ĐẠO CAO ĐÀI - Thầy dạy THỜ THIÊN NHÃN
Đức Hộ-Pháp có lời rằng: “Hễ có kiến thì có thức, kiến thức là căn bổn của
trí thức tinh thần. Muốn kiến thì nhờ Nhãn, muốn thức thì nhờ Trí. Ấy vậy, trong
tâm (gọi là linh tâm hay chơn linh) là Thiên Nhãn của trí thức loài người. Vì cớ mà Đại Từ Phụ dạy THỜ THIÊN NHÃN.
Thiên Nhãn là hình trạng của lương tâm toàn thể làm
nền móng cho Cao Đài, nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức tin lớn của Chí Tôn
tại thế nầy, y như hai câu thi của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm (Victor-Hugo):
L’oeil mystique seul verra la religion
nouvelle,
La grande foi gite dans la conscience universelle.
Dịch nghĩa:
Có Thiên Nhãn mới tường Chánh giáo,
Tín Cao Đài do Đạo lương tâm.
Thờ Thiên Nhãn là thờ tánh mạng mình và Chí Tôn,
nghĩa là thờ lương-tâm của toàn thiên hạ (Le culte de la conscience)....
“Trong cửa Đạo đặt ra điều chi đều là hữu ích tất
cả, mượn Thể pháp tượng trưng mới đoạt Bí-pháp.
Huyền vi mầu nhiệm của Đạo có Bí-pháp cũng như Đời
có Luật pháp.”
Xin trân trọng gởi đến quí đồng Đạo bốn phương đề
tài “THIÊN NHÃN THẦY” để làm quà tinh thần. Đây là tập tài liệu được góp nhặt từ các bài viết
của các bậc tiền bối và tiền hiền trong cửa Đạo.Vì tinh thần tìm hiểu chung để
rộng việc phổ biến trong cửa Đạo. Xin miễn chấp.
Nữ Soạn-giả NGUYÊN THUỶ
VỀ
THIÊN NHÃN
A - Thiên-Nhãn là gì?
1 - Nguyên nhân nào có
Thiên Nhãn?
2 - Ý nghĩa Thánh Tượng
Thiên Nhãn.
3 - Tại sao Đạo Cao Đài
thờ Thánh tượng Thầy là “Con Mắt trái”
4 - Giải thích 5 câu Nho
về Thánh Tượng Thiên Nhãn.
5 - Biểu tượng trong nền
Đạo Cao-Đài
B - Thế giới cũng biết về Thiên Nhãn: Ai cập, Đức,
Mỹ..
Thiên Nhãn trong 1 dola Mỹ
C - Ý nghĩa Thiên nhãn qua 5 hình thức trong Đền
Thánh (Trời: tượng Ngũ khí)
1 - Thiên Nhãn trên Quả
Càn Khôn (không hào quang)
2 - Thiên Nhãn nơi Cung
Đạo 36 tia hào quang
3 - Thiên Nhãn mặt tiền
Đền Thánh (35 tia hào quang)
4 - Thiên Nhãn nơi Thông
Thiên Đài (Thiên bàn)
5 - Thiên Nhãn chung quanh
Đền Thánh (23x2=46)
D - Thánh Tượng Thiên Nhãn thờ tại tư gia.
CHƯƠNG
I
KHÁI
NIỆM TỔNG QUÁT
CHƯƠNG
I:
Khái niệm tổng quát về Quả Càn Khôn
1 - Thiên Nhãn vẽ lên Quả Càn Khôn
2 - Quả Càn Khôn qua các giai đọan thay đổi
3 - Lễ an vị Quả Càn
Khôn
4 - Câu chuyện quanh
quả Càn Khôn
5 - Luận Đạo
“Nền Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ mà Đức Thượng Đế đến khai sáng nơi nước Việt-Nam này, điều đặc biệt là
Đức Thượng-Đế không mượn xác phàm của người Việt Nam để lập nền Đại-Đạo, khác biệt với các
Tôn giáo trước kia là:
- Đạo Phật xúât từ Ấn, mượn hình thể Sĩ-Đạt-Ta,
- Đạo Thánh Da-Tô mượn hình thể Chúa Jésus,
- Nay, Đức Chí-Tôn chỉ dùng THIÊN NHÃN THẦY (Con
Mắt) đặt trên Quả Càn Khôn làm biểu tượng thờ Đấng Thượng Đế - Chúa tể Càn Khôn
vũ trụ này. Mục đích của Đạo Cao Đài là đi đến Đại-Đồng.
QUẢ
CÀN KHÔN
E:
The heavenly globe
F:
Le globe céleste
(Quả hay là
trái, Càn Khôn là hai quẻ trong Bát Quái: CÀN ☰ là trời, KHÔN ☷ là đất). Quả Càn Khôn còn
gọi là Trái Càn Khôn, là biểu tượng một quả cầu tròn tượng trưng vũ trụ để thờ
Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, chính Ngài đã đến ban cho một mối Đạo nhà, danh gọi
là Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, là nền Đạo phát xúât từ Việt Nam.
Quả Càn Khôn tượng trưng Càn Khôn Vũ-Trụ của Ðức Chí Tôn, gồm 3072 ngôi sao. Ngôi sao
Bắc Ðẩu ở tại Trung Tâm của Càn Khôn Vũ-Trụ này là nơi Ðức Chí Tôn ngự. Thế
nên, Ðức Chí Tôn bảo vẽ “Thiên Nhãn” trên ngôi sao Bắc Ðẩu là vậy.
Sao Bắc đẩu là gì?
BẮC ĐẨU 北 斗
E: The polar star
F: L’étole polaire
Bắc Đẩu, có hai nghĩa chánh:
1 - Là Ông Tiên coi bộ sổ tử (sổ người chết) của con người ở
trần gian (còn gọi là Nam Tào- Bắc Đẩu).
2 - Là Sao Bắc Đẩu (Étoile polaire) là vì sao lớn ở thẳng về miền Bắc cực.
Kế bên sao Bắc Đẩu có hai chòm sao (mỗi chòm 7 cái) gọi là hai bánh lái (Grande
Ourse et Petite Ourse). Hai chòm sao nầy hình như chầu sao Bắc Đẩu, cho nên trong Luận Ngữ có câu: “Vi chánh dĩ đức thí như
Bắc Đẩu cư kỳ sở nhi chúng Tinh cung chi" (Lấy đức làm chánh, tỷ như sao Bắc
Đẩu ở một nơi mà các vì sao khác đều chầu về).
Bắc Đẩu là ngôi sao sáng ở hướng Bắc, nằm đúng trên trục
quay của Ðịa cầu, nên còn được gọi là
sao Bắc-Cực. Sao Bắc Đẩu là một Định tinh, các ngôi sao khác thì chuyển động
quanh sao Bắc Đẩu, cho nên sao Bắc Đẩu là trung tâm của Càn Khôn Vũ-trụ. Do đó,
Ðức Chí Tôn bảo vẽ “Thiên Nhãn” ngay trên ngôi sao Bắc Đẩu là lý do ấy. Sao Bắc
Đẩu nằm trong chùm sao Thất Tinh, gồm 7 ngôi sao, mà Thiên-văn-học gọi là Tiểu
Hùng Tinh. Chùm sao Thất Tinh có hình cái bánh lái tàu, sao Bắc Đẩu là ngôi sao
ở đầu cán bánh lái.
Sao Bắc Đẩu là một ngôi sao nằm ngay hướng Bắc của trục Ðịa cầu. Bắc Ðẩu là một
Định tinh, dùng để định chính xác hướng Bắc của Ðịa cầu này. Vốn là ngôi của Thượng Đế khi Ngài ngự cõi phàm trần. Cũng vì
thế mà hướng Bắc rất quí trọng, bao nhiêu điển quang
linh-diệu đều do từ hướng ấy phát ra. Nhà tu sĩ mỗi lần ngủ đều day đầu về hướng
Bắc đặng tiếp linh điển. Bực thường nhơn lạy
Trời cũng day về hướng Bắc. Bầy tôi trông
vua đều day mặt về
hướng ấy, là “Bắc diện” vì vua là Thiên Tử.
Muốn tìm sao Bắc Ðẩu thì
phải tìm hai chùm sao Bánh lái (vì nó giống như cái bánh lái thuyền). Chùm sao
bánh lái lớn gọi là Ðại Hùng Tinh, chùm sao bánh lái nhỏ là Tiểu Hùng Tinh.
Ngôi Bắc Ðẩu tại cái đầu của chùm sao bánh lái nhỏ. Ở Miền Nam Việt-Nam khó
nhìn thấy sao Bắc Ðẩu hơn miền Bắc Việt-Nam, vì ngôi sao Bắc Ðẩu nằm gần sát
chơn trời, nên thường bị cây cối che khuất. Vị trí của ngôi sao Bắc Ðẩu ở chừng
10 độ so với đường nằm ngang. Sao Bắc Ðẩu để định hướng Bắc: trước hết chúng ta
phải tìm chùm sao Ðại Hùng tinh (Chùm sao Gấu lớn: Grande Ourse) gồm 7 ngôi sao
khá sáng xếp theo hình bánh lái, dễ nhìn thấy trên bầu Trời về đêm, hoặc tìm
chùm sao Thiên Hậu gồm 5 ngôi sao xếp đặt theo hình chữ M rồi mới tìm chùm sao
Tiểu Hùng tinh là Chùm sao Gấu nhỏ (Petite Ourse). Chùm sao Gấu nhỏ có 7 ngôi
sao, nên được gọi là Thất Tinh, sao Bắc Ðẩu nằm trên đầu cán của chùm Thất Tinh
nầy.
Trên Quả Càn Khôn thờ nơi
Bát Quái Đài của Đền Thánh Toà Thánh Tây Ninh, Ðức Chí Tôn bảo vẽ Thiên Nhãn
ngay phía trên sao Bắc Ðẩu.
1 - Thiên Nhãn vẽ lên Quả Càn Khôn:
Ngày 12-8-Bính Dần (dl:
17-09-1926) tức là trước ngày Đại Lễ Khai Đạo 15-10-Bính Dần (dl: 19-11-1926) một
khoảng thời gian gần hai tháng, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Phối Sư
Thái-Bính-Thanh làm một Quả Càn Khôn để thờ Đức Chí Tôn nơi Bát Quái Đài, lời dạy
rằng:
“Bính ! Thầy giao cho con
lo một Trái Càn Khôn, con hiểu nghĩa gì không ? Cười. Một trái như trái đất
tròn quay, hiểu không? Bề kính tâm ba thước ba tấc (3m30) nghe con! Lớn quá, mà
phải vậy mới đặng, vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời,
cung Bắc Đẩu và Tinh tú vẽ lên Càn Khôn ấy. Thầy kể Tam thập lục Thiên, Tứ Đại
Bộ Châu ở không không trên không khí, tức là không phải Tinh tú, còn lại Thất
Thập nhị Địa và Tam Thiên Thế giới thì đều là Tinh tú. Tính lại 3072 ngôi sao.
Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con giở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước.
Tại ngôi Bắc Đẩu, con phải vẽ hai cái bánh lái cho đủ và sao Bắc Đẩu cho rõ
ràng. Trên vì sao Bắc Đẩu, vẽ Con Mắt Thầy, hiểu chăng?.... Đáng lẽ trái ấy phải
bằng chai đúc, trong một ngọn đèn cho nó thường sáng. Ấy là lời cầu nguyện rất
quí báu cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế giới đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì con
tùy tiện, làm thế nào cho kịp Đại hội, nghe à ! " (TNHT. I. 45)
Bài Thánh Ngôn nầy có
trong ÐS.II./232, chỗ nhiều chấm gần cuối bài là đoạn Thánh Ngôn sau, xin bổ sung:
“Thơ! Nghe dạy: Thầy giao trọn quyền cho con
lo liệu. Con phải nhớ, khi Bính đem Trái Càn Khôn ấy về, con làm một cái cốt
xây, để Trái ấy lên Ðại điện, nhớ day Con Mắt ra ngoài, rồi con lại lên tượng
Phật Thích Ca, Lão Tử và Khổng Tử, mà đặt dựa dưới, kế ba vị ấy thì là: Quan Thế
Âm, Thái Bạch, Quan Thánh Ðế; kế nữa, ngay dưới Lý Thái Bạch thì là Jésus de
Nazareth, kế Jésus thì là Khương Thượng Tử Nha, còn chư Phật, chư Tiên, Thánh,
Thần, đã lên cốt thì để dài theo dưới, hiểu không con?"
Lời dạy trên chỉ có thờ
hình tượng các Đấng tại Từ Lâm-Tự trong buổi đầu. Ngay sau khi dời về “Chùa Mới”
tức là Đền Thánh bây giờ thì chỉ thờ một thời gian, sau khi bị đập phá thì những
tượng này được sửa lại và thờ riêng một chỗ gọi là “Cực Lạc cảnh”. Riêng nơi tư
gia thì nhơn sanh thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi” tuy có vài sự thay đổi hình thức
khác do Hội-Thánh dạy truyền..
Xem như thế, Quả
Càn Khôn nầy chính
là một Thiên cầu tượng trưng cho
Càn Khôn Vũ Trụ hữu hình của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, lại được đặt
trên Bát Quái Đài để thờ, nên biểu thị rõ rệt Triết lý về Vũ trụ quan của Đạo
Cao Đài.
Càn Khôn Vũ Trụ của Đức
Chí Tôn gồm có hai phần: Phần hữu hình và Phần vô hình.
Phần hữu hình: là phần
nhìn thấy được bằng mắt:
- Tam Thiên Thế giới, tức
là 3000 quả tinh cầu nhìn thấy như những ngôi sao trên bầu Trời, được vẽ tượng
trưng bằng 3000 ngôi sao trên Quả Càn Khôn.
- Thất Thập Nhị Địa, tức
là 72 quả Địa cầu, cũng được nhìn thấy như những vì sao trên bầu Trời, nên cũng
được vẽ tượng trưng bằng 72 ngôi sao trên Quả Càn Khôn. Tổng cộng tất cả là
3072 ngôi sao, phải vẽ cho đủ số trên Quả Càn Khôn ấy. Trong số 3072 ngôi sao nầy
có chòm sao Bắc Đẩu với Đại Hùng Tinh (Chòm sao Gấu lớn) và Tiểu Hùng Tinh
(Chòm sao Gấu nhỏ), mỗi chòm có 7 ngôi sao (Thất Tinh), có hình giống như cái
bánh lái thuyền, nên cũng gọi là Chòm sao Bánh lái. Đức Chí Tôn bảo vẽ “Con Mắt
Thầy” ngay trên ngôi sao Bắc Đẩu, tức nhiên Đức Chí Tôn ngự tại sao Bắc Đẩu,
nên sao Bắc Đẩu chính là Trung tâm của Càn khôn Vũ trụ của Đức Chí Tôn. Các vì
sao khác đều chuyển động chung quanh ngôi sao Bắc Đẩu, giống như Địa cầu của
chúng ta, tuy chuyển động chung quanh Mặt Trời, nhưng trục tự quay của Địa cầu
luôn luôn hướng về ngôi sao Bắc Đẩu. Như vậy, Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn
Ngọc Hoàng Thượng Đế gồm 3072 ngôi sao chỉ là một phần tử nhỏ trong một khoảng
không gian bao la vô cùng tận, có đến hàng tỷ ngôi sao mà các nhà Thiên văn học
hiện nay đã khám phá và nhìn thấy được trên bầu Trời.
- Ngọn đèn đặt tại Tâm của
Quả Càn Khôn tượng trưng ngôi Thái Cực, mượn làm Thái cực đăng.
* Phần vô hình: Ngoài phần
Vũ trụ hữu hình mà mắt phàm nhìn thấy được, Càn Khôn Vũ Trụ của Đức Chí Tôn còn
có phần Vô hình mà mắt phàm không thấy được, chỉ có Huệ Nhãn thì mới có thể thấy.
Theo bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn nêu trên và những bài Thánh giáo khác ta biết
được phần Càn Khôn Vũ trụ vô hình gồm:
- Tam Thập Lục Thiên: 36 từng Trời.
- Thập Nhị Thiên: 12 từng
Trời nối tiếp ở bên dưới. Tam thập lục Thiên, chia ra:
+ Phần trên 3 từng là: Hỗn
Nguơn Thiên, Hội Nguơn Thiên, Hư Vô Thiên.
+ Phần kế dưới là 9 từng gọi
là Cửu Trùng Thiên.
* Phần Thực hiện: Đáng lý
Quả Càn Khôn nầy phải được làm bằng thủy tinh trong suốt, nhưng vì thời gian
quá ngắn nên không thể thực hiện được, mà cũng quá lớn, đường kính 3 thước 3 tấc.
Ngài Phối Sư Thái Bính Thanh phải làm Quả Càn Khôn bằng nan tre, bọc vải và sơn
màu xanh da Trời, trên đó vẽ các ngôi sao đúng số như Đức Chí Tôn đã dạy, làm gấp
rút cho kịp ngày 15-10-Bính Dần (dl: 19-11-1926) chuẩn bị tổ chức Lễ Khai Đạo tại
Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Gò-Kén Tây-Ninh. Chỉ có Tòa-Thánh Tây-Ninh mới được
làm Quả Càn Khôn để thờ nơi Bát Quái Đài, còn tại các Thánh Thất địa phương chỉ
được đắp Thiên Nhãn lớn để thờ mà thôi. Như vậy, Quả Càn Khôn thờ nơi
Bát-Quái-Đài Tòa-Thánh là hình ảnh của Càn Khôn Vũ trụ, của Đức Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế, nó có dạng hình như một quả cầu tròn, trong đó có 3072 ngôi
sao, mà tâm điểm là Thái Cực. Quả Địa Cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Địa
cầu số 68 trong số Thất thập nhị Địa (72 Địa cầu), nên được tượng trưng bằng những
ngôi sao trên Quả Càn Khôn nầy.
2 - QỦA CÀN KHÔN qua các giai đoạn thay đổi:
- Quả Càn Khôn đầu tiên do
Ngài Phối Sư Thái Bính Thanh làm ra theo sự chỉ dạy của Ðức Chí Tôn vào ngày
12-8-Bính Dần (dl: 17-9-1926). Quả Càn Khôn nầy làm bằng nan tre bọc vải, sơn
màu xanh da trời.
- Khi trả chùa Gò Kén cho
Hòa Thượng Như Nhãn, Hội Thánh cất Tòa Thánh tạm nơi đất mới mua ở làng Long
Thành, Quả Càn Khôn nầy được rước về Đền Thánh gọi là “Chùa mới” để thờ nơi Bát
Quái Ðài. Ðó là vào đầu năm Ðinh Mão (1927).
Khi được di dời Đức Lý dạy:
“Bính Thanh! Hình Phật Thích Ca trước Hiệp
Thiên Đài đó, phải làm thế nào cho đừng hư gãy, vì Chí Tôn đã trấn Thần chính
nơi tay Người nghe. Quả Càn Khôn cũng vậy, khi tháo ra rồi ráp lại y như vậy;
khi tháo ra phải cầu Lão đưa Thần một đỗi, rồi mới đặt tay người vào, nghe à! Dặn
đến Thánh Thất mới, phải cầu Chí-Tôn trấn Thần lại nữa”.
Quả Càn Khôn bị cháy vào
năm Thân (1932):
Ðầu Xuân Nhâm-Thân (1932),
tối mùng 8 tháng giêng, chuẩn bị đến giờ Tý cúng Ðại lễ Ðức Chí Tôn, làm Quả
Càn Khôn bị bắt lửa cháy, nhưng Quả Càn Khôn đã bị cháy hết hơn hai phần, còn một
phần bên phía Thiên Nhãn thì không cháy, nên Thiên-Nhãn vẫn còn nguyên. Ðược biết
Thiên Nhãn nầy do Ðức Chí Tôn nhập Thần vào Ðức Cao Thượng Phẩm mà vẽ nên.
Ðức Hộ Pháp nói với Ðức
Quyền Giáo Tông: Thiên Nhãn còn tức là Ðạo còn, là “Trời còn” nhưng đời phải bị
nhiều tai biến nguy hiểm “đất lở tang thương biến”.
Nhắc lại đầu xuân ngày 9
tháng Giêng năm Nhâm Thân (1932) sắp Đại Lễ Đức Chí Tôn nên vào buổi chiều tối
ngày 8 có đốt bên trong lòng Quả Càn Khôn một ngọn đèn manchon cho có ánh sáng.
Do hai vị chăm sóc là Hồ Văn Lầu và Nguyễn Văn Biện. Lối 9 giờ đèn phựt dầu
phát cháy Quả Càn Khôn. Nhờ ông Văn-Thắng-Trà (sau nầy là Lễ sanh Phái Thượng)
dập tắt được ngọn lửa. Quả Càn Khôn bị cháy chỉ còn 1/3 phía Thiên Nhãn thôi.
Đến sáng ra thì Anh Cả Quyền-Giáo-Tông
mới qua hỏi Đức Hộ Pháp:
- Quả Càn Khôn bị cháy Hộ
Pháp nghĩ sao?
- Đức Hộ Pháp nói: Quả Càn
Khôn bị cháy mà Thiên Nhãn còn, tức là Đạo còn, nhưng đời phải tận.
Sau vụ cháy Quả Càn Khôn rồi
thì Đức Chí Tôn có giáng cơ cho một bài thơ sau.
THI
Chẳng phải Tây Ninh chịu nạn nghèo,
Cuộc đời luân chuyển thế cheo leo.
Trời còn đất lỡ tang thương biến,
Ruộng rẫy phố phường lộ mốc meo.
Sắc tướng âm thinh tua giảm bớt,
Mở đường công quả chúng làm theo.
Văn chương đâu rõ thông cùng lý,
Tận thế hưng vong đã thấy vèo.
Trong thời gian Hội Thánh
xây cất Tòa Thánh bằng vật liệu kiên cố; Tòa-Thánh tạm bằng cây ván thuở trước phải dỡ ra, Qủa
Càn Khôn được Hội Thánh dời đến thờ tạm tại Báo Ân Từ.
- Năm Tân-Tỵ (1941), nhà cầm quyền Pháp vào Tòa Thánh bắt Ðức Hộ Pháp ngày 28-6-1941. Nội-Ô bị
quân đội Pháp chiếm đóng, Báo Ân Từ bị chúng dùng làm Câu Lạc Bộ, Quả Càn Khôn
bị lính Pháp đập phá, lấy Thiên Nhãn liệng ra ngoài sân. Người Ðạo nhìn thấy cảnh
ấy rất đau lòng và phẫn uất, chờ khi bọn chúng không để ý, liền lượm Thiên Nhãn
đem cất kín dành sau nầy làm lại Quả Càn Khôn khác.
- Khi Ðại Chiến thế giới bùng nổ, quân đội Pháp ở Việt Nam bị Nhựt bổn đảo chánh đầu hàng, lính Pháp chiếm
đóng tại Toà Thánh Tây Ninh đã rút lui, Hội Thánh phục hồi, bổn đạo qui tụ về,
lo sửa chữa những chỗ hư hỏng và nhứt là lo làm Quả Càn Khôn mới, để tái lập sự
thờ phượng. Khi ấy Hội Thánh vẫn lấy Thiên Nhãn cũ gắn lên Qủa Càn Khôn mới, vì
nhận thấy đã hai lần, Qủa Càn Khôn hư nhưng Thiên Nhãn vẫn không hư. Ðó là sự mầu
nhiệm mà Chí Tôn đã đặt vào Thiên Nhãn, tất cả mọi người đều phải nhìn nhận như
thế. Qủa Càn Khôn mới được làm xong và đặt vào vị trí cũ nơi Báo Ân Từ. Sự thờ
phượng Ðức Chí Tôn nơi đây được tái lập như trước.
- Ngày 4-8-Bính Tuất (dl: 30-8-1946), chánh quyền Pháp đưa Ðức Hộ Pháp trở về Toà Thánh Tây
Ninh. Sau lễ đón tiếp của Hội Thánh, Ðức Hộ Pháp tái thủ quyền hành, tái lập
các cơ quan của Ðạo, đồng thời lo xây dựng, sửa chữa, trang trí Tòa-Thánh, làm
gấp rút ngày đêm để hoàn thành trước Tết năm Ðinh Hợi (1947). Nhờ sự nỗ lực của
tất cả nhân viên công quả và của Hội Thánh, Đền Thánh được hoàn thành đúng sự dự
định.
- Ngày mùng 8 tháng Giêng năm Ðinh-Hợi (dl: 29-01-1947) Ðức Hộ Pháp làm Lễ rước Quả Càn Khôn từ Báo-Ân-Từ đến thờ
nơi Bát Quái Đài của Đền Thánh mới xây, chuẩn bị đến giờ Tý ngày mùng
9-giêng-Ðinh Hợi là khởi Ðại Lễ cúng Ðức Chí-Tôn.
Quả Càn Khôn nầy dần dần
theo thời gian cũng hư hỏng, Hội Thánh phải lo làm một Qủa Càn Khôn khác để
thay thế. Một sự linh thiêng ngoài sức tưởng tượng của mọi người - cũng là sự
thanh lọc của Thượng đế- Sau khi đặt Quả Càn Khôn cũ xuống, cả thế giới và
trong Đạo đều chấn động. Trong Đạo xảy ra nhiều rối rắm, gây bất hòa giữa người
Đạo với nhau. Đến nỗi, Đức Lý giáng cơ quở trách và ngưng việc cầu phong, cầu
thăng. Ngoài đời có nhiều thay đổi, như cuộc đảo chánh của Hội Đồng tướng lĩnh
Việt-Nam Cộng-Hòa, vụ mưu sát Tổng thống Mỹ Kennedy (1961). Nhà Vua Thái Lan gặp
nhiều khó khăn và nhiều biến chuyển khác trên toàn thế giới".
- Ngày
15-12-Quí Mão (29-01-1964) Hội Thánh tổ chức Lễ
Khánh Thành Qủa Càn Khôn mới, Ngài Hiến Pháp có đọc một bài thuyết Đạo, nhắc lại
sự tích Qủa Càn Khôn, xin trích một đoạn
(Hiến pháp HTĐ trang 11,12).
“Thể theo Thánh ý của Ðức
Chí Tôn, chư Chức sắc hiệp sức kiến tạo Quả Càn Khôn đầu tiên đặt lên một trụ cốt
nơi Bát Quái Đài để cho toàn Đạo sùng bái và chiêm ngưỡng (thời điểm tại Từ Lâm
Tự). . Về sau rủi ro, Quả Càn Khôn ấy phát hỏa (vận Bĩ) cháy tiêu hết, duy có
Thiên Nhãn thì còn nguyên Hội Thánh quyết định tạo một quả Càn Khôn khác và đồng
ý đặt Thiên Nhãn cũ lên Quả Càn Khôn. Vì sự linh thiêng ấy mà toàn đạo càng
thêm tin tưởng và đến khi tu tạo lại Quả Càn Khôn khác, tất cả đều quyết định đặt
Thiên Nhãn cũ ấy lên Quả Càn Khôn mới.
Ðến nay, Quả Càn Khôn sau
cũng vì thời gian mà hư hoại. Hội Thánh quyết định kiến tạo một Quả Càn Khôn
khác thay thế. Hội Thánh cũng đồng thanh biểu quyết dành lại Thiên Nhãn cũ đặt
lên Quả Càn Khôn mới ngày nay. Ðó là do lòng tín ngưỡng cao cả của toàn Đạo,
không ai có quyền phủ nhận.”…
3 -
Lễ an vị quả Càn Khôn:
Ngày 06 tháng Giêng Đinh-Hợi
(1947) lễ rước Quả Càn Khôn tạm thờ nơi Báo Ân Từ về Đền Thánh. Đức Hộ Pháp
hành pháp trấn Thần An Vị. Khi đến Ngai Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, Đức
Ngài thuyết minh: tiên tri ngày về của người đứng đầu chi Thế, rằng:
“E sau nầy Hộ Pháp xuất
ngoại, Thượng Sanh về ngự nơi đuôi (ngôi Thượng Sanh trên đuôi Thất đầu xà),
thì thất tình lục dục tự do dấy động, cái loạn không phương kềm chế…Ngày Hộ
Pháp trấn lại trên Ngai, mới êm tịnh Đạo Đời, lập lại tháng Thuấn, ngày Nghiêu,
hưởng thuần phong mỹ tục”.
Lễ rước QỦA CÀN KHÔN
Đức Hộ-Pháp nói: “Ngày nay
đã dời Quả Càn Khôn về Ðền Thánh, Ðức Chí Tôn đã ngự nơi ngai của Ngài, chúng
ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Ðền-Thánh nầy mà tiến hóa mãi lên.
Ðền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối
đức tin đã tượng nên hình vậy. Nhờ những bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con,
thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn mười năm trường mới dày công đào tạo
nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức tin nơi Chí Tôn là Chúa Tể vạn loại thì dầu
ở phương trời nào, họ sẽ hướng về Ðền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để
mong hưởng phước lành của Ngài. Ðền Thánh làm xong, nền Ðạo đã vững vàng, chúng
ta sẽ dẹp lần cái bạo tàn của đời để dìu dắt nhơn loại đi vào con đường gầy dựng
lại trật tự hòa bình cho cái năng lực Nhơn Nghĩa, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại
cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy. Chúng ta nên mừng vì nhơn loại sẽ nhờ
khối đức tin của chúng ta mà hưởng ân huệ của Ðấng Chí Tôn. Bần Ðạo nhắc lại, Ðức
Chí Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài
cho chúng ta theo lời hứa, Bần Ðạo đứng tại tòa giảng đây chứng chắc như thế, bởi
những công nghiệp phi thường tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng.
Vì quốc dân Việt Nam ta còn kém đức tin nơi Ngài, nên cơ quan cứu khổ để giải
thoát cái ách nặng nề của chúng ta phải còn muộn màng đến ngày nay, mà trước mắt
chúng ta còn thấy cái thảm trạng tương tàn tương sát rất đau đớn thương tâm, phải
chi quốc dân ta thử cầu nguyện đi, rồi coi Ðức Chí Tôn sẽ cho chúng ta y như lời
hứa không?”
(Thuyết Ðạo Q I / tr25)
4 - Câu chuyện quanh Quả Càn Khôn:
Khoảng năm 1935, Đức Hộ Pháp bảo anh em Phạm Môn tháo ba căn nhà mà Ngài đã
ra lịnh làm là: Dưỡng Lão, Sở Nữ công nghệ và Sở Phạm-Môn Trường Hòa, ba nhà ấy kích thước như nhau, đem về ráp ba căn ấy lại thành một dãy để thờ Chức sắc là BÁO-ÂN-TỪ bây giờ. Đấy có phải giờ phút này “Qui Tam”
không ? Tức nhiên “ba mà một” là vậy.
Trước khi khởi công xây cất Đền Thánh, phải dời Quả
Càn Khôn về thờ tạm tại Báo Ân Từ này; rồi mới phá dở cây, lá, tranh, của Đền
Thánh cũ (có Quả Càn Khôn do ông Bính làm lần đầu tiên thờ nơi đây).
Vì sơ ý không tính trước,
hay đã tính trước rồi mà quên phần nầy hay là do Thiên ý chăng? Khi đem Quả Càn
Khôn vào cửa Báo-Ân-Từ vô không lọt, vì bề ngang cửa nhỏ hơn Quả Càn Khôn (nếu
biết là đã tháo cửa rồi). Túng thế đành ép dẹp lại méo như quả trứng mới vào được
cửa.
Đứng trước cảnh này Đức Hộ
Pháp khóc và nói:
- Rồi đây Phước Thiện sẽ
khổ.
Kế đến Đức Hộ Pháp bị bắt
đày sang Madagascar. Pháp chiếm lấy Tòa Thánh, lấy Báo Ân Từ làm nhà ăn tập thể,
chúng đập phá Quả Càn Khôn rồi quăng ra ngoài. Sau khi Quả Càn Khôn thành từng
mảnh vụn người ta thấy Thiên Nhãn vẫn còn nguyên; còn cốt Tượng Tam Giáo, Tam
Trấn, Ngũ Chi chúng đập phá ném ra sân; ông Thơ
đem về Cực Lạc Cảnh sửa đắp lại thờ cho còn tới bây giờ.
Thiên Nhãn còn: ông Thơ mướn người làm lại Quả Càn Khôn bằng thiếc.
Khi Đức Hộ Pháp hồi loan,
Quả Càn Khôn do ông Thơ tạo được di vào thờ nơi Đền Thánh.
- Biến lọan năm 1959-1960: Thời kỳ của Đức Thượng Sanh và Bảo Thế, lúc này cũng là lần thay đổi lịch
sử: Ông Phối sư Ngọc-Hoài-Thanh được Ngô Đình Diệm mua chuộc với một giá tiền rất
đắc để hạ Quả Càn Khôn của ông Thơ xuống và dựng Quả Càn Khôn của ông Hoài lên
(bên trong quả Càn Khôn của ông Hoài làm là Cây Thánh Giá). Dựng Quả Càn Khôn của
ông Hoài có nghĩa là dựng Cây Thánh Giá lên; thay đổi Quả Càn Khôn là cái cớ để
che mắt Tín-đồ, Chức-sắc cho khỏi sinh loạn. Ông Bảo Thế và ông Hoài cho mời
ông thợ hàn ở cửa số 2 là ông Giáo Hữu Thượng-Tửu-Thanh đến Đền Thánh đục khoan
hàn lại chân trụ để thượng cây Thánh Giá bên trong. Ấy là chủ mưu của Ngô Đình
Diệm, nhưng việc ấy không thành. Khi hay tin đục khoan chân trụ, Bà Chánh Phối
Sư Hương Nhiều (Bà Tám, bạn đời của Ngài Phạm Công Tắc) lên Đền-Thánh để quan
sát. Lúc đó thợ đã khoan gần tới nơi mà Đức Hộ Pháp đã trấn ếm khi xưa. Bà biết
nơi mà Đức Hộ-Pháp đã hành pháp trấn; Bà nói: Thiêng liêng mầu nhiệm, khiến như
vậy, nó khoan không tới, chỉ còn một chút xíu nữa là tới rồi. Bà sợ e khi khoan
phải chạm đến nơi mà Đức Hộ Pháp đã trấn thì không biết nguy hại dường nào, mà
điều gì xảy ra cho Đạo không lường trước được. Vì lúc Đức Hộ-Pháp trấn; Ngài có
bảo ông thợ bạc người Phước Thiện quê ở Phú Mỹ làm một cây gươm bằng vàng. Ngài
trấn đó: Đức Hộ Pháp kêu Chức sắc từ phẩm Giáo-Hữu đổ lên đến dự chứng cuộc
hành pháp trấn ếm chân trụ Quả Càn Khôn, cũng nơi đây sau khi trấn ếm xong,
Ngài tuyên bố:
“Sau này, nơi đây, nếu có
hư hoại và mất đi, thì những người có mặt hôm nay phải chịu tội trước Thiêng
liêng”.
Lòng người đâu qua được
Thiêng liêng; Trời đâu để cho thực hiện được. Kết quả:
Ngày 1-11-1963: Tổng thống
Ngô Đình Diệm bị lật đổ và chết bi thảm trước họng súng đại bác, y như lời
tuyên thệ hứa với Đức Hộ Pháp khi Đức Hộ Pháp đứng ngay tại bàn thờ có cờ Tổ Quốc.
(Ngô Đình Diệm làm lễ tuyên thệ trước Bàn thờ Tổ quốc có Đức Ngài chứng).
Ông Hoài cũng chết trước,
khi mưu
đồ chưa làm được. Cây Thánh-Giá không được để trong
Quả Càn Khôn, vì ông Hoài chết, mọi sự
không theo đúng kế hoạch. Quả Càn Khôn không có cây Thánh Giá được dựng lên là
Quả Càn Khôn thờ hiện nay đó vậy.
- Quả Càn-Khôn đầu tiên là
do Ông Bính làm bằng giấy, vải cứng, những người Pháp họ xé nát tan tành, nhưng
còn lại Thiên-Nhãn.
- Quả Càn-Khôn thứ hai:
Ông Thơ làm lại bằng
thiếc và lấy Thiên-Nhãn còn lại đắp vào.
- Quả Càn-Khôn thứ ba, Ông
Hoài làm bằng chai bên trong đặt cây Thánh Giá do Ngô-Đình-Diệm chủ xướng nhưng
sự việc không thành, là không có đặt cây Thánh-Giá. Bên trong là một ngọn đèn
thường sáng Thờ cho tới ngày nay đó vậy. Âu cũng là Thiên-Cơ !
Bài Thi nầy do Đức Chưởng-Đạo
Nguyệt-Tâm Chơn Nhơn đã cho Hộ-Pháp nhân chuyến Âu du vào ngày 27-5-1954 tức
trước ngày thay đổi Quả CÀN-KHÔN của Ông Hoài được sự chỉ đạo của Ngô-Đình-Diệm:
Khởi điểm vinh quang đã trổ màu
Giang-San Đất Việt giá là bao ?
Nền Nhân Câu-Tiển vừa
chen bước,
Cửa ải Phù Ta đã mở vào.
Mong lịch duyệt, nay đà lịch duyệt
Muốn thanh cao, đã đặng thanh cao,
Tiên, Rồng đã gặp hồi
phong-vũ,
Thay đổi CÀN-KHÔN thử
thế nào.?
5 - LUẬN ĐẠO:
Xem thế, Quả Càn Khôn không chỉ là trái đất mà gồm cả Thiên Cầu. Các tinh
tú nói trên xa gần khác nhau, nhưng trong đêm mắt ta như
ghi trên một hình cầu màu xanh to lớn (do hiệu
quả của phép phối cảnh). Đó là Thiên Cầu, vì nước Việt Nam (gần xích đạo) nên thấy sao Bắc Đẩu nằm ngang trên đường chân trời (tức
ngang tầm mắt) chớ không phải Thiên Nhãn vẽ trên địa xích đạo.
*- Con số Càn Khôn nhiệm mầu sanh hóa:
Quả Càn Khôn đường kính là 3,3 mét đó là lý “Tam Âm Tam Dương” có thể giải theo nhiều cách:
Chú thích: Trích từ quyển:
Dẫn Giải Sự Tích & Ý Nghĩa Về Hình Thể Tượng Trưng tại Ngoại và Nội Tâm Đền
Thánh
* Lý giải theo nét của hai Quẻ Càn Khôn:
Càn ☰ (3 vạch liền)
Khôn ☷ (ba vạch đứt).
Ấy là hình ảnh Tam Âm Tam
Dương; từ đây có thể tạo ra hai hình Tam giác đều, là hình có trước tiên và
hoàn hảo nhất trong hình học phẳng. Đặt 3 cạnh liền nhau, khép kín: tam giác đỉnh
quay lên là Tam Dương, một tam giác đỉnh
quay xuống là tam Âm, đặt chồng lên nhau tạo thành ngôi sao sáu cánh.
- Hình ảnh này sẽ lý giải
được danh “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” (6 chữ). Cũng là quyền hành của Giáo Tông và
Hộ Pháp nữa (xem khảo cứu vụ II/3).
- Quyền hành Hộ-Pháp Chưởng
Quản Nhị Hữu Hình Đài.
- Quyền hành của Giáo Tông
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
* Chữ điền 田 (Ma-phương-số):
Hình ảnh này sẽ lý giải tất
cả các ngày Đại Lễ Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, ngày Khai Đạo. Chu vi Nội-ô Tòa
Thánh.
* Lý giải theo toán học thì biến hóa khôn lường, ẩn tàng triết lý sâu xa:
- Thay quẻ Càn ☰ bằng 3 chấm từ đó ta vạch thẳng xuống
thành ra số (Tượng Thái cực).Quẻ Khôn ☷ bằng 6 chấm * và cũng từ đó vẽ thành vòng tròn (tượng Vô cực). Cho phối hợp vào nhau tức đặt
đường thẳng lên vòng tròn thành ra chữ Trung . Thánh nhân khi bày ra Lục thư tức
là phần tượng hình thì chữ trung vẽ nên vuông 中 Ấy là nói
lên “Vô Trung Từ Phụ” 無中慈父. Vô trung là vượt cả lên
trên tức là “Đại”, từ đó danh từ “Đại Từ Phụ” cùng một nghĩa: quyền hành nắm trọn
hai quẻ Càn Khôn.
Chữ TRUNG này cũng chính
là tên của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung 梨文忠 mà Đức Chí-Tôn đã chọn lựa làm người Anh Cả. Trước đó thì Ngài là Đầu Sư
phái Thượng, Thánh danh ThượngTrung-Nhựt, thì không ai có thể ước mơ lấy chữ
“NHỰT” của Ngài được, đặc biệt nhứt là Ngài nắm chữ “NHỰT” là một trong Tam bửu
của Trời: Nhựt, Nguyệt, Tinh. Chính vì chữ “Nhựt” này mà ông Phối Sư Thái
Ca-Thanh ham muốn cho được nên đã mích lòng với Đức Ngài rồi tách riêng ra lập
Chi phái ở Cầu Vỹ (Mỹ tho) và lấy hiệu là Thái Ca Nhựt. Nhưng ai đó đã quên rằng
“Trời không hai mặt, Đất chẳng hai vua, thì Người cũng không thể hai lòng”. Tiếc
thay ! Ngày về thiêng liêng khó mà nhìn nhau cho đặng. Nhưng thật ra có về được
tới đâu mà nhìn !
- "Lý học thâm uyên
trình tiên giác".
Trong Sấm ký Trạng Trình
có câu này:
“Cửu Cửu Càn - Khôn dĩ định,
“Thanh minh thời tiết
hoa tàn. “
Thế nên bề kính tâm quả Càn Khôn 3,3m tức (3x3)=9 Trời đất định rằng chín lần
chín 81 năm, vào tiết thanh minh sức Dịch đã tàn. Trên thực tế thì Tây (Pháp)
đã chấm dứt đô hộ nước ta sau 81 năm, chính là lúc mở đầu cho một chu kỳ “số học”
mà hai con số 9 này lại hiển hiện trong cửa Đạo Cao Đài ngày nay thật là rõ
nét: Trở lại với số nét của hai quẻ Càn Khôn, thì
Càn ☰ (3 vạch liền)
Khôn ☷ (3 vạch đứt thành ra 6 nét), cộng
chung 9 nét
(3+6) mà ngay trong Đền Thánh rất nhiều những số ấy:
- Hai lầu chuông trống đứng trước Hiệp Thiên Đài, mỗi lầu cao 36 m (3+6=9). Hai lầu có hai con số 9.9. Gọi là Cửu Cửu.
Bước vào trong có hàng cột
Rồng xanh chầu Chí Tôn, mỗi bên cũng có 9 Rồng, hai bên thành ra 99.
* Bài toán về số đường kính quả Càn Khôn:
3 - 3 =
0 biểu tượng Hư vô
(Trời Đất chưa phân)
3 : 3 =
1 biểu tượng Thái Cực
(ngôi Đức Chí Tôn)
3 x 3 = 9
biểu tượng Thái Dương (Mặt trời)
3 + 3 = 6 biểu
tượng Thái Âm (Mặt trăng)
Hai con số sau: 9 là Lão Dương, 6 là lão Âm. Nếu cộng hai con số này lại là 15 (9+6=15) là số Ma phương.
Chỉ có hai con số 3 mà gom
cả lý thuyết vũ trụ, nếu không phải Đức Chí Tôn thì không ai có thể làm nỗi !
Nguyên lý: SỐ 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3.
Ba tức là cơ quan hữu tướng cùng vô tướng
hiện có ở Càn-Khôn vũ-trụ này. Tánh chất đặc-biệt của con số 3: Số 3 là số nửa
tịnh, nửa động. Nhưng phần động nhiều hơn. Số 3 chỉ cơ biến tướng và vi-chủ vật-loại
thuộc quyền Tăng. Số ấy có đặc-tính năng động, biến đổi. Vạn hữu mang số 3 thì
chất nóng-nảy nhưng vì có phần tịnh nên cũng biết dung-hòa. Số 3 là cơ sở của
Tam thể: PHẬT- PHÁP- TĂNG nên nó vừa có năng-lực huy-động mà cũng vừa có năng-lực
dung hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy có bản-thể cứng-rắn, nhiều hoạt-động, ít
may-mắn, dễ thành nhưng mau bại.
- Càn Khôn là Thái Cực:
Càn Khôn là Thái Cực, Thái
Cực là Chí Tôn, Chí Cực. Hệ từ thượng viết: Càn Khôn là cái sâu kín của Đạo Dịch.
Càn Khôn thành hàng mà Đạo Dịch lập nên ở trong. Càn Khôn bị phá thì còn gì để
thấy Đạo Dịch. Dịch không thể thấy thì hầu
như Càn Khôn không thể thi hành được".
Câu: "Nhất âm nhất
dương chi vị đạo" (một Âm một Dương gọi là Đạo). Càn Khôn là cửa của Đạo Dịch.
Càn tiêu biểu vật Dương, Khôn tiêu biểu vật Âm. Âm Dương hợp với nhau mà Cương
Nhu mới có thực thể, thể hiện công việc của trời đất và thông cảm cái đức của
Thần minh. (Thần là Trời, Minh là trăng sao). Đóng cửa gọi là Khôn, mở cửa gọi
là Càn. Một lần đóng một lần mở gọi là biến. Đây nói đến sự biến hóa của muôn vật
do Âm Dương đun đẩy lẫn nhau:
- Biểu hiện ra nó gọi
là Tượng 象
- Hình thể nó gọi là đồ
dùng (Khí) 器
- Chế ra mà dùng nó gọi
là Pháp
法
"Hình nhi thượng giả
vị chi đạo,hình nhi hạ giả vị chi khí" nghĩa là cái có trước khi có hình gọi
là đạo, cái có từ khi có hình gọi là Khí. Vậy: Càn Khôn là hai tính chất của vũ
trụ và vạn vật, trở thành một thế-giới-quan của Đạo Cao Đài. Thế-giới-quan này
đã thâm nhập vào học thuật, tư tưởng, văn hóa của loài người.
Bởi lẽ, CÀN KHÔN không
dùng để chỉ rõ hiện tượng hay sự vật đặc
thù nào, mà là Đạo rộng lớn phổ biến. Nói một cách khác Đạo Cao Đài là Đại-Đồng.
Các nhà học giả cũng có
ý-niệm rằng:
- “Đạo thờ Càn Khôn là Đạo thờ Cha Mẹ:
Vì Càn là Cha, Khôn là Mẹ. Đạo thờ cha mẹ tâm
linh chính là một tín ngưỡng bản địa của dân tộc
ta.
"Đạo thờ cha mẹ tâm
linh dân tộc cần được giữ gìn và phát huy. Bởi đó chính là tinh thần văn hóa,
là kinh nghiệm lịch sử, là sự độc đáo của Việt Nam không thể xóa
bỏ được" (Văn hóa nghệ
thuật số 8 năm 1996, trang 25).
Mặt khác, Kinh Thuyết Pháp
có câu: "Đạo Hư Vô, Sư Hư Vô". Hư Vô bao gồm tất cả: vũ trụ, không
gian, thời gian, vạn vật và cả về giáo lý, bao hàm ba ý nghĩa:
1 - Có mà không;
2 - Cuộc đời ngắn ngủi
không không;
3 - Tất cả mọi vật không
thể tồn tại dưới một hình thức nhứt định (phải biến dịch).
Giáo lý dạy: Cuộc đời vô
thường tức không vĩnh cữu, luôn luôn thay đổi để tiến lên. Đạo đức cũng phải tiến
hóa. Đạo thờ Trời Đất, Cha Mẹ cũng phải sửa đổi cho hợp trào lưu phát triển của
nhơn sanh. Không biến sinh là hiện tượng chết dần,nhưng biến trong khuôn khổ
thì không lọan
Đạo là Dịch: Dịch là biến
dịch, tương sinh tương khắc, là quay về với lẽ ban đầu. Trong xã hội nông nghiệp
buổi đầu, chịu tác động trực tiếp của thời tiết do mặt trời, mùa màng ảnh hưởng
nhiều bởi mặt trăng; con nước triều vận hành trong thế quay về. Đời người cũng
sinh, lão, bệnh, tử, theo gió mưa. Cái vòng lặp đi lặp lại đó Đạo Cao Đài gọi
là vòng luân hồi, trong một lý lẽ cao siêu mà Thầy dạy: "Thầy là các con, các con là Thầy".
Thầy phân tánh tạo ra
khoáng sản, thảo mộc, cầm thú rồi con người. Con người ấy sống tập đoàn với nhau
phải có Lễ, có đạo đức để bước lên hàng Tiên - Phật mà trở thành Trời. Thánh
giáo dạy:
“Tu hành là học làm trời.
“Phải đâu kiếp kiếp làm người thế gian”.
CHƯƠNG II
A - THIÊN NHÃN 天 眼
Thiên Nhãn là gì ?
E: The divine Eye
F: Eye of Providence,Divine Eye,All-seeing Eye.
Thiên-Nhãn là biểu tượng của Tân-Giáo Cao Đài.
Đấng Chí-Tôn ban sơ đến dạy về Thiên
Nhãn rằng:
“Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ
Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
1 . Nhãn thị chủ Tâm
眼 是 主 心
2 . Lưỡng quang chủ tể
兩 光 主 宰
3 . Quang thị Thần
光 是 神
4 . Thần thị Thiên
神 是 天
5. Thiên giả Ngã dã
天 者 我 也
THẦN là khiếm khuyết của
cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp
TINH- KHÍ đặng hiệp đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. Các con nhớ
nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư Ðạo hữu nghe. Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên,
Phật, từ ngày Ðạo bị bế, thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song
Thiên đình mỗi phen đánh tản THẦN không cho hiệp cùng TINH- KHÍ. Thầy đến đặng
huờn nguyên Chơn Thần cho các con đắc Đạo.
Con hiểu “Thần cư tại
Nhãn”.Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại
đó. Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo, hằng nhớ đến danh Thầy.”
Giải nghĩa:
1 - Con mắt là chủ của cái
Tâm. Ở đây, Thiên Nhãn là chủ của cái Thiên Tâm; Thiên Nhãn là chỉ Ông Trời,
Thiên Tâm là cái Tâm của ông Trời tức là ngôi Thái Cực, là Ðại Linh quang, Ðại
hồn. Vậy: Ông Trời là chủ của ngôi “Thái Cực Thánh Hoàng” ngày nay đã đến với
nhân lọai ngự trong mỗi gia đình con cái của Ngài trong cơ Đại Ân Xá kỳ Ba.
2 - Hai ánh sáng là chúa tể. Lưỡng quang ấy là Lưỡng
Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn Chưởng quản Dương quang, Ðức Phật Mẫu
Chưởng quản Âm quang. Âm quang và Dương quang là chúa tể, bởi vì Lưỡng quang Âm
Dương phối hợp mới tạo ra Càn Khôn vũ trụ và hóa sanh vạn vật (Lưỡng là hai vật
không thể chia lìa; nhị là hai, nhưng có thể chia lìa tách rời ra được)
3 - Ánh sáng là Thần (Thần
là chơn thần của Trời)
4 - Thần chính là Trời.
5 - Trời ấy là TA vậy (Tiếng
tự xưng của ông Trời).
Thế nên, thờ Thiên Nhãn là
thờ Trời, thờ Ðức Chí Tôn. “Thần cư tại Nhãn”.
Chơn Thần hiện ra nơi con
mắt. Nhìn vào đôi mắt, ta đoán biết Thần của người đó mạnh hay yếu. Huờn nguyên
hay hoàn nguyên là trở về nguồn cội. Phép luyện đạo trong Ðại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
là luyện Tam Bửu (Tinh- Khí- Thần) hiệp nhứt: ấy là luyện Tinh hóa Khí, luyện
Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư, tạo được Chơn Thần huyền diệu, là cơ đắc đạo tại thế.
Ngài Bảo Văn Pháp Quân giải
về Thiên Nhãn (1927)
“Thiên Nhãn, tuy là Chí-Tôn dạy ta vẽ ra mà thờ
kỉnh Chí Tôn, nhưng lại có dạy đặt
ở giữa một ngọn
đèn gọi là Thiên đăng để chiếu rọi vào Thiên-Nhãn, tức là Thánh ý
Chí-Tôn muốn trạng thái cái nguồn cội của sự sáng suốt thông minh gọi là ánh
Thái-Cực, vốn từ buổi khai thiên, Chí-Tôn đã phân định: nhứt khí Hư-vô chia đôi
ra gọi là phân Lưỡng-nghi, xẻ tư ra gọi là sanh Tứ-Tượng, rồi lại phân ra tám gọi
là biến Bát-Quái.
Người tu Phật xưa chỉ niệm
6 chữ “Nam-mô: A-Di Đà-Phật” chứng tỏ Phật chỉ độ Dương mà không độ Âm, độ Nam
mà không độ Nữ, độ tử mà không độ sanh; nhưng Đạo Phật ngày giờ này lại biến
thiên rất nhiều làm mất đi những chơn lý bí truyền cao cả của Phật, là thất kỳ
truyền!
Ngày nay người tu theo Đạo
Cao Đài niệm danh Thầy 12 chữ tức là cơ Đại Ân xá kỳ ba của Chí-Tôn.
Phải “Hằng nhớ đến danh Thầy” là gì ?
- Tức nhiên phải hằng tâm
niệm câu chú của Thầy là: “Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ Tát Ma-Ha-Tát”
Tại sao phải niệm câu Chú
của Thầy ?
“Câu Chú của Thầy” là câu niệm có tánh cách
huyền bí của Ðấng Thiêng-Liêng đặt ra để hộ trì các Môn đệ trên bước đường tu.
Đặc biệt là niệm danh Thầy trong nguơn hội Cao-Đài để được giải thoát.!
Trong thời Ðại-Ðạo Tam-Kỳ
Phổ-Ðộ này, Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế giáng cơ dạy Đạo, xưng mình là Thầy,
gọi các con cái của Người đang học Đạo là Môn đệ. Ðức Chí Tôn dạy đạo đức cho
nhơn sanh như là Thầy dạy trò, gần gũi thân mật, biểu lộ lòng thương yêu của
Chí Tôn đối với chúng sanh thật vô cùng tận, như tình cha con, qua lời khiêm tốn,
thân thương của Thầy rằng:
Làm Cha nuôi nấng ân cần,
Làm Thầy lại nhượng phẩm
Thần, ngôi Tiên.
Lẽ tất nhiên Đức Chí-Tôn
trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này nắm hai nhiệm vụ: vừa làm Cha (Đại Từ Phụ) thì lo
lắng cho con, như người Cha trong gia đình; vừa làm Thầy (Ngọc Hòang Thượng Đế)
thì mới đủ quyền hành ban cho ngôi Tiên phẩm Phật cho chư môn đệ của Thầy.
Câu Chú của Thầy tức là
câu niệm Chí Tôn có 12 chữ:
“Nam- mô Cao-Ðài Tiên-Ông Ðại
Bồ-Tát Ma- Ha-Tát"
( 1 2 3
4 5 6
7 8
9 10 11 12
)
- Nam-Mô 南無 (đọc trại ra từ Nam-vô) do phiên âm từ tiếng Pali
"Namô" hoặc từ tiếng Phạn "Namah", từ ngữ Nam Mô thường được dùng làm chữ khởi đầu cho bất cứ câu cầu nguyện nào trong Tôn
giáo ngày nay.
Nam Mô có 6 ý nghĩa:
- Qui y: trở về nương tựa Phật và Bồ Tát.
- Qui mạng: qui thân mạng của mình.
- Cung kính: hết lòng chí thành
cung kính.
- Cứu ngã: mong được cứu độ.
- Đảnh lễ: lòng thành kính.
- Độ ngã: mong tu được qua bờ
giác ngộ.
Hai chữ “Nam-Mô” là một triết lý quan yếu đối với trời đất cùng vạn vật,
đó là Âm Dương nhị Khí vậy. Thuở hỗn độn Hồng
mông trong pháp sơ tạo ấy chính là Đạo khởi thỉ của Trời Đất nên chữ “Nam vô” 南 無 được niệm đầu tất cả các Thánh danh, nhưng đọc trại
là “Nam mô”. “Nam” là Phương Nam thuộc Bính Đinh, HỎA là lửa Thái-Cực ở lý nhứt
nguyên biến cung Càn thành ba vạch..“Vô”
là chỗ tách rời hình Khôn lục đoạn với
khoảng không đó là
vòng Vô Cực nơi
phát xuất sanh quang cho Vũ Trụ. Đây là các câu niệm của Đạo Cao-Đài.
- Cao Ðài: là cái đài cao,
dùng làm nơi ngự của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế khi có Ðại hội triều đình
của Ðức Ngài tại Ngọc Hư Cung - Linh
Tiêu Ðiện.
- Tiên Ông: Ông Tiên, vị
Tiên, một phẩm chót của Tiên giáo (một sự khiêm tốn của ông Thầy Trời)
- Ðại Bồ-Tát: Nói đầy đủ
là Bồ-Ðề-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Bodhisattva, nghĩa là người đã tự giác được bản
tánh và có nhiệm vụ phổ độ chúng sanh (một phẩm
chót của Phật giáo - cũng là hình
thức khiêm tốn).
- Ma Ha-Tát: Nói đầy đủ là
Ma-Ha-Tát-Ðóa, tiếng Phạn là Mahasattva, nghĩa là Ðại chúng sanh, tức là người
có dũng tâm muốn làm việc lớn. “Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” là vị Bồ-Tát ở phẩm bực
cao trọng, xứng đáng đứng vào hàng Phật vị, nhưng vì còn nhiệm vụ cứu độ chúng
sanh nên còn mang danh Bồ-Tát, hằng ngày hoá độ chúng sanh.
Câu Chú của Thầy đặc biệt
có 12 chữ là vì “số 12 là số riêng của Thầy” với ý nghĩa là bao gồm Tam giáo:
- Cao Ðài: tượng trưng Nho
giáo.
- Tiên Ông: tượng trưng
Lão giáo hay Tiên giáo.
- Ðại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát: tượng
trưng Phật giáo.
Ngày nay Ðức Chí Tôn dùng
câu Chú nầy có mục đích “Qui Nguyên Tam Giáo”, tức là đem Tam giáo (Phật
-Lão-Nho) về một gốc, gốc đó là Đức Chí Tôn - Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Thầy nói:
“Thập nhị Khai thiên là Thầy,
Chúa cả Càn-Khôn thế giái, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số
riêng của Thầy”.
Vậy danh xưng của Đức
Cao-Đài đã gồm trọn Tam giáo: Phật- Tiên- Thánh. Lại nữa Thánh danh này còn thể
hiện một hạnh khiêm-nhường nữa, qua lời dạy của Thầy:
“Các con nghe! Các con coi
bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình đặng độ rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là
một vị TIÊN ÔNG và BỒ-TÁT, hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải
để mình vào phẩm tối cao, tối trọng; còn Thầy thì khiêm-nhường là thế nào! Vì vậy
mà nhiều kẻ Môn-Đệ cho Thầy là nhỏ… Cười!” (TNI/44)
Ngoài ra đứng về Lý Dịch
mà nói thì: hai chữ “Nam Mô” tượng trưng cho lý Âm Dương mà bất cứ nơi nào cũng
có. Cả câu nguyện có 12 chữ, tượng cho Thập Nhị Địa Chi, tức là: Tý, Sửu, Dần,
Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dâu, Tuất, Hợi.
Nếu lấy hai chữ Nam-Mô ra
thì danh xưng của Thầy có 10 chữ, ấy là tượng cho Thập Thiên Can, là: Giáp, Ất,
Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Như vậy phối hợp cả Thiên Can và Địa
Chi là quyền Chúa Tể của Thầy đã thể hiện trong ấy, mà Kinh Phật Mẫu dạy rằng:
“Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
“Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”
Niệm danh Thầy để được giải
thoát…
Đức Hộ-Pháp giải về con đường
Thiêng-Liêng Hằng Sống có nói rằng:
“Hỏi thử tội tình của
chúng ta đã làm trong kiếp sanh, Đức Chí-Tôn để trong phương-pháp nói rằng “Tội
tình các con đầy dẫy nơi mặt địa cầu này mà đến giờ chót, các con biết kêu danh
Thầy thì Thầy đến cứu, Thầy đem bí-pháp giải thoát để trong tay các con đặng
các con đoạt chơn pháp giải thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là “Nam-Mô Cao-Ðài Tiên
Ông Ðại Bồ Tát Ma-Ha-Tát”.
B - TÌM HIỂU THIÊN NHÃN THẦY
LÀ
TÌM HIỂU VỀ BÁT QUÁI
1 - Bát Quái là gì ? -Vẫn
là tám đạo hào-quang gọi là Bát phẩm Chơn hồn: Phật hồn, Tiên-hồn, Thánh-hồn,
Thần hồn, Nhơn hồn, cầm thú, côn trùng, thảo mộc, vật chất hồn. Vì đó mà nơi thờ
PHẬT-MẪU có câu đối này:
- BÁT phẩm chơn hồn tạo Thế
giới, hóa chúng sanh, vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO.
- QÚAI hào Bác ái định Càn
Khôn, phân đẳng pháp, nhứt thần phi tướng trị kỳ TÂM
八 品 真 魂 造 世 界 化 眾 生 萬 物 有 形 從 此 道
卦 爻 博 愛 定 乾 坤 分 等 法 一 神 非 相 治 其 心
Xin lược giải:
- Tám bậc linh hồn gầy nên
cõi đời, biến thành chúng sanh là muôn vật có hình dõi theo cơ Đạo.
- Ánh sáng trọn lành định
an võ-trụ, đặt bày ngôi thứ do một Đấng vô ảnh phán đoán nơi cõi lòng.
. Hai chữ khởi đầu là BÁT QUÁI
. Hai chữ cuối của hai câu là ĐẠO TÂM.
Xin nói qua về DỊCH:
Quái (quẻ) có hai lọai: quẻ đơn có 8 quẻ: Càn ☰, Đòai ☱, Ly ☲, Chấn ☳, Tốn ☴, Khảm ☵, Cấn ☶, Khôn ☷ Đấy là 8 quẻ
căn bản nhất dùng trong các Bát Quái sau.
Quẻ kép là do hai quẻ đặt chồng lên nhau.
Hào là những vạch ngang để ký hiệu cho một quẻ.
Vậy thì Bát Quái vốn là tám đạo hào-quang, tùy
sự cao hạ mà định phân ngôi thứ ra tám bậc, cho nên Đức Chí-Tôn mới nói là Bát
Phẩm Chơn hồn. Hễ có chia ra từ bậc thì tất nhiên phải có
đẳng cấp thượng hạ khác nhau:
- Phật hồn khác với Tiên hồn
- Tiên hồn khác với Thánh
hồn,
- Thánh hồn khác với Thần
hồn,
- Thần hồn khác hơn, thông
minh hiểu biết hơn nhơn hồn.
Chữ Bát Quái cho thấy rằng
đây là thời kỳ Phục hưng của đạo pháp, đâu đâu cũng thấy chữ Bát Quái như: Bát
Quái Đài, Bát Quái Đồ thiên, Lộ Bát Quái…Cũng là thời kỳ ứng hợp với Kỹ-thuật-số
mà văn minh khoa học đang tiến triển. Đạo học thì đang thịnh về: Nho, Y, Lý, Số.
Đạo Tâm cho thấy rằng sắp
chuyển mình để bứơc qua một “Tịch Đạo Đạo Tâm” là theo sau “Tịch Đạo Thanh
Hương”, tức nhiên là có biến chuyển về tâm linh.
Hai câu đối này có số chữ
dài nhứt: mỗi câu 17 chữ. Nếu tính về Dịch lý thì đây là quẻ Thiên Sơn Độn (1
là Càn vi THIÊN, 7 là Cấn vi SƠN, đọc là Thiên Sơn Độn (Độn là lui đi) tức
nhiên xác nhận một lần nữa: thời Thanh Hương đã lui đi, để nhường chỗ cho cơ Đạo
Tâm. !
Tuy nhiên: nếu nói từ bậc
phẩm Phật, Tiên, Thánh, Thần, ta không nên luận đến sự cao hạ. Một ví dụ cho thấy
Đức Quan Thánh Đế; nói là hàng Thánh, nhưng Ngài là vị Cái Thiên Cổ Phật
Quan-Thánh Đế-Quân. Chỉ biết rằng trong hàng chúng sanh thì phẩm người là linh
hơn hết mà thôi: Loài người vẫn cao kiến hơn, thông minh hơn cầm thú côn trùng.
Cầm thú côn trùng hiểu biết hơn thảo mộc và vật chất hồn, là sự rõ thấy hiển
nhiên. Sự cao hạ về bậc phẩm đã định phân trong Bát Quái vốn do theo lẽ công
bình của Chí-Tôn nơi luật tấn hóa để sắp đặt hàng phẩm tùy theo sự quang minh
nơi linh tâm của vạn vật đã tự mình trau luyện gọi là TU mà đào tạo ra hàng phẩm
ấy. Nếu muốn rõ thấu về sự cao hạ của bậc phẩm, thì không còn chi hơn cho bằng
ta tìm hiểu ngôi thứ của nhân loại, Thánh nhân vẫn chia ra ba bậc khác hẳn tính
nhau là Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân.
Vạn vật không thể nào dấu
diếm hạng bậc thiêng liêng của mình đặng, là do nơi chơn hồn đã qui định rồi,
thì lẽ tự nhiên nơi linh tâm ta, nó lộ bày ra trong tánh cách cử chỉ ta “Tâm ư
trung xuất hình ư ngoại” rồi lại cũng do nơi linh tâm quang minh mà kẻ khác
trông thấy hiểu biết được phẩm của ta.. Điểm quang minh ấy gọi là Thần Lương
tâm (La conscience) mà Thần lương tâm vốn vô hình, vô ảnh nên gọi là “Thần phi
tướng”, theo như câu: “QÚAI hào Bác ái định Càn Khôn, phân đẳng pháp, nhứt thần
phi tướng trị kỳ TÂM”. Ấy là sự hiểu biết thông minh sáng suốt duy ở hai mắt
này ngó xem cho thấy vật mà thôi, cho nên Chí Tôn mới nói “Lưỡng quang chủ tể”.
Còn sự định đoạt hay dở thấp cao vẫn do nơi con mắt mầu nhiệm nên Chí-Tôn mới
nói rằng “Nhãn thị chủ Tâm”. Con mắt ấy vẫn vô vi “phi tướng”. Ấy là do sự tu
luyện để tìm về nguồn cội Đạo- gọi là “Huệ Nhãn”- phân biệt với mắt thường gọi là phàm-nhãn. Tùy nơi sự quang
minh cao hạ mà định phân đẳng cấp riêng cho người, vật; rồi cũng do nơi Huệ-nhãn
mà người để tâm trau luyện gọi là tu cho quang minh hơn nữa, nên người mới đoạt
vị Thần, Thánh, Tiên, Phật như các Đấng được nêu danh trên Bát-Quái Đài,
như Đức Phật Thích Ca Mâu-Ni, Đức
Thái Thượng
Lão Quân, Đức Văn Tuyên Khổng
Thánh..
Chính vì vậy mà Thánh nhân
gọi cặp phàm nhãn của người là “Lưỡng mục” 兩目 duy có để xem thấy vật bên ngòai mà thôi. Về tâm linh khôn sáng thì vẫn của
“Thần phi tướng” 神非將 là điểm Linh quang của
người. Trong hàng Bác sĩ, Kỹ sư…những vị này tạo ra phi cơ hiện nay, cũng chỉ
dùng nơi Huệ-nhãn, tức là dùng sự quang minh mà lần lượt tầm kiếm trong phòng
thí nghiệm, đồ theo kiểu vở phi điểu của Tạo công, từ xưa đến nay mới đắc pháp,
ấy cũng do sự cao siêu của Linh tâm mà ra.
Ấy vậy, Thiên-Nhãn gọi là
“Mắt Trời”, Đấng Chí Tôn ban cho mỗi người một tia sáng nơi mình gọi là Thần
Lương tâm (La conscience) cốt yếu để chủ định giữ gìn phẩm hạnh người ta. Bởi cớ
nên Đấng Chí-Tôn thường dạy rằng: “Thầy hằng ở bên các con mà nhắc nhở dìu dắt
các con” là dường ấy, lại cũng do nơi đó mà có câu “Nhứt Thần phi tướng trị kỳ
tâm”.
Cơ Tấn hóa: Như thế, là duy có riêng luận
về linh quang của Nhơn phẩm mà thôi. Dưới hạng bậc của nhân loại vẫn còn đoàn
em thấp thỏi hơn là cầm thú, côn trùng, thảo mộc và vật chất. Mỗi vật loại cũng
đều có điểm Linh quang nơi mình, nhưng rất nhỏ-nhít. Do theo hàng phẩm: vật chất tùy cơ tấn hóa sẽ
bước lên hàng thảo mộc; thảo mộc bước lên hàng côn trùng, cầm thú; cầm thú tấn
bước vào nhân loại, cũng như loài người nếu chí tâm luyện tập, điểm Linh quang sánh kịp bậc nào trong hàng
Thần, Thánh, Tiên, Phật thì cũng được vào hàng phẩm ấy.
Tóm lại: Thiên Nhãn đã là
tôn chỉ của Đạo, lại là cội nguồn của Pháp nên quá thâm-thâm huyền diệu. thế
nên “Thiên Nhãn nghĩa là Mắt Trời” được
tôn thờ:
- Thứ nhất là cả thế giới
lòai người ai cũng biết rõ tầm quan trong của MẮT như thế nào rồi !
- Khi nói Mắt ai cũng biết
được hình dạng của nó.
-“Mắt là cửa sổ của Linh hồn”
là tượng trưng cho cái tâm, thế nên cách thờ phượng của Đạo Cao Đài ngày nay là
ngay dưới Thiên Nhãn có thắp một ngọn đèn dầu cho thường sáng, giả làm “Tâm
đăng” cũng là nguồn cội Đạo, vẫn là cái
ánh sáng trọn lành của Trời gọi là “Ánh Thái-Cực”, nêu lên trên cao vọi nơi tuyệt
đỉnh là Cao Đài.
Nếu tính theo hình phẳng
thì trên hết là Thiên Nhãn.
Dưới Thiên-Nhãn ngay hàng
giữa thể hình Ngũ Chi:
- Thích Ca Mâu-Ni.. tượng
…Phật đạo
- Thái-Bạch Kim Tinh…… . Tiên đạo.
- Da-Tô Giáo Chủ …………. Thánh đạo
- Khương Thượng Tử
Nha …Thần đạo
- Ngôi Giáo Tông Đại-Đạo
…Nhơn đạo.
Nhưng trên vòng tròn, thì
ngôi Chí-Tôn ở giữa, là tâm.
Đồ hình trên: vòng tròn lớn tượng Càn Khôn vũ trụ. Trong có một tam giác lớn nội tíêp:
đỉnh mang chữ THÍCH CA MÂU NI là ngôi PHẬT, hai đỉnh dưới của tam giác này là
TIÊN, THÁNH, chứng tỏ rằng Tam giáo trước mặt Đức Chí-Tôn vốn có từ xưa đến giờ
vẫn đồng quyền, đồng đẳng nhau của thời Nhứt kỳ Phổ độ.
Qua Nhị kỳ Phổ độ thì Tam
giác trên là Tam Giáo:
- Đỉnh là chữ Thích Ca Mâu-Ni (Phật).
- Kế đến Thái Thượng Lão Quân (Tiên)
- Đỉnh kế là Khổng Thánh Tiên Sư (Thánh)
Nay, Qua Tam Kỳ Phổ Độ
thay quyền Tam Trấn Oai nghiêm, thì biểu tượng là tam giác ở giữa:
- Đỉnh mang chữ: Thái Bạch
Kim Tinh (Tiên giáo)
- Kế đến là Quan Âm Như
Lai (thay Phật giáo)
- Kế là Quan Thánh Đế Quân (thay Thánh Giáo)
Nếu chỉ tính hàng giữa thì
đây là biểu tượng: Ngũ Chi Đại Đạo như trên đã nói.
Nhưng tại sao Đức Da-Tô
Giáo Chủ đặt ở tâm ?
- Đấy là nét đặc biệt nhứt
của thời Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Chúa lại ngự trong tâm của vũ trụ tức là ngay ngôi
của Đức Thượng Đế, bởi Đức Chúa Cứu Thế đã chịu đóng đinh trên Thánh giá để chuộc tội cho lòai người. Ngày nay Đức Chí-Tôn bảo
hành y Tam Lập tức là tinh thần PHỤNG SỰ. Vì phụng sự Vạn linh tức là phụng sự
Chí linh. Nếu chư Môn đệ làm xong phận sự là Lập đức, lập Công, lập Ngôn thì
cũng gần ngôi Tiên, Phật vậy; Thầy còn dành cho cả ngôi Trời cho người dám “Thọ
khổ”nữa!
Nhìn vào đồ hình quả là
Chúa đã ngự trên ngôi “Thập tự giá” tức là giao điểm hai đường kính vòng tròn.
Đồ hình có cả thảy 9 Đấng:
Phật, Tiên, Thánh, Thần, nhưng duy chỉ có Phật Quan Âm là Nữ, tức là Nữ Phật
Tông là nghĩa làm sao?
Dịch nói “Chúng dĩ quả vi
chủ” tức nhiên trong số đông thì số ít làm chủ ! Vậy thời kỳ này Nữ Phật Quan
Âm làm chủ ! Làm CHỦ về vấn đề gì ?
- Thời Tam Kỳ Phổ Độ này Đức
Chí-Tôn mở Đạo không dùng Tam giáo như hai kỳ trước mà dùng TAM TRẤN OAI
NGHIÊM thay quyền cho Tam Giáo, vậy:
- Đức Phật Quan Âm là Nhị
Trấn Oai Nghiêm tượng cho đức BI (Từ bi- Bác ái)
- Đức Lý Thái Bạch là Nhứt
Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo Tông ĐĐTKPĐ, tượng trưng đức TRÍ
- Đức Quan Thánh Đế Quân
là Tam Trấn Oai nghiêm, tượng trưng đức DŨNG.
Như vậy người tu theo Đạo
Cao Đài ngày nay phải noi gương Tam Trấn mà tu cho hiệp tam bửu, ấy là BI-
TRÍ-DŨNG vậy.
Tuy nhiên theo Tôn chỉ của
nền Đạo Cao Đài ngày nay là cứu thế và chuyển thế, tức nhiên vì nhân lọai sắp đến
kỳ hủy diệt nên Đạo mới đến để cứu đời. Trước mắt cho thấy rõ là nhân lọai ngày
nay thừa đức TRÍ và DŨNG, nhưng thiếu đức BI. Vì thiếu đức BI nên nhiều nứơc đã
liều chết chính mình và còn làm cho nhiều người cùng chết, tức nhiên họ không
thương mình thì còn thương ai ! Lòng Bác ái, Từ-bi đã khô cạn lắm rồi ! Phải thể
hiện đức Từ bi, Bác ái mới cứu nhân lọai
trong phút lâm nguy này !
Sắp theo ngôi thứ, tức là
thể bày công trau luyện theo gương sáng
của các Đấng đã dày công tu hành, cũng là tinh thần qui nhứt. Nhưng dưới mắt Đức
Thượng Đế không phân biệt cao thấp, mà là đồng đẳng đồng quyền với nhau, nhưng
chỉ biệt phân nhiệm vụ mà thôi.
Giờ này Đức Thượng Đế ngồi
sau hết nhưng trên hết để đưa về cơ tận độ trong kỳ Ba cứu thế.
Đức Khương Thượng Tử Nha
là Thần Đạo, nhưng không có ngày Vía, vì Ngài bình sanh không để lại một triết
lý nào cho nhân lọai, mà chỉ có công lập BẢNG PHONG THẦN mà thôi.
Ngôi Giáo Tông là đại diện
cho NHƠN ĐẠO. Tuy là Ngài có ngai vàng, có Long vị thờ nơi Bát Quái Đài, nhưng
không có câu niệm như Đức Hộ-Pháp. Nhưng cả hai ông chủ của Hiệp Thiên Đài và Cửu
Trùng Đài hiệp một mới là quyền Chí-Tôn tại thế.
Đây là một hình thức ÂM-
DƯƠNG luôn thể hiện một cách khít khao trong nền Đại-Đạo ngày nay.
Tuy nhiên: quyền tối thượng
vẫn là Đức CHÍ-TÔN Ngọc Hòang Thượng Đế - Giáo Chủ về vô vi.
Người Việt Nam có quyền
hãnh diện ngày nay có được mối ĐẠO NHÀ, là đạo này phát xúât từ Việt Nam.
Thầy đã xác nhận điều ấy,
qua Thi văn dạy Đạo:
Từ thử nước Nam chẳng Ðạo nhà,
Nay Ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sao bao nả ?
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.!
2 - Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao Đài để cứu nhân loại:
“Nhơn-loại đang bị thống khổ và sẽ lăn vào cảnh
tang-thương vì tinh thần ly-tán nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ xuất hiện đặng phục-hưng
Khổng-giáo, áp dụng Nho Tông làm khuôn luật tổ-chức xã-hội cho tận-thiện, tận-mỹ.
Các dân tộc sẽ đối đãi nhau như anh em một Cha, ở chung một nhà, cộng hưởng Đại-Đồng
hạnh-phúc.
Đó là về mặt xã-hội, còn mặt
Đạo là mặt tinh-thần thì Đại-Đạo giữ-gìn tinh-ba giáo-lý nhà Thiền và Lão giáo
đặng độ tận linh-hồn về Thượng-giới.
ĐẠI-ĐẠO tiên khởi lập
thành tại nước Việt-Nam, nhiên hậu sẽ hoằng khai các miền Đông-Á, qui hợp cả Huỳnh-chủng
làm đà sang Bạch-chủng Âu châu dìu-dẫn khắp thiên-hạ trên con đường Cộng-Đồng”.
Biểu tượng của nền Tân
Tôn-giáo Cao-Đài này là Thờ Trời bằng THÁNH TƯỢNG THIÊN NHÃN:
Thông thường các biểu tượng
này là để tượng trưng cho Thượng Đế toàn năng, Người đã thấu rõ tất cả những
hành vi của con người. Biểu tượng này tìm thấy ở cả các nền văn minh phương Tây
lẫn phương Đông.
Việc Đạo-pháp ngày nay thấy
rõ là một điều tối yếu, tối cần để cứu nhân-loại trong thời buổi này như chiếc
thuyền đang cơn bão tố. Thiên hạ chịu quá nhiều thiên tai, địa ách, nào bão lụt,
sóng thần, đất lỡ, cháy nhà, cháy rừng. ..rồi đến dịch bệnh, tai ương. Đúng như
lời Đức Hộ-Pháp nói trong Thập Thủ liên hoàn năm (1967).
THI
Tai trời gieo họa chẳng riêng ai
Thế giới Kỳ ba sắp trận bày.
Đất Bắc Nga xuôi Hồ diệu võ
Trời Nam Mỹ khiến Diệm dương oai
Hoàng đồ buổi trước còn chung một.
Lãnh thổ ngày nay bị đứt hai.
Hỏa pháo đôi bên hờm nhả khói.
Chia sông Bến-Hải quyết đua tài…
Đức Chí-Tôn phải chính
mình Ngài đến để độ rỗi con cái của Ngài, không những độ toàn cả thế giới về hữu
hình mà thôi, Ngài còn tận độ các vong linh nữa, nhưng làm sao để nhân loại nhận
ra hình ảnh một người CHA của nhân loại? - Ngài phải lấy biểu tượng là “Con Mắt
Trời” mà tượng trưng cho một nền Đạo mới này. Có nghĩa là Ngài đã thấy tất cả,
đã nghe tất cả, đã ghi chép tất cả “Dieu voit tout, Dieu entend tout, Dieu
écrit tout” cũng như người Tây phương quan niệm về Đức Chúa Trời vậy.
Nền Đạo Cao-Đài có đầy đủ
Thể-pháp và Bí-pháp Quan-trọng nhứt là Bí-pháp, vì vậy nên Thầy có giao cho ông
Giáo Sư Thái Bính Thanh làm một “Trái Càn Khôn” để làm biểu tượng Tín ngưỡng của
Đạo Cao-Đài.
3 - Nguyên-nhân Đạo Cao-Đài thờ
“Thánh Tượng Thiên-Nhãn”
Duyên khởi: Cuối năm 1917,
thân mẫu của Ngài Ngô văn Chiêu lâm trọng bịnh, Ngài phải xuống đàn Cái Khế ở Cần
Thơ để cầu xin thuốc cho Mẹ uống. Ơn Trên giáng cơ cho bài thuốc, Ngài đem về
cho Mẹ uống thì Mẹ Ngài hết được chứng bịnh nan y, mạnh được vài năm. Sau đó
thì Mẹ Ngài bị bịnh trở lại, Ngài Chiêu trở xuống đàn Cái Khế cầu xin thuốc cho
Mẹ nữa, Ơn Trên chỉ giáng dạy đạo lý chớ không cho thuốc. Ngài vì quá thương Mẹ
nên đến đàn cơ ở Thủ Dầu Một xin thuốc một lần nữa.
Ông Trần Hiển Vinh chủ đàn
Minh-Thiện ở Thủ Dầu-Một có thuật lại rằng: Bữa ấy, Ngài Ngô Văn Chiêu cùng ông
Phủ Kim đến hầu đàn. Ông Kim quì ở trong, Ngài Chiêu quì ở góc ngoài. Khi Đức
Quan-Thánh giáng cơ, liền gọi tên Ngài Ngô Văn Chiêu và cho 4 câu thi, đại ý
nói vườn thuốc của Phật-Tổ đã bị trốc gốc. Qua bài thi nầy, Ngài Chiêu biết số
mệnh của Mẹ Ngài không qua khỏi. Đến cuối năm 1919 thì Bà từ trần.
Sau những lần Đức Thượng Đế
giáng Cơ cho thuốc chữa lành bịnh thân mẫu của ông có hiện ra Thiên Nhãn và cảnh
Bồng Lai để cho ông được chính mắt thấy để làm tin.
Nhứt là các Đấng Thiêng
liêng giáng Cơ cho nhiều toa thuốc trị bịnh vô cùng huyền diệu mà Ngài Ngô văn
Chiêu (Môn đệ đầu tiên của Đức Thượng Đế) đã nhiều lần thỉnh cầu trị bịnh cho
thân mẫu của Ngài, khiến cho Ngài tôn kính các Đấng vô hình đã hướng dẫn cho
thuốc để thân mẫu của Ngài uống hết chứng bịnh nan-y mà các bác sĩ đều lui chân
thối bước, từ nan, không dám tiếp tục chữa trị; dù những toa thuốc của các Đấng
cho tuy đơn giản mà kết quả như ý.
Do sự huyền diệu của
thiêng liêng đã chỉ dẫn thuốc thang để điều trị cho thân mẫu Ông Ngô văn Chiêu
vượt qua căn bịnh ngặt nghèo nguy hiểm, chính là làm tăng thêm Đức tin của Ngài
Chiêu được mãnh liệt như thế. Sau, Ngài cũng trở thành Đệ tử đầu tiên của Đức Thượng Đế.
4 - Huyền-diệu là được thấy hiện Thiên Nhãn:
Vào thời tiền khai Đại-Đạo:
Ông Ngô văn Chiêu là người được Đức Chí-Tôn thâu nhận làm Đệ-Tử đầu tiên. Tuy
Ngài chịu làm Đệ-Tử của Tiên-Ông chớ chưa lập ngôi thờ, vì không biết phải thờ
làm sao! Một bữa kia Tiên Ông dạy Ngài phải tạo ra một cái dấu hiệu gì riêng để
thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập, Tiên-Ông nói chữ Thập cũng được, song đó là dấu hiệu
riêng của một nền Đạo đã có sẵn rồi, đó là dấu “Thập Tự Giá” của Công-Giáo, phải
suy nghĩ mà tầm cho ra một dấu hiệu khác hơn, có Tiên Ông giúp sức. Ngài xin huỡn
lại để có ngày giờ suy ngẫm. Mãn tuần Ngài tầm cũng chưa ra.
Thế rồi một hôm, vào ngày
13-03-Tân Dậu (dl: 20-04-1921) lúc 08 giờ sáng, Ngài đang ngồi trên chiếc võng ở
mái hiên sau Dinh Quận (Phú Quốc), suy nghĩ vẩn vơ, bỗng Ngài thấy xuất hiện một
CON MẮT thật lớn, hào quang chiếu diệu, cách chỗ Ngài ngồi chừng vài ba thước.
Ngài lấy làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, nửa phút đồng
hồ Ngài mở mắt ra thì cũng còn thấy Con Mắt ấy mà lại càng chói hơn, Ngài bèn
chấp tay vái rằng:
- Bạch Tiên-Ông: Đệ Tử rõ
biết cái huyền diệu của Tiên-Ông rồi, Đệ Tử xin Tiên-Ông đừng làm vậy Đệ tử sợ
lắm. Như phải Tiên-Ông bảo thờ “CON MẮT” thì xin cho biến mất tức thì. Vái xong
con mắt lu dần rồi biến mất. Như vậy mà Ngài cũng chưa thiệt tin, nên chưa tạo
Thiên Nhãn mà thờ.
Vào tháng giêng năm
Giáp-Tý (1924) khi Ngài Ngô Văn Chiêu đứng tại Dinh Cậu ở Phú Quốc nhìn ra biển
khơi lúc mặt trời sắp lặn, Ngài bỗng thấy Thiên Nhãn hiện ra rực rỡ hào quang sắp
theo một sổ dọc thẳng đứng và mặt biển là một đường nằm ngang.
Sau khi thấy Thiên Nhãn hiện
lần hai, Ngài cầu Cơ hỏi cách thờ phượng thì Tiên Ông dạy vẽ “CON MẮT” theo như
Ngài đã thấy mà thờ và dạy Ngài phải kêu Tiên Ông bằng THẦY mà thôi. Tức nhiên
Đức Cao Đài Tiên Ông xưng danh Đức Ngài tại Quan Âm Tự là “Cao Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát
Ma-Ha-Tát”.
Từ đó Ông Ngô văn Chiêu
chánh thức là Đệ-Tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông.
Đến ngày 29-06-Giáp Tý
(dl: 30-07-1924) Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu được chánh quyền Pháp đổi về cho làm việc
ở Sài Gòn, Ngài cũng đem Thiên-Nhãn về Sài Gòn để thờ nơi nhà Ngài cư ngụ.
Nay, biểu tượng thờ “Con Mắt
Trời” là “Thánh Tượng Thiên Nhãn Thầy” của nền Tân Tôn-Giáo, tức là Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng khởi nguyên từ đây.
Mặt khác, vào giữa năm 1925,
Đức Chí Tôn độ được nhóm công chức Xây bàn ở Sài Gòn gồm quí ông: Cao Quỳnh
Diêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và kế đó độ thêm Ngài Lê Văn
Trung; Đức Chí Tôn bảo quí vị nầy vẽ hình THIÊN NHÃN để thờ Đức Chí Tôn.
Lúc đó là đầu năm 1926.
Quí ông rất phân vân,
không biết vẽ thế nào, vì biểu tượng Thiên Nhãn thật vô cùng mới lạ. Từ trước tới
giờ, người Việt-Nam chỉ biết thờ tượng Phật, tượng Thánh, tượng Thần, chớ chưa
hề biết thờ Thiên Nhãn.!
Đức Chí Tôn giáng Cơ dạy
quí ông đến nhà của Đốc phủ Ngô Văn
Chiêu để Ông Chiêu chỉ cho cách thờ và dặn mang Đại Ngọc Cơ theo để Chí Tôn
giáng cơ dạy.
Thế là do lịnh dạy của Đức
Chí Tôn, quí ông tìm đến nhà Ông Ngô Văn Chiêu, được Ông Chiêu hướng dẫn cách
thờ phượng Đức Chí-Tôn bằng biểu tượng Thiên Nhãn với đầy đủ chi tiết. Sau đó
quí ông phò loan, cầu Đức Chí Tôn giáng
dạy, quí ông hợp tác với Ông Ngô Văn Chiêu để chuẩn bị Khai Đạo, nhận ông Chiêu
là Anh Cả.
5 - Ý nghĩa thờ Thiên Nhãn
1/ - Về hình thể:
Tiên Nho thường nói:
“Hoàng Thiên hữu Nhãn” hay trong dân gian cũng thường nói: “Trời cao có mắt”, để
chỉ rằng Ông Trời tức là Đấng Thượng-Đế, nhìn thấy rõ tất cả những hành vi thiện
ác của khắp chúng sanh, dầu bộc lộ ra ngoài hay còn kín đáo bên trong, Mắt Trời
đều thấy rõ hết thảy, để khen thưởng hay xử phạt một cách công bình theo luật của
Thiên điều phân định.
Do đó, trong kinh Ngọc Hoàng có câu :
“Càn kiện cao minh.
“Vạn loại thiện ác tất kiến”.
Nghĩa là ngôi CÀN ☰ hay Kiền là ngôi Thượng-Đế thật mạnh mẽ cao vọi, sáng tỏ, ắt hẳn Trời đã thấy rõ điều thiện và điều ác của muôn loài vạn vật.
Thờ Thánh Tượng Thiên-Nhãn với Con Mắt mở ra để chúng ta luôn nhớ rằng, bất cứ
ta làm điều gì, Trời đều thấy rõ, không thể dấu diếm, cũng không điều gì
ta có thể cải chối được. Đức Chí Tôn dạy:
“Tại sao Thầy lại biểu các con tạo
hình Thiên Nhãn mà thờ, không dạy thờ hình tượng như các Tôn giáo khác?
“Thầy vốn là Hư vô chi khí, không giống cái
chi hết. Các con chớ tạo hình Thầy mà thờ.
“Trời là lý, thì lý ấy rất thông-linh bao quát
Càn Khôn Thế Giới. Thầy đâu phải có xác phàm như các con mà tạo hình thể như
các con. Nên chi, thờ Thiên Nhãn là thờ Thầy”.
2/ - Ý nghĩa
về thiêng liêng:
Thờ Thiên Nhãn bao gồm nhiều
ý nghĩa siêu việt:
Do lời Thánh giáo của Đức
Chí Tôn từ buổi mới khai Đạo, thờ Thiên-Nhãn là chỉ nghĩa Nhứt điểm Linh Quang
của Tạo Hoá. Bởi Thiên Nhãn thuộc về Thần, “Thần cư tại Nhãn” tức nhiên Thần trụ
ở mắt, mắt chỉ về tâm, tâm thuộc hoả, hoả thuộc dương, dương ấy là mặt nhựt, mặt
nhựt là thanh khí, thanh khí là Trời. Có câu “Thanh thượng phù giả vi Thiên” 青上浮者為天 (phần thanh nhẹ nổi lên làm Trời). Con người biết tôn sùng Trời thì phải
biết kính trọng thần lương tâm. Bởi khi cái tâm tức là khi Trời, mà Trời thì
không thể khi thị được. Có câu “khi kỳ tâm tất thị khi thiên, thiên bất khả khi
hồ”! 欺其心即是欺天. 天不可欺乎 ?
- Thiên Nhãn là hình tướng
của Lương-Tâm.
Nay, người Môn-Đệ của Đấng
Cao-Đài, nhà nhà đều có thờ “THIÊN NHÃN THẦY” để sùng bái hằng ngày và cũng để
Xét mình. Thiên Nhãn là hình tướng của Lương Tâm toàn thể làm nền móng cho
Cao-Đài, nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức tin lớn của Đức Chí Tôn tại thế
giới hữu hình này..
3/ - Truy nguyên về nguồn cội
trên thế giới biết về Thiên Nhãn:
* Ở nước Ai Cập: Trong thần thoại cổ Ai Cập, Thiên Nhãn được gọi là Mắt của
Thần Horus, Mắt của Mặt Trăng hay Mắt của Thần “Ra”. Horus là Thiên Thần của
Ai-Cập cổ-đại hóa thân là chim ưng. Mắt phải chim ưng là Mắt của Thần Horus
cũng được xem là tượng trưng cho mặt trời; Mắt trái tượng trưng cho mặt trăng
và thần Tehuti. Người cổ đại tin rằng biểu tượng bất diệt này sẽ hỗ trợ việc
tái kiếp, vì thế người ta đã tìm thấy biểu tượng này dưới lớp vải liệm thứ 12 của
xác ướp vua Tutankhamun.
* Ở nước Đức: Biểu tượng (Con
Mắt Phải) cũng được tìm thấy ở nhà thờ Aachen, miền Tây nước Đức. Nhà thờ này
đã được UNESCO xếp vào di sản thế giới. Đây là một nhà thờ Thiên Chúa Giáo
La-Mã cổ xưa nhất ở Bắc Âu. Từ năm 936 đến năm 1531, nhà thờ là nơi làm lễ đăng
quang cho 30 vị Vua và 12 Hoàng-hậu nước Đức. Đây cũng là nơi còn giữ những di
vật thiêng liêng của Mẹ Đồng Trinh Marie. Chúa Jésus và Thánh John the
Baptist.
* Ở nước Mỹ: tại nước Mỹ
(Hoa-Kỳ) vào năm 1776 Đức Thượng Đế đã khai khiếu cho ba vị lãnh đạo nước Mỹ là
Ông Thomas Jefferson, ông Benjamin Franklin và Ông John Adams được chỉ định để
soạn thảo tờ giấy bạc 1 Dola. Sau 6 năm nghiên cứu với sự cố gắng tột bực của
Ông Williams Barton và Ông Charles Thompson mới hoàn thành phía lưng của giấy bạc
một đồng Dola, trình lên Quốc Hội ngày 20-06-1782 thông qua một Nghị Quyết chấp
thuận thiết kế cuối cùng phía lưng của tờ giấy bạc một Dola có hình Kim-Tự
tháp, (Con Mắt Phải), một cái cân và một cái chìa khoá.
- Bên phía lưng của tờ giấy
bạc một Dola: Con Mắt Phải trực tiếp bên trên Kim-Tự-Tháp. Các tiền nhân sáng lập
nước Hoa-Kỳ (Mỹ) có nguồn gốc tôn thờ Đức Thượng Đế nhưng chưa định vị, từ năm
1782 và sự tiến triển của nước Mỹ luôn luôn phải được sự phù hộ của Đức Thượng-Đế.
- Cái Cân tượng trưng cho
Công lý.
- Chìa khoá lược trình cho
quyền uy của Quốc gia.
Thiết nghĩ, nước Hoa-Kỳ đã
lập quốc 225 năm (1776). Còn Đạo Cao-Đài mới được khai sáng tại nước Việt-Nam
vào năm 1926, tức là mới có 85 năm (2010) nhưng sự thờ phượng Thiên Nhãn của
Cao Đài thuộc về "Dương" biểu tượng "Con Mắt Trái", tức Ngọc
Hoàng Thượng-Đế, và Cân Công bình cùng “chìa khoá mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh” của
Tôn giáo Cao-Đài không thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên với Con Mắt Trái (Thượng-Đế),
Cân công lý và Chìa khoá của bên lưng giấy bạc Một Dola của Mỹ mà người Tín hữu
Cao-Đài có thể hiểu rằng Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Cao-Đài đã mặc khải cho dân tộc
Mỹ biết trước về “CON MẮT” để thờ Thượng-Đế, cũng như Ngài Ngô văn Chiêu được Đức
Thượng-Đế mặc khải tại Đảo Phú-quốc vào năm 1925 để thể hiện thờ THIÊN NHÃN là
thờ Thầy vậy, truy cho thấy Con Mắt nhưng chưa định võ Mắt Trái hay Phải. Đến
ngày Khai Tịch Đạo 01/09, Bính Dần (07/10/1926). Và chính thức công bố KHAI ĐẠO CAO-ĐÀI ngày 23/08 Bính
Dần (29/09/1926).
Như thế đã rõ biết Đức
Chí-Tôn đã chỉ định cho Đức Khổng-Tử và Lão-Tử đến
khai sáng nền Đạo tại Trung-Quốc trước kia.
Còn ở Mỹ-Quốc thì Đức
Chí-Tôn mặc khải cho dân tộc Hoa-Kỳ tôn kính thờ Thượng-Đế từ năm 1776 rồi.
Đức Hộ-Pháp nhắc lại sau
cuộc Đức Chí-Tôn hành pháp tại Kim-Biên. Đức Chí Tôn nói với Bần Đạo rằng: “Một
ngày kia: Trung Hoa sẽ thờ phụng Đạo đáo để, còn nước Mỹ sẽ lãnh trách nhiệm đi
truyền giáo toàn cầu.”
Còn như chọn nước Việt-Nam
để khai sáng nền Đạo Cao-Đài là Đức Thượng-Đế đã thông cảm lòng trung hiếu thờ
phượng ông bà cha mẹ của dân tộc Việt-Nam mãi mãi lưu truyền, cũng như đức tin
tôn kính thờ phượng Trời Phật của dân tộc Việt-Nam hết sức tốt đẹp, bất luận
Tôn giáo nào du nhập vào Việt-Nam đều được dân tộc Việt Nam tôn kính phụng thờ.
Vì thế, Đức Thượng Đế xót thương đệ tử, mới đến hoằng khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ
trên đất nước Việt-Nam vào năm 1926 còn bị lệ thuộc Pháp mà Đức Ngài đã đến với
lời hứa vô cùng sâu sắc:
“Thầy sẽ dùng Huyền diệu
Thiêng liêng vô tận vô biên để giải ách nô lệ cho dân tộc Việt-Nam. Một vinh diệu
lớn lao cho dân tộc Việt-Nam là được nắm chủ quyền Tôn giáo Cao-Đài để thực hiện
sự Thương yêu và Công bình cho toàn cả nhân loại.”
Năm 1782, THIÊN-NHÃN được
chọn là một phần trong biểu tượng khắc trên Quốc Ấn (con dấu quốc gia) của Hiệp-Chủng-Quốc
Hoa-Kỳ. Người ta cho rằng Thiên Nhãn là đề nghị của Pierre Eugene du Simitiere,
nhà tư vấn nghệ thuật cho các Tiểu bang thiết kế Quốc Ấn. Trên Quốc Ấn, THIÊN
NHÃN được vẽ phía trên một Kim Tự Tháp có 13 bậc, tượng trưng cho 13 Tiểu bang
đầu tiên của Mỹ. Toàn bộ biểu tượng ngụ ý
Thiên nhãn hay Thượng Đế ban ân huệ cho một nước Mỹ thịnh vượng.
Mặt trước và sau Một Đô-La Mỹ
Ngoài ra THIÊN NHÃN còn được
nhìn thấy khắc trên con dấu của Tiểu Bang Colorado. Đặc biệt là trên mặt sau của
tờ giấy bạc 1 Đôla của Mỹ có các biểu tượng
này.
…Chính sự việc làm cho nhiều
người biết Thiên Nhãn bởi vì Một đồng Đô La của Mỹ rất phổ biến trên thế giới.
“Đại Ấn của Hiệp Chúng Quốc” trên giấy một đồng Mỹ Kim là con dấu duy nhất có
hai mặt. Nó là kết quả của sự cố gắng tỉ-mỉ của nhiều nhân vật từ năm 1776 đến
năm 1782 trong đó có Benjamin Franklin, Tổng Thống Thomas Jefferson và John
Adams.
Bề mặt của con dấu cho thấy
có con Ó
trọc đầu ngậm trong miệng một biểu
ngữ có hàng chữ La-Tinh “EPLURIBUS UNUM” có nghĩa là “Từ cái nhiều ra cái duy
nhứt”. Trùng hợp thay! Một trong những nguyên lý căn bản của Đạo Cao-Đài là “Vạn
thù qui nhứt bổn” cũng cùng một nghĩa
như trên. Điều này chứng tỏ sự đồng nhất vạn vật. Chúng ta tuy thấy nhiều nhưng
chung qui có Một.
- Con Ó được chọn lựa là
vì con Ó là một trong những huy hiệu của Ai-Cập. Vì Ai-Cập xưa kia là nước dẫn
đầu về huy hiệu. Con Ó tượng trưng cho sức mạnh tối cao của Quốc gia. Trên đầu
con Ó có một vầng hào quang biểu thị rằng: phần tâm linh ở trên phần vật chất.
- Trong vầng hào quang có
13 ngôi sao tượng trưng 13 Tiểu bang đầu tiên của Hoa-Kỳ:
- Đầu con Ó tượng trưng
cho cơ quan Hành pháp.
- Trước ngực con Ó là một
cái khiên (cái mộc) với 13 đường sọc, phần trên cái khiên màu xanh tượng trưng
cho cơ quan Lập pháp.
- 9 cái lông đuôi là cơ
quan Tư-pháp.
Cái sọc trắng và đỏ của cái khiên là ý nghĩa đầu
tiên của một Hiệp-Chủng-Quốc.
- Theo phong tục Trung
Đông nhành ô-liu với 13 lá (13 Tiểu bang) và các hạt trong chân mặt của con Ó
tượng trưng cho Hoà-bình. Bên chân trái là 13 mũi tên tượng trưng cho chiến
tranh lấy từ phong tục của người Mỹ bổn xứ (người da đỏ). Đầu Ó ngó qua nhành
ô-liu bên phải gợi sự mong muốn Hoà bình.
- Bên trái của con dấu có
Kim-Tự-Tháp không đỉnh và Thiên Nhãn. Kim-Tự-Tháp đã được chọn để nhớ lại nền
văn minh cực thịnh trong lịch sử Ai-Cập. Kim-Tự Tháp không đỉnh nói lên sức mạnh
vật chất của một Quốc gia luôn luôn xây dựng và tiến triển không ngừng. “THIÊN
NHÃN” trên Kim-Tự-Tháp tượng trưng cho Đấng Thượng Đế soi sáng cả muôn vật và
cũng chỉ sức mạnh tâm linh luôn luôn ở trên sức mạnh vật chất. Ý nghĩa hàng chữ
trên:
- ANNUIT COEPTIS có nghĩa
“Ơn Trên phò hộ chúng ta”.
- NOVUS ORDO SECLORUM (hàng dưới) có nghĩa là “Một kỷ
nguyên mới trong nghìn năm”. Bắt đầu từ năm 1776. Dưới chân của Kim-Tự-Tháp số 1776 được viết bằng
số La-Mã MSCCLXXVI.
Sự trùng hợp của biểu tượng
và tư tưởng trên thấy rằng muôn vật trên thế gian này dù muôn phần khác biệt
nhưng lúc nào cũng có nhiều điểm giống nhau hay nói cách khác là “Vạn thù qui
nhứt bổn” (Trích Tập san Đại Đạo phổ thông).“Kim tự Tháp” là Tháp hình chữ Kim 金
4/ - Thiên Nhãn trong thời gian gần đây:
Trong khoảng thời gian gần đây, người ta cũng đã sử dụng Thiên Nhãn trong
nhiều lãnh vực, ví dụ như văn học, khoa học, thiên văn học, điện ảnh, tài chính..
* Biểu tượng trong Đạo Cao Đài:
Hiện nay Đạo Cao Đài dùng
Thiên Nhãn làm biểu tượng chính, thay cho hình ảnh Thượng-Đế tại trần gian. Tuy
nhiên trong Đạo Cao Đài, Thiên Nhãn có nhiều ý nghĩa đặc trưng về Tôn giáo: Mắt
là chủ tâm thức và ý thức, hai ánh sáng có quyền tối cao, ánh sáng là Thần, Thần
là Trời, Trời là TA.
* Biểu tượng của trí huệ:
Theo Đạo Cao Đài, Thiên Nhãn không thể hiểu
đơn giản theo nghĩa đen là Mắt Trời, bởi vì Thượng Đế không có hình thể vật chất.
Theo nguyên lý Thể Pháp và
Bí Pháp của Đạo Cao Đài, có thể suy ra hai cách để hiểu biểu tượng Thiên Nhãn:
Thứ nhất là hiểu bằng kiến
thức:
Hiểu bằng kiến thức nghĩa là nhìn sự vật (hình ảnh hoặc văn
tự …) rồi so sánh với kho dữ liệu của bộ não để phân tích, chọn lọc hoặc phê
phán. Hay nói nôm-na là nhìn bằng hai mắt. Nghĩa là khi nhìn sự vật, luôn luôn
dựa vào tối thiểu là hai yếu tố: đúng hoặc sai; có hoặc không. Đây là cách hiểu
thông thường của con người từ thời nguyên thủy. Cách hiểu này giúp phát triển
văn minh vật chất rất nhanh chóng và đã đem lại cho nhân loại nền văn minh vật
chất siêu việt như ngày nay.
Tuy nhiên, hiểu sự vật
không thông qua kho chứa các kinh nghiệm lâu đời không giải quyết được các vấn
đề tâm thức. Ngoài ra, cách này lại tùy thuộc vào trình độ văn hóa hoặc số lượng
kinh nghiệm thu thập được của bản thân mỗi người. Những bộ óc siêu việt uyên
bác sẽ hiểu biết khác với những người bình thường. Hậu quả dẫn đến sự phân hóa
trong nhân loại. Chính vì thế, loài người dù tiến bộ rất cao trong lãnh vực vật
chất, nhưng văn minh tinh thần vẫn chưa tiến bộ bao nhiêu. Sự tàn ác, nhẫn tâm,
tranh giành, thù hận vẫn có mức độ như mấy ngàn năm trước, thậm chí tinh vi khó
nhận ra hơn. Cho đến ngày nay, con người vẫn chưa tạo được một thế giới thanh
bình, thịnh vượng và đầy tình thương yêu.
Cách thứ hai là hiểu Thiên
Nhãn bằng trí huệ:
Hiểu bằng trí huệ là một
hành vi cực kỳ khó khăn, bởi vì hành vi này không cần sự hiện diện của kiến thức
bất kể loại nào. Trí huệ đưa tâm trí trực tiếp vào giữa sự vật không thông qua
quá trình phân tích, chọn lọc và phê phán. Nói một cách hình tượng là nhìn bằng
một mắt. Nghĩa là khi quan sát thì người quan sát cùng vật bị quan sát là một.
Vì thế khi nhìn bằng trí huệ, con người mới hiểu được biểu tượng Thiên Nhãn
toàn diện. Đây là cánh cổng mở vào một thế giới khác, một thế giới thanh bình
thực sự mà người ta vẫn gọi là Thiên Đàng (Paradise) hay Cực Lạc Thế Giới (Nirvana).
* Biểu tượng của Đại Đồng:
Ngoài ra THIÊN NHÃN còn là
biểu tượng của Đại Đồng. Trên thế giới ngày nay, quốc gia nào sống cô lập thì sẽ
phải đối mặt với nguy cơ lạc hậu. Càng ngày càng có nhiều quốc gia muốn bắt tay
nhau hợp tác trong mọi lãnh vực và như thế những va chạm về văn hóa, phong tục,
tư tưởng cũng tăng lên. Phải có cách giải quyết để các quan hệ hợp tác không biến
thành đối đầu. Trong hoàn cảnh như thế thì biểu tượng THIÊN-NHÃN của Đạo Cao
Đài chính là một đề nghị có ích. Biểu tượng Thiên Nhãn ngụ một ý nghĩa là thống
nhất. Nhưng không phải dùng mọi cách áp đặt quan điểm thống nhất lên người
khác, bởi như thế là thống trị, làm mất đi tự do của người khác rồi !
Nếu trong tất cả các mối
quan hệ, ai cũng có quan niệm: “Mọi Tôn giáo là một, mọi dân tộc là một, mọi hệ
tư tưởng là một” thì sẽ tránh được ngộ nhận, hiềm khích và thế giới sẽ trở
thành một nơi tốt đẹp hơn nhiều.
“Bởi Chủ-nghĩa và Giáo-lý
của Đạo Cao-Đài là ĐẠI ĐỒNG: Qui Nguyên Tam-Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi, thâu-thập tất
cả những bài học của các Tôn-giáo đã ra đời từ trước đến giờ gom về một mối trở
lại nguồn gốc, nhất là thờ Đấng Chúa-tể Càn-Khôn vũ-trụ tức là chủ-trương của Đấng
Cha lành đã hóa sanh muôn loài vạn-vật và tôn-kính tất cả các vị Giáo-chủ đã
lãnh lịnh Đức Chí-Tôn và Ngọc Hư-Cung giáng trần dạy Đạo, ngang hàng nhau như
những vị Tôn sư đến làm Thầy của nhân loại. Chủ-nghĩa của Cao-Đài là ĐẠI-ĐỒNG
đi từ: Đại Đồng nhân-chủng. Đại-Đồng Tôn-giáo. Đại-đồng xã hội. Như Đức Chí-Tôn đã hứa “Que l’humanité soit une: une comme race, une
comme religion, une comme pensée”.
Kinh Thuyết pháp có câu:
“Muốn
cho thiên hạ Đại-Đồng,
“Lấy
câu cứu khổ dụ lòng thương sanh”
5/ - Phương pháp tu tập của Tín đồ Cao Đài:
Đạo Cao Đài là một Tôn
giáo nên không đề ra những biện pháp dựa trên sức mạnh vật chất. Đức Cao Đài
Thượng Đế dạy rằng muốn tạo ra một thế giới Đại Đồng, phải bắt đầu bằng tu sửa
bản thân và thuyết phục, giúp mọi người xung quanh cùng làm như thế. Tuy nhiên,
kết quả sẽ không hoàn toàn phụ thuộc vào con người. Theo nguyên tắc Hiệp Thiên
của Cao Đài (con người hiệp với Thượng Đế), con người cứ làm điều Thiện vô điều
kiện, kết quả còn lại sẽ do Thượng Đế quyết định.
Biểu tượng THIÊN NHÃN THẦY
còn ngụ ý một phương pháp tu tập của tín đồ Cao Đài. Con người được cho là tổng
hợp của ba thành phần có tác động hỗ tương: thể xác, trí não và linh hồn. Ý chí
con người chỉ có thể hoạt động trong phạm vi tinh thần. Từ khu vực này mỗi cá
nhân sẽ thông qua ý thức để tác động vào các hành vi của thể xác. Ý thức con
người luôn luôn phân hai (đúng hoặc sai) và đó vừa là phương tiện sinh tồn vừa
là thảm kịch của nhân loại. Nếu điều chỉnh cho ý thức đạt được trạng thái không
phân hai nữa mà hiệp lại làm một, thì mọi hành vi của thể xác sẽ phù hợp những
nguyên tắc đạo đức của Thượng Đế và ba thành phần: thể xác, trí não và linh hồn
sẽ hợp nhất. Đây là trạng thái mà các Tín đồ Cao Đài gọi là Hiệp Thiên (hợp Nhất
với Thượng Đế) hay “Thầy là các con, các con là Thầy” cũng là hiệp Tam bửu:
Tinh- Khí -Thần. Trong trạng thái này con người không nhìn sự vật bằng Nhục
Nhãn, mà nhìn bằng Thiên Nhãn.
Tóm lại, Thiên Nhãn vừa là
phương tiện cũng vừa là cứu cánh của người Tu theo Đạo Cao Đài.
Diễn văn của Đức Hộ-Pháp đọc
tại Đền Thánh, ngày 15-8- Quí Dậu (1933):
“..Ta thử so ta cùng điểu
thú thì thấy điều ấy rõ ràng. Vạn vật cũng có tánh linh nhưng mà ít hơn vì điểm
linh quang rất nhỏ hơn mình, cơ tạo lại dụng phép Linh nầy đặng định phân hạng
phẩm của chúng sanh.Cả những chất linh ấy tổng hiệp lại gọi là Vạn linh sanh
chúng
Nhờ tánh linh ấy mà chơn
linh mới soi đặng tận nơi tối tăm, thấy đặng sự mắt phàm không thể thấy.
…”
6/ - Thiên Nhãn:
- Là tượng trưng của nền Đạo
mà cả Tín đồ lấy đó để thờ phượng nơi tư gia hay là trong những Thánh Thất. Tại
sao Đạo Cao Đài lấy Thiên Nhãn làm tiêu biểu?
Chính Đức Chí Tôn có dạy:
“Nhãn thị chủ tâm, lưỡng quang chủ tể, quang
thị Thần, Thần thị thiên, thiên giả ngã dã”.
- Con mắt ấy là chủ linh
tâm, hai điển-quang của Con Mắt là chủ tể: thể trên trời là Nhật Nguyệt, thể
nơi người là Lưỡng Mục. Điển quang ấy thuộc Thần, Thần thuộc trời, trời ấy là
TA vậy. Mặt khác, Thiên Nhãn tượng trưng sự công bình thiêng liêng và cũng tiêu
biểu mầm móng cho sự Đại Đồng nhơn loại. Thánh nhơn có câu: “Thiên thị tự ngã
dân thị, thiên thính tự ngã dân thính”:
天 視 自 我 民 視 天 聽 自 我 民 聽
Nghĩa: trời xem tức dân ta
xem, trời nghe tức dân ta nghe
Hơn nữa thời xưa trong Tam
giáo thì các vị Giáo chủ giáng trần lập Đạo mang hình hài xác thịt: nếu phương
Tây thì lấy hình thể người Âu, phương Đông thì lấy hình thể người Á.. Nguơn hội
này Đức Chí-Tôn giáng Cơ khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ dạy thờ Thiên Nhãn tất
nhiên Ngài muốn con cái của Ngài cọng yêu hoà ái, hiệp tâm với nhau để đi đến
chỗ Đại Đồng Thế giới.
Thờ “Thiên Nhãn Thầy” bởi
nhiều cớ:
- Thờ “Thiên Nhãn” mỗi
ngày ra vô đều thấy, bụng tính điều chi sai quấy, dường như có “Thiên Nhãn” ấy
ngó chừng mà dặn rằng: “Thầy hằng ở bên con mà để mắt dòm con, con chớ toan điều
quấy”. Ấy là một chước rất hay để cho mình giồi lòng, trau hạnh. Thượng Đế là một
khối linh quang vô cùng vô tận bao trùm cả Càn Khôn Thế Giái, nơi đâu cũng có
Ngài, mà nhứt là trong tâm ta, mà Nhãn lại chủ tâm, cho nên thờ “Con Mắt” là thờ
Ngài vậy.
Từ khi Đạo bế, tu vẫn hữu
công mà không đắc quả. Nhiều người có công luyện Đạo, chỉ biết luyện Tinh hóa
Khí mà thôi, còn đem Khí hiệp Thần thì không làm đặng. “Vì Thần là khiếm khuyết
của cơ mầu nhiệm”, mà Thần thì cư tại Nhãn, cho nên thờ Thiên Nhãn là đem Thần
hiệp cùng Tinh - Khí cho đủ Tam Bửu là cơ mầu nhiệm "siêu Phàm nhập
Thánh”.
7/ - Hiện tượng Thiên Nhãn xuất hiện trong vũ trụ
LTS - Vào trung tuần tháng
9-2003, một sinh viên Hoa Kỳ nghiên cứu về Tôn giáo Cao Đài đã thông báo cho
chúng tôi biết là “Thiên Nhãn của quý Tôn giáo đã được chứng minh qua khoa học
không gian”. Sinh viên này đã chỉ dẫn chúng tôi vào một trang nhà trên internet
...
Chụp được ảnh “Con mắt Chúa” trong vũ trụ
– Các nhà khoa học nghiên
cứu lĩnh vực thiên văn đã chụp được bức ảnh “Con mắt Chúa” đang nhìn chúng ta từ
khoảng cách 700 năm ánh sáng. 26-02-2009 9h55
(GMT+7)(VTC News)
Bức ảnh “Con mắt Chúa” dưới đây:
Thực ra, đây chính là hình
ảnh mà các nhà thiên văn học đã chụp được từ vụ nổ của một ngôi sao có tính chất
giống mặt trời, từ một trong những điểm quan sát vũ trụ được bố trí trên các ngọn
núi ở Chile.
Các nhà khoa học đã đặt
tên cho bức ảnh hiếm hoi này là “CON MẮT CHÚA” (Eye of God), sau khi họ nhận ra
rằng những vầng sáng của bụi và khí bắn ra từ hành tinh
này trông giống như hình một
con mắt. Điều đặc biệt là “CON MẮT CHÚA” cũng có phần con ngươi màu xanh nhạt,
màu trắng và hồng của mí mắt. Chòm tinh
vân tuyệt đẹp. “Con mắt Chúa” có tên khoa học là Helix. Những nhà quan sát nghiệp
dư cũng theo dõi hiện tượng này cho biết, họ chỉ nhìn thấy hiện tượng này mờ mờ,
qua những thiết bị quan sát bầu trời không hiện đại như của những nhà khoa học
chuyên nghiệp.
Các nhà khoa học cho biết,
vầng sáng toả ra từ vụ nổ này chiếm diện tích khá rộng khoảng ¼ kích thước mặt
trăng. Những chuyên gia này cũng phỏng đoán rằng mặt trời của chúng ta cũng sẽ
tự phân ra như hành tinh này sau ít nhất 5 tỉ năm nữa. Bình Nguyên (Theo Daily
Mail)
“CON MẮT CỦA THƯỢNG ĐẾ”.
* Đây là trích Đặc san thứ
bảy, ra ngày 25-12-2004, có bài Tin đó đây thế giới nói về “CON MẮT CỦA THƯỢNG
ĐẾ”.
Có Tôn giáo đã từng vẽ
“CON MẮT” để làm biểu tượng cho Thượng Đế. Và điều đó đã được khoa học xác minh
bằng một bức ảnh của viễn vọng kính Hubble chụp được vào ngày 15-12-2004. Trong
ảnh này, hình Con mắt hiện ra rõ-ràng “như ban ngày” dù cho ngoan cố thế mấy
cũng không thể cải được. Chẳng biết đây là sự ngẫu nhiên trùng hợp hay đã được
trong hoàn cảnh nào, chi tiết nào? Chuyện này xin nhường lại cho các bậc cao
minh phân xử.”
(Đây là hình Thiên Nhãn
trên khung cửa sổ Đền Thánh làm biểu tượng cho 16 tia hào quang: 9 trên, 7 dưới)
8/ - LỜI DẠY CỦA NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ VỀ
VẼ THIÊN NHÃN
Cửu Trùng Đài
Ngọc Chánh Phối Sư
Số:68-NCPS/VT
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỒ ĐỘ
(Tứ Thập Lục Niên)
Tòa-Thánh- Tây-Ninh
NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
Gởi cho Hiền Hữu Đầu
Phòng-văn Võ Văn Tịnh.
Chiếu vi bằng số: 03/VB/BT
phiên hợp bất thường Hội Thánh Cửu-Trùng-Đài Nam- Nữ tại Hậu Điện Đền Thánh
ngày 14 tháng 4 năm Tân-Hợi (dl: 8-5-1971) nơi khoản 1 phần nghị sự phái Ngọc
toàn Hội chấp thuận kiểu mẫu Thánh Tượng Thiên Nhãn thờ nơi Thánh Thât địa
phương do Hiền Hữu vẽ.
Chơn mày phải vẽ y như
Thiên Nhãn trên Quả Càn Khôn Đền Thánh, màu hồng lợt lại một chút và hào quang
hiện ra phải trên 9 tia, dưới 7 tia.
Vậy Hiền Hữu hãy vẽ lại
cho châu đáo và vẽ trước 100 bức để trấn thần chung một lần. Thi hành xong đệ
trình lên Hội Thánh, để trả lại tiền tổn phí.
Nay Kính.
Tòa Thánh ,ngày 21 tháng 4
năm Tân Hợi (dl:15/5/1971) NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ
(Ấn Ký)
NGỌC NHƯỢN THANH
Kính Tường:
- Hiến Pháp CQ. BPC Khai Đạo
TQ.PT
- Đầu Sư CQ.CTĐ Nam
Phái - Thái Chánh Phối Sư
- Qu.Thượng Chánh Phối Sư
- Qu.Thượng Thống Lại Viện
- Hồ Sơ lưu.
C - Phần Luận Đạo
1 - Thiên Nhãn: thần Thiên lương của nhơn loại
THIÊN NHÃN là biểu tượng của
Đạo Cao Đài nơi Tòa Thánh Tây Ninh: tượng hình một QUẢ CÀN KHÔN đặt giữa Tòa
Bát Quái. Trên quả Càn Khôn có ngôi Bắc Đẩu, trên đó vẽ một “Con Mắt trái” để
cho nhơn sanh sùng bái với ý nghĩa thờ Trời cũng là thờ Người. Đây là nguyên lý
độc nhứt vô nhị của Đạo Cao Đài ngày nay khởi khai tại Việt Nam, là được làm chủ
mối Đạo nhà.
Bởi Đức Chí Tôn đến lập Đạo
Kỳ ba, muốn bảo tồn triết lý Nhơn sanh trong Đạo pháp nên dạy thờ
“THIÊN NHÃN” là thờ “Thần Thiên lương của
nhơn loại phân làm
tam đẳng: Nguyên nhân, Hóa nhân và Quỉ nhân.. nên trong đời ta thấy có
những người tánh khí khác phàm: nào là cử chỉ, nào là sở hành, khó cho thường
nhơn học đòi bắt chước được.
Ấy là nhờ công tu luyện
trước kia đã nhiều kiếp mà những người ấy tự có ngôi vị: Thần, Thánh, Tiên, Phật
lâu rồi, nay vì tiền duyên phải đến thế
đặng trả vay, hoặc vì thâm ân nay đến đặng đắp bồi, hoặc vì mạng lịnh Trời nay
phải đến trần đặng dìu chúng, cho nên các bậc ấy tuy cũng mang phàm thể như ta,
song điểm linh vẫn còn giữ y nguyên sự minh-mẫn của Thần, Thánh, Tiên, Phật từ
bé chí trưởng, trí não người vẫn thông minh: học một biết mười, ngó vào đâu đều
hiểu đó, xa nghe rộng thấy hơn người. Như thế là do luật công bình thiêng liêng của Chí Tôn, mà cũng bởi
đó nên trong tuồng đời:
- Kẻ dở khó trộn lộn với
người hay,
- Kẻ tà không phương giành
người chánh,
- Kẻ ngu khó lấn lướt người trí,
- Kẻ hèn rất phân biệt người
trọng,
- Kẻ thiểu căn khó sánh bậc
cao siêu.
Nếu chẳng có sự công bình
thiêng liêng của Chí-Tôn ta thử nghĩ đời đâu có trật tự; mà tóm tắt lại cái trật
tự về phẩm cách thiêng liêng cũng do nơi sự thông minh của HUỆ NHÃN mà biến tướng
gọi là phong quang, mà rồi cũng tự nơi Nhãn-huệ hữu trần ấy nên phải nhiều hàng
nguyên nhân hễ để mắt dòm đến đâu đều biệt phân được hư thiệt đến đó.
Vì vậy nên Chí-Tôn có nói
rằng: “Cơ lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá: biết Ðạo, biết ta, biết người, biết thế,
biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt rồi mới có biết hổ mặt thẹn
lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp
sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời
còn lắm giành xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật” . Vậy thì rõ sự
BIẾT ấy đều do nơi sự lịch lãm tuồng đời mới mong đọat Đạo.
Nếu ai là người BIẾT TU đã
đọat đắc Nhãn huệ quang minh rồi thì tự nhiên có con mắt tinh đời ấy, hễ ta có
con mắt tinh thông rồi, ta để ý dòm quanh bên ta, tức nhiên ta hẳn thấy có lắm
bậc Phật, Tiên, Thánh, Thần lẫn lộn theo ta mà dìu dẫn dạy dỗ ta. Các bậc ấy vẫn
có một tia sáng suốt trong tướng đi tướng đứng, làm cho phong thể người nhẹ
nhàng, lộ bày vẻ thông minh, thậm chí cho đến lời phê giọng nói của người cũng
có vẻ thanh tao êm dịu nữa. Cho nên hễ ta trông đến người thì ta để ý kỉnh nhường,
ta nghe đặng người thì ta sanh lòng yêu mến là như thế.
Đời không biết trạng thái
sự quang minh ấy ra thế nào, lại ra vẻ vị
Phật hay vị Tiên Thánh chi, thì điểm thí một vòng vàng- vòng bao quanh cái đầu-
Tây gọi là Chara, Thích gọi là vòng Kim quang,
còn Đấng Chí-Tôn lại gọi là vòng vô-vi hay là vòng Minh châu, để trạng
thái rằng não căn của bậc ấy đầy dẫy Đạo Đời là như thế.
Tóm tắt lại các Hiền xưa
đã đọat đắc ngôi vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đều do điểm linh của người đã dày
công trau luyện cho ra quang minh mà đắc Đạo. Nếu ta muốn noi bước theo thì để
chí tâm học đòi theo gương của các Đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần của Chí-Tôn đã
nêu nơi Bát-Quái-Đài mà dõi bước. Cần nhứt là tìm bắt sự hành tàng của các Đấng
ấy trong buổi đương còn tại thế mà đồ theo tức là khỏi sai đường lạc nẻo.
Nhưng đó là cơ hành pháp,
vì buổi sau còn cơ luyện Đạo là luyện cho Nhãn-huệ quang minh là trước nhứt. Ấy
là phương mầu của Đạo Lão như:
- Luyện Tinh hóa Khí,
- Luyện Khí hiệp Thần,
- Luyện Thần huờn Hư
Nghĩa là ta muốn tu tâm dưỡng
tánh thì trước hết phải gìn giữ thân thể cho tinh khiết. Hễ thân thể được vững
vàng thì trí não đắc an. Hễ trí não đắc an thì tâm trung mẫn đạt, tức là hiệp
Thần. Thần đủ lương năng rồi thì Thần có thể xông pha ngàn dặm trong nháy mắt,
dầu cho việc lớn lao của Càn Khôn cũng tìm biết được gọi là định Thần huờn Hư,
chẳng khác nào các nhà Thiên văn, họ duy có ngồi suy nghiệm trong tịnh phòng mà
tìm biết nào là sự vận chuyển của Nhựt, Nguyệt, Tinh tú; nào là thời tiết thay
đổi của máy Càn Khôn, ấy là sơ luận mật cơ hành pháp của nhà Thiên văn mà thôi.
Đạo Trời vẫn họat bát bao la, cơ mầu nhiệm vốn còn ngàn muôn phương pháp khác nữa.
ĐẠO PHÁP:
Sơ luận về sự luyện TAM BỬU:
TINH- KHÍ-THẦN hay là Thể Phách hồn.
Theo Đạo giáo, nếu ta muốn
tu tâm dưỡng tánh thì trước hết ta phải thường lo giữ gìn thân thể cho được
tinh khiết. Ăn uống không nên quá độ, hoặc chẳng nên dùng đồ phẩm vật nào có hại
cho thân thể như rượu mạnh, nha phiến hay là những món có chất cay nồng nóng nảy.
Rèn tập được như vậy thường ngày thì thân thể ta tránh khỏi sự mỏi mê mệt nhọc, lần hồi sẽ trở nên khỏe
khóăn, thơ thới.
Hễ thân thể ta được thơ thới
thì tánh ta được vững vàng tức là Phách được ôn-tồn. Ấy gọi là Luyên TINH hóa
KHÍ.
Khi ta luyện tập được
nhùân tánh ấy là Khí phách ta được vững vàng. Hễ khí phách ta được vững vàng
thì Ngũ quan ta dễ tiếp xúc với Ý. Hằng
ngày ta luyện trau được như vậy thì tâm ta lần hồi nảy nở, trở nên thông minh: học thấy,
biết, nghe hiểu mau lẹ. Ấy gọi là luyện KHÍ hiệp THẦN.
Do theo phép tu luyện của
Chí-Tôn dạy trong bài Thi:
Có Thần nuôi nấng Thần càng mạnh,
Luyện Khí thông thương Khí mới tường.
Nhập thất lòng trong gìn tịnh mẫn,
Đường Tiên nẻo Phật mới nhằm phương.
Theo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
thì lại gọi là Vận Ngũ Khí triều nguơn. Xưa lại kêu là chuyển Lục thông tức cũng là một ý-nghĩa ấy (Nhãn, Nhĩ, Tỷ,
Thiệt, Thân tiếp xúc mau lẹ với Ý). Hễ ta luyện đặng Ngũ Khí triều nguơn rồi,
chừng có cớ sự chi sâu xa để tầm kiếm ta mới có thể Thiền định đặng tìm ra cớ sự ấy ra đáo để được. Ấy là đắc Pháp.
Thiền định vốn để tìm hiểu
sự sâu xa mầu nhiệm gọi là Định Thần huờn hư.
ĐỨC CHÍ-TÔN dạy về trạng
thái TAM BỬU
Ta nên để ý xem xét trong
phẩm vật để hiến lễ cho Chí-Tôn. Đấng Chí-Tôn đã dạy ta về sự hành lễ, ta chỉ
dùng có ba phẩm vật để cung hiến cho Ngài hằng buổi là Thánh-ý muốn cho ta thường
thấy ba món ấy trước mắt cho đặng thấm vào não cân, hầu tìm thấy sự trạng ấy có
ẩn vi lẽ nhiệm mầu đặng ta suy nghiệm lần hồi cho đến khi hiểu rõ sự thật của Đạo.
Ba phẩm vật ấy gọi là TAM
BỬU:
- TINH biểu tượng bằng HOA
- KHÍ biểu tượng bằng RƯỢU
- THẦN biểu tượng bằng TRÀ
Có ý nghĩa là trong thế cuộc
duy có Hoa là có vẻ tốt đẹp của người đời. Đã gọi Hoa có vẻ tốt đẹp tức là thuyên về hình thức. Màu Hoa lại có năm sắc tức là thể về ngũ
Sắc thể hình của nhơn sanh. Vậy thì hoa đã dùng đặng trạng thái ra TINH, thì
Tinh tức là hình thể của nhơn vật.
RƯỢU là nước có chất mạnh
(Degré) dùng để trạng thái ra Khí, thì quả nhiên Chí-Tôn muốn mượn ý đó để cho
ta tìm hiểu rằng: thân thể ta phải nuôi dưỡng cho khỏe mạnh hầu có năng lực
trong Ngũ Quan.
TRÀ dùng đặng trạng thái
ra THẦN là Thánh ý muốn gợi nhắc cho ta nhớ rằng: Trong đời người duy có dùng
Trà để định Thần. Trong lúc uống Trà, chúng ta có đủ trí não minh mẫn đặng suy
nghiệm điều hay lẽ phải.
Luận về TAM HỒN:
chơn Thần, thức thần, lương thần
Lương-thần cũng gọi là
nguơn linh. Trong lòai người ai cũng có thất tình: Hỉ, Ái, Lạc, Dục, Ai, Ố, Nộ
là do nơi Thất phách. Ấy là sơ luận về cơ huyền bí của đạo Trời, còn Đạo đời vẫn
có muôn ngàn phương pháp. Người đời cũng cần phải gìn giữ thể phách cho tinh
khiết hầu giồi trau Nhãn huệ cho quang minh là trước nhứt rồi mới toan đến sự học
hỏi trau luyện phương pháp của ta tùy sự thích hợp mà chọn lựa.
Nơi trần thế này bất luận
là phương pháp nào, dầu Văn, dầu Pháp (Arts): Y-khoa, Luật khoa, Triết học, đạo
đức, Bác vật cũng được…thậm chí cho đến các nghiệp nghề thường tình, đều tinh
dùng cả thảy, nếu ai thích hợp môn nào thì tìm học môn ấy. Nhưng cần nhứt cũng
phải giồi trau Nhãn huệ quang minh trước hết, rồi mong mỏi đến sự luyện trau phương
học của ta đắc pháp. Huống chi trong sự học hỏi: dầu Đạo, dầu Pháp cần yếu hơn
nữa, là ta phải trạch chọn cho được Minh sư mà chỉ dẫn mới mong đến Đạo Pháp đắc
thành, là lời cặn kẽ của Chí-Tôn đã dạy.
Kết cuộc lại: những đạo
pháp của người đời đã học biết luyện hay đào tạo ra nơi thế này, giúp cho Đời
trong cơ tấn hóa đều gọi là món đỉnh chung. Về mặt thiêng liêng ta duy có giữ
gìn cái chơn hồn hiền ngu cao hạ mà đắc thành ngôi vị thôi. Vì đó nên có mấy vần thi dạy Đạo của Bát Nương Hớn
Liên Bạch, là một Đấng trong Cửu Vị Nữ Phật nơi Diêu-Trì-Cung đã chỉ giáo trong
một bài thuyên về LUẬT TẠO HÓA rằng:
Chốn đày đọa chớ nên để hận,
Lực sanh sanh làm phấn dồi mình.
Kiếp phù sinh vẽ kiếp xuân xanh,
Kiếp đọa lạc gây thành kiếp hiển.
Nào tên tuổi nghiệp nghể hiển hiện,
Đã thành hình ra miếng đỉnh chung
Ấy đều nhờ phép qúi Hóa công,
Tạo bằng cấp tài năng dục học.
Học đặng biết hưởng mùi khó nhọc,
Học cho thông phép thưởng luật hành,
Học cho hiểu tài tình xác tục,
Học đặng sửa nên trong hết đục,
Nước non kia nhờ học mà xinh,
Học cho hay làm CHỦ lấy minh,
Học quá giỏi đặng binh kẻ dở.
Ấy cũng là lẽ thâm-u mầu nhiệm trong sự chúng ta kỉnh thờ trân trọng THIÊN
NHÃN tức là Tôn chỉ của ĐẠI ĐẠO TAM KỲ
PHỔ ĐỘ mà cũng là bí-pháp của sự tu tạo từ buổi Khai thiên vậy. Xin cô bác anh
chị cùng chư Đạo hữu nam nữ lưỡng phái lưu ý.
Làm tại Thảo Xá Hiền Cung Tây Ninh 19-9-1936
Hiệp Thiên Đài: Bảo Văn Pháp Quân
(Ký tên)
2 - Chơn Pháp của Đức Chí Tôn
dạy phải đốt trong lòng Quả
Càn Khôn một ngọn đèn dầu, thay cho ngọn huệ đăng chiếu rực Tam Thập Lục Thiên:
Ở người là tâm, thuộc Hoả làm điểm Dương của
lý Thái Cực để vận hành Tiểu Thiên Địa. Nguyên lý này đã áp dụng trong mọi hình
thức tổ chức của Đạo Cao-Đài.
Qua đồ hình cho thấy hình ảnh:
Tam giáo là Dương đỉnh quay lên. Tam Trấn xem như là cơ Âm, đỉnh quay xuống dưới.
Âm Dương tương đắc hay nói khác đi đó là lý Tam Âm, Tam Dương luôn hòa quyện
vào nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét