LỜI TỰA VỀ GIÁO
DỤC
Quyển sách này không có ước vọng đúc kết
về GIÁO DỤC, VĂN HOÁ và THANH NIÊN của Đạo Cao Đài, mà chỉ ghi chép lại đôi
điều của một số người đã sống, đã học và lớn lên thành đạt trong một số lãnh
vực.
Trước tiên, chúng tôi xin tôn vinh các
bậc tiền nhân đã khai rừng phá rẫy xây dựng tổ đình Thánh Địa Cao Đài và mở
trường Đạo để dạy dỗ đoàn hậu tấn tiến lên.
Mặt khác, do ước mong của các cựu sinh
các trường Đạo Đức, Lê Văn Trung và Viện Đại học Cao Đài, để nhớ lại một thời "ăn chưa no, lo chưa tới, áo tơi không
lành, mà học hành hãnh tiến". Từ mười phương về Thánh địa "Vạn thù qui nhứt bổn", học
hành đỗ đạt, rồi tung ra khắp muôn nơi; "Nhất
bổn tán vạn phù". Dù tiềm sinh hay hiển sinh, chúng ta luôn trụ vững
đức tin nơi Đấng Cha Lành. Dù nghèo hay giàu, chúng ta hằng hồi hướng về bảng
Đạo kỳ Tam Thanh.
Ngày nào, chúng ta còn nhớ khi vào học
phải đọc kinh. Trong đó, có câu:
“ Buộc yêu thương, bạn đồng
môn,
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm
năm”.
Trong mỗi chúng ta đều cảm thấy như có
sợi dây vô hình ràng buộc theo lời Đức Chí Tôn dạy: “Thầy cấm các con
từ đây nếu không đủ sức thương yêu nhau thì chẳng được ghét nhau, nghe à” (Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển I trang 69). Sự thương yêu ấy đặt trên nền tảng " nhân nghĩa " không những
trong kiếp sống tạm này mà còn nơi cõi vĩnh hằng nữa.
Các bạn thấy sao ? Chớ riêng tôi lúc trở
lại trường Đạo Đức dạy môn Giáo lý cho các em học sinh lòng tôi quá ngậm ngùi
gần như không có lần nào tôi không rơi nước mắt khi đọc kinh đến hai câu này.
Và cũng chính vì thế, ngay khi còn mài đũng quần trên băng ghế trường Nghĩa
thục Lê Văn Trung tôi đã chọn hai chữ vần trong hai câu chót bài “Kinh nhập
học” làm bút hiệu cho mình:
“May duyên gặp hội Long VÂN
Thuyền thơ ngọn gió Các ĐẰNG xuôi
đưa”
Sau hết, xin phép quí Thầy Cô dù sống hay
chết, các bạn cựu sinh dù ở trong hay ở ngoài nước, cho phép tôi được "gọi tên"
nhau để chúng ta sống lại một thời đã qua, đã mất, nhưng còn đọng mãi trong tâm
trí mỗi người.
TIẾT
1 : ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG
"Đạo
đức lưu truyền hậu tấn hiếu trung phò xã tắc,
Học
đường giáo hoá thơ sanh nhân nghĩa lập giang san."
1.
Sơ lược về Đạo Đức Học Đường:
Sau khi dời Thánh Tượng từ Gò Kén về chùa
mới hơn một năm. Hội Thánh hội nghị quyết định mở trường khai dân trí.
Chương trình học theo chương trình nhà
nước.
Tiểu học có các môn: Việt Văn, Pháp Văn,
Toán, Lịch sử, Địa lý, Cách trí, Vệ sinh, Nhạc, Vẽ, Thủ công, cộng thêm các môn
của Đạo : Giáo lý, Hán văn.
Các lớp: Đồng ấu (Cours enfantin), Dự bị
(Cours prépara toire), sơ đẳng (Elémentaire),Trung đẳng (Moyen), Cao đẳng (
Supérieur) để thi tiểu học.
Trung học có các môn: Việt Văn, Pháp Văn,
Toán, Vật Lý, Hoá Học, Sử Địa, Nhạc, Vẽ, Thủ công, cộng thêm các môn của Đạo :
Giáo lý, Hán Văn.
Các lớp : năm thứ nhứt (cours 1è année),
năm thứ hai (2è année), năm thứ ba ( 3è année), năm thứ tư ( 4è année) để thi
Brevet.
Tháng 9 năm 1928 khai giảng năm học đầu
tiên, trường Đạo Đức Học Đường có tất cả 210 học sinh. Nhân ngày lễ phát thưởng
năm đầu tiên cho học sinh trường Đạo Đức vào ngày 14-7-Kỷ Tỵ (18-8-1929) Ngài
Thượng Đầu Sư đến dự lễ để khích lệ thầy cô giáo và các em học sinh. Ngài nói :
" Trong mấy năm qua Đạo nghèo, nên
mấy em (giáo viên, học sinh) chịu phần hui hút, còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc
người đè, nên không săn sóc mấy em trẻ dại, để mấy em chiu chít như gà mất mẹ.
"
Xét cổ suy kim mới biết rằng tôn giáo nào cũng nhờ học thức mà gìn mối đạo,
truyền bá chánh giáo mới đặng tròn câu phổ độ. Đạo nghèo đồng tiền eo hẹp. Thầy
giáo không một đồng lương, lại thân ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công trả
quả vùi thân cùng sanh chúng. Học sinh, đồng nhi nam nữ tập viết bằng lá buông.
Chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường. Bề ăn uống tương rau hẩm hút. Ba năm dư mới
rảnh chút thời giờ, mấy anh đây mới lập trường và phát thưởng. Lễ đơn sơ dạ yêu
thương, giục mấy cháu hết lòng lo cho đạo đức".
Bài huấn dụ của Ngài Thượng Đầu Sư cho ta
thấy mấy ý như sau :
- Lấy ván sạp làm giường : Thật vậy, nhà
giáo viên, nhà lưu trú học sinh đều kê đơn sơ bằng gỗ xẻ thành ván. Phần bìa
thân cây thì làm bàn, băng cho học sinh. Ai có sống, có học trong những năm hai
mươi của thế kỷ XX mới thấm thía được lời chân thật mà thân yêu trìu mết của
người anh Cả.
- Ăn uống tương rau hẩm hút : Thật ra là
nước muối, rau lang suốt lá từ gốc tới ngọn ( chớ không chỉ ăn ngọn), chuối xắc
nguyên cây, bữa cháo bữa củ mì. Các học trò thời ấy nói vui với nhau: " Nước tương Đại Đạo, cơm cháo Tam Kỳ,
củ mì Phổ Độ ".
Chao ôi ! ăn uống như thế. Học lấy kiến
thức để sau nầy " phổ độ nhân sanh
". Lý tưởng của trường đề ra thật cao, qua câu liễn:
"Đạo
Đức truyền lưu hậu tấn hiếu trung phò xã tắc,
Học
Đường giáo hoá thơ sanh nhân nghĩa lập giang san."
- Tập viết bằng lá buông : Cái nghèo khó
thử thách lòng trang hiếu học. Học mà không có tập mà phải viết bằng lá buông.
Các thầy thương trò mà phát minh ra tập lá.
Những ngày nghỉ học, thầy trò đi dã ngoại
tìm rừng lá buông cắt đem về, rọc bỏ phần sống lá. Thân lá được cắt từng đoạn
dài đều nhau độ 20cm, rồi đem phơi khô để lá buông từ màu xanh lục chuyển sang
màu vàng nhạt. Sau đó, xếp lá chồng lên nhau rồi lấy tấm ván ép cho bằng phẳng,
gọi đó là tập lá.
Mực viết trên lá buông là cỏ mực. Cỏ mực
nhổ trên ruộng rẫy về rồi giả nhuyễn, vắt lấy nước, vô bình mực chia cho các
học sinh. Chao ôi ! cái học kiểu "
Trần Minh khố chuối " như thế mà "
Hiếu trung phò xã tắc” là tấm lòng thiết thạch đối với quê hương, có chi sánh
nổi ".
Sang năm 1931, Thượng Chánh Phối Sư báo
cáo trước Hội Nhơn Sanh có đoạn viết :
"
Trong Toà Thánh có lập một Đạo Đức Học Đường để dạy trẻ em, có 8 lớp học, 6 lớp
con trai trình độ lớp nhì, một lớp con gái Việt, 1 lớp con nít Đàn Thổ (Tà Mun)
. Tất cả được 274 trò. Các thầy dạy điều có bằng sơ học, làm công quả, không
lấy tiền. Học trò cũng không đóng học phí.
Ngoài
ra, cứ mỗi tối những người công quả nội ô Toà Thánh ước chừng 400 người đều
phải theo học. Có những lớp dạy chữ, dạy kinh, dạy đạo tuỳ theo sự hiếu học của
mỗi người ".
Báo cáo của Hội Nhơn Sanh năm 1932 xác
nhận có nhiều tiến bộ :
"
Trường Đạo Đức Học Đường năm nay có mở thêm được ba lớp học nam nữa. Một lớp
năm thứ nhì ( Cours 2 è année) và hai lớp Đồng Aáu ( Cours Enfantin), cộng
chung là 11 lớp. Số học trò được 417. Trong đó có 312 trò nam và 105 trò nữ,
thêm được 143 trò, nhiều hơn năm ngoái.
Kỳ
thi tiểu học vừa rồi, nhà trường có 26 trò đi thi đều đậu hết. Có 21 trò đậu
luôn phần Pháp văn .( mention francaise). Mấy cô giáo và thầy giáo dạy nơi
trường đều siêng năng lo lắng dạy dỗ. Không người nào ăn lương bổng hết ".
Ta thấy tinh thần thầy cô qua mấy chữ " siêng năng lo lắng " và " không lương bổng ". Dạy ngày
không đủ, các thầy cô tranh thủ dạy đêm. Các học trò từ xa xôi ngoại ô Thánh
Địa, tay cầm đèn chông, chân trần mò mẫm đêm hôm khuya khoắc vào Đạo Đức Học
Đường để ôn thi. Sự tận tâm kia với kết quả 100% thật là xứng đáng.
Truyền thống đó được nối dài cho đến tận
năm 1952. Năm đó, trường có 60 lớp lợp bằng tranh, tường xây gạch đất không
nung (gạch sống), chỉ có một dãy lớp ngói ở phía trước cho các lớp 1è annéc, 2è
année. Có 10 lớp Cao Đẳng ( Cours supérieur) đi thi tiểu học với 5.393 thí sinh
thi tại Tỉnh lỵ, chỉ rớt một trò vì bị bịnh bất thường. Đó là thành quả kỷ lục
đền đáp công ơn thầy trò dạy và học hằng đêm, làm rạng danh đạo thời ấy.
Chính năm 1952, ngôi trường phổ thông ở
trên đường Hoàng Tòng Hướng, ngoài cửa số 7 ngoại ô được trùng tu và cất thêm
hai dãy để nhận học sinh vừa mới thi đỗ tiểu học. Nhà trường phải mở 12 lớp Đệ
Thất vì phải nhận thêm hai lớp cho học sinh ngoài tỉnh.
Ngày khai giảng, Đức Phạm Hộ Pháp đến dự
và đổi tên trường Phổ thông thành trường Nghĩa thục Lê Văn Trung để nhớ ơn Đức
Quyền Giáo Tông người có công đầu tiên khai hoá nhân sanh tại vùng Thánh Địa .
Con cháu nối bước. Năm 1961, giáo sư Trần
Văn Rạng dạy trường Trung học Công lập Tây Ninh đưa đơn xin phép lập " Hội Ái Hữu Cựu Sinh Đạo Đức và Lê Văn
Trung " được Bộ Nội Vụ cấp giấy phép hoạt động số 128 - NĐ ngày
20-10-1961.
2.
Hệ thống tổ chức:
Đạo đức Học đường trực thuộc Học viện, có
hệ thống từ Trung ương tới địa phương các châu, tộc đạo : Trung ương có Đạo Đức
Học Đường. Các phận đạo có Trường Minh Đức Tân Dân (quen gọi Trường Đại Đồng),
trường Địa Linh Động. Hai trường này học sinh ăn cơm trại đường. Ở các tỉnh có
lập trường Đạo Đức như Long An, Kiến Phong v.v.. các giáo viên được bổ nhiệm từ
Toà Thánh.
Về
tổ chức, trong cuốn Lời phê Đức Hộ Pháp có ghi thế này :
"
Theo Vi bằng số 590/VB ngày 27-7-Nhâm Thìn (1952), phiên nhóm cử Lễ sanh Ngọc
Lương Thanh thừa quyền phụ thống Học Viện và Lễ sanh Hài, Lễ sanh Cảnh phụ
trách (Ban Quản Trị) ".
Lời phê Đức Hộ Pháp như vầy : " Phê và cho lập Thánh lịnh (theo Vi
Bằng trên) ".
“Về
vụ đặt tên trường không cần ích, vì ta còn phải ngừa sẵn ngày kia Đạo tức là
Hội Thánh còn phải giải quyết quyền giáo huấn cùng chánh phủ nữa, đừng để trong
trường tranh chấp mà đem tên của mấy vị Tiên Thánh của Đạo ra không hay”.
Như thế, Đạo Đức Học Đường lúc này có hai
ban.
- Ban Quản Trị : do Lễ Sanh Thượng Hài
Thanh và Lễ sanh Thượng Cảnh Thanh, trên có Lễ sanh Ngọc Lương Thanh thừa quyền
phụ thống Học viện coi tổng quát.
- Ban Giám Đốc : do ông Trần Hữu Khuôn
làm Giám đốc coi về chuyên môn học tập của học sinh.
Giáo viên trong buổi đầu có các thầy :
Phan Hữu Phước, Trần Ngọc Văn, Nguyễn Văn Hội, Huỳnh Văn Hưởng, Nguyễn Văn
Khiết.v.v...
3 . Sinh hoạt học đường:
Lúc đầu, gia đình học sinh còn nghèo ăn
mặc sạch sẽ chưa có đồng phục, nhưng ngày thứ hai chào cờ phải mặc áo dài
trắng. Học sinh nào phạm lỗi nặng phải lên đài (một cái ghế cao có ba bậc) đã
bị phạt một lần thì không thể nào còn tái phạm nữa.
Về văn nghệ chủ yếu là trống và các đàn
thùng không kèn thổi, phụ diễn trong những ngày lễ của trường và của đạo. các
thầy thì làm thi làm thơ có chân trong Đạo Đức Văn Đàn như Vân Khanh, Tôn Hưng,
Trần Ngọc Hiếu v.v..
Về thể thao, trường có sân bóng chuyền
phía sau văn phòng trường và bóng đá đối diện mặt tiền của trường bên kia đường
Cao Thượng Phẩm. Người cầm còi (trọng tài) chính là thầy Nguyễn Hữu Lương.
Ngoài việc đá bóng giao hữu với các trường bạn, còn giao hữu thân thiện với các
cơ quan trong đạo.
Về báo chí thực hiện trong dịp Tết và
nghỉ hè. Lúc đầu in bằng xu xoa, tờ Bạn Trẻ do Thầy Trương Văn Ba chủ biên, sau
in Ronéo. Năm 1970 trường mua máy in, cũng từ đó báo được in thành tập hẳn hoi.
Nhà in còn in nhiều sách đạo như các
quyển : Giải nghĩa Kinh Thiên Đạo, Thế Đạo của Hiền tài Đặng Mỹ Lệ, Thiên Bàn
tại tư gia của Giáo hữu Thượng Lý Thanh ..v…v..
4 . Đặc điểm của ngành giáo dục Cao
Đài :
Ngành giáo dục Cao Đài dạy đủ các môn
theo chương trình học của Nhà nước, cũng đi thi lấy các văn bằng của Bộ Giáo
Dục. Có năm, Học Viện tổ chức kỳ thi lấy văn bằng của Đạo. Mục đích để tuyển
chọn làm trong các cơ quan Đạo.
Đặc điểm của giáo dục Cao Đài là học thêm
môn Giáo lý về thần học Cao Đài để cho đứa trẻ thấm nhuần triết lý cao thượng
của Đạo.
Kế đến là môn Hán Văn lớp nào cũng phải
học vì Đạo chủ trương Nho Tông chuyển thế nên tại gian chính của Văn phòng thờ
Đức Khổng Tử. Chính nhờ môn Hán Văn giúp học sinh của Đạo vượt khó khăn khi
theo học trường Đại Học Văn Khoa.
Thực ra việc học chữ Hán là học phần gốc,
phần nguồn chứ không phải là học cành lá của ngôn ngữ. Nếu một học sinh không
hiểu thấu đáo từ Hán Việt thì không những sai về kiến thức mà còn khó có thể
thưởng ngoạn một tác phẩm văn học. Chẳng hạn chỉ một từ phong với nhiều ý nghĩa
khác nhau, nếu học sinh không hiểu tường tận thì có thể hiểu lầm tiên phong là
trước gió (thay vì là mũi nhọn); rừng phong là rừng gió (thay vì rừng bàng);
rêu phong là rêu gió (thay vì rêu phủ); cao phong là gió cao (thay vì núi cao)
…; rồi thiên thư là sách trời và thiên thu có thể là trời thu (thay vì ngàn
năm). Muốn am tường chữ Hán, đòi hỏi phải có một thời gian học tập khá lâu, cho
nên phải dạy học sinh ngay ở cấp phổ thông cho kịp lúc chứ không thể nào đợi
khi lên đại học chuyên ngành rồi mới dạy.
Về hình thức, mỗi sáng thứ hai học sinh
mặc áo dài trắng chào cờ nước và cờ đạo, nên lúc đầu hát bài Mừng thay Chí Tôn
ngày nay đã đến, sau đổi ra hát bài Học sinh Hành khúc chớ không hát quốc ca.
Hồi đó, chưa có hiệu đoàn trường. Đoàn
Hướng Đạo Sinh Cao Đài lúc đó hoạt động chính ở hai trường do hai liên đoàn đảm
trách, giáo dục học sinh cuộc sống dã ngoại.
Liên đoàn Lê Văn Trung do chính giáo sư
Bạch đảm trách. Liên đoàn Phạm Công hoạt động tại trường Minh Đức Tân Dân và
các trường trong các phận đạo.
Năm 1955, Ban thanh trừng khủng bố khiến
cho các giáo viên và học sinh tản lạc về các tỉnh, nhất là Sài Gòn. Việt Nam
Bửu Tự ở đường Phan Thanh Giản Sài Gòn là của Đạo Nhơn Diêu Minh nhận học sinh
từ Tây Ninh, với lời kêu gọi “Đồng bạc cho trẻ mồ côi”. Các nhà từ thiện hết
lòng giúp đỡ. Học sinh đến chùa ngày càng đông quá tải p hải che ở ngoài mái
hiên. Chính quyền Ngô Đình Diệm ngăn chặn không cho các người hảo tâm giúp tiền
của cho chùa. Hậu quả các học sinh tự giải tán.
Đạo đức học đường phải dời ra chỗ Cơ
Thánh Vệ và trở thành trường Bán Công, quyền của Học Viện không còn.
5 . Đạo đức Học Đường phục hồi
Năm 1963, chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ,
Đạo Đức Học Đường được dời về chỗ cũ. Giáo sư Thượng Cảnh Thanh lo xây cất lại
Đạo Đức Học Đường. Trong ngày an vị trường, ông quyền Thượng Thống Học Viện cảm
tác bài thi như sau :
" Đạo Đức Học Đường
Ba
chục gian nhà mới tạo nên,
Nguy
nga đồ sộ cảnh thêm bền
Mái
tôn lạc trợ che toà nóc,
Viên
gạch đồng tâm đúc vững nền
Văn
hoá phát huy phương dạy trẻ
Công
trình xây dựng sử đề tên.
Văn
phòng Đạo Đức tăng huê mỹ,
Dồi
luyện tinh thần chống vượt lên."
Ngày 15-3-1965
THƯỢNG CẢNH THANH
HỌA VẬN
"
Học đường Đạo Đức được xây nên,
Sương
gió bao năm vẫn vững bền.
Thuở
trước nhà tranh duềnh thấp mái
Giờ
đây tôn gạch vững cao nền.
Mỗi
ngày mỗi mới thêm tươi trẻ
Càng
lúc càng tăng với tuổi tên.
Tận
sức “hiếu trung phò xã tắc”
Dồi
trau trí tuệ, đạo càng lên."
VÂN ĐẰNG
Đạo Đức Học Đường từ đó tổ chức có qui
cũ. Hiệu trưởng (Nguyễn Hữu Lương), Giám học, Tổng Giám thị, Hiệu đoàn trường
được sự hỗ trợ đắc lực của Đại Đạo Thanh Niên Hội.
Để chuẩn bị mở các lớp đệ nhị cấp, thầy
Nguyễn Hữu Lương đã hoạt động tích xây được 10 phòng lầu với bêtông kiên cố. Để
đánh dấu thành tích to lớn đó, lễ bãi trường năm 1972 rất trọng thể.
*
Lễ phát thưởng cho học sinh trường Đạo Đức và Lê Văn Trung.
photo
Vào ngày 15 tháng 4 Nhâm Tý (dl
27-5-1972), Ban Giám Đốc Đạo Đức Học Đường làm lễ phát thưởng cho các học sinh
ưu tú năm học 1971-1972.
Ông quyền Thượng Chánh Phối Sư đến chủ
toạ buổi lễ và ban huấn từ, có đoạn viết :
"
Niên học vừa mãn đã đem lại kết quả tốt đẹp cho trường là một kỳ công. Hội
Thánh để lời ban khen chung, ước mong thành quả này được nhân lên mãi mãi để
xứng đáng tên trường Đạo Đức Học Đường mà Hội Thánh đã dày công sáng lập…
“Hội
Thánh hoan hỉ đặt niềm tin nơi quí vị Hiệu Trưởng, qúi Giáo Sư, giáo viên đã
đem tài năng tô điểm văn hoá và đạo pháp, giáo hoá con em Đạo trở thành nhân
tài cho Đạo và xã hội ".
Hôm sau, ngày 16 tháng 4 Nhâm Tý (dl
28-5-1972), Ban Giám Đốc trường trung tiểu học Lê Văn Trung làm lễ phát thưởng
cho các học sinh ưu tú năm học 1971-1972.
Ông quyền Thượng Chánh Phối Sư đến chủ
toạ buổi lễ và ban huấn dụ, có đoạn viết :
“Hội
tưởng lại những năm khổ cực….Hội Thánh đã tạo nên ngôi trường Trung Học Lê Văn
Trung này để tiếp tục học hành, khỏi bị gián đoạn vì chi phí và trường xa…
Nhờ
Ban Giám Đốc, quí Giáo Sư, giáo viên nam nữ gắng công đào tạo học sinh Trung
Học Lê Văn Trung tiến triển tốt đẹp. Mỗi năm đều có một số thành tài giữ cương
vị quan trọng trong xã hội….Giá trị là điều hãnh diện cho Hội Thánh, cho phụ
huynh học sinh”
(TT53, tr.7-8).
Nhớ lại ngày mồng 3 tháng 5 Ất Mùi, Đức
Hộ Pháp đến dự lễ phát thưởng và ban lời huấn dụ cho ban Giáo chức Đạo Đức Học
Đường như sau :
"
Phương pháp hay hơn hết là nơi các con làm thế nào dung hoà hai nền văn minh ấy
(tức Âu - Á).
Bần
Đạo đi quan sát ở Đài Loan, ở Nhật, ở Triều Tiên rồi, mới cân coi phương pháp
họ đã cải tổ nền văn minh của họ thế nào và họ đã dìu đường cho hàng thanh niên
của họ về phương pháp học thức thế nào. Bần Đạo ngó thấy cái hay của họ là
những điều chi ở ngoài họ để ngoài, với hàng rào kín đáo; cái chi ở trong giữ
gìn đáo để kỷ lưỡng ở trong…
Duy
có một điều quý hoá hơn hết mà Bần Đạo lấy làm sung sướng thấy đặng là cả phong
hoá văn hiến cổ truyền họ vẫn giữ. Họ bảo thủ nó tồn tại, hiển nhiên không cho
ngoại lai xâm phạm ".
(TT99, tr.2-3).
6 . Lễ phát thưởng học sinh Đạo Đức
Học Đường năm 1974 :
Vào lúc 09 giờ ngày mùng 9 tháng 4 năm
Giáp Dần (DL, 5/1974), Ngài Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh đã đến Đạo Đức Học
Đường chủ toạ Lễ bãi trường và phát thưởng cho những học sinh ưu tú niên khoá
1973-1974. Cùng đi với Ngài Thượng Đầu Sư có phái đoàn Hội Thánh gồm quý Ngài
Bảo Đạo HTĐ. Hiến Đạo HTĐ, hai Ngài Thái và Ngọc Đầu Sư, Ngài Qu.Thượng CPS,
Qu. Nữ Chánh Ps. Ngài Chơn nhơn Phó CQ.HT.PT. cùng quý CS Hiệp thiên, Cửu
trùng, Phước thiện lưỡng phái. Về phần chánh quyền có Phó Tỉnh trưởng Hành
chánh đại diện Đại tá tỉnh trưởng Tây Ninh, Ông Thanh tra trung học vùng III
cùng quý giáo chức, Ông phó Viện trưởng Viện Đại học Cao Đài, Gs. Mã Thành
Công.
Khởi đầu buổi lễ, lễ chào Quốc kỳ và Đạo
kỳ,một phút mặc niệm để tưởng nhớ công ơn Đức Hộ Pháp cũng như quý chức sắc,
quý ân sư quá cố đã hy sinh cho Đạo Đức Học Đường. Kế đến ông Phụ tá Hiệu
trưởng đọc diễn văn khai mạc, tiếp theo một học sinh đại diện cho hơn bốn ngàn
học sinh Đạo Đức Học Đường đọc diễn văn bày tỏ lòng tri ân Hội Thánh và Chánh
quyền, học sinh nàycũng đã nói lên lòng biết ơn của toàn thể học sinh đối với
Đức Hộ Pháp, người đã hy sinhtất cả tâm chí tạo dựng ngôi trường, đào tạo những
trang tài đức phục vụ cho quốc gia dân tộc và Đạo pháp, tạo những người công
dân biết yêu quê hương và quí chuộng đạo nghĩa…
Sau cùng, Ngài Thượng Đầu Sư ban huấn từ,
Ngài để lời khen ngợi tất cả học sinh Đạo Đức học Đường, niềm ao ước là đặt kỳ
vọng vào các em cháu học sinh ráng cố gắng học hành để sau này trở nên những
bậc nhânt ài có đầy đủ đạo đức phục vụ cho quốc gia và Đạo pháp. Ngài cầu
nguyện ơn trên và Đức Hộ Pháp hộ trì cho các em cháu học sinh được sáng thông
trí tuệ học tập.
Sau đó Hội Thánh, quý quan khách phát
tượng trưng một ít phần thưởng, những phần thưởng còn lại được thầy cô phân
phát sau, xem kẽ chương trình lễ phát thưởng có phần văn nghệ do các em học
sinh trình diễn giúp vui.
Trường Đạo Đức Học Đường đã hoạt động gần
hai thế hệ, đủ để vườn ươm lên cây và trổ hoa trái, truyền bá ánh sáng văn hoá
và giáo lý Đạo Cao Đài không những cho 19 phận Đạo mà còn cho học sinh các tỉnh
về đây tá túc học tập. Bao nhiêu cảm tình bấy nhiêu hoài niệm trường cũ đã chất
chứa trong tâm qua bao thế hệ học sinh. Có dịp đi qua trường lòng ai không rào
rạc nhớ từng mái tranh góc lớp, gợi lên những bộ mặt chất phát thân thương. Ôi!
Ngày ấy còn đâu (?).
TIẾT
2 : NGHĨA THỤC LÊ VĂN TRUNG
"
Nghĩa thục Lê Văn Trung giáo dân khai tâm mẫn tuệ
Thượng
Trung Nhứt Giáo Tông hương đạo độ thế hằng sanh."
1.
Sơ lược việc thành lập trường .
Vào cuối năm 1949, Đoàn thiếu nhi quân
được quân đội thành lập. Trụ sở toạ lạc tại ngã tư Ao Hồ trên đường Hoàng Tòng
Hướng. Nơi học tập văn hoá của các thiếu nhi quân thường gọi là Trường phổ
thông. Hai cơ sở này đều do thiếu tá Nguyễn Văn Ngọ chỉ huy.
Đến giữa năm 1952, do sự sắp xếp của Hội
Thánh các học sinh vừa thi đỗ tiểu học của trường Đạo Đức đều dời sang trường
này tiếp tục học lớp Đệ Thất.
Tháng 9-1952 trường làm lễ khai giảng tại
rạp hát cửa số 7, có Đức Phạm Hộ Pháp đến chủ toạ danh dự buổi lễ. Trong lời
huấn dụ Đức Ngài đặt tên cho trường là Nghĩa thục Lê Văn Trung.
Từ đó, Đại tá Trần Văn Tuyên ( quen gọi
Trần Tuyên) làm Hiệu trưởng. Năm đó, trường có tất cả 9 lớp đệ thất từ A đến I
và hai lớp 1 èø Année và 2 è Année từ trường Đạo Đức Học Đường cũng chuyển sang
2 lớp học, 2 bên văn phòng.
Chương trình học của trường y như các
trường công lập. Đặc biệt có học thêm hai môn Hán Văn và Giáo lý.
Học sinh vào học phải đọc " Kinh nhập học ". Buổi sáng
chào cờ không hát quốc ca mà hát bài "
Học sinh hành khúc " vì một bên treo cờ quốc gia và một bên treo cờ
đạo.
2 . Tổ chức trường sở :
Trường có Ban Giám Đốc, Phòng Học Vụ,
Phòng Giám Thị, Phòng Giáo Sư.
Ngày 21-3-1955, Chính phủ Liên Hiệp được
thành lập, Đạo Cao Đài tham dự 4 ghế bộ trưởng. Trong đó có Đại tá Trần Tuyên.
Oâng vốn là Chánh văn phòng Bộ Ngoại Giao từ ngày 28-5-1946.
Sau đó, nhà văn Chu Tử tức Chu Văn Bình
lên thay làm Hiệu trưởng, điều khiển trường.
Ngày 6-8-1955 Ngô Đình Diệm phái tướng
Nguyễn Thành Phương lập Ban Thanh Trừng các phần tử chống chính quyền. Do đó,
ông Chu Văn Bình và các giáo sư đến cộng tác với trường bỏ trường về Sài gòn,
khiến trường bị khủng hoảng trầm trọng.
Nhất là Quân đội Cao Đài được quốc gia
hoá (1955) nên không còn bảo trợ tiền bạc cho trường nữa. Các học sinh phải
đóng tiền. Do đó, một số học sinh nghèo phải nghỉ ngang, một số bỏ về quê đi
học trường ở các tỉnh.
Năm học 1955-1956 các học sinh lớp Đệ Tứ
đi thi Trung học Đệ Nhất cấp, các chứng chỉ học trình cuối cấp mang tên trường
Đạo Đức Học Đường và do Hiệu trưởng Nguyễn Hữu Lương ký tên.
Sau đó trường được bán công hoá, do Hiệu
trưởng trưởng Trung học Tây Ninh kiêm nhiệm.
Thời gian này, Hiệu Đoàn Trường hoạt động
không mạnh nên giáo sư Trần Văn Rạng được phép Hiệu trưởng và Học viện lập Liên
Đoàn Hướng Đạo Lê Văn Trung để rèn luyện cho học sinh sự tháo vát và nhanh
nhẹn,sau trở thành Đạo (tức Tỉnh Hội) Vàm Cỏ Đông dời trụ sở về tỉnh lỵ.
Vừa lúc đó, Hiền tài Dương Văn Dũng xin
nghỉ dạy trường công lập về làm Hiệu trưởng trường TH Lê Văn Trung. Từ đó
trường phát triển mạnh. Trường mở các lớp đệ nhị cấp, có học sinh thi tú tài,
đỗ đạt cao.
Trường Trung Tiểu học Lê Văn Trung chỉ
tồn tại trong 23 năm nhưng đã đào tạo nhiều nhân tài cho Đạo và cho nước. Xin
đọc lời khen ngợi trong buổi lễ phát thưởng tháng 5-1973 làm tiêu biểu.
3.
Lễ phát thưởng của Trung, Tiểu học Lê Văn Trung :
Vào lúc 08 giờ ngày 25 tháng 4 Quí Sửu
(27-5-1973) Ngài Thượng Chánh Phối sư Thượng Nhã Thanh đã đến chủ toạ lễ bãi
trường và phát thưởng của Trường Trung, Tiểu học Lê Văn Trung niên học
1972-1973. Hiện diện trong buổi lễ có Ngài Bảo Đạo HTĐ, Ngài Thái Chánh Phối
Sư, Bà Phối Sư Hương Mây điều khiển Tam Viện Học, Y, Nông cùng chư Chức sắc. Về
phần quan khách có Phó Tỉnh trưởng Hành chánh, thay mặt Đại tá Tỉnh Trưởng Tây
Ninh, quí vị phụ huynh học sinh.
Mở đầu buổi lễ, ông Hiệu trưởng đọc diễn
văn khai mạc, kế tiếp một đại diện học sinh trình bày cảm tưởng. Sau đó, ông
Phó Tỉnh trưởng hành chánh để lời phủ dụ, và sau cùng, Ngài Qu. Thượng Chánh
Phối Sư ban huấn từ. Ngài nhắc nhở quí vị phụ huynh cần lưu tâm đến việc học
hành,đức hạnh của con em mình bằng cách liên lạc với nhà trường để theo dõi về
sở hành của chúng. Ngài để lời ban khen quí vị giáo sư, Ban giám đốc, chính quí
vị là những chiến sĩ trungkiên trên mặt trận văn hoá, mang bó đuốc bừng cháy
của văn minh soi sáng làng mạc, chống giặc mù chữ, chống lại tất cả những gì sa
đoạ, sai lạc, gây thưởng tổn cho người dân về mặt tinh thần. Ngài nhắc nhở các
em học sinh phải cố gắng học tập để trở thành những phần tử ưu tú phụng sự cho
Tổ quốc giống nòi và Đạo pháp.
Tiếp tục là phần phát thưởng danh dự
tượng trưng cho những học sinh ưu tú. Được biết, Trung, Tiểu học Lê Văn Trung
năm nay gồm 155 phần thưởng cho bậc Trung học, 73 phần thưởng cho bậc Tiểu học
và 36 phần thưởng sinh hoạt học đường.
Dưới đây là nguyên văn bài huấn dụ của
Ngài Quyền Thượng Chánh phối sư.
- Hôm nay, tôi rất hân hạnh đến chủ toạ
buổi lễ phát thưởng cho các em học sinh niên khoá 1972-1973 của trường Lê Văn
Trung xin cám ơn ông Hiệu trưởng, quý Giáo chức cùng quý vị phụ huynh học sinh
đã dành sự danh dự cho tôi.
Tôi cũng lấy làm mừng thấy các bậc cha mẹ
học sinh cùng tham dự buổi lễ phát thưởng chứng tỏ quý vị đã lưu tậm đến học
đường, nơi nung đúc những tinh hoa của đất nước, những công dân hữu ích cho xã
hội. Nhân dịp này tôi yêu cầu quý vị trong niên học tới đây sẽ luôn luôn lưu
tâm hơn nữa, bằng cách tiếp xúc thường xuyên với học đường để giúp các vị giáo
chức trong việc kiểm soát sự học tập cũng như về đức hạnh của con em mình, đồng
thời nếu có thể nâng đỡ học đường về mặt tinh thần hay vật chất. Có được sự
giao tiếp như vậy, không khí học đường mới phấn khởi, con em mình mới mau tiến
bộ và trở nên ngoan ngoãn.
Thưa quý Giáo sư, Giáo viên nam nữ.
Sau ngót mười tháng trời tận tình giảng
dạy các em học sinh, quý vị đã không nề khó nhọc vất vả.
Điều mà tôi muốn thốn lên trước tiên với
quý vị là niềm cảm thông sâu xa của tôi về những công tác khó khăn mà quý vị đã
can đảm nhận lãnh và thi hành trọn vẹn từ trước đến nay. Với tinh thần phục vụ
cao cả, quý vị đã xung phong mang bó đuốc bừng cháy của văn minh soi sáng làng
mạc, chống giặc mù chữ, chống lại tất cả những gì sa đoạ, sai lạc, gây thương
tổn cho người dân về mặt tinh thần, quý vị không những có nhiệm vụ giáo dục con
em để sau nầy trở nên những con dân hữu dụng cho tổ quốc, mà còn phải có bổn
phận của một chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, bảo tồn tinh thần cao cả của dân
tộc. Tiện đây, tôi xin ngỏ lời khen thưởng quý vị về tinh thần phục vụ cao
trọng đó.
Các em học sinh,
Tôi rất lấy làm mừng được nhìn thấy nét
mặt hớn hở vui của các em dưới mái trường ấm cúng này, bởi vì hình ản của các
em chính là hình ảnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng các em đã may mắn hơn
tôi thuở ấy, các em được vui vẻ học-hành trong bầu không khí tự do phóng khoáng
do Hội Thánh Cao Đài lãnh đạo, lúc nào Hội Thánh cũng hằng lưu tâm săn sóc đến
đời sống và sự học vấn của các em.
Hôm nay, các em cùng nhau họp mặt vui vẻ
và thân mật trong lễ phát phần thưởng, với các em được lãnh tôi có lời nhiệt
tình khen ngợi ; còn các em khác tôi khuyên cố gắng học tập chuyên trì các em
cần phải có tinh thần học đến tận nơi, hỏi đến khi hiểu thật trong suốt, hành
thật chu đáo, mới thật sự là giá trị của một học sinh ưu tú.
Ngày mai, các em sẽ tạm xa trường,xa
thầy, xa bạn bè về nghỉ với gia đình.
Trong những tháng nghỉ hè, các em sẽ vui
chơi thoả thích để bồi dưỡng sức khỏe. Các em sẽ có dịp giúp đỡ cha mẹ công
việc nhà, đem những điều hay đã học hỏi được bày vẽ cho các em, các bạn và
những người không có hoàn cảnh thuận lợi đi học như các em.
Ở trưởng, các em đã là những học sinh
ngoan ngoãn, về nhà các em sẽ là những con hiếu thảo của cha mẹ, hoà thuận với
anh em, thân thiện với bà con hàng xóm để xứng đáng với công lao của cha mẹ và
thầy cô đã dày công dạy bảo .
Trước khi dứt lời, tôi thay mặt Hội Thánh
ban khen Quản trưởng, Ban Giám Đốc, Giám Thị, quý Giáo sư, giáo viên đã dày
công tạo nên danh dự cho trường Trung, Tiểu học Lê Văn Trung, tôi mong rằng quý
vị nên tích cực mãi để danh được thêm cao, tôi cầu nguyện ơn trên Đức Chí Tôn,
Phật Mẫu, các Đấng Thiêng Liêng, Đức Quyền Giáo Tông ban phúc lành cho quý vị
và các em học sinh luôn được trí tuệ sáng suốt cùng nhau tô điểm uy danh trường
Trung, Tiểu học Lê Văn Trung và thành thật chúc quý vị được bình an để vui
hưởng mùa Quí Sửu này.
4 . Chỉ đạo của Học Viện trong năm
học.
Dưới đây là bản chỉ dẫn chi tiết hàng
tháng của Học Viện các trường trực thuộc Học Viện thông tư cho các Hiệu trưởng
phải kiểm tra ở từng tháng trong năm như sau :
THÁNG 9 :
- Số trẻ 6 tuổi vào lớp 1 so với số trẻ
trong độ tuổi ở địa phương.
- Xây dựng kế hoạch của các tổ chuyên môn
và các bộ phận khác.
- Kiểm tra chất lượng học sinh.
- Việc tổ chức tập thể dục.
- Hồ sơ học sinh mới tuyển vào lớp đầu
cấp.
THÁNG 10 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên
trong trường.
- Hoạt động của các tổ chuyên môn.
- Việc giữ gìn tập,vở, sách giáo khoa của
học sinh.
THÁNG 11 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên
trong trường
- Việc thực hiện nội qui của trường đối
với giáo viên, học sinh.
THÁNG 12 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên
trong trường.
- Việc thực hiện kế hoạch của Ban giám
đốc, các tổ chuyên môn và các bộ phận chuẩn bị cho thi Đệ I lục cá nguyệt.
THÁNG 1 :
- Việc tổ chức thi, cho điểm, xếp loại và
vào học bạ học.
- Xếp thi đua ở các lớp, các tổ chuyên
môn.
THÁNG 2 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên
trong trường.
- Việc thực hiện nội qui của trường đối
với giáo viên, học sinh.
- Hoạt động của các tổ chuyên môn.
THÁNG 3 :
- Kiểm tra toàn diệm một số giáo viên
trong trường.
- Việc giữ gìn vở, SGK của học sinh.
THÁNG 4 :
- Việc thực hiện kế hoạch năm học của Ban
Giám Đốc, tổ chuyên môn và các bộ phận khác để chuẩn bị tổng kết.
- Việc bồi dưỡng và chất lượng học sinh
lớp cuối cấp.
- Kiểm tra hồ sơ thi của học sinh lớp
cuối cấp.
THÁNG 5
- Công tác tổ chức thi, chấm điểm, xếp
loại vào học bạ cả năm học.
- Công tác tổng kết, xếp loại thi đua ở
các lớp.
- Việc hoàn chỉnh hồ sơ thi của học sinh
lớp cuối cấp.
- Kiểm tra chất lượng học sinh lớp 1, 2
để cho lên lớp.
THÁNG 6, 7
- Nghỉ hè
THÁNG 8
- Công tác chuẩn bị khai giảng đối với
giáo viên và học sinh
- Việc tổ chức thi lại và xét lên lớp
- Việc vệ sinh lớp học và sân trường
- Mỗi ngày hiệu truởng kiểm tra việc thực
hiện giờ giấc của giáo viên, học sinh
+ Ban giám đốc kiểm tra việc cho điểm,
cộng điểm, xếp loại ở các lớp
+ Ban giám đốc kiểm tra việc thực hiện
chương trình
+ Ban giám đốc kiểm tra việc thu, chi các
loại quỹ
+ Ban giám đốc kiểm tra số học sinh bỏ
học ở từng lớp
+ Ban giám đốc kiểm tra việc giữ gìn vệ
sinh cá nhân của học sinh - Mỗi lục cá nguyệt :
Ban giám đốc kiểm tra hồ sơ giáo viên ít
nhất là 1 lần. Trong một năm học Hiệu trưởng phải kiểm trả đầy đủ các nội dung
nêu trong từng tháng và định kỳ như trên có ghi rõ kết quả kiểm tra vào sổ kiểm
tra nội bộ trường học.
TIẾT
3 : VIỆN ÐẠI HỌC CAO ĐÀI
"
Phạm Công Tắc Hộ Pháp khai đạo độ trì sanh chúng
Viện
Đại Học Cao Đài khải đường truyền giáo thế nhân."
1 . Tổng quát về Viện Đại Học Cao Đài
Từ
năm1971Viện Đại Học Cao Đài (tạm đặt trường sở tại nhà Hội Vạn Linh) đã lập đầy
đủ để xin khai giảng. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trù trừ không cấp giấy phép vì
người đứng tên Viện
trưởng là Tiến sĩ Nguyễn Văn Lộc, Bảo Học Quân HTĐ vốn là cựu Thủ tướng đối
nghịch.
Việc tuyển sinh phải hoãn đi hoãn lại
nhiều lần. Mãi đến ngày 24/11/1971 Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Cao Đài mới
được Bộ Giáo Dục cấp giấy phép số 7999/GD/VP đề ngày 29/9/1971 bổ túc giấy phép
số 9335/GD cấp ngày 24/11/1971 mà vị quyền viện trưởng chưa có bằng cử nhân,
nhằm mua chuộc cử tri theo Đạo Cao Đài trong kỳ bầu cử Tổng thống vào ngày
03/10/1971.
Vị Thời Quân Khai Đạo, Chủ Tịch Hội Đồng
Quản Trị đã trấn tỉnh như sau, nhân ngày bác sĩ Lê Văn Hoạch, Bảo Sanh Quân HTĐ
nhận chức viện trưởng :
- Suốt gần hai niên khoá 1971 - 1972 và
1972-1973 với tư cách quyền viện trưởng tôi xin xác nhận thành quả tốt đẹp của
viện, một phần lớn công do luật sư Nguyễn Văn Lộc, Bảo Học Quân, nhị vị khoa
trưởng là tiến sĩ Lê Trọng Vinh và kỹ sư Đoàn Minh Quang đảm nhiệm điều hành
giảng huấn ….
Song song với việc điều hành viện. Hội
Đồng Quản Trị chúng tôi đặt nặng trọng tâm xúc tiến công tác xây cất viện trên
phần đất 7 mẫu do cố Hộ Pháp đã chỉ định tại Chợ Long Hoa. Hội Đồng Quản Trị
bằng mọi cách phải hoàn thành việc xây cất khu C để đưa một số sinh viên về học
trong niên khoá 1973-1974. Với ngân khoản 400.000.000 dự trù xây cất Viện đại
học Cao Đài, Hội Đồng Quản Trị tin tưởng vào .sự bảo trợ của Hội Thánh, sự yểm
trợ của chính quyền và lòng hảo tâm của chư tín hữu Cao Đài trên toàn quốc,
nhất định Viện Đại Học Cao Đài sẽ được hoàn thành .
2 . Việc xây cất Viện Đại Học Cao
Đài.
Khu đất có diện tích 7 mẫu 82 sào, khu
xây viện chiếm 19.500 mét vuông, cửa chánh quay ra đường Ca Bảo Đạo, cửa phụ ở
đường Phạm Ngọc Trấn. Khởi công xây cất ngày 9-1-Nhâm Tý (dl 23-2-1972).
Để kịp khai giảng năm học 1971-1972, Hội
Thánh quyết định thiết kế nhà Hội Vạn Linh tạm làm Viện Đại Học Cao Đài
Ngày 30-9-1971, ông Tổng Trưởng Bộ Giáo
Dục lên Tòa Thánh Tây Ninh trao nghị định thành lập Viện Đại Học Cao Đài đủ
tính chất pháp lý. Ông Tổng Trưởng nói rõ về việc thành lập trong giai đoạn đầu
chỉ có 2 phân khoa : Nông Lâm Mục và Thần Học Cao Đài Giáo.
Ông Tổng Trưởng trao cho Hội Thánh giấy
phép số 7999/GD/VP ngày 29-9-1971 của Bộ Giáo Dục, sau lập thêm phân khoa sư
phạm gồm 2 ngành : Văn khoa và khoa học. Giấy phép bổ túc số 9335 /GD ngày
24-11-1971.
3 . Thể lệ và học trình các phân
khoa
I / NHẬP HỌC :
1) Mỗi năm Viện sẽ tổ chức vào đầu niên
khoá một kỳ thi tuyển để chọn các sinh viên nhập học năm thứ I các Phân khoa
của Viện.
Kỳ thi tuyển đầu tiên được tổ chức tại
Đạo Đức Học Đường (Toà Thánh-Tây Ninh) vào ngày 20-12-1971.
2) Ứng viên phải hội đủ các điều kiện sau
:
- Có bằng Tú tài II, hoặc văn bằng tương
đương.
- Hợp lệ tình trạng quân dịch.
3) Sau khi có kết quả kỳ thi tuyển. Viện
sẽ ấn định một thời hạn ghi danh. Chỉ có thí sinh trúng tuyển mới được ghi danh
và chỉ được ghi danh trong thời gian hạn định.
Thí sinh không ghi danh coi như từ khước
việc học ở Viện và sau thời hạn ghi danh, Viện sẽ không chấp nhận bất cứ sự
khiếu nại nào.
4) Khi ghi danh sinh viên phải nộp đầy đủ
những hồ sơ do Viện chỉ định, gồm có :
- Đơn xin ghi danh
- Bảnsao chứng chỉ Tú Tài II hoặc văn
bằng tương đương có thị thực.
- Bản trích lục giấy khai sanh
- Biên nhận đóng lệ phí ghi danh
- Bốn (04) ảnh 4x6
5) Sinh viên dùng hồ sơ giả mạo, khi bị
phát giác sẽ bị loại khỏi Viện và có thể bị truy bố trước Tòa án.
II/
HỌC TRÌNH CÁC PHÂN KHOA.
A/
PHÂN KHOA NÔNG LÂM MỤC
1)
Phân khoa Nông Lâm Mục gồm có hai cấp :
Cấp I
: Học trình 2 năm : Sinh viên tốt nghiệp sẽ được cấp văn bằng Cán sự Nông Lâm
Mục.
Cấp II
: Học trình 4 năm : Các sinh viên có khả năng chuyên môn và có phương tiện tiếp tục thêm 2 năm,
khi tốt nghiệp sẽ được cấp bằng kỹ sư Nông Lâm Mục với ghi chú ngành chuyên môn
(Nông Khoa, Súc Khoa…).
a) Ở cấp I cũng như cấp II, cuối năm thứ
hai và năm thứ tư, sinh viên phải đệ trình một tiểu luận, ít nhất 30 trang đánh
máy về một đề tài đã được lựa chọn trước sự chấp thuận của một trong các Giáo
sư đang phụ trách năm thứ 2 (hoặc năm thứ tư tuỳ trường hợp).
B/ PHÂN KHOA SƯ PHẠM
1) Phân khoa sư phạm gồm 2 cấp :
Cấp I : Học trình 2 năm : Sinh viên tốt
nghiệp sẽ được cấp văn bằng Cao Đẳng Sư Phạm có ghi chú ngành liên hệ và nhiệm
ý lựa chọn.
Cấp II : Học trình 4 năm : Các sinh viên
có khả năng chuyên môn, có phương tiện có thể tiếp tục học thêm 2 năm để lấy
bằng Cử nhân Sư Phạm (Ban Văn Khoa hoặc Ban Khoa Học).
a) Ở cấp I, Viện đào tạo các Giáo sư
Trung học Đệ Nhứt Cấp và ở cấp II Viện đào tạo các Giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp.
*
* *
Chính học trình của Viện Đại Học Cao Đài
là một sự mới lạ trong nền Đại Học Cao Đài là một sự mới lạ trong nền Đại Học
Việt Nam vì chương trình học gồm có hai cấp bực.
Cấp bực thứ nhứt gồm 2 năm học đầu áp
dụng tinh thần Đại Học Cộng Đồng (Private Junior College) được phát triển tại
Hoa Kỳ và một số Quốc gia trên thế giới, nhằm đạo tạo cán bộ trung cấp với một
chương trình Đại Học chuyên khoa ngắn hạn để có đủ kiến thức tổng quát và thực
dụng về các ngành chuyên môn phù hợp với nhu cầu tại địa phương. Chương trình
ngắn hạn này cũng có tác dụng đại chúng hoá nền Đại Học.
Như vậy, sau hai năm học, sinh viên tốt
nghiệp có thể sử dụng được cấp bằng của mình trong các ngành liên hệ.
Tuy nhiên, Viện Đại Học Cao Đài không hạn
chế chương trình học của sinh viên ngay ở cấp bực thứ nhứt, vì tiếp theo đó,
sinh viên có khả năng và phương tiện còn có thể tiếp tục việc theo học ở cấp
bực thứ hai theo như các Viện Đại Học thông thường của Quốc gia hay các tôn
giáo bạn.
Nhưng ở cấp bực thứ hai tính cách chuyên
khoa được tăng gia mạnh mẽ hơn nên sinh viên tốt nghiệp có khả năng chuyên môn
tăng tiến hơn các Viện Đại Học theo lề lối phổ thông cổ điển.
III/
HỌC TẬP.
1) Sinh viên theo học các Phân Khoa của
Viện phải có mặt trong tất cả các giảng khoá, trừ trường hợp một số quân nhân
công chức vì công vụ không thể chuyên cần được. Trường hợp này sinh viên nên
lưu ý Ban Giám Đốc để được chỉ dẫn giúp đỡ về mặt học vụ.
( Giảng Khoá đầu tiên đã được khai giảng
sau một buổi lễ cử hành dưới sự chủ toạ của Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức tại
Viện ngày 28-12-1971)
2) Trong suốt học trình, ở mỗi cấp, sinh
viên không được ở lại hơn một năm học.
3) Sinh viên vì những lý do chính đáng có
thể gián đoạn việc học, nhưng chỉ được học lại với sự chấp thuận của ông Viện
trưởng.
4) Thời gian tạm nghỉ học sẽ được coi như
không ở lại lớp.
5) Mỗi năm nhà trường tổ chức 2 kỳ thi
lên lớp :
- Kỳ I : Cho tất cả các thí sinh của
Viện, có ghi tên dự thi.
- Kỳ II : Cho sinh viên thi hỏng kỳ I và
những sinh viên bị bịnh hay vì lý do công vụ không dự thi khoá I
6) Chỉ những sinh viên có ghi danh và dự
đủ số giờ thực tập mới được ghi danh dự thi.
7) Sinh viên được chấm đậu lên lớp đối
với :
- Phân khoa Nông Lâm Mục có điểm số trung
bình tổng quát là 12 điểm
- Phân khoa Sư Phạm có điểm số trung bình
tổng quát là 10
Trong cả hai phân khoa, thí sinh có điểm
một bài thi từ 05 trở xuống là sẽ bị điểm loại, thí sinh bị đánh rớt kỳ thi đó.
8) Thí sinh thi hỏng khoá I sẽ chỉ p hải
thi lại những bài có điểm số dưới 12 đối với phân khoa Nông Lâm Mục và dưới 10
đối với Phân khoa Sư Phạm
9) Căn cứ vào kết quả kỳ thi cuối niên
khoá năm thứ II (hoặc năm IV) sinh viên sẽ được xếp hạng :
Tối ưu : Nếu có điểm số trung bình từ
18/20 trở lên .
Ưu : Nếu có điểm số trung bình từ 16/20
trở lên .
Bình : Nếu có điểm số trung bình từ 14/20
trở lên .
Bình thứ : Nếu có điểm trung bình từ
12/20 trở lên .
Thứ : Nếu có điểm số trung bình từ 10/20
trở lên .
(riêng đối với sinh viên Sư Phạm)
10) Học phí ấn định cho niên khoá
1971-1972 là 10.000$. Các sinh viên được tuyển chọn qua kỳ thi tuyển phải thanh
toán học phí cho trọn niên khoá một lần nội trong tuần lễ đầu khai giảng để làm
thủ tục hồ sơ nhập học và xin hoãn dịch vì học vấn nếu có. Các thí sinh trúng
tuyển không làm thủ tục nhập học và đóng tất cả học phí trong thời hạn do Viện
ấn định được xem như tự ý bỏ học và mọi sự khiếu nại sẽ không được cứu xét.
11) Viện cũng chấp nhận một số bàng thính
viên (auditeurs libres) là những người có hoặc không có cấp bằng Tú Tài toàn
phần, nhưng có đủ khả năng cần thiết, đến tham dự các buổi giảng huấn trong các
phân khoa của Viện để trau giồi thêm kiến thức riêng của mình.
Các bàng thính viên chỉ được vào giảng
đường để dự thính mà thôi không được chấp nhận cho thi cử lên lớp hoặc lấy cấp
bằng như các sinh viên của Viện và cũng không được cấp phát chứng chỉ gì.
12) Muốn được phép dự thính các buổi
giảng huấn, các bàng thính viên phải xin ghi danh theo thể thức “bằng thính
viên” và phải đóng choViện một khoản học phí là 5.000$ mỗi niên khoá.
IV/
QUYỀN LỢI.
1) Sinh viên của Viện Đại Học Cao Đài sẽ
được quyền :
- Sử dụng thư viện và phòng đọc sách của
Thư viện trong những ngày giờ do Thư viện ấn định.
- Sinh hoạt thể thao, văn nghệ, du ngoạn
do Viện tổ chức.
* Sinh viên xuất sắc :
- Trong thời gian theo học có thể được
miễn giảm học phí hoặc cấp học bổng, tiền học bổng sẽ do Hội Đồng Quản Trị qui
định với sự đề nghị của Khoa Trưởng liên hệ.
( Hiện tại Viện chỉ miễn học phí cho một
số con em Chức sắc và Đạo hữu không có khả năng tài chính và làm công quả cho
Đạo).
- Sau khi tốt nghiệp sẽ được Viện giới
thiệu vào làm việc tại các cơ sở công hoặc tư hay phụ trách giảng dạy tại các
trường do Hội Thánh Cao Đài tạo lập và quản trị như Trung học Lê Văn Trung, Đạo
Đức Học Đường …
TIẾT
4 : HẠNH ĐƯỜNG
"
Hạnh Đường giáo dưỡng Lễ sanh tầm triết lý,
Đại
Đạo hoằng dương Giáo hữu độ quần sanh."
1.
Sơ lược về Hạnh Đường Đại Đạo :
Hạnh Đường toạ lạc đối diện với Giáo Tông
Đường. Nơi huấn luyện chức việc, chức sắc Lễ sanh, Giáo hữu hành đạo tha
phương.
Trong Lời Phê Đức Hộ Pháp, Ngài dạy thờ
thầy Mạnh Tử nơi Hạnh Đường vì Mạnh Tử rất có hiếu nghe lời mẹ học hành chăm
chỉ, được người đời tôn danh Á Thánh.
"
Tích xưa Mạnh Mẫu rành rành,
Khuyên
con học tập sử xanh bia truyền."
Mặt khác, thầy Mạnh Tử chủ trương Nhân
Nghĩa và lấy dân làm gốc, liệt vua vào hàng thứ yếu như chủ trương của Đạo Cao
Đài, tiềm ẩn trong câu " Dân vi quí,
xã tắc vi thứ chi, quân vi khinh ", mà không coi trọng vua như Khổng
Tử "Trung
thần bất sự nhị quân".
2
. Lễ khai giảng khoá huấn luyện Chức Việc.
Trong Đạo Cao Đài Hội Thánh Cửu Trùng Đài
có hai tầng : Hội Thánh anh gồm chức sắc từ Lễ sanh trở lên. Hội Thánh em gồm
chức việc Ban Trị Sự. Đây là hạ tầng của cơ sở quan trọng của Đạo. Trải qua
nhiều biến cố, hàng chức sắc bị khảo đảo, bị lưu đày. Ban Trị Sự một lòng trung
thành bám trụ giữ Đạo hữu. Họ là những người bình dân tôn thờ Đức Chí Tôn, Phật
Mẫu, họ vững tin rằng : " tại người
làm sai chớ đạo không sai ".
Ngày mồng 4 tháng 6 năm Canh Tuất (dl.
8-7-1970) Đức Cao Thượng Sanh đến dự lễ khai giảng khoá huấn luyện chức việc
Ban Trị Sự Châu Thành Thánh Địa tại Hạnh Đường và ban huấn từ như sau :
"
Hội Thánh hằng để ý chăm nom dìu dắt quý vị, Chức sẳn giảng viên không nài khó
nhọc ra công chỉ dẫn, dạy dỗ đàn em cho đủ tài, đủ hạnh hầu phục vụ đắc lực
nhơn sanh trên đường tu hành thì quý vị nên gắng lo trau giồi trí thức cho được
minh mẫn sáng suốt để ngày sau có thể lập vị xứng đáng cho mình trong cửa Đại
Đạo."
Thiết
tưởng dầu trong giới nào, từ cổ chí kim ai cũng lấy sự học tập làm phương pháp
đào tạo nhân tài, nhứt là trong các tôn giáo, sự học hỏi lại càng cần thiết cho
người tu sĩ do câu : " Tự giác nhi giác tha " . Phải đủ sáng suốt mới
có thể dìu đường cho kẻ khác, nếu mình không sáng suốt hoặc thông hiểu một cách
mù mờ, tức nhiên tránh không khỏi sự lạc đường sai hướng và trên bước lầm lạc
của mình, mình sẽ kéo theo cả một đoàn người do mình làm hướng đạo.
Đức Chí Tôn có dạy : " Dầu làm Vua, làm Thầy, làm Công nghệ, làm Đạo sĩ cũng cần phải
có cái chí lớn mới thành tựu đặng "
Chúng ta nên quan niệm rằng trước khi lập
chí, chúng ta cần phải lo học hỏi để trở nên sáng suốt tức là đem cái trí não
ra khỏi vòng mê tối vậy.
Hội Thánh hằng để tâm lo lắng, muốn cho
quý vị trở nên những nhơn vật xứng đáng đối với mặt Đạo cũng như mặt Đời, vì
quý vị là những cộng sự viên cần yếu của Hội Thánh, đại diện cho Hội Thánh nơi
địa phận mình trấn nhậm, tuy ở vào địa vị hạ cấp của guồng máy Hành Chánh Đạo,
nhưng quý vị có nhiệm vụ trọng yếu không kém gì các Chức sắc cao cấp của Hội
Thánh. Hơn nữa, quý vị là những người thân cận hằng ngày với tín đồ, hoà mình
với nhơn sanh chia vui sớt nhọc với Bổn Đạo trong mọi trường hợp thì quý vị
chẳng nên khinh thường cái trách vụ cao đẹp của mình.
Cũng như ngoài mặt Đời, nền tảng chính
trị của quốc gia ở ấp, xã,trong Đạo Cao Đài nền tảng Hành Chánh Đạo ở nơi ấp và
Hương Đạo, rồi kế đến Tộc Đạo hay là Phận Đạo.
Mặc dù ở vào hạ tầng cơ sở, nhưng nếu
trong ấp hoặc Hương Đạo có điều xáo trộn trên dưới thiếu sự điều hoà, tín hữu
có điều bất mãn, nhơn tâm ly tán, mất hẳn tình đoàn kết tương thần thì ở nơi cấp
trên Hội Thánh cũng chịu ảnh hưởng không ít hay khó giữ uy tín đối với mặt Đời
và Bổn Đạo.
Bởi thế đem thắng lợi vẻ vang về cho Đạo
hay làm cho Đạo thất bại, mang tai tiếng cũng đều do nơi hành vi của quý vị.
Đã mang danh là Hội Thánh em , quý vị nên
thận trọng giữ gìn tư cách đứng đắn, làm cho người đời kính nể, người Đạo tin
cậy, đối đãi với toàn thể tín hữu nơi địa phận mình như tình huynh đệ trong gia
đình, đem tình thương chan rưới khắp cả Bổn Đạo, giúp đỡ, nương nhờ lẫn nhau,
thực hành câu " Nhứt gia hữu sự bá
gia ưu ".
Được như vậy dù cuộc đời chua cay bi đát
đến mức nào, quý vị cũng không đến nỗi lâm vào cảnh khó khăn nan giải.
Điều cần nhứt là phải trọn hiếu với Đức
Chí Tôn Đại Từ Phụ,giữ trọn trung thành với Hội Thánh, ngoài ra gắng công học
hỏi, noi gương Thánh trước Hiền xưa mà rèn luyện đức tốt tánh lành. Tiền
tài,châu báu có nhiều giá trị ở đời,nhưng đức tốt tánh lành có giá trị hơn nữa,
tiền tài châu báu có thể bị chúng cướp giựt chớ đức tốt tánh lành không thể nào
mất được và khi xác thân ta trở về với cát bụi, những đức tốt tánh lành sẽ theo
linh hồn ta để nâng cao địa vị ta nơi cõi Thiêng liêng, Đức Chí Tôn có cho bài
thi dạy rằng:
"
Được vàng chớ khá gọi là may
Vàng
hết tội kia chất dẫy đầy
Bỏ
đức bỏ nhân bao kiếp đọa
Khuyên
con giữ Đạo đến cùng Thầy."
Phân biệt được lẽ cao thấp giữa tinh thần
và vật chất, quý vị nên quí trọng cái thiên chức ấy.
Muốn làm tròn thiên chức ấy, quý vị nên
thực thi mấy điều sau đây :
1 / Thực hành trọn vẹn Tứ đại Điều qui ấn
định nơi chương V Tân Luật.
2 / Phải giữ dạ vô tư mà cư xử với Bổn
Đạo, không vì ai giàu mà trọng đãi, ai nghèo mà khinh khi.
3 / Chỉ thi hành những việc do Hội Thánh
ra lịnh bằng văn kiện chính thức, không nên chia phe phân nhóm làmmất sự đoàn
kết thân mật trong Bổn Đạo và gây sự khó khăn cho Hội Thánh.
4 / Nếu có điều khó khăn không giải quyết
được phải thỉnh giáo bề trên, không nên phán định sơ suất.
5 / Trong trường hợp nào cũng phải giữ uy
tín của mình và nâng cao uy quyền của Hội Thánh
Nếu quý vị tuân hành đúng theo lề lối ghi
trên đây, tôi tin chắc quý vị sẽ thành công mỹ mãn và sẽ được người Đạo cũng
như người Đời kính phục.
3
. Lễ khai giảng Hạnh Đường khóa Lễ Sanh.
Vào ngày 19-6-Quí Sửu (dl 18-7-1973),
toàn thể Lễ sanh tân phong tề tựu tại Hạnh Đường dự lễ khai giảng Hạnh Đường về
hành chánh đạo dành cho phẩm Lễ Sanh, đặt dưới quyền chủ tọa của Ngài Hiến Pháp
HTĐ.
Khởi đầu buổi lễ, Ngài Hiến Pháp và chư
chức sắc cao cấp bái lễ trước bàn thờ Đức Khổng Tử, lần lượt tới giảng viên,
học viên. Ông Quyền Thượng Chánh Phối Sư đọc diễn văn khai mạc xác nhận. Khoá
có 569 học viên gồm 464 nam và 105 nữ, được phân làm hai lớp chiều và sáng.
Thời gian học là 6 tháng.
Sau đó, Ngài Hiến Pháp HTĐ ban huấn từ có
đoạn viết:
"Trước
hết chức sắc đàn anh cần phải nêu gương tốt cho lời nói đi đôi với việc làm."
"
Tôn chỉ của Đại Đạo là qui tam giáo hiệp ngũ chi, nên chúng ta không kỳ thị tôn
giáo nào cả. Nhờ đó, sự thống nhất các tôn giáo và chi phái sẽ không gặp điều
trở ngại sau này."
"
Tôi rất vui mừng được tin Đạo Oomoto mời Đạo Cao Đài sang Nhật dự đại hội ....
Trong lúc người ngoại quốc hướng về Đạo ta thì chúng ta phải có thái độ như thế
nào để xứng đáng với câu “Danh bất hư truyền ". (Huấn từ của Ngài Hiến Pháp HTĐ TT.8,
tr.7)
4
. Lễ khai giảng Hạnh Đường khoá Giáo Hữu .
Vào ngày 17 tháng 4 Giáp Dần (dl
8-5-1974), toàn thể Giáo Hửu cựu và tân phong tề tựu tại Hạnh Đường dự lễ khai
giảng khoá Cao Đẳng HaÏnh Đường dưới quyền chủ tọa của Ngài Hiến Pháp HTĐ.
Sau nghi lễ, ông Giáo Sư quyền giám đốc
Hạnh Đường đọc diễn văn cho biết có 6 giảng viên và 262 học viên nam nữ chia ra
làm hai :
- Học
chính thức : nam 153, nữ 6
- Học
hàm thụ : nam 71, nữ 32
Sau
đó, Ngài Hiến Pháp HTĐ ban huấn từ, có đoạn viết :
" Tôi rất hài lòng nhận thấy hàng năm Hội Thánh
đều mở khoá Hạnh Đường, lo đào tạo chức sắc ưu tú, có năng lực
phục vụ Đạo pháp đắc lực để phổ htông chơn đạo khắp nơi, ngõ hầu nhân sanh hướng về tình thương bao la, mầu nhiệm của Đức
Thượng Đế ".
Đến ngày 17 tháng 9 Giáp Dần (dl
31-10-1974), Ban Giám Đốc Hạnh Đường đã làm lễ bãi khoá hàng phẩm Giáo Hữu.
Sau khi Hội Thánh nguyện hương trước bàn
thờ Khổng Thánh, vị Giáo Sư quyền giám đốc Hạnh Đường báo cáo kết quả khoá có
255 vị Giáo Hữu theo học, có nhiều vị đang hành đạo địa phương học hàm thụ. Nên
chỉ có 194 vị dự thi cuối khoá, trong đó 182 vị đậu, tỉ lệ 93,8%.
Hội Thánh phái tượng trưng 5 chứng chỉ
tốt nghiệp. Tiếp theo một học viên đọc lời tri ân Hội Thánh và các gaỉng viên.
Kế đó, Ngài Bảo Đạo, Tổng Giám Đốc Hạnh Đường ban huấn từ, có đoạn viết :
"
Với mấy em vừa chấm đậu, tôi xin chân thành ban khen mấy em có trình độ khá
vững đủ sức để đảm đương những trách vụ nặng nề mà Hội Thánh sẽ giao phó. Tôi
ước mong mấy em thi hành trách vụ, làm vui lòng Hội Thánh và được mọi người
kính mến."
“Mấy em nên nhớ rằng mấy em vừa được ban
cấp bằng Hạnh Đường thì nên rán cư xử sao cho ra hạnh người ta. Vì lẽ ấy muốn
giữ giá trị một chức sắc cần phải giữ hạnh nết cho đoan trang mới đặng mọi
người kính nể” (TT.110 tr.10-11).
5 . Giáo lý hướng thượng tiến bộ.
Đạo Cao Đài có một giáo lý bao dung rộng
rãi, coi nhân loại đều có một Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết
đại đồng, lấy tình thương xóa bỏ hận thù .”Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ
sức THƯƠNG YÊU nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à !” (TN 2, tr.69)
Giáo lý cao thượng, tiến bộ, diệt mê tín
dị đoan, coi cõi Hằng sống (Thiên đàng) và thế gian (Địa đàng) chỉ là một. " CẢNH NHÀN chẳng phải đâu xa, chỉ ở
nơi ĐỊA ĐÀNG đây." (Đàn đêm 21-2 -1927) hoặc " Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa ". (Đàn 28-1-1926). Thầy
chỉ rõ : " Hễ cái tâm sáng suốt
thiện từ đạo đức là thiên đàng, còn tâm mê muội vạy tà hung bạo là Địa ngục
cũng chỉ tại cái tâm ". Chính cái tâm của một số môn đệ thấp kém mà
Thầy răn dạy : " Đạo Thầy không mê
tín dị đoan , một số môn đệ bày biện vô lối, chẳng bao lâu thành ra mối bàn môn
Tả Đạo ". Một số người đã đưa lên bàn thờ những Thánh Tiên thần thoại
lý tưởng có từ lâu trong dân gian, nhằm lấy biểu tượng siêu thoát đạt đạo của
các Đấng ấy mà tế độ chúng sanh, chớ các Đấng ấy không phải là chủ tể và chủ
động trong việc giáo hóa nhơn sanh trong kỳ Ba phổ độ này. Dù vây, điều đó
không phù hợp với nền Tân Tôn giáo nên Đức Chí Tôn cho là "Bày biện vô lối".
"
Không có nhà thờ nào có ma thuật cả, vì ma thuật luôn giấu diếm, còn nghệ
thuật, tôn giáo mở toang cửa mời gọi mọi người "
"
Cái đẹp tự thân tôn giáo không đồng nghĩa với bất kỳ cái đẹp lý tưởng nào,
nhưng nó thể hiện một cách đặc thù của một nghệ thuật chân tính về nó ".
"
Thế nên, nghệ thuật và tôn giáo đều mang chức năng phục vụ xã hội hay một cộng
đồng. Điều đó, khiến cả hai không thể bị phân hóa hay chia cắt thành những bộ
phận rời" (E.Durkheim).
Người tín hữu Cao Đài nào cũng thông suốt
lời dạy sau đây của Đức Chí Tôn : " Thầy
đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con đắc đạo ". (TNHT .I, tr.12)
Nói thế không phải ai nhập môn vào đạo đều đắc đạo dễ cả mà phải dày công tu
luyện. Một đằng khác, Đức Chí Tôn nói rõ hơn : “Than ôi ! Đã bước vào đường đạo
hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn thì làm phận sự môn
đệ như thế có ích chi cho nền thánh giáo đâu? Đạo trời khai ba lượt, người tục
lỗi muôn phần,sanh đứng vào thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng,
đặng chờ đến kết quả hồn qui Thiên ngoại: Lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi
hành. Phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi còn
mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức để cho có ích chung nữa đặng.
Lương tâm của các con là một khiếu thiêng
liêng của Thây ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng
để hành việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do theo ý Trời, phạm một nét
vạy tà là phạm nơi Thiên luật. Phải quấy Thần Thánh chép biên, thưởng phạt duy
đợi ngày chung cuộc, khá biết vậy!”
Theo Thánh ý, dù có quyền thiêng liêng
giúp đỡ, nhưng con người phải tự cứu lấy mình : " Tận nhơn luật tri Thiên mạng " hay “có Trời mà cũng có Ta”, chớ không phải mọi việc đều buông xuôi phó
thác cho số mạng.
"
Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi
thiên hạ đặng. Nếu đời không tội lỗi, đâu phải nhọc đến công Thầy ". (TNHT.I, tr.33)
"
Thầy khuyên các con hãy mỡ rộng trí ra mà thương nhơn loại,thì mới hạp ý
thầy.Các con phải giữ gìn đức hạn, đối với kẻ trên bằng chữ khiêm hòa, đối với
kẻ dưới bằng chữ khoan dung ". (TNHT.I tr.71)
Đức Chí Tôn dạy ta xử ngược lại thế đời: " Các con hiền mà các con dữ, các con
yếu mà mạnh,các con nhỏ nhoi mà quyền thế, các con nhịn nhục mà hành phạt. Cử
chỉ của các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì gầnngôi Tiên
Phật đó ". (TNHT. I tr.46)
" Nho nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đòi đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành "
(TNHT.I, tr.122)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét