Thiên Nhãn Thầy - 2 / 2 (Nữ Soạn giả Nguyên-Thủy)

Từ Thái Cực, Lưỡng Nghi gác tréo sanh Tứ Tượng không tính số toàn là Dương. Chừng biến thêm Tứ âm thành ra Bát Quái là cơ biến hoá thành đại Vũ-trụ, thờ Quả Càn Khôn có đủ lý Âm Dương .

- Bên trong Quả Càn Khôn làm ba mươi sáu nẹp sườn nằm theo chiều dọc, thể hiện cho Tam Thập Lục Thiên (4x9=36) Nếu cộng 3+6= 9 là con số Cửu của Trời;

- Mặt ngoài có Thất Thập Nhị Địa (8x9=72) cọng  7+2=9, là con số Cửu của đất.
- Bề kính tâm 3 thước 3 tấc; 3 nhân với 3 lại là 9, là số Cửu của người, thành ra ba hào Dương của cung Càn là Trời. 3 lần 9 là 27 cũng từ 9 mà ra, là con số định vị cho CÀN KHÔN. Từ đó sinh ra các con số khác.

Áp dụng vào con số thuộc Đền Thánh:
Chiều cao của lầu chuông (Bạch Ngọc Chung Đài) và lầu trống (Lôi Âm Cổ Đài) đều có chiều  cao là  36m
Chiều ngang của Đền Thánh là 27m.
Ngoài ra con số này cũng là qui định cho các Chức sắc Cửu Trùng Đài, Đức Chí-Tôn chọn:

- Nhứt Phật  (ngôi Phật là  ngôi Giáo-Tông, chỉ 1)
- Tam Tiên: 3 phẩm Chưởng Pháp (Dương)

3 phẩm  Đầu sư (Âm)

- Tam thập lục Thánh (36 vị Thánh là hàng Phối sư)
- Thất thập Nhị Hiền  (72 vị Hiền là Giáo sư)
- Tam thiên Đồ Đệ     (3.000 vị Đồ đệ là Giáo Hữu)

Nếu lấy số chín mà cộng với "Tam" (9+3=12) của Tam Thiên Thế Giái là con số mười hai.

Vốn số Thập Nhị Địa Chi của Phật Mẫu:
Từ con số của Đức Chí Tôn: 3 là con số khởi thỉ cộng 9 là con số định vị, tức thị con số Thập Nhị Khai Thiên (12). Vì lẽ đó mà cả chúng sanh phải vận hành theo qui luật tạo đoan giữa không gian và thời gian của một chu kỳ. Chẳng vật thể gì ở ngoài pháp CAN - CHI của trời đất biến dịch cả:
- Chi là hệ ngang, Can là hệ dọc.
Như pháp Tứ Tượng ở nơi Tiểu-Vũ-Trụ của người:
- Trí là hệ thống Âm, tâm là hệ thống Dương.

Người có đủ cả hai không thể thiếu, nếu thiếu chiều dọc là con người quên hẳn nguồn gốc Thiên lương, thảng họ được chiều ngang thì giỏi phần tấn hóa, dầu có tài trí, nhưng tánh ý không hiền.lành.

Vậy: 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các Pháp trong tay, mà người nắm Pháp ấy là chủ-tể Càn Khôn vũ trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy.

Nếu cộng lại là 1+2 = 3 tức là ba ngôi đầu tiên.

Nếu tính theo hàng là 1 và 2 tức là lý Thái cực đứng trước luật Âm Dương thì thấy rõ quyền năng Chưởng quản trong đó. Vì thế Thầy nói chi chi cũng có luật định, không vật chi ngoài quyền sở định của Tạo hóa hết”.

Đại Đạo là  một  triết lý “nhân sanh ư Dần”. Muốn thấu triệt phải tầm gốc ở nhơn sanh chỗ tình người, bởi nhơn sanh là một phần tối linh của Thượng Đế:
“Con người đứng phẩm tối linh,
“Nửa người, nửa Phật nơi mình anh-nhi”

Không thể theo duy Thiên hay duy Địa mà bỏ Nhân được. Vậy mọi sự sống nhất tịnh nhất động với hệ thống có qui luật nhịp nhàng do máy hành tàng, gọi là "Các hữu Thái Cực" (Mỗi mỗi đều là Thái cực)

- Nay là buổi NHÂN SANH Ư DẦN 人生於寅

Thầy sanh ra loài người, nhằm ngày Dần, gọi “Nhân sanh ư Dần” tức là vào Tý thời (1) ngày mùng Một (1) tháng Giêng (1) năm Bính-Dần, Thầy khởi khai nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu là “Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ”. Còn Ngài thì tá danh là “Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma Ha Tát” rồi Ngài giải rõ trong danh hiệu của Ngài gồm đủ Tam giáo: Nho-Đạo-Thích. Thế nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ khai nhằm giờ Tý, ngày mùng 1 tháng 1 năm Bính Dần là do nơi đó”.
Đạo Cao Đài lấy giờ 1, ngày 1, tháng 1, năm Bính Dần (dl: 13-02-1926) làm Kỷ nguyên Đạo lịch của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Như thế năm Bính-Dần là năm Đạo lịch thứ nhứt. Đã hiệp đủ ba con số một “nhứt”, là “Thiên đắc nhứt linh, Địa đắc nhứt ninh, Nhơn đắc nhứt thành”. Hơn nữa năm Dần là năm thứ 3 (1.Tý- 2.Sửu- 3.Dần) là một sự tròn đầy. Nếu số 1 là số Trời “Thái Dương” thì số 3 là số của người “Thiếu Dương”; “Thiên Nhơn tương hợp”, nên nói “một mà ba, mà ba cũng là một”. Số 3 tượng là CÀN “Tam Dương khai Thái” là hình tam giác đều, tượng Tam giáo. Ngày giờ này Đức Chí Tôn khởi lập Đại Đạo, Tôn chỉ “Qui Tam giáo” thì Thầy đứng chủ trung Qui Nguyên Hiệp Nhứt. Thế thì số 0 là giao điểm của ba cạnh là ngôi Thượng Đế, nhìn ra ba cạnh là Tam giáo, như vậy trước mắt Thầy Tam giáo vẫn đồng quyền, đồng đẳng, không hơn không kém..

Nay, trong cửa Đạo, Đức Chí-Tôn đã chọn và cho xuống trước ba vị: Cao Quỳnh Cư -Phạm Công Tắc – Cao Hoài  Sang. Thầy hỏi rằng: “Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng?”.

Ba ông bạch rằng: “Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo-lý chi, duy  nhờ Đức  Chí-Tôn  dạy  bảo bấy lâu, thì  sự  biết chưa  đặng  trong  muôn  một, e  cho chẳng xứng đáng mà lãnh trách-nhậm lớn-lao ấy”.

Đức Ngài nói rằng: “Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi”.

Khấn vái xong rồi thì vào nhà phò loan, Đức Chí Tôn giáng dạy như vầy:
“Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo Thiên lập Địa, Thầy sanh loài người ra, nhằm ngày Dần “Nhân sanh ư Dần”. Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, còn Thầy thì Tá-danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma Ha-Tát.”
Đấng ấy đã thật sự đến dạy Đạo tại phương Nam.

Đức Hộ-Pháp có nói rằng:
Thầy “Dùng Lương-sanh để cứu vớt quần-sanh”. Những ngày đầu Đấng AĂÂ gọi ba vị này là “Tam vị Đạo-Hữu”, một từ thân-mật là các Ông:
 - Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong là THƯỢNG PHẨM, tuổi Mậu-Tý  (1888)    (số 1)
- Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG SANH,  tuổi Tân-Sửu  (1901) (số 2)
- Phạm-Công-Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi Canh Dần  (1890)    (số 3)

Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ “Thiên địa  tuần-huờn châu nhi phục thỉ”, Tôn-chỉ là “Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt” để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ trụ:
           - Thiên khai ư Tý   - Trời khai vào hội Tý
           - Địa tịch ư Sửu      - Đất thành hình ở hội Sửu
           - Nhơn sanh ư Dần - Nhơn-loại sanh vào hội Dần.

Thế nên ba Ngài có ba tuổi ứng hợp với nguyên lý của vũ trụ thì không phải là tự nhiên, Thầy cũng cho biết trước: “Khai Đạo muôn năm trước định giờ” rồi !

Nay là buổi “Nhơn sanh ư Dần”, đây là phần hành của Đức DI-LẠC. Do vậy mà hình ảnh Ngài ngự ở mặt tiền Đền-Thánh, cỡi CỌP để làm biểu tượng là năm Dần.

- Phần của Chí Linh ở trong Vạn Linh:
Giữa Vạn linh có Chí linh, cũng như trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Đạo Cao Đài đã thể hình hai chữ Thiên Thượng và Thiên Hạ cũng là triết lý Trời Người đồng trị: người trị xác, trời trị hồn. Nhơn sinh nhìn vào bản thể là một Tiểu Vũ Trụ, phải kết tụ cái pháp thân bằng Thần của Vạn linh. Nhờ vật loại cộng sinh vào đó để làm hình ảnh thiên-lương của Chí linh tức là Trời. Muốn hiệp được cùng Trời thì tâm tu không xa rời bổn thiện, về phần nội tại thì Đại Đạo là cơ qui nhứt của Đức Chí Tôn để đến NHỨT NGUYÊN thì sự luận giải về triết lý Vũ Trụ phải gắn liền với triết lý nhơn sinh ở mặt tâm linh.

Về Thể pháp: Nơi Bát-Quái-Đài Tòa Thánh Tây Ninh: Hình ảnh trên đây là cái bàn hình Bát-giác, là nơi đặt cái trụ cốt của Quả Càn Khôn. Cái diềm bàn chung quanh được chạm 8 chữ Quốc ngữ “TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI PHỤC NHỨT”, ứng với tám quẻ là “Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài”. Khi nhân sanh lễ bái thì lạy vào chữ NHỨT NGUYÊN (Lưu ý các quẻ đều hướng vào tâm). Càn (Kiền) khởi ở Tây Nam:

KIỀN là quẻ thuần Dương tức là ba hào đều là thể Dương cả, Dương tượng sự mạnh-mẽ, thông sáng là thực, nên 3 hào thể Dương liền nhau ắt có sự mạnh-mẽ vô cùng, vì lẽ ấy mới lấy quẻ Kiền tượng là Trời hay là tượng cái thật là mạnh-mẽ của thiên-hạ. Là khí sanh-quang huy động trong trời đất. Kiền là kiện tức là tráng kiện, mạnh-mẽ là tính của thể Dương. Đó là biểu tượng đức hạnh và quyền năng của Thượng Đế  siêu việt.

Một gạch liền của hào Dương là ám chỉ sự toàn (đầy đủ), còn gạch đứt của hào Âm  cũng vẫn là hào Dương nhưng bị phân chia nên chưa toàn, chưa đầy đủ vậy thôi. Cũng như trong đời chỉ có thiện, còn ác chẳng qua là chưa toàn thiện chứ cũng chưa phải là nghịch hẳn với thiện, nên mới nói “toàn tức là chưa phân chia”.

Tất cả lý lẽ của vạn vật đều do quẻ KIỀN mà ra !  KHÔN cũng do quẻ Kiền mà bị chia hai, chớ không phải ngoài quẻ Kiền có quẻ Khôn. Các quẻ còn lại “Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn” cũng do từ Kiền mà biến sanh ra khác nhau, chứ không phải ngoài quẻ Kiền mà có được 6 quẻ ấy, cả thảy đều do sự tấn-hoá của Kiền.

Do vậy mà Thánh-Kinh của Thiên-Chúa-giáo với huyền thoại Adam nguyên thuỷ (Adam primordial) nói lúc Chúa Trời tạo lập vườn Eden bên hướng Đông có đủ thứ hoa quả và thời tiết ấm-áp của một mùa Xuân vĩnh cữu. Đây là tượng trưng thời hoàng kim Adam Nguyên-thuỷ là người sống trong tâm Thái cực. Đó là hình thức mượn vật Tổ để giải lý Dịch cấu tạo nên Càn Khôn Vũ-trụ loài người. Tất cả đều khởi từ Kiền nguyên hay Nhứt nguyên,  triết lý nhơn sanh trong buổi “Nhơn sanh ư Dần” nên dạy thờ Thiên Nhãn tức là thờ thần Thiên lương của nhơn lọai. Thầy đến lập Đạo Kỳ ba là muốn bảo tồn Vạn linh..
Quả Càn Khôn“bề kính tâm 3 thước 3 tấc”(3x3=9)

Lấy 3 hào Dương của cung Càn là Trời nhân lên với 9 là 27 cũng từ 9, là con số định vị cho Càn Khôn:
 “Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay 3 bình phương là cấp bực tam ngôi biến hóa, vận-hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy. Số 9 là cơ vận-chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là CƠ QUI NHỨT.

Nay Thầy cho THẦN hiệp cùng TINH-KHÍ là cơ mầu-nhiệm cho chúng sanh đắc Đạo. Ai biết noi theo chơn truyền Luật Pháp đến ngày công viên quả mãn đặng thọ truyền bửu pháp, chơn Thần siêu thăng.

 “Trong buổi Hạ-nguơn chuyển thế Đức Chí-Tôn khai Đạo dạy thờ THIÊN-NHÃN là thờ Chơn-thần của Chí Linh cho hiệp cùng Vạn-linh tức là thờ ngôi Thái Cực, là thờ  THẦY  vậy”.

Do lời Thánh Giáo của Đức Chí Tôn từ buổi khai Đạo dạy thờ THIÊN-NHÃN là chỉ nghĩa Nhứt điểm linh quang của Tạo-hóa. “Mọi nhà thờ Thiên-Nhãn sùng bái hằng ngày đặng xét mình, kiểm điểm các điều tội lỗi. Thoảng như trong tâm giục khởi làm việc chi bất bình thì sợ có quyền năng của Trời răn phạt, nên thờ Thiên-Nhãn là phương mầu nhiệm cho mọi người biết tùng thiên lý: “Kỳ Hạ-nguơn này Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy Đạo không có chơn-linh giáng sanh nguyên hình như các vị Giáo-chủ trước nữa. Nếu sự thờ phượng riêng một vị Giáo-chủ như buổi trước thì không đủ thống nhất đặng tín ngưỡng của nhơn-sanh trong hoàn-cầu thế-giới. Cho nên thờ THIÊN NHÃN  là cơ-quan hiệp cả Chơn-thần của toàn vạn linh và hiệp Tam Bửu: Tinh- Khí-Thần vi nhứt. Ấy là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. Từ  khi các Tôn giáo bị bế: Âm thạnh Dương suy, nên THẦN chẳng hiệp cùng TINH KHÍ được,  vậy nên người tu hữu công mà không đắc quả.

 “Nay Đức Chí-Tôn khai ĐẠI-ĐẠO đem Chơn Thần huờn nguyên. Bởi THIÊN-NHÃN thuộc về chơn Thần “Thần Cư Tại Nhãn” ...Tâm thuộc Hỏa, Hỏa thuộc Dương, Dương là mặt nhựt…”.

3 - Chữ NHÃN TRONG THIÊN NHÃN

1 - Tại sao cũng mắt mà khi gọi Mục khi gọi Nhãn ?
* Mục là con mắt ngó ra ngoài để nhìn mọi sự vật, khoa học gọi đó là cơ quan thị giác. Mắt có hai mới thấy rõ sự vật  (gọi là Lưỡng Mục)

* Nhãn là mắt nhìn vào trong. Thường nói là con mắt thứ ba. Trước hết chữ Nhãn kết hợp bởi Mục và Cấn (là núi). Hình ảnh của Mắt khi nhìn ra bị núi chắn lại nên phải nhìn vào bên trong, tức là sự sáng bằng tâm linh còn gọi là con mắt thấu thị. Muốn được con mắt thứ ba phải luyện, tức là hình thức CÚNG TỨ THỜI đó là luyện Tinh- Khí- Thần; trước nhứt là luyện Thiên Nhãn. Nhờ cúng kiếng thường nên được phát huệ đó là cách thức “luyện đơn” của các Tiên gia qua hình ảnh sau:

Ngồi Cúng đôi mắt hướng về Thiên Nhãn:

Mắt trái gọi là nhựt Mắt phải gọi là nguyệt Mắt nhìn tâm động, nhận thức mọi vật nơi tâm, gọi là minh tâm tức là hai ánh sáng qui về một điểm do sự hồi quang, rồi sẽ phản chiếu lại, luyện dần sẽ được điểm sáng mới: nhựt hợp với nguyệt thành ra chữ  minh là sáng.

Chữ Minh vẫn còn hai phần tức là Nhựt bên trái, Nguyệt bên phải, nên gọi là nhứt nguyên lưỡng cực (tuy một chữ nhưng họp bởi hai bộ. Chỉ thế giới nhị nguyên của người đang sống thật vô cùng phồn tạp). Nhưng chính vì đó mà người phải tu. Bà Đòan có dạy:
Cây trăm thước bắc qua bến khổ,
Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ !

* Khi điểm sáng tích tụ lại gọi là kết đơn (đơn là điểm sáng màu trắng trong cũng gọi là Huệ nhãn, Tâm nhãn, Thần nhãn, Thánh nhãn…) tùy theo trình độ tu tập.         Chữ Đơn là do chữ Nhựt và Nguyệt đặt chồng lên nhau, đó là con mắt thứ ba chính là Nhãn . Đây là điểm Đơn nhứt Thái-cực. Điểm Thái-Cực này ở giữa hai chơn mày, do vậy mà người Ấn-Độ hay đính một hột sáng hoặc điểm chấm đỏ làm con mắt thứ ba.

Khi người tu đạt được sự minh tâm kiến tánh hay là hồi quang phản chiếu  là đạt Đạo.   Phương-ngôn Tây có câu: “Dieu voit tout, Dieu existe partout et à tout moment”  nghĩa là  Trời thấy  cùng  hết, ở đâu và giờ nào cũng có Trời tất cả.
Hình ảnh trên cho thấy hai đường thẳng đặt lên nhau tạo thành chữ Thập, giao điểm bằng 0, tức nhiên đạt được chân lý, vì đã hiệp cùng Thái cực. Hay nói khác đi Lưỡng nghi hiệp thành Tứ Tượng, thì điểm giữa này chính là Ngũ trung là nắm được lý Ngũ Hành, từ đó biến hóa.

* Thật ra có ba giai đoạn luyện Thiên Nhãn:
- Luyện Tinh hoá Khí là hình ảnh hai chữ Nhựt và nguyệt đặt liền bên nhau thành ra chữ Minh (TINH)
- Luyện Khí hoá Thần là giai đoạn giữa của hai thời kỳ trên, tức là giai đoạn chuyển hoá: Chữ nhựt đặt trên chữ nguyệt thành ra chữ Dịch là biến. Sự biến cũng qua hai vấn đề thuận nghịch, tức là tuỳ theo pháp tu có tiến bộ, có năng nỗ hay không, do ở hành giả (KHÍ)
-  Luyện Thần huờn Hư, tức nhiên chữ  nhựt và chữ nguyệt đặt chồng lên nhau, thành ra chữ Đơn (Đan) Đó gọi  Đơn nhứt Thái cực,  ấy là (THẦN).

Lâu nay: “Vì Ngũ Tạng hoạt động mà Ngũ Khí phải hao mòn, suy kém. Nay gặp Tam Kỳ Phổ Độ nhờ Đức Chí Tôn chỉ phép hồi quang phản chiếu cho Ngũ Khí triều tụ nơi khiếu Huyền Quang mà siêu phàm nhập Thánh. Đó là phép Ngũ Khí triều nguyên hay là triều nguơn”.

Từ  nguyên lý này làm chuẩn  thằng  cho  tất  cả  vạn sự vạn vật trong trời đất đều phải tuân theo, nên nó là công thức sống như lời trong Thánh Ngôn:

“Thầy đã nói với các con rằng: khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới thì Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái cực. Thầy phân Thái cực ra Lưỡng nghi, Lưỡng nghi phân ra Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát-Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh”.

 Xét về chữ Minh: Minh là sự sáng, tức nhiên do hai chữ Nhật và Nguyệt hiệp lại gọi mà thành “Nhựt Nguyệt hiệp đồng Minh”. Nhựt Nguyệt đây là Tâm và Thận. Người xưa gọi Tâm là Ly, là hống. Thận là Khảm, là diên. Khảm Ly cũng là Huyền Tẩn tổng trì môn. Nếu hai thể được dung hòa, ký hiệp thì trí huệ tự khai. Con người khi Khảm (Thận) Ly (tâm) giao-hòa thì sống, phân tán thì chết “Khảm Ly giao tắc sanh, phân tắc tử”. Còn Huyền Tẩn ở đây là chỉ Âm Dương, Nhật Nguyệt (huyền là Dương, Tẩn là Âm), mà Nhựt Nguyệt có hợp thì mới gọi là Minh. Muốn đắc Minh phải dùng tụ quang khai Thiên Nhãn. Khi hai con mắt duy nhất chú vào một điểm Thần quang thì chơn khí không còn phóng tán. Khi Thần được yên thì vọng thức khó sanh. Phép tụ quang là bước đầu của sơ cơ để hồi quang phản chiếu vào trung huỳnh đặt Nhãn tạng vào đấy thì hai khí: Tâm Thận triều viên, Khảm Ly giao hội, Thủy Hỏa Ký tế, Long Hổ qui triều.

Khi mà  Nhựt  Nguyệt  hiệp  thành  Minh  thì  khí  Trung hòa huân kết thành ĐƠN. Đơn ở đây là thể hỗn nhất hồn dung không còn thấy được hình dáng của Nhựt Nguyệt, đó là Minh đức, Minh linh, đạt đắc diệu lý vậy. Chữ MINH ở đây là một bí quyết tối thượng, là chìa khóa mầu nhiệm mở cửa bí mật cho nguyên căn, sớm đặng nhập Thánh siêu phàm, tạo Tiên tác Phật” (Trích Trung Thiên Dịch –Trần Cao Vân- Trang 374)

Thế nên khi gọi là NHÃN thì chỉ có một. Do vậy mà Đạo Cao-Đài chỉ thờ “một Con mắt trái” mà thôi. Mắt trái là Dương. Dương là chỉ ánh sáng tuyệt đối là Lương tri của con người vậy. Đây chính là điểm Thái Cực ở giữa hai chơn mày.

Như thế hai con mắt đã biểu tượng bằng hai chữ nhựt và nguyệt . Khi cúng có ba trường hợp xảy ra:
1 - Thứ nhứt: nhựt nguyệt đặt liền nhau thành ra chữ Minh   minh là sáng. Đây là luyện Tinh hoá Khí.
2 - Thứ hai: chữ nhựt đặt lên chữ nguyệt thành ra chữ Dịch là biến đổi. Giai đoạn này luyện Khí hoá Thần
3 - Thứ ba là Nhựt nguyệt đặt chồng vào nhau sẽ thành chữ Đơn tức là Đơn nhứt thái cực. Là luyện Thần huờn hư.

Nếu cứ mãi nhìn ra thì hoá ra vọng niệm. Nhưng đối với người tu thì chỉ hướng vào bên trong tâm mình mà thực hiện câu Kinh Nhựt tụng:
“Làm người rõ thấu lý sâu,
“Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh”

Thử hỏi cái lý sâu đó nó nằm nơi nào mà mong sửa lòng trong sạch? Tức nhiên ta phải biết quí trọng những gì mà Thượng-Đế ban cho, nghĩa là phải phát triển điểm chơn linh hay là điểm linh quang cho sáng suốt. Có thế, tức là không dám khinh thường cái Tâm, bởi khinh thường cái Tâm là tất nhiên khinh thường Trời. Nhưng Trời thì chẳng ai dám khinh hết. Bởi quyền năng của Trời là ban sự sống cho muôn loài, mà muôn loài luôn hướng về Trời để nhận sự sống ấy, là không khí; mà không khí tức là Đạo. Tức nhiên dù người hay vạn vật lúc nào cũng tìm đến Đạo. Thầy dạy “Làm người thì phải biết đạo, không biết Đạo không phải là người".

Việc cúng kiến hằng ngày với mục đích là làm cho sáng đức tin, tức là sáng tỏ Thiên lương của chính mình. Khi sáng tỏ được thì tâm linh khoát nhiên đại ngộ.

Thiên lương là gì ? Ở nơi nào?
- “Thiên-lương ấy mới thiệt là Ta, nó đã do nơi khối Chí-linh của Trời mà sản xuất thì nó là con của Trời, tức nhiên nó là Trời. Nếu do nó mà để Tín-ngưỡng thì mình do Trời mà Tín-ngưỡng. Mình thờ nó tức thờ TRời, ngoài nó ra chẳng ai biết TRời, ngoài Trời không ai biết nó!”.

Cái sự thông công giữa Thiên lương và Chí-Tôn là phép mầu đoạt Đạo. Vì cớ cho nên Đạo Cao-Đài thờ Thiên Nhãn, nghĩa là thờ cái khối thiên lương của toàn nhân loại.

Ấy vậy, Thiên lương mới thiệt là chủ của sự Tín ngưỡng.
Nhưng tại sao nói “Hoàng Thiên hữu nhãn”, nó có liên hệ gì đến con người không?
Ba Đấng: Thái Thượng- Nguơn Thỉ - Hộ Pháp:
Lẽ tất nhiên Thầy sanh cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đức Mẹ Chơn thần của chư Tiên Phật và chúng sanh do bởi Phật, Tiên. Nguyên thỉ có 3 vị do pháp tánh,  Đức Chí Tôn bao trùm ba ngôi cũng từ ngôi Thái Cực mới biến suất là: 1- Thái Thượng   2- Nguơn Thỉ   3- Hộ Pháp.
- Thủy là Chơn Âm của Đức Phật Mẫu.
- Hỏa là Chơn Dương của Đức Chí Tôn.

Đạo Tiên nói: “Đạo sanh nhứt, nhứt sanh nhị, nhị sanh Tam, Tam sanh vạn vật" nghĩa là khi tạo Càn Khôn, Đức Chí Tôn biến ra ba nguơn khí tượng lý. Bắt đầu khởi thỉ nếu luận theo cổ giáo Bà La Môn thì ba ngôi đó tức là “Tam Thế Chí Tôn” đặt trên đỉnh của Bát-Quái-Đài   tượng cơ sáng tạo, hay là Tam Hồn của Đức Chí Tôn. Ngài là Đấng chủ tể Càn Khôn thế giái nắm quyền chưởng quản, hóa dục quần sanh:
-  Lý phản phục do Thái Thượng,
-  Pháp thu liễm do Nguơn Thỉ,
-  Cơ định vị do Hộ Pháp.

4 - Dâng Tam Bửu lên Đức Chí-Tôn:
Người Tín hữu sùng thượng Đức Thượng-Đế bằng cách dâng Tam-Bửu cho Người, đó là dùng các vật làm biểu tượng:
 - Bông  tượng trưng cho xác thân, ấy là TINH
 - Rượu  tượng trưng cho Trí não, ấy là KHÍ
 - Trà  tượng trưng cho linh hồn, ấy là THẦN.

TINH- KHÍ- THẦN gọi là Tam bửu, tức là ba món quí báu nhứt của con người.
Còn ở thời Tiền khai Đại-Đạo thì Đức Chí-Tôn chọn “lương sanh để cứu vớt quần sanh” ấy là ba vị: CƯ, TẮC, SANG tiêu biểu cho “Tý- Sửu- Dần” ấy cũng là “Tam ngôi nhứt thể” là Tam bửu đó vậy.

Đức Hộ-Pháp nói: “Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ TÔN ưa chuộng để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù  đã gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế giới”.

Ngày hôm nay Đức Chí-Tôn đến, Ngài biểu chúng ta dâng cho Ngài ba món gọi là Tam bửu là: Tinh- Khí - Thần. Ngài thể nó là BÔNG,  là RƯỢU,  là TRÀ”.
Bên cạnh chung Trà còn có chung nước Trắng tượng Nhị Khí Âm Dương.
RƯỢU là Khí phải đủ ba ly. Ba  ly  rượu  cùng  một

nguyên lý giữa con người với trời đất thể hiện cơ định vị là ba Nguơn Khí của Thiên- Địa- Nhơn.
Do vậy, mà thời Tiền khai Đại-Đạo, Chí-Tôn cho Thất Nương đến trước nhất “Thất nương khêu đuốc đạo đầu”, Tiên Nương đến để mở đường xuất Thánh, nên Tiên Nương mới giả danh là Đoàn Ngọc Quế. Sau nhờ thi văn nối liền tiên tục, Tiên Nương mới xưng đích danh là VƯƠNG THỊ LỄ, xong kết tình huynh muội, xem như một đại gia đình thì mới hiện rõ Thánh-Ý của Chí-Tôn là Ngài đến ban cho Việt Nam một nền Vương-đạo lấy LỄ làm đầu, thể hiện rõ ở ba vị Nam tượng Dương quẻ Càn bây giờ thêm Tứ muội, tượng nét sổ xuyên qua quẻ Càn thành ra chữ VƯƠNG. Nền Tân giáo này là Vương đạo.

5 - Vương Đạo là gì?
- Vương Đạo để trị nước là áp dụng chính sách nhân trị, nghĩa là dùng đức nhân mà trị dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, đó là sự nghiệp của bậc Vương giả, chính là người có đạo đức hoàn toàn, lấy điều công chính nhân nghĩa mà trị thiên hạ.

Mạnh Tử đã định nghĩa nghiệp Vương Bá, là:
- Người dùng sức mạnh mà mượn tiếng làm điều nhân, là Bá; người làm Bá tất phải có nước lớn.
- Người lấy đức làm điều nhân là Vương; người làm Vương không đợi có nước lớn.
 “Dĩ lực giả nhân giả Bá; Bá tất hữu đại quốc. Dĩ đức hành nhân giả Vương; Vương bất đãi đại” 以力假仁者霸, 霸必有大國, 以德行仁者王, 王不待大.

Nay THẦY đến ban cho một nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu. Tại sao phải mở Đạo ở Toà-Thánh Tây-Ninh?

Thầy dạy: -Nơi nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh-Địa
- Chi chi cũng tại Tây-Ninh đây mà thôi”.
Trong buổi tiền khai Đại-Đạo: Lần đầu tiên Thất Nương Diêu-Trì-Cung đến với ba ông: Cư, Tắc, Sang, tức là ba người Môn Đệ trước nhất của Đức Chí-Tôn mà chính Đấng Thượng Đế gọi là Tam vị Đạo-Hữu. Lúc ấy Thất Nương đến để giao duyên kết tình huynh muội, hầu giáo hoá cho ba ông vào con đường đạo-đức cũng là mục đích của Đức Chí-Tôn mở nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu.

Tên thật của Thất Nương là VƯƠNG-THỊ-Lễ. Sau đó Bà có cho bài thi, lấy tên LỄ đặt ở đầu câu, là: “LỄ bái thường hành tâm Đạo khởi”

Thất Nương Diêu-Trì-Cung đã giáng đàn, cho thi dùng làm bài Thài trong Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung:
LỄ bái thường hành tâm Đạo khởi
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,

Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên
Tiên Nương VƯƠNG-THỊ-LỄ kính trọng ba Ngài kết làm tình huynh muội. Ba vị sau đắc phong vào cửa Hiệp Thiên Đài là:

- Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư là Đại Ca     ___
- Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Nhị Ca            ___
- Thượng Sanh Cao Hoài Sang là Tam Ca     ___

Nếu tính theo Dịch lý; thì ba vị là Nam, tượng trưng cho ba điểm Dương, thuộc quẻ CÀN mà Càn là Trời.       

Còn Tiên Nương làm Tứ muội, là Nữ, là Âm, tức thêm nét sổ nữa vào quẻ CÀN kết hợp thành ra chữ VƯƠNG mà danh tánh bà là VƯƠNG THỊ LỄ 王氏禮 Phải chăng Bà đến để báo trước rằng Đấng Thượng Đế sắp ban cho Việt-Nam một nền Vương-Đạo lấy Lễ làm đầu?

Hơn nữa Thất Nương Vương-Thị-Lễ là Nữ, tượng quẻ Đoài. Trên Kiền, dưới Đoài làm nên quẻ Thiên Trạch Lý. “Lý giả Lễ dã” là vậy.
 “Lễ bái thường hành” ở nền Đại-Đạo đó là Cúng Tứ
Thời, giá trị Cúng Tứ Thời là hình thức Thiền của Phật.
- Đức Chí-Tôn đến trước tiên xưng là AĂÂ là Thần
- Diêu Trì Cung  đến mở đường xúât Thánh là Khí
- Ba vị Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, là Tinh
Lễ dâng Rượu phải đúng Tý và Ngọ,  bởi hai thời đó là nguơn Khí của trời đất hưng vượng.
Trà dâng phải thời Mẹo và thời Dậu, bởi hai thời đó là nguơn Thần của trời đất hưng vượng.
Như vậy Trời Đất cũng có đủ Tinh- Khí- Thần.
Ba nguơn khí của Phật-  Pháp -Tăng ở ba ngôi: nhứt là Thái Cực, nhì Lưỡng Nghi, tam là Tam Tài.
RƯỢU cúng 3 ly, mỗi ly 3 phân, cộng lại cũng là 9. Trừ khi Lễ điện 9 phân vì có một ly. Ba ly rượu tượng ba cõi: Hạ giới, Trung giới, Thượng giới. Mỗi ly rót đủ ba phân, là người có ba phẩm: Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân. Ba phẩm cấp nhơn sanh phải tu tiến lần lên các cõi để đến nơi tuyệt đỉnh mà Phật giáo gọi là Niết Bàn.

TRÀ cúng mỗi chung 8 phân, tượng thể con số Bát Quái hai ngôi ở lý âm dương lưỡng hiệp tức là Thần. Hay nói rõ hơn Đạo Cao-Đài ngày nay Đức Chí-Tôn ban cho hai Bát Quái nữa là mở ra con đường Thiên Đạo, tức là đường về Trời,là con đường Thiêng Liêng hằng Sống. Ấy:
- Bát Quái Đồ Thiên  (Thể pháp Thiên Đạo)
- Bát Quái Hư vô       (Bí pháp Thiên Đạo).

Bởi Chí Tôn có Bát Quái, Phật Mẫu có Bát Cảnh Cung. Người tùng theo Đại Đạo thực hành Bát Chánh Đạo.
Phần HOA tiêu biểu cho nguơn Tinh, tức hình thể của phẩm tối linh, phải tốt đẹp thơm tho mới đem ra hiến lễ cho hai Đấng Tạo-đoan. Vì con người ảnh hưởng pháp giới tạo đoan trong thể Tiểu thiên địa cũng giống như đại thể, do Ngũ khí biến Ngũ hành, cõi đất sanh Ngũ sắc, dầu nơi mặt thế, người hay vật cũng chia ra có 5 màu, nên sự hiến lễ thể hiện phần nguơn Tinh của chúng sinh đối với đạo.  Thế nên bài thài Dâng hoa có câu “Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ” là vậy. Ngũ quả cũng như thế, ấy là tượng cho Tiên Thiên Ngũ Khí và Hậu Thiên Ngũ hành.

Từ đó Diêu-Trì-Cung lần lượt đến giáo hóa là:
- Lục Nương- Thất Nương - Bát Nương.
Nếu xếp ra các số  6  7  8 là hình ảnh ba ly rượu trên Thiên bàn, tượng  Khí. Ba con số này nếu cộng lại sẽ là 21 chia đều cho 3 là 7, cũng chỉ vào Thất Nương DTC. Như vậy số 7 là chánh trung, nên Thất Nương đến trước nhất để “Khêu đuốc Đạo đầu” Số 7 hợp với lý Thái cực sẽ thành 8 là hình ảnh của “Bát Nương thật Đấng Chí linh” đó vậy. Hai Tiên Nương này đều ở Đông phương. Bây giờ thêm “Lục Nương phất phướn truy hồn”. Bởi Lục Nương gốc là người nước Pháp, là Tây phương, là Thánh Nữ Janne d’Arc; đến trong nguơn hội này là thể hiện Đông- Tây hoà hiệp trong tinh thần Tôn giáo Đại-Đồng.

Loài người là phẩm tối linh để đại diện cho chúng sanh, nên trong giờ hiến lễ, coi như nguơn Khí của Vạn linh được hiệp cùng Đấng Chí linh. Đạo Cao Đài rất chú trọng lễ Dâng Tam Bửu.

Dâng Tam Bửu mỗi bửu 3 lạy, mỗi lạy 4 gật cộng thành 12 cho mỗi lần lạy, như vậy tính chung ba lần là 36 (12x3=36), tổng hai chữ số là 9 (3+6=9), để làm con số định vị của ngôi Dương. Từ khởi thỉ đến chung kết phải giữ đúng lý số của cơ huyền nhiệm, nên sự hành lễ của Tôn Giáo Cao Đài biểu tượng pháp-giới tạo đoan có liên quan cùng pháp giới chúng sanh trong Tứ thời hành lễ.

7 - Khi cúng Tứ thời: về niệm danh Đức Cao Đài trong bốn bài:
- Niệm hương,            - Ngọc Hoàng Kinh,
- Dâng một Bửu,        - Ngũ nguyện.

Mỗi bài lạy ba lạy, mỗi lạy 4 gật, tổng số là: 4 (bài)
 (4 x 3 (lạy) x 4 (gật) = 48 (4+8=12) tổng hai chữ số là 12, con số Khai Thiên.

Như vậy, khởi thỉ bằng bài Niệm hương 3 lạy, 4 gật (12), chung kết cũng con số 12 thì mới đúng pháp. Danh Thầy có 12 chữ, mỗi lạy 4 gật thành 48 chữ, tổng hai chữ  số  (4+8=12) cũng 12.

Vả lại: - Bài Niệm hương khởi đầu của Kinh cúng Tứ thời có 10 câu, tượng Thập Thiên can;
- Bài Khai kinh 12 câu tượng cho Thập Nhị Địa chi.
Vậy hai bài Kinh này như cánh cửa để vào tòa lâu đài Đại Đạo. Kinh Phật Mẫu:
 “Thập Thiên can bao hàm vạn tượng,
 “Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”

Các Lễ Đại đàn khi dâng sớ đều có câu: Ngưỡng nguyện: Vô Trung Từ Phụ, vậy có nghĩa là gì?
 (Vô Trung là vượt lên mức trung, tức là “Đại”, Từ phụ là Đấng Cha lành) Là chỉ Đấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức nhiên là “Đại-Từ-Phụ” đó vậy.

Suy ra: Ngài là Đấng Chúa Tể Càn Khôn: Từ quẻ Càn có thể thay bằng ba dấu chấm   từ đó kéo thẳng xuống thành số  (một) tượng Thái cực. Quẻ Khôn thay vào bằng 6 chấm  ta vẽ thành vòng tròn  tượng Vô cực. Dịch nói “Vô cực nhi Thái cực”. Hiệp cả hai lại thành ra chữ Trung  Viết lâu dần thành ra .  Đó là sự  thành hình của hai quẻ Càn Khôn. Hơn nữa:
- Danh xưng của Đấng Từ Phụ là “Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn” (10 chữ= Thập Thiên Can)
- Nhân sanh niệm danh  Ngài “Nam-Mô  Cao-Đài  Tiên

Ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát” (12 chữ= Thập Nhị Địa Chi)
“Chơn truyền buổi Ðức Chí Tôn tạo Càn Khôn Thế Giái, Ngài nắm Thập Thiên Can, Thập Nhị Ðịa Chi trong tay, để định Pháp Chánh Càn khôn Vũ trụ. Trong thời buổi định Pháp Chánh ấn định vào khoảng từ ngày 23 đến 30 sáng mồng 1, họp tại Ngọc-Hư-Cung đặng định luật giới hạn vi diệu cho trái địa cầu, chạy theo khuôn khổ hữu định trong năm cho chí Tân niên là 12 giờ đêm 30, khởi điểm 1 giờ sáng ngày 1 tháng Giêng năm sau”.

Về Lễ Cúng Đại Đàn  niệm danh Thầy trong 7 lần như: 1 Niệm hương, 1 Bài Ngọc Hoàng Kinh, 3 bài Dâng Tam Bửu, 1 Thượng sớ, 1 bài Ngũ nguyện. Mỗi lần lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật, tổng số là: 7 (lần) x 3 (lạy) x 4 (gật) = 84 tổng hai chữ số vẫn là 12, đó là con số “Nhứt bổn tán vạn thù, Vạn thù qui nhứt bổn”, mới là lý số của đạo pháp biến dịch, chớ dâng đủ Tam Bửu mà mỗi Bửu có 4 lạy (kể cả lạy và gật) thì mất hết 24 lạy chỉ còn có 60 lạy, tức nhiên con số chung kết không trở lại chỗ khởi thỉ là số 12.

7 - Luận về triết: ta phải có cái nhìn quán triệt hai chiều. Triết có nghĩa là triệt cùng một vấn đề nếu triệt thượng luận về vũ trụ, còn triệt hạ thì diễn tả ở sự vật. Nhưng cũng đồng nhất cái lý tạo đoan chỗ khởi thỉ.

Khí Hư vô còn trong thời hỗn độn mới biến ra ngôi Thái Cực, nên phần tượng lý Âm trước Dương, có nghĩa là “Đạo sanh nhứt, Nhứt sanh nhị, Nhị sanh tam” là Âm sanh Dương, đó là khối sanh khí của nguơn vô thỉ, chừng khởi thỉ tạo Càn Khôn Thế Giới rồi do cơ định vị của tạo đoan biến ra pháp-giới chúng sanh mới định danh thì Thiên trước Địa.

Bởi “Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch” là nguơn Tinh, nên buổi Tam Kỳ Đức Lý Đại-Tiên kiêm nhiệm Giáo Tông, cầm quyền chuyển thế vừa sửa trị, vừa định vị cho Thánh Thể của Đức Chí Tôn. Trong nguơn bảo tồn dầu ở chơn trời gốc bể cũng có Bàn-Trị-sự là Hội Thánh Em thay hình thể cơ tận độ của Thầy. Đạo tượng Lý Thái cực do cung Càn biến suất dưới một vạch ngang hai vạch chỏi lên thành hình tam giác  mọi vật thể cực lớn từ hữu hình lẫn vô hình chẳng lọt ra ngoài, còn cực nhỏ ví như hạt nguyên tử cũng khó ẩn được bên trong. Với cái không không là Vô cực, giữa Thái cực và vô cực Đức Thái Thượng và Đức Hộ Pháp là đầu mối trung hòa lưỡng cực, nhờ đó mà tạo thành khối điển lực sanh quang cho Càn Khôn Thế Giới, vì thế mà Tôn giáo vẫn quí ba ngôi báu của trời đất là vậy: Người tu Phật niệm Phật- Pháp- Tăng:
- Tâm biết thọ giáo là  qui y Phật,.
- Tánh biết giữ giới trì trai là  qui y Pháp.
- Thân biết hành thiện là  qui y Tăng.

CHƯƠNG III
Năm dạng thức thờ Thiên Nhãn nơi Đền Thánh

Nay, thời kỳ thứ ba, Đức Chí-Tôn mở  Đại-Đạo duy chỉ lấy biểu tượng “THIÊN NHÃN THẦY” để làm Tín ngưỡng. Ngoài Thiên Nhãn đặt trên Quả Càn Khôn còn nhiều dạng Thiên-Nhãn các nơi và chung quanh Đền Thánh cũng là diệu pháp của nền Tân Tôn giáo Cao-Đài.

Chung quanh các cửa sổ Đền-Thánh có tất cả 23 khuôn bông sen có hình “Thiên Nhãn” phần trang-trí này 2 mặt nên có đến (23 x 2) 46 Thiên Nhãn.
-  46 Thiên-Nhãn Thầy hiệp với:
-   1 Thiên-Nhãn nơi Quả Càn Khôn.
-   1 Thiên Nhãn nơi Cung Đạo.
-   1 Thiên Nhãn trên Phi Tưởng Đài trước Đền.
-   1 Thiên-Nhãn ở phía trong của Thông-Thiên-Đài
 Cộng là 50 Thiên Nhãn

Ý- NGHĨA
50 Thiên Nhãn Thầy có trong Đền

Đền Thánh tượng hình LONG MÃ, nhưng lý số và phương vị định theo Bát Quái Đồ Thiên tức là Bát-Quái của ông Thầy Trời (còn gọi là Trung Thiên Bát Quái hay Trung-Thiên-Đồ) tức là do theo số trung bình cộng của tổng số Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái của bốn vị Thánh ngày xưa làm ra là Phục-Hy, Văn Vương, Châu Công, Khổng Tử) ấy là Âm Dương chi số.
* Tiên Thiên Bát Quái có 10 số: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10.
5 Số Dương: 1,3,5,7,9   (là số Cơ hay là số lẻ)
5 Số Âm: 2,4,6,8,10 (là số Ngẫu hay là số chẵn)

Nếu cộng  lại cả thảy sẽ là:
1+3+5+7+9  =  25 (Tổng số Dương)
2+4+6+8+10= 30  (Tổng số Âm)

Lấy tổng cộng bằng: 55  (Số của Tiên Thiên)

* Hậu Thiên Bát Quái dùng 9 con số:1,2,3,4,5,6,7,8,9
Cộng 5 số Dương là: 1+3+5+7+9= 25 (Tổng số Dương)
Cộng 4 số Âm là:      2+4+6+8    = 20  (Tổng số Âm)
Tổng cộng các số là: 45 (Số của Hậu Thiên)

Bấy giờ hiệp các Tổng số của Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái sẽ có thành số là 100       ( 55+45)
Nếu lấy số trung bình của 100 chia cho 2 sẽ là: 50 (100 : 2) (Vậy 50 là số của Trung Thiên đồ tức là số của Bát-Quái Đồ Thiên mà chỉ riêng Đạo Cao-Đài dùng đến. Xưa Trần Cao-Vân được mặc khải Bát quái này).

Phải chăng con số 100 này đã được huyền thoại bằng câu chuyện của thủy tổ loài người là Lạc Long Quân phối hợp với bà Âu Cơ sinh ra trăm trứng nở trăm con. Hai ông bà vì nghĩ rằng Rồng Tiên không thể sống chung được, nên mới chia 50 con theo cha xuống biển, 50 con theo mẹ lên non. Giờ đây Đạo Cao Đài đã chứng kiến cho cuộc chia đôi ấy. Cũng như Đạo Cao Đài đã quan niệm rằng mẹ Diêu Trì đã cho 100 ức nguyên nhân xuống trần. Vậy phải chăng số 100 ức không ngoài cách lý giải trên?

Số 50 này ở đâu để chứng tỏ Bát Quái Cao-Đài?
- Chính là 50 Thiên Nhãn trong toàn thể Đền Thánh

Do lời Thánh giáo của Đức Chí-Tôn từ buổi khai Đạo: thờ Thiên Nhãn là chỉ nghĩa Nhứt điểm linh quang  của tạo hoá. Bởi Thiên Nhãn thuộc về chơn Thần: 

“Thần cư tại Nhãn” 神居在眼
Thế nên: toàn bộ 50 Thiên Nhãn Thầy đặt trong Đền Thánh Toà-Thánh Tây Ninh là tượng lý số Ngũ của khung Hồng phạm Ngũ hành bao quanh Cửu trù mà ngôi Đền Thánh đã thể hiện qua hình con LONG MÃ phục.

50 là lấy theo số của Trời 5, thì số của đất là 10. Nghĩa là cái số tột cùng của trời đất. Trời tượng bằng số 5, đất tượng bằng số 10 là tượng cái khí thái hoà của Âm Dương giao hoà nhau; hoà nhau một Dương 1 và một Âm 0, cho nên mới có sự yên vui tịch lạc.

Vì lẽ đó đến cái mức của một cõi thì có sự nghỉ ngơi nên có sự đại diễn số lấy tượng hoà 5 trời với 10 đất tức là số 50.

Nhắc lại vì sao lại nói:
hoà nhau một Dương  1 và một Âm 0 ?

- Ấy là nói về hai con số Chúa tể tức Càn Khôn phối hợp lại: Càn thành số 1, quẻ Khôn số 0.  Số 0 là Vô cực, số 1 là Thái cực. Ấy  vô cực cũng là Thái cực, do câu “Vô cực nhi Thái cực”

Chung quanh Đền Thánh cho đến tất cả các phần chính yếu bên trong là Quả Càn Khôn nơi Bát Quái Đài đi nữa, các biểu tượng đều có Thiên Nhãn, nhưng trang trí dưới năm dạng thức khác nhau:

1 - Một dạng thức là QUẢ CÀN KHÔN trên ấy vẽ đủ 3072 ngôi sao,Thiên-Nhãn đặt nơi ngôi Bắc Đẩu. Thiên Nhãn là tượng ngôi Thái-cực nên không có tia hào quang nào cả. Quả Càn Khôn này đặt trên Bát-Quái Đài. (Thiên)

2 - Dạng thức thứ nhì là Thiên Nhãn trên Cung Đạo có cả thảy 36 tia hào-quang sáng chói và nhiều hình thức để thông công với các Đấng vô hình từ xưa đến giờ. Đó  là biểu tượng hai quẻ Càn 3 nét, Khôn. 6 nét. (Nhân)

3 - Dạng thức thứ ba là Thiên-Nhãn đặt ở mặt tiền Đền-Thánh, nơi Phi-Tưởng-Đài, Thiên Nhãn này có 35 tia hào-quang, tượng trưng “Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt”, ấy là Tôn chỉ của Đại-Đạo. (Địa)

Ấy là đủ Tam Tài: Thiên- Nhân-Địa

4 - Dạng thức thứ tư là một Thiên Nhãn đặt trên bàn thờ, phía bên trong Thông Thiên Đài, nơi đây Đức Giáo Tông đến  thông công cùng các Đấng Thiêng-liêng, có 16 tia hào quang, tượng  Bát Quái Cao Đài. (Âm)

5- Dạng thức thứ năm là Thiên-Nhãn có 16 tia hào quang đặt trên các khung cửa sổ chung quanh Đền-Thánh, có cả hai mặt: trong và ngoài. Mỗi bên như vậy là 23 Thiên Nhãn. Hai lần là (23x2)= 46. Cộng với 4 Thiên Nhãn vừa kể trên là 50 Thiên Nhãn. Số 50 là tượng  trưng Bát-Quái Đồ Thiên hay Trung Thiên Đồ. (Dương)
Năm Thiên Nhãn này là tượng trưng Đại-Đồng Tôn giáo Cao Đài sẽ truyền bá khắp Ngũ Châu.
Năm dạng Thiên Nhãn cũng chia Tam tài và nhị Khí.

Lễ trấn Thần Thiên Nhãn

1 - THIÊN NHÃN NƠI PHI TƯỞNG ĐÀI TRẤN THẦN TRƯỚC NHẤT

Thiên Nhãn này (35 tia) được làm Lễ trấn Thần vào ngày 6 tháng giêng năm Đinh-Hợi. Đức Hộ-Pháp ra lịnh thiết lễ trấn Thần Đền Thánh. Ngài dạy bên Lễ-viện để nước Cúng giờ Mẹo nơi Báo-Ân-Từ làm phép trấn Thần. (vì Quả Càn Khôn lúc ấy còn để tạm nơi Báo-Ân-Từ).

Đúng giờ Mẹo, ngày 6-Giêng-Đinh Hợi, Đức Hộ Pháp mặc Tiểu-phục, dạy Thừa-sử Huỳnh-Hữu-Lợi và Truyền Trạng Phạm-Ngọc-Trấn theo Đức Ngài qua Báo Ân-Từ, vào Bửu Điện, Đức Hộ-Pháp  làm lễ  xong,  dùng nước Âm Dương cúng giờ Mẹo nơi đây hành pháp, xin Cam-Lồ-Thuỷ và một nhành dương giao cho  Huỳnh-Hữu
Thiên Nhãn này có 35 tia hào quang:

Lợi. Đức Hộ Pháp lấy ba bó hương hành pháp xong thì giao cho Truyền-Trạng TRẤN cầm.
Đức Hộ-Pháp đi thẳng ra Đền-Thánh là 9g 25ph. Ngài đứng trước Đền-Thánh và ngó ngay Thiên-Nhãn Thầy trước Phi-Tưởng-Đài rải Cam-Lồ-Thuỷ và cầm bó hương làm phép trấn Thần. Ngài giải thích ý-nghĩa là:

“Kể từ đây Đức Chí-Tôn hằng để mắt dìu-dắt con cái của Ngài và mong mỏi được vui thấy con cái của Ngài về chầu Ngài, sau khi làm nhiệm vụ Thiêng liêng của Ngài phú thác.”  (Thánh Tượng  nơi đây Trấn Thần trước nhất).

           Hiệp-Thiên-Đài có 36 Cổ-pháp. Đáng lẽ Thiên Nhãn phía trước ngó ra ngoài có 36 tia hào-quang, nhưng Đức Hộ-Pháp dạy đắp 35 tia, tượng trưng ý-nghĩa Tam thập ngũ môn sanh Thiên căn để làm chứng cho 36 chữ lời thề trong lời Minh thệ của người Tín hữu Cao-Đài.

Lời Minh thệ  dành cho người mới nhập môn là:
Họ gì ? Tên gì ? “Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn Đệ gìn luật lệ Cao-Đài, như sau có lòng hai thì Thiên Tru địa Lục” (36 chữ)

Về Thể-pháp: Thánh Tượng Thiên Nhãn Thầy  ở Phi-Tưởng-Đài, tức ở mặt tiền Đền Thánh có cả thảy 35 tia hào quang, tượng trưng Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt (Số 3 chỉ Tam giáo, số 5 là tượng Ngũ chi)

Nay là thời kỳ Đại-Ân-Xá của Đức Chí-Tôn, đóng  cửa Phong-Đô do quyền năng của Hộ-Pháp vì Ngài đã: 
"Ném thử Giáng Ma đóng Cửu Tuyền".
Thánh tượng Thầy ở Phi Tưởng Đài có 35 tia hào quang Hoặc Kinh Đại Tường cũng đã có lời quyết định
"Khai Cơ tận độ Cửu Tuyền diệt vong".

Lời Kinh đó cũng đủ chứng tỏ rằng Cơ Đại Ân Xá của Đức Chí-Tôn quả thật là trọng đại, còn chứng tích nơi đây. Như thế là biết mình đang hưởng tràn đầy hạnh phúc của kiếp làm người trong buổi Hạ nguơn mạt pháp này.                                                                                              

Chúng ta trở lại phía trước để chuẩn bị đi vào Tòa Thánh theo lối cửa chánh để quan sát bên trong Tòa Thánh Lại nữa với ba con số: 3, 10, 5 (Tam, thập, ngũ) là những con số sanh ra trời đất. Số 10 thuộc về Hư vô chi khí. Khí này mới sinh ra Tứ tượng, nhưng duy chỉ có hai thể là Trời 3 và Đất 5 thì chưa đủ. Phải có người là thể thứ ba mới hợp thành tam tài.

Tôn chỉ Đạo Cao Đài là Tam giáo qui nguyên Ngũ chi phục nhứt:

Về mặt Bí-pháp:
Đức Hộ-Pháp nói:  “Từ ngày Đại-Từ-Phụ và Đại Từ-Mẫu đến khai mở chơn-truyền giao phó ngọn cờ cứu khổ hầu dạy-dỗ con cái  của hai Đấng vào con đường chí chơn, chí chánh. Cái khó khăn cho sứ mạng thiêng-liêng là Đại-Từ-Phụ và Đại-Từ Mẫu buộc ta phải:

Lấy căn-bản của nền văn-minh tối cổ của Tổ-phụ ta lưu lại trong triết-lý: Tam-giáo qui nguyên ngũ chi phục nhứt. Nếu ta cạn xét ta ngó thấy với một Đạo-giáo mà bảo-thủ chơn-truyền rất khó-khăn quá sức của ta tưởng nghĩ. Huống chi cả triết-lý của các nền Đạo-giáo đương nhiên hiện hữu tại mặt thế này thì nó đã đành quá sức với trí khôn-ngoan tưởng-tượng; song ta phải xét đoán, nếu không như thế thì có phương chi khác mà tạo dựng ĐẠI ĐỒNG THIÊN-HẠ và THỐNG NHẤT các tín-ngưỡng chơn-lý lại làm một cho đặng, ấy là mục-phiêu trọng-yếu của hai Đấng Phụ Mẫu tạo-đoan muốn cho đoạt  đến. Còn nếu ta xu-hướng theo một triết-lý Đạo-giáo nào làm căn bản thì nó sẽ trái hẳn với nghĩa-lý tận-độ của Đạo. Cái khó-khăn của ta thi-hành sứ-mạng là do lẽ ấy:
- Sứ-mạng cao-trọng là phải DUNG HOÀ các tư tưởng Đạo-giáo.

- THỐNG NHẤT các triết-lý tinh-thần làm một là một điều chưa hề có trí khôn-ngoan nào làm đặng. Nó là một ảo-vọng mà từ trước tới giờ chưa có một nhà triết-học nào nghĩ đến. Chính nơi yếu-điểm này Bần-Đạo vẫn ngồi xem quyền Chí-Tôn vô-đối của Đại-Từ-phụ thiệt hiện nơi mặt thế này; vì thầm hiểu rằng chỉ có tay quyền-năng vô đối của Đức Chí-Tôn mới làm đặng mà thôi. Tương-lai của Đạo Cao-Đài sẽ vạch rõ cho toàn thể nhơn-sanh thấy đặng điều ấy”   

Đức Thượng-Phẩm dạy tiếp về cái Tôn chỉ cao siêu  mà từ xưa đến giờ chưa một Tôn giáo nào thực hiện được:
 “Nay hạ-nguơn hầu mãn nên Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng-đế dùng Huyền-diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ với tôn-chỉ: Qui Nguyên Tam-Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi. Lấy Nho Tông chuyển thế, lấy sự thương yêu làm phương-pháp thực-hành chánh-đạo. Đức Chí-Tôn quyết cứu vớt những kẻ hữu-căn thoát vòng khổ hải, tránh đọa luân-hồi hầu vui hưởng một hạnh-phúc vĩnh-cữu.”
Ý nghĩa số Tam và số Ngũ
Về Thiên Nhãn có 35 tia ở Phi Tưởng Đài

 Từ xưa đến giờ ai cũng biết:
* Trời có Tam bửu -  Ngũ khí:
- Tam bửu  là Nhựt, Nguyệt, Tinh.
- Ngũ khí là Thán-khí, Đạm-khí, khinh-khí, Dưỡng khí, Hạo-nhiên-khí.

* Đất có Tam bửu - Ngũ Hành:
 - Tam bửu    Thủy, Hỏa, Phong.
-  Ngũ-hành là  Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ      

 * Người có Tam bửu  - Ngũ tạng:
- Tam bửu là  Tinh, khí, Thần.
- Ngũ tạng là  Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.
Đó là thể hiện:  Thiên - Địa  - Nhân  tức là Tam-tài.

Bởi lẽ ấy:
- Phật-giáo Đức Thích-Ca dạy: Tam qui - Ngũ giới, Minh tâm kiến tánh, thật hành Bác-ái, Từ-bi.
- Tiên-giáo Đức Thái-Thượng dạy: Tam bửu- Ngũ hành, tu tâm luyện tánh, thủ cảm-ứng công-bình.
- Nho-giáo Đức Thánh dạy: Tam cang - Ngũ thường, tồn tâm dưỡng tánh, giữ hai chữ Trung, Hiếu mà làm tiêu chuẩn cho cuộc hành-vi.

Tóm lại:
- Phật có Tam qui Ngũ giới, Bát Chánh-đạo làm khuôn thước cho người tu.
- Tiên có Tam bửu Ngũ hành và Bát môn.
- Thánh có Tam cang  Ngũ thường và Bát điều-mục.

* Nay Cao-Đài thể hiện Tôn chỉ Qui Tam-Giáo Hiệp Ngũ   Chi để độ Bát-phẩm chơn hồn.
* Thực-hành Tam bửu Ngũ nguyện và Bát-Đạo nghị định.
* Giữ Tam qui Ngũ giới và Bát chánh đạo.

Thử hỏi ngày nay nhân-loại đã văn-minh đến cực thịnh như vầy mà Đạo Cao-Đài vẫn còn giữ khuôn sáo cũ “Tam cang ngũ thường” liệu có lỗi thời không ?

Thật sự thì nhân-loại vì văn-minh hóa-học đã cực thịnh mà nền phong-hóa lại suy-đồi đến cực kỳ, nên Đạo Cao-Đài phải lấy lại kỷ-cương làm giềng mối cho cái nhân-luân chi đạo, thế nên tất cả  phải  biến  đổi  cho  phù hợp.Đó là chương trình tiến hoá về văn minh tinh thần vậy

Tôn chỉ Cao-Đài: Qui Tam giáo hiệp Ngũ Chi
Nay, Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đến khai Đạo cứu đời dùng Nho-Tông chuyển thế:
- Lập Tam bửu Ngũ nguyện, là tinh-thần Hiến-dâng và Phụng-sự, tức là thể hiện hai chữ Nhân-Nghĩa
- Dựng lại Tam cang Ngũ thường là phục lại tinh thần đạo-đức, dựng lại mỹ tục thuần-phong, phát-huy tinh thần văn-hóa 4.000 năm huy-hoàng, rực-rỡ; do đó mà Thầy đã sắp sẵn: Nghĩa, Lý, Tượng, Pháp, Nho, Y, Lý, Số đều nhất-quán, từ ngoại dung đến  nội-dung. Từ Thể-pháp đã hiện hình cả Bí-pháp.

Tất cả cũng không ngoài con số TAM và số NGŨ.
Bởi hai con số này nó có một tính cách rất quan trọng. Lý-do dễ nhận thấy là tổng hợp hai số lại là 8 (3+5=8). Đó là hình ảnh của Bát-Quái. Mà Đạo Cao-Đài nồng cốt là dựng lại tinh-thần Bát-Quái.

Con số 35 có nghĩa là nêu lên Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài là “Qui Nguyên TAM Giáo Phục Nhứt NGŨ Chi”
Thầy dạy:  “Thầy muốn Qui Nguyên Phục Nhứt là độ rỗi cả Môn đệ Thầy và cả chúng sanh về nơi miền Cực Lạc, song le chúng sanh phần đông ham  danh  quí lợi, mê tửu đắm tình nơi chốn trầm luân, chơi vơi giữa  dòng  biển  khổ. Than biết bấy nhiêu lần mà chúng nó có thấu đáo đâu ? Chúng nó trở lại cắn rứt các con, hăm he giành  xé các con. Thầy cũng buồn cho đó.”
 [Năm Bính Dần (1926)]

PHÂN TÍCH VỀ SỐ 3 VÀ 5

Theo nguyên lý của Ngũ hành biến hoá, thì nói:
- Trời số 3 biến sanh Mộc, mà 8 hoá thành nó,
- Trời số 5 biến sanh Thổ, mà 10 hoá thành nó.

Như vậy số 3 và số 5 là hai số Dương thuộc Thiên thể mà sự biến hoá của nó thành Mộc và Thổ. Mộc lấy để biểu dương nguyên hình về thiên thể mà nói, thì Thổ Mộc tượng của Ether và sinh linh khí, bắt đầu là cái gốc của một cái cây lớn ở trên trời mà ngành gốc của nó mọc trước hết tất cả, cái sinh linh khí đó nhuần thắm vào tất cả muôn loài mà từ cõi vô hình thành hữu hình là nhờ cái THỔ số 5 tức là sự biến số 5 là Thổ (đất).

Xét cho kỹ bất cứ loài nào, vật nào, từ vàng bạc cho đến thịt xương, gỗ đá, đều cũng biến thành đất tất cả, cho nên số thứ 5 là số tượng hình của cái sinh khí là thiên thể trong cõi vô vi ở trên cõi hữu vi phải thành hình.

Thế nên số 3 trên cõi vô vi biến  thì cũng có sự biến ứng đối của số 5 trên cõi hữu vi này, sự biến hoá thì vô cùng nên mới nói là rối ren; mà thấy được sư biến hoá của  muôn loài tức là cách vật thì mới trí tri, nghĩa là mới đến được chỗ biết, như thế mới toại lòng thấy sự thành tựu các văn vẻ của trời đất.

Khi số đã biến hoá đến cùng cực thì trên trời có văn vẻ, dưới đất có cái lý của đất mà đến con số cùng tột thì toại lòng, định được cái tượng hình của thiên hạ.

Hoá cho nên DỊCH-LÝ đã được uyên thâm ắt sự biết có thể bao gồm cả Thiên văn, địa-lý và những tượng hình đã xảy ra hay sắp xảy ra trong thiên hạ.

Đây Thánh nhân muốn dạy ta hiểu biết cái công dụng của sự hợp số 3 và 5. Một khi am hiểu sự biến hoá của nó thì cái văn vẻ biến đổi của trời đất, cái tượng hình của vũ trụ nắm trong tay ta cả thảy vậy. Điều ấy mới rõ cái diệu dụng của Đạo DỊCH mà phải đến thời-kỳ này Đạo TRỜI mới soi rõ sự cao siêu, mầu nhiệm của Dịch.

Hai con số này có giá trị nhiệm mầu lắm vậy!
Nhất định những luật định về Đạo nhơn luân thì không thể bãi bỏ vì tinh thần đạo đức. Bỏ đi là loạn.
-  Trai Tam Cang Ngũ thường.
-  Gái Tam Tùng Tứ đức.

Vì sao?
Bởi đó là giềng mối của Đạo làm người, nó xuất phát từ trong Bát Quái (tức là từ ý nghĩa của 8 quẻ) mà ra.
Nhắc lại những sự lập luận này có in trong Dịch lý Cao Đài I rồi:  Bát Quái có tám Quẻ:

Hai quẻ Càn Khôn chủ về cha mẹ. Sáu quẻ còn lại là tượng cho sáu con (Trai theo Cha. Gái theo Mẹ)
- Chấn là trai trưởng. Khảm là trai giữa. Cấn là trai út.
- Tốn là gái trưởng.  Ly là gái giữa. Đoài là gái út

Ba trai (Dương):  Chấn Khảm  Cấn 
Ba gái (Âm):  Tốn  Ly  Đoài
Nhìn kỹ mỗi quẻ có ba Hào. Hào là một vạch, có vạch liền là Dương. Vạch đứt là Âm. Trong một quẻ nếu quẻ nào có ít Dương hoặc ít Âm thì quẻ ấy là Chủ. Ví như: Ba quẻ Chấn, Khảm, Cấn,  các quẻ này chỉ có một Dương (mà có đến hai Âm) nên Dương làm Chủ, vậy nên tượng là

Nam. Tính ra thì các quẻ nay có 3 hào nhưng đến 5 vạch.
Ba quẻ Tốn, Ly, Đoài cũng tính tương tự như vậy. Nhưng mỗi quẻ  có 3 hào mà mỗi quẻ  4 vạch.

Từ đó mà Thánh nhân đặt ra Luật về nhơn Đạo:  “Trai giữ Tam cang Ngũ thường.Gái gìn Tam tùng tứ đức”

Như vậy thì với dân Việt Nam nói riêng hay là những dân tộc nào trên thế giới muốn đồ theo kiểu mẫu của văn hoá Việt Nam đi nữa, nhứt định không bao giờ  bỏ đi cái truyền thống tốt đẹp này dược. Tuy nhiên sự áp dụng phải uyển-chuyển tuỳ lúc, tuỳ thời mới mong khỏi lạc hậu. Vì trước đây luật gia đình của người Việt chúng ta quá khắc khe và thiếu Công bình, kéo theo sư kém Bác ái nữa. Nay Đức Chí-Tôn đến ban cho nhân loại một Hoà ước mới đó là “BÁC ÁI-CÔNG BÌNH” thì chắc chắn rằng người Nữ phái phải tự vươn lên trong tinh thần Cao Đài.

Thánh ngôn Thầy có dạy rõ:
 “Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ lầm tưởng là phân biệt. Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền thế hơn Nam nhiều.”

“Phần các con truyền đạo kỳ Phổ Ðộ nầy cũng lắm nặng nề; bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ; Nam biết thành Tiên Phật chớ Nữ lại không sao? Thầy đã nói Bạch Ngọc Kinh    cả  Nam và Nữ,    phần  nhiều Nữ  lấn quyền thế hơn Nam nhiều”.

Ngày 8 tháng sáu Bính Dần (Samedi 17 Juillet 1926)

Thầy dạy: “Cho Nữ phái vô Thầy dạy. Chư Ái nữ, Thầy vì Tam Kỳ Phổ Ðộ chẳng phân cao thấp, sang hèn. Thầy chỉ khuyên một điều là đạo hạnh các con phải giữ hằng ngày cho nhằm phương pháp Nhơn Ðạo, tức là Tứ Ðức đó vậy. Các con hiểu à !

Nền nhơn luân của con nhà Nam Việt chẳng lầm, mà tại các con hay nhiễm thường tình mà hư hoại, nên chi Thầy phải nhắc lại cho các con đừng lầm nữa, nghe các con! Nam phái vào. Các con nghe cho rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con có biết vì tại sao chăng?

Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết vì tại sao chăng?... Tại vô đạo...!
Thầy ban ơn cho các con. (TNI/19-12-Bính Dần)

Tân Luật:  Điều thứ ba trong phần Thế luật ghi rõ:
 “Phải giữ Tam Cang Ngũ Thường là nguồn cội của

Nhơn Ðạo:
- Nam thì hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sĩ.

- Nữ thì tùng phụ, tùng phu, tùng tử và công, dung, ngôn, hạnh. (Ấy là Tam Tùng Tứ đức đó vậy).

Lại nữa Nữ phái Việt Nam đã áp dụng khuôn thước

này trong cách ăn mặc. Nhứt là “Chiếc áo bà ba” (số 3) nhưng có 4 nút (số 4) Ấy thể hiện Tam tùng Tứ đức đó.

Cả đến áo dài cũng vậy. Thêm chiếc khăn đội đầu các Bà ngày xưa dùng khăn vuông (tượng Tứ đức) xếp hai góc chéo thành ra hình tam giác (Tượng Tam tùng).

2 - QUẢ CÀN KHÔN thờ nơi Bát Quái Đài:
Chính nơi Quả Càn Khôn, Thiên Nhãn không có tia hào quang nào cả, vì đây là ngôi “Thái Cực Thánh Hoàng” nhưng trên ấy có đủ 3072 ngôi sao. Cộng các số này lại với nhau sẽ là 12= (3+0+7+2).Số 12 là Số riêng của Thầy.
Tôn-giáo Cao-Đài nay  đứng về hai phương-diện:
* Đạo có Thể-pháp và Bí-pháp của Đạo (Thiên Đạo)
* Đời có Thể-pháp và Bí-pháp của Đời  (Thế-Đạo).

Quan-trọng nhứt là Bí-pháp, vì vậy nên khi Thầy giao cho ông Bính làm một Quả Càn Khôn để làm biểu tượng tín ngưỡng của Đạo Cao-Đài, Thầy có dạy rõ:
 “Bính, Thầy giao cho con lo một Trái Càn Khôn; con hiểu nghĩa gì không? Cười! …”

Chỉ có Đạo Cao Đài nơi Tòa Thánh Tây Ninh tượng hình một QUẢ CÀN KHÔN đặt giữa Bát Quái Đài. Trên Quả Càn Khôn “sơn màu xanh da trời, Cung Bắc Đẩu và Tinh tú vẽ lên Càn Khôn ấy. Trên vì sao Bắc-Đẩu vẽ Con Mắt Thầy” mà là con mắt trái, là Dương, để cho nhơn sanh sùng bái với ý nghĩa thờ Trời và cũng là thờ Người: “Thiên Nhơn tương hợp”. Đây là nguyên lý độc nhứt vô nhị, các Tôn giáo từ xưa đến giờ chưa từng có.

Trong Đạo Cao Đài thờ QUẢ CÀN KHÔN tượng trưng lý Thái-Cực, mà DỊCH cũng khởi thủy từ Càn Khôn. Thế nên cả hai cùng một gốc. Đứng về Thể pháp, về nghi thức thờ phượng của Đạo Cao Đài đều khởi nguồn từ KINH DỊCH. Về mặt khác, thờ Thiên Nhãn là thờ Đấng duy nhứt, là số 1. Dịch viết “Nhất vạn hóa chi căn” (số 1 là số căn bản của vạn vật từ đó biến hóa ra).

SỐ 1 Là số đầu tiên sau số 0, tức là cái nguồn sanh hoạt trước nhất để biến vi hữu tướng.

Tánh-chất đặc-biệt của con số 1:  Số 1 chỉ về Thái cực tức Dương, người hay vật mang số này thì có tánh chuyên nhất và ưa cầm quyền vi chủ. Tánh tình cứng-cỏi, ít chịu thua kém ai, hễ muốn làm là làm cho được nhưng hay nóng-nảy, ít chịu đầu phục nên đôi khi hơi quá mức. Số 1 chỉ cơ động nên dễ thành-công và cũng hay thất-bại, khó điều-hòa. Hay thái-quá nhưng thường là người có danh-giá được đời tôn-kính. Phép toán đến số 1 là chỉ gặp điều lành nhưng không may-mắn lắm, mà chỉ một tánh chất gì có giá-trị dài lâu. Số 1 là số động, nó vốn là lý Thái-cực suy ra nên nó huyền-diệu, nhiệm-mầu, hiện biến. Nên Đạo-gia nói “Thiên đắc nhứt linh, địa đắc nhứt ninh, nhơn đắc nhứt thành”. Ngôi số 1 thuộc về ngôi Phật, chủ quyền cai-trị và giáo-hóa vạn-linh. Số 1 thuộc bản thể Hư linh sản xuất nên có quyền thống-trị cả càn-khôn. Bất cứ ở đâu cũng vậy có một vi-chủ là quyền ấy toàn vẹn, còn nhiều chủ thì sanh phân tán, nên số 1 chỉ một uy-quyền tuyệt đối. Người mang số 1 là người có đầy-đủ đặc tính can-đảm, ý chí siêu-việt, ảnh hưởng của ngôi Thái-cực hóa-sanh”.

Thế nên Đạo Cao Đài là “Nhất nguyên luận” (dưới

Thiên bàn nơi Bát Quái Đài ghi  chữ “NHẤT NGUYÊN”

Thầy Mạnh Tử dạy “Đạo chỉ có MỘT mà thôi”. Sách Chân kinh cũng nói rằng “Nếu không có Thánh nhân lấy ai làm giềng mối trong thiên hạ, nếu không có Tiên Phật lấy ai trông giữ cơ trời, nếu không có Thiên Chúa lấy ai quản được các việc quần sanh…”

3 - Các Thiên Nhãn chung quanh Đền:

Đức Hộ-Pháp đã trấn Thần và có giải thích về các Thiên Nhãn chung quanh Đền Thánh như vầy:
 ( Thiên nhãn Thầy trên các khung cửa sổ Đền )
“Thiên-Nhãn ngó ra ngoài Đền thì để cho Thiện Nam Tín nữ quì ở ngoài sân lạy vào, còn Thiên Nhãn ngó vào Đền vì người Đạo quì ngang sợ ô-uế, không thể coi sóc cho tinh khiết được. Và từ đây dù ở chân trời góc bể nào mà nhân sanh biết hướng về Toà Thánh Cầu nguyện cũng sẽ được hồng ân của Đức Chí Tôn chiếu giám”.

Thật vậy: “Cơ giải-thóat chúng sanh lần này là cuối cùng, Đức Chí-Tôn phải ra công dạy-dỗ cho toàn thể tín đồ biết hồi tâm hướng thiện, quay về đường chánh-giáo lo tu tâm dưỡng tánh, lập công bồi đức hầu ngày chung qui được hội-hiệp với Người nơi cõi thiêng-liêng hằng sống.

Mở rộng trường công-quả, Đức Chí-Tôn quyết lòng chỉ bảo cho các Môn-đệ có thể lập vị cho mình và độ rỗi nhơn-sanh còn sa ngã trong vòng tục lụy”.  

1/ - Giới thiệu hình ảnh:
Phương ngôn Tây có câu “Con mắt là cửa sổ của linh hồn”. Quả thật: phía trong hành lang là vách Đền Thánh, giữa mỗi căn có một khuôn cửa sổ lớn trang trí bông sen, giữa mỗi khung đều có Thánh Tượng. Tất cả là 23 khung cửa sổ, trang  trí  hai  mặt trong ngoài thành ra có đến 46 Thiên Nhãn.

Hai mặt trên và dưới khung là hai bụi Sen đối nhau, có đủ hoa, lá, bông, trái và ngó sen, sắp xếp thật mỹ thuật với các con số này nói lên đầy đủ ý nghĩa của đạo pháp.
- Chính giữa khung là Thiên Nhãn Thầy tức là “Con Mắt Trời” đặt trong một Tam giác đều. (1)
- Trong khung cửa sổ có hai bụi sen đối xứng nhau (2)
- Mỗi bụi sen có hai trái, hiệp lại thành 4 trái sen (4)
- Mỗi bụi bốn lá sen: tổng cộng trên dưới có 8 lá  (8)
- Ngoài là khung chữ nhựt đứng, nhưng xén bốn góc thành hình bát giác. (8)
- Từ mỗi bụi sen có ba bông sen nở hồng tươi: trên 3 dưới 3 thành 6 bông. Hai bên sườn của khung mỗi bên có hai bông búp  hiệp  lại là  4 búp  sen tươi. Vậy cả  thảy    10 bông sen. (10)
- Toàn bộ có 12 ngó sen trắng quay về nhau.
- Từ Thiên Nhãn này toả ra 16 tia hào quang sáng chói: trên là 9 tia, dưới là 7 tia. (2 Bát Quái)

2 - Ý nghĩa của Sen và các con số:

* Sen có nhiều ý-nghĩa: Sen là hình ảnh của Phật đạo, chứng tỏ Cao-Đài còn gọi là Phật giáo chấn hưng.

Sen là biểu hiệu sự thanh cao, tinh khiết. Sống trong bùn mà không nhiễm mùi bùn, cũng như người tu hành chân chính thì dù có sống trong trần thế mà không nhiễm bụi của thế trần tức là “cư trần bất nhiễm”.

Toà sen chỉ nơi Niết Bàn mới có, ấy là cõi Phật. Các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, trước kia cũng mang xác phàm ở nơi cõi trần như chúng ta, mà không nhiễm trần, lại tìm chân lý mà độ rỗi chúng sanh. Nhờ tu đắc vào Thiên vị và ngự nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng sống..

* Thiên Nhãn là ngôi Thái Cực tức là Trời:
Nhãn là chủ của Tâm, khi Tâm ta động thì Trời đã biết. Tâm ta tưởng Trời tức có Trời trước mặt dầu ở phương nào cũng vậy. Ấy “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật” Đức Chúa cũng chỉ Tâm làm nguồn cội của con người.

Từ trong Thiên Nhãn toả ra 16 tia hào quang sáng chói (16 tia là 16 đường bán kính của vòng tròn). Thật sự chỉ còn là 8 đường kính, tức là 8 con đường đoạt Đạo, dành cho 8 phẩm cấp chơn hồn. Ngày nay là cơ Đại Ân xá của Đức Chí-Tôn, nếu tu thì thành, dữ thì đoạ.

Tính từ đường thẳng ngang đếm lên là 9 tia, tượng trưng 9 từng Trời, gọi là Cửu Thiên Khai hoá. Người tu nếu gặp duyên thì kết, không gặp thì tan.

Phía dưới có 7 tia tượng trưng Thất tình, mà bất cứ con người nào trên trái đất này cũng có. Nếu không biết tu tâm dưỡng tánh để cho Thất tình dấy loạn  thì người  sẽ  bị say  đắm hồng trần, phải chịu trong vòng luân hồi sanh tử.

Nay Đức Chí-Tôn mở Đạo là dạy người tu để biến Thất tình thành Thất bửu, hầu được siêu phàm nhập Thánh  tránh khỏi  đoạ luân hồi chuyển kiếp là vậy.

Về Thất Tình ngụ một ý nghĩa là từ trước các Tôn giáo nào cũng diệt thất tình, nhưng Đạo Cao-Đài là chủ trương chế ngự Thất Tình. Bởi vây con người phải nương theo Cửu Thiên Khai Hoá mà tu hành về hiệp với trời.

Tóm lại: Thánh ngôn Thầy dạy sau đây là giải trọn vẹn những yếu lý về khung cửa trang trí Sen này:
 “Thầy đã nói với các con rằng:Khi chưa có chi trong Càn Khôn thế giới thì Khí Hư vô sanh ra có một Thầy và  Ngôi của Thầy là Thái cực  (Mắt trời)
- Thầy phân Thái cực ra Lưỡng nghi  (hai bụi sen)
- Lưỡng nghi phân ra Tứ Tượng  (4 trái sen)
- Tứ tượng biến ra  Bát Quái  (8 lá sen)
- Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn Khôn Thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh” 

“Thái cực sanh Lưỡng nghi” là hai bụi sen:         
Vào thời kỳ chưa phân trời đất vẫn còn mờ mờ, khi Thái cực nổ mới có ánh sáng. Khí thanh bay lên làm Trời, khí trược chìm xuống làm đất. Ấy là“Thái cực sanh Lưỡng Nghi” biểu tượng bằng hai bụi sen.

Thầy dạy:

“Vạn-vật trong Càn-khôn vũ-trụ duy có một cái lý duy nhất gọi là Hư-Vô, Hư-vô mới chuyển biến  phát sinh một phẩm tối linh nguyên-thủy là Thái-cực tức là Thầy. Thầy lại phân tánh ra hai lý đối nghịch lẫn nhau tương khắc, tương hòa, tương sanh, tương diệt…Lý ấy là Âm với Dương theo danh-từ Nho-gia thường gọi. Nếu gọi theo nguyên-thủy của nó thì là  lý Đơn nhất Thái-cực.

Thái-cực là chủ tể tất cả vạn hữu thường tồn bất diệt. Thái-cực mới chiết tánh ra Pháp, tức Phật-Mẫu mà tạo cơ hữu tướng. Nhưng lý Thái-cực rất vô biên Huyền diệu nhiệm-mầu. Khi chưa tạo Càn-Khôn thì chẳng có chi tất cả. Thái-cực mới xoay lộn vòng tròn trong khí Hư-vô.  Rồi vì cái xoay lộn ấy mà do một Huyền-vi mầu-nhiệm tối đại tối linh. Thái-cực mới cọ xát với khí thể bên ngoài, mới biến sanh nhứt thể là Pháp như Thầy đã nói. Cái lý này thật mầu-nhiệm vi diệu lắm, khó mong diễn tả.”

 “Lưỡng Nghi sanh tứ tượng” ấy là 4 trái sen, mỗi bụi sen có hai trái hiệp lại mà thành. Cũng như khi có trời đất mới phân định 4 hướng : Đông, Tây, Nam, Bắc.

“Tứ Tượng biến thành Bát Quái.” tổng cộng trên dưới có 8 lá sen: mỗi bụi sen có bốn lá. Ấy là khi trời đất đã định bốn phương rồi mới sinh ra Tám hướng là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Số 10 là do 6 bông sen nở và 4 bông sen búp hiệp cả thảy có 10 bông sen, tượng cho Thập Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Số mười cũng gọi là Thập Phương Chư Phật, vì nơi Niết Bàn mới có toà sen, ấy là cõi Phật. Các Đấng Thần,Tiên, trước kia họ cũng mang xác phàm ở nơi cõi trần mà không nhiễm trần, lại tìm chân lý mà độ rỗi chúng sanh. Họ đắc vào bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ví như sen là vật dưới bùn mà không nhiễm bùn, lại có thanh danh là Liên hoa hay là toà sen nên cho là Cõi Phật.

Số 12 ngó sen trắng tượng trưng thập Nhị Địa Chi: tức là 12 con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Thầy dạy: “Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa của Càn Khôn Thế giới: nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.

 Ý nghĩa Số 12:
 Số 12 là số đặc-biệt tức là 9+3, 9 là cơ-quan vận chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy ba ngôi hiệp vào cơ vận-chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là Chủ-tể Càn-Khôn vũ-trụ. Nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.

Nếu cọng lại là 1+2=3 tức là ba ngôi đầu tiên. Nếu tính theo hàng là 1 và 2 tức là lý Thái-cực đứng trước luật

Âm Dương thì thấy rõ quyền-năng Chưởng-quản trong đó.
Vì thế nên Thầy nói chi chi cũng có luật-định, không một vật chi ngoài quyền sở-định của Tạo-hóa hết. Nhưng luật công-bình có hai phần: một Âm, một Dương biến động; dù ngay trong luật-định cũng có, ở đâu cũng có cái lý mâu thuẫn trong đó, hễ có mâu-thuẫn tương-quan là có biến sanh. Hết vòng biến đổi mới trở về  trạng-thái đầu tiên là 1, rồi từ 1 trở lại trạng-thái Hư-vô cho nên người  tu đắc nhứt qui cơ là thành Đạo nghĩa là hiệp cùng lý Thái cực để trở lại trạng-thái tĩnh-lặng nhiệm-mầu. Trong là lý Hư-vô phát sanh một Thái-cực. Thái-cực biến-hóa 3  ngôi, mỗi 3 ngôi lại biến-hóa nữa thành ra Cửu chuyển.

Tam giác tượng cho lý Tam tài: đây là khung hình Tam giác đều, tượng cho ba ngôi Thiên - Địa - Nhơn. “Ba mà một, một cũng là ba” Ấy là tam Âm tam Dương, là hình ảnh của quẻ Càn 3 hào và Khôn 3 hào. Chỉ có người đạo-đức mới đứng trong hàng Tam tài mà thôi. Bởi người có ba hạng: Nguyên nhân, Hoá nhân, Quỉ nhân. Nay là cơ Đại Ân Xá của Đức Chí-Tôn, nên Thầy cho về cùng một lượt. Kinh Phật Mẫu có câu:
 “Trùng huờn phục vị Thiên Môn.
 “Nguơn linh, Hoá chủng, Quỉ hồn nhứt thăng”

Đó là biểu tượng trong khung hình: trên có 3 bông sen dưới có 3 bông sen nở tươi nói lên lý Tam Tài vậy. Khác với buổi đầu là các hạng người này về “tùân tự”: Nguyên nhân rồi đến Hóa nhân, sau cùng là quỉ nhân,.Kinh rằng:
“Tùân huờn phục vị Thiên Môn,
“Nguơn linh, Hoá chủng, Quỉ hồn nhứt thăng”

Vì lẽ đó người Đạo  sẽ không thắc mắc tại sao trong cửa Đại Đạo ngày nay có nhiều biến thái, kẻ phá, người xây, kẻ tu chân chính, người toan sửa đổi…

Thầy có dặn dò:
“Thầy đã nói: Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con; nó hằng thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Thầy lại khuyên các con gìn giữ bộ thiết giáp ấy cho đến ngày hội hiệp cùng Thầy. Ấy vậy Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho thân các con, nếu các con bỏ giáp thì thân các con ra trần lổ; còn bỏ Đạo thì các con ở dưới phép Tà Thần”…(TNI/35)                                                                                                                                                                                                
Thử hỏi “hổ lang” là ai.? Xưa nay thường có ý nghĩ rằng “bọn hổ lang là những kẻ lòng lang dạ sói” chuyên làm khổ cho mọi người. Trên không kỉnh Trời, dưới không kỉnh đất, vì :

“Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian gọi là Tà quái dị đoan, mà nếu xảy ra có một ít dị đoan trong Đạo đã dùng lỡ ấy là tại nơi tâm của vài Môn đệ đó, nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành Đạo và bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây, sẽ trở nên một mối Tả Đạo, mà các con đã từng thấy”(TĐII /42)

Quẻ Càn 3 nét sẽ tạo nên hình Tam giác đều là chì Tam Giáo: Phật- Tiên- Thánh. Dù Tôn giáo nào cũng do nơi Trời mà có, Tôn giáo nào cũng có qui củ chuẩn thằng  ấy là  luật (tức là sự mực thước).

Thầy giáng Cơ dạy: (Thánh-ngôn II  trang 62)

….“Các con đủ hiểu rằng:
Chi chi hữu-sanh cũng do bởi Chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

Cái sống của cả chúng sanh Thầy phân phát khắp Càn-khôn thế-giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn, hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.”

Như vậy chỉ có 23 Thiên Nhãn Thầy được trấn Thần thôi, còn 23 Thiên Nhãn bên trong không được Trấn Thần, Thầy cũng bày tỏ lý do. Tại sao phải là con số 23 mà không là số khác?

Đây cũng là số Dịch chỉ Càn Khôn Thiên Địa. Bất cứ nơi nào cũng có một quyền hành tối thượng của Đức Chí-Tôn đặt để vào đó.

“Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà phép Công bình Thiêng liêng chẳng phải nên vậy; Ấy là cơ mầu nhiệm cho các con có thế lập công quả” (TNI/47)

 Quẻ Càn 3 nét (là 3 hào Dương)

Quẻ Khôn 3 nét (là 3 hào Âm, tức nhiên quẻ Khôn cũng ba hào nhưng đến 6 vạch. Vậy quẻ Khôn nhiều gấp 2 lần quẻ Càn). Thế nên nói theo một hình thức khác là Càn 3 Khôn 2. Ngụ một ý nghĩa là “Tham Thiên Lưỡng địa”. Danh từ này trong Thuyết quái truyện Kinh Dịch giải rằng: “Có thể lìa nhau được là Tam, không thể lìa nhau được là Tham. Có thể lìa nhau được là Nhị, không thể lìa nhau được là Lưỡng”. Ý nói đến căn cơ sự biến hoá sinh thành của vũ trụ.

THIÊN NHÃN TRÊN KHUNG CỬA
CÓ 16 TIA HÀO QUANG

Tại sao phải diễn là 8 đường kính của vòng tròn?

Với Đại Đạo ngày nay thì:- “Phép học âý tức là đi thẳng ngang đường kính của hình tròn chớ không phải đi quanh-quẩn theo vòng chu-vi. Nhưng nếu chỉ đi tắt thì chỉ biết phớt qua chớ không thật thấu hiểu. Vì vậy mà dù cho những Chơn-linh cao trọng cũng phải giáng thế ở các cõi địa-cầu để học hỏi từng phần vi-diệu mới mong đoạt lý cao thâm. Bài học của họ nhanh chóng hơn những Chơn linh thường nên cũng mắc-mỏ hơn nhiều”.


Bài học này cũng lý giải cho Thiên Nhãn đặt bên trong Thông Thiên Đài (số 5), làm nơi Giáo Tông đến đây cầu hỏi thiêng liêng, thông công cùng các Đấng vô hình để hỏi về đạo pháp. (nếu Thiên Nhãn ở khung cửa sổ của Đền là Dương, thì Thiên Nhãn nơi đây là Âm), họp thành cặp âm- dương nhị khí, đối với 3 Thiên Nhãn trên kia là Tamtài thêm vào Nhị khí là NGŨ HÀNH.
(Bàn thờ Thánh Tượng Thầy bên trong Thông Thiên Đài)
Tại sao trong Toán học từ xưa đến giờ lấy Tâm vòng tròn là 0 ?

Số O  là số  vô-vi nó có tánh-chất trung tính, nhiệm yếu, hiền-hòa, sáng-suốt. Vật mang số 0 là vật trung dung, nhậm lẹ, không khuynh-đảo nhưng chưa tiến-hóa. Người mang số 0 là người lưỡng tính, phần tấn-hóa chưa nhiều..

Số 0 chỉ năng-lực tiềm-ẩn nhưng chưa phát-triển  đúng mức. Nhưng khi nào một vật chi được thử về 0 ấy về lẽ Đạo, nhưng qui cơ tịnh lặng hoàn-toàn được gặp nhiều chân phúc quí báu. “Không không ấy thiệt lý trường sinh”

Phép bói-toán tính đến số 0 là rốt-ráo vẹn toàn, viên-mãn. Số 0 biến dịch vòng quanh thành nhiều bản thể.

Số 0 sẽ là cơ khởi đầu cũng như là cơ chót hết, nó tiếp nối giữa hai đường tấn-hóa và qui-nguyên. Hai đầu tấn-hóa, qui nguyên, nó ở giữa làm mấu chốt.

Qua các luận giải trên có thể diễn tả bằng đồ hình như trên đó gọi là “Sự tiến hoá của Bát hồn”.

Tám đường thẳng xuyên qua tâm chính là tám đường kính của vòng tròn. Tám vòng cung là tượng-trưng cho Bát-phẩm chơn hồn do Phật-Mẫu sản-xuất nơi Kim Bàn, vì cơ-quan sản xuất vạn-linh thuộc PHÁP.

Kinh Phật Mẫu rằng:
“Thiên Cung xuất Vạn linh tùng Pháp,
“Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh”

Tám đường thẳng xuyên tâm âý tượng-trưng cơ đoạt Đạo. Chúng sanh tu-luyện phải do nơi Pháp mới thành. Như vậy Bát phẩm Chơn hồn đi theo chu kỳ này. Khởi từ:
-  Số 1 là Vật chất hồn

Cơ tấn hoá  
-  Số 2 là Thảo Mộc hồn.
-  Số 3 là Thú cầm hồn
-  Số 4 là Nhơn Hồn
-  Số 5 là Thần hồn
-  Số 6 là Thánh Hồn

Cơ phục
 -    Số 7 là Tiên hồn nguyên
 -    Số 8 là Phật hồn

Mỗi hồn đều có tánh chất riêng:


Từ vật-chất đến nhơn hồn là cơ tấn-hóa, nên có hình chữ VẠN số (1), là chỉ cơ đi xuống trần để tạo nghiệp trần-duyên.

Tạo cho đầy-đủ quả nghiệp thành khối gia-sản rồi bắt đầu đi lên để học điều mầu nhiệm, nên Cơ phục nguyên ở chữ VẠN số (2).

Chữ VẠN ấy là chỉ cơ biến-hóa vô cùng  đó vậy, nên vạn-vật bất kỳ là vật chi  có TU  cũng ắt có thành

Tám đường thẳng ấy phát xuất từ đâu?
Qua đồ hình thấy rõ trục thẳng đứng: Chấn – Đòai là trục tung. Trục ngang là hoành: Khảm- Ly. Hai đường này giao nhau tại tâm của vòng tròn tạo thành góc 90o đó là tâm 0. Nhưng trên đồ hình này: hai đường thẳng giao nhau thành Tứ tượng, nên tâm của vòng tròn là 5 tức thuộc Ngũ trung vẫn không sai. Tám đường thẳng này phát xúât từ 8 đỉnh của  hai tứ giác (hai hình vuông) và hai giao điểm của hai Tam giác.

Ấy là thể hiện phương tu tắt của Đạo Cao-Đài đó, Tức nhiên là thi hành Tam Lập: Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn, cũng là thực hành Đạo NHÂN NGHĨA như một lịnh truyền đặt trước Đền Thánh đó. Nếu người tu làm được như Chúa Cứu Thế ngày xưa là được hiệp với Trời.

Ngay xưa Chúa Jésus:
 “Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí-Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị Hòa-ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào?

Do tay Ngài ký tờ Hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây Thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng.

“Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy”.

Thế nên hai đường thẳng này đặt lên nhau tạo nên hình chữ Thập  chính đó là “Thập Tự Giá” là biểu tượng của Thánh giáo Da-Tô đó vậy. Đây cũng thể hiện hai lẽ Âm Dương không xa lìa nhau mà còn tượng trưng cho:
- Không gian biểu hiện là nét sổ dọc  là Dương
- Thời gian biểu hiện là nét ngang là Âm

Chính vì lẽ ấy Dịch mới nói lên lý biến đổi của vũ trụ qua hình “Long Mã phụ Hà Đồ” cũng chỉ là một cách diễn dịch, một cách nói mà thôi. Chung qui thì nguyên lý vẫn một. .Dù luận thế nào cũng không ngoài định luật Âm Dương của vũ trụ. Thượng Đế ngày nay đến với nhân loại xưng là Thầy gọi chúng sanh là môn đệ. Thế nên Thầy ban quyền làm Thánh Thể cho hai vị làm đầu hai cơ quan: Hiệp-Thiên-Đài là Hộ-Pháp, Cửu Trùng Đài là Giáo Tông. Khi  hai ông chủ này hiệp Một là Quyền Chí-Tôn tại thế.

CƠ-QUAN QUẢN-TRỊ CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ

Qua hình ảnh trên có hai hình tam giác gát chồng lên nhau là “1 sanh 3, ba sanh vạn-vật”, thuộc về cơ Chưởng-quản, chỉ Âm Dương hiệp nhứt. Quyền Chí-linh đối phẩm với quyền Vạn-linh. Chí-linh là cơ qui nhứt, vạn-linh là cơ tấn-hóa, nên Chí-linh đầu nhọn quay lên mà Vạn-linh đầu nhọn quay về phía dưới. Chí-linh và Vạn-linh vốn đồng  quyền nhau.

Thầy dạy: Thầy là các con,các con là Thầy”.
Vì vậy về phương diện đối phẩm thì Thầy cho một quyền rộng rãi….
Bắt đầu từ A đếm chung quanh có cả thảy 12 hình tam giác đều nhau xoay quanh một vòng tròn 0 lớn. Đó là cơ thống-nhất vạn-loại mà Thầy là vi-chủ nên nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy. Thầy ở giữa nắm pháp qui cơ, vòng tròn tượng trưng cho càn-khôn vũ-trụ, cả Vạn-linh đều chung chịu trong định luật đó.

Sáu hình vòng cung nhỏ tượng-trưng 6 nẻo luân-hồi: Tức là AB’, B’C, CA’, A’B, BC’,C’A.
Các đường AO, BO, CO chỉ rằng cơ đoạt Đạo hiệp nhứt Chí-linh .

Nếu hết vòng A’B’ mà không biết qui cơ hiệp nhứt là phải vòng vòng luân luân chuyển chuyển mãi tức là còn trong vòng trần-tục, không thế gì hiệp một cùng Thầy, nên Thầy mới phân ra Tam giáo là 3 con đường lớn rộng để cho Vạn-linh do theo đường ấy trở về vị cũ, tức là được hiệp một cùng Thầy.

Ba cạnh AC, BC, BA, tượng-trưng Tam giáo, chỉ nghĩa rằng trước mặt Thầy, Tam giáo vốn cũng như nhau và cũng đều cùng chung một gốc sanh ra. Gốc ấy tượng trưng tâm O của vòng tròn. Chẳng khác nào Thầy nắm chốt xoay chuyển, hễ tâm O dời là tất cả vạn-linh đều đổi.

Ba đường  AO, BO, CO là Luật-định của Càn-khôn vũ-trụ, chúng-sanh nếu biết đi đúng theo luật-định ấy mới mong hiệp một cùng Thầy. Thế nên phương tu phải có Luật, có Pháp định-vị là vậy.

Khí khinh-thanh bay lên làm trời, khí trọng trược ngưng xuống làm đất, không hề có một vật nào đi sái luật đó cho được. Tỷ như đất không thể bay bổng lên từng không-khí, quả bóng không thể chìm xuống đáy nước là vậy. Đời thường cho những vật ấy là vô-tri vô-giác theo đúng nghĩa của nó.Vạn-vật thảy có tánh linh và đều cùng một điểm linh-quang như nhau, có chăng vật này được phát triển, vật kia linh-tánh vẫn ẩn-tàng nên trước mặt Thầy các con vốn cũng như nhau, không có ai trọng cũng chẳng ai khinh, dầu cho phẩm-vật tối linh hay thấp kém cũng vậy. Thầy tạm dùng danh-từ trần-tục mà giải, chứ thật ra chẳng vật nào thấp kém hơn vật nào theo nguyên-lý thiên-nhiên.


Xem kỹ trong mỗi hình: Thấy có 6 hình thoi, trong mỗi hình ấy có hai đường thẳng góc nhau, ấy chỉ cơ vận hành Âm Dương, trong mỗi bậc luân-hồi của vạn-linh đó.

Lại có 4 hình chữ-nhựt bằng nhau, tượng-trưng Tứ tượng biến-hóa nhưng ẩn-tàng ở trong mỗi vật thể, nếu kéo đường thẳng song song với một cạnh qua O và đường chéo của hình chữ-nhật kia, thì hai đường này thẳng góc nhau, chỉ rằng vật thể nếu gặp duyên thì kết, không gặp thì ở trong trạng-thái tiềm-ẩn, ví như đất nắng thì khô-khan mà mưa xuống thì cây cỏ mọc đầy. Đây chỉ rằng kẻ tu hành nếu không gặp cơ qui nhứt thì cũng có thể tăng cao tấn-hóa mà thoát khỏi vị-trí tầm-thường mình đang ở để tiến đến vị-trí cao hơn. Tỷ như người có tu tiến dầu chưa được trở về cùng Thầy, chớ cũng được lên những địa-cầu khác tấn-hóa cao thượng hơn.

Sáu cánh ngôi sao chỉ sáu đường luân-hồi phóng sẵn từ ngôi Thái-cực mà ra. Luật luân-hồi là cơ tấn-hóa, nhân sanh lầm cho kiếp sanh là khổ. Kiếp sanh chưa phải là thật khổ đâu, nếu quả khổ mà không ích chi thì Thầy đã bãi bỏ luật-định Luân-hồi, khổ ấy để tăng-tiến mãi, đi đi mãi cho thấu-đáo nẻo huyền-vi của Tạo-vật.

Đời lầm-lạc thường cho Luân-hồi sanh tử là cơ nhảm nhí, không có, ấy là muội lắm. Duy-vật, nó chỉ biết cái sống của con vật mà thôi, nó không hiểu chính cái con vật  đó ở đâu mà có! Dầu cho kẻ ngang-ngạnh cho rằng con người ở đất nẻ chun lên, Thầy hỏi chớ đất ấy ai sanh? Không-khí ấy do đâu mà có? Vạn-vật ấy do đâu có chết, có sống? Nếu nói tự-nhiên thì sao có sự luân-chuyển của mặt trăng, mặt trời, của sông, của núi, của sao, của mây gió? Nếu vạn-vật thiếu Đạo tức thiếu luật-định, thì chỉ trong một phút tương-khắc nhau, đụng lẫn nhau, tương-tàn như tro mạt mà chớ!

Giữa khoảng cách quả đất với Thái-dương-hệ và khoảng cách giữa hạt nhân và hạt nguyên-tử nó có số tỷ-lệ giống nhau, Thầy hỏi: “chớ sự ấy có ngẫu-nhiên chăng”?

Đời chẳng khác nào lũ mù rờ voi, rờ được cái nào thì cho rằng con voi là đó mà tự đại, tự cao. Khoa-học vật-chất cho là mình đã thắng lý thiên-nhiên thì ngu-muội không biết là dường nào! Chẳng khác chi con bọ ngựa giơ càng đấu với con voi rồi tự-hào rằng mình lớn mạnh.

Thầy hỏi nếu Thầy rút khí khinh-thanh có trong vạn-vật trong giây phút thì các con có còn sống nỗi chăng? Vạn-vật có còn tồn-tại nỗi chăng? Nguyên-tử có còn hiệu lực của nó chăng? Quyền-năng của nguyên-tử-lực không bằng hột cát so với Càn-khôn là quyền-năng tối thượng của Chí-linh. Thầy hắng thấy sanh-chúng khinh-rẻ lý Đạo, tôn trọng quyền vật-dục chẳng khác nào kẻ đi trong thuyền chê thuyền đi chậm để phóng ra ngoài cho nhanh, rốt cuộc phải rớt xuống sông!

Lẽ tử khứ sanh lai cho đến cả một chút tế-bào trong thân-thể đều phải chịu trong khuôn-luật ấy. Các con mới bước qua một nấc để đạt lý thiên-nhiên đã vội tự-hào thắng cả Càn-khôn!

Khờ lắm thay! Dại lắm thay! Thương lắm thay!
Đó là lý Đạo nhiệm-mầu bất tận vô biên Thầy chỉ tạm dùng những từ trần-tục mà giải-nghĩa. .

II - CƠ SANH BIẾN VẠN-LINH

Hình này tức là Lưỡng-nghi biến Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát-quái, rồi Bát-quái sẽ biến-hóa vô cùng theo Đạo gia thường gọi. Thầy nói Lưỡng nghi là cơ Âm Dương phối hợp, thì bất cứ vật chi chi trong trời đất này cũng đều do âm dương mà sản-xuất, cũng còn gọi là lý Nhị nguyên đó vậy. Âm với Dương vốn là cơ động tĩnh, mâu thuẫn nhau, tương-khắc mà lại tương-hòa. Hai cái lý đối-nghịch nhau để hỗ-trợ lẫn nhau chớ không phải để tiêu-diệt nhau.
Trời có sáng tối, người có Nữ Nam, vật có mềm cứng, đất có nắng mưa, vạn-loại có trống mái cho chí đến loài cỏ cây, sắt đá cũng có cái lý của Âm dương. Một cái cây mới nẩy chồi thì ra hai lá đầu tiên, ấy là hình tượng của âm dương đó. Âm dương vốn là cơ sản-xuất nhưng trong Dương có Âm và trong Âm cũng có Dương. Nho-gia gọi “Vạn-vật phụ âm nhi bão dương, trung chí dĩ nhi hòa” là vậy, gọi là vạn-vật ôm-ấp âm dương, đến mực trung dung thì gọi là hòa. Cơ Hòa là cơ sanh-hóa.

Trong phần dương lớn thì gọi là Thái-Dương, có phần âm nhỏ gọi là Thiếu-Âm.
Trong phần âm lớn gọi là Thái-Âm, có phần dương nhỏ gọi là Thiếu-Dương.
Hai cái lý ấy gát chồng lên nhau tạo thành hình Tứ tượng. Tứ tượng thành hình mới biến ra Bát-Quái là căn bản của nhân-loại và vạn-vật.

Sao gọi là Bát-quái?

Ấy là quái hào ở trong bản Hà-đồ của con Long-Mã mà vua Phục-Hi đã thấy thuở trước. Những hình tượng ấy ở trong con vật lạ-kỳ  nên gọi là “quái” Tám hình ở trong con vật lạ kỳ nên gọi là BÁT QUÁI, kêu lâu thành quen không thể sửa, đáng lẽ phải gọi là Bát tượng hay Bát tướng mới đúng. Đến số 8 là đã biến thể:
(8 x 8 = 64) rồi biến vi vô cùng.


Thờ Thánh Tượng Thầy tại tư gia

Nay, nhân loại văn minh cực điểm, nhưng cũng là lúc cực loạn trên thế giới, nên cần phải lập lại trật tự điều hoà, nếu không có một nền Đạo chơn chính thì nhân  loại sẽ đến cơ huỷ diệt. Vì lẽ đó nên Thượng Đế đến ban cho nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, là để cứu vãng cho nhân loại buổi này.

Biểu tượng cho tinh thần Đại-Đạo là sự thờ hình  tượng “THIÊN NHÃN THẦY”.
Đặc biệt nhứt là mỗi gia đình đều có lập vị Thượng Đế, tức là  Thiên Bàn tại tư gia để mỗi người tự tu thân.

Đức Chí-Tôn đã đem đến cho nhân-loại một nền Chơn-đạo và dạy cách thức thờ cúng Thầy trên Thiên Bàn, phải có đủ 12 cúng phẩm, thử tìm hiểu ý-nghĩa về cách thức ấy qua hai phương-diện:

1 - Ý nghĩa thờ phượng.
2 - Lý Dịch trong Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa Thánh Tâyninh.
* Ý nghĩa và cách sắp đặt trên Thiên Bàn.

Kinh Thiên-Đạo có dạy:
 “Lập vị Thượng-Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết, tốt hơn hết là giữa nhà. Lập tran thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng".

Theo như lời tựa dẫn giải, Hội-Thánh dạy người Đạo sắp đặt Thiên Bàn thờ cúng Đức Chí-Tôn theo hình chữ “Chủ” với 12 Cúng phẩm tượng-trưng cho Thập Nhị Khai Thiên là Đức Chí-Tôn, Chúa Tể cả Càn Khôn Thế Giới, bởi số 12 là con số riêng của Thầy. Ý-nghĩa này có liên quan đến 12 tháng của 12 thiên-tử quái vậy.

Ngày nay Thiên-bàn tượng-trưng cho cả Càn-Khôn Thế-Giới do Đức Chí-Tôn làm chủ. Ngài đến lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, chính mình Ngài làm Giáo-Chủ mà độ dẫn chúng sanh khỏi kiếp luân hồi quả báo, nên người Tín đồ Đạo Cao-Đài chỉ lập bàn thờ, thờ Đức Cao-Đài là đủ, không còn phải lập bàn thờ riêng để thờ Thần, Thánh, Tiên, Phật chi riêng lẻ, chỉ làm cho mất vẻ tôn nghiêm, mà thêm rườm-rà. Lại nữa, đây là thể hiện tinh-thần Đại-Đồng của buổi nhân-loại được một nền Đại-Đạo Qui Nguyên Tam-giáo Phục nhứt Ngũ chi.

Khi sắp đặt Cúng phẩm trên Thiên-bàn phải cho thật ngay-ngắn. Nếu sắp không ngay thì trật nét chữ. Trật một nét thì sự thờ không chánh-đáng, rất có hại cho Đức tin của người đã thờ cúng mà không nghiêm-chỉnh và mất đi ý-nghĩa gọi là thất pháp, dần-dần làm sai lạc chơn truyền của một nền Chánh-giáo.
Dưới đây là phần ý nghĩa của: Thánh Tượng Thiên Nhãn tượng trưng Đức Thượng Đế là Đấng Thánh Hoàng trước Ngôi Thái Cực, với quyền năng tối thượng, toàn tri, toàn năng của Ngài. Đây là quyền Chúa tể của Càn khôn thế-giới.

Dân Việt-Nam vốn một lòng sùng thượng Đấng Thượng-Đế nên đã bao thời gian bất cứ nền Đạo mới nào du nhập vào cũng được đón nhận và Tín ngưỡng hết lòng.
- Trước đây chỉ có Vua mới được tế trời. Đàn Nam Giao là một chứng tích còn đó.
- Trong làng thì tế Xã tắc tức là những người anh hùng của dân tộc, bốn mùa được hương khói.

Người dân chỉ có quyền cúng tế ông bà tổ phụ mình mà thôi. Tuy vậy mà lòng sùng thượng Trời đất nên họ tự dựng lên một “Bàn Vọng Thiên” trước sân nhà để tỏ lòng tôn kính và tạ ơn Trời Phật khi được trúng mùa hoặc làm nơi khẩn đảo

 Nay, cửa Đạo Cao-Đài đã chính thức Qui Tam Giáo Hiệp Ngũ Chi, cho nên quyền hành của Thượng-Đế bao trùm tất cả, biểu tượng  bằng thờ “Thánh Tượng”. Mỗi nhà được quyền mời Đức Thượng đế vào nhà của mình.

Tất cả những nghi thức cúng kính, thờ phượng, nghi lễ theo Tôn giáo Cao-Đài ngày nay… đều bày ra dưới nhiều hình thức. Nhưng chung qui cũng để bày ra trước mắt cho nhơn sanh thấu đáo lẽ huyền-vi mầu-nhiệm của Đấng Tạo-hoá, hầu noi theo chơn truyền mà để bước về cùng Thầy trong con đường Chân, Thiện, Mỹ.

Đã trải qua nhiều thời gian, Thánh Tượng Thầy có thay đổi khác nhau đôi chút về hình thức. Nhưng điểm chánh yếu vẫn là biểu tượng “Thiên Nhãn Thầy”.

1 - Thánh Tượng Thiên Nhãn (Tượng Ngũ Chi):
Đạo trải qua thời-gian, Hội-Thánh cũng đã nhiều lần thay đổi Thánh Tượng Thầy. Tuy nhiên, về hình ảnh của Thánh-tượng có nhiều mẫu khác nhau, nhưng điểm chính-yếu vẫn là “Con Mắt ”.

Trong hiện tại, Hội-Thánh ban cho toàn Đạo thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi”. Dưới Thiên-Nhãn-Thầy có in hình các Đấng Giáo-Chủ xưa; Tam-Giáo, Tam-Trấn, Ngũ Chi. Là ý-nghĩa Tam-Giáo qui nguyên Ngũ Chi phục nhứt

* Tam Giáo:
Phật-Đạo:giữa là Đức Phật Thích Ca, Giáo-Chủ Đạo Phật.
Tiên-Đạo: Phía hữu là Đức Thái Thượng Lão Quân - Giáo Chủ Đạo Tiên.
Thánh-Đạo: Phía tả là Đức Khổng Thánh Tiên-Sư, Giáo
Chủ Đạo Thánh.

* Tam Trấn:
Thay mặt cho Tam Giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ:
Phật : Phía hữu là Đức Phật Quan Âm, chủ về Phật Đạo.
Tiên: Ở giữa là Đức Lý Thái Bạch, chủ về Tiên Đạo.
Thánh: Phía tả là Đức Quan Thánh Đế Quân, chủ  Thánh Đạo.

* Ngũ Chi:
Từ trên kể xuống thì Ngũ Chi ở hàng giữa là:
Phật Đạo: Đức Phật Thích Ca, Giáo Chủ Phật Đạo.
Tiên Đạo: Đức Lý Thái Bạch Chưởng-giáo Đạo Tiên thay quyền Tiên Đạo
Thánh Đạo: Đức Chúa Jésus-Christ  Giáo-chủ Thánh Đạo.
Thần Đạo: Đức Khương Thái Công, Giáo-chủ Thần Đạo.
Nhơn Đạo: Có 7 cái Ngai thể về Nhơn Đạo gồm có: Một Ngai Giáo-Tông, ba Ngai Chưởng-Pháp,  ba Ngai Đầu-Sư.

Trong tượng Ngũ-chi nhận thấy có phần chính-yếu là Thiên-Nhãn Thầy ở chính giữa có 32 tia hào-quang cả thảy. Kế đến là mặt trời và  mặt trăng tức là âm dương nhị khí. Dưới là Tam-giáo, kế Tam Trấn, sau hết là Ngũ chi

2 - Thánh tượng Tam Trấn:

Về sau Hội-Thánh chấn-chỉnh lại để ban cho toàn Đạo thờ “Thánh Tượng Tam Trấn”. Trong Thánh Tượng Tam Trấn không có in hình các Đấng Giáo Chủ, nhưng phần dưới Thiên Nhãn Thầy có ba khuôn vẽ bằng Cổ Tự, đó là Thánh-danh của các Đấng Tam Trấn Oai Nghiêm thay quyền Tam giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này:

Thánh-tượng này phía trên có 6 chữ:
  (ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ)
dưới cùng là danh-hiệu Tam-trấn, từ trái sang phải:
- QUAN-ÂM BỒ-TÁT.
- THÁI-BẠCH KIM TINH
- QUAN-THÁNH ĐẾ-QUÂN

PHỤ CHƯƠNG:
A -  Ý-nghĩa Chữ Đạo 12 nét

Nếu khai-triển chữ ĐẠO sẽ thấy các phần sau:
Trên cùng là hai nét phết, chính là cái Âm Dương của trời đất hoá sanh, hay nói gần hơn là do cha mẹ phàm thể sanh ra con người; chỉ Âm Dương tương-hiệp. Nét nhứt đặt nằm ngang ở dưới là chỉ con người đứng đầu trong Vạn-linh, hiệp chung lại tức nhiên đủ Tam tài: Thiên, Địa, Nhân rồi vậy.

Bên trong là chữ Mục là con mắt, có 5 nét, tượng lý Ngũ-hành, thuộc Thổ, Thổ ở trung-ương, về tính chất thuộc màu vàng. Đối với sắc dân là giống dân châu Á, mà châu Á ở vào trung-tâm quả đất. Câu liễn đã nói lên điều ấy “Cao thượng Chí-Tôn Đại-Đạo hoà-bình dân chủ MỤC”

Từ chữ Mục(5 nét) thêm một nét phết thành ra chữ Tự (6 nét) Tự là chính mình, do vậy mà sự tu-hành là điều tự quyết, tự chủ, tự quyền, tự lập…để định cho phương châm hành-sử của mình. Thế nên số 6 là con số bình-hoà, hạnh-phúc. Câu liễn đối thứ nhì ở Toà-Thánh là:

“Đài tiền sùng bái Tam-Kỳ cọng hưởng TỰ-do quyền” Cả hai bộ-phận này ráp lại với nhau thành ra chữ Thủ (9 nét) Thủ là đầu, là khởi điểm. Khởi điểm con người là Cung Mẹ Diêu-Trì thuộc từng thứ 9, cho nên khởi xuất từ đây mà khi trở về cũng là đây. Nhưng nơi đây chưa phải là bến ước mơ cho linh-hồn khi thoát xác mà phải có đủ Tam lập nữa; tượng bằng bộ sước (3 nét)  mới thành ra chữ ĐẠO (9 nét + 3nét=12 nét). Số 12 là con số của Thầy, tức nhiên người tu hành đi vào Cửu phẩm thần Tiên mà phải hành đủ Tam lập, đó là Lập đức, Lập công, lập Ngôn. Chính là con đường Thiêng-liêng hằng sống, là bến ước mơ của linh-hồn.

Thánh-ngôn  II/3 Thầy dạy về chữ ĐẠO:
 “Đạo là gì?   “Sao gọi Đạo?

Đạo, tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đoạ trần do theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi. Nếu chẳng phải do theo Đạo, thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi phẩm. Đạo, nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các nghĩa huyền-bí khác cho đích xác đặng. Đời cũng thế, Đạo cũng thế, chẳng Đạo chẳng nên Đời. Đời Đạo chẳng trọn, lấy Đạo trau Đời, mượn Đời giồi Đạo, Đạo nên Đời rạng, giũ áo phồn hoa, nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc, tự thanh cao, nếm mùi tự toại, dưỡng chí thanh nhàn thì có chi hơn.

B - Thiên Nhãn trên áo Mão Chức sắc là nghĩa gì?

Sự so-sánh này để thấy vào hàng Phật thì có nhãn quang chiếu khắp cõi ta bà để cứu nhơn độ thế. Phật Di Lạc là một trong ba vị Cổ-Phật là: Nhiên Đăng, Di-Đà và Di-Lạc. Còn Hộ Pháp Vi-Đà là Ngự Mã Thiên Quân của Đức Chí-Tôn thay thế cho Ngài giáng trần chuyển Pháp lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ. Ngài là Đấng thay quyền cho Cực-Lạc Thế giới chuyển pháp.

Nhân đó, nhìn trong Đạo phục của Chức sắc Đại Thiên phong bên Cửu Trùng Đài như Chưởng Pháp phái Ngọc “Bộ Ðại Phục thì toàn bằng màu hồng (màu Ðạo) nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng Minh Khí (PCT)”.

(Chưởng Pháp phái Thượng cũng như trên nhưng đặc biệt thay bằng màu Trắng)

- Ngoài ra thì Pháp Chánh Truyền còn dạy rõ là phẩm Giáo sư “nơi trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy, bao quanh một vòng vô vi, áo ba dải”.

- Chánh Phối Sư thì áo chín dải, còn Phối Sư ba dải. Ðạo Phục cũng có hai bộ phân biệt (Ðại Phục và Tiểu Phục) như của vị Ðầu Sư, song trước ngực và sau lưng có thêu Thiên Nhãn Thầy bao quanh một vòng vô vi.

- Riêng Đầu sư thì khác, nơi trước ngực và sau lưng có “thêu sáu chữ Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ, bao quanh ba vòng vô vi”.

Thiên Nhãn trước ngực là một sự nhập tâm nhờ công phu tu luyện. Thiên Nhãn phía sau lưng là sự phổ truyền lý Đạo, phổ hóa nhơn sanh trong kỳ ba Cứu thế này.

C - BA SỐ NGŨ: THIÊN- NHÂN - ĐỊA

1- VỀ THIÊN: Tượng Ngũ Khí
5 dạng Thiên nhãn khắp trong đền, trong số 50 Thiên nhãn:
. Một nơi Quả Càn Khôn (không có tia hào quang (Thái cực)
. Một nơi cung Đạo (Thiên nhãn có 36 tia: Càn Khôn)
. Một nơi Phi Tưởng Đài mặt tiền Đền Thánh 35 tia hào quang (tương Qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi)

Ba dạng Thiên nhãn trên tượng Tam Tài
. Một nơi Thông Thiên Đài (Bàn thờ Thiên Nhãn có 16 tia:
 (tượng Dương)

. Một dạng nơi cửa Sổ Đền Thánh dưới dạng Hoa Sen (16 tia hào quang (Tượng Âm)
Năm dạng Thiên Nhãn trên cũng đủ cả Tam Tài và Nhị Khí Âm dương họp lại thành Ngũ Khí đó vậy.
 (Xem: Thiên Nhãn Thầy cùng Soạn giả)

2 - VỀ NHÂN: Tượng ngũ Tạng
Năm vị có Tượng nơi Đền Thánh
· Đức Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh..
· Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung.
· Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc..
· Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư..
· Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang.

Về phần này cũng có Đức Di-Lạc ngồi ngự lưng cọp làm chuẩn cái tâm.

3- VỀ ĐỊA: Tượng Ngũ Hành
Có 5 quả Địa cầu:
 Một nơi nghinh Phong đài dưới Long Mã phụ Hà đồ
. Một dưới chân Đức quyền Giáo Tông, Bạch Ngọc Chung Đài
. Một dưới chân Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh: Lôi Âm Cổ đài
 Một dưới cây Cân công Bình Thượng Đế, nóc Tịnh Tâm Đài.
 Một dưới Cung Đạo, Đức Hồng Quân Lão Tổ.
Nhưng duy nhứt Quả Càn Khôn làm chuẩn là cái tâm.

CHUNG
Home       1 ]  [ 2 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét