Ngưỡng nguyện:
“Vô trung Từ-Phụ: phát hạ
hồng ân, quảng thi Đại đức ban tứ chư vị NỮ ĐẦU-SƯ cao thăng Thiên-vị, thường
giáng oai linh giáo-hoá chư Đệ-tử trí não quang minh, tinh-thần mẫn huệ, thiện
năng kế chí thuật sự thật hành chánh giáo phổ-hoá nhơn sanh, định tâm giác ngộ,
hoà-ái tương thân, Đại
-Đồng huynh đệ, phục hồi Thượng cổ Thánh đức thuần lương. Cộng hưởng thạnh trị thiên hạ thái-bình thanh nhàn hạnh phúc”.
-Đồng huynh đệ, phục hồi Thượng cổ Thánh đức thuần lương. Cộng hưởng thạnh trị thiên hạ thái-bình thanh nhàn hạnh phúc”.
THAY LỜI TỰA
Bằng tất cả tấm lòng thành
kính dâng lên quí Bà, vì đây là tấm gương khổ hạnh, kiên trì để Phụng sự đại
nghiệp của Đức Chí-Tôn. Nền Đại-Đạo còn, danh tiếng quí Bà vẫn còn mãi với thời
gian.
Quí Bà là hiện thân của
Đức-tin tuyệt đối. Nếu ngày xưa Chúa ao-ước mỗi CON CHIÊN của Chúa có được
Đức-tin bằng hột mè, thì hôm nay đây trong nền Đại-Đạo về phía Nữ phái, Đức-Tin
của quí Bà là hình ảnh của núi Bà Đen làm biểu tượng cho cái nhãn-giới siêu
tuyệt, để xây nền móng vững chắc cho Tòa Cao-Đài thêm nguy-nga tráng lệ. Và
chính các Bà đã bắc một chiếc thang vô ngằn để bước lên con đường đạo-đức mà
vào cảnh Hằng sinh.
1 - Nhất là Đức Bà Lâm Hương-Thanh:
Bà đã dày công khổ hạnh
với Đạo nghiệp, đã đỡ nâng cho Nữ-phái được dự vào Bảng Thiên-phong, nếu không
thì oan nghiệt muôn đời mong chi rửa nỗi.
Cuộc đời của Bà đã thực
hiện trọn vẹn đức Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi. Thế nên ngày nay Bà đã thong
thả bước thang mây, nhưng vẫn “Đầy giỏ hoa lam chất ái tình” Danh tiếng hãy còn
ghi tạc với thời gian. Bức tượng Bà vẫn còn sừng-sững trước mặt tiền Đền-Thánh,
đứng thẳng trước lầu trống Lôi-Âm đón rước khách muôn phương về với cội nguồn
đạo-đức, về với thâm tình của Đại-Từ-Phụ.
Bài thài để Tế điện cho Bà
sau khi cỗi xác trần, 63 năm tuổi thọ vẫn còn đây.
Bài thài hiến Lễ:
Đầy giỏ Hoa lam chất ái-tình,
Y theo mặt Luật của khuôn linh.
Thử căn linh thể nơi phàm tục,
Mới hưởng hồng-ân chốn Ngọc đình.
Nam-Hải là bờ ao Thất Bửu,
Tây-ninh nền Tổ quán Tam Thanh.
Thuyền Từ trở lại lìa sông Lệ,
Nhớ Bạn chơn
mây gởi tấc thành.
Nữ Đầu-Sư Lâm
Hương-Thanh
Bà là vị Nữ Đầu-Sư đầu
tiên của nền Đại-Đạo được Đức Chí-Tôn ân-tứ Truy-phong.
2 - Vị Nữ Đầu-Sư thứ nhì là Bà Hương-Hiếu:
Bà cũng là bậc đại công
với nghiệp Đạo. Bà là Nữ Đầu-Sư chánh vị. Cuộc trần ai gió bụi này cũng giữ chân
Bà được 85 tuổi thọ, để cùng chia vui sớt nhọc với Đại nghiệp Đạo, cùng tô điểm
công đức thêm cao dày.
Nếu Đức Bà Lâm Hương-Thanh
nặng phần lo-lắng về phương diện tổng thể như: xuất tiền của mua đất cất Đền
Thánh, ngoại giao với Chánh phủ Pháp để hợp thức hóa giấy tờ cho bổn Đạo; Thì
Bà Hương-Hiếu lại nặng phần ghi chép Thánh-giáo để lưu lại cho hậu thế một Bộ
Thiên Thơ quí giá (tức là Thánh Ngôn Hiệp-Tuyển), Bà lo việc nấu nướng đãi
khách thập phương đến Nhập môn cầu Đạo. Nói chung từ cái ăn, cái ở, cái sống
của nhơn sanh bá tánh buổi đầu tiên, đều một tay Bà quán xuyến. Rồi sau đó đến
việc may Đạo-phục cho Chức sắc Thiên phong cũng một tay Bà đảm trách. Khó là từ
buổi sơ khai không một ai biết được mẫu mực về áo-mão như thế nào, mà nhờ khiếu
thông minh Bà tự may đúng như Thiêng liêng định. Việc nào khó quá thì có Đức
Chí-Tôn chỉ vẽ. Dường như Thiêng liêng cũng chuẩn bị cho mỗi người một năng
khiếu đặc biệt để chờ ngày cần dùng đến trong giai đoạn này..
Với một tinh thần đạo-đức
cao độ, một ý-chí phi thường, một đức tin vững chắc, quí Bà mới kiên trì phụng
sự đạo nghiệp của Đức Chí-Tôn dường ấy, nhưng cũng phải có sự thiết thạch, can
trường quí Bà cùng họp sức với các Đấng đầu công cùng chung vai chống đỡ Đạo
quyền trong buổi mà lòng người chưa biết Đạo. May thay! Đức Chí-Tôn mở Đạo.
Thật là vinh hạnh cho Nữ phái vô cùng!
Lúc sinh thời Bà đã tự tay
viết Tiểu sử cho mình, hầu phút qui Thiên dùng làm bài Tế điện.
Bài thài hiến Lễ:
Tu hành gắng chí lập dày công,
Đến buổi chung qui hưởng phước hồng.
Cửa Đạo gay-go trường khổ hạnh,
Đường Tiên nhàn rỗi bước thong dong.
Lợi danh ví muốn cho đầy đủ,
Tội-lỗi càng thêm nỗi chất chồng.
Cuộc thế chẳng qua trò mộng ảo,
Ngày về nhắm mắt nắm tay không!
Nữ Đầu-Sư Nguyễn
Hương Hiếu
Bà đã thấy trước cái KHÔNG
của cuộc thế trần nên Bà đã gầy nên cái CÓ của sự vĩnh cữu trường tồn, thiên
niên bất diệt, hầu “Hồn trời hóa trở về Thiên cảnh” khi “Xác đất sanh đến lịnh
phục hồi”.
Bà đã trở về với cảnh Hằng
sinh còn lưu lại tấm gương cho Nữ phái cao đẹp vô cùng.
Cái hạnh phúc nhất của hai
Vị Nữ Đầu-Sư là trên bước gian khó của Đạo buối ban sơ là nhờ có Đấng lang quân
đỡ đần, an ủi, nêu chí cả, dẫn bước đường, đều là những bậc Đại-công của nền
Đại-Đạo.
Người Bạn đời của Bà Lâm
Ngọc Thanh là Ông Nguyễn ngọc Thơ, là Vị Đầu-Sư phái Thái: trợ duyên, trợ lực
cho Bà. Ngày trước nhơn sanh quí trọng, gọi là Bà Lớn
Riêng Bà Nguyễn Hương-Hiếu
thì có ông Cao Quỳnh Cư là Đức Thượng-Phẩm Hiệp-Thiên Đài, trợ Thần.
Nhờ tất cả đều chung gánh
Đạo Đời tương đắc nên công trình mới đôi đàng vẹn vẻ. Thật là “Đồng vợ đồng
chồng tát bể Đông cũng cạn”.
3 - Một vị thứ ba: Bà Nữ Đầu-Sư Hồ Hương-Lự:
Phải là một bậc nữ lưu
tuyệt vời, chính nơi đây là lò đạo đức. Nơi Bà đã sản xuất ra những bậc
tài-hiền cho nền Đại-Đạo hầu chống vững bước gian-nan nguy khó buổi ban đầu
“Vạn sự khởi đầu nan” mà!. Các Ngài đã chung sức cùng nhau đưa chiếc thuyền
Đại-Đạo đến bến vinh quang như ngày nay.
Cả gia đình của Bà thật đã
nêu cao tấm gương đạo đức, chẳng những rạng danh Tông tổ Cao-đường quí tộc, mà
còn chói sáng danh Đại-Đạo đến thất ức niên.
Phút đăng Tiên của Bà được
Hội-Thánh thiết đàn cầu Cơ, Bà Bát Nương giáng cho Bài thài để tế điện. Bà là
vị Nữ Đầu-Sư Hàm phong vì tuổi Bà đã gần thế kỷ.
Bài thài hiến Lễ:
HƯƠNG thơm ngào-ngạt Đạo Kỳ ba,
LỰ tỉnh hồng quần Thánh đức ca.
NƯƠNG bóng Từ-bi dìu chủng tộc,
NƯƠNG Cơ thoát tục thức con nhà.
Hương-Lự Nương
Nương
Bà đã chuẩn bị cho bước
đăng trình 95 tuổi thọ, hầu có đủ thời gian mà lo cho Đạo nghiệp trọn cả gia
đình với tấc lòng Hiến dâng và Phụng-sự.
Thật “Gỗ mục lố hình trầm,
non mòn khoe báu ngọc”. Tam vị Nữ Đầu-Sư của nền Đại-Đạo trong thời Tịch Đạo
THANH HƯƠNG đã tỏa hương thơm ngào-ngạt khiến cho toàn Nữ phái Cao-Đài phải
chiêm ngưỡng tấm gương cao quí tiết liệt Nữ-lưu, đã từng lấy:
Phấn
son tô điểm sơn hà,
Làm
cho rõ mặt đàn bà Việt-Nam.
Người Nữ phái Cao-Đài sẽ nhìn vào Đại công của quí Bà để học lấy một bài
học có đủ đầy hạnh đức:
- Công Dung Ngôn Hạnh, Tứ Đức vẹn toàn.
- Tài nuôi dạy con, thật xứng đáng làm nhơn viên của Đức
Phật-Mẫu, kế chí Mẹ Hiền hầu dạy dỗ đám hậu sinh để làm dân Thánh-Đức trong
buổi khai ngươn chuyển thế này. Ây là Đạo Tam tùng:
- Tại gia tùng phụ
- Xuất giá tùng phu
- Phu tử tùng tử.
Và Tứ đức: Công, Dung,
Ngôn, Hạnh.
Có như thế đó mới không
uổng một kiếp sanh may duyên gặp Đạo:
Dễ gì lộn kiếp đặng làm người,
May đặng làm người chớ dễ-duôi.
Lành dữ hai đường vừa ý chọn,
Lành như tòng dữ tợ hoa tươi.
Giới Tâm Kinh;
Nếu không dễ duôi thì xin
đừng để cho “lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo”. Thầy đã ân cần nhắc nhở rằng:
“Cơ lập Đạo là nhiệm-mầu
vô giá: Biết Đạo, Biết Ta, Biết người, Biết thế, Biết thời, Biết vinh hư, Biết
tồn vong ưu liệt, rồi mới có Biết hổ mặt thẹn lòng, Biết sự thế là trò chơi,
Biết tuồng đời là bể khổ, Biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa; Biết nhục vinh mà
day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời còn lắm giành xé, hại lẫn
nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật” (TNII)
Hỡi Các bạn Nữ phái, túi
kinh luân Bà Đoàn đã đến trao tận tay người Nữ phái Cao-Đài với bao gương sống
Đạo tạo Đời đầy ước vọng:
Dụng văn hóa trau-tria Nữ phách,
Lấy Kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm thư giúp sức gươm Hùng,
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.
Nữ Trung Tùng Phận
Đức Chí-Tôn cùng hân hoan
với niềm tin cho đám con chí hiếu của Người mà tung hô lên rằng:
“VINH DIỆU THAY CHO NỮ
PHÁI!”
Thưa Các Bạn Nữ phái,
Đây là bước thang mây để
bước lên con đường Hằng sống. Đây cũng là cơ hội ngàn năm một thuở, “Bá thiên
vạn kiếp nan tao ngộ” cũng là đây.
Xin trao nhau làm vật
“Trấn tâm chi bửu”.
Tây Ninh, khởi
Soạn: Thu phân Đinh-Sửu 1997
Nữ Soạn giả.
NGUYÊN THỦY
CHƯƠNG I
PHẦN
ĐẠI CƯƠNG
Từ ngày Khai Ðạo năm 1926
đến năm 1975, Ðạo Cao Ðài có 3 vị Nữ Ðầu-Sư làm đầu Hội-Thánh Nữ-phái.
1 - Nữ Ðầu-Sư Hương Thanh. Thế
danh là Lâm Ngọc Thanh (1874-1937) Bà là vị Nữ Đầu-Sư đầu tiên của Ðạo Cao Ðài,
nhưng là hàng truy phong, được Hội-Thánh đúc tượng nơi mặt tiền Đền-Thánh, phía
bên Nữ phái. Bức tượng này được đặt trên lầu trống. Đối diện là lầu chuông là
bức tượng của Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn-Trung.
2 - Nữ Ðầu-Sư Hương Hiếu.
Thế danh là Nguyễn Thị Hiếu (1887-1971) Bà cũng là bậc tiền bối, lập công ngay
từ thuở khởi khai Đại-Đạo.
Bà được Thiên phong Chánh
vị Nữ Ðầu-Sư ngày 24-10 Mậu-Thân (dl 13-12-1968).
3 - Nữ Ðầu-Sư Hàm Phong
Hương Lự. Thế danh Hồ Thị Lự (1878-1972) Bà đắc phong Nữ Ðầu-Sư Hàm phẩm trong
một đàn cơ tại Cung Ðạo cùng một lượt với Bà Hương Hiếu ngày 24-10 Mậu-Thân (dl
13-12-1968). Chính Bà đã tạo nên những người con làm rường cột cho nền Đại-Đạo.
Tức nhiên Bà là thân-mẫu của:
1 - Ngài Cao-Đức Trọng. Tiếp-Đạo Hiệp-Thiên-Đài
2 - Bà Cao
Hương-Cường Nữ Giáo-Sư Cửu-Trùng-Đài
3 - Ngài Cao-Hoài-Sang. Thượng-Sanh Hiệp-Thiên-Đài
B - Lập Pháp Chánh Truyền
cho Nữ phái.
Trước khi bàn đến việc lập
Pháp-Chánh-Truyền Nữ phái, nên nói qua lý-do vì sao Đức Chí-Tôn không lập mà để
cho Đức Lý đứng ra lập?
(Trích y Thánh-ngôn của Giáo-Tông Lý
Thái-Bạch)
Nữ-phái vốn của Lý
Giáo-Tông lập thành.
Hộ-Pháp nhắc lại lời Thầy
nói cùng Chánh-Phối-Sư HƯƠNG-THANH rằng: Muốn phế Nữ-phái, song con cũng đồng
con, hễ bao nhiêu Nam tức cũng bao nhiêu Nữ; Nam Nữ vốn như nhau, nên Thầy đến
phong cho Nữ-phái buổi lập Pháp-Chánh-Truyền, chẳng hiểu có điều chi huyền-bí
với Thầy cùng Ngọc-Hư-Cung nên Thầy mới đành lòng nói ra lời ấy, rồi lại cam
lòng để cho Đức Lý Giáo-Tông đứng lập đặng tránh cho khỏi luật-lệ Thiên điều
hay chăng? Hễ càng suy-nghĩ lại càng thêm sợ hằng ngày.
Xem lại Nữ-phái không biết
trau-giồi trí thức đặng làm trách-nhậm cho xứng vị mình, thì lại càng âu-lo hơn
nữa!
Chính mình Cao Thượng-Phẩm
mới giáng cơ nói rằng nhờ Ngài cầu xin tha-thứ cho Nữ-phái nơi Ngọc-Hư, bằng
chẳng thì đã bị phế; xin chư Đạo-Tỷ để dạ lo lấy phận mình.
Nữ phái phải tùng Đầu-Sư
Nữ phái song Đầu-Sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-pháp.
PCT-“Hội-Thánh nghe Lão
ban sắc phục cho Nữ phái: Nghe và từ đây xem sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng
cấp”
CG: Đức Giáo-Tông đến kêu
Hội-Thánh Nam phái nói rằng: Từ đây phải xem sắc tốt của Nữ-phái Ngài đến ban
đặng hành lễ theo đẳng cấp.
Cái tiếng “sắc tốt” không,
dầu ai đọc đến cũng thầm hiểu nghĩa-lý sâu xa (1)
Giáo-Tông duy chỉ dặn xem
sắc tốt ấy mà hành lễ theo đẳng cấp, ấy là Ngài buộc phải có trật-tự cho lắm,
vì vậy mà cũng chính mình Ngài đến lập lệ Nam Nữ phải phân biệt nhau, chẳng
đặng chung hiệp nhau về phần xác và phần hồn cũng vậy.
Hộ-Pháp có hỏi Ngài về sự
tôn-ti phẩm-trật, thì Ngài dạy rằng: Nam Nữ vốn đồng quyền. Còn hỏi về Lễ nghĩa
giao-thiệp về phần đời, thì Ngài dạy: Giáo-Hữu Nam-phái cũng chịu dưới quyền
Giáo-Sư Nữ-phái (2). Còn lễ thì khi vào Đại-Điện tỷ như Giáo-Sư Nam-phái gặp
Phối-sư Nữ-phái thì Nam phải đảnh lễ Nữ trước, lớn nhỏ vẫn đồng, quyền hành tùy
Chức sắc.
PCT: Nữ-phái phải tùng
Đầu-Sư Nữ-phái, song Đầu-Sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.
CG: Hội-Thánh Nữ-phái phải
tùng quyền Đầu-Sư Nữ-phái, song cả thảy đều phải tùng quyền Giáo-Tông và
Chưởng-Pháp.
Xem rõ lại, thì
Pháp-Chánh-Truyền truất quyền Nữ phái không cho lên địa-vị Chưởng-Pháp và
Giáo-Tông.
Hộ-Pháp để lời phân phiền
cùng Thầy như vầy:
- Thưa Thầy, Thầy đã nói
con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như nhau mà Thầy truất quyền của Nữ-phái không
cho lên địa-vị Chưởng-Pháp và Giáo-Tông, thì con e mất lẽ công-bình chăng?
Thầy dạy: Thiên địa hữu Âm
Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả càn-khôn thế giới nhờ Dương
thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương-quang, ngày nào mà Dương quang
đã tuyệt, Âm khí lẫy-lừng, ấy là ngày càn khôn thế giới phải chịu trong hắc-ám,
mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ phái cầm quyền
Giáo-Tông làm chủ nền Đạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Đạo ắt bị tiêu
tàn ám-muội.”
Hộ-Pháp lại kêu nài nữa
rằng: Thầy truất quyền Giáo-Tông Nữ-phái thì đã đành, song quyền Chưởng-pháp
thì tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.
Thầy dạy: Chưởng-Pháp cũng
là Giáo-Tông, mà còn trọng-hệ hơn, là vì Người thay mặt cho Hộ-Pháp nơi
Cửu-Trùng-Đài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa-vị Giáo-Tông, thì lẽ nào cho ngồi
địa-vị Hộ-Pháp con! Bởi chịu phận rủi sanh nên cam phận thiệt-thòi, lẽ Thiên-cơ
đã định, Thầy chỉ cậy con để dạ thương-yêu binh-vực thay Thầy kẻo tội-nghiệp!”
(PCT)
Chú thích
(1) Nếu Chư Hiền-hữu biết
coi Nữ-phái như Em thơ dại, chỉ biết mến đẹp ham xinh, liệu phương dụ dỗ như
Lão vậy, mới đặng làm trai, con Thầy mà chớ!
(2) Phải vậy
1 -
QUYỀN HÀNH NỮ ĐẦU-SƯ
PCT: Nữ-phái phải tùng
Đầu-Sư Nữ-phái, song Đầu-Sư lại phải tùng quyền của Giáo-Tông và Chưởng-Pháp.
Chú giải: Nữ Đầu-Sư quyền
như Nam-phái, song điều đình bên Nữ-phái mà thôi, chẳng đặng xen lộn qua Nam,
cũng như Nam chẳng đặng xen lộn qua Nữ.
Mỗi điều chi thuộc về
Nữ-phái thì Giáo-Tông và Hộ-Pháp chỉ do nơi Nữ-Đầu-Sư.
Hộ-Pháp có hỏi về cái Ngai
của Nữ-Đầu-Sư, thì Thầy dạy:
“Tòa-Thánh day mặt ngay
hướng Tây, tức là chánh cung Đoài, ấy là Cung Đạo, còn bên tay trái Thầy là
Cung Càn, bên tay mặt Thầy là Cung Khôn, đáng lẽ Thầy phải để bảy cái Ngai của
phái Nam bên tay trái Thầy, tức bên cung Càn mới phải, song chúng nó vì thể
Nhơn Đạo cho đủ Ngũ Chi, cho nên Thầy buộc phải để vào Cung Đạo là cung Đoài,
cho đủ số. Ấy vậy cái Ngai của Đầu-Sư Nữ phái phải để bên cung Khôn, tức là bên
tay mặt Thầy.
Hộ-Pháp hỏi cái Ngai ấy ra
sao? Thì Thầy dạy:
Giống y như cái Ngai của
Quan Âm Bồ Tát, nghĩa là một cái Cẩm Đôn để trong vườn Trước Tử trên Nam Hải,
dưới chơn đạp hai bông sen nở nhụy”.
PCT: “Đầu-Sư Nữ phái chịu
công cử theo luật Hội-Thánh ban hành, theo luật Hội-Thánh phân xử đường Đời và
đường Đạo”
Chú-giải: Đầu-Sư Nữ-phái
phải tuân y Tân-Luật của Hội-Thánh về đường Đạo và đường Đời, phải chịu dưới
quyền Hội-Thánh xử trị cũng như Nam-phái vậy, dầu cho sự công cử lên các phẩm
vị cũng phải tùng y như luật Hội-Thánh ban hành; nhứt nhứt y quyền Nam-phái,
không điều chi cải sửa, dầu cho sự hành chánh cũng vậy.
Quyền hành sự cũng về nơi
Chánh Phối-sư. Đầu-Sư không đặng phép lấn quyền; hễ lấn quyền thì phạm Pháp
Chánh-Truyền, cũng như Đầu-Sư Nam-phái vậy.
PCT: Đầu-Sư Nữ-phái mặc
một bộ Đạo phục y như Đạo phục Đầu-Sư Nam phái, phải đội một Ni-Kim-Cô như các
Vãi Chùa, toàn hàng trắng, áo chín dải có thêu bông sen. Trên Kim Cô có choàng
từ đầu tới gót. Đội Mão Phương Thiên, trên chót Phương Thiên ngay đầu tóc có
Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí, đi giày vô ưu màu trắng, trên chót
có đề chữ “HƯƠNG” nghe à!”.
CG: Đầu-Sư Nữ-phái mặc một
bộ Đạo phục toàn là hàng trắng có thêu bông sen, y như Đạo phục Đầu-Sư Nam
phái, áo chín dải, đội một cái Ni-kim cô; nghĩa là cái Ni kim-Cô bằng hàng
trắng, y như của các vãi chùa, có thêu bông sen, bao quanh đầu một cái Kim-Cô
bằng vàng. Trên Ni-kim-cô ấy phải choàng một cái Mão Phương Thiên, nghĩa là:
cái choàng bằng hàng cho thiêt mỏng, trên chót thêm một cái Mũ bằng vàng chụp
trọn đầu tóc, chính giữa ngay trước mặt có chạm Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một
vòng Minh Khí. Cái choàng của Mão Phương Thiên phải cho thiệt dài, ba thước ba
tấc ba phân, vì mỗi phen lên ngự trên Ngai; thì phải có hai vị Lễ Sanh Nữ-phái
theo sau, nâng đỡ chẳng cho phết dưới đất, chơn đi giày vô ưu toàn bằng hàng
trắng, trên chót mũi giày có chữ “HƯƠNG” là Tịch Đạo.”
Đức Hộ-Pháp nói:
“Trong Thánh-Ngôn Hiệp
Tuyển có bốn câu thi của Ngài rất ngộ-nghĩnh ( là của Đức Lý giáng lập Nữ
phái):
THI
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ “Tịch Hương”
久 死 今 朝 得 復 還
幸 逢 天 命 到 開 元
世 中 忌 死 何 知 死
死 者 何 存 主 藉 香
Đức Hộ-Pháp giải nghĩa:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn là cảnh trần Ta chết đã lâu mà hôm nay Ta được
phục sanh lại trong Thánh-thể của Đức Chí-Tôn.
Hạnh phùng Thiên-mạng đáo khai nguơn là còn hạnh-phúc đặng Thiên-mạng đến
khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến?
Bần-Đạo đã thuyết: Cuối Hạ-nguơn Tam chuyển khởi Thượng-nguơn Tứ chuyển,
Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ. Bần-Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn
Ngài thì không thi-hành được. Ngài đến đặng mở Thượng nguơn Tứ chuyển.
Thế trung kỵ tử hà tri tử? Thế-gian sợ chết mà không biết cái chết là gì!
Chính Ngài hỏi rồi nói:
Tử giả hà tồn chủ tịch Huơng: Tịch Hương là tịch của Nữ-phái. Nữ-phái là
nguồn sống của nhơn-loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ-phái
nghĩa gì? Cầm cái giống của thế-gian này chi?
Đức Lý giáng nói:
… Thầy vì thấy nhiều người vắng mặt nên phải đợi đủ mới phong chức.
Lâm-Hương-Thanh, Hiền-muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm này. Thầy đến
phong chức lập thành Nữ phái, nghe à! (TN/ 95)
* Ngày 11-12 Bính-Dần (Vendredi 14-1-1927)
Đức Lý giáng đàn nói với chư Nữ-chức chi Minh Đường rằng “Thầy dạy Lão phải
lập phái Nữ cho thành tựu. Em gắng lo phổ-độ nhơn-sanh. Cửu nhị ức nguyên nhân
hãy còn trong vòng hắc ám, chẳng lẽ em biết Đạo ngồi đó cho đành. Lão trông
công em”
* Chùa Gò-kén, ngày 12 tháng giêng Đinh-Mão.
3 - Thầy phân-phiền với Bà Lâm Hương-Thanh về Nữ phái rằng:
“Thầy lập Đạo nơi cõi Nam này, là cốt để ban thưởng cho một nước từ thuở đến
giờ hằng bị lắm cơn thịnh nộ của Thầy, Thầy lại tha-thứ, lại còn đến ban thưởng
một cách vinh-diệu.
Từ tạo thiên lập địa, chưa nước nào dưới quả địa cầu 68 này đặng vậy, cốt để
ban thưởng các con thì các con hưởng phần hơn đã đáng, lẽ nào Thầy đã để phần
nhiều cho các nước khác sao!
Ôi! Mà hại thay! Thảm thay! Đau-đớn thay!
“Hòn ngọc” đẹp-đẽ quí báu dường này Thầy đến cho các
con, các con lại học kiêu-căng, trề nhún, Thầy đã chán mắt thấy phái Nữ hành-đạo
thế nào, biết bao phen Thầy buồn, mà buồn rồi lại giận, muốn chẳng lập Nữ-phái
mà làm gì. Nhưng trai gái cũng đồng con, Thầy
không nỡ đành lòng từ bỏ, Thầy lại thương con (3) nên đã lắm phen lấy khảo trừ
công cho con trở lại phẩm cũ, bởi một lời đã hứa với Quan-Âm, Thầy mới nhứt định
dành phần công quả ấy cho con.
Con ôi! Thầy thấy con đau thảm bấy nhiêu, một phen lầm-lỡ
lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm!
Con coi đó mà coi, Thầy thương con là bao nhiêu, Thầy giữ Nữ-phái lại cũng vì con. Thầy kêu nó không đến, Thầy dạy nó không nghe, muốn phạt cho đáng kiếp
mà bụng cũng chẳng đành. Con là Chị, Thầy đến lập Tam Kỳ Phổ-Độ, chỉ vụ một chữ
“Hoà”, con liệu đứa nên, dùng đẹp lòng con kêu tên cho Thầy phán-đoán.
Tr…! Con giúp em con!” (TNII/26)
4 - THIÊN PHONG NỮ PHÁI
Cũng chính ngày này Thầy lập Thiên-phong cho Nữ-phái,
Bà Lâm Ngọc Thanh được phong vào phẩm Phối-Sư, Thánh danh là Lâm Hương Thanh cùng với Bà Lê-thị-Ngân thường gọi là Cô
Sáu (phái Minh-Tân) cũng đồng phẩm Phối-Sư, còn lại là 8 phẩm Giáo-Sư, 28 Giáo-Hữu, 33 Lễ-Sanh.
Những tên chư Chức sắc Thiên phong Nữ phái trên đây được đắc phong ngày 14
tháng giêng năm Đinh Mão (Dl 15 Février 1927)
Thầy kêu Bà Lâm Hương Thanh dạy rằng:
“Lâm-Thị Ái-nữ ! Con và Đạo-Minh lên chức Phối-Sư, con nói lại với Nữ Thánh
rằng: Thầy ban ơn cho chúng nó. Cả Hội-Thánh Nam-phái tung hô mừng lớn lên rằng:
“Vinh hạnh thay cho Nữ phái!”
5 - Lý do Thầy buồn Nữ-phái:
Bà Nữ Đầu-Sư Hương-Hiếu là người có mặt ngay từ buổi mới khai Đạo, cùng là bậc tiền bối, nên Bà có dẫn
giải lý do vì sao Thầy giận không muốn lập Nữ-phái:
“Hồi mở Đạo, chư vị Nữ-phái Sai-gòn chưa hiểu Đạo cho lắm, cũng vì bổn-phận tề gia nội
trợ nên sự hành Đạo bê-trễ, vắng mặt mấy kỳ đàn nên bị Thầy quở. Bài Thánh-giáo
trước đây, Đức Chí-Tôn nói với Bà Nữ Đầu-Sư Lâm
Hương-Thanh. Do bài trường thiên của Đức Phật Bà cho biết về chơn-linh Bà Nữ Đầu-Sư
Lâm Hương Thanh:
Chơn-linh Bà Nữ Đầu-Sư là Long-Nữ hầu Phật Bà Quan-Âm Bồ-Tát. Lúc Bà Long-Nữ
tình nguyện lãnh lịnh nơi Ngọc-Hư-Cung xuống thế độ Nữ-phái. Bà Long-Nữ hứa với
Phật Bà nên Thầy nhứt định dành phần công-quả lại cho Bà Nữ Đầu-Sư Lâm
Hương-Thanh.
Xin xem kỹ câu văn Thầy nói “Một phen lầm-lỡ lẽ nào bỏ nghiệp muôn năm”
Nghĩa là Thầy định lập kỳ Phổ-Độ mười ngàn năm nay, không vì sự lỗi của Nữ-phái
mà bỏ cho đành. Nhận xét lòng Bác-ái của Thầy vô tận, vô biên. Thầy quở mà Thầy
thương, rồi lại ban thưởng nữa; nên Thầy kêu bà Nữ Đầu-Sư lập thông-qui kêu Nữ-phái
cho Thầy chấm phong.
Nhờ Bà Nữ Đầu-Sư, tất cả Nữ-phái có hầu đàn đêm 14 tháng giêng năm Đinh-Mão
(15 Février 1927) đặng thọ phẩm tước hết”. Như vậy Thiên-phong Chức-sắc Nữ phái
vào ngày này.
Cả Hội-Thánh Nam phái tung hô mừng lớn rằng “Vinh-hạnh thay cho Nữ-phái!”
6 - Xin giải Tịch Đạo Nữ-phái kế đây:
HƯƠNG TÂM nhứt phiến cận
Càn Khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo
mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ
sanh tồn.(1)
Cũng như Tịch Đạo của Nam phái:
THANH ĐẠO tam khai thất ức
niên,
Thọ như địa huyển thạnh
hòa thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí.
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật
duyên.(2)
Đương đời này của Đức Lý Giáo-Tông, thì Nam lấy chữ “THANH” Nữ lấy chữ
“HƯƠNG” làm Tịch, tức là cả Đạo-hữu và từ Tín đồ chí Thiên phong đều trong đời
Đức Lý Giáo-Tông hành chánh đứng vào tịch Thanh Hương. Qua đời Giáo-Tông khác
thì Nam sẽ lấy chữ “ĐẠO” Nữ lấy chữ “TÂM”, như vậy nối truyền hoài cho hết Tịch
Đạo thì Thầy sẽ giáng Cơ cho Tịch Đạo khác nữa. Lớn nhỏ, sau trước nhờ chữ Tịch
Đạo ấy mà phân biệt.
Có kẻ hỏi: Thí dụ như đời Giáo-Tông, thì Tịch Đạo của chư Đạo hữu Nam Nữ đời
trước, dầu Chức sắc hay Tín đồ cũng vậy, có phải buộc thay đổi Tịch Đạo không?
Ta nói: Không! Vì chính mình Giáo-Tông kế vị cũng phải giữ Tịch Đạo trước, kỳ
dư những Tín-đồ của đời Ngài độ rỗi tức là chi tộc của Ngài mới đặng thay đổi
mà thôi, còn những Chức sắc cùng là Tín đồ của Giáo-Tông đời trước còn sót lại
thì thuộc về chi tộc của Giáo-Tông ấy không đặng phép thay đổi Tịch.
Tỷ như có Tân Giáo-Tông sẽ lên kế vị cho Lý Giáo-Tông thì cả Tín đồ Nam Nữ
mới nhập môn đều phải lấy Tịch “ĐẠO TÂM” dầu trong hàng Tín đồ ấy sẽ có một
Chơn linh xứng đáng địa vị Chánh-Phối-sư mà Thầy giáng Cơ phong chức đi nữa,
thì cũng chịu Tịch Đạo-Tâm như các Tín đồ khác, chớ Chức sắc và Tín đồ trong đời
Lý Giáo-Tông còn lại thì giữ Tịch “Thanh Hương” mà thôi, không đặng thay đổi.”
Trên đây là lời dạy trong Pháp Chánh truyền.
Từ đây sắp xuống là lời bàn của Soạn giả:
7 - Giải nghĩa Tịch Đạo
Giải nghĩa hai bài thi trên:
(1) Hương Tâm nhứt phiến cận Càn
khôn:
- Là một tấm lòng biết gìn giữ cho thơm tho mới được gần với trời đất. -Đức
sáng của người tu hành chơn chánh sẽ được độ dẫn hồn, không bị cô đơn. -Người
nào biết tưởng đến hằng niệm danh Quan Thế Âm Bồ-Tát sẽ được bảo trọng tánh mạng.
-Phái Nữ được hưởng sự vĩnh cữu, trường tồn hàng ngàn năm..
(2) THANH ĐẠO tam khai thất ức niên.
- Gọi Thanh Đạo tức là Đạo Tiên, mở lần thứ ba này có một diễn trình
(700.000) bảy trăm ngàn năm. -Sống lâu như đất, phát đạt như trời. -Không hư hoại
mà chịu trở về sanh khí loài người tự lập.-Một cái Đàn xưa hàng mười ngàn năm để
Phật độ dẫn người có duyên.
Tịch Đạo là gì?
Tịch là sổ bộ. Tịch Đạo là sổ bộ Đạo Nam Nữ ghi tên theo mỗi thời
Giáo-Tông.
* Ví như thời Giáo-Tông đầu tiên là của Đức Lý Giáo-Tông thì Tịch Đạo là
“Thanh Hương” 青 香
Nếu là Chức sắc Nam phái từ hàng Lễ Sanh trở lên thì lấy Thánh danh có kèm
theo chữ “Thanh”.
Thí-dụ: ông Nguyễn-văn-A đắc phong Lễ Sanh được chấm phái Thượng, Thánh
danh sẽ là: THƯỢNG A THANH (có nghĩa là chữ sắc phái đứng trước, kế là tên, sau
hết là chữ Tịch Đạo “THANH”)
Về Nữ phái thì chữ Tịch Đạo đứng trước tên.
Thí dụ: Bà Lâm-Ngọc-Thanh. Phẩm Đầu-Sư, thì Thánh danh sẽ là Nữ Đầu-Sư
HƯƠNG THANH hoặc nếu có nhiều người trùng tên thì đặt chữ họ trước hết, gọi Bà
là LÂM HƯƠNG-THANH.
* Nếu qua một thời Giáo-Tông khác thì đổi Tịch là ĐẠO TÂM, tức nhiên Nam
thì lấy chữ “Đạo”, Nữ thì lấy chữ “TÂM” đặt vào các vị trí cũng như tịch Thanh
Hương vậy.
* Ý-nghĩa hai chữ THANH HƯƠNG:
Hai chữ Thanh Hương này phát xuất từ đôi câu đối:
- THANH sử ký danh lưu vạn đại
- HƯƠNG hoa truy sùng bái thiên thu
Có nghĩa là:
- Bộ Thanh sử ghi tên người trong sạch, tên tuổi còn lưu lại muôn đời.
- Đền hương lửa còn truyền nối, thờ lạy người danh tiếng ngàn năm.
Nghĩa riêng từ chữ:
THANH 青 là màu xanh tươi, tượng sức sống vươn lên, chỉ sự
thanh khiết, trong sạch.
HƯƠNG 香 là mùi thơm tho.
Chiết tự hai chữ Thanh Hương:
THANH 青 chiết tự: trên là Chủ 主 dưới là Nguyệt 月
HƯƠNG 香 chiết tự: trên là Hoà 禾 dưới là Nhựt 日
Nếu lấy hai chữ của phần trên đọc là Chủ Hoà 主 禾
Nếu lấy hai chữ dưới hiệp lại thành ra chữ Minh 明 có nghĩa là ghép hai chữ Nhựt Nguyệt lại là chữ Minh.
Thánh ý Thầy muốn rằng trong thời buổi ban sơ này toàn Đạo Nam Nữ phải biết
trên HÒA dưới HIỆP.
Chữ Thanh 清 cũng viết có ba chấm thủy
nghĩa là trong sạch. Ba chấm thủy tượng trưng Tinh Khí Thần.
Bài thơ chiết tự chữ THANH HƯƠNG:
Dụng tiếng Thanh Hương Tịch-Đạo
nhà,
Giáo-Tông đổi mới Đạo Tâm
ra.
Phân THANH 清 xuất ngoại Tinh Thần Khí,
Hòa hiệp Âm Dương diệu
pháp mà!
Hương sắc Nữ gìn nêu giá
ngọc.
Chiết Thanh hạ nhựt thượng
vi Hòa
Chủ Hòa mục đích Cao-Đài dựng,
Nhựt Nguyệt, Minh tâm hiệp
nhứt tòa.
Nguyên Thủy
Trong Thánh-Ngôn Thầy thường căn dặn:
“Cái nhánh các con là nhánh chính
mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy
rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Ðạo Thầy”
Hoặc trong Pháp-Chánh-Truyền cũng dạy:
“Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi Hạ ngươn Tam Kỳ Phổ Độ này duy lấy một chữ
HÒA làm Tôn chỉ.
Có HÒA mới có HIỆP, có Hiệp mới có Thương, mà sự Thương yêu là chìa khóa mở
cửa Tam Thập Lục Thiên, Cực-Lạc thế giới và Bạch-Ngọc-Kinh y như lời Đức
Chí-Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là phải Từ bi, Bác-ái mới đắc Đạo vô vi, phải HÒA HIỆP
mới có cơ qui nhứt.
Chí-Tôn đã định khai Đạo đặng thị chứng cho các Tôn giáo biết nhìn nhau
trong đường hành thiện, trừ tuyệt hại tranh đấu thù hiềm, làm cho Thế giới Hòa
bình, thoát cơ tự diệt. Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới
toan thành lập. Chí-Tôn định thành Hội-Thánh, đặng thay thế hình ảnh của Người,
thì cũng tùy theo phép Tạo hóa cá nhân mà gầy nên ảnh tượng”
Tịch Đạo kế tiếp là ĐẠO
TÂM.
Nói rõ ra Tịch-Đạo Thanh-Hương là lo về phương diện hữu hình, như tạo tác
các cơ sở, lập nên Thánh Thất làm nhà chung cho nhân sanh đến chiêm bái, học hỏi
Đạo lý. Thời gian này người Tín hữu lập công bằng công quả ngoại, như xây dựng,
tao tác, giữ gìn cơ sở, cúng kiến
Nay qua Tịch ĐẠO TÂM thì lo về phần tâm linh tức nhiên phải thấu đạt chơn
lý chánh truyền, là phải học hỏi, nghiên cứu, sửa tánh trau thân, làm công quả
nội.
Hỏi vậy Tịch Đạo tâm đã đến chưa?
Hãy nhìn đôi liễn đối đặt trước Báo-Ân-Từ sẽ thấy:
- BÁT phẩm chơn hồn tạo Thế giới hóa chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO.
- QUÁI hào Bác ái định Càn Khôn phân đẳng pháp nhứt Thần phi tướng trị kỳ
TÂM.
Hai chữ đầu khởi bằng chữ BÁT-QUÁI
Hai chữ cuối kết thúc bằng chữ ĐẠO TÂM
Lại nữa đây là câu đối dài nhứt trong số các câu đối trong cửa Đạo ngày
nay. Có 17 chữ ứng vào Quẻ Thiên Sơn Độn. Độn nghĩa là lui đi, tức nhiên thời
Thanh Hương đã qua đi, thời của ĐẠO TÂM đã tới là vậy.
Đạo Tâm là gì?
Đức Hộ-Pháp dạy:
“Chiếu theo ý-nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối
với Đức Chí-linh cùng Càn khôn vũ trụ
Loài người bao giờ cũng chủ TÂM tìm tòi, kiếm cái nguyên do lai lịch của
mình hầu định phận đối cùng tạo đoan vạn vật. Muốn biết mình, con người phải lột
cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế gọi là chúng sanh đặng so
sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng
cái năng tri năng giác của chúng sanh, mới tìm đặng tâm tánh của mình là báu.
Thấu đáo đặng tâm linh mới biết thiên lương do chí thiện. Khi hiểu cái Thiên
lương ấy là nhiệm vụ huyền bí, tả không cùng, hiểu không tột, chẳng biết lời
chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO 道 Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM 心 làm mục đích. Các Thánh nhơn xưa thường đem cái triết-lý Đạo Tâm hiệp làm
môi giới, nên dầu cho các vị Giáo-chủ tuy mỗi Đấng đều có tư tưởng đặc sắc, nên
triết lý cao thấp không chừng nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn cội.
Nếu luận hai chữ CHỦ TÂM thì ta cũng thấy rõ rằng: Một vấn đề thuyết không
cùng, biện không tận, vì nó quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do Chí
linh là Trời mà sản xuất. Hễ càn khôn vũ trụ này vĩ đại bao nhiêu và cơ bí mât
tạo đoan bao nhiêu, thì nhơn tâm đều hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu cho kiến thức đặng,
hay là còn ẩn vi mầu nhiệm mà lương tâm của con người đã hưởng ứng, đều cho mọi
trí não, mọi tinh thần tự hiểu rằng: Sự thấu đáo chữ ĐẠO vô cùng, vô tận, muôn
phần loài người chưa định đặng một, vì vậy các nhà triết học đạo đức tinh thần
cho nhơn tâm tức thiện tâm cũng đặng.
Tâm ấy là gì? Ấy cũng là một định từ để chỉ cái hình bóng trí thức tinh thần,
Đạo gọi là nhứt điểm linh quang chiếu giám.
Đức Chúa Jésus khi thọ pháp Giải oan nơi Jourdain thì điểm linh quang ấy
giáng như hình khối lửa.
Đức Lão-Tử khi thiền định tại Thơ viện nhà Châu, thì điểm linh quang ấy
giáng như hình sấm sét.
Đức Khổng-Phu-Tử khi vấn đáp với Thần Đồng Hạng Thác thì điểm linh quang ấy
giáng như hình sợ sệt.
Như Abraham và Moise thấy Đức Chúa Trời trong đạo hào quang sáng suốt.
Như Đức Lão-Tử, Ngươn Thỉ Thiên Tôn và Thông Thiên Giáo chủ thấy Hồng-Quân
Lão-Tổ trong năm sắc tường vân.
Như Phục Hi đã thấy Long mã hóa Hà đồ” (ĐHP: 15-7 Ất-Sửu – 1937)
Chiết tự hai chữ ĐẠO TÂM xin đọc qua Quyển “Chữ Hán chiết tự “cùng Soạn giả)
Diêu Trì Kim Mẫu đến dạy:
MẸ mừng đặng thấy các con hội hiệp với nhau. Vậy các con hãy nắm tay nhau
cho chặt chẽ, đi cho vững.
MẸ ban ơn cho cả Nam Nữ. MẸ thăng.
THI
Lượng sóng đời kia khó
định chừng,
Vườn Xuân khô lá khó
trông Xuân.
Hiên mai gió tạt nghiêng
rèm hạnh,
Giậu tối trăng soi đổ bợn
trần.
Tiếng hạc kêu vui xa thẳm
thẳm,
Hơi quyên chào thảm lóng gần
gần.
Chờ xem thế cuộc tùy duyên
phận,
Đừng tính đeo mang gánh nợ
trần.
Diêu Trì Kim Mẫu
CHƯƠNG II
TIỂU SỬ CỦA
NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH
(1874-1937)
Đức Hộ-Pháp nói:
photo Lâm Hương Thanh
“Bà Nữ Đầu-Sư hồi còn tại thế này cũng vậy, hay về cõi Thiêng-Liêng cũng vậy
thương Em lắm, thương phái Nữ lắm, Bà binh vực bảo trọng từ khi mới mở Đạo, biết
bao phen Đức Lý-Giáo-Tông đã phẫn nộ, chính mình Bần Đạo cũng không thế binh vực
được mà còn có thể ghét nữa mà chớ. Duy có một mình Chị binh vực bảo trọng phái
nữ còn tồn tại đến ngày nay, bằng không thì bị phế rồi, bị Đức Lý phế rồi đó.”
A - Bà Lâm Ngọc Thanh Nghiệp Chủ Vũng Liêm.
Tóm tắt Tiểu-sử:
Thế danh: Tên Bà là Lâm-Ngọc-Thanh.
Thánh danh: HƯƠNG-THANH hoặc Lâm Hương-Thanh.
Nơi sanh: Làng Trung-Tín, quận Vũng-Liêm, tỉnh Vĩnh-Long. Thuở nhỏ Bà qui y
theo Đạo Phật với Thầy là Hoà-Thượng Như-Nhãn, trụ trì tại chùa Giác-Hải, Phú
Lâm (Chợ-lớn)
* Phần Đời: Một bậc giàu có của cải nhứt bấy giờ.
* Phần Đạo: Tuyệt phẩm là Đầu-Sư Nữ-phái.
Bà được ông Phạm-Tấn-Đãi (Sau là Khai Đạo –Thời-Quân Hiệp-Thiên-Đài) vâng lịnh
Đức Chí-Tôn đến độ: Ông Nguyễn-Ngọc-Thơ và Bà Lâm-Ngọc-Thanh vào Đạo Cao-Đài.
- Bà Nhập môn vào nền Đại-Đạo ngày mùng 5-6 Bính-Dần (Mardi, 15 Juillet
1926).
Khi đến với Đạo, Bà giàu lòng Bác-ái, dâng hiến một phần lớn sự nghiệp vĩ-đại
của Bà cho Đại-Đạo làm phương tiện hoằng-hoá đạo-mầu của Đức Chí-Tôn, biến Phật-tự
thành Thánh-Thất tại Vũng-Liêm.
- Bà phát kinh, biếu Đạo-phục cho những người mới Nhập môn cầu Đạo.
- Hiến tài sản để tu bổ ngôi chùa Từ-Lâm-tự (Gò kén Tây-ninh) để làm nơi
Khai Đạo trong ba tháng trường.
- Bà thọ phong đầu tiên là đêm 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl
18 Novembre 1926) là ngày Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh-Thất tạm Từ-Lâm-Tự. Bà
Lâm-Ngọc-Thanh thọ Thiên Ân Nữ Giáo-Sư, Thánh-danh là Lâm Hương-Thanh.
- Đức Chí Tôn thăng phẩm cho Bà lên Nữ Phối-Sư ngày 14 tháng giêng năm Đinh
Mão (dl 15 Février 1927)
- Bà Lâm Hương Thanh được thăng phẩm Nữ Chánh Phối-Sư, chưởng quản Hội-Thánh
Nữ phái. Ngày mùng 9-3 Kỷ-Tỵ (dl 16 Avril 1929)
- Bà qui Tiên vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (dl 17-5-1937) đúng vào
ngày Lễ Thánh đản của Đức Phật Thích Ca, tại quê nhà ở Vũng Liêm, hưởng thọ 63
tuổi.
- Tuy Bà đã qui TIÊN ngày 8-4 Đinh-Sửu nhưng đến ngày 25-4 Đinh-Sửu (dl 3
Juin 1937) Bà mới được Đức Chí Tôn ân tứ thăng lên phẩm Đầu-Sư. Tức là Nữ Đầu-Sư
hàng truy phong.
Cuộc Đời của Bà Lâm Ngọc
Thanh
1 - Thời-kỳ ngộ Đạo:
Bà Lâm-Ngọc Thanh là nghiệp chủ ở Vũng-Liêm. vừa giàu về vật chất lại giàu
về tinh-thần, đã cống hiến một sự-nghiệp, một tài sản lớn lao cho nghiệp Đạo.
Bà sớm sùng mộ Đạo Phật. Khi gặp Đạo Trời khai Bà sẵn sàng đến với Đạo
trong một Đức-Tin trọn vẹn.
Thế danh Bà là Lâm Ngọc Thanh, sanh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung
Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Thân mẫu Bà là Trần thị Sanh. Không rõ tên
ông thân sanh.
Bà Lâm Ngọc Thanh là vợ của một người Pháp tên Monnier, gọi là Ông Huyện Huỳnh-Ngọc-Xây,
nên Bà thường được người ta gọi là Bà Huyện Xây, là một nghiệp chủ rất giàu có
tại Vũng Liêm. Ông và Bà có một người con gái tên là Huỳnh thị Hồ.
Sau nầy Ông Huyện Xây qua đời, Bà tái giá với Ông Huyện Hàm Nguyễn-Ngọc-Thơ,
cũng là một nghiệp chủ ở Tân Định Sài-gòn. Hai Ông Bà đều hâm mộ Phật giáo, nên
đều qui y theo Phật, thọ giáo với Hòa Thượng Như Nhãn, trụ trì Chùa Giác Hải ở
Phú Lâm, Chợ Lớn.
Bà Lâm-Ngọc-Thanh rất sùng kính Đức Phật Thích Ca, nên gần bên biệt thự của
Bà ở Vũng Liêm có lập một ngôi chùa Phật để gia đình Bà cùng với dân chúng xung
quanh cùng là Tá điền của Bà có nơi chiêm bái.
2 - Vào Đạo Cao-Đài:
Nếu đã là bậc Thiên mạng thì việc ngộ Đạo chỉ là duyên cớ để cho Đức
Chí-Tôn gom con cái của Ngài lại mà thôi.
Đầu năm Bính-Dần (1926) Ông Phạm Tấn Đãi, nhà ông ở Rạch-kiến, tỉnh
Long-an. Ông thường chấp bút học Đạo. Buổi nọ, ông chấp bút được lịnh Đức
Chí-Tôn dạy: “Đãi, Con hiệp cùng Trung để độ Thơ”(1)
Ông Phạm-Tấn-Đãi vốn chưa quen biết các vị này, nhưng vì lịnh của Đức
Chí-Tôn nên lên Sài-gòn tìm đến nhà ông Cao-Quỳnh-Cư để hỏi thăm về ông Trung
(2) mà tìm đến ông Thơ. Khi gặp được nhà ông Trung thì người nhà cho biết là
ông Trung đã ra Sài-gòn gặp ông Thơ rồi!
Khi gặp được đầy-đủ liền trình bày Thánh-giáo do Thiêng-Liêng đã dạy cho
hai ông xem. Ông Thơ xem xong nói: “Tôi muốn làm sao hai ông cầu-nguyện cho tôi
chấp bút được mới linh!”
Các ông bằng lòng và buộc ông Thơ trai giới ba ngày. Đồng thời hai ông: Phạm-Tấn-Đãi
và Lê văn Trung cũng ở đó và hiệp cùng ông Thơ để cầu nguyện Ơn trên.
Quả đúng như lời cầu xin “Nhơn hữu thiện nguyện thiên tắc tùng chi”. Sự chấp
bút, thông công với các Đấng Thiêng-liêng được kết quả.
Ông xin làm thế nào để độ vợ Ông ở Vũng liêm cùng theo một Đạo để thuận chiều
thuận hướng về tâm linh. Ông nguyện xin cho biết giờ này Bà Lâm-Ngọc Thanh đang
làm gì ở Vũng-Liêm? Ông được Ơn trên báo cho từng chi tiết, ông ghi rõ cất giữ,
rồi đánh điện tín gọi Bà lên. Lên tới, Bà báo-cáo từng sự việc đúng như sự thể,
càng làm tăng lòng tin-tưởng cho cả hai người. Bà liền nghĩ cách làm thế nào để
độ ông Thầy của Ông Bà là Hoà Thượng Như-Nhãn nữa.Ông Lê-văn-Trung và ông Nguyễn
Ngọc-Thơ đồng ý nên cậy ông Phạm-Tấn-Đãi ra nhà ông Cao-Quỳnh-Cư để mời ba ông:
Cư, Tắc, Sang (nay là Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh) và Đạo-hữu lập Đàn Cầu
Cơ tại nhà ông Thơ. Việc cầu Cơ được kết quả.
Chú thích:
(1) Trung là Ông Lê-Văn-Trung. Sau là Quyền Giáo-Tông, Anh Cả của nền Đại-Đạo.
(2) Thơ là Ông Nguyễn-Ngọc-Thơ, người bạn đời của Bà Lâm Ngọc Thanh. Cả hai
sau cùng đắc phẩm Đầu-Sư.
3 - Thời-kỳ hành Đạo:
Bà Lâm-Ngọc-Thanh được Đức Chí-Tôn độ vào Đạo Cao-Đài. Bà hiến dâng một phần
sản nghiệp vĩ đại của Bà để giúp Đạo trong buổi sơ khai có được phương tiện hoằng
hóa mối Đạo Trời. Bà biến ngôi chùa do Bà xây dựng ở bên cạnh Biệt thự của Bà
thành một Thánh Thất, thờ Đức Chí-Tôn, để những người trong vùng đến đó Nhập
môn cầu Đạo. Bà in kinh phát cho không, may cho Đạo phục.
Với tình thầy trò giữa Hòa Thượng Như Nhãn và Ông Bà Nguyễn Ngọc Thơ rất là
thân thiết. Ông Hòa Thượng Như Nhãn cũng đã Nhập môn vào Đạo. Ông bằng lòng hiến
ngôi chùa Từ-Lâm-Tự ở Gò Kén Tây-Ninh cho Đạo Cao Đài dùng làm Thánh Thất tạm,
tổ chức Lễ Khai Đạo. Vả lại khi cất ngôi chùa nầy, Ông Bà Thơ đã đóng góp một số
tiền lớn để tiếp-tục tu bổ và tạo tác thêm.
Vào đêm 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl 19-11-1926) là ngày Đại
Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất tạm Từ-Lâm-Tự. Bà Lâm-Ngọc-Thanh thọ Thiên Ân Nữ
Giáo-Sư, Thánh-danh là Lâm-Hương-Thanh. (TNHT.II./13)
Từ ấy, Bà lo Phổ-độ nhơn sanh khắp các tỉnh, khi thì Khai đàn, lúc Thượng
tượng, giảng đạo, đọc Thánh ngôn cho nhơn sanh được thấu hiểu chơn truyền Đại-Đạo,
mà lần này chính Đức Chí Tôn giáng trần lập nên mối Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, là để
chấn hưng Phật-giáo lại cho hoàn-toàn. Tôn chỉ là Qui nguyên Tam giáo phục nhứt
Ngũ Chi.
Trong kỳ Phong Thánh Nữ-phái lần thứ I ngày 14 tháng giêng năm Đinh-Mão (dl
15-2-1927), Đức Chí Tôn thăng phẩm cho Bà lên hàng Nữ Phối Sư, cầm đầu Nữ phái
và phong người con gái của Bà, Cô Huỳnh thị Hồ, vào phẩm Nữ Giáo Sư, Thánh danh
Huỳnh Hương Hồ.
Nhờ Ông Bà giàu có, đủ phương tiện xe hơi tiền của, Bà giúp cho Đạo phương
tiện đi lại trong việc phổ độ nhơn sanh, giúp xe cộ cho quí Chức sắc lúc bấy giờ
đi lại được mau lẹ dễ-dàng hơn trong khi hành Đạo.
Khai Đạo tại chùa Gò Kén thì gặp sự biến loạn ngay trong đêm đầu tiên, Quỉ
lộng, làm cho một số lớn mất niềm tin. Chỉ được 3 tháng thì Hòa Thượng Như Nhãn
đổi ý, đòi chùa Từ Lâm Tự lại, không hiến cho Đạo Cao Đài nữa và bắt buộc Hội-Thánh
phải dời đi nơi khác hành đạo. Hội-Thánh họp lại, lo đi tìm mua đất đặng cất
Tòa Thánh.Theo sự hướng dẫn của Đức Lý Đại Tiên Thái Bạch Kim-Tinh: Hội-Thánh hỏi
mua được một miếng đất của Ông Kiểm Lâm người Pháp tên Aspar, tại làng Long
Thành tỉnh Tây Ninh. Ông Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh cho Hội-Thánh mượn
số tiền 25.000 đồng để mua đất và khai phá rừng, cất Tòa Thánh tạm bằng cây ván
để dời cơ sở từ chùa Từ-Lâm về Chùa mới.
Bà Lâm-Hương-Thanh lãnh lịnh của Ngài Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt, lo việc
giao thiệp với Chánh quyền Pháp, xin mở cửa những Thánh Thất nào bị chánh quyền
áp chế đóng cửa trước đây. Bà làm đơn cam kết rằng Đạo Cao Đài là Phật giáo chấn
hưng, thuần túy tu hành, không làm điều gì sai luật của chánh phủ.
Bà Lâm Hương-Thanh và Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền riêng ra mua thêm một
miếng đất rừng nữa, từ ngã ba Ao Hồ vào giáp với miếng đất đã mua cất Tòa Thánh
để tạo cảnh Cực Lạc Thế giới, gọi là Cực Lạc Cảnh.
Ngày mùng 9-3 Kỷ-Tỵ (dl 16-4-1929) Bà Lâm Hương-Thanh được thăng phẩm Nữ
Chánh-Phối-Sư, Chưởng quản Hội-Thánh Nữ phái.
Năm 1933, Tòa Thánh tạm cất bằng cây ván hư nát nhiều, Hội-Thánh bàn tính
việc xây cất Tòa Thánh bằng xi măng cốt sắt cho chắc chắn vĩnh viễn, theo họa đồ
của Đức Lý Giáo-Tông chỉ vẽ, tổn phí giai đoạn đầu ước tính 20.000 đồng, mà Đạo
lúc ấy còn nghèo, số tín đồ còn ít, nên không đủ tiền mua vật liệu. Ngài Thái
Thơ Thanh và Bà giúp Hội-Thánh một số tiền lớn để khởi công đào móng xây dựng.
Lúc ấy, nơi Tòa Thánh, các Chức sắc Thiên phong trong Hội-Thánh bị nội khảo,
rồi ngoại khảo, nên việc xây cất Tòa Thánh phải đình trệ hoài, sự tiến triển chẳng
có gì đáng kể.
Đến năm 1936, cơn khảo Đạo đã lắng yên, Đức Hộ-Pháp cầm quyền Hội-Thánh,
quyết tâm tiến hành xây dựng Tòa Thánh, bởi vì Tòa Thánh là biểu hiện Bạch Ngọc
Kinh tại thế. Nhưng lúc đó, nơi tủ của Hộ Viện cất tiền quỹ của Hội-Thánh chỉ
có vỏn vẹn 1 đồng rưỡi.(1$50) Đức Hộ-Pháp liền đi Vũng-Liêm gặp Bà Lâm
Hương-Thanh để thương lượng mượn tiền về xây cất Đền Thánh ngày nay. Nhằm buổi
khuẩn bách Bà không có tiền mặt mà lúa thì đầy nhà, nhưng không bán được. Bà lấy
rương vàng ra phần lớn là hột xoàn đưa cho Đức Hộ-Pháp bảo đem cầm lấy mà lo
xây cất Đền-Thánh. Đức Hộ-Pháp e-ngại khi mượn cầm thì được, rồi lấy tiền đâu
chuộc lại mà trả cho Bà. Đây là vàng ngọc của cả gia-đình.
Đức Hộ-Pháp quyết lấy Đức tin và cầu nguyện rồi dùng phương “bắt gió nắn
hình” mà làm nên cơ nghiệp vĩ đại như ngày nay.
Năm Đinh Sửu (1937) Đức Hộ-Pháp cùng Hội-Thánh đi Nam Vang lo Đạo-sự nơi
đó, giao cho Bà ở nhà lo ngoại giao với nhà cầm quyền Pháp về những nơi nào Đạo
bị làm khó dễ. Bà đi hầu Tòa, rồi trở về, kế đó lâm bịnh.
Bà qui Thiên vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (dl 17-5-1937) đúng vào
ngày Lễ Thánh đản của Đức Phật Thích Ca, tại quê nhà ở Vũng Liêm, hưởng thọ 63
tuổi. Đức Hộ-Pháp lúc đó đang hành đạo ở Nam Vang (Campuchia). Được tin điện, cấp
tốc trở về để cùng Hội-Thánh lo Lễ Đạo táng cho Bà.
Một điều huyền diệu là khi Bà Lâm Hương Thanh còn sống thì Bà lo đi ngoại
giao với chánh quyền Pháp về việc Đạo, rồi khi thoát xác đăng Tiên, Bà cũng lo
y như vậy. Số là Đạo xin phép khai đàn, nhà cầm quyền Pháp lúc đầu thì cho, sau
lại cấm. Hội-Thánh chưa biết tính sao thì Bà liền giáng cơ nói: Để Bà lo việc
đó cho và yêu cầu Hội-Thánh cử người đến xin, kỳ sau thì được dễ dàng. Quả đúng
y như vậy.
Sau khi Bà qui Tiên được 17 ngày, đến ngày 25-4 Đinh-Sửu (dl 3-6-1937), Bà
được Đức Chí-Tôn ân tứ lên phẩm Đầu-Sư, vì Bà là người có đại công với Đạo
trong buổi sơ khai và là người Chị cả của Nữ phái, dìu dẫn cả Hội-thánh Nữ
phái. Lúc ấy thường gọi Bà là Chị lớn.
Về sau, Hội-Thánh đem hài cốt của Bà ở Vũng Liêm về Tòa Thánh, đặt vào Bửu
tháp Nữ Đầu-Sư, xây ở phía Tây Lang Tòa Thánh và tượng của Bà được tạc ở mặt tiền
Đền-Thánh, phía bên Nữ phái, trên Lôi Âm Cổ Đài, để nhơn sanh chiêm ngưỡng một
bậc Nữ Chức sắc đại công của Đạo.
4 - Lời Tự thuật của Bà
Lâm Hương-Thanh:
“Nhắc lại đoạn đầu khi Tôi Nhập môn rồi, khiến lòng Tôi suy-nghĩ cuộc đời
không thấy ích gì cho phần linh hồn, nên Tôi không còn luyến tiếc sản nghiệp của
Tôi nữa, nếu còn say mê vật-chất hữu hình này thì biết chừng nào mới trở về quê
xưa cho được, nên Tôi đem mình quì trước Thiên bàn nguyện rằng: Hiến thân này
cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tùng Hội-Thánh Tây-Ninh, ngõ hầu dìu dắt nhơn sanh
vào đường đạo-đức.
Riêng về Phật-tự, thì khi Tôi chưa gặp Đạo Cao Đài Tôi có lập một kiểng
Chùa tại vũng-Liêm, sau này Tôi hiến cho Đại-Đạo rồi, Tôi hiểu rõ rằng Cao-Đài
là Phật giáo chấn hưng đó vậy, nên Tôi sửa Chùa Phật lại làm ngôi Tiểu Thánh-Thất
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng tiện cho việc phổ độ kẻ đồng huyện, đồng lân. Nào kẻ
gần, người xa trong thôn quê sằng dã, nào là Tá điền của Tôi đồng lòng đến Nhập
môn, cầu Đạo mỗi ngày đến 15, 20 người. Hễ có em nào thiếu thốn gì thì Tôi ủng
hộ mỗi người một bộ Đạo-phục và một cuốn Kinh Lễ đặng học thuộc Kinh để đi Cúng
Tứ thời, Tôi dạy thờ, dạy lạy đâu đó đều được xong rồi.
a/ - Khai Đàn:
Tôi hiệp với Chức sắc và Cô Ngọc-Hồ cùng Nguyễn Thị-Nương đi khai đàn Thượng
Tượng, rồi Tôi giảng Đạo và đọc Thánh-ngôn cho chư vị mới Nhập môn nghe cho hiểu
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là Phật Đạo Chấn hưng. Bởi vì Tôi biết phần đông thì nhơn
sanh còn tín-ngưỡng Đạo Phật, Tôi phải giải nghĩa cho thiện tín nghe rõ rồi họ
vô Nhập môn (tôi úp bộ hết tại Vũng-Liêm)
Đức tin nhơn sanh nơi đây càng ngày càng tăng tiến vào Đạo rất đông, Tôi
bèn lập Bàn-trị-sự phân công cho phái Nữ có phận sự để làm Đạo. Ngày lụn tháng
qua đủ công nghiệp, Tôi dạy làm lai lịch dâng lên Hội-Thánh xin cầu phong.
b/ - Về việc Chùa Gò-kén:
Nhờ Thiêng-liêng dùng huyền diệu, vì trước khi Tôi chưa nhập môn, khiến cho
Tôi qui y Phật giáo, Thầy Tôi là ông Hoà-Thượng chùa Giác-Hải. Tôi và ông Huyện
Thơ cúng một số tiền to để xây dựng chùa Từ-Lâm-Tự (Gò-kén Tây-ninh). Mỗi năm
hai Tôi xuống Chùa Gò-kén thường lắm. Nơi đây là hồi chưa mở Đạo, nhờ cớ ấy được
gieo cảm tình Thầy trò nghĩa nặng như phụ tử tình thâm, nên vâng lịnh Đức
Chí-Tôn họp với Chức sắc Đại Thiên phong Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, Tôi
chung lưng đâu cật với Hội-Thánh khai mở Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ tại tỉnh
Tây-ninh, vì thế mà hai Tôi mượn Chùa Gò-kén rất dễ-dàng. Thầy Tôi ưng thuận
cho mượn, thành thử thiêng liêng đã sắp đặt trước nên tôi mới có sẵn một ngôi
Chùa Từ-Lâm-Tự đặng đúng ngày giờ của Đức Chí-Tôn khai Đạo năm Bính-Dần (1926).
Vì Chí-Tôn tiền định trước mười ngàn năm, nên Thầy có cho bài thi:
THI
Từ đây nòi giống chẳng
chia ba.
Thầy hiệp các con lại một
nhà,
Nam Bắc cùng rồi ra ngoại
quốc,
Chủ quyền chơn Đạo một mình TA.
Nhờ bài thơ của Đức Chí-Tôn trên
đây, Tôi chung lo với Anh Cả Thượng Đầu-Sư Thượng Trung Nhựt cùng Đức Hộ-Pháp,
Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh mà đi phổ độ cùng lục tỉnh.
Việc phổ độ miền Hậu-giang lối tháng 9 năm Bính Dần đặng cho kịp ngày 14
tháng 10 năm Bính-Dần mở Đạo tại Chùa Từ-Lâm-Tự (Gò-kén Tây-ninh). Ông Huyện
Thơ và tôi xuất tiền nhà ra lên cốt chư Phật, đủ Ngũ Chi, Tam Trấn, Tam giáo tức
là Đức Phật Tổ, Đức Lão-Tử và Đức Khổng-Tử.
Mở Đạo tại chùa Từ-Lâm-Tự ba tháng thì ông Hoà-Thượng chùa Giác-Hải đòi
chùa lại, thì hai Tôi (Huyện Thơ) cho Hội-Thánh mượn số tiền 24.000 đồng (hai
mươi bốn ngàn đồng) mua đất đặng dời chùa, thỉnh cốt chư Phật về bên đất mới
mua (mua đất của ông Kiểm lâm người Pháp). Bởi vì lúc mới phôi thai Hội-Thánh
chưa có tiền nên mượn của hai Tôi. Mua đất xong rồi Tôi lên xuống thường, không
ở luôn nơi đây được vì lo xã giao với Chánh phủ Pháp đặng để cậy nhờ họ.
Buổi ban sơ khai Đạo (thời Pháp thuộc) Đạo gặp biết bao cảnh gay-go thống
khổ cũng vì việc Đạo Đời chưa tương đắc. Chánh phủ Pháp để dạ nghi nan, hăm doạ
đủ điều: nào là bắt Đạo-hữu hăm xẻ nhượng, nào là đóng cửa Thánh-Thất ở miền Hậu-giang.
Anh Thượng Đầu-Sư cho Tôi hay, khi đó Tôi liền tìm kế gần-gũi với Chánh-phủ xin
mở cửa Thánh-Thất.
Tôi làm đơn xin ngay với chánh phủ Pháp, Tôi đứng bảo lãnh trách nhiệm, Tôi
hứa và Tôi nhìn-nhận Đạo Cao-Đài là chánh tông chấn hưng Phật giáo, Tôi nói trước
mặt Chánh phủ Pháp rằng: Tất cả Đạo Cao-Đài là bậc chơn tu, không biết làm sái
luật chánh phủ, thật là người tu-hành đạo-đức, cả thảy đều có lòng bác-ái,
không sát sanh hại vật, chỉ biết tu, ăn chay làm lành mà thôi, thì chánh phủ
Pháp cho mở cửa Thánh-Thất được yên ổn mà sự cúng kiến cũng được đông đảo tự
do.
Tôi đã nói chắc-chắn trước mặt chánh phủ như vậy rồi Tôi với Anh Thượng Đầu-Sư
phải thường đi xuống miền Hậu-giang để lời khuyến nhủ chư Đạo-hữu tu hành cho
chính-chắn và ăn chay làm lành như Tôi đã hứa trên đây
c/ - Nhắc việc cất Tổ-Đình:
Khi trả chùa Gò-Kén lại cho Hoà-Thượng Như Nhãn rồi, Hội-Thánh dọn về đất mới
mua, ngày nay là Thánh Địa.
Dời chùa thỉnh cốt Phật cũng là khó-khăn hết mức. Chính phủ cứ theo rình
mò, làm khổ sở cho Đức Cao Thượng-Phẩm, vì cớ mà bổn Đạo quá sợ, ít ai dám tụ họp
đông. Khách lai rai, có ít người đến Cúng thôi. Cũng vì cớ mà eo-hẹp tài chánh,
nên tạo phát một ngôi chùa tạm lợp bằng tranh, đốn cây trong rừng làm cột.
Tranh thì vô rừng cắt khỏi tốn tiền, cắt dây cổ rùa đem về làm lạt. Tuy là chùa
tranh, cây gỗ mặc dầu cũng chịu đựng được mười năm dư. Trong lúc này Đức Cao
Thượng-Phẩm đã qui Tiên, năm 1929.
Khởi đầu đúc nền Toà-Thánh ngày mùng 1 tháng 11 năm Bính-Tý (1936). Còn Đức
Hộ-Pháp thì Ngài xuống Vũng-Liêm thương lượng với Tôi rằng:
Chùa lợp tranh hư dột, mối ăn, cây hư hết, nên Đức Hộ-Pháp tính cất chùa
cho chắc, làm bằng xi-măng, cốt sắt cho được vĩnh-viễn (Hoạ đồ Đức Lý đã vẽ sẵn,
coi theo hoạ đồ của Đức Lý mà cất).
d/ - Việc mua đất Cực-Lạc
và làm phép Hôn-phối:
Đất Cực-Lạc, hai Tôi đứng mua đất này, sau Ông Huyện để là Đất Cực-Lạc vô
vi cảnh giới (ngày nay thành ra Nghĩa địa).
Về việc xã-giao, Đời, họ trọng vật chất hơn nên Tôi tìm phương gần-gũi với
thượng khách, nói đạo-đức cho đời họ hiểu biết rồi mới độ được. Nhắc lại hồi
Tôi mới gặp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Bính-Dần (Mardi
15 Juillet 1926) Thầy giáng Cơ kêu hai Tôi quì trước Thiên bàn, Thầy ban ơn cho
hai Tôi, Thầy làm phép Hôn-phối đầu tiên hết. (Phò loan có Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp).
Thầy cho 4 câu thi cùng dạy Đạo.
Tại nhà ông nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định (5-6 Bính Dần)
Thầy,
“Thơ, con với vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau:
Thiên ân thử nhựt tứ thành
hôn,
Mãn thế bất ly thể dữ hồn.
Đạo-đức nhất tâm tu đáo
cáo.
Chủ trung thị Ngã chí
Thiên Tôn.
天 恩 此 日 賜 成 婚
滿 世 不 離 體 與 魂
道 德 一 心 須 到 告
主 中 是 我 至 天 尊
Dạy con hiểu à!
Ngài bảo Nguyễn-Ngọc-Thơ viết ra Hán văn.
(Chính soạn giả chúng tôi chưa hân hạnh được gặp bài thơ chữ Hán, nên tự viết
lấy. Xin được chỉ giáo thêm)
5 - Phút qui Tiên của Bà
Lâm Hương-Thanh:
Năm Đinh-Sửu, Đức Hộ-Pháp và Hội-Thánh đi Kiêm-biên (Nam-vang) giao cho Bà ở
nhà lo ngoại giao những nơi bị Pháp làm khó dễ, Bà đi hầu Toà rồi kế Bà lâm bịnh
nặng rồi qui Tiên vào ngày 8 tháng 4 năm Đinh Sửu (1937). Được tin Bà qui thì Đức
Hộ-Pháp ở Kiêm biên về hiệp với Chức sắc lo cử hành lễ Đạo táng cho Bà.
Bà liền về Cơ, một điều huyền-diệu là khi còn tại thế, Bà đi đó đây lo việc
ngoại giao cho Đạo, khi thác Bà cũng lo. Nguyên là khi xin phép khai đàn, nhà cầm
quyền đã cho mà giờ chót lại cấm. Hội-Thánh đang lo sợ thì Bà giáng Cơ nói: Để
Bà lo cho, dạy Hội-Thánh đến lần sau sẽ được dễ dàng.
Bà là người đã lập một đại công với nền Đại-Đạo của Chí-Tôn. Riêng Nữ-phái,
Bà là người Chị Cả dìu-dắt đàn Em phái Nữ. Sở hành của Bà là sở hành của một Nữ
Trung Tùng phận, là một Nữ phái Cao-Đài gương mẫu. Nghĩa cử ấy hằng năm Hội-Thánh
làm lễ Vía kỹ niệm một cách trọng thể, nhưng dù thế nào chăng nữa thì ngày Vía
của Bà cũng trùng với Vía của Phật Thích-Ca.
Công ấy, cảm tình này, đồng Đạo mãi ghi ơn Người đến thất ức niên tuổi Đạo.
Bức tượng ảnh của Bà được ghi tạc trước mặt Đền Thánh, bên lầu trống, tức
là Lôi Âm Cổ Đài. Còn bên lầu chuông thì tạc tượng Đức Quyền Giáo-Tông Lê-Văn
Trung, đối xứng nhau. Khi Đức Hộ-Pháp trấn Thần Đền Thánh vào ngày 6 tháng
giêng Đinh-Hợi (dl 27-1-1947), lúc trấn Thần đến hai bức tượng này, Ngài nói
ý-nghĩa rằng:
“Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để tiếp rước nhơn sanh tiến bước
vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái Chí-Tôn mỗi khi vào Cầu nguyện và
chiêm bái Đức Chí-Tôn”.
Tượng Bà Nữ Đầu-Sư
Lâm-Hương-Thanh
6 - Bài thài hiến Lễ cho Bà Lâm Hương-Thanh
Bà giáng cơ cho bài thi để làm Bài Thài tế điện
Đầy giỏ Hoa Lam chất ái
tình,
Y theo mặt luật của khuôn
linh.
Thử căn linh thể nơi phàm
tục,
Mới hưởng hồng ân chốn Ngọc
đình.
Nam Hải là bờ ao Thất Bửu,
Tây Ninh nền tổ quán
Tam Thanh.
Thuyền từ trở lái lìa
sông Lệ,
Nhớ bạn chơn mây gởi tấc thành.
Nữ Đầu-Sư Lâm-Hương-Thanh
B - Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương
Thanh giáng Cơ
Tại Hộ-Pháp Đường, đêm 1-1-1946.
Phò loan: Khai Đạo và Sĩ Tải Lợi.
Chào Trí Thanh, cùng mấy
em.
LÂM tuyền đã ẩn mấy thu
sang,
HƯƠNG đượm nhuần trăng đã
lố màn.
THANH Thủy châu về huờn kiếm
báu,
Đề danh đến buổi đất nhà
an.
Khai Đạo bạch:…
- Đây hết buổi phong ba, đến hồi an tịnh. Vậy mà không sao. Mình muốn cho
yên, trước phải loạn, sau mới yên được. Muốn nước đang đục lóng trong thì phải
quậy trộn cho dữ mới lóng bùn được.
Đạo có khảo mới cao. Chức sắc bị khảo mà chịu nỗi mới có giá trị. Học trò
chịu khảo thí mới lãnh cấp bằng. Nếu từ chối thì rớt. Thế thường học nhiều đậu
ít.
Còn nơi đây là Trường Công Quả, vậy vị nào muốn xứng đáng Môn-đệ của Đức
Chí-Tôn thì chẳng bao giờ ngần ngại các việc công quả, cho chung Thánh-Thể Đức
Chí-Tôn, cũng do nơi mấy em đào tạo về mặt ngoại giao.
Vậy có câu:
Ái nhơn, nhơn hành ái chi,
Bất ái nhơn, nhơn hành bất
ái chi
Kỉnh nhơn, nhơn hành kỉnh
chi,
Bất kỉnh nhơn, nhơn hành bất
kỉnh chi
Có cảm mới có ứng. Nên hiểu lọc lừa đi cho khéo, đồ cho trúng thời đắc chí
sở nguyện.
Tâm vững, cầm lèo lái chạy qua bỉ ngạn. Tuy sóng to gió lớn, lượn sóng xuôi
sẽ chạy, miễn rằng ngó phía trước thuyền, tránh cho lẹ những đồ vật ngăn cản.
Sĩ Tải Lợi bạch:…
- Sợ không quen sóng gió, buồn mửa. Nếu có mửa thì uống nước chanh . Mình
ăn phủ bì chúng nó mà.
- Em Thái Khý Thanh, nhờ mới để bộ râu nên vuốt râu thả mồi câu chúng nó.
Nó mảng nghĩ nhìn bộ râu, quên cả sự nghiệp, đành chịu phọt phe.
Ước mong sao mấy vị trong đám cầm cờ chỉ nẻo Cửu Trùng đồng phun râu, chúng
nó mới kinh hãi.
Qua mừng và khen tặng Chú Khách nầy làm gương cho kẻ Việt.
THI
Nam Hải Prasey ấy vẫn gần,
Hai đàng buổi trước lại đồng
thân.
Nhớ nhau khuyên nhủ đôi lời
tặng,
Cùng bạn khi xưa lúc ở trần.
Thăng
Báo-Ân-Từ, 19-7 Kỷ-Sửu (dl. 13-8-1949)
Phò-loan: Thừa-sử Kiết. Truyền-Trạng Trấn. Hồi
20g30
Tệ Thần: Trần-văn-Xương
Xin chào chư Chức-sắc Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng
cùng tất cả chư Đạo-hữu, Đạo-muội.
Tệ Thần được phép đến cho Chư vị hay rằng: Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh sẽ về
thăm quí vị. Thăng.
Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh:
Kính chào Đức Hộ-Pháp kiêm Thượng Tôn Quản Thế cùng Chư Chức-sắc Hiệp-Thiên
và Cửu-Trùng Nam Nữ.
Tệ Tỷ lấy làm cám ơn chư quí vị có tâm nghĩ đến tầm lo phương điều về
Thánh-địa, nhứt là ơn của Đức Hộ-Pháp, mặc dù Thiên cảnh nhưng cũng ngùi ngùi
nhớ niệm ơn tình đồng Đạo. Tệ Tỷ cám ơn đó.
Tệ Tỷ xin lỗi muốn nói chuyện cùng Nữ-Phối-sư Hương-Hiếu, Tệ Tỷ tưởng cả
đoàn Nữ-phái ai cũng dòm ngó theo đàn Chị mà tiến bước đạo-mầu.
Tệ Tỷ lấy làm thẹn buổi sanh tiền chưa dịp chấn chỉnh tráng lệ, rồi gặp phải
thời cuộc biến chuyển lôi cuốn Nữ-phái vào cảnh tang thương khóc hận, lỗi ấy Tệ
Tỷ có phần chịu, thì nhờ mấy Em kế chí dắt dìu đoàn Em sau. Tệ Tỷ cũng nhận thấy
tinh-thần của Nữ-phái dầu kém thua Nam, nhưng tiếc vì thiếu người chỉ nẻo đem
đường đến chỗ hữu dụng của họ đó thôi.
Vậy Em Hương Hiếu, Chị giao Em thay phận, tầm phương diệu huyền tuỳ thời tuỳ
cảnh ngộ, kêu gọi lòng yêu ái của Nữ phái làm mối chuẩn thằng có sức mạnh vùa
vào rồi mới có thể Nam Nữ đồng tâm nâng thuyền Đạo đến bao la thế giới.
Em nên nhớ, Nữ phái trong vũ-trụ này còn đói giọt thương yêu của DIÊU-TRÌ
KIM-MẪU chan rưới.
Như thế phần Em rất nhọc-nhằn lắm vậy. Chẳng phải Nữ-phái cứ tùng Nam-phái
hoài sao? Nếu còn như thế mãi thì Nữ-phái mất phận mình là nguồn Thương-yêu vô
tận vậy.
Nói qua xã hội thế giới cũng vậy, cũng vì đời thiếu sự Thương-yêu chân thật
bao la mà can qua chưa yên lặng. Từ đây Chị trông Em lo liệu, mọi việc có Chị
giúp sức. Kính lời chào tất cả mấy Em, hẹn lần sau sẽ tái ngộ.
Thăng
Ngày 25-7 Kỷ-Sửu (dl 18-8-1949)
Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh
Chào chư Chức-sắc Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng-Đài cùng các Em Nữ-phái. Tệ Tỷ để
lời cám ơn toàn thể Nam
Nữ chu-đáo lo cuộc lễ hôm nay.
Em Hương-Hiếu và Hương Lự, hai Em nói lại cùng tất cả Đạo-hữu Nữ-phái, Chị
cảm tình. Cười…
Cũng nhơn dịp này mà Chị được gặp cháu trong một thời gian ly loạn vừa qua.
Tệ Tỷ xin lỗi cho Tệ Tỷ nói chuyện cùng đoàn em Nữ-phái.
Hương-Hiếu và Hương Lự, hai Em là Chị lớn nơi đây, Chị nhắn đôi lời để khuyến-khích
đoàn em Nữ-phái kẻo chúng nó côi quạnh tội nghiệp lắm!
Chị nhận thấy tinh-thần họ đâu quá bạc nhược vì bằng cớ hiển nhiên không ai
có thể chối cải được, duy còn thói tục quá mê-tín ấy chẳng qua là nguồn cội của
sự đa cảm đa lo mà ra. Nếu có phương thế un-đúc sự khôn ngoan và học thức thì sẽ
đặng hữu dụng sau này.
Vậy hai Em cố tìm phương gỡ rối chỗ khuyết điểm mà liệu thế gây tình thiện
cảm với nhau mới có thể dung hoà làm một mối binh khí quan-hệ cho tương lai.
Thời thế Đạo duy họ giữ lấy nghiệp mà họ đã có sẵn là sự Thương-yêu vô tận
của Chí-Tôn đã gieo trong cửa Đạo, phải nhớ luôn luôn rằng tấm gương trong sạch
là nguồn rửa bợn tục, đừng quá ngu dại mà phải bị đoạ đày, khó đoạt phẩm vị
Thiêng-liêng mà cũng do nơi đó họ tự đem mình vào muôn sầu ngàn thảm cho kiếp
má đào.
Em nên nhớ, phụ-nữ thế giới họ đã tiến theo thời cuộc mà không chuẩn-thằng
nên ra rẻ-rúng. Trong cửa Đạo, càng tiến triển theo thời đại thì lại càng ngoan
Đạo nhiều chừng ấy.
Ấy vậy, nơi đây là nơi un-đúc đoàn phụ-nữ tương lai của xã-hội đạo-đức, thì
Em cố chịu nhọc-nhằn gần gũi đoàn Em mà giáo dạy thêm.
Suzane cháu, Bà hết sức hộ mạng mẹ con của cháu, nhưng quả kiếp vay trả nợ
đời kế cảnh sang hèn vinh nhục, dầu bực nào cũng chẳng ai tránh khỏi. Cháu chớ
tủi mà làm gì, cứ ngó theo nơi mọi điểm bước tiền trình, Mẹ cháu dầu ở xa-xuôi
nhưng vẫn được vẹn phận yên thân, có ngày hội ngộ, không sao mà lo ngại. Cháu dầu
phiêu-lưu nơi tha phương mà tinh-thần vẫn hoài cố quốc thì có ngày cháu được toại
nguyện, miễn cháu cố giữ nghiệp mà Bà đã lập ra đó.
THI
Một bước phiêu-lưu vạn bước
khôn,
Ngoan vì đạo-đức phước lai
tồn.
Tại đây sản xuất nguồn
Chơn giáo,
Dạy cháu nên trau nghiệp Tổ-tông.
Hương Hiếu, Em đừng phiền muộn cho phận côi quạnh nữa nghe! Chi chi cũng có
Chị bảo hộ cho.
Tệ Tỷ xin kiếu.
Thăng
Tái cầu: Cao Thượng-Phẩm.
Chào quí Bạn Hiệp-Thiên-Đài cùng quí bạn Cửu Trùng-Đài có mặt nơi đây.
Khi nãy Chị Nữ Đầu-Sư về cảm tạ ơn Hội-Thánh Nam Nữ có lòng lo dời thể thân
của Chị về Thánh-địa. Bần-Đạo cũng vui cho Chị đó, mà cũng mừng cho lòng hiệp sức
của toàn Đạo làm xong một việc nghĩa có ảnh hưởng về mặt tinh-thần của nền Đại-Đạo
hiện thời.
Ấy cũng nhờ Đức Hộ-Pháp có mỹ-ý. Bần-Đạo cũng nói sơ về thế cách biến đổi
thi hài như thế ấy chẳng qua nghiệp đời người gây tạo, phải như thế mới trả rồi
nghiệt oan gia thì Thánh-Thể mới cao thăng chớ không có gì lạ. Của thổ qui hồi
thế sự.
Mấy Bạn Hiệp-Thiên-Đài muốn hỏi thăm cuộc Lễ di cữu thì đâu có khó gì! Lễ
thì đã có sẵn, còn quyền định đoạt thì do quyền Chí-Tôn của Đức Hộ-Pháp định là
xong. Còn gì phải hỏi cơ cầu! Cười…
Bảo Thế, nên đến yết kiến Đức Hộ-Pháp thì yên việc nghe!
C - Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo
nhắc về công nghiệp của Bà Nữ Đầu-Sư Lâm-Hương-Thanh
Bài 1:
(Tại Đền Thánh, đêm mùng 7 rạng mùng
8 tháng 4 năm Kỷ Sửu (dl 5-5-1949), là ngày Vía Đại Đàn cúng Đức Phật Thích Ca
và cũng là ngày Lễ Kỷ niệm Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh đăng Tiên, Đức Phạm Hộ-Pháp
Thuyết Đạo nói về nguyên căn của Bà, như sau)
“Đêm nay là Vía Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni mà cũng là ngày Vía Chị Cả của
chúng ta là Bà Nữ Đầu-Sư Lâm-Hương-Thanh.
Chẳng biết ngẫu nhiên hay là tiền định mà Bà Nữ Đầu-Sư qui liễu nhằm ngày
Vía Đức Phật Thích-Ca. Theo Bần-đạo hiểu biết, tưởng những người ái mộ Đạo Phật
nồng nàn hơn hết, chúng ta có thế nói rằng: Bà Nữ Đầu-Sư cũng là người đứng đầu
sổ của thiên hạ vậy.
Trước ngày Đức Chí-Tôn mở Đạo, Bà Đầu-Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi,
chính miệng Bà thuật lại với Bần-Đạo: Từ bé, Bà chỉ để tâm ham mộ Đạo Phật.
Không biết có quyền-năng lạ-lùng của Đức Chí-Tôn tiền định hay chăng?Mỗi khi niệm
câu chú của Phật để tồn tại, thì Đức Chí-Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là
Tam thiên Đại Thiên Thế giái. Đức Chí-Tôn là Phật vị, nên Bà đã thương lắm,
thương một cách nồng nàn. Khi Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao Đài, tức nhiên Phật giáo
Chấn hưng đó vậy. Ngày nay là Lễ của Đức Phật Thích Ca và là ngày Lễ của Chị
chúng ta, chúng ta nên để tâm cầu nguyện Chơn linh của Ngài và của Bà, tức
nhiên là Long Nữ, cả thảy chúng ta đều biết cái bí mật ấy.
Bà Nữ Đầu-Sư,Chơn linh Long Nữ. Long Nữ là ai ?
Thật ra, là người đòi của Phật Quan Âm Bồ Tát đó vậy. Bần đạo hiểu về cái
thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách nhiệm trọng yếu, vâng lịnh Đức
Di-Lạc Vương Phật, chưởng quản điều khiển Bát Nhã Thuyền.
Vì cớ cho nên Đức Quan Âm Bồ Tát không thể giáng trần được, chính mình Long
Nữ là người hầu của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn linh, các
Cung các Điện và Hộ-Pháp, đặng mở nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn, hầu tận độ vạn
linh đoạt cơ giải thoát”.
Bài 2 - LỄ KHÁNH THÀNH NỮ
ĐẦU SƯ ĐƯỜNG VÀ RƯỚC LINH VỊ CỦA BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH ĐỂ THỜ NƠI NỮ ĐẦU
SƯ ĐƯỜNG
Đức Hộ-Pháp nói:
Ngày 15-08 năm Tân Mão (1951) Lúc 8g sáng.
“Mấy Em, Qua đã nói cả công nghiệp của mấy Em, cả sự khó nhọc của mấy Em đều
đổ trút lên lưng Qua hết. Đó là cao thượng của mấy Em hơn hết.
Thưa cùng Hội-Thánh Nam Nữ, các cơ quan.
Hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng ta, cầm
cây Linh bút của Ngài tạo nền Chơn giáo. Ông đến với một thân già nghèo của
Ông, chính mình Ông khai rằng: Ông là một Ông già nghèo Ổng nói "Tròi trọi
mình không mới thiệt bần”. Ông đến cho ta một danh thể là lập Hội-Thánh cho con
cái của Ổng, nhưng Ông còn cỡi được con Bạch hạc ở trên mây trắng, còn Thánh-Thể
của Ông ở ngoài mưa nắng cũng không được nữa, nó khó lắm đó vậy. Tình trạng rất
khó khăn, Ổng đến với một thân nghèo để tạo dựng Thánh Thể cho con cái Ổng.
Mà ôi thôi! Đám Thánh-Thể của Ổng nó cũng nghèo nữa, nhưng mà cái nghèo đó
chúng ta có một năng lực cao thượng vô giá không thể tưởng tượng được. Có lẽ cả
thảy đều ngó thấy buổi phôi thai, là khi Đền-Thánh mới tạo, con cái của Ngài phải
chịu biết bao nhiêu khổ hạnh, ăn thì bữa đói bữa no đặng tạo dựng Đền-Thánh, đến
bây giờ thành tướng làm cho Vạn quốc ngó thấy, trông vào đều khen ngợi, đó là
khối muối của sắp nhỏ trở nên hình đó, do sự nhẫn-nại nhọc nhằn của sắp nhỏ mà
nên đại nghiệp ngày nay đó vậy.
May thay! Đám con chí hiếu của Ngài trước sao sau vậy, liều mảnh thân phàm
nầy làm con tế vật cho Đạo.
Cả thảy Hội-Thánh tưởng lại coi tạo dựng một dinh thự Nữ-Đầu-Sư-Đường như vậy
chỉ có 250.000$ (hai trăm năm chục ngàn đồng bạc chẵn) có tay thợ nào dám làm
không? Tôi dám chắc không dám. Bởi vì giọt mồ hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô
trong này bằng ba lần như vậy, đó chỉ có nhờ thiên hạ cho mớ vật liệu hòa với
giọt mồ hôi đám sắp nhỏ mà nên hình tượng đó vậy.
Các Con, các Em để ý coi Ông già đó, Ổng không chịu thiếu nợ ai hết, công
nghiệp của mấy Em, Ông trả nơi thế nầy không đặng thì về cửa Thiêng Liêng Hằng
Sống Ổng cũng trả cho được Ổng mới nghe. Các con đã ngó thấy, những đứa con hiếu
hạnh của Ông giờ phút nầy có biết định phận của nó thế nào đối với Thánh Thể. Mấy
đứa trong Quân Đội bây giờ là ai? Là đám công thợ buổi trước tạo dựng nghiệp Đạo
rồi nó còn hy sinh xương máu bảo vệ đại nghiệp cho con cái của Ngài nữa, đương
đầu với những trở lực oai quyền, hiện giờ nó nuôi lại Em nó, chia từ miếng cơm
manh áo cho mặc.
Cả đại nghiệp nầy là nhờ đám con chí hiếu của Ngài tạo dựng nên, chớ Tôi
không làm gì được hết, chỉ có là đốc thúc vô cho chúng nó làm chớ thân nầy ôm
viên gạch cũng không nỗi. Bần-Đạo chỉ mong có một điều là toàn thể con cái của
Ngài Nam Nữ mỗi ngày đều tưởng tượng đến công khó nhọc Anh Em nó, khó nhọc của
đồng bào toàn thể nước nhà, nòi giống đã tạo dựng nên nghiệp ấy, lấy cả sự nghiệp
nầy làm môi giới, giữ đạo đức làm bùa hằng tâm, thương yêu với nhau, giữ nghĩa
với nhau cho đến bảy trăm ngàn năm (Thất ức niên) theo lời của Đức Chí-Tôn đã định,
dầu Bần-Đạo còn ở đây hay về cõi Hư-Linh. Cung ấy an lạc đi nữa, cũng nhớ đến đại
nghiệp con cái của Ngài và Bần-Đạo dám đại ngôn với Ngài rằng: Con cái của Ngài
giữ tâm chí hiếu với Ngài và đối với Phật Mẫu cũng vậy”.
Bài 3 - NGÀY VÍA ĐỨC PHẬT
THÍCH CA và BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH.
Đền-Thánh đêm 07-4 năm Nhâm-Thìn (1952)
“Đêm nay là đêm cầu nguyện về ngày Vía của Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu-Sư,
vía Bà Nữ Đầu-Sư trùng với Đức Phật Thích Ca.
Nếu như chúng ta tin về đạo đức, chúng ta nói rằng có thể tin về mê tín,
thì Bần-Đạo nói rằng: Không có ai thương yêu Đức Phật Thích-Ca trong kiếp sống
của mình hơn là Bà Nữ Đầu-Sư, trong một đời của Bà, Bần-Đạo tưởng thiệt là một
người giữ Đạo, Bà chỉ giữ Đạo của Đức Phật Thích-Ca mà thôi. Khi Đức Chí-Tôn đến
mở Đạo, Bà theo chân của Đức Chí-Tôn đã đành, không ai dại khờ gì khi người đã
có tâm Đạo mà còn mơ hồ e lệ sự chọn lựa của mình, nhưng Đức Chí-Tôn là khác,
mà kính trọng thờ phượng Đức Thích-Ca đối với Bà Nữ Đầu-Sư là khác, huống chi
trọn cái gia đình từ Mẹ dĩ chí Bà đều thờ phượng một cách rất tôn-nghiêm, dám
chắc phần nhiều không có ai thờ phượng được như cả gia-tộc của Bà đã thờ phượng
Đức Thích-Ca.
Luận tới đây Tôi nghĩ ngày này đáng lẽ nếu nói rằng nước Việt-Nam chủng tộc
ta có thể thờ Đức Phật Thích-Ca nhiều hơn hết, nhưng đến Đại Lễ này nếu không
tưởng niệm đến Đức Thích-Ca đi nữa là cũng còn đoái đến tình của Bà Nữ Đầu-Sư
mà dòm lại Phái Nữ trong Đại Lễ thấy lơ-thơ, có phải vô tình chăng? Hay là Đạo
của Phật Thích-Ca và công nghiệp của Bà Nữ Đầu-Sư bị có cơn mưa rồi lạnh ngắt,
đã lạnh trước rồi bị trận mưa nữa nó lạnh luôn.
Bần-Đạo xin nói thật, Đức Phật Thích-Ca, dầu sự trị thế của Ngài đã hết,
chúng ta chỉ nói là hết thôi. Hai ngàn năm trăm năm (2.500) lập Đạo trên cõi
Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Môn-đệ của Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng Ông
già ăn mày ấy không đủ quyền năng, mà các người khi dễ. Nội cái Bình-Bát-Vu của
Ông đựng cả chơn hồn trong Càn Khôn Vũ Trụ, Ông ăn mày tại thế này vậy mà ngôi
vị Cực Lạc Thế Giới của Ông các người xin một phẩm Liên Hoa, Ông có thể cho, là
một người không nên khi dễ, không nên nguội lạnh với người đó, bởi vì Môn đệ của
Ngài trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống nhiều lắm.
Bà Nữ Đầu-Sư hồi còn tại thế này cũng vậy, hay về cõi Thiêng-Liêng cũng vậy
thương Em lắm, thương phái Nữ lắm, Bà binh vực bảo trọng từ khi mới mở Đạo, biết
bao phen Đức Lý-Giáo-Tông đã phẫn nộ, chính mình Bần Đạo cũng không thế binh vực
được mà còn có thể ghét nữa mà chớ. Duy có một mình Chị binh vực bảo trọng phái
nữ còn tồn tại đến ngày nay, bằng không thì bị phế rồi, bị Đức Lý phế rồi đó.
Bần-Đạo nói thật mấy chị. Ôi! Không phải kiếp sanh dễ gì ngộ Đạo, Bần-Đạo
đã chán biết khó khăn kiếp sống của mình tại thế bao giờ cũng vậy, nó làm cho
mình nặng nề khổ não về tinh thần, nhưng chúng ta đem lên mặt cân thiêng liêng,
chúng ta lấy trí khôn ngoan để suy đoán cho cùng, chúng ta phải lấy trí khôn
ngoan công chánh mà phán đoán, phần nào xác là xác, phần nào hồn là hồn, cái
xác thịt nó không phải ở đây cho đến lúc tận thế đa nghe! Kiếp sống tại thế gian
này của mấy người không mấy lát, cao trọng cần yếu hay chăng là phần hồn, đừng
sa xuống Địa Ngục, đừng xuống đó là hơn hết. Xuống cửa đó rồi khó giải thoát lắm,
khó giải thoát lắm đa nghe. Còn phần xác thì xác, hồn là hồn, mình lấy cái trí
não của mình, lấy cái trung dung của mình làm sao cho Đạo có công chánh, hòa
bình, xác cũng vậy, hồn cũng vậy. Chỉnh cầm cân giữ mực thước làm sao cho xác
thế nào, thì phần hồn kia cũng vậy, đừng trọng bên này, phụ bên kia, là khôn
ngoan hơn hết. Còn một cái trọng yếu hơn nữa là phải nhớ luôn luôn phụng sự Đức
Chí-Tôn, công nghiệp ấy không bao giờ mất, bởi Ông già đó chẳng chịu thiếu nợ
ai hết, trái lại nếu chúng ta có phương thế lập vị chúng ta rồi mà chúng ta còn
dư thừa công nghiệp đối với Ngài. Nhớ lại trong Cửu Huyền Thất Tổ của ta chưa
chắc họ đều siêu thoát đặng, để chút của cải ấy đặng độ họ, tội nghiệp biết đâu
trong Cửu Huyền Thất Tổ của mỗi đứa ta lại không có người ở dưới Phong Đô, rán
tiện tặng chút đỉnh cho có của cải Thiêng Liêng cho họ hưởng mới khỏi uổng kiếp
sanh của mình. Đức Chí Tôn có nói:
"Đài Vân Quan Võ để
Phong Thần,
Còn của Thầy đây để nhắc
cân,
Muôn đức ngàn lành không
sót một,
Bao nhiêu công quả bấy
nhiêu phần".
Đấng đó không biết thiếu nợ ai hết và đã nói chẳng hề khi nào sai lời. Đã
ngộ Đạo, đã biết Đạo, đã theo chân Đức Chí-Tôn mà không biết tự mình tìm phương
giải thoát, dầu chúng ta không mong mỏi cứu độ Cửu Huyền Thất Tổ đi nữa, cũng
mong mỏi tự giải thoát cho mình là trọng yếu hơn hết, biết Đạo mà nguội lạnh tốt
hơn hết đừng có ở trong cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong cửa Đạo, ngồi nữa thêm
tội không ích gì. Thử chúng ta để dấu hỏi chúng ta tu đây trông mong cái gì? Đừng
như kẻ mờ hồ kia mà Đức Chí-Tôn đã để :
Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng
Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói
chẹt lườn.
Co cẳng muốn vào rồi lại
thụt,
Biểu thương sao đặng buộc
người thương?"
Thử xét lộn lại một ngày kia, mấy người về cõi Thiêng Liêng mà ngó thấy tôi
đứng giữa không trung đó, mấy người kêu tôi biểu Ông cứu độ tôi, vì hồi đó tôi
có gặp Ông tại thế, thì bây giờ Ông cứu độ tôi với - tình trạng đó tôi biết trả
lời với mấy người làm sao chớ? Có thể một ngày kia tôi sẽ dâng sớ cho Đức Lý lập
một hình phạt, hình phạt của tôi ngộ nghỉnh lắm: Không cho phái nữ đi vô Đền
Thánh một thời gian, hành lễ ngoài sân một thời gian, bằng xin không được nữa,
thì không khi nào lên Chức Sắc Thiên Phong được với tôi mà chớ!”.
Bài 4 - KỸ-NIỆM NGÀY QUI
LIỄU CỦA BÀ NỮ ĐẦU SƯ LÂM HƯƠNG THANH - NHẮC LẠI CÔNG LAO VÀ TÀI SẢN CỦA BÀ.
Đức Hộ-Pháp thuyết Tại Tháp Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh ngày 08-4 năm
Nhâm-Thìn (1952)
“Hôm nay toàn thể mấy em Nam, Nữ đến kỹ-niệm ngày qui liễu của Bà Nữ Đầu-Sư
Lâm-Hương-Thanh.
Nhắc lại hai mươi mấy năm trước, hai mươi sáu năm chúng ta hội hiệp với
nhau thế nào, ngày hôm nay kẻ còn người mất, dầu ai có gan sắt đá cũng phải não
nề. Luật thiên nhiên định vậy, duy có một điều hạnh phúc cho kiếp sống của
chúng ta chỉ về Thiêng liêng thấy cả toàn thể em út đã nối chí đặng giữ nghiệp
Đạo, nếu có hưởng đặng mảy may hạnh phúc chăng chỉ có bao nhiêu đấy mà thôi.
Ôi! Biết bao nhiêu khổ não, truân chuyên thương Em, mà điều chẳng qua liễu
Đạo của Chị, cái chết của Chị trong đầu óc Em biết sao mà nói, tưởng tượng quả
quyết rằng vì Chị bị cường quyền khảo quá thế, một người đa tình đa cảm như Chị
chúng đã khảo dượt với một phương pháp ấy không thế nào sống đặng. Đương khi bịnh
chúng dắt đi hầu Tòa, dẫn ra dẫn vô đến nỗi khi trong Tòa ra rồi Chị nói rằng:
Không có chết giấc tại đó mà thôi, về tới nhà bịnh làm cho tới chết, mà chết phải
chăng cái việc nghi ngờ của Em không phải là mờ hồ, thì Em dám lộng ngôn nói rằng
Chị đã tử vì Đạo là không quá lời. Em đã làm Hộ-Pháp chỉ ân hận một điều: Chị
giàu sang tưởng nơi mặt thế này, người nào có thể nói với thiên hạ rằng: Trong
kiếp sanh tôi giàu sang, nào ruộng đất, lầu đài ngọc ngà châu báu, không có món
gì mà Chị không có, chỉ tiếc một điều là của cải ấy không để nơi nào nó phải để.
Nếu giờ phút này Bần-Đạo nói: Người Chị của ta có ân hận chăng là chỉ có bao
nhiêu đó mà thôi.
Bần-Đạo nhớ lại khi khởi cất Đền-Thánh thì đã ba phen thâu của tín-đồ, thâu
của nhơn sanh, đặng cất Tòa Thánh, cất không nỗi. Tới ngày khởi cất, ngày Bần-Đạo
nhất định cất, có 13 ngàn đồng buổi đó không phải dễ, mở trong tủ ra chỉ còn
1$46. Cất Toà-Thánh trong lúc thời thế nguy ngập, người ta bất-tín-nhiệm chạy tiền
không ra, không biết làm thế nào khởi đương ra cho mạnh mẽ đặng thâu tín nhiệm
thiên hạ lại. Túng tiền, Bần-Đạo phải đến tại Vũng-Liêm, tưởng đâu Chị có dư-dả
mới đến, con người như thế này không đến nước túng thiếu quá lẽ. Xuống tới dưới,
tới chừng khi hỏi Chị đặng mượn số tiền về khởi công cất Tòa Thánh, Chị dắt đi
xuống chỉ mấy kho lúa đầy nhóc hết, mà lúa 0$20 một giạ, hồi đời đương khuẩn
bách từ Á tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu có thể với giá bây giờ dầu 10
triệu trả cũng được. Một giạ có 0$20 tiền Chị đó Em.
Ôi! Lúa có 0$20 có chết được không, Qua nói thiệt với Em trong mình Qua
không còn gì hết. Ngồi suy nghĩ một hồi, vô mở tủ sắt lấy ra một hòm sắt lớn đầy
vàng hết, từ Bà Cụ dĩ chí gia đình đều để đồ kỹ-niệm trong ấy, hột xoàn nhiều
hơn hết, đem hòm ấy đưa cho Em đi cầm, thời buổi khuẩn-bách này ngoài 90 ngàn tới
100 ngàn đặng khởi công cất Tòa Thánh thì được rồi, nhưng một ngày kia tới chừng
trả rồi mới làm sao; lấy cầm thì được tới chừng chuộc thì tiền đâu, biết chuộc
đặng hay không? Nói như vậy rồi cười với nhau mà thôi. Chị nói trên có huyền
linh của Đức Chí-Tôn, dưới có cả đức-tin con cái của Ngài, Nam cũng thế, Nữ
cũng thế, đâu Em về cất bướng coi, không cần lấy đồ này, cứ tin Đức Chí-Tôn, Em
làm lúng cái coi được hay không. Bần-Đạo về với hai bàn tay trắng làm đến
thành.
Cái Đức-tin mạnh mẽ như thế đó, nếu giờ phút này Chị còn, Chị ngó thấy thời
cuộc này, không thế gì Chị tưởng tượng có cái cảnh này được.
Bên Phái Nữ hạng nhứt mấy người còn sống tại thế, mấy người còn sống thấy
cái đại nghiệp Thiêng Liêng của Đức Chí-Tôn đã tạo cho mấy người, mấy người đã
được hưởng, hễ khi trong tâm của mình không đủ Đức-tin, tin nơi mình, định vận
mạng mình, cho Đạo, cho nòi giống, nếu nói là tôi vô phước không thế gì vô phước
hơn người đó, bởi vì người đó không thấy được như tôi, dầu Chị giờ phút này ôm
Bình Bát Vu đi xin như Đức Thích-Ca độ Đời, dám chắc Chị không từ cầm Bình Bát
Vu hành khất đặng hành Đạo như Đức Phật Tổ, không khi nào chối từ và lấy làm hạnh
phúc đặng làm điều ấy.
Thử nghĩ như thế đó, cả toàn thể phái nữ, mấy chị phái nữ, mấy chị lớn kia:
Kẻ qua đời, người già yếu, nối chí đặng hay chăng là đàn em. Bao giờ họ thấy
Thiêng Liêng Vị họ cũng làm, làm mà dòm lộn lại coi đàn em nó có kế chí mình
hay không? Nối chí đặng gìn giữ đại nghiệp Thiêng Liêng này hay chăng? Mặc dầu
có mất chút ít mà có kế nghiệp đặng khỏi tuyệt tự, thì Bần Đạo dám chắc họ
không hưởng được hạnh phúc nào bằng”.
Bài 5 - Vía Đức Phật Tổ và
Bà Nữ Đầu-Sư.
ĐỨC HỘ PHÁP Thuyết Đạo Lễ kỹ-niệm Bà Nữ Đầu-Sư LÂM HƯƠNG THANH, ngày 8
tháng 4 năm Quý Tỵ (1953)
“Mấy Em Nam, Nữ Lưỡng Phái, Thưa cùng Chư
Chức Sắc Nữ Phái Đại Diện các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.
Hôm nay, ngàyVía của Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh, tức nhiên là Chị Cả của
Nữ Phái đó vậy.
Bần Đạo hồi tưởng lại lúc ban sơ, mới Khai Đạo năm Bính-Dần cho đến ngày
hôm nay, tuy thời gian hai mươi mấy năm, xem lại nó ngắn ngủi chẳng khác nào giấc
chiêm bao kia vậy. Một người Chị hồi đó đã chịu cả khó nhọc cùng toàn thể Thánh
Thể Đức Chí Tôn tạo cho nên nghiệp Đạo, ngày giờ qui liễu của Chị, Chị chưa ngó
thấy cái tướng diện cơ nghiệp của Đạo sẽ thành hình như thế nào. Bần Đạo tưởng,
nếu giờ phút chót của Chị, Chị còn có một điều ân hận, khi xuất hồn ra khỏi
xác, có thể Chị để dấu hỏi (?) chẳng biết tương lai của Đạo nó sẽ ra thế nào?
Chẳng biết mấy em của tôi có đủ cương quyết, đủ nghị lực, đủ tài đức đặng tạo
cho thành tướng hay chăng? Đó là một điều Chị lo ngại hơn hết. Bần-Đạo nhớ lại
lời của Đức Chí-Tôn đã có nói trước rằng: “Nếu Đạo không thành thì chính mình
Thầy sẽ đến”. Tôi tưởng chẳng phải một mình Chị mà thôi, mà cả mấy Anh đã qua đời,
dĩ vãng rồi, giờ chót họ còn một điều ái ngại trọng hệ hơn hết là đây.
Thưa cùng mấy chị, toàn thể Nữ Phái!
Mấy em Thánh Thể Đức Chí Tôn Nam Phái!
Chúng ta nên tưởng tượng điều này. Chúng ta sẽ biết chúng ta thật là hạnh
phúc, hạnh phúc đặc biệt ấy Đức Chí-Tôn đã ban cho ta, vì thấy chúng ta đã chịu
cả sự nhọc nhằn khổ cực, khổ hạnh nhiều điều, nên ngày nay Ngài cho chúng ta được
thỏa mãn, chúng ta đã thấy cơ quan cứu khổ của Đạo đã thành tướng, nên chơn
truyền của Đạo đã để khắp nơi mặt địa cầu này. Vui hứng cho chúng ta hơn hết là
trong Thánh Thể Chí-Tôn chưa có một người nào bước ra khỏi nước Việt Nam đặng
truyền giáo mà cả Vạn Quốc đều hưởng ứng, đều ngưỡng mộ. Nếu chúng ta đã tưởng
tới điều đó chúng ta thấy rằng: Thánh Thể Đức Chí Tôn chưa hề làm được, duy có
quyền năng vô đối của Đức Chí-Tôn mới có thể làm được mà thôi.
Ấy vậy, nếu ta xét công nghiệp thì ta đặng lời, chớ không phải chịu lỗ, làm
ít hưởng nhiều, chúng ta phải nhìn điều đó là sự thật.
Hại thay! Chỉ có một điều đáng buồn là cơ nghiệp của Chị giàu có vinh hiển,
sung sướng hơn ai hết, cái nghiệp của Chị để lại theo tánh chất thường tình của
chúng ta tưởng nó sẽ được vĩnh cửu. Đau đớn cho Bần Đạo hơn hết là hôm nay Bần
Đạo thấy cái cơ nghiệp ấy đã tiêu tan không còn tồn tại, hễ nghĩ tới điều đó
thì Bần-Đạo có một điều ân hận lớn hơn hết là buổi làm Đền-Thánh trong cơn túng
thiếu Bần-Đạo đi đến Chị đặng hỏi mượn tiền, hồi đó toàn cầu bị khuẩn bách tiền
tài. Trọng hệ hơn hết là nền móng đã làm đặng nhưng không có tiền để xây dựng
lên, Bần-Đạo phải chạy xuống nhà Chị đặng mượn tiền, gặp Chị trong buổi mắc nợ
nần, lúa gạo mất giá, một giạ lúa có 2 cắc ($0.20) lúa chất đầy kho dầu có bán
cũng không bao nhiêu tiền, cái nghèo của Chị nghèo chướng hơn ai hết, nghèo lạ-lùng
không ai tưởng tượng được, Chị không tiền, chị mới đem ra cái rương sắt (5 tấc
tây) chứa đầy vàng với hột xoàn đem ra nói trong buổi khó khăn này không thể
nào kiếm tiền đặng, vậy Em đem đồ này về Sài Gòn cầm không dưới tám chín chục
ngàn đồng.
Bần-Đạo chỉ mượn được rồi trả làm sao chớ, lấy đem về được nhưng đến khi trả
lấy ai? Ngán quá chừng quá đỗi. Bần-Đạo nói: Thôi Chị ôi! Đồ này đã lưu truyền
ba đời rồi, hôm nay Chị đưa Tôi đem về cầm, nếu không chuộc được mới tính sao?
Chị lại quả quyết nói: Qua không nghèo hoài đâu em, em nên nghe lời Qua đem về
cầm đi, rồi Qua sẽ kiếm phương chuộc lại, Bần-Đạo nhứt định không mà thôi, rồi
đi về với hai bàn tay trắng mà lập nên Đền-Thánh.
Nếu buổi đó, lấy của ấy làm Đền-Thánh, thì hôm nay giúp cho Chị một công đức
biết bao nhiêu lớn, rối trí rồi tính sợ trả nợ nên không làm được một công nghiệp
vĩ đại.
Thưa cùng mấy Chị, kiếp sống của chúng ta ở thế gian này đã đứng trong
Thánh-Thể của Ngài, mấy em dong ruổi trên con đường Thiêng-Liêng của Đức
Chí-Tôn đã sắp sẵn, mấy em đừng sợ nghèo, đừng sợ khổ, không phải vậy, nơi cửa
Thiêng Liêng không phải giàu mà lập nghiệp được, còn nghèo mà không đâu! Nhớ điều
ấy chớ đừng quên. Biết bao nhiêu người mấy em thấy trước mắt, tưởng họ công nghiệp
vĩ đại có phương thế hành Đạo một cách oai quyền, hành Đạo với phương pháp đắc
lực tưởng họ hơn mấy em ở cõi Thiêng Liêng, không phải cân về mặt cân này, nhớ
điều đó. Qua căn dặn một điều, hạng nhứt là Phái Nữ coi bước đường trước kia,
quan sát lại hồi Chị Cả thế nào, bây giờ thế nào? Mấy em coi cái hay, định cái
dở, định phận sự Thiêng Liêng của mình mà hãnh diện. Rán coi bước đường trước
kia làm sao, sau chúng ta làm vậy”.
Bài 6 - Vía Đức Phật Thích
Ca và Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh
ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO, đêm 8 tháng 4 Ất Mùi.-1955
“Đêm nay là ngày vía Đức Phật Thích
Ca luôn ngày vía Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương Thanh, có phải chăng là một việc tình cờ
hay là quyền Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định, Chị Nữ Đầu-Sư vẫn thương yêu
Đức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân Đức Chí-Tôn đến kêu Người phải về cùng Thầy mà sự
thật ra tâm Đạo của Chị từ bé tới lớn chỉ theo chơn Đức Phật Thích-Ca mà thôi,
nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy không chi lạ.
Nguơn linh của Long-Nữ đã theo hầu Đức Quan Âm Bồ-Tát mấy kiếp đã đến trần
thì căn Phật của Người vẫn thế.
Bần-Đạo xin thuyết Triết Lý Đạo Phật của Đức Phật Thích Ca, Ngài đã đoạt Đạo
đặng rồi, tức nhiên Chị hiểu cái huyền vi bí mật của kiếp sanh con người, Ngài
tầm ra căn nguyên bí yếu hơn hết là Luật Nhơn-Quả pháp định (Loi Karmique) Cái
Luật Nhơn Quả của Ngài nó trúng trong chơn lý lạ thường, thử ta chối con người
không có quả kiếp chi hết cũng như thuyết duy vật đã nói: con người đã sinh ra ở
mặt thế nầy là tình cờ mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái thuyết ấy quả
nhiên là chơn lý thì ta thử hỏi vậy chớ duyên cớ nào kẻ sanh ra vừa khỏi lòng Mẹ
đã nằm trên đống vàng hay là ngự trên ngai vàng. Còn những kẻ sanh ra đã bị tật
nguyền, đui mù, ngu dại, nếu không có định luật thiên nhiên công bình vô đối của
Đại Từ Phụ tức nhiên của Đức Chí Tôn thì lẽ bất công ấy chúng ta phải giải
nghĩa ra thế nào mà chớ? Cái triết lý bí yếu ấy, Đức Thích Ca đã tìm đặng tức
là nhơn quả của ta. “Nhơn” nghĩa là ta đã có làm điều chi thì “quả” của nó trả
lụng lại.
Cái Luật Nhơn Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta.
Có nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn vợ con đông đúc, cả mọi điều gì muốn
thi thố ra đều thất bại, mà cái thất bại ấy chẳng phải dở, cái miệng thường những
kẻ ấy trong cơn đau khổ nói số kiếp của tôi nó thế nào, tội tình gì mà làm cho
tôi như thế đó, là kẻ bên Đạo Phật. Các Tôn giáo khác không cần luận, ta thấy họ
đã quyết định cái quả kiếp là gì?
Phật đã nói: Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định số phận của ta đương kiếp
sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước, bây giờ cái triết lý ấy
biểu ta muốn cho nên kiếp tới thì kiếp nầy ta chẳng nên gây nhơn quả nhiều hay
nặng nề, vì cớ cho nên những bổn Đạo cùng những người tín ngưỡng theo triết lý
của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng cớ không may, hoặc về
tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về nghèo giàu, bất kỳ quả kiếp
của con người ta thường nương lấy đó mà sống, làm cho cái khổ của con người đã
sanh ra chịu khổ rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng thêm khổ nữa.
Bây giờ quá sức chịu của trí não con người phải làm sao? Hễ khi nào bị khổ
não quá chừng thì tìm phương pháp an ủi, bởi cớ cho nên nhà Phật là nhà hay an ủi
tâm hồn của những kẻ đau khổ hơn hết đặng tự giác lấy mình, hiểu cái quả kiếp
mà mình đã đào tạo, vì tại mình vi chủ tạo thành nó ra, bây giờ tìm phương giải
nó đi, tức nhiên tránh kiếp tới, nếu ta đã biết kiếp nầy không may ta để trả nó
mà thôi, ta đừng gây thêm quả kiếp nữa.
Bởi cớ cho nên Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, cạo đầu phế cả cái sống của mình
gọi là qui y thọ phái vô chùa gởi thân trong cửa Phạm, cửa Đức Phật Thích Ca đặng
tìm phương an ủi hay là hay hơn nữa đủ trí thức, đủ tự giác để đào tạo cái quả
kiếp tương lai của mình, thật ra chơn lý ấy của nhà Phật an ủi một cách mạnh mẽ
các tâm hồn bị đau khổ. Chính Phật cũng phải nhờ triết lý ấy mà nhiều phen đã tự
an ủi mình làm một Phật vị, bởi chính mình Ngài muốn tạo một lớp Liên Hoa của
Ngài, Ngài phải đầu kiếp làm Thảo Mộc lên Thú Cầm tới Nhơn Loại rồi đến Phật vị,
thì tức nhiên trọn cái vòng siêu thoát của Ngài, Ngài đã biết nhơn loại, biết
kiếp sống của con người đau khổ như thế nào, thật có sống với đời mới biết cái
khổ của đời, những tay thầy thuốc giỏi hay biết được bịnh con người một cách
đúng đắn mực thước thì chính mình ông phải có bịnh đó, ổng tự thí nghiệm bào chữa
chứng bịnh của ổng rồi ổng mới đoạt được lịch thi của ổng không thế tưởng tượng.
Đức Phật Thích Ca cũng thế, Ngài cũng sống Ngài đã chịu trong cái Luật quả
kiếp ấy luân chuyển từ vật hình dĩ chí cho tới Phật vị, cái quả kiếp của Ngài
nó phải chơn thật không thể tưởng tượng được, thể bỏ nó ra không có cái triết
lý nào giải nghĩa kiếp sanh con người cho nó mực thước hết.
Bây giờ xin luận về duy vật nó nói loài người là một giống khỉ tiến hóa lên
chớ không phải Trời sanh ra, Bần Đạo dòm lụng lại sắc dân của Ấn Độ chính mình
Phật Thích Ca là dân của Ấn Độ, dân da đen gọi Hắc Chủng, Ngài sanh ra ở đó, da
thay vì đen nó hơi hồng hồng, rồi người Đời tặng Ngài màu hồng, họ gọi Ngài là
Kim Thân, vì cớ cho nên các tượng hình của Ngài đều phết vàng, bởi tại hai chữ
Kim Thân ấy, chính Ngài là sắc dân da đen mà sắc dân da đen là một Chủng tộc đến
mặt địa cầu nầy sớm hơn hết.
Chúng ta thử xét đoán nếu quả nhiên là loài khỉ tấn hóa lên cho tới sắc dân
hắc chủng ấy có đâu đầu óc của họ đâu có quá chừng quá đỗi, tâm thần quán thế
như thế đó, nhứt là đặc biệt hơn hết các triết lý cao siêu về mặt vô hình dân Ấn
Độ đứng đầu hơn hết các chủng tộc. Nó trái ngược lụng lại những tộc chủng đã
noi theo luật tiến hóa, nhứt là chót hết bây giờ là Bạch chủng tôi thấy họ đã
tiến hóa nhiều từ Hắc chủng lên Thanh chủng tới Xích chủng đến Huỳnh chủng, rồi
tới Bạch chủng đường tiến hóa của nhơn loại nhiều quá, sâu xa lắm, tời chừng
dòm lụng lại sắc dân Bạch chủng kia cũng không phải hơn gì sắc dân Hắc chủng,
vì Hắc chủng người đã đến mặt địa cầu nầy hồi ban sơ hết, hay nói là Mẹ của các
giống người hết thảy nơi thế gian nầy, mà người ta cao siêu như thế đó thì
chính mình Bần Đạo không tin loài khỉ tiến hóa lên được, cái lý thuyết ấy vô lối,
nếu không nói là quái dị, hay đặt cho nó cái tiếng là quái gỡ. Cái triết lý của
nhà Phật từ thử tới giờ chưa có một vị Giáo chủ nào đã đọat Pháp mà biết cái bí
ẩn Thiêng Liêng của luật Thiên nhiên kia một cách chánh đáng như thế, chơn thật
như thế, có một điều chính mình trong sự luân hồi quả kiếp ấy, Đại Từ Phụ đã
làm chứng trong Bài Thơ của Ngài:
“Đài Vân Quan Võ để Phong
Thần,
“Còn của Thầy đây để nhắc
cân.
“Muôn phước ngàn lần không
sót một,
“Bao nhiêu công quả bấy
nhiêu phần”.
Nói như thế đó, chính mình Đại Từ Phụ đã nói rằng: “Quả kiếp Nhơn quả của
con người luật ấy hiển nhiên vẫn có thiệt đó vậy”.
D - THI VĂN CỦA BÀ LÂM
HƯƠNG-THANH
Thuở sanh tiền Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Hương-Thanh là một người trí thức, ngoài
trình-độ Quốc-ngữ Bà thông thạo cả Pháp văn, Hán-văn và tinh-thần Dịch-học hầu
như chưa ai đương đầu nỗi với Bà trong cái thuở mà Nữ-phái còn bị áp bức và hạn
chế về mọi mặt. Nhất là người sẵn có hồn thơ sẽ không nín chịu được trước cảnh
trạng đau thương của đồng bào, đồng Đạo. Thế nên Bà còn để lại nhiều Bài Diễn
văn, Ai điếu hoặc Thi ngâm. Xin ghi lại để tỏ lòng thán phục trước một bậc Nữ
tài của thời khởi khai Đại-Đạo.
Về văn Thi thì đây là bài:
THÁN ĐẠO NGÂM
1 - Bước hành Đạo gay-go
quá đỗi,
Khiến nhơn-sanh sôi nổi vì
ai?
Thở ra một tiếng than
dài!
Ơn Trên huệ Nhãn xét coi thế nào!
2 - Giấc Hồ điệp chiêm
bao sực tỉnh,
Lòng buồn lòng khó nín
cho khuây.
Đồng hồ nhặt gõ canh chầy,
Vẩn-vơ hồn Đạo như say trong lòng.
3 - Kìa ác cảm đùng
đùng sóng nổi,
Nọ phù ngôn dội dội sấm
vang.
Làm cho bước Đạo lỡ-làng,
Đường còn để đó chơn gàn
khôn đi.
4 - Lòng phản Đạo làm chi
quá lẽ?
Ngoài chơn thành trong để
mưu sâu.
Con ma lục tặc ở đâu,
Cứ theo đeo đuổi mọt sâu Đạo
trường.
5 - Sao chẳng biết lòng
thương nhân-loại?
Cứ tranh nhau chức đại quyền
cao.
Tam bành lửa dậy ào ào,
Tín đồ đạo hữu lao xao
tưng bừng.
6 - Mới bày đặt chia đường
rẻ ngõ,
Ong lìa bầy kiến nọ bỏ
hang.
Rần rần lưới nghiệp dây
oan,
Xé lòng ân-ái lòng tan oán
cừu.
7 - Khói nghịch lẫn mịt-mù
trời đất,
Giặc thất tình nổi trận Ma
Vương.
Ôi thôi! Làm việc phi thường,
Khiến cho tan nát Đạo trường
mới ưng.
8 - Rồi những kẻ lòng Tần
dạ Sở,
Mới thừa cơ tráo-trở thị
phi.
Khua môi uốn lưỡi thiếu
chi,
Kẻ quanh đường tắt, người
đi ngõ thầm.
9 - Trống cổ động ầm-ầm
réo-rắt,
Chuông hô hào nhặt nhặt
vang rân.
Ai ai cũng muốn được phần,
Dầu cho mang tiếng chẳng cần
quản chi.
10 - Gẫm sự đó cũng vì bước
Đạo,
Phải chịu hồi khảo đảo
Thiên cơ.
Tưởng là trăng hết lúc lờ,
Gió ngưng mây tạnh sáng
soi vui vầy.
11 - Hay đâu nỗi luồng mây
ác cảm,
Lại còn đương hắc ám năm
canh.
Xảy ra nhiều sự bất bình,
Đạo trường náo động nhơn
tình phân vân.
12 - Nay đương lúc phong
trần khói dậy,
Việc phải không chưa thấy
cho tàng.
Nín hơi trong một thời gian,
Để coi thế cuộc xây vần dường
nao!
13 - Sự sẽ tới lẽ nào chưa
biết,
Trước mắt đây nhiều việc
chua cay.
Con thuyền Bác-Nhã lung-lay,
Tín đồ, Đạo hữu mới
quày lái ra.
14 - Người thối chi bước qua Tịnh
độ,
Kẻ buồn lòng lại mộ Tiên
Thiên.
Thất thời nghe nói đi liền,
Về bên phái khác một thiên
Đạo đồ.
15 - Ấy cũng bởi sóng xô
gió đẩy,
Cá trong đìa mới nhảy tứ
tung,
Đứng trong hoàn cảnh
long đong,
Bồi-hồi nghĩ lại đau
lòng xiết bao!
16 - Vì tổn bấy công
lao khuyên nhủ,
Mới qui nguyên đạo hữu
một nhà.
Mà nay không-khí bất
hoà,
Thình-lình xúi giục người ra cửa ngoài.
17 - Nhớ những lúc sơ khai
mối Đạo,
Xúm-xích nhau nương-náu
cành non.
Cảnh chùa Gò-kén thon-von,
Tạm nơi cửa Phật chìu lòn người ta.
18 - Nam chí nữ gần xa dìu
dắt,
Đeo theo Thầy dạ sắt
không lay.
Phong trần một bước một
gay,
Nhiều phen nuốt đắng
trêu cay với đời.
19 - Lòng xót Đạo luỵ
rơi không ráo,
Đậu tiền tay mới tạo
Chùa riêng.
Người thời nhiều ít bạc tiền,
Kẻ thời xuất lực tạm quyền
cùng nhau.
20 - Ra sức mạnh non cao đốn
gỗ,
Tạm nhứt thời lợp đỡ Chùa
tranh.
Dời qua Thánh-Địa
Long-Thành,
Ra tiền mua đất Tây-Ninh cụm
rừng.
21 - Nhà thờ Đạo mới mừng
có chỗ,
Lời thị phi chưa tỏ với đời.
Om-sòm nghị luận khắp nơi,
Người thời kích bác, kẻ thời
hiềm nghi.
22 - Nào ai biết huyền-vi
máy Tạo,
Muốn cứu người khổ-não trầm
luân.
Mượn câu bút Thánh cơ Thần,
Lập nền Chánh-giáo hạ trần
độ nhơn.
23 - Thầy thương trẻ buồn
than lắm lối,
Nhờ ơn hồng tắm gội bợn
nhơ.
Bấy lâu tăm-tối mịt-mờ,
Thầy cho đuốc huệ sáng soi
tỏ tường.
24 - Một giọt nước nhành
Dương khắp rưới,
Bốn phương trời bớ bụi thảnh
thơi.
Huyền-Khung-Cao chiếu đèn
Trời,
Chỉ ngay đường Chánh lánh
nơi đường tà.
25 - TIÊN, NHO, THÍCH, một
nhà hiệp lại,
Bước tu-hành rộng-rãi thinh thinh.
Ơn Trên TỪ-PHỤ chứng minh,
Cầm quyền Chủ-tể tá danh
CAO-ĐÀI.
26 - Lý Tiên Trưởng hoằng
khai Chánh giáo,
Lãnh phận hành bố Đạo
Nam-phương.
Dạy trong Lưỡng phái tỏ
tường,
Tiền khiên vô thuỷ
nguyên-nhơn những là.
27 - Nguyên kiếp trước một
nhà chung ở,
Vì đầu xanh gây nợ oan
khiên.
Khiến nên nghiệp chướng trần
duyên,
Sông mê bể khổ chiếc thuyền
chơi-vơi.
28 - Không thoát khỏi luân
hồi chuyển kiếp,
Cảnh dương gian tội nghiệp
xác thân.
Lòng Thầy đau xót muôn phần,
Muốn kêu con lại về lần
nhà xưa.
29 - Vì xác thịt còn chưa
thoát tục,
Nên tạm đành một lúc trần
gian.
Rày thời kíp phải liệu
toan,
Lập Công bồi đức cứu an
linh hồn.
30 - Lời Thầy dạy
Thánh-ngôn ghi chữ,
Biểu chúng ta lánh dữ làm
lành.
Phải lo khử ám tựu minh,
Cải tà qui chánh lập thành
chơn tu.
31 - Bề xử thế trước sau
trọn phận,
Cuộc gia đình cẩn thận
hành vi.
Đường quanh ngõ tắt khó
đi,
Chông gai chớ lội, gian
phi chớ làm.
32 - Đã vào Đạo phải chăm
lo Đạo,
Việc thế tình trở tráo mặc
ai.
Thiệt thà giữ tấm lòng
ngay,
Ma xeo chớ ngã, quỉ bày đừng
nghe.
33 - Lo tắm rửa đặng về cảnh
tịnh,
Vậy mau mau bước đến tu-hành.
Muốn tu Thiên Đạo cho thành,
Trước lo Nhơn Đạo giữ-gìn mới hay.
34 - Ấy Tôn chỉ Đạo Thầy truyền bá,
Lấy tinh-thần HOẰNG-HOÁ nhơn sanh.
Đạo ra ngày tháng đành rành,
Mảnh gương nhựt nguyệt quang minh rõ ràng.
35 - Hiềm thay kẻ lòng toan quấy rối,
Gieo những lời nói dối vu oan.
Làm cho cuộc thế nghi nan,
Nhơn tình náo động Đạo
tràng đảo-điên.
36 - Nền Chánh giáo như nghiêng như ngã,
Ai phân tường rằng giả rằng chơn.
Cũng vì tiếng nói phi-thường,
Khiến nên Nhà nước nhọc đường
xem trông.
37 - Trên Chánh-phủ sẵn
lòng nhơn đức,
Nhưng buộc vì pháp luật Quốc
gia.
Ra tờ đòi tới Công Toà,
Cam đoan ký giấy vậy mà mới
nghe!
38 - Lòng chơn chánh sụt
sè chi có.
Càng éo-le càng tỏ lòng son.
Bỏ vô lửa nóng lò than,
Thử coi mới biết tuổi vàng không nao!
39 - Phần phụ nữ liễu đào yếu ớt,
Phải chung vai gánh vác Đạo Thầy.
Nghĩ vì Đạo mở ra đây,
Ấy là bửu phiệt độ rày nhơn sanh.
40 - Đã thọ lãnh quyền
hành bố hoá,
Dầu đắng cay không ngã tấc
lòng.
Nếu nay chẳng hết dạ
trung,
Đạo đành bị bế còn mong nỗi
gì?
41 - Một là phụ lòng Thầy
phú thác,
Hai uổng công khai phát
thuở giờ.
Ba thương đạo hữu bơ vơ,
Lao-nhao thất vọng đợi chờ
bấy lâu.
42 - Dạ nhiệt huyết dầu
sôi sục sục,
Niềm Từ bi lửa đốt rần rần.
Thôi không tính thiệt so
hơn,
Phải cam làm dấy mới an lòng thành.
43 - Trên TỪ-PHỤ chứng
minh soi xét,
Con ký tên giao kiết tại
Toà.
Sau đây xảy chuyện chi
ra,
Tội đành thế tội vậy mà
cũng cam.
44 - Con quyết dạ liều
đem hồn xác,
Nguyện hy sinh gởi thác
Đạo trường.
Nghĩ con chút phận phấn
hương,
Dám đâu ra chốn công đường
to gan.
45 - Nhưng vì bởi lo
toan mối Đạo,
Phải hết lòng bổ báo Ơn trên.
Phơi gan trải mật tấm
thành,
Chút gan bồ liễu gắn bền
thiết đinh.
46 - Mong quyết chí giữ-gìn
Chánh giáo,
Trên cõi trần đào tạo phước
chung.
Trước là đồng Đạo vui
lòng,
Tu-hành cúng kiến đã không
nghi ngờ.
47 - Còn sau nữa cũng nhờ
lượng Thánh,
Độ thân này dưỡng tánh tu
chơn.
May cho rửa bớt tội trần,
Nợ mang kiếp trước trả lần
kiếp nay.
48 - Dùng một chút công
dày với Đạo,
Đặng đền bù nợ cũ tiền
khiên.
Tu-hành giữ một lòng
riêng,
Dầu cho xuất lực xuất tiền
cũng vui.
49 - Nhưng hiềm nỗi vận thời
ngăn trở,
Trong gia đình cảnh ngộ đa đoan.
Nợ trần nhiều nỗi vương
mang,
Trở day chưa kịp tính
toan chưa rồi.
50 - Trên Huyền-Mẫu da
mồi tóc bạc,
Thụ cửu tuần qui hạc
ngày cao.
Dưới màn ấm lạnh âm hao,
Sớm thăm tối viếng biết
bao dám rời.
51 - Ơn dưỡng dục đất trời cao
rộng,
Ngại đền bồi cảm động lòng
con.
Nếu trong chữ Hiếu chưa
tròn,
Dầu đi hành Đạo sao an
dạ này?
52 - Nghĩ hoàn cảnh đắng
cay trăm ngõ,
Gánh nợ trần khó bỏ cho
ai.
Năm canh than vắn thở
dài,
Bên Đời bên Đạo hai vai
nặng oằn.
53 - Ngày thỉnh thoảng
lòng hằng ao-ước,
Hiếu đạo tròn trổi bước
hành tu.
Nâu sồng khổ hạnh cũng
vui,
Lòng nào có dám tham mùi
trần gian.
54 - Dầu cực nhọc cũng
an tấc dạ
Nguyện nhứt tâm truyền
bá Đạo Thầy
Một bầu hy vọng đã đầy,
Chờ ngày rỗi rảnh đi
ngay một đường.
55 - Ấy lòng thiệt còn
đương chờ đợi.
Nẻo Đạo nguyên muốn tới
cho cùng
Nỗi riêng lòng biết lấy
lòng,
Nào ai rõ thấu đục
trong đặng mà?
56 - Vậy nên mới sanh
ra đố kỵ,
Tưởng rằng đây mến vị
tham quyền!
Đem lòng ghét ngõ ghen
hiền
Đồn ra ngưng chức ngưng
quyền làm reo.
57 - Khiến Nữ-phái
leo-nheo than tức,
Khắp xa gần bức-rức hỏi
thăm.
Người thời than khóc tủi
thầm,
Kẻ thời nong-nả thơ âm
tới nhà.
58 - Rằng xin lỗi hỏi
ra cho rõ,
Lời vô căn dậy gió phù
ngôn.
Thôi thôi lòng cũng
khoan dung,
Khen chê mặt thế phải
không mặt người.
59 - Trên chứng có đèn Trời soi
xét,
Ai chánh tà ai biết lấy
ai.
Thị phi gát bỏ ngoài tai,
An lòng vui dạ chẳng nài
thiệt hơn.
60 - Nguyện hết sức đỡ
nâng nền Đạo,
Trọn tấc niềm ngay thảo thời
vui.
Hơi đâu tranh cạnh việc đời,
Gây hờn chứa giận với đời
làm chi?
61 - Đạo đã dạy Từ-Bi hai chữ,
Muốn TỪ BI trước giữ nơi
lòng,
Trần duyên nghiệp chướng gỡ
xong,
Vun trồng cội phước hòng
mong cậy nhờ.
62 - Bề báo ứng huyền cơ rất hẳn,
Đạo truyền Đời tỏ rạng
gương soi,
Chúc mừng ĐẠI-ĐẠO HOẰNG
KHAI.
Tháng giêng Ất-Hợi
Nữ Chánh Phối-Sư Lâm Hương-Thanh
(Tổng cọng 247 câu)
Thơ thất ngôn bát cú:
Lúc Bà còn là Nữ chánh Phối sư, Bà có.
ĐẠO nguyên một gốc nảy
sanh ra,
ĐẠO mở kỳ này ấy thứ ba.
ĐẠO giáo rộng quyền do bút
Thánh,
ĐẠO căn vun đắp tự lòng
ta.
ĐẠO lo trổi bước lên đường
Chánh,
ĐẠO chớ lầm chơn tới nẻo
tà.
ĐẠO Lão, Đạo Nho và Đạo Phật,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét