ĐẠO vẫn một nguồn bũa khắp
ra,
ĐẠO qui Tam giáo độ kỳ ba.
ĐẠO mầu chống vững tinh thần
nước,
ĐẠO pháp bao đồng thế giới
ta.
ĐẠO chỉ nhiệt tâm vì nghĩa
vụ,
ĐẠO tầm cội đức mà tu tỉnh,
(Về Văn-tế: Bà tế Đức Quyền Giáo-Tông và nhiều vị
khác, xin xem tiếp: Những dòng lệ khô tiếp nối cùng Soạn-giả).
E - Những bài Thuyết Đạo:
Bà Chánh Phối-Sư Lâm Hương Thanh Thuyết đạo
tại Thánh Thất Mỹ-ngãi (Sa-Đéc)
Kính cùng chư Hiền huynh, chư Hiền tỷ,
Hiền Đệ, Hiền muội,
Hôm nay Tôi có hạnh-phúc tới đây, tiếp kiến quí vị, thiệt cơ hội may mắn vô
cùng, đối với cuộc vui này Tôi chẳng biết lấy chi trò chuyện cho xứng đáng thạnh
tình tri ngộ. Vậy Tôi đã thọ lãnh trách nhiệm hành Đạo thì cũng xin vô phép
dùng Đạo mà luận đàm.
Đạo thể mênh-mông như Trời như biển, ngàn kinh muôn điển nói chẳng xiết
cùng, mà cuộc hội diện của chúng ta ngày vui rất ngắn, thế thì không có thể nói
cho cùng khắp đặng, nên Tôi xin tóm tắt đôi điều đại khái, nói muôn phần trong
một hai.
Vì sao mà gọi rằng Đạo?
Đạo vẫn một khí không hình không ảnh, không tiếng không hơi, nói lớn ra thì
trên trời dưới đất, bao la vũ trụ sơn hà, thấu đến ngoài Càn khôn thế giới, đều
hiển nhiên Đạo thể lưu hình;nói nhỏ lại thì một sợi tóc, một mảy lông, người
thì một hơi thở vô ra, loài cầm thú bò bay máy cựa đều y-nguy đạo lý. Đạo rất lớn,
rất sâu, rất rộng mà cũng rất ròng, rất kín, rất nhiệm, rất mầu, không chỗ nào
không đạo, không sự gì không đạo, mà cũng chẳng thất hình trạng Đạo ra thế nào.
Có thể nói rằng: Ấy là một không-khí giữa trời đất, người đối với không khí đó
chẳng biết gọi là chi nên phải chế ra chữ “Đạo”mà nói cho nhơn sanh dễ hiểu.
Kinh có câu “Bất tri kỳ danh, cường danh viết Đạo”.
Luận về Thiên Đạo: thì ban ngày có mặt trời, ban đêm có mặt trăng và các vì
Tinh tú: Sao Cơ chủ gió, sao Tất chủ mưa, sao Vân Hán nắng hạn đều có phần hành
riêng. Một năm chia làm 4 mùa: Xuân thuộc Mộc bông hoa tươi tốt, Hạ thuộc Hoả
nóng nực, Thu thuộc Kim mát mẻ, Đông thuộc Thuỷ lạnh-lẽo. Mỗi năm mỗi tuần hoàn
vận chuyển, cuối rốt rồi trở lại ban đầu, chớ Thiên Đạo không hề sai.
Luận về Địa Đạo: Núi thì cao, sông thì sâu, biển thì rộng, chỗ đất bằng thì
nhơn dân ở, cây cỏ chen lấn, châm rễ sanh chồi, thú vật sâu bọ đào hang khoét lỗ
trên mặt đất, tuy chia ra Đông, Tây, Nam, Bắc bốn phương, nhưng sản vật hình thể
trên địa cầu này chỗ nào cũng in nhau như vậy, chớ Địa Đạo không hề dời đổi.
Phối hiệp với Trời đất là Người: thì Nhơn đạo rất có qui mô rõ rệt dễ hiểu,
xem như làm Cha mẹ giữ dạ hiền lành, làm con giữ hiếu thảo, vợ chồng ăn ở thuận
hoà, anh chị biết thương em trẻ, em trẻ biết kính anh chị. Ở với bậu bạn giữ
câu tín thiệt, đối với bà con tông tộc giữ lòng tương ái, tương thân; gặp người
trưởng tượng phải biết kỉnh nhường,thấy người nghèo hèn hoặc ngu dốt phải
thương yêu dìu dắt. Đừng thấy người giàu sang mà dua nịnh, đừng thấy kẻ hèn hạ
mà khinh khi. Trong gia đình thì ăn nói, đứng ngồi đều có lễ-ngh phép tắc, thù
tạc với nhơn tình thế tộc phải giữ lễ cẩn thận công bình.Đứng làm trai ra gánh
vác trách nhiệm quốc dân phải giữ lòng chí chơn chí chánh, làm hạng thứ dân thì
thuế sưu đóng đủ, đừng làm việc gì vi phạm luật pháp nước nhà. Phận làm gái thì
cửa liễu phòng đào, màn the phủ kín, chữ tam tùng ,câu Tứ đức gìn giữ vuông
tròn.
Tam tùng là: lúc nhỏ theo cha mẹ, lớn theo chồng, sau già lại theo con.
Tứ đức là: tánh nết cho hiền lành, ăn nói đoan trang, việc làm cho khéo
léo, dung nhan cho chỉnh đốn, mấy điều đó chính là mảnh gương trong bạn khuê
các quần thoa, cần yếu phải lau chùi cho sạch sẽ. Nói tóm lại: Trai thì lo tròn
phận tu mi, gái thì giữ trọn chữ môn đình nội trợ ấy là Nhơn-đạo đó.
Nhơn đạo cho trọn vẹn thì mới có thể hy vọng sự tu-hành mà bước theo dấu
chơn các Đấng thiêng liêng đời cổ tích. Bởi đường muốn đi cho xa thì phải có từ
chỗ gần làm trước,cây muốn trèo tới ngọn phải từ dưới gốc làm đầu. Ấy là đẳng cấp
của chúng ta học Đạo. Nếu trái lại, muốn xa cầu Phật đạo, Tiên Đạo, Thánh Đạo
mà trước khi không lo chỉnh đốn Nhơn Đạo cho hoàn toàn, thì chẳng khác chi muốn
lên chót đỉnh mà khi bước chơn không chịu lội qua gò trắng. Biển, muốn ra giữa
vời đại hải, mà lúc xuống tàu không muốn xuống tới chỗ bến cầu, thì có lẽ chi?
Tu-hành chẳng phải dâng hoa đảnh lễ, gõ mõ rung chuông là đủ, mà cũng không
phải niệm kệ đọc kinh, ăn chay ăn lạt là rồi. Bởi vậy việc đó là cái sự chớ
chưa phải cái lý. Cái lý với cái gốc vốn ở trong tâm người “Dục tu kỳ thân tiên
chánh kỳ tâm” (Muốn tu cái thân thì phải chính cái tâm làm trước). Giữ toà
lương tâm cho thanh-tịnh, chánh đáng rồi sai khiến ra tứ chi, thân thể dò theo
Đạo luật mà làm, sự tu không phải nội trong lúc tới chùa hay là đương lúc cúng
kiến ăn chay. Phải cẩn thận dầu trong khi ngày thường ăn ở đối đãi với nhau,
trong cuộc đời cũng phải cho nhớ rằng: thiện nam tín nữ thì mình phải liệu làm
sao, giữ làm sao lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành vi cho khỏi phải phụ một phần
trách nhiệm, chứ nếu như đã thọ lãnh tiếng Nhập môn cầu Đạo mà còn tranh cạnh
việc thị phi ác cảm bên trường đời, lửa tam bành nổi dậy rần rần, ma lục tặc
hoành hành thất sá. Kinh cũng đọc, kệ cũng đọc, mà lời phàm tiếng tục cũng
không chừa. Tiên cũng cầu, Phật cũng cầu mà tánh quỉ nết yêu cũng không bỏ.
Ngoài so-se đeo mảnh gương Thiên Nhãn, lần chuỗi hột bồ đề mà trong lòng thì mối
nghiệt dây oan vấn vương nơi trái tim lá phổi.
Vậy thì sự tu-hành chính là một cuộc cầu danh giả dối, biết mấy đời cho
thoát đặng bể khổ sông mê. Ôi! Ăn chay một tháng có mấy ngày còn bao nhiêu thì
hại vật sát sanh không chừng đỗi. Kinh Sám hối đọc sơ qua chút ít, còn bao
nhiêu thì vọng ngôn ác ngữ cả luôn năm, vậy rồi lâm vô vòng ác đạo trầm luân, lại
thán oán rằng: Tôi có niệm kệ ăn chay sao không thấy Phật rước Tiên đưa, Thánh
Thần hỉ xả?
Ôi! Thầy Mạnh có nói: Dùng một chén mà chữa lửa cháy một xe thì sao cho được?
Vậy nên Tôi khuyên những người đã hiến thân hành Đạo thì phải dùng chữ chơn
thật làm đầu. Đã nói rằng tu thì tu khẩu, tu tâm, tự thuỷ chí chung đúng đắn
vào khuôn pháp Đạo. Dầu cho người ta không nghe thấy mà mình đối với lương tâm
mình cũng phải giữ nhứt niệm tín thành. Câu đầu bài Kinh “Nhựt tụng” có dạy:
“Đạo gốc bởi lòng thành
tín hiệp”
Thành là lòng không giả dối, Tín là không sai ngoa. Hiệp là không
lìa tan chia rẻ. Xin phải dùng câu đó làm mảnh gương trong tỉnh kỷ, cây thước trì thân.
Nhưng ấy là luận sự tu và đối đãi với người đồng Đạo, chớ còn giao thiệp với
người dị Đạo phải dùng tư cách thế nào, chớ ý Tôi tưởng thì cũng có Đạo nào là khác! Chỉ có Bàn môn tả đạo, quái thuật yêu phương thì đành là khác, chớ còn chánh Đạo thì không có thể khác đặng.
Nay Tôi nói
Thích, Nho, Tiên Tam giáo:
Kinh Nhựt tụng
nói rằng: “Một cội sanh ba nhánh in nhau”. Vì sao vậy? Bởi nguồn cội Đạo từ khi
vô thỉ, trời đất chưa an ngôi, Đạo đã bao hàm trong khí Thái-cực và Vô cực. Sau
Khí Thái cực phân Âm Dương, Thiên, Địa Nhơn, tam tài định
vị, lần lần có các Đấng Đại Thiêng liêng xuất thế truyền Đạo dạy đời: Đức Lão-Tử, Đức Khổng-Tử,
Đức Thích-Ca đều bởi cội gốc đó mà lập ra Đạo Tiên, Đạo Nho và Đạo Thích. Tuy mỗi
nền Tôn giáo đều có danh hiệu riêng nhưng Tôn chỉ thì không hề khác.
Xem như:
Nho nói: Tồn tâm dưỡng tánh.
Tiên nói: Tu Tâm luyện tánh.
Thích nói: Minh tâm kiến tánh.
Thích nói: TỪ BI,
Nho nói: TRUNG THỨ
Tiên nói: CẢM ỨNG
Tiên nói: Bảo ngươn thủ nhất.
Thích nói : Vạn pháp qui nhứt.
Nho nói: Chấp trung quán nhứt
Cứ đôi câu đại khái đó thì hiểu biết nghĩa lý nào có khác chi? Nên Đức Thể
Hà Tiên có bài thi rằng:
Tam giáo nguyên lai nhứt
lý đồng,
Hà tu phân biệt các Tây Đông.
Tam hoa, Tam bửu, Tam
tài lý.
Ngũ đức, Ngũ hành, Ngũ
giới trung.
Nghĩa là:Tam giáo nguyên lai đồng một lẽ, không tất
phân biệt khác nhau làm chi, xem như lời Tam hoa, tam bửu,
tam tài. Ngũ đức, ngũ hành, ngũ giới đều dùng chữ TAM, chữ NGŨ mà dạy đời. Vậy
thì từ thuở xưa đã công nhận tam giáo y nhau như một.
Gọi từ đời Thượng cổ sắp sau học giả chia dòng lập phái, riêng ngõ khác đường,
rồi mới sanh bài báng nhau, nghịch lẫn nhau, theo Đạo này thì chê Đạo nọ là
hoang đường, theo Đạo nọ thì nói đạo kia là bất chính. Người nào cũng xưng tụng
Thầy mình là tối cao tối thượng, còn chỉ trích Tôn giáo khác là thấp hèn.
Ôi! Ấy vì Thế đạo chưa mở mang, đường tu còn rậm rạp nên mới có sự sai lầm
mà đến nỗi đồng Đạo tương như vậy.
Ngày nay trên Thiên ân chiếu gương Huệ Nhãn, soi thấy những sự sai lầm…nên
giáng Cơ bút khai Đại-Đạo Tam Kỳ, qui nguyên Tam giáo Tiên,, Nho, Thích thâu về
một cửa. Đặt ra phái Thượng, phái Ngọc, phái Thái đối đãi cho vừa với lòng Tín
ngưỡng của nhơn sanh. Trước chia đường nay hiệp lại một nhà, xưa tẻ bước nay
đem về một nẻo, thiệt Cơ sắp đặt của Thầy mầu nhiệm biết là dường nào!
Chúng ta sanh gặp thời kỳ hữu hạnh này đáng nên vuốt mặt reo mừng, vỗ tay
dung ruổi, mau chơn trổi bước lên đền Phổ Độ kỳ ba, dầu có gặp sự chi trắc trở
chinh nghiêng cũng đừng đổi dời tâm chí. Bởi nghĩ rằng: chúng ta bấy lâu nay lặn
lội cuộc đời, sông danh biển lợi, trường náo nhiệt đã nhiều phen phấn đấu, thế
thời nợ trần gian chất chứa cũng nặng nề, nay kính nên mượn nước nhành dương rửa
bớt bụi nhơ trần thế. Xem lại các vị Tăng sĩ và Ni-cô trong đời trước, xuất gia
cầu Đạo, người tới chùa mà tu, kẻ lên non mà ở. Cảnh tượng rất là khổ não âu sầu,
mà người ta còn kiên tâm nhẫn nại. Huống chi nay cửa trời cao mở, đường tu hành
rộng rãi thinh thinh. Thầy trao con thuyền Bác Nhã cho chúng ta chèo, Thầy đưa
cây đuốc Thie6g liêng cho chúng ta nắm, đường nhập Đạo dễ dàng hơn lúc trước biết
là bao nhiêu.
Nếu đương thời kỳ này mà chúng ta để chậm chân trễ bước, thỏn mỏn dần dà,
thì mất một cơ hội rất nên quá uổng. Một ngày kia bóng quang âm thấm thoát, tuổi
chẳng chờ ta, chừng đó dầu hối hận ăn năn vẫn đã lỡ làng nấc bước. Vậy thì tốt
hơn là mai đây hồi đầu giác ngộ, tỉnh lại hồn say, tu càng dày thì Đạo thêm vững
chắc.
May thay! Hột giống Phước-Thiện càng ngày càng nứt, càng nở càng tốt, càng
tươi, càng đơm bông kết trái để nhờ cậy trong cuộc diện tương lai. Tôi rất lấy
làm chúc mừng vô hạn.
Tiện đây Tôi xin cung vịnh bài thi “Thủ vĩ ngâm” kính đề chữ Đạo.
ĐẠO nguyên một gốc nảy
sanh ra,
ĐẠO mở kỳ này ấy thứ ba.
ĐẠO giáo rộng quyền do bút
Thánh,
ĐẠO căn vun đắp tự lòng
ta.
ĐẠO lo trổi bước lên đường
Chánh,
ĐẠO chớ lầm chơn tới nẻo
tà.
ĐẠO Lão, Đạo Nho và Đạo Phật,
ĐẠO nguyên một gốc nảy
sanh ra.
“Nam-mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”
Lâm Hương-Thanh.
Bài Thuyết Đạo 2: Của Bà Nữ Chánh Phối-Sư Lâm Hương-Thanh, đọc tại Thánh Thất
Cầu Vỹ (Mỹ tho) của ông Đốc-Phủ Ca (Thái Ca-Thanh)
Thiên ân Phong-Mỹ, Đạo vị thơm tho, gác công danh thế sự chốn hư sinh, tưởng
tâm tánh Phật Tiên nơi lạc quốc. Ấy là hiện thấy như ông lớn đây, vẫn thiệt “Đồ
kỳ đại nhi vong kỳ tế, dụ kỳ thiệt nhi khí kỳ hư” mùi đỉnh chung mượn khổ hạnh
gánh chịu với thiên tâm, lập chí tiết nuôi lấy chơn linh quí hoá; nên mới có ngày
nay Bửu toà thơ thới, Thánh-Thất, Thư trai, Hiệp-Thiên-Đài, Cửu Trùng-Đài lưỡng
phái Nam Nữ sum vầy, Tôi nhẹ gót đến đây mừng thấy mở lời chúc tụng.
Trước, xin thiết tưởng rằng: Ơn Thầy mở đạo, biển trầm luân lằn sóng lặng
yên, Đức Phật ra đời, bờ bỉ ngạn có bờ đưa tới. Ấy là gặp cơ hội tuần hoàn phục
thuỷ, ngàn muôn năm mới có một kỳ này. Nếu ai ai đều cạn xét cùng suy, chắc
ngày sau trong mỗi một gia đình đại hạnh phúc tự nhiên hưởng đặng.
Từ khi khai thiên lập địa, thì muôn vật và loài người mới sanh ra, quyền
Diêu-Trì Kim-Mẫu chủ trương, vẫn phó tánh hiền lương chân thật. Nên chi trải mấy
đời về Thượng cổ, thói thuần dân tốt, mưa thuận gió hoà, thời trời ứng với vận
người, ít thấy xảy ra những lòng ác cảm, Lần lần trở xuống, khí trời biến đổi,
lòng người càng tập tục lấy sự bất chánh dị đoan, dẫn xuống đến ngày nay cơ tạo
hoá lại tuần hoàn phục thuỷ
Xin chư Đạo-hữu nên nghĩ rằng:
Đạo có dạy Đời tu từ khi Bàn Cổ. Chẳng phải mới phát khởi một ngày nay.
Trong Tam giáo dẫn dạy người làm lành lánh dữ để duy trì lấy nhân luân đạo hạnh.
Đạo Nho dạy người học cang thường luân lý để biết Đạo vua tôi, cha con, chồng vợ
là Ngũ luân. Sách có chữ rằng “Nhân linh ư vạn vật”. Nếu Tam tài liệt ở hạng thứ
ba, vậy thì người được thọ bẩm Nam thanh Nữ tú hơn muôn loài, lẽ đáng ai ai
cũng nên nghĩ đến sự tu-hành làm gốc.
Tuy gặp tự đời Châu mạc trở xuống, truyền nhiễm lấy phong hoá bất chánh đã
nhiều, nên trải đời bị “Khí bẩm sở câu, vật dục sở tế” mới đến ngày nay. Phong
tục cang thường điên đảo, phần nhiều đường đạo đức đã bị làn sóng khổ hải xô đẩy
ngã nghiêng, hoá ra lòng “Thuỳ từ mẫn khổ” của Đấng Trời Phật cao xa phải phổ tế
giáng cơ sắc lịnh, lại hiệp cùng các bậc văn minh Thần Tiên Chưởng trí. Phụ Ngũ
Chi có đức chúa Jésus Ngài hóa thân tuỳ theo địa Đạo mà truyền bá Đạo danh, chớ
kỳ thiệt Giáo chủ Gia Tô cũng là Đức Cao-Đài Tiên Ông ngày nay Nam phương giáo
Đạo. Phải biết thế Đại-đồng văn, đồng Đạo thì nền Tôn giáo cũng phải hiệp nhứt
mới được đề huề.
Nói tóm lại là dạy đời tu-hành đặng mong thoát bề tội-lỗi. Làm người đứng
trong bầu trời đất: Có tai nghe, mắt thấy, miệng nói, lòng suy, vậy việc gì phải
đạo-đức thì nên theo, việc gì trái mà không có cang thường thì nên bỏ. Thử xem
xưa nay anh hùng hào kiệt, nghĩa sĩ, trung thần có tiếng truyền lại ở sử xanh,
có công ghi vào
F - ĐứcChí-Tôn và các Đấng
dạy riêng Bà Nữ Đầu-Sư HƯƠNG THANH
Tân Định:6-7 Bính-Dần (Dl 13-8-1926)
Thầy,
Hỉ Chư Môn đệ, hỉ các Đẳng nhơn sanh,
Thầy dạy: Lâm thị Ái-nữ, Đường Ái-nữ vào trong, chư Môn đệ đứng dậy.
Huệ con, Lâm Thị con, khá nghe lời dạy, con ôi!
THI
Thế sự như đêm tăm tối.
Đạo như giữa tối gặp đèn.
Biết bao Thánh đức tâm
hèn,
Trời đã buộc lắm phen cứu
độ,
Bình lời hiếm kẻ vô biển
khổ,
Mắc phải vòng ám mộ lợi
danh.
Bỏ trần-gian nhiều kẻ chẳng
đành
Ham phú quí công danh đành
phải đọa,
Tội trần kiếp tội dư đã
quá,
Phận công phu nhân quả đã
chưa rồi,
Mượn Bồ đề quày quả thế
thôi,
Chẳng phải kệ với Kinh
năng đúc Phật.
Âm chất vốn là điều thứ nhứt,
Phận liễu mai phải mang kiếp
hồng trần.
Thầy lắm lúc bâng khuâng
thương trẻ dại,
Ngồi vắng vẻ càng thêm luyến
ái,
Muốn toan đem trẻ dại đến
đường tu.
Cảm thương con cũng lắm
công phu.
Thầy phải chịu vận trù chước
thế.
Đường Tây vức từ khi bị bế,
Tiếng Phật Tông đổ lệ thay
Thoàn,
Giữa trần ai ai có mắt
tàng,
Phòng hiểu thấu mối mang
chơn giả.
Thầy không định vì lòng tự
quá,
Mới khởi đem chánh quả một
đường
Tam-kỳ mong độ chúng tai
ương,
Lại quyết mở Tây phương
khai Đại-Đạo.
Con vốn thật là tay chơn
Lão,
Phái Nữ-nhi bọc bảo giúp
công Thầy.
Cùng Tỳ-nương Đường-Thị
con đây,
Lo phương thế đỡ day trong
mối Đạo
Đừng tưởng Lão chẳng vì
lòng thảo,
Cậy con rồi trở tráo chối công đâu!
Cười!...
Khó việc chi cũng tại buổi đầu,
Con ra sức mới thâu toàn Nữ phái,
Cực thân ấy, trẻ đừng ái-ngại,
Muôn việc con Thầy lại sớt chia,
Chẳng phải cần đá tạc danh bia.
Tên tuổi trẻ nước kia còn khép mặt
Lợi danh khá để lòng sắp đặt
Trên thuận hòa ắt dưới tùy tùng,
Môn đệ Thầy để dạ lo chung,
Thương nghèo khó lao lung con giúp đỡ.
Trong Môn đệ nhiều tay quá dở
Tiền bạc nghèo Thầy khó đỡ đặng nào.
Khuyên con nhìn biết Lão đớn đau,
Tình đồng Đạo yêu nhau bằng ruột thịt.
Tập hòa-hưỡn tánh không xích mích
Tự nhiên dầu có nghịch cũng đầu,
Con là đâu mà Lão lại là đâu?
Quyền thế lớn ai
thâu con ái ngại?
Thương dìu-dắt lấy
đoàn Em dại,
Đạo-đức ngoan phải
trái con thấy rồi,
Niệm Nam-mô hai
chữ thấy thôi thôi,
Lo cứu thế mới rồi
lẽ chán,
Tưởng hai trẻ chẳng
lòng sanh nạnh,
Gắng chung lo mạnh Đạo cho mình
Lòng hiếu con thấu đặng Thiên đình
Mẹ trẻ đó Thầy quyết tình cứu độ
Con khá dắt Em con đi một ngõ,
Biểu nó rằng phải bỏ dối theo chơn.
Vậy con tua liệu thật lo hơn.
Thấy trước mắt chớ khờn thân nhọc.
Nghe! Đọc lại.
Lâm-Thị Ái-nữ, hiểu con há?
Một ngôi con Thầy sắm sẵn gia tài, Thầy gìn giữ để trọn quyền con làm thế
nào của phù du ấy ra Âm chất thì con làm.
Huệ, Con phải rán lo dạy-dỗ Nữ phái nghe!
Thơ! Vô quì nghe: Thầy dạy may Thiên phục,khắn, áo màu vàng, mà cho thiệt tốt,
khăn chín lớp, áo gài ba dải.
Con Lâm Thị Ái-Nữ lo giùm cho Thầy 5 cái áo mão cho Lịch, Trung, Tương,
Trang, Thơ. Mão ấy Thầy sẽ vẽ. Còn áo Thơ thì Ái-nữ thêu “Con Mắt” ở giữa,
chung quanh có 6 chữ Cổ tự đề 大道三期普渡 “Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ” ngay trước mặt và sau lưng, như miếng bố tử, chạy
hai vòng vô vi bao chung quanh nghe.
Tái cầu Thầy chỉ làm Mão.
Thơ, Trung, Trang, Tương Thầy muốn các con để tóc và râu như Lịch vậy hết.Thầy
ban phước cho các con.
* Đức Mẹ Diêu-Trì than về Nữ phái:
“Thiếp xin để lời căn dặn rán lấy
lòng thành hiệp cùng Thiếp,sửa cơ đời cho khỏi phụ lòng Chí-Tôn đã định.
Ôi! Biết bao phen Thiếp khẩn cầu khóc lóc giữa Ngọc-Hư-Cung xin lập thành Nữ-phái.
Chí-Tôn buộc sửa cải Thiên thơ, chư Hiền Đồ cũng nhớ lời Chí-Tôn khi lập
Pháp-Chánh-Truyền Nữ-phái, Chí-Tôn than:“Muốn bỏ đi cho đáng, nhưng lòng Từ Phụ
cũng chẳng đành”.
Thiếp cậy Quan-Âm thay quyền Chưởng-Quản, nào dè lòng Từ-bi không kềm chế
tánh phàm của chư Hiền đồ. Thiếp chẳng phiền là vì chán hiểu tâm tình mọi bề yếu
ớt và chỉ trông mong ngày dài chế cải, nào dè đã bốn năm chầy, phàm tâm của chư
Hiền đồ vẫn y như trước, làm cho Quan-Âm buồn lòng cáo thối.
Ôi! Một Đấng trọn lành ấy còn cam tâm bỏ lẫy, Thiếp mới cậy tay ai?
Thà thiếp đến chính mình dạy-dỗ các con, dầu rủi may cho đành dạ.
Thiếp dặn Cửu Nương và Thanh Tâm Tài-Nữ thay phiên nhau đem trí thức tinh
thần Thiêng-liêng mà chế vào lòng các con, họa may giảm đặng lần lần tục tánh.
Thiếp cần dạy-dỗ thì Thiếp chỉ cầu chư Hiền-đồ cũng rán nghe Thiếp, tùy lòng chẳng
ép nài ai làm quá trí, mượn ngòi Cơ bút để áng văn chương, tỏ tấc lòng thương,
chư Hiền đồ để dạ.
Từ đây, Thiếp dùng hiệu QUI THIỆN mà cho pháp hiệu trường ĐẠO DIÊU-TRÌ.
Thiếp lại dặn hãy lựa chọn kẻ nào đặng Từ-bi, bác ái, đạo đức, khiêm cung mới
đặng cho nhập".
(Diêu-Trì Kim-Mẫu 1-11 Kỷ-Tỵ 1929)
Bởi từ lâu, Mẹ đã từng:
Ngồi trông con đặng phi
thường,
Mẹ đem con đền tận đường Hằng
sanh.
(Kinh Phật-Mẫu)
Tòa Thánh, ngày 15-8-Bính Tuất (dl 10-9-1946).
Phò loan : Hộ-Pháp - Bảo Văn PQ. Tý thời.
Hầu bút : Sĩ Tải Phạm Văn Ngọ.
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Thiếp chào chư Thiên mạng Nam Nữ.
…Hộ-Pháp xem bài văn Thiếp mà nghĩ đến tình trạng của Diêu Trì Cung đau thảm
đến dường bao, khi con mông trần buổi nọ. Cửu Nương nối điêu toàn văn Động
Đình. Các con Nữ phái bình thân.
VĂN
Nhứt Nương Diêu-Trì-Cung:
Nhẫng ngồi giữ Quỳnh Hoa
Ngạn Uyển,
Mà quên nghe đặng tiếng
vĩnh sanh.
Đoạn đường lều cỏ chòi
tranh,
Tay nương cây gậy một mình
trông vơi.
Nhị Nương Diêu-Trì-Cung:
Trông động cũ màu trời biến
sắc,
Trông cung nga thiếu bậc từ
quân.
Trông xa đảnh Thánh non Thần,
Trông đền Ngọc Khuyết vắng
phần Thiên lương.
Tam Nương Diêu-Trì-Cung:
Nay đầm ấm con đường hạnh
phúc,
Cõi phong trần gội chút hồng
ân.
Tiêu diêu phai lợt mùi trần,
Tỉnh say với giọt nước ngần
tẩy mê.
Tứ Nương Diêu-Trì-Cung:
Tưởng trọn phận tô xuê đảnh
Việt,
Nương thuyền từ cứu tuyệt
trần ai.
Đường quê nào thấy Thiên
thai,
Công trình lập đặng Vân
đài chí công.
Ngũ Nương Diêu-Trì-Cung:
Mở rộng cửa Đại đồng vạn
chủng,
Khai nẻo sanh cứu sống
nhơn gian.
Trị tâm mở mắt song quang,
Khai đường Cực Lạc, mở đàng Lôi Âm.
Lục Nương Diêu-Trì-Cung:
Đưa gương rạng Quan Âm dẫn thế,
Diệt mê hồn tồi tệ kiếp căn.
Cam lồ rửa sạch phong
trần,
Gương xưa để bước đi lần
cảnh thăng.
Thất Nương
Diêu-Trì-Cung:
Nào dè phép Quỉ toan cải
chánh,
Mượn quyền Yêu so sánh Chí
Linh.
Đem thân lữ thứ làm binh,
Cầm gươm huệ chặt tan tành
cung thương.
Bát-Nương Diêu-Trì-Cung:
Hỡi nào kẻ lo lường nghiệp
Đạo,
Hỡi những trang nóng máu
anh phong.
Ngôi Thiên để dựa bóng hồng,
Phục hưng gầy nghiệp con Rồng
cháu Tiên.
Cửu-Nương Diêu-Trì-Cung:
Gầy sự nghiệp Tổ tiên ngày
trước,
Dựng Miếu đường hưởng phước
tự do.
Mảng trông bến cũ đưa đò,
Chơn quân lương tể gây trò
vinh phong.
ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG GIÁNG DẠY
Ngày 9 tháng 3 Kỷ
Tỵ (Le 18 Avril 1929)
LÝ GIÁO-TÔNG
Chào chư Hiền Hữu.
Hộ-Pháp! Hiền-hữu nói cùng chư Chức-Sắc Cửu Trùng-Ðài rằng: Lão có gặp Thượng-Phẩm
trước Linh Tiêu-Ðiện, nhưng Người mắc lo kiến diện, nên chưa nói chi đặng với
Lão hết, vậy đợi vài ba tuần nữa Lão sẽ phán định.
Hương-Thanh! Hiền Muội đặng lên nghe Lão dạy mà thôi, Lão đợi, chào Hiền Muội.
Thượng-Phẩm xin tha thứ lỗi của Nữ phái nhưng Lão chẳng trọn nhận.
Lão phạt cả Chức Sắc Nữ phái một tuần cấm phòng, còn Hiền Muội thì Lão biếm
quở, vì không lo dạy dỗ điều đình, song cho thăng lên Chánh Phối Sư cho có quyền
sửa trị Nữ phái, nhưng mà buộc còn phải tùng lịnh Ðầu Sư.
Thấy thân thảm cảnh của Hiền Muội Hương Hiếu, Lão để lời chia buồn sớt thảm
cùng Hiền Muội đó. Cái sự hằng sống chẳng phải tại thế nầy, xin Hiền Muội khá
nhớ”. Thăng
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
(Ngày 13-01 Kỷ-Tỵ - 22-02-1929)
Thiếp chào Nhị vị Đạo hữu và Hiền muội.
Vì phân sự Nhị Trấn Oai nghiêm nên Thiếp phải cam lỗi cầu Nhị vị Đạo hữu, để
dạ thương NỮ-PHÁI của Thiếp cùng.
Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm bạch:……
- Phải đó, nếu xét ra thì Nữ-phái có mang đại tội trong sự rối loạn nền Đạo
thì mặc dầu, song cũng bởi vì nhẹ tánh là đàn bà. Nếu Nhị vị Đạo-hữu không tha
thứ thì Ngọc Hư Cung buộc án phế hủy.
Thiếp xin Nhị vị hứa cùng Thiếp một lời rằng: Tha tội cho Nữ-phái đặng liệu
phương thế cứu rỗi, kẻo tội nghiệp.
Ai có tội? – Toàn hết Nữ-phái.!
Thiếp cám ơn Nhị vị Đạo-hữu. Thiếp xin kiếu”
Qua ngày 27-3 Kỷ-Tỵ (Dl 6-5-1929)
Đức Quan-Âm Như-Lai: Xin mời Hương-Thanh.
“Em, Chị mừng Em được Đức Chí-Tôn
ban quyền lớn-lao đặng chế sửa Nữ-phái. Trách nhiệm tuy nặng-nề, nhưng Em hãy gắng
công mà điều đình Nữ phái được có trật tự thì vẻ Đạo mới hoàn toàn.
Những điều rối-rắm, bất bình đã xảy ra trong Đạo đều do Nữ-phái mà ra. Vậy
nếu Em hết lòng vì Đạo thì mai sau sự thạnh hành tấn hóa của Đạo mới mong phát
khởi được.
Em an lòng: Thái Thơ Thanh vì lao tâm nhọc thể mà gây ra căn bịnh, chớ chẳng
có điều chi trọng hệ lắm!
An dưỡng ít lâu thì tai nạn qua.
Em dâng cho Chị nửa chén nước đặng chị trấn bùa định tâm cho. Em cho Bạn Em
uống nước, rồi lấy ba chữ huyền-vi của Em, họa trấn trên đầu và hai bên mình:
- Thái trên đầu,
- Bạch bên hữu,
- Ngọc bên tả.
Trấn bằng cây nhang thì đủ. Ấy là ba chữ lựa lấy theo điệu chiếc của ngôi
Thái-cực, Bạch Ngọc Kinh và Ngọc-Hư-Cung chớ chẳng chi, mà phải chính mình Em
dùng mà thôi. Chuyện nhà chẳng chi xao-xuyến. Em an tâm”
Đức Quan-Âm giáng tiếp:
Ngày 15-01 Canh Ngọ (Dl 13-02-1930)
Hương Thanh Hiền muội, nghe Chị phân,
Buổi Chí-Tôn lập Đạo, Kim-Mẫu cậy Chị cầm quyền Nhị Trấn Oai-nghiêm thì Chị
cũng vì Hiền-muội và toàn thể Nữ-phái ra cam lãnh lịnh. Khi Ngọc-Hư nhứt định
không lập Nữ-phái, Chị đã quì tại Điện Bạch-Ngọc trọn ba ngày mà cầu khẩn. Nhờ
lấy cớ Tà-quyền nhiễu hại lương sanh mà làm cớ, lại hứa rằng: Có Nữ-phái dây
thân ái mới buộc chặc tình đời, Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài mới làm đặng.
Nào dè ngày nay thế này!. Chí-Tôn cho Chị là thất nguyện. Nếu không vì lòng
Đại-Từ-Bi của Chí-Tôn thì tội ấy đủ làm cho Chị phải luân hồi chuyển kiếp một
phen nữa. Chị chẳng biết phương chi dạy-dỗ Nữ phái, phải cầu với Diêu-Trì, có Cửu-Nương
giúp sức đặng khai trường Qui-Thiện, đặng dạy-dỗ mấy Em. Chị tưởng mấy Em làm
chủ nơi đây mới đáng, y theo Cao Thượng-Phẩm liệu, khi còn tại thế cũng vậy.
Lâm Hương-Thanh Bạch:…….
- Hiền-Muội ơi! Những sự khổ hạnh của Em, Chị đã hiểu thấu, nên không nỡ ép
tình. Toan cậy Thái Thơ Thanh lo giúp đỡ. Song Thái Thơ Thanh phận sự lại nặng
nề thì Chị chẳng đành lòng cậy mượn.
Em ôi! Chị tính mượn một thế này, Em nghĩ coi bao nã. Em phải tùng theo Thượng-Đầu-Sư
mà hiệp với ba Chánh-Phối-sư Nam phái đặng mở TRƯỜNG QUI THIỆN rõ-ràng buộc cả
Nữ-phái phải đến đây mà học Đạo, Em tưởng nên chăng?
Lâm Hương Thanh, Bạch:
- Nếu Lịnh Bà lấy lòng Từ bi thương tình dìu dắt Nữ phái thì Đệ-Tử cũng nhất
nguyện lo lắng với mấy Anh cho hoàn toàn, nhưng xin lịnh Bà bố trí cho Đệ-tử
hành sự đặng trọn.
- Thượng-Trung-Nhựt tính sao?
Bạch: Nếu Lịnh Bà đoái đến thì Đệ-Tử cũng hết lòng vùa giúp.
- Thiếp cám ơn. Thái Thơ Thanh tính sao?
Bạch: Đệ-tử cũng hằng để ý lo lắng, nay có lịnh, Đệ tử hiệp cùng mấy Anh và
Hương-Thanh gắng làm cho thành việc.
Thiếp cám ơn Hiền Hữu. Vậy từ đây: Trường Qui Thiện giao cho Cửu Trùng-Đài,
Hộ-Pháp và Văn Pháp.
Thăng
QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
Ngày 15-7 Tân Mùi (dl 28-8-1931)
Trùm đời TRUNG NGHĨA chúng
kiêng oai,
Trời khiến thay quyền Khổng
Thánh nay.
Xưa vốn phò Lưu sau dực Hớn,
Phật phong chơn tể thưởng
Kim bài.
Này chư Nhu;
Kể từ Đại-Đạo mới hoằng
khai,
Lão chịu ra truyền mối
Thánh nhai.
Chỉ một tâm TRUNG nên đặng
hưởng,
Xuân Thu nghĩa khí trọn
lòng ngay.
Đạo vốn không hai, mà nay cả nơi đều nghịch lẫn, mong tiếm giả quyền, làm
cho Đạo chịu chinh nghiêng. Ta hỏi chư Nhu: Đức Chí-Tôn mở Đạo dạy cả thảy con
của Đức Chí-Tôn đặng qui hiệp nhau và làm cho thân ái nhau hay là lập đặng tàn
hại nhau?
Vậy chớ lập quyền hành đặng dìu dắt hay là lập đặng áp chế phân phái dứt bẩn
nhau? Có phải lập ra cho có kẻ lớn dìu kẻ nhỏ ra làm đạo-đức để gương cho hậu tấn
chăng? Mà chư Nhu chẳng mong tầm yếu lý của Đạo vô vi, lấy trọn tinh thần mà
hành Đạo thì lý yếu chư Nhu làm sao rõ đặng?
Vậy Ta khuyên Đạo Hữu lưỡng phái khá tương thân tương ái mà dìu dắt cho
nhau.
NỮ PHÁI! Ta quá buồn, vỉ cả Cung Diêu-Trì mong chế sửa Đức tin cho Nữ phái,
mà đã cả năm không dời tục tánh đặng giồi ánh Thiêng-liêng.
TA rất ưu phiền
Sanh trong đời cuối
May quá đỗi may
Ra dìu con dại
Khuyên gái tiết trinh
Năm giềng nắm chặc
Trai hiếu gái trinh
Thiêng-liêng một thể
Cứ kẻ Nữ nhi
Mặc dầu hay dở
Cuộc thế ước mơ
Bơ-ngơ biển khổ
Xét thử đường mô
Hư vô tầm đến
Cho nên tài gái
Phải lập chí trai
Chớ có lợt phai
Đừng cho sai nhé!
Cho Chư Hiền-Muội
Gặp buổi Đạo khai,
Có Đức CAO-ĐÀI.
Khuyên trai hiếu ngãi.
Ba mối khá gìn
Làm cho đáng mặt
Ở chốn Thiên đình
Xuống phàm làm tệ.
Chẳng biết bầu bì.
Đường Tiên bợ ngợ
Dạ thiệt hẫng hờ
Trong lòng chẳng cố
Đặng lánh mê đồ
Đức tánh vững bền,
Khuyên khuyên nhau phải
Đôi lời TA dạy.
Rán giữ dạ hoài,
Ta mừng chư Đạo-Hữu lưỡng
phái
Thăng.
CHƯƠNG III
TIỂU SỬ CỦA
NỮ ĐẦU-SƯ CHÁNH-VỊ NGUYỄN HƯƠNG HIẾU
(1887-1971)
1 - Tiểu-sử:
Thế danh: Nguyễn Hương Hiếu (bên nội đặt tên Hương, bên ngoại đặt tên Hiếu)
Thân phụ: Nguyễn Văn Niệm.
Thân Mẫu: Trần Thị Huệ
Ngày và nơi sanh: năm Đinh-Hợi (1886)
Rue Paulbert Dakao Sài-gòn.
Năm 7 tuổi: Học
trường Bà Phước (Nhà Trắng ) Sài-gòn.
Năm 17 tuổi kết
duyên cùng Ông Cao-Quỳnh-Cư (Sau là Thượng-Phẩm Đạo
Cao-Đài) ở làng Hiệp-ninh Tây ninh.
Năm 1925 chung sống ở đường Bourdais số 184 Sài-gòn, hiện là đường Calmette
Năm 23 tuổi,
sinh một trai là Cao-Quỳnh-An.
Năm 35 tuổi gặp
thời kỳ Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ.
Bà là Nữ thơ ký đầu tiên về việc chép Thánh giáo Cao-Đài.
Đêm 24-12-1925 Đức
AĂÂ chính thức cho biết Ngài là Giáo-Chủ Đại-Đạo, là Ngọc Hoàng Thượng-Đế giáo Đạo Nam phương, là Đấng Cao-Đài Tiên Ông.
Tháng 3 năm 1926 Đức Chí-Tôn giáng Cơ dạy may Thiên phục cho Chức-sắc Lưỡng
đài.
Ngày 30-10-1926 Đức Chí-Tôn dạy phải về Chùa Gò-Kén Tây ninh theo về Đại-Đạo.
Ngày 14 tháng giêng Đinh-Mão (dl 15-02-1927) Đức Bà được thọ Thiên ân phẩm
Giáo-Sư (Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm phò loan)
Ngày 23-03-1927 Hội-Thánh trả Chùa Từ-Lâm dời về Long thành.
Năm 1928, Đạo bị khảo đảo, Ông Bà cùng về Thảo xá Hiền Cung.
Tháng 3 năm 1929 Đức Thượng-Phẩm qui Tiên
Năm 1930 Bà bắt thăm hành Đạo tại Sa-đéc kiêm luôn Thủ Dầu một, trong ba
năm (1930-1933).
1934: Hội-Thánh bổ cai quản Giáo nhi và Đồng nhi
1935 Thăng phẩm Phối sư hành Đạo tại Tòa-Thánh Cai quản nhà may Linh Đức tới
năm 1941 bị đảo chánh.
1942 Bà xuống Sai-gòn hiệp với Chức sắc Nam Nữ lo cơ Phục quốc.
1946: Đạo phục hưng, Bà về Tòa Thánh cai quản ba Viện: Hòa, Lại, Lễ được
thăng Chánh Phối Sư (21-9 Bính Tuất – 15-10-1946)
Ngày 24-10 Mậu-Thân (dl 13-12-1968) Bà vinh thăng Đầu-Sư Nữ phái.
Ngày 11-05 nhuần Tân Hợi (dl 02-7-1971) Bà đăng Tiên tại Tòa Thánh, hưởng
thọ 85 tuổi.
2 - BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG
NGHIỆP
(Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn-Hương-Hiếu,
đăng Tiên ngày 11 tháng 5 nhuần năm Tân Hợi (dl 3-7-1971)
do Ngài Hiến Pháp Trương-Hữu-Đức Quyền Chưởng-Quản HTĐ
đọc tại Đền Thánh vào lúc 9 giờ 26 phút ngày 14-5 nhuần-Tân Hợi.)
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Kính thưa Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng Đài và Phước-Thiện.
Kính thưa chư Chức sắc, Chức việc và toàn đạo Nam Nữ.
Kính thưa quí vị.
Đức Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn-Hương-Hiếu đã qui Thiên ngày 11 tháng 5 nhuần năm
Tân-Hợi (dl 3-7-1971) hồi 14 giờ tại Nữ Đầu-Sư-Đường, Tòa-Thánh Tây-Ninh, hưởng
thọ 85 tuổi. Sau một thời gian ngọa bịnh tại bệnh viện Đồn Đất (Grall) Sài-gòn.
Trước khi tuyên dương công nghiệp của Đức Bà, tôi xin trân trọng lược thuật
Tiểu-sử của Đức Bà như sau: Bà Nguyễn Hương Hiếu sinh năm Đinh-Hợi (1886) tại
đường Paulbert, Đa kao Sài-gòn.
Con của Cụ Nguyễn văn Niệm và Cụ Bà Trần thị Huệ (đều chết).
Khi mới sanh, Bà Nội muốn tỏ dấu một nhà đạo đức nên thể theo tên của cha
là Niệm, đặt tên bà là Nguyễn thị Hương. Còn Bà Ngoại lại đặt tên là Hiếu. Muốn
vừa lòng cả Nội Ngoại đôi bên, nên khi ở bên Nội thì gọi tên Hương, khi về bên
Ngoại thì gọi tên là Hiếu.
Thân sinh quê quán tại Cần Thơ, thân mẫu ở miền Gia Định
Khi Bà vừa lên 7 tuổi, được thân mẫu cho vào học trường Bà Phước (Nhà Trắng)
Sài gòn. Đến năm 17 tuổi, thân mẫu cho Bà học Nữ Công, đến năm 21 tuổi thì Bà
sánh duyên cùng Ông Cao-Quỳnh-Cư ở làng Hiệp Ninh (Tây Ninh). Năm 23 tuổi, Bà hạ
sanh được một trai, đặt tên là Cao Quỳnh An.
Phần Đạo: Đến năm Bà 38 tuổi, gặp thời kỳ Đức Chí Tôn đến khai Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ. Một sự ngẫu nhiên của cơ huyền bí mà trước kia 3 Ông: Hộ-Pháp,
Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, có tánh cách Xây bàn cầu vong linh để làm thi tiêu
khiển, chẳng ngờ Đức Chí-Tôn giáng khai cơ mở Đạo tại tư gia của Bà trước tiên,
ở đường Bourdais nhà số 134 Sài gòn (hiện giờ là đường Calmette). Năm 1925, mới
khai Đạo chưa có Thánh Thất, nên các Đấng dạy tạm dùng nhà Bà để thờ Đức
Chí-Tôn và Phật-Mẫu đặng có nơi cầu cơ dạy Đạo và dìu dắt nhơn sanh trong buổi
đầu là năm 1925. Đến năm 1926 mới mở Đạo lần tới Tân-Kim, Tân-Định, Lộc-Giang,
Thủ-Đức, trong buổi chưa có Ngọc cơ, còn xây bàn, các Đấng giáng dạy Đạo cho Đức
Hộ-Pháp, Đức Thượng-Phẩm, Đức Thượng-Sanh thì bàn gõ từ chữ. Đức Thượng-Phẩm đọc
chữ nào, Bà biên chữ nấy, rồi mới ghép lại cho thành văn. Vì thế mà lúc còn Xây
bàn, các Đấng giáng cho một bài thi bát cú hay tứ tuyệt hoặc dạy một việc gì,
khi chép xong rồi Bà mới ghép lại một bài thật lâu lắm, mà mỗi đêm mỗi cầu. Buổi
ấy, Bà làm Biên Tập Viên (Thơ ký) cho các Đấng, chép thi văn dạy Đạo rất cao kỳ
mầu nhiệm, ban đêm làm Thơ ký chép Thánh giáo, ban ngày lo nấu ăn tiếp đãi
khách thượng, trung, hạ lưu xa gần đến nhập môn.
Trong 2 năm: 1925, 1926, chưa có người để chép Thánh giáo, nên Bà được vừa làm
Thơ ký cho các Đấng, vừa đón tiếp nhơn sanh từ tháng 6 năm Ất Sửu (1925) đến
năm Bính-Dần (1926).
Hồi chưa có Tòa Thánh, còn trong buổi phôi thai, mỗi khi khai đàn thượng tượng
(thờ Thầy) đều có Bà theo chép Thánh giáo đem về cho Đức Thượng-Phẩm. Nên có
Thánh giáo Thầy kêu:
- Hiếu, viết rõ con.!
Buổi ấy, Bà quên gia đình và sản nghiệp, chỉ vui say theo đường Đạo do các
Đấng thường giáng dạy. Đến tháng 3 năm Bính-Dần (1926) Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy
Bà may Thiên phục cho Ông Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt, kế tiếp may Thiên phục
cho Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài. Hiệp-Thiên-Đài từ Thập nhị Thời
Quân, Cửu-Trùng-Đài từ phẩm Lễ Sanh trở lên. Bà nhớ lời Đức Chí-Tôn dạy:
- Hiếu ! Con lo may Thiên phục cho mấy anh con cho kịp ngày Đại Hội, là
ngày Khai Đạo tại Chùa Gò Kén (Từ Lâm Tự) vào ngày 14 tháng 10 năm Bính Dần,
dương lịch 18-11-1926).
Do đàn cơ ngày 24 tháng 10 năm Bính-Dần (1926), Đức Chí-Tôn giáng dạy Bà Hiếu
phải dọn đồ về Tây Ninh để chung lo việc Đạo cùng Cư, Tắc. Phải chịu khổ cực
cùng Thầy, vì việc đạo là trọng. Từ ấy, Bà nghe theo Thánh-giáo về hành đạo tại
Tây-Ninh.
Ngày khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm ngày 14 tháng 10 năm Bính-Dần tại Chùa
Từ-Lâm-Tự, Gò-Kén, Tây-Ninh. Cả thảy Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài, Cửu-Trùng Đài đều
về Chùa Gò-Kén, Bà đồng đi một lượt để làm công quả, ban ngày lo tiếp đãi Chức-sắc,
bổn đạo và quan khách ngoài đời, vì lúc sơ khai, không có công quả hiến thân,
nên Bà lo đi chợ nấu nướng đãi ăn, 5 giờ chiều là lo viết sớ cho Nữ-phái Nhập
môn, dạy 5 câu nguyện cho thuộc, đến giờ Tý tiến dẫn nhập môn vào hầu Đức Lý
Giáo-Tông. Vì buổi khai đạo chưa có Đồng-nhi, Bà phải làm Đồng nhi đọc kinh
cúng Tứ thời và đọc kinh mỗi khi cầu Cơ. Suốt 3 tháng, mỗi đêm đều như vậy. Bà
còn may Thiên phục cho Chức sắc, Chức việc tại Chùa Gò Kén. Qua ngày 14 tháng
Giêng Đinh Mão (dl 15-2-1927), Bà thọ phong Giáo-Sư Nữ-phái do đàn cơ Phong
Thánh kỳ I.
Đến ngày 20 tháng 2 năm Đinh Mão (dl 23-3-1927), Hội-Thánh trả Chùa Gò Kén
lại cho Ông Hòa Thượng Giác Hải, thỉnh cốt Đức Phật Thích Ca về đất mới mua là
nơi Tòa-Thánh ngày nay. (Buổi ấy gọi là Chùa mới).
Chỗ nầy, trước kia là một khu rừng rậm, chưa có nhà ai cho lắm, chỉ là nơi
rừng thiêng nước độc. Khi dọn về đất mới, Đức Hộ-Pháp, Đức Thượng-Phẩm và công
quả phá rừng không có nhà ở, nên tạm dùng cái nhà bò ở để nấu ăn cho công quả
phá rừng mỗi ngày, cho đến ngày cất Tòa Thánh tạm xong, mới có Chức sắc tựu về
đông đảo, tiếp cất Hậu Điện, Đông Lang, Tây Lang, Trù phòng...
Bà chỉ dẫn cho Trù phòng lo đi chợ mua nấu cho công quả ăn.
Năm Mậu-Thìn (1928) tạo tác vừa xong, bỗng đâu bão tố bất ngờ, Đức Cao Thượng-Phẩm
bị bạc đãi xô đuổi, Bà liền trở về Thảo-Xá Hiền-Cung. Trò đời gẫm lại buồn cười,
nhưng xét lại, xưa nay bực Chí Thánh cũng không thoát khỏi tuồng đời khinh bạc.
Đầu năm Kỷ Tỵ (1929) Đức Cao Thượng-Phẩm qui Thiên vào lúc 10 giờ ban mai
ngày mùng 1 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1929), Bà lo Tuần tự cho Đức Cao Thượng-Phẩm
xong xuôi rồi, Bà trở lại Tòa Thánh tiếp tục làm công quả nữa.
Năm Canh Ngũ (1930) Bà vâng lịnh Đức Lý Giáo-Tông bắt thăm đi hành đạo giữa
Bửu điện, Bà bắt trúng thăm đi hành đạo tỉnh Sa-Đéc, sau được lịnh Hội-Thánh
cho kiêm luôn tỉnh Thủ-Dầu-Một. Hành đạo hai tỉnh được 3 năm (từ năm 1930 đến
năm 1933), qua năm 1934 dạy Giáo Nhi một năm.
Năm Ất Hợi (1935) Bà được thăng phẩm Phối Sư, hành đạo tại Tòa Thánh chung
với Chức sắc Nữ phái, vừa tiếp tân, vừa dạy may Thiên phục cho Chức sắc Nam Nữ
tại Sở may Linh-Đức. Đến năm 1941, nền Đạo chinh nghiêng, bị nhà cầm quyền Pháp
bắt Chức sắc Đại Thiên Phong đày ra hải ngoại. Tòa-Thánh và các Thánh Thất bị
đóng cửa. Chức sắc phần nhiều tản lạc, Bà trở về Thảo Xá Hiền Cung.
Năm 1942, xuống Sài gòn hiệp tác Hãng Tàu để chung lo với anh em Chức sắc
Nam Nữ về mặt Đạo. Năm 1946, nền Đạo phục hưng, Chức sắc Nam và Nữ tựu về Tòa
Thánh. Hội-Thánh phân Cửu Viện Nam Nữ
Bà vâng Sắc Huấn số 30/SH ngày 21-9 Bính-Tuất (1946) lãnh chưởng quản 3 Viện:
Hòa, Lại, Lễ Nữ phái (còn ở phẩm Phối-Sư) cho đến ngày 16-11 Canh-Dần (dl
22-12-1950).
Đến năm Mậu Thân (1968), Thánh Lịnh số 01/TL ngày 24-10 Mậu-Thân (dl 13-12-1968)
thăng phẩm Đầu-Sư Chánh vị, Bà cầm quyền chưởng quản Cửu-Trùng-Đài Nữ phái cho
đến ngày nay.
Kính thưa quí vị,
Trên đây là phần Tiểu sử của Đức Bà Hương Hiếu. Về phần biểu dương công
nghiệp của Đức Bà, tôi trích lục sau đây Huấn từ của Đức Thượng-Sanh đọc tại Đền
Thánh ngày 18 tháng 11 Mậu Thân (1968) nhơn cuộc Lễ Tấn Phong Đức Bà lên phẩm Nữ
Đầu-Sư chánh vị. Thiết nghĩ bài nầy đầy đủ công nghiệp của Đức Bà, tôi có viết
thêm cũng bằng thừa.
"Kính thưa Hội-Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Hội-Thánh Phước
Thiện.
Kính thưa chư Chức sắc Lưỡng phái,
Hôm nay là ngày Lễ Tấn Phong Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu, thọ Thiên ân Đầu-Sư
Chánh vị Nữ phái do Thánh giáo của Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm tại Cung Đạo đêm
20 tháng 10 Mậu Thân (dl 9-12-1968).
Lễ lập thệ đã cử hành xong. Từ đây Chức sắc Nữ phái CTĐ đã có vị Đầu-Sư cầm
quyền điều khiển dìu dắt trên đường Thánh đức để trau giồi đạo hạnh, lập chí vị
tha cho xứng đáng là bậc Nữ Thánh nhơn trong cửa Đại Đạo.
Đức Lý Đại Tiên ban ân huệ cho Bà Nguyễn Hương Hiếu, thật là một sự thăng
thưởng công minh và một khích lệ lớn lao cho toàn thể Nữ phái.
Trên đường lập vị, Bà Nguyễn Hương Hiếu là Chức sắc Nữ phái duy nhất đã đạt
tới phẩm vị tối cao với một công nghiệp có thể nói là phi thường và một tinh thần
phục vụ đáng kính phục.
Bà là một tín đồ Cao Đài trước khi Đạo Cao Đài chính thức ra đời, một Nữ Chức
sắc đầu tiên đã có mặt trong đêm ba Ông: Cư, Tắc, Sang, họp nhau chơi Xây bàn
và tiếp xúc được với các chơn linh cõi Vô hình, tức là đêm 7 tháng 6 năm Ất Sửu
(dl 27-7-1925).
Từ đó về sau, đêm nào Bà cũng tiếp tay với ba vị kể trên để chép thi văn hoặc
những câu đàm thoại của các chơn linh. Đến sau có các Đấng Thiêng liêng giáng
cơ thì Bà lãnh phận sự Thơ ký chép Thánh ngôn và tiếp đãi quí khách trong hàng
trí thức tới lui ngày càng nhiều để tìm Đạo hoặc chứng kiến sự mầu nhiệm của Cơ
Bút.
Mỗi đêm Bà phải thức đặng hầu bút trong đàn cơ, xong rồi thì lo lắng bữa ăn
giải lao cho ba vị chủ nhân và quí khách là những bạn thân đến hầu Đàn, không
quản cực nhọc, không chút than phiền. Nhờ sự giúp sức về tinh thần của Bà mà cuộc
chơi xây bàn của ba Ông: Cư, Tắc, Sang, đã đưa tới giai đoạn sáng lập nền Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ hiện tại trong nước Việt-Nam.
Đức Thượng-Phẩm nhờ có người bạn đường đồng tâm nhứt trí như Bà mới phấn khởi
bỏ cả công danh sự nghiệp lo lập công tạo thành nền tảng của Đạo lúc ban sơ.
Sau ngày Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt gởi Tờ Khai Đạo cho quan Thống Đốc
Nam Kỳ, số người Nhập môn ngày càng thêm đông, công việc của Bà càng thêm nặng
nhọc. Mỗi đêm Bà phải ra công dạy mấy chục Đồng nhi đọc kinh cho đúng theo nhịp
và vâng theo lịnh của Đức Chí Tôn, Bà lãnh may Thiên phục cho tất cả Chức sắc
Hiệp Thiên và Cửu Trùng cho kịp ngày Khai Đạo tại Chùa Gò Kén.
May Thiên phục cho Chức sắc do theo Thánh giáo chỉ dạy, chẳng phải là một
việc dễ dàng mà ai cũng làm được, nhứt là lúc ban sơ không có một kiểu mẫu nào
sẵn, nhưng nhờ Bà có khiếu thông minh, nhờ tài Nữ công tinh xảo nên áo mão của
phẩm vị nào Bà cũng trù nghĩ may đúng theo Thánh ý của Đức Chí Tôn.
Kế đó, vâng theo Thánh giáo đêm 24 tháng 9 Bính Dần (1926), Bà phế đời cùng
Đức Cao Thượng-Phẩm về Chùa Từ Lâm Gò Kén, nhằm ngày Rằm tháng 10 Bính Dần, là
ngày thiết lễ Khai Đạo và ở luôn nơi đó cho tới hơn 3 tháng sau, Bà cùng Đức
Thượng-Phẩm lo dời Thánh Thất về đất mới làng Long Thành, Tây Ninh.
Bà góp sức chịu cực khổ lo việc Trù phòng nuôi công quả, tổng số hơn 300
người, do Đức Thượng-Phẩm điều khiển công cuộc phá rừng và lập Thánh Thất tạm
nơi vùng đất mới, tức là vùng Nội Ô Thánh địa hiện tại. Đầu tiên, Bà Nguyễn
Hương Hiếu thọ phong chức Giáo-Sư tại Từ Lâm Tự, Gò Kén, ngày 14-Giêng-Đinh Mão
(dl 15-2-1927). Đó là đàn cơ thứ nhứt phong thưởng Nữ phái.
Qua năm Ất Hợi (1935), Bà được thăng phẩm Phối-Sư, và đến ngày 16-11-Canh Dần
(1950), Bà được thăng phẩm Chánh Phối-Sư, chưởng quản Lại Viện, Lễ Viện và Hòa
Viện Nữ phái.
Bà hành quyền Chánh Phối Sư trong 18 năm, cho tới ngày 20-10 Mậu-Thân (dl
9-12-1968), Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm ban ân huệ cho Bà lên Nữ Đầu-Sư chánh vị.
Một đời tận tụy vì Đạo, vì chúng sanh, hơn 43 năm công nghiệp chịu bao
nhiêu gian lao khổ hạnh, chết về mặt đời, sống về mặt Đạo, trải qua nhiều cơn
thử thách cay nghiệt, Bà phải nát gan bấn ruột, trong lúc người Bạn đường đã
qui vị, đứa con trai độc nhất lại từ trần bên Pháp quốc, kế ít lâu Cụ thân mẫu
của Bà lại từ giã cõi đời.
Bà chỉ còn một mảnh thân bơ vơ cô độc trong tình cảnh não nùng bi đát, để rồi
khi nắng sớm mưa chiều, lúc canh tàn đêm lụn, Bà không thể ngăn được giọt thảm
đầm đìa để khóc chồng, khóc con và khóc mẹ.
Đường tử biệt đã làm cho tan nát cảnh gia đình, tất cả hy vọng đều đổ vỡ
thì người trong cuộc còn biết trông cậy vào đâu để sống còn trong những chuỗi
ngày sầu thảm.
Nhưng may thay, nhờ Bà đã thâm nhiễm mùi Đạo, tự biết muôn sự ở đời đều là
giả cuộc, kiếp phù sinh như cảnh hoa sớm nở tối tàn, nhứt là nhớ lời khuyên nhủ
của các vị Tiên Nữ Diêu-Trì-Cung, nên Bà tự an ủi lấp thảm vùi sầu, khuây khỏa
với tiếng kệ kinh, lấy chữ vị tha làm mục đích, tận tâm phục vụ, dắt dìu Nữ
phái, quyết lòng hiến cả tâm hồn lẫn xác thân cho nền Đại Đạo.
Vì vậy, sự ban thưởng phẩm vị Nữ Đầu-Sư cho Bà Nguyễn Hương Hiếu thật là
đúng chỗ và xứng đáng.
Kính thưa Hiền Tỷ Đầu-Sư,
Hiền Tỷ đã đạt đến cấp bậc tối cao của Nữ phái Cửu-Trùng-Đài, đó là một
vinh hạnh siêu nhiên mà không có một vinh hạnh nào ở cõi trần nầy sánh bằng. Hiền
Tỷ có quyền hưởng thụ và Hiền Tỷ nên vui mừng vì sự ban thưởng cho Hiền Tỷ là một
ân huệ thiêng liêng để đền đáp lại 43 năm công nghiệp và một tấm lòng son sắt
vì Đạo, thủy chung như nhứt.
Giờ đây đến lúc thi hành sứ mạng. Hễ phẩm vị càng cao thì trách nhiệm càng
nặng, phận sự càng khó khăn. Nếu không lấy Đạo làm trọng, lấy đức làm căn bản,
lấy lẽ công làm chuẩn thằng, lấy cương trực làm đường lối, thì không thể thực
hành đúng đắn phận sự.
Phải sợ Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu hơn sợ mích lòng người thì mới hẳn là
vô tư, còn vị nể cá nhân hơn tôn trọng Luật Đạo thì chẳng phải là tư cách của
người cầm quyền. Vì cán cân công bình một khi đã chênh lệch thì đạo đức không
còn tồn tại mà việc làm chỉ là tác động quá tầm thường của kẻ phàm tục.
Hiền Tỷ đã có nhiều kinh nghiệm trong trách vụ điều khiển Nữ phái, tôi tin
chắc là Hiền Tỷ có đủ sáng suốt nhận định để nâng cao đời sống tinh thần của Nữ
phái và giúp nên cho Đạo trong sứ mạng cao trọng mà Đức Lý Đại Tiên đã giao cho
Hiền Tỷ."
(Tới chỗ nầy là dứt phần trích trong Bài Huấn Từ của Đức Thượng-Sanh, tuyên
dương công nghiệp Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu, trong buổi lễ Tấn Phong Nữ Đầu-Sư
tại Tòa Thánh)
Kính thưa Quí vị,
Trước khi dứt lời, tôi xin thành tâm cầu nguyện Ơn Trên Đức Chí Tôn, Đức Phật
Mẫu cùng các Đấng Thiêng liêng ban phước lành cho toàn thể Hội-Thánh, Chức sắc,
Chức việc và toàn đạo Nam Nữ và xin chơn thành phân ưu cùng tang quyến.
Sau nữa, xin quí vị đồng cùng tôi dành đôi phút để tưởng niệm công đức của
Đức Bà Nữ Đầu-Sư Hương Hiếu.
NAM MÔ CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Hiến Pháp Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài
3 - Bài Thài hiến lễ Bà Nữ
Đầu-Sư Hương Hiếu:
Tu hành gắng chí lập dày
công,
Đến buổi chung qui hưởng
phước hồng.
Cửa Đạo gay go trường khổ
hạnh,
Đường Tiên nhàn rỗi bước
thong dong.
Lợi danh ví muốn cho đầy đủ,
Tội lỗi càng thêm nỗi chất
chồng.
Cuộc thế chẳng qua trò mộng
ảo,
Ngày về nhắm mắt nắm tay
không.
Bài thi nầy, Bà Nữ Đầu-Sư viết ra lúc còn mạnh khỏe và đang ở phẩm Nữ Chánh
Phối Sư và có đăng trong Quyển Đạo Sử I của Bà. Khi Bà đăng Tiên, Hội-Thánh lấy
bài thi nầy là Bài Thài hiến lễ.
4 - Nhận định về tài đức của
Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương-Hiếu:
Đối với nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương-Hiếu là vị Đệ nhị
Nữ-Đầu-Sư, sau Đệ nhứt Nữ Đầu-Sư là Bà Lâm-Hương-Thanh. Nhưng thực tế, thì Bà
Nguyễn Hương-Hiếu là vị Nữ Đầu-Sư đầu tiên ngự nơi Nữ Đầu-Sư-Đường, trực tiếp
Chưởng-quản Hội-Thánh Nữ-phái Cửu-Trùng-Đài, bởi vì Bà Lâm Hương Thanh khi qui
vị vẫn còn ở phẩm Nữ Chánh-Phối-Sư, sau đó mới được truy thăng lên phẩm Nữ Đầu-Sư.
Vì vậy hình ảnh của Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu đã in sâu vào tâm khảm của
nhiều thế hệ Chức sắc Nữ phái Cửu-Trùng-Đài.
Bà là Nữ Môn-đệ đầu tiên của Đức Chí-Tôn, là Thơ ký duy nhất của Đức
Chí-Tôn và các Đấng trong thời gian ban sơ nền đạo, từng theo quí Ngài: Đức Hộ-Pháp,
Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, chép Thánh ngôn Thánh giáo.
Bà và Đức Cao Thượng-Phẩm là hai người đầu tiên vâng lịnh Đức Chí-Tôn phế đời
hành Đạo.
Cuộc đời của Bà, Tiểu sử của Bà gắn liền với 46 năm Lịch-sử của Đạo Cao-Đài
kể từ năm 1925 đến năm 1971, tức là kể từ lúc nền Đạo còn tiềm ẩn, đến lúc sơ
khai, rồi phát triển, rồi bị chinh nghiêng do những khủng bố của bạo quyền, đến
lúc phát đạt vinh quang.
Bà là một Nữ Môn-đệ được Đức Chí-Tôn yêu ái nhứt. Bà có ghi lại nỗi lòng nhớ
nhung khi vắng nghe những lời dạy của Đức Chí-Tôn như sau:
Ở nhà Đức Cao Thượng-Phẩm mỗi ngày đêm Đức Chí-Tôn giáng dạy Đạo. Lúc nọ,
Thầy sai ba Ông đi trọn một tuần lễ, để Tôi ở nhà, nhớ Thầy, buồn quá! Tôi cúng
thời chiều, ngước lên Thiên Bàn khóc mà nói rằng: Con biết Thầy có ngự nơi
Thiên bàn, nhưng Thầy vắng một tuần rồi, con không được nghe lời Thầy dạy, con
nhớ quá!
Chiều Chúa nhựt, ba Ông về, tôi liền thắp đèn nhang cầu Thầy.
Thầy giáng nói với tôi như vầy :
- “Hiếu muốn cầu Thầy hơn ai hết.
Trước vốn yêu,
Nay cũng yêu,
Con gái út,
Có bao nhiêu,
Khuyên con lòng vậy mãi,
Cái mến con thương Thầy đều.”
5 - Lời Thầy dạy riêng Bà
Hương-Hiếu:
Thảo Xá Hiền Cung
Ngày 22 tháng 10 Kỷ Tỵ (21-11-1929)
THẦY
Các con,
Diêu! Biểu mẹ con đứng dậy, Thầy lấy làm đau đớn, Thầy thấy con chịu khổ hạnh
vì Thầy.
Hiếu! Con đã nhiều phen khóc lóc, Thầy thê thảm muôn phần, song thấy Thiên
cơ đã định, ngày hội hiệp con mới hiểu đặng mà đem dạ thương Thầy. Con ôi! Cái
tình thâm xác thịt là thế nào con định thử tình Thiêng Liêng ra bao nã?
Thầy chỉ đợi các con mà các con chẳng nhớ đến, Thầy vì nóng lòng gặp nhau
nên mỗi phen đặng thế Thầy tức cấp đem về, con đã rõ thấu cõi trần này biết bao
khổ não đày đọa các con. Thầy đến rước các con cũng bởi thấy khổ mà cầm lòng
không đặng.
Vậy con Hiếu! Con gắng suy nghĩ lời Thầy mà giải lòng phiền muộn, hầu lo thủ
Hiếu cho tròn, phận Mẹ già ác xế đầu non, con nhớ đến chồng con lo báo bổ.
Diêu! Con lo giải khuây Mẹ con, chi chi cũng có Thầy giúp sức, con nên gần
gũi với Em con cho thường, vì nó đã cầu nguyện Thầy như vậy.
Tắc cũng vậy nghe; đừng xao lãng tình đời mới ra người quán chúng, tập nhỏ
nhẹ Chị em chìu bụng, nên lấy mình làm thế Ðạo anh, như gặp cơn đói khó rách
lành, giữ trọn nghĩa để danh lưu hậu thế.
Diêu! Con đã đặng lời châu ngọc của Thầy gắng lo liệu với em giúp nó đặng
hoàn toàn trách nhiệm.
Tắc! Con khá nhớ rằng: Ðạo đức Thầy dạy dỗ từ thử đủ sức phục người, con chỉ
liệu phương hay mà định đoạt, Thầy chỉ cầu con để dạ thương yêu chúng nó kẻo tội
nghiệp. Con cũng nên giảm bớt tánh cang cường, lấy lòng Từ bi mà dạy dỗ nghe
con.Hiếu! Thằng An nó về Thầy không hay
chi hết.
Con ôi! Muốn đi thì đi, muốn về thì về Thầy không phương cản đặng, kệ kiếp nó. Thầy ban ơn cho các con.
Ngày 29-04-1928 (âl. 10-03-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy "Cuộc đời khó
khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị gì đâu. Hễ bài
càng khó thi đậu càng cao.
Phò loan: Hộ-Pháp - Thượng-Phẩm
Tòa Thánh, năm Mậu Thìn (1928).
THẦY
Các con.
Cư, Hiếu! Thầy thấy hai vợ chồng con chịu nhiều điều sầu thảm, Thầy mừng,
mà cái mừng ấy lại đổ ra chứa chan giọt lụy!
Ðường đời khúc mắc chông gai là lẽ Thiên cơ đã định vậy; cái nơi để cho cả
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến kiến công lập vị mình chẳng khác nào con buôn
trong buổi chợ. Cả sức lực, cả trí não tinh thần đều bị tiêu tán nơi ấy, vì vậy
nên mới mất chơn linh, thất ngôi diệt vị.
Bởi vậy cho nên nhiều bực Thánh, Thần, Tiên, Phật cam lòng thủ phận chẳng
dám vọng cầu đem thân vào cảnh đọa, nhưng mà chẳng tái kiếp thì như nhu sĩ trốn
thi, thế nào mong mỏi địa vị ra cao thượng.
Cuộc đời khó khăn tỉ như bài thi, nếu dễ thì ai cũng đặng, cuộc thi có ý vị
gì đâu. Hễ bài càng khó thì đậu càng cao, đậu cao mới ra có giá. Thầy tưởng như
nơi thế gian nầy có đứa con nào Thầy cưng trọng hơn hết thì là các con, nhưng
mà chẳng lẽ Thầy làm Giám-khảo lại cấp nấp bài thi lén cho mỗi đứa thì cái đậu
của các con có ra chi.
Lại nữa, Thầy biết trước rằng: Không cần giúp các con cũng dư sức đậu đặng,
thì dường ấy nếu Thầy giúp, tức hại thể diện các con, chớ không giờ phút nào Thầy
xa các con.
Các con chịu khổ hạnh là Thầy muốn vậy.
Nhà nghèo hạnh tốt ấy là gương treo dạy đời, các con khá bền lòng son sắt;
cái hạnh tốt là thang vạch ngút mây xanh; tâm thành là để giồi trau tánh tục;
lòng đạo đức quí hơn là miếng đỉnh chung; tố bần hàn tùy mình mà hành Ðạo, thì
công quả ấy trổi hơn hạng thượng lưu đó các con (Vì có người nghèo nên Thầy
giáng cơ dạy). Thăng
Ngày 28-06-1928 (âl. 11-05-Mậu Thìn): Ðức Chí Tôn dạy làm đườngcát trắng để
ví với sự khổ hạnh của Bà
Phò loan: Hộ-Pháp - Thượng-Phẩm
Tòa Thánh, Le 28 Juin 1928 (Ngày 11 tháng 5 Mậu Thìn)
THẦY
Các con.
Hiếu! Con nghe Thầy nói chuyện làm đường cát trắng con.
Thầy đố con biết làm sao cho đường đen ra trắng... Cười
Nghe con, nè làm theo nghe.!
Ðổ đường đen vào một cái hủ thọc lủng đít, rồi định chừng
cho vừa hai phần hủ đường, còn một phần hủ thì đổ bùn non cho tới miệng, đem
phơi nắng chừng một tuần thì là đường trở nên trắng; gạt lớp bùn đi thì con đặng
một thứ đường trắng phau phau rất ngon rất đẹp đó con.
Cái khổ hạnh của con giống như đường đó con à. Con có
biết Thầy khóc như con vậy chăng con?!
Nếu con không vậy làm sao đáng con cái của Thầy. Con chỉ nhớ rằng Thầy
thương con là đủ. Ðặng thế gian yêu mến ắt Thầy phải ghét, mà Thầy ghét con thì
còn chi con, con khá nhớ!
Thăng.
6 - KHỔ TÂM HÀNH ÐẠO - Nhiều
nỗi khổ tâm của Ðức Cao Thượng-Phẩm xin kể dưới đây
Xây Bàn (Sơ khởi)
Thời kỳ Trời đến cứu thế tại Nam phương (Ất Sửu 1925)
Ðức Cao Ðài giáng cơ dạy chúng tôi phế đời hành Ðạo. Hai tôi vâng lịnh liền
để trọn Đức-tin nơi Ðức Cao Ðài. Chúng tôi hết lòng hết dạ chỉ để tâm tôn sùng
Ðấng Thiêng Liêng là Ðức Chí-Tôn, nên hai tôi trọn vâng mạng lịnh phế đời hành
Ðạo hồi năm 1926 (liền bỏ sở làm).
Khai Ðạo ngày 14 tháng 10 Bính-Dần (18-11-1926) mà chúng tôi hành Ðạo hồi
năm Ất-Sửu (1925) nghĩa là Ðức Chí-Tôn khiến cho ba ông: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm,
Thượng-Sanh ham mộ Xây bàn đặng các Ðấng đến mở Ðạo.
Ông Cao-Quỳnh-Cư và Nguyễn-Thị-Hiếu vâng lịnh Chí-Tôn phế đời hành Ðạo, bỏ
sở làm và tém dẹp đồ đạc nhà cửa về một lượt với Chức Sắc cùng ngày 14-10-Bính
Dần (1926).
Hành Ðạo tại chùa Gò Kén hơn 3 tháng, trả chùa Từ-Lâm-Tự Gò Kén, nhằm ngày
20-02-Ðinh Mão (23-03-1927). Dọn đồ dời chùa, thỉnh chư Phật về đất mới mua,
hành Ðạo được 4 năm.... Bỗng đâu bão tố, đất bằng sóng dậy đưa tới làm khổ tâm
chúng tôi hết sức buồn là không thể trở ra đời làm việc nữa, hổ thẹn với anh em
làm việc trong sở, vì đã nhứt định phủi hết trần thế, công danh lợi lộc cũng chẳng
màng, quyết chí tu hành để làm con tế vật cho Ðức Chí-Tôn sai khiến mà thôi.
Nghĩ lại hồi còn rừng rậm sầm uất không ai về, để Ðức Cao-Thượng-Phẩm chỉ dẫn
người Miên phá rừng, đánh gốc, phá chồi, tạo tác Ðền-Thánh tạm, nào là Ðông
Lang, Tây Lang, Hậu Ðiện, nhà Thiên Phong, nhà ngang dãy dọc, nhà Dưỡng Lão,
nhà trường, nhà khách.... tạo đâu đó xong xuôi rồi Ðức Cao-Thượng-Phẩm bị một
trận khảo đảo khá dữ dội là: Có một nhóm người thiếu thương yêu gieo ác cảm hội
nhau dưới Thủ-Ðức, nước lã khuấy nên hồ, họ đồng lòng về Tòa-Thánh đuổi Ðức Cao
Thượng-Phẩm kỳ 24 giờ ra khỏi Tòa-Thánh, nếu không thì cột trong rừng bắn.
Làm Ðạo lúc mới phôi thai rất khổ sở trăm bề, có kẻ nghịch rình mò âm mưu với
nhau hợp lại xúi giục gây rối, làm loạn, họ đồng lòng với nhau đuổi hai vợ chồng
Thầy Tư (tức Cư và Hiếu).
Buồn cười... tuồng đời lạnh nhạt, thôi, họ dữ quá! Chúng tôi về Thảo-Xá Hiền-Cung
là nơi căn cội của Chí Tôn dạy cất trước, nên Thảo-Xá Hiền-Cung là gốc.
Thưa quý Ngài, hai tôi bị đại khảo, lớp thì bị người bạc đãi, xua đuổi, lớp
bị húng hiếp đủ điều, lớp thì khổ tâm trong gia đình, trong một năm chết ba người
yêu mến nhất của đời sống tôi: chồng mất tháng 3, con mất tháng 8, mẹ mất tháng
9 năm Kỷ Tỵ (1929).
Tôi bơ vơ có một mình, khóc thầm tủi lén, nước mắt không ráo, quên ăn bỏ ngủ.
Than ôi! Trong lúc tôi lâm nguy nhờ có Anh Cả, Ðức Thượng-Ðầu-Sư và Chị Lớn Thượng
vô ra khuyên lơn tôi. Anh Cả gởi thơ cho Nữ phái các làng kế cận hạt Tây- Ninh.
Anh Cả dạy Nữ phái tới lui thường thường chuyện vãn với tôi đặng giải khuây
trong cơn sầu não, thật không có bút mực nào cạn tỏ cho hết, nhiều nỗi đứt từ
đoạn ruột (hồi năm 1929) thật là mạch sầu khó nỗi cản ngăn, tâm chí không toan
dằn đặng lụy!!!
Thưa quý Ngài, bởi vì do theo luật của Tạo Hóa, hễ đàn bà liễu yếu đào thơ,
phải nương dựa dưới bóng của ông chồng, chi chi cũng nhờ ông chồng, những khi
đói rách, lành, muôn việc đều nhờ ông chồng mà thôi.
Trái lại trong gia đình chết hết, bỏ tôi ở lại có một mình, chỉ nương náu với
mẹ già như trái muồi chín cây (Bà Nội An).
Tôi cũng phụng sự cho má tôi đến năm 1946 má tôi qui liễu.
7 - Sách viết của Bà
Hương-Hiếu:
Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu có biên soạn 2 Bộ sách: Nữ Trung Bá Hạnh và
Đạo Sử.
- NỮ TRUNG BÁ HẠNH : cũng gống như sách Nữ Trung Tùng Phận của Tiên Nương
Đoàn thị Điểm, dùng để giáo dục Nữ phái, nhưng Bà viết theo thể văn xuôi, dẫn
giải và rập khuôn theo Nho giáo, nên có nhiều điểm còn khó khăn và cầu kỳ đối với
phụ nữ thời Tam Kỳ Phổ Độ.
- ĐẠO SỬ: gồm 2 quyển I và II
Quyển I nói về thời kỳ Xây Bàn năm Ất Sửu 1925.
Quyển II nói về giai đoạn lịch sử từ 1926 đến 1929.
Hai quyển Sử nầy rất quí báu, và rất được người sau
tin cậy, vì nó rất chơn thật, ghi lại rất chính xác
ngày tháng năm của các sự kiện quan trọng xảy ra buổi đầu tiên, khởi sự Đức Chí
Tôn xây dựng nền Đại Đạo.
Tháp Bà Nữ Đầu-Sư Hương-Hiếu
CHƯƠNG IV
TIỂU SỬ CỦA
NỮ ĐẦU-SƯ HỒ-HƯƠNG-LỰ
1 - BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP
Của Bà Nữ Đầu-Sư Hàm Phong Hồ Hương Lự, đăng Tiên ngày 22-11-Nhâm Tý (dl
27-12-1972) tại Nữ Đầu-Sư Đường, Tòa Thánh Tây Ninh.
Ngài Hiến Pháp, Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên Đài đọc Bản Tuyên Dương Công
Nghiệp nầy trước Liên đài đặt tại Đền-Thánh, vào lúc 9 giờ 17 phút ngày 24-11
Nhâm-Tý (dl 29-12-1972).
Kính thưa Hội-Thánh,
Kính chư Chức sắc Thiên phong, Chức việc và toàn đạo Nam Nữ,
Kính chư quí Quan Khách,
Nhân danh Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên Đài và Thống Quản Nữ phái Cửu-Trùng-Đài.Tôi
xin long trọng tuyên dương công trạng của Đức Bà Nữ Đầu-Sư Hồ Hương-Lự vừa qui
Thiên vào ngày 22 tháng 11 Nhâm Tý, hưởng thọ 95 tuổi.
Về phần Đời:
Bà Hồ Hương-Lự, tức Hồ-thị-Lự, sanh ngày 26-6 Mậu-Dần (1878) tại Ích Thạnh,
tổng Long Vĩnh Hạ (Gia Định), chồng là Ông Cao-hoằng-Ân, Thẩm Phán đầu tiên tại
Việt Nam.
Về phần Đạo:
Bà đắc phong phẩm Giáo-Sư tại Kiêm-Biên ngày rằm tháng 8 năm Đinh-Mão (dl
10-9-1927).
Rằm tháng 10 năm Ất-Hợi (dl 10-11-1935) Bà được thăng phẩm Phối-Sư.
Công nghiệp:
Năm Kỷ-Tỵ (1929) Bà về Tòa-Thánh giúp việc nơi Lương Viện. Qua năm Canh Ngọ
(1930) làm Quản lý Sở May và làm công quả nơi Nhà Khách.
Qua năm Canh Ngọ (1930) làm Quản lý Sở May và làm công quả nơi Nhà Khách.
Năm Nhâm-Thân (1932) lãnh Quản lý Lương-Viện, Trù phòng và thay mặt Bà Nữ
Chánh-Phối-Sư tại Tòa Thánh. Sau đó bắt thăm đi hành đạo, làm Đầu Họ Đạo Long
Xuyên.
Sau lại không người thế nơi Phòng Trù, nên Đức Quyền Giáo-Tông cho phép Ông
Giáo-Sư Thượng Sáng Thanh kiêm luôn Nữ phái.
Qua năm Bính Tý (1936), vì bịnh nên phải nghỉ một thời gian, khi bình phục
sức khỏe, Bà về giúp việc tại Nhà may Linh Đức.
Sau ngày Đức Phạm Hộ-Pháp cùng nhiều Chức sắc phái Nam vắng mặt, Bà vẫn ở tại
Tòa Thánh để chung lo Đạo với Hội-Thánh.
Trong lúc người Pháp chiếm Tòa Thánh, Nhà may Linh Đức phải dọn về nhà Bà
Giáo-Sư Hương Nhiều. Sau người Pháp lấy Linh Đức làm trường học thì nhà may phải
dọn về tiệm Minh Đức một thời gian rồi giải tán.
Trong lúc Đạo chinh nghiêng, chư Chức sắc cao cấp Nam phái không còn ai ở
nơi đây, chỉ còn mấy vị Lễ Sanh Nam Nữ chung lo giúp sức với Bà. Nhà cầm quyền
Pháp lại chở hết tài sản của Đạo, chỉ còn lại chút ít đồ của Hội-Thánh mà thôi.
Cuối năm Canh Thìn (1940), Bà phải về nhà dưỡng bịnh vì kém sức khỏe, mãi đến
tháng 4 năm Ất-Dậu (1945), Bà mới trở lại Tòa Thánh tiếp tục việc Đạo.
Lúc lưu lại Sài gòn, Bà ở tại nhà ái nữ của Bà là Cô Cao-Thị-Cường và con
trai là Cao-Hoài-Sang (tức Đức Cao Thượng-Sanh Hiệp-Thiên-Đài).
Năm Bính Dần (1926), Bà lên Kiêm Biên (Nam vang) trú ngụ tại nhà Trưởng-nam
của Bà là Cao-Đức Trọng (tức là Thời Quân Cao Tiếp Đạo Hiệp-Thiên-Đài).
Sau đó, Đức Hộ-Pháp lên mở Đạo tại Kim-Biên, độ Bà vào Đạo. Năm Ất-Mão
(1927), Bà trở về Sài gòn. Bà có 3 người con: 2 Nam và 1 Nữ, đều tu theo Đạo
Cao Đài. Con trưởng nam là Thời Quân Cao Tiếp Đạo, thứ nữ là Giáo-Sư Cao Hương
Cường, còn quí tử là Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang.
Cả nhà Bà đều nêu gương đạo hạnh làm vinh hiển tổ tông. Cái gương cang trực
của Bà cũng hiếm có. Bà dám đương đầu với bất cứ ai có manh tâm phản và chống đối
Đạo, chẳng hạn như vị Cựu Thủ Tướng Nguyễn Phan Long, có lần lên Tòa Thánh, mặc
âu phục vào tọa vị trên ngai tại Cung Đạo. Bà dõng dạc đứng ra phản đối và bắt
buộc Ông Long bằng lẽ đạo, phải rời khỏi chỗ tôn thờ. Về việc đạo, Bà thường
dùng lời ngay lẽ phải đối với tất cả mọi người. Phần đông trong Đạo đều mến phục
cái tánh cang trực của Bà. Tánh cang trực ấy, Bà áp dụng để xây dựng, chớ không
hề xúc phạm ai. Ấy là sự cẩn ngôn cẩn hạnh đó vậy.
Rất tiếc thay! Bà mất đi là Đạo mất một bậc lão thành đáng thương kính. Từ
đây, Bà vắng bóng, bổn đạo không còn được nghe lời cang trực đanh thép của một
lão mẫu nữa.
Kính thưa Hội-Thánh và chư quí vị,
Nỗi thương tiếc không bút mực nào tả xiết! Vậy trước khi dứt lời, tôi thành
tâm cầu nguyện Ơn Trên ban phước lành cho hương hồn Đức Bà Nữ Đầu-Sư Hồ Hương Lự
sớm tiêu diêu nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng Sống và xin chân thành phân ưu cùng
tang quyến.
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Hiến Pháp, Quyền Chưởng Quản
Hiệp-Thiên-Đài.
Bà Nữ Đầu-Sư Hàm Phong Hồ Hương Lự được đắc phong Nữ Đầu-Sư Hàm Phong cùng
một lượt với Bà Nữ Đầu-Sư Nguyễn Hương Hiếu, do đàn cơ tại Cung Đạo ngày 20-10
Mậu-Thân (dl 9-12-1968) Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm giáng cơ phong thưởng.
Sau đây là trích Bài Ai Điếu của Ngài Đầu-Sư Thượng Sáng Thanh, Chưởng quản
Cửu-Trùng-Đài Nam phái, đọc trước Liên-Đài của Cố Nữ Đầu-Sư Hàm Phong Hồ-Huơng-Lự
tại Bửu tháp lúc 10 giờ 30 ngày 26-11-Nhâm Tý.
Hỡi ôi ! Non Tiên ngút tỏa, biển Thánh mưa tuôn,
Cõi trần sớm hiệp rồi tan,
Kiếp sanh nào khác lá vàng
ngày thu.
Đạo Trời vạch áng mây mù,
Vun bồi Tiên vị công phu rạng
ngời.
Hồng quần tích đức chiều
mơi,
Nêu gương liệt nữ Việt Thường
soi chung.
Tuy Nữ giới, chí Nam nhi khó
sánh,
Dù sức hèn, trí quân tử
không đương.
Đức chánh chơn, thuật xử
thế thuần lương,
Hạnh liêm khiết, ôn hòa đều
khắc kỷ.
Trong cửa Đạo, dưới trên đồng
kính nễ,
Mặc sang hèn, yêu ái cả quần
sanh.
Nề nếp Nho phong lễ giáo
chặt gìn,
Khuôn viên Đại Đạo, Chơn
truyền vẹn giữ.
Hằng ta-bà hóa độ nhơn
sanh,
Đem Chánh giáo phổ truyền
khắp chốn.
Ôn lại quãng đời hành đạo từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Mậu Thân (1968), đắc
vị Nữ Đầu-Sư Hàm Phong tới giờ, 47 năm trường, trải qua biết bao phen cơ Đạo
thăng trầm, cố Hiền Tỷ vẫn một lòng son sắt, trung liệt với Đạo Trời, chẳng quản
gian lao, không sờn cay đắng, biết bao khổ hạnh truân chuyên, không bút mực nào
tả xiết, nhưng giữ vững đức tin chung lo nghiệp đạo đến ngày thoát xác, thật
đáng bậc tiền bối khả kính vậy.
Từ đây Tiên tục đôi đường,
Âm Dương cách trở,
Não nùng thay ! Toàn đạo
thở than,
Thống thiết bấy,Tín đồ
tang chế.
Chín mươi lăm tuổi,
công viên quả mãn,
Bốn mươi bảy năm, cửa Đạo vuông
tròn.
Niêm phong Thánh thể,
an ngự Liên đài,
Kỵ Long Mã đưa đường về
Cực Lạc.
Trên Tiên giới, Hiền Tỷ
vui vầy trăng gió,
Dạo khắp cùng cung điện
cảnh tiêu dao.
Nguyện Linh hồn an bước Tiên du,
Chầu Đế Khuyết nghìn thu toại hưởng.
Hỡi ôi ! Thương thay ! Tiếc
thay !
Hiển linh xin chứng.
Sau đây là Trích đoạn bài Điếu văn của Hội-Thánh Phước Thiện đọc tại Bửu
tháp Bà Nữ Đầu-Sư Hàm Phong Hồ Hương Lự, ngày 26-11-Nhâm Tý (dl 31-12-1972).
“Khi trước, chưa có Đạo Cao Đài, Đức Bà tùng Đạo Minh Sư. Nhờ có căn
nguyên, Đức Bà tìm thấy trong kinh điển có để lời tiên tri về sau sẽ có một mối
Đạo xuất thế :
CAO như Bắc Khuyết nhơn
chiêm ngưỡng,
ĐÀI tại Nam phương Đạo thống
truyền.
Nên khi Đức Chí Tôn đến khai nền Đại Đạo, Đức Bà liền nhập môn tùng giáo,
không chút ngờ vực, dâng hiến cả mảnh thân cho Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, để làm
con tế vật phụng sự cho Đạo pháp và nhơn sanh. Tuy phận liễu bồ nhược chất,
nhưng tài đức và đạo hạnh của Đức Bà khó ai sánh kịp.
Lúc còn ở ngoài thế, song thân định bề gia thất, nhưng chẳng may, nửa chừng
xuân gãy gánh cang thường, Đức Bà vẹn giữ mối đạo nhơn luân, thủ tiết thờ chồng
nuôi con, khổ nỗi vừa quán xuyến gia đình, vừa dưỡng nuôi, dạy dỗ đàn con thơ
nên người nên đạo, âu đó cũng là một cơ thử thách để cho Đức Bà rạng danh một
người hiền phụ và hiền mẫu nơi cõi Á Đông nầy.
Nhờ công ơn của Đức Bà vì nhơn sanh, tạo dựng cho nền Đại-Đạo, hai tay rường
cột để nâng gánh Đạo Trời, là Cố Cao Tiếp Đạo và Đức Cao Thượng-Sanh. Nếu Đức
Bà không phải là bậc Thiên tài thì cũng chưa hẳn đủ trí mưu mà thi thố cho đặng.
Lần dở trang sử cũ Trung Hoa, chúng ta thấy đời ca tụng Bà Mạnh Mẫu là Mẹ của
Thầy Mạnh Tử, khéo nuôi con và khéo dạy con nên bậc Chí Thánh.
Lấy công tâm để luận, đối với Bà Mạnh Mẫu, thì Đức Bà Nữ Đầu-Sư đây không
thua kém, mà lại có phần hơn. Cũng đồng phương pháp giáo hóa, nhưng Đức Bà đã
khéo gầy tạo cho con trở nên Chí Tiên, Chí Phật để phụng sự cho Đạo lẫn Đời.
Còn riêng phần Đức Bà đối với Thiên triều của Đức Chí Tôn, trên đường tu học,
Bà cũng đạt đến tột phẩm triều nghi của Nữ giới, đâu kém thua gì bực tu mi nam
tử.
Hân hạnh thay cho dân tộc Việt Nam ! Hữu phước thay cho nòi giống Việt Thường! Đã có bậc anh thư
làm rạng vẻ con Lạc cháu Hồng, không thẹn tuổi tên cùng quốc tế.
Một điều đặc biệt chúng ta đáng lưu ý, từ ngày xả thân hành đạo, Đức Bà được
Đức Chí Tôn trọng dụng để bảo thủ Chơn truyền, điểm tô nghiệp Đạo. Biết bao lần
thuyền Đạo gặp cơn giông tố bão bùng, bên ngoài cường quyền đàn áp, bên trong nội
bộ khảo đảo đủ điều, mỗi phen biến cố, Đức Bà đóng vai trò giúp một cánh tay đắc
lực cho Đức Hộ-Pháp khử tà diệt mỵ, bảo thủ Chơn truyền.
Ngoài sứ mạng kể trên, còn một điều quan trọng mà ai là tín đồ Đạo Cao Đài
cũng phải cúi đầu sùng kính ân nghĩa của Đức Bà. Để chứng minh, chúng tôi xin
trích ra một đoạn văn thuyết đạo, chính Đức Phạm Hộ-Pháp mô tả.
Đức Ngài nói:
"Bần đạo nhớ khi lên mở Đạo tại Kiêm-Biên năm 1927 đặng truyền giáo. Đức
Chí Tôn cho vị Phối Sư Hương Lự của chúng ta được thông công cùng Ngài, nhờ
nghe, nhờ thấy đặng truyền pháp cho Bần đạo”.
Quả thế, không ai dám phủ nhận chính nền Đạo Cao Đài ngày nay có đủ Chơn
truyền Bí pháp siêu độ chúng sanh, phần lớn là nhờ công ơn của Đức Bà, mà nhơn
loại được hưởng diễm phúc hồng ân của Đức Chí Tôn ban bố”
"Khi nọ, Đức Chí Tôn biểu Bần đạo lại kệ bàn viết có sắp một dãy nhựt
trình đặng rút ra 2 tờ, Ngài lại dạy Chị chúng ta là Bà Bảy Phối Sư (Hương Lự)
đứng bắt ấn, kế Bần đạo trải 2 tờ nhựt trình sau lưng mà Bà Chị vẫn không hay
biết. Tới lúc bắt ấn rồi, Bần đạo thưa: Đã trải rồi! Tức thì Bà Chị nhảy ngược
lại, đạp trên hai tờ nhựt trình. Bần đạo không hiểu nghĩa gì. Đức Chí Tôn biểu
coi hai chơn có đạp cái gì. Bần đạo coi chơn trước giở lên là hình Tưởng Giới
Thạch, đạp ngay trên đầu; còn chơn sau, Bần đạo biểu giở nhón lên, coi thấy
hình Roosevelt, Tổng Thống của nước Mỹ, đạp ngay lên ngực và miệng. Đức Chí Tôn
nói với Bần đạo rằng : Một ngày kia, Trung Hoa sẽ thờ phụng Đạo đáo để, còn nước
Mỹ sẽ lãnh trách nhiệm đi truyền giáo toàn cầu." (Trích thuyết đạo của Đức
Phạm Hộ-Pháp)
Bà Nữ Đầu-Sư Hàm Phong Hồ Hương Lự đăng Tiên vào lúc 1 giờ 40 phút (rạng
sáng) ngày 22-11 Nhâm Tý (dl 27-12-1972).
“Vào lúc 20 giờ 30 đêm 22-11-Nhâm Tý, Hội-Thánh thiết một đàn cơ tại
Giáo-Tông Đường, được Bà Bát Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ cho bài Thài để đồng
nhi tế điện Đức Bà Nữ Đầu-Sư Hàm Phong Hồ Hương Lự
2 - Bài Thài hiến lễ:
HƯƠNG thơm ngào ngạt Đạo kỳ
ba,
LỰ tỉnh hồng quần Thánh đức
ca.
NƯƠNG bóng từ bi dìu chủng
tộc,
NƯƠNG cơ thoát tục thức
con nhà.
Chúng tôi hầu chuyện cùng Bà Quyền Nữ Chánh Phối Sư Hương Tiếu, được bà kể
cho nghe về tánh đức cương nghị và nhất là lòng thương đàn em, không phân giai
cấp quí tiện.
Bà nói: Trong một đêm khuya thanh vắng, Đức Bà Nữ Đầu-Sư chạnh lòng nhớ đến
quí tử là Cố Đức Thượng-Sanh Cao hoài Sang, bâng khuâng lo cho đại nghiệp Đạo,
Đức Bà tâm sự:
“Chồng chết, con (là Thượng-Sanh) vừa mới 9 tuổi, rán nuôi con cho ăn học
thành thân, thi đậu, đi làm việc, cũng như Cao Tiếp Đạo. Nay bỏ tôi, nó qui hồi
Thiên cảnh hết rồi. Còn đứa con gái là Ba Cường, nay đau mai mạnh. Chớ chi Đức
Chí Tôn đem tôi về thế cho Thượng-Sanh ở lại lo cho nhơn sanh, tôi già rồi, có
sống cũng không ích chi cho Đạo”
(Trích bài Tường Thuật Thánh Tang của Bà Nữ Đầu-Sư Hàm Phong Hồ Hương Lự,
đăng trong báo Thông Tin số 68 trang 20).
Sự Đồng tâm hiệp lực trong cơ Đạo theo như lời dạy của Đức Lê-văn-Trung như
vầy:
“Là để dìu-dắt nhau, nâng đỡ nhau trong đường Đạo và đường Đời, anh lớn chỉ
biểu cho em nhỏ, người rõ đạo bày vẽ cho kẻ chưa thông; người nầy lầm lỗi kẻ
kia chỉ giùm; dưới vui tuân lệnh trên dạy; trên không hổ cho dưới bày; lấy lẽ
hòa nhau, trên khiêm dưới kỉnh; vui-vẻ chung nhau, buồn thảm sớt nhau, giao
lưng đâu cật mà bồi đấp mối Đạo Trời cho rõ là con một cha, chung thờ một chủ
nghĩa.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét