số ấn phẩm do
các Giám Mục, Linh mục, học giả Ca-Tô trong vài năm gần đây đã công khai ca tụng
Trần Lục là “bậc vĩ nhân của lịch sử hiện
đại” đã cho thấy rõ âm mưu của họ”.
Đức Hộ-Pháp nói:
Bí pháp chơn truyền của Công giáo không có:
“Bởi thế cho nên nền Tôn giáo mới hơn các nền Tôn giáo khác có mặt tại địa
cầu này là nền Thiên Chúa Giáo, vị Giáo chủ sáng suốt, vị Giáo chủ ngôn ngữ hoạt
bát, tinh thần minh hoạt hơn hết, là Đức Chúa Jésus Christ, nhưng hại thay
trong Thể pháp Ngài đủ quyền năng đem giáo lý của Ngài đặng làm nền tảng tâm lý
của nhơn loại. Nhưng về mặt Bí pháp chơn truyền, Ngài chỉ có nói một điều, các
Môn đệ nhứt là các vị Thánh Tông Đồ “Có
nhiều lý lẽ cao siêu ta chưa có thể nói với các người đặng, dầu ta có nói các
người cũng chưa hiểu”.
Vì cớ cho nên Bí pháp chơn truyền của
Công giáo không có, không có thể có. Bởi Bí pháp, theo lời Đức Chúa
Jésus-Christ thì buổi nọ Bí pháp Chơn truyền của Ngài chưa có thể gì nói cho
thiên hạ nghe đặng”.
4 - HỒI GIÁO:
Khủng bố là người Á-Rập
theo Đạo Hồi
(Từ trang 7-10. Cũng do tài liệu
sau, dưới tiểu mục:
“Đạo Hồi, một nhân tố mới
trên bàn cờ địa chánh trị Thế giới” Sự kiện ngày 11-09-2001 tại Mỹ Quốc.
(Trích quyển Đạo Hồi thế giới Á-Rập- Văn minh- Lịch sử. Nhà xb tổng hợp TP.
HCM Từ trang-45 . Kinh Thánh Coran)
* 8 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 09 năm 2001: một chiếc máy bay Boeng 767 của
hãng Hàng-không American Airlines xuất phát từ Boston đâm thẳng vào một trong
hai Toà nhà chọc trời của Trung tâm Thương mãi Quốc tế ở phía Nam thành phố
New-York.. Trong khi lửa đang ngùn ngụt bốc cháy trên các tầng thượng của toà
nhà này, nơi chiếc máy bay đâm vào.
*Thì lúc 9 giờ 26 phút một chiếc Boeng 767 khác của hãng Hàng Không United
Airlines cũng xuất phát từ Boston, như một mũi tên, xuyên thẳng vào toà nhà chọc
trời thứ hai của Trung tâm.
Chỉ hơn một tiếng đồng hồ sau, cả hai Toà nhà cao 110 tầng đã đổ sụp xuống,
khói lửa và bụi bay ngất trời; một vệ-tinh nhân tạo của Mỹ bay qua đã chụp được
cảnh tượng rùng rợn ấy. Hàng nghìn người bị kẹt trong hai toà nhà kể cả hàng
trăm cảnh sát và lính cứu hoả của thành phố New-York đều bị chôn vùi dưới hàng
trăm ngàn tấn sắt, thép và bê-tông.
Toàn nước Mỹ được tin bàng hoàng sửng sốt thì:
*Lúc 9 giờ 30 một chiếc Boeng 757 của hãng American Airlines xuất phát từ
Washington đi Los Angeles đã quay mũi bay trở lại Washington và đâm thẳng vào một
cạnh của lầu Năm góc, nơi tập trung đầu não Quân sự của siêu cường Hoa-kỳ, làm
chết hàng trăm Quân nhân Mỹ.
* Lúc 10 giờ 37, một chiếc Boeng 757 của hãng United Airlines chở đầy hành
khách đã rơi xuống một cánh đồng ở Tiểu bang Pennsylvania, có lẽ đã hụt mục
tiêu chính là Toà Nhà Trắng, phủ Tổng Thống Mỹ ở Washington.
Đứng trước một hành động khủng bố đánh vào giữa lòng nước Mỹ, điều mà từ
xưa đến giờ chưa hề xảy ra, chánh quyền Liên bang đã nhanh chóng tiến hành các
cuộc điều tra và xác định được tên tuổi của 19 người trực tiếp nhúng tay vào
hành động cướp 4 máy bay dân dụng rồi tự tay lái đâm vào các mục tiêu là những
biểu tượng của sức mạnh Kinh tế, Quân sự, Chánh trị của Mỹ và cũng của Thế giới
Tây phương.
Tất cả 19 người khủng bố
này đều là người ÁRập theo đạo HỒI - mang nhiều quốc tịch khác nhau.
Trong số họ, 6 người là nòng cốt và là những thanh niên có trình độ học thức
cao. Họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng và có phương pháp từ nhiều tháng trước cuộc tập
kích: nắm vững được kỹ thuật lái máy bay dân dụng cỡ lớn phải tốn hàng năm tập
luyện.
Mấy tháng trôi qua. Lửa vẫn cháy âm-ĩ và khói vẫn bốc trên bầu trời
New-York, chánh phủ Mỹ ra tuyên bố là người chủ mưu đứng sau vụ khủng bố làm chấn
động cả Thế giới ấy chính là tổ chức Hồi giáo quá khích Al Qaeda (Al Qaeda có nghĩa là Tổ chức Hồi giáo quá
khích) mà người sáng lập và chỉ huy là nhà triệu phú Usama Bin Laden hiện đang
trú tại Afghanistan lúc ấy là quốc gia độc nhất trên thế giới có một chánh thể
giáo quyền Hồi giáo cực đoan. Với lý do tìm diệt Bin Laden và tổ chức của ông
ta, Mỹ tiến hành thả bom và bắn phá Afghanistan bị kết tội là đã chứa chấp ông
trùm khủng bố này. Sau đó Mỹ đã thành công trong việc giúp những người chống đối
lật đổ chánh quyền Hồi giáo ở đây. Các hành động của Mỹ đã gây nên nhiều thương
vong cho thường dân Afghanistan nên nhân dân các nước Hồi giáo trên thế giới đã
rầm rộ xuống đường biểu tình phản đối, nhiều tín đồ Hồi giáo ở Pakistan và nhiều nước Á-Rập đã lên đường
sang Afghanistan để chiến đấu bên cạnh những người anh em cùng tôn giáo với họ.
Chiến tranh kết thúc, họ đều bị bắt và bị giam tại căn cứ Guantanamo của Mỹ ở
Cuba.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét