Giáo Dục Văn Hóa Đạo Cao Đài - 1/5 (HT. Trần Văn Rạng)


LỜI TỰA VỀ GIÁO DỤC
Quyển sách này không có ước vọng đúc kết về GIÁO DỤC, VĂN HOÁ và THANH NIÊN của Đạo Cao Đài, mà chỉ ghi chép lại đôi điều của một số người đã sống, đã học và lớn lên thành đạt trong một số lãnh vực.
Trước tiên, chúng tôi xin tôn vinh các bậc tiền nhân đã khai rừng phá rẫy xây dựng tổ đình Thánh Địa Cao Đài và mở trường Đạo để dạy dỗ đoàn hậu tấn tiến lên.

Mặt khác, do ước mong của các cựu sinh các trường Đạo Đức, Lê Văn Trung và Viện Đại học Cao Đài, để nhớ lại một thời "ăn chưa no, lo chưa tới, áo tơi không lành, mà học hành hãnh tiến". Từ mười phương về Thánh địa "Vạn thù qui nhứt bổn", học hành đỗ đạt, rồi tung ra khắp muôn nơi; "Nhất bổn tán vạn phù". Dù tiềm sinh hay hiển sinh, chúng ta luôn trụ vững đức tin nơi Đấng Cha Lành. Dù nghèo hay giàu, chúng ta hằng hồi hướng về bảng Đạo kỳ Tam Thanh.
Ngày nào, chúng ta còn nhớ khi vào học phải đọc kinh. Trong đó, có câu: 
“ Buộc yêu thương, bạn đồng môn, 
Nghĩa nhân vẹn giữ xác hồn trăm năm”.


Trong mỗi chúng ta đều cảm thấy như có sợi dây vô hình ràng buộc theo lời Đức Chí Tôn dạy: “Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ sức thương yêu nhau thì chẳng được ghét nhau, nghe à” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I trang 69). Sự thương yêu ấy đặt trên nền tảng " nhân nghĩa " không những trong kiếp sống tạm này mà còn nơi cõi vĩnh hằng nữa.
Các bạn thấy sao ? Chớ riêng tôi lúc trở lại trường Đạo Đức dạy môn Giáo lý cho các em học sinh lòng tôi quá ngậm ngùi gần như không có lần nào tôi không rơi nước mắt khi đọc kinh đến hai câu này. Và cũng chính vì thế, ngay khi còn mài đũng quần trên băng ghế trường Nghĩa thục Lê Văn Trung tôi đã chọn hai chữ vần trong hai câu chót bài “Kinh nhập học” làm bút hiệu cho mình: 
“May duyên gặp hội Long VÂN 
Thuyền thơ ngọn gió Các ĐẰNG xuôi đưa”

Sau hết, xin phép quí Thầy Cô dù sống hay chết, các bạn cựu sinh dù ở trong hay ở ngoài nước, cho phép tôi được "gọi tên" nhau để chúng ta sống lại một thời đã qua, đã mất, nhưng còn đọng mãi trong tâm trí mỗi người.
TRẦN VĂN RẠNG



TIẾT 1 : ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG
"Đạo đức lưu truyền hậu tấn hiếu trung phò xã tắc,
Học đường giáo hoá thơ sanh nhân nghĩa lập giang san."

1. Sơ lược về Đạo Đức Học Đường:
Sau khi dời Thánh Tượng từ Gò Kén về chùa mới hơn một năm. Hội Thánh hội nghị quyết định mở trường khai dân trí.
Chương trình học theo chương trình nhà nước.
Tiểu học có các môn: Việt Văn, Pháp Văn, Toán, Lịch sử, Địa lý, Cách trí, Vệ sinh, Nhạc, Vẽ, Thủ công, cộng thêm các môn của Đạo : Giáo lý, Hán văn.

Các lớp: Đồng ấu (Cours enfantin), Dự bị (Cours prépara toire), sơ đẳng (Elémentaire),Trung đẳng (Moyen), Cao đẳng ( Supérieur) để thi tiểu học.

Trung học có các môn: Việt Văn, Pháp Văn, Toán, Vật Lý, Hoá Học, Sử Địa, Nhạc, Vẽ, Thủ công, cộng thêm các môn của Đạo : Giáo lý, Hán Văn.

Các lớp : năm thứ nhứt (cours 1è année), năm thứ hai (2è année), năm thứ ba ( 3è année), năm thứ tư ( 4è année) để thi Brevet.

Tháng 9 năm 1928 khai giảng năm học đầu tiên, trường Đạo Đức Học Đường có tất cả 210 học sinh. Nhân ngày lễ phát thưởng năm đầu tiên cho học sinh trường Đạo Đức vào ngày 14-7-Kỷ Tỵ (18-8-1929) Ngài Thượng Đầu Sư đến dự lễ để khích lệ thầy cô giáo và các em học sinh. Ngài nói :
" Trong mấy năm qua Đạo nghèo, nên mấy em (giáo viên, học sinh) chịu phần hui hút, còn mấy anh đây lại bị kẻ thúc người đè, nên không săn sóc mấy em trẻ dại, để mấy em chiu chít như gà mất mẹ.
" Xét cổ suy kim mới biết rằng tôn giáo nào cũng nhờ học thức mà gìn mối đạo, truyền bá chánh giáo mới đặng tròn câu phổ độ. Đạo nghèo đồng tiền eo hẹp. Thầy giáo không một đồng lương, lại thân ngày ngày dạy dỗ ấu nhi, phải làm công trả quả vùi thân cùng sanh chúng. Học sinh, đồng nhi nam nữ tập viết bằng lá buông. Chỗ ngủ lấy ván sạp làm giường. Bề ăn uống tương rau hẩm hút. Ba năm dư mới rảnh chút thời giờ, mấy anh đây mới lập trường và phát thưởng. Lễ đơn sơ dạ yêu thương, giục mấy cháu hết lòng lo cho đạo đức".

Bài huấn dụ của Ngài Thượng Đầu Sư cho ta thấy mấy ý như sau :
- Lấy ván sạp làm giường : Thật vậy, nhà giáo viên, nhà lưu trú học sinh đều kê đơn sơ bằng gỗ xẻ thành ván. Phần bìa thân cây thì làm bàn, băng cho học sinh. Ai có sống, có học trong những năm hai mươi của thế kỷ XX mới thấm thía được lời chân thật mà thân yêu trìu mết của người anh Cả.

- Ăn uống tương rau hẩm hút : Thật ra là nước muối, rau lang suốt lá từ gốc tới ngọn ( chớ không chỉ ăn ngọn), chuối xắc nguyên cây, bữa cháo bữa củ mì. Các học trò thời ấy nói vui với nhau: " Nước tương Đại Đạo, cơm cháo Tam Kỳ, củ mì Phổ Độ ".

Chao ôi ! ăn uống như thế. Học lấy kiến thức để sau nầy " phổ độ nhân sanh ". Lý tưởng của trường đề ra thật cao, qua câu liễn:
"Đạo Đức truyền lưu hậu tấn hiếu trung phò xã tắc,
Học Đường giáo hoá thơ sanh nhân nghĩa lập giang san."
- Tập viết bằng lá buông : Cái nghèo khó thử thách lòng trang hiếu học. Học mà không có tập mà phải viết bằng lá buông. Các thầy thương trò mà phát minh ra tập lá.

Những ngày nghỉ học, thầy trò đi dã ngoại tìm rừng lá buông cắt đem về, rọc bỏ phần sống lá. Thân lá được cắt từng đoạn dài đều nhau độ 20cm, rồi đem phơi khô để lá buông từ màu xanh lục chuyển sang màu vàng nhạt. Sau đó, xếp lá chồng lên nhau rồi lấy tấm ván ép cho bằng phẳng, gọi đó là tập lá.

Mực viết trên lá buông là cỏ mực. Cỏ mực nhổ trên ruộng rẫy về rồi giả nhuyễn, vắt lấy nước, vô bình mực chia cho các học sinh. Chao ôi ! cái học kiểu " Trần Minh khố chuối " như thế mà " Hiếu trung phò xã tắc” là tấm lòng thiết thạch đối với quê hương, có chi sánh nổi ".

Sang năm 1931, Thượng Chánh Phối Sư báo cáo trước Hội Nhơn Sanh có đoạn viết :
" Trong Toà Thánh có lập một Đạo Đức Học Đường để dạy trẻ em, có 8 lớp học, 6 lớp con trai trình độ lớp nhì, một lớp con gái Việt, 1 lớp con nít Đàn Thổ (Tà Mun) . Tất cả được 274 trò. Các thầy dạy điều có bằng sơ học, làm công quả, không lấy tiền. Học trò cũng không đóng học phí.
Ngoài ra, cứ mỗi tối những người công quả nội ô Toà Thánh ước chừng 400 người đều phải theo học. Có những lớp dạy chữ, dạy kinh, dạy đạo tuỳ theo sự hiếu học của mỗi người ".

Báo cáo của Hội Nhơn Sanh năm 1932 xác nhận có nhiều tiến bộ :
" Trường Đạo Đức Học Đường năm nay có mở thêm được ba lớp học nam nữa. Một lớp năm thứ nhì ( Cours 2 è année) và hai lớp Đồng Aáu ( Cours Enfantin), cộng chung là 11 lớp. Số học trò được 417. Trong đó có 312 trò nam và 105 trò nữ, thêm được 143 trò, nhiều hơn năm ngoái.
Kỳ thi tiểu học vừa rồi, nhà trường có 26 trò đi thi đều đậu hết. Có 21 trò đậu luôn phần Pháp văn .( mention francaise). Mấy cô giáo và thầy giáo dạy nơi trường đều siêng năng lo lắng dạy dỗ. Không người nào ăn lương bổng hết ".

Ta thấy tinh thần thầy cô qua mấy chữ " siêng năng lo lắng "" không lương bổng ". Dạy ngày không đủ, các thầy cô tranh thủ dạy đêm. Các học trò từ xa xôi ngoại ô Thánh Địa, tay cầm đèn chông, chân trần mò mẫm đêm hôm khuya khoắc vào Đạo Đức Học Đường để ôn thi. Sự tận tâm kia với kết quả 100% thật là xứng đáng.

Truyền thống đó được nối dài cho đến tận năm 1952. Năm đó, trường có 60 lớp lợp bằng tranh, tường xây gạch đất không nung (gạch sống), chỉ có một dãy lớp ngói ở phía trước cho các lớp 1è annéc, 2è année. Có 10 lớp Cao Đẳng ( Cours supérieur) đi thi tiểu học với 5.393 thí sinh thi tại Tỉnh lỵ, chỉ rớt một trò vì bị bịnh bất thường. Đó là thành quả kỷ lục đền đáp công ơn thầy trò dạy và học hằng đêm, làm rạng danh đạo thời ấy.

Chính năm 1952, ngôi trường phổ thông ở trên đường Hoàng Tòng Hướng, ngoài cửa số 7 ngoại ô được trùng tu và cất thêm hai dãy để nhận học sinh vừa mới thi đỗ tiểu học. Nhà trường phải mở 12 lớp Đệ Thất vì phải nhận thêm hai lớp cho học sinh ngoài tỉnh.

Ngày khai giảng, Đức Phạm Hộ Pháp đến dự và đổi tên trường Phổ thông thành trường Nghĩa thục Lê Văn Trung để nhớ ơn Đức Quyền Giáo Tông người có công đầu tiên khai hoá nhân sanh tại vùng Thánh Địa .
Con cháu nối bước. Năm 1961, giáo sư Trần Văn Rạng dạy trường Trung học Công lập Tây Ninh đưa đơn xin phép lập " Hội Ái Hữu Cựu Sinh Đạo Đức và Lê Văn Trung " được Bộ Nội Vụ cấp giấy phép hoạt động số 128 - NĐ ngày 20-10-1961.

2. Hệ thống tổ chức:
Đạo đức Học đường trực thuộc Học viện, có hệ thống từ Trung ương tới địa phương các châu, tộc đạo : Trung ương có Đạo Đức Học Đường. Các phận đạo có Trường Minh Đức Tân Dân (quen gọi Trường Đại Đồng), trường Địa Linh Động. Hai trường này học sinh ăn cơm trại đường. Ở các tỉnh có lập trường Đạo Đức như Long An, Kiến Phong v.v.. các giáo viên được bổ nhiệm từ Toà Thánh.

Về tổ chức, trong cuốn Lời phê Đức Hộ Pháp có ghi thế này :
" Theo Vi bằng số 590/VB ngày 27-7-Nhâm Thìn (1952), phiên nhóm cử Lễ sanh Ngọc Lương Thanh thừa quyền phụ thống Học Viện và Lễ sanh Hài, Lễ sanh Cảnh phụ trách (Ban Quản Trị) ".
Lời phê Đức Hộ Pháp như vầy : " Phê và cho lập Thánh lịnh (theo Vi Bằng trên) ".
“Về vụ đặt tên trường không cần ích, vì ta còn phải ngừa sẵn ngày kia Đạo tức là Hội Thánh còn phải giải quyết quyền giáo huấn cùng chánh phủ nữa, đừng để trong trường tranh chấp mà đem tên của mấy vị Tiên Thánh của Đạo ra không hay”.

Như thế, Đạo Đức Học Đường lúc này có hai ban.
- Ban Quản Trị : do Lễ Sanh Thượng Hài Thanh và Lễ sanh Thượng Cảnh Thanh, trên có Lễ sanh Ngọc Lương Thanh thừa quyền phụ thống Học viện coi tổng quát.
- Ban Giám Đốc : do ông Trần Hữu Khuôn làm Giám đốc coi về chuyên môn học tập của học sinh.

Giáo viên trong buổi đầu có các thầy : Phan Hữu Phước, Trần Ngọc Văn, Nguyễn Văn Hội, Huỳnh Văn Hưởng, Nguyễn Văn Khiết.v.v...









3 . Sinh hoạt học đường:
Lúc đầu, gia đình học sinh còn nghèo ăn mặc sạch sẽ chưa có đồng phục, nhưng ngày thứ hai chào cờ phải mặc áo dài trắng. Học sinh nào phạm lỗi nặng phải lên đài (một cái ghế cao có ba bậc) đã bị phạt một lần thì không thể nào còn tái phạm nữa.
Về văn nghệ chủ yếu là trống và các đàn thùng không kèn thổi, phụ diễn trong những ngày lễ của trường và của đạo. các thầy thì làm thi làm thơ có chân trong Đạo Đức Văn Đàn như Vân Khanh, Tôn Hưng, Trần Ngọc Hiếu v.v..

Về thể thao, trường có sân bóng chuyền phía sau văn phòng trường và bóng đá đối diện mặt tiền của trường bên kia đường Cao Thượng Phẩm. Người cầm còi (trọng tài) chính là thầy Nguyễn Hữu Lương. Ngoài việc đá bóng giao hữu với các trường bạn, còn giao hữu thân thiện với các cơ quan trong đạo.

Về báo chí thực hiện trong dịp Tết và nghỉ hè. Lúc đầu in bằng xu xoa, tờ Bạn Trẻ do Thầy Trương Văn Ba chủ biên, sau in Ronéo. Năm 1970 trường mua máy in, cũng từ đó báo được in thành tập hẳn hoi.

Nhà in còn in nhiều sách đạo như các quyển : Giải nghĩa Kinh Thiên Đạo, Thế Đạo của Hiền tài Đặng Mỹ Lệ, Thiên Bàn tại tư gia của Giáo hữu Thượng Lý Thanh ..v…v..




4 . Đặc điểm của ngành giáo dục Cao Đài :
Ngành giáo dục Cao Đài dạy đủ các môn theo chương trình học của Nhà nước, cũng đi thi lấy các văn bằng của Bộ Giáo Dục. Có năm, Học Viện tổ chức kỳ thi lấy văn bằng của Đạo. Mục đích để tuyển chọn làm trong các cơ quan Đạo.
Đặc điểm của giáo dục Cao Đài là học thêm môn Giáo lý về thần học Cao Đài để cho đứa trẻ thấm nhuần triết lý cao thượng của Đạo.

Kế đến là môn Hán Văn lớp nào cũng phải học vì Đạo chủ trương Nho Tông chuyển thế nên tại gian chính của Văn phòng thờ Đức Khổng Tử. Chính nhờ môn Hán Văn giúp học sinh của Đạo vượt khó khăn khi theo học trường Đại Học Văn Khoa.

Thực ra việc học chữ Hán là học phần gốc, phần nguồn chứ không phải là học cành lá của ngôn ngữ. Nếu một học sinh không hiểu thấu đáo từ Hán Việt thì không những sai về kiến thức mà còn khó có thể thưởng ngoạn một tác phẩm văn học. Chẳng hạn chỉ một từ phong với nhiều ý nghĩa khác nhau, nếu học sinh không hiểu tường tận thì có thể hiểu lầm tiên phong là trước gió (thay vì là mũi nhọn); rừng phong là rừng gió (thay vì rừng bàng); rêu phong là rêu gió (thay vì rêu phủ); cao phong là gió cao (thay vì núi cao) …; rồi thiên thư là sách trời và thiên thu có thể là trời thu (thay vì ngàn năm). Muốn am tường chữ Hán, đòi hỏi phải có một thời gian học tập khá lâu, cho nên phải dạy học sinh ngay ở cấp phổ thông cho kịp lúc chứ không thể nào đợi khi lên đại học chuyên ngành rồi mới dạy.

Về hình thức, mỗi sáng thứ hai học sinh mặc áo dài trắng chào cờ nước và cờ đạo, nên lúc đầu hát bài Mừng thay Chí Tôn ngày nay đã đến, sau đổi ra hát bài Học sinh Hành khúc chớ không hát quốc ca.

Hồi đó, chưa có hiệu đoàn trường. Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài lúc đó hoạt động chính ở hai trường do hai liên đoàn đảm trách, giáo dục học sinh cuộc sống dã ngoại.

Liên đoàn Lê Văn Trung do chính giáo sư Bạch đảm trách. Liên đoàn Phạm Công hoạt động tại trường Minh Đức Tân Dân và các trường trong các phận đạo.

Năm 1955, Ban thanh trừng khủng bố khiến cho các giáo viên và học sinh tản lạc về các tỉnh, nhất là Sài Gòn. Việt Nam Bửu Tự ở đường Phan Thanh Giản Sài Gòn là của Đạo Nhơn Diêu Minh nhận học sinh từ Tây Ninh, với lời kêu gọi “Đồng bạc cho trẻ mồ côi”. Các nhà từ thiện hết lòng giúp đỡ. Học sinh đến chùa ngày càng đông quá tải p hải che ở ngoài mái hiên. Chính quyền Ngô Đình Diệm ngăn chặn không cho các người hảo tâm giúp tiền của cho chùa. Hậu quả các học sinh tự giải tán.

Đạo đức học đường phải dời ra chỗ Cơ Thánh Vệ và trở thành trường Bán Công, quyền của Học Viện không còn.

5 . Đạo đức Học Đường phục hồi 
Năm 1963, chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Đạo Đức Học Đường được dời về chỗ cũ. Giáo sư Thượng Cảnh Thanh lo xây cất lại Đạo Đức Học Đường. Trong ngày an vị trường, ông quyền Thượng Thống Học Viện cảm tác bài thi như sau :
" Đạo Đức Học Đường
Ba chục gian nhà mới tạo nên,
Nguy nga đồ sộ cảnh thêm bền
Mái tôn lạc trợ che toà nóc,
Viên gạch đồng tâm đúc vững nền
Văn hoá phát huy phương dạy trẻ
Công trình xây dựng sử đề tên.
Văn phòng Đạo Đức tăng huê mỹ,
Dồi luyện tinh thần chống vượt lên."
Ngày 15-3-1965
THƯỢNG CẢNH THANH

HỌA VẬN

" Học đường Đạo Đức được xây nên,
Sương gió bao năm vẫn vững bền.
Thuở trước nhà tranh duềnh thấp mái
Giờ đây tôn gạch vững cao nền.
Mỗi ngày mỗi mới thêm tươi trẻ
Càng lúc càng tăng với tuổi tên.
Tận sức “hiếu trung phò xã tắc”
Dồi trau trí tuệ, đạo càng lên."
VÂN ĐẰNG

Đạo Đức Học Đường từ đó tổ chức có qui cũ. Hiệu trưởng (Nguyễn Hữu Lương), Giám học, Tổng Giám thị, Hiệu đoàn trường được sự hỗ trợ đắc lực của Đại Đạo Thanh Niên Hội.

Để chuẩn bị mở các lớp đệ nhị cấp, thầy Nguyễn Hữu Lương đã hoạt động tích xây được 10 phòng lầu với bêtông kiên cố. Để đánh dấu thành tích to lớn đó, lễ bãi trường năm 1972 rất trọng thể.

* Lễ phát thưởng cho học sinh trường Đạo Đức và Lê Văn Trung.

photo

Vào ngày 15 tháng 4 Nhâm Tý (dl 27-5-1972), Ban Giám Đốc Đạo Đức Học Đường làm lễ phát thưởng cho các học sinh ưu tú năm học 1971-1972.

Ông quyền Thượng Chánh Phối Sư đến chủ toạ buổi lễ và ban huấn từ, có đoạn viết :
" Niên học vừa mãn đã đem lại kết quả tốt đẹp cho trường là một kỳ công. Hội Thánh để lời ban khen chung, ước mong thành quả này được nhân lên mãi mãi để xứng đáng tên trường Đạo Đức Học Đường mà Hội Thánh đã dày công sáng lập…
“Hội Thánh hoan hỉ đặt niềm tin nơi quí vị Hiệu Trưởng, qúi Giáo Sư, giáo viên đã đem tài năng tô điểm văn hoá và đạo pháp, giáo hoá con em Đạo trở thành nhân tài cho Đạo và xã hội ".

Hôm sau, ngày 16 tháng 4 Nhâm Tý (dl 28-5-1972), Ban Giám Đốc trường trung tiểu học Lê Văn Trung làm lễ phát thưởng cho các học sinh ưu tú năm học 1971-1972.

Ông quyền Thượng Chánh Phối Sư đến chủ toạ buổi lễ và ban huấn dụ, có đoạn viết :
“Hội tưởng lại những năm khổ cực….Hội Thánh đã tạo nên ngôi trường Trung Học Lê Văn Trung này để tiếp tục học hành, khỏi bị gián đoạn vì chi phí và trường xa…
Nhờ Ban Giám Đốc, quí Giáo Sư, giáo viên nam nữ gắng công đào tạo học sinh Trung Học Lê Văn Trung tiến triển tốt đẹp. Mỗi năm đều có một số thành tài giữ cương vị quan trọng trong xã hội….Giá trị là điều hãnh diện cho Hội Thánh, cho phụ huynh học sinh” (TT53, tr.7-8).

Nhớ lại ngày mồng 3 tháng 5 Ất Mùi, Đức Hộ Pháp đến dự lễ phát thưởng và ban lời huấn dụ cho ban Giáo chức Đạo Đức Học Đường như sau :
" Phương pháp hay hơn hết là nơi các con làm thế nào dung hoà hai nền văn minh ấy (tức Âu - Á).
Bần Đạo đi quan sát ở Đài Loan, ở Nhật, ở Triều Tiên rồi, mới cân coi phương pháp họ đã cải tổ nền văn minh của họ thế nào và họ đã dìu đường cho hàng thanh niên của họ về phương pháp học thức thế nào. Bần Đạo ngó thấy cái hay của họ là những điều chi ở ngoài họ để ngoài, với hàng rào kín đáo; cái chi ở trong giữ gìn đáo để kỷ lưỡng ở trong…
Duy có một điều quý hoá hơn hết mà Bần Đạo lấy làm sung sướng thấy đặng là cả phong hoá văn hiến cổ truyền họ vẫn giữ. Họ bảo thủ nó tồn tại, hiển nhiên không cho ngoại lai xâm phạm ". (TT99, tr.2-3).

6 . Lễ phát thưởng học sinh Đạo Đức Học Đường năm 1974 :
Vào lúc 09 giờ ngày mùng 9 tháng 4 năm Giáp Dần (DL, 5/1974), Ngài Thượng Đầu Sư Thượng Sáng Thanh đã đến Đạo Đức Học Đường chủ toạ Lễ bãi trường và phát thưởng cho những học sinh ưu tú niên khoá 1973-1974. Cùng đi với Ngài Thượng Đầu Sư có phái đoàn Hội Thánh gồm quý Ngài Bảo Đạo HTĐ. Hiến Đạo HTĐ, hai Ngài Thái và Ngọc Đầu Sư, Ngài Qu.Thượng CPS, Qu. Nữ Chánh Ps. Ngài Chơn nhơn Phó CQ.HT.PT. cùng quý CS Hiệp thiên, Cửu trùng, Phước thiện lưỡng phái. Về phần chánh quyền có Phó Tỉnh trưởng Hành chánh đại diện Đại tá tỉnh trưởng Tây Ninh, Ông Thanh tra trung học vùng III cùng quý giáo chức, Ông phó Viện trưởng Viện Đại học Cao Đài, Gs. Mã Thành Công.
Khởi đầu buổi lễ, lễ chào Quốc kỳ và Đạo kỳ,một phút mặc niệm để tưởng nhớ công ơn Đức Hộ Pháp cũng như quý chức sắc, quý ân sư quá cố đã hy sinh cho Đạo Đức Học Đường. Kế đến ông Phụ tá Hiệu trưởng đọc diễn văn khai mạc, tiếp theo một học sinh đại diện cho hơn bốn ngàn học sinh Đạo Đức Học Đường đọc diễn văn bày tỏ lòng tri ân Hội Thánh và Chánh quyền, học sinh nàycũng đã nói lên lòng biết ơn của toàn thể học sinh đối với Đức Hộ Pháp, người đã hy sinhtất cả tâm chí tạo dựng ngôi trường, đào tạo những trang tài đức phục vụ cho quốc gia dân tộc và Đạo pháp, tạo những người công dân biết yêu quê hương và quí chuộng đạo nghĩa…

Sau cùng, Ngài Thượng Đầu Sư ban huấn từ, Ngài để lời khen ngợi tất cả học sinh Đạo Đức học Đường, niềm ao ước là đặt kỳ vọng vào các em cháu học sinh ráng cố gắng học hành để sau này trở nên những bậc nhânt ài có đầy đủ đạo đức phục vụ cho quốc gia và Đạo pháp. Ngài cầu nguyện ơn trên và Đức Hộ Pháp hộ trì cho các em cháu học sinh được sáng thông trí tuệ học tập.

Sau đó Hội Thánh, quý quan khách phát tượng trưng một ít phần thưởng, những phần thưởng còn lại được thầy cô phân phát sau, xem kẽ chương trình lễ phát thưởng có phần văn nghệ do các em học sinh trình diễn giúp vui.

Trường Đạo Đức Học Đường đã hoạt động gần hai thế hệ, đủ để vườn ươm lên cây và trổ hoa trái, truyền bá ánh sáng văn hoá và giáo lý Đạo Cao Đài không những cho 19 phận Đạo mà còn cho học sinh các tỉnh về đây tá túc học tập. Bao nhiêu cảm tình bấy nhiêu hoài niệm trường cũ đã chất chứa trong tâm qua bao thế hệ học sinh. Có dịp đi qua trường lòng ai không rào rạc nhớ từng mái tranh góc lớp, gợi lên những bộ mặt chất phát thân thương. Ôi! Ngày ấy còn đâu (?).


TIẾT 2 : NGHĨA THỤC LÊ VĂN TRUNG
" Nghĩa thục Lê Văn Trung giáo dân khai tâm mẫn tuệ
Thượng Trung Nhứt Giáo Tông hương đạo độ thế hằng sanh."

1. Sơ lược việc thành lập trường .
Vào cuối năm 1949, Đoàn thiếu nhi quân được quân đội thành lập. Trụ sở toạ lạc tại ngã tư Ao Hồ trên đường Hoàng Tòng Hướng. Nơi học tập văn hoá của các thiếu nhi quân thường gọi là Trường phổ thông. Hai cơ sở này đều do thiếu tá Nguyễn Văn Ngọ chỉ huy.
Đến giữa năm 1952, do sự sắp xếp của Hội Thánh các học sinh vừa thi đỗ tiểu học của trường Đạo Đức đều dời sang trường này tiếp tục học lớp Đệ Thất.

Tháng 9-1952 trường làm lễ khai giảng tại rạp hát cửa số 7, có Đức Phạm Hộ Pháp đến chủ toạ danh dự buổi lễ. Trong lời huấn dụ Đức Ngài đặt tên cho trường là Nghĩa thục Lê Văn Trung.

Từ đó, Đại tá Trần Văn Tuyên ( quen gọi Trần Tuyên) làm Hiệu trưởng. Năm đó, trường có tất cả 9 lớp đệ thất từ A đến I và hai lớp 1 èø Année và 2 è Année từ trường Đạo Đức Học Đường cũng chuyển sang 2 lớp học, 2 bên văn phòng.

Chương trình học của trường y như các trường công lập. Đặc biệt có học thêm hai môn Hán Văn và Giáo lý.
Học sinh vào học phải đọc " Kinh nhập học ". Buổi sáng chào cờ không hát quốc ca mà hát bài " Học sinh hành khúc " vì một bên treo cờ quốc gia và một bên treo cờ đạo.

2 . Tổ chức trường sở :
Trường có Ban Giám Đốc, Phòng Học Vụ, Phòng Giám Thị, Phòng Giáo Sư.
Ngày 21-3-1955, Chính phủ Liên Hiệp được thành lập, Đạo Cao Đài tham dự 4 ghế bộ trưởng. Trong đó có Đại tá Trần Tuyên. Oâng vốn là Chánh văn phòng Bộ Ngoại Giao từ ngày 28-5-1946.

Sau đó, nhà văn Chu Tử tức Chu Văn Bình lên thay làm Hiệu trưởng, điều khiển trường.
Ngày 6-8-1955 Ngô Đình Diệm phái tướng Nguyễn Thành Phương lập Ban Thanh Trừng các phần tử chống chính quyền. Do đó, ông Chu Văn Bình và các giáo sư đến cộng tác với trường bỏ trường về Sài gòn, khiến trường bị khủng hoảng trầm trọng.

Nhất là Quân đội Cao Đài được quốc gia hoá (1955) nên không còn bảo trợ tiền bạc cho trường nữa. Các học sinh phải đóng tiền. Do đó, một số học sinh nghèo phải nghỉ ngang, một số bỏ về quê đi học trường ở các tỉnh.

Năm học 1955-1956 các học sinh lớp Đệ Tứ đi thi Trung học Đệ Nhất cấp, các chứng chỉ học trình cuối cấp mang tên trường Đạo Đức Học Đường và do Hiệu trưởng Nguyễn Hữu Lương ký tên.

Sau đó trường được bán công hoá, do Hiệu trưởng trưởng Trung học Tây Ninh kiêm nhiệm.
Thời gian này, Hiệu Đoàn Trường hoạt động không mạnh nên giáo sư Trần Văn Rạng được phép Hiệu trưởng và Học viện lập Liên Đoàn Hướng Đạo Lê Văn Trung để rèn luyện cho học sinh sự tháo vát và nhanh nhẹn,sau trở thành Đạo (tức Tỉnh Hội) Vàm Cỏ Đông dời trụ sở về tỉnh lỵ.

Vừa lúc đó, Hiền tài Dương Văn Dũng xin nghỉ dạy trường công lập về làm Hiệu trưởng trường TH Lê Văn Trung. Từ đó trường phát triển mạnh. Trường mở các lớp đệ nhị cấp, có học sinh thi tú tài, đỗ đạt cao.

Trường Trung Tiểu học Lê Văn Trung chỉ tồn tại trong 23 năm nhưng đã đào tạo nhiều nhân tài cho Đạo và cho nước. Xin đọc lời khen ngợi trong buổi lễ phát thưởng tháng 5-1973 làm tiêu biểu.

3. Lễ phát thưởng của Trung, Tiểu học Lê Văn Trung :
Vào lúc 08 giờ ngày 25 tháng 4 Quí Sửu (27-5-1973) Ngài Thượng Chánh Phối sư Thượng Nhã Thanh đã đến chủ toạ lễ bãi trường và phát thưởng của Trường Trung, Tiểu học Lê Văn Trung niên học 1972-1973. Hiện diện trong buổi lễ có Ngài Bảo Đạo HTĐ, Ngài Thái Chánh Phối Sư, Bà Phối Sư Hương Mây điều khiển Tam Viện Học, Y, Nông cùng chư Chức sắc. Về phần quan khách có Phó Tỉnh trưởng Hành chánh, thay mặt Đại tá Tỉnh Trưởng Tây Ninh, quí vị phụ huynh học sinh.
Mở đầu buổi lễ, ông Hiệu trưởng đọc diễn văn khai mạc, kế tiếp một đại diện học sinh trình bày cảm tưởng. Sau đó, ông Phó Tỉnh trưởng hành chánh để lời phủ dụ, và sau cùng, Ngài Qu. Thượng Chánh Phối Sư ban huấn từ. Ngài nhắc nhở quí vị phụ huynh cần lưu tâm đến việc học hành,đức hạnh của con em mình bằng cách liên lạc với nhà trường để theo dõi về sở hành của chúng. Ngài để lời ban khen quí vị giáo sư, Ban giám đốc, chính quí vị là những chiến sĩ trungkiên trên mặt trận văn hoá, mang bó đuốc bừng cháy của văn minh soi sáng làng mạc, chống giặc mù chữ, chống lại tất cả những gì sa đoạ, sai lạc, gây thưởng tổn cho người dân về mặt tinh thần. Ngài nhắc nhở các em học sinh phải cố gắng học tập để trở thành những phần tử ưu tú phụng sự cho Tổ quốc giống nòi và Đạo pháp.

Tiếp tục là phần phát thưởng danh dự tượng trưng cho những học sinh ưu tú. Được biết, Trung, Tiểu học Lê Văn Trung năm nay gồm 155 phần thưởng cho bậc Trung học, 73 phần thưởng cho bậc Tiểu học và 36 phần thưởng sinh hoạt học đường.

Dưới đây là nguyên văn bài huấn dụ của Ngài Quyền Thượng Chánh phối sư.
- Hôm nay, tôi rất hân hạnh đến chủ toạ buổi lễ phát thưởng cho các em học sinh niên khoá 1972-1973 của trường Lê Văn Trung xin cám ơn ông Hiệu trưởng, quý Giáo chức cùng quý vị phụ huynh học sinh đã dành sự danh dự cho tôi.
Tôi cũng lấy làm mừng thấy các bậc cha mẹ học sinh cùng tham dự buổi lễ phát thưởng chứng tỏ quý vị đã lưu tậm đến học đường, nơi nung đúc những tinh hoa của đất nước, những công dân hữu ích cho xã hội. Nhân dịp này tôi yêu cầu quý vị trong niên học tới đây sẽ luôn luôn lưu tâm hơn nữa, bằng cách tiếp xúc thường xuyên với học đường để giúp các vị giáo chức trong việc kiểm soát sự học tập cũng như về đức hạnh của con em mình, đồng thời nếu có thể nâng đỡ học đường về mặt tinh thần hay vật chất. Có được sự giao tiếp như vậy, không khí học đường mới phấn khởi, con em mình mới mau tiến bộ và trở nên ngoan ngoãn.

Thưa quý Giáo sư, Giáo viên nam nữ.
Sau ngót mười tháng trời tận tình giảng dạy các em học sinh, quý vị đã không nề khó nhọc vất vả.

Điều mà tôi muốn thốn lên trước tiên với quý vị là niềm cảm thông sâu xa của tôi về những công tác khó khăn mà quý vị đã can đảm nhận lãnh và thi hành trọn vẹn từ trước đến nay. Với tinh thần phục vụ cao cả, quý vị đã xung phong mang bó đuốc bừng cháy của văn minh soi sáng làng mạc, chống giặc mù chữ, chống lại tất cả những gì sa đoạ, sai lạc, gây thương tổn cho người dân về mặt tinh thần, quý vị không những có nhiệm vụ giáo dục con em để sau nầy trở nên những con dân hữu dụng cho tổ quốc, mà còn phải có bổn phận của một chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, bảo tồn tinh thần cao cả của dân tộc. Tiện đây, tôi xin ngỏ lời khen thưởng quý vị về tinh thần phục vụ cao trọng đó.

Các em học sinh,
Tôi rất lấy làm mừng được nhìn thấy nét mặt hớn hở vui của các em dưới mái trường ấm cúng này, bởi vì hình ản của các em chính là hình ảnh của tôi mấy mươi năm về trước. Nhưng các em đã may mắn hơn tôi thuở ấy, các em được vui vẻ học-hành trong bầu không khí tự do phóng khoáng do Hội Thánh Cao Đài lãnh đạo, lúc nào Hội Thánh cũng hằng lưu tâm săn sóc đến đời sống và sự học vấn của các em.

Hôm nay, các em cùng nhau họp mặt vui vẻ và thân mật trong lễ phát phần thưởng, với các em được lãnh tôi có lời nhiệt tình khen ngợi ; còn các em khác tôi khuyên cố gắng học tập chuyên trì các em cần phải có tinh thần học đến tận nơi, hỏi đến khi hiểu thật trong suốt, hành thật chu đáo, mới thật sự là giá trị của một học sinh ưu tú.

Ngày mai, các em sẽ tạm xa trường,xa thầy, xa bạn bè về nghỉ với gia đình.
Trong những tháng nghỉ hè, các em sẽ vui chơi thoả thích để bồi dưỡng sức khỏe. Các em sẽ có dịp giúp đỡ cha mẹ công việc nhà, đem những điều hay đã học hỏi được bày vẽ cho các em, các bạn và những người không có hoàn cảnh thuận lợi đi học như các em.

Ở trưởng, các em đã là những học sinh ngoan ngoãn, về nhà các em sẽ là những con hiếu thảo của cha mẹ, hoà thuận với anh em, thân thiện với bà con hàng xóm để xứng đáng với công lao của cha mẹ và thầy cô đã dày công dạy bảo .

Trước khi dứt lời, tôi thay mặt Hội Thánh ban khen Quản trưởng, Ban Giám Đốc, Giám Thị, quý Giáo sư, giáo viên đã dày công tạo nên danh dự cho trường Trung, Tiểu học Lê Văn Trung, tôi mong rằng quý vị nên tích cực mãi để danh được thêm cao, tôi cầu nguyện ơn trên Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, các Đấng Thiêng Liêng, Đức Quyền Giáo Tông ban phúc lành cho quý vị và các em học sinh luôn được trí tuệ sáng suốt cùng nhau tô điểm uy danh trường Trung, Tiểu học Lê Văn Trung và thành thật chúc quý vị được bình an để vui hưởng mùa Quí Sửu này.

4 . Chỉ đạo của Học Viện trong năm học.
Dưới đây là bản chỉ dẫn chi tiết hàng tháng của Học Viện các trường trực thuộc Học Viện thông tư cho các Hiệu trưởng phải kiểm tra ở từng tháng trong năm như sau :

THÁNG 9 :
- Số trẻ 6 tuổi vào lớp 1 so với số trẻ trong độ tuổi ở địa phương.
- Xây dựng kế hoạch của các tổ chuyên môn và các bộ phận khác.
- Kiểm tra chất lượng học sinh.
- Việc tổ chức tập thể dục.
- Hồ sơ học sinh mới tuyển vào lớp đầu cấp.

THÁNG 10 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên trong trường.
- Hoạt động của các tổ chuyên môn.
- Việc giữ gìn tập,vở, sách giáo khoa của học sinh.

THÁNG 11 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên trong trường
- Việc thực hiện nội qui của trường đối với giáo viên, học sinh.

THÁNG 12 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên trong trường.
- Việc thực hiện kế hoạch của Ban giám đốc, các tổ chuyên môn và các bộ phận chuẩn bị cho thi Đệ I lục cá nguyệt.

THÁNG 1 :
- Việc tổ chức thi, cho điểm, xếp loại và vào học bạ học.
- Xếp thi đua ở các lớp, các tổ chuyên môn.

THÁNG 2 :
- Kiểm tra toàn diện một số giáo viên trong trường.
- Việc thực hiện nội qui của trường đối với giáo viên, học sinh.
- Hoạt động của các tổ chuyên môn.

THÁNG 3 :
- Kiểm tra toàn diệm một số giáo viên trong trường.
- Việc giữ gìn vở, SGK của học sinh.

THÁNG 4 :
- Việc thực hiện kế hoạch năm học của Ban Giám Đốc, tổ chuyên môn và các bộ phận khác để chuẩn bị tổng kết.
- Việc bồi dưỡng và chất lượng học sinh lớp cuối cấp.
- Kiểm tra hồ sơ thi của học sinh lớp cuối cấp.

THÁNG 5
- Công tác tổ chức thi, chấm điểm, xếp loại vào học bạ cả năm học.
- Công tác tổng kết, xếp loại thi đua ở các lớp.
- Việc hoàn chỉnh hồ sơ thi của học sinh lớp cuối cấp.
- Kiểm tra chất lượng học sinh lớp 1, 2 để cho lên lớp.

THÁNG 6, 7
- Nghỉ hè

THÁNG 8
- Công tác chuẩn bị khai giảng đối với giáo viên và học sinh
- Việc tổ chức thi lại và xét lên lớp
- Việc vệ sinh lớp học và sân trường
- Mỗi ngày hiệu truởng kiểm tra việc thực hiện giờ giấc của giáo viên, học sinh

+ Ban giám đốc kiểm tra việc cho điểm, cộng điểm, xếp loại ở các lớp
+ Ban giám đốc kiểm tra việc thực hiện chương trình
+ Ban giám đốc kiểm tra việc thu, chi các loại quỹ
+ Ban giám đốc kiểm tra số học sinh bỏ học ở từng lớp
+ Ban giám đốc kiểm tra việc giữ gìn vệ sinh cá nhân của học sinh - Mỗi lục cá nguyệt :

Ban giám đốc kiểm tra hồ sơ giáo viên ít nhất là 1 lần. Trong một năm học Hiệu trưởng phải kiểm trả đầy đủ các nội dung nêu trong từng tháng và định kỳ như trên có ghi rõ kết quả kiểm tra vào sổ kiểm tra nội bộ trường học.

TIẾT 3 : VIỆN ÐẠI HỌC CAO ĐÀI
" Phạm Công Tắc Hộ Pháp khai đạo độ trì sanh chúng
Viện Đại Học Cao Đài khải đường truyền giáo thế nhân."




1 . Tổng quát về Viện Đại Học Cao Đài
Từ năm1971Viện Đại Học Cao Đài (tạm đặt trường sở tại nhà Hội Vạn Linh) đã lập đầy đủ để xin khai giảng. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu trù trừ không cấp giấy phép vì người đứng tên Viện trưởng là Tiến sĩ Nguyễn Văn Lộc, Bảo Học Quân HTĐ vốn là cựu Thủ tướng đối nghịch.
Việc tuyển sinh phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Mãi đến ngày 24/11/1971 Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Cao Đài mới được Bộ Giáo Dục cấp giấy phép số 7999/GD/VP đề ngày 29/9/1971 bổ túc giấy phép số 9335/GD cấp ngày 24/11/1971 mà vị quyền viện trưởng chưa có bằng cử nhân, nhằm mua chuộc cử tri theo Đạo Cao Đài trong kỳ bầu cử Tổng thống vào ngày 03/10/1971.

Vị Thời Quân Khai Đạo, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị đã trấn tỉnh như sau, nhân ngày bác sĩ Lê Văn Hoạch, Bảo Sanh Quân HTĐ nhận chức viện trưởng :
- Suốt gần hai niên khoá 1971 - 1972 và 1972-1973 với tư cách quyền viện trưởng tôi xin xác nhận thành quả tốt đẹp của viện, một phần lớn công do luật sư Nguyễn Văn Lộc, Bảo Học Quân, nhị vị khoa trưởng là tiến sĩ Lê Trọng Vinh và kỹ sư Đoàn Minh Quang đảm nhiệm điều hành giảng huấn ….

Song song với việc điều hành viện. Hội Đồng Quản Trị chúng tôi đặt nặng trọng tâm xúc tiến công tác xây cất viện trên phần đất 7 mẫu do cố Hộ Pháp đã chỉ định tại Chợ Long Hoa. Hội Đồng Quản Trị bằng mọi cách phải hoàn thành việc xây cất khu C để đưa một số sinh viên về học trong niên khoá 1973-1974. Với ngân khoản 400.000.000 dự trù xây cất Viện đại học Cao Đài, Hội Đồng Quản Trị tin tưởng vào .sự bảo trợ của Hội Thánh, sự yểm trợ của chính quyền và lòng hảo tâm của chư tín hữu Cao Đài trên toàn quốc, nhất định Viện Đại Học Cao Đài sẽ được hoàn thành .

2 . Việc xây cất Viện Đại Học Cao Đài.
Khu đất có diện tích 7 mẫu 82 sào, khu xây viện chiếm 19.500 mét vuông, cửa chánh quay ra đường Ca Bảo Đạo, cửa phụ ở đường Phạm Ngọc Trấn. Khởi công xây cất ngày 9-1-Nhâm Tý (dl 23-2-1972).
Để kịp khai giảng năm học 1971-1972, Hội Thánh quyết định thiết kế nhà Hội Vạn Linh tạm làm Viện Đại Học Cao Đài

Ngày 30-9-1971, ông Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục lên Tòa Thánh Tây Ninh trao nghị định thành lập Viện Đại Học Cao Đài đủ tính chất pháp lý. Ông Tổng Trưởng nói rõ về việc thành lập trong giai đoạn đầu chỉ có 2 phân khoa : Nông Lâm Mục và Thần Học Cao Đài Giáo.

Ông Tổng Trưởng trao cho Hội Thánh giấy phép số 7999/GD/VP ngày 29-9-1971 của Bộ Giáo Dục, sau lập thêm phân khoa sư phạm gồm 2 ngành : Văn khoa và khoa học. Giấy phép bổ túc số 9335 /GD ngày 24-11-1971.





3 . Thể lệ và học trình các phân khoa
I / NHẬP HỌC :
1) Mỗi năm Viện sẽ tổ chức vào đầu niên khoá một kỳ thi tuyển để chọn các sinh viên nhập học năm thứ I các Phân khoa của Viện.

Kỳ thi tuyển đầu tiên được tổ chức tại Đạo Đức Học Đường (Toà Thánh-Tây Ninh) vào ngày 20-12-1971.

2) Ứng viên phải hội đủ các điều kiện sau :
- Có bằng Tú tài II, hoặc văn bằng tương đương.
- Hợp lệ tình trạng quân dịch.

3) Sau khi có kết quả kỳ thi tuyển. Viện sẽ ấn định một thời hạn ghi danh. Chỉ có thí sinh trúng tuyển mới được ghi danh và chỉ được ghi danh trong thời gian hạn định.

Thí sinh không ghi danh coi như từ khước việc học ở Viện và sau thời hạn ghi danh, Viện sẽ không chấp nhận bất cứ sự khiếu nại nào.

4) Khi ghi danh sinh viên phải nộp đầy đủ những hồ sơ do Viện chỉ định, gồm có :
- Đơn xin ghi danh
- Bảnsao chứng chỉ Tú Tài II hoặc văn bằng tương đương có thị thực.
- Bản trích lục giấy khai sanh
- Biên nhận đóng lệ phí ghi danh
- Bốn (04) ảnh 4x6

5) Sinh viên dùng hồ sơ giả mạo, khi bị phát giác sẽ bị loại khỏi Viện và có thể bị truy bố trước Tòa án.

II/ HỌC TRÌNH CÁC PHÂN KHOA.
A/ PHÂN KHOA NÔNG LÂM MỤC
1) Phân khoa Nông Lâm Mục gồm có hai cấp :
Cấp I : Học trình 2 năm : Sinh viên tốt nghiệp sẽ được cấp văn bằng Cán sự Nông Lâm Mục.

Cấp II : Học trình 4 năm : Các sinh viên có khả năng chuyên môn và có phương tiện tiếp tục thêm 2 năm, khi tốt nghiệp sẽ được cấp bằng kỹ sư Nông Lâm Mục với ghi chú ngành chuyên môn (Nông Khoa, Súc Khoa…).

a) Ở cấp I cũng như cấp II, cuối năm thứ hai và năm thứ tư, sinh viên phải đệ trình một tiểu luận, ít nhất 30 trang đánh máy về một đề tài đã được lựa chọn trước sự chấp thuận của một trong các Giáo sư đang phụ trách năm thứ 2 (hoặc năm thứ tư tuỳ trường hợp).

B/ PHÂN KHOA SƯ PHẠM
1) Phân khoa sư phạm gồm 2 cấp :
Cấp I : Học trình 2 năm : Sinh viên tốt nghiệp sẽ được cấp văn bằng Cao Đẳng Sư Phạm có ghi chú ngành liên hệ và nhiệm ý lựa chọn.
Cấp II : Học trình 4 năm : Các sinh viên có khả năng chuyên môn, có phương tiện có thể tiếp tục học thêm 2 năm để lấy bằng Cử nhân Sư Phạm (Ban Văn Khoa hoặc Ban Khoa Học).
a) Ở cấp I, Viện đào tạo các Giáo sư Trung học Đệ Nhứt Cấp và ở cấp II Viện đào tạo các Giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp.
*
* *
Chính học trình của Viện Đại Học Cao Đài là một sự mới lạ trong nền Đại Học Cao Đài là một sự mới lạ trong nền Đại Học Việt Nam vì chương trình học gồm có hai cấp bực.

Cấp bực thứ nhứt gồm 2 năm học đầu áp dụng tinh thần Đại Học Cộng Đồng (Private Junior College) được phát triển tại Hoa Kỳ và một số Quốc gia trên thế giới, nhằm đạo tạo cán bộ trung cấp với một chương trình Đại Học chuyên khoa ngắn hạn để có đủ kiến thức tổng quát và thực dụng về các ngành chuyên môn phù hợp với nhu cầu tại địa phương. Chương trình ngắn hạn này cũng có tác dụng đại chúng hoá nền Đại Học.

Như vậy, sau hai năm học, sinh viên tốt nghiệp có thể sử dụng được cấp bằng của mình trong các ngành liên hệ.

Tuy nhiên, Viện Đại Học Cao Đài không hạn chế chương trình học của sinh viên ngay ở cấp bực thứ nhứt, vì tiếp theo đó, sinh viên có khả năng và phương tiện còn có thể tiếp tục việc theo học ở cấp bực thứ hai theo như các Viện Đại Học thông thường của Quốc gia hay các tôn giáo bạn.

Nhưng ở cấp bực thứ hai tính cách chuyên khoa được tăng gia mạnh mẽ hơn nên sinh viên tốt nghiệp có khả năng chuyên môn tăng tiến hơn các Viện Đại Học theo lề lối phổ thông cổ điển.

III/ HỌC TẬP.
1) Sinh viên theo học các Phân Khoa của Viện phải có mặt trong tất cả các giảng khoá, trừ trường hợp một số quân nhân công chức vì công vụ không thể chuyên cần được. Trường hợp này sinh viên nên lưu ý Ban Giám Đốc để được chỉ dẫn giúp đỡ về mặt học vụ.
( Giảng Khoá đầu tiên đã được khai giảng sau một buổi lễ cử hành dưới sự chủ toạ của Ngài Hiến Pháp Trương Hữu Đức tại Viện ngày 28-12-1971)

2) Trong suốt học trình, ở mỗi cấp, sinh viên không được ở lại hơn một năm học.
3) Sinh viên vì những lý do chính đáng có thể gián đoạn việc học, nhưng chỉ được học lại với sự chấp thuận của ông Viện trưởng.
4) Thời gian tạm nghỉ học sẽ được coi như không ở lại lớp.
5) Mỗi năm nhà trường tổ chức 2 kỳ thi lên lớp :

- Kỳ I : Cho tất cả các thí sinh của Viện, có ghi tên dự thi.
- Kỳ II : Cho sinh viên thi hỏng kỳ I và những sinh viên bị bịnh hay vì lý do công vụ không dự thi khoá I
6) Chỉ những sinh viên có ghi danh và dự đủ số giờ thực tập mới được ghi danh dự thi.
7) Sinh viên được chấm đậu lên lớp đối với :
- Phân khoa Nông Lâm Mục có điểm số trung bình tổng quát là 12 điểm
- Phân khoa Sư Phạm có điểm số trung bình tổng quát là 10

Trong cả hai phân khoa, thí sinh có điểm một bài thi từ 05 trở xuống là sẽ bị điểm loại, thí sinh bị đánh rớt kỳ thi đó.

8) Thí sinh thi hỏng khoá I sẽ chỉ p hải thi lại những bài có điểm số dưới 12 đối với phân khoa Nông Lâm Mục và dưới 10 đối với Phân khoa Sư Phạm
9) Căn cứ vào kết quả kỳ thi cuối niên khoá năm thứ II (hoặc năm IV) sinh viên sẽ được xếp hạng :
Tối ưu : Nếu có điểm số trung bình từ 18/20 trở lên .
Ưu : Nếu có điểm số trung bình từ 16/20 trở lên .
Bình : Nếu có điểm số trung bình từ 14/20 trở lên .
Bình thứ : Nếu có điểm trung bình từ 12/20 trở lên .
Thứ : Nếu có điểm số trung bình từ 10/20 trở lên .
(riêng đối với sinh viên Sư Phạm)

10) Học phí ấn định cho niên khoá 1971-1972 là 10.000$. Các sinh viên được tuyển chọn qua kỳ thi tuyển phải thanh toán học phí cho trọn niên khoá một lần nội trong tuần lễ đầu khai giảng để làm thủ tục hồ sơ nhập học và xin hoãn dịch vì học vấn nếu có. Các thí sinh trúng tuyển không làm thủ tục nhập học và đóng tất cả học phí trong thời hạn do Viện ấn định được xem như tự ý bỏ học và mọi sự khiếu nại sẽ không được cứu xét.

11) Viện cũng chấp nhận một số bàng thính viên (auditeurs libres) là những người có hoặc không có cấp bằng Tú Tài toàn phần, nhưng có đủ khả năng cần thiết, đến tham dự các buổi giảng huấn trong các phân khoa của Viện để trau giồi thêm kiến thức riêng của mình.

Các bàng thính viên chỉ được vào giảng đường để dự thính mà thôi không được chấp nhận cho thi cử lên lớp hoặc lấy cấp bằng như các sinh viên của Viện và cũng không được cấp phát chứng chỉ gì.

12) Muốn được phép dự thính các buổi giảng huấn, các bàng thính viên phải xin ghi danh theo thể thức “bằng thính viên” và phải đóng choViện một khoản học phí là 5.000$ mỗi niên khoá.

IV/ QUYỀN LỢI.
1) Sinh viên của Viện Đại Học Cao Đài sẽ được quyền :
- Sử dụng thư viện và phòng đọc sách của Thư viện trong những ngày giờ do Thư viện ấn định.
- Sinh hoạt thể thao, văn nghệ, du ngoạn do Viện tổ chức.

* Sinh viên xuất sắc :
- Trong thời gian theo học có thể được miễn giảm học phí hoặc cấp học bổng, tiền học bổng sẽ do Hội Đồng Quản Trị qui định với sự đề nghị của Khoa Trưởng liên hệ.

( Hiện tại Viện chỉ miễn học phí cho một số con em Chức sắc và Đạo hữu không có khả năng tài chính và làm công quả cho Đạo).

- Sau khi tốt nghiệp sẽ được Viện giới thiệu vào làm việc tại các cơ sở công hoặc tư hay phụ trách giảng dạy tại các trường do Hội Thánh Cao Đài tạo lập và quản trị như Trung học Lê Văn Trung, Đạo Đức Học Đường …

TIẾT 4 : HẠNH ĐƯỜNG
" Hạnh Đường giáo dưỡng Lễ sanh tầm triết lý,
Đại Đạo hoằng dương Giáo hữu độ quần sanh."

1. Sơ lược về Hạnh Đường Đại Đạo :
Hạnh Đường toạ lạc đối diện với Giáo Tông Đường. Nơi huấn luyện chức việc, chức sắc Lễ sanh, Giáo hữu hành đạo tha phương.
Trong Lời Phê Đức Hộ Pháp, Ngài dạy thờ thầy Mạnh Tử nơi Hạnh Đường vì Mạnh Tử rất có hiếu nghe lời mẹ học hành chăm chỉ, được người đời tôn danh Á Thánh.

" Tích xưa Mạnh Mẫu rành rành,
Khuyên con học tập sử xanh bia truyền."

Mặt khác, thầy Mạnh Tử chủ trương Nhân Nghĩa và lấy dân làm gốc, liệt vua vào hàng thứ yếu như chủ trương của Đạo Cao Đài, tiềm ẩn trong câu " Dân vi quí, xã tắc vi thứ chi, quân vi khinh ", mà không coi trọng vua như Khổng Tử  "Trung thần bất sự nhị quân".

2 . Lễ khai giảng khoá huấn luyện Chức Việc.
Trong Đạo Cao Đài Hội Thánh Cửu Trùng Đài có hai tầng : Hội Thánh anh gồm chức sắc từ Lễ sanh trở lên. Hội Thánh em gồm chức việc Ban Trị Sự. Đây là hạ tầng của cơ sở quan trọng của Đạo. Trải qua nhiều biến cố, hàng chức sắc bị khảo đảo, bị lưu đày. Ban Trị Sự một lòng trung thành bám trụ giữ Đạo hữu. Họ là những người bình dân tôn thờ Đức Chí Tôn, Phật Mẫu, họ vững tin rằng : " tại người làm sai chớ đạo không sai ".
Ngày mồng 4 tháng 6 năm Canh Tuất (dl. 8-7-1970) Đức Cao Thượng Sanh đến dự lễ khai giảng khoá huấn luyện chức việc Ban Trị Sự Châu Thành Thánh Địa tại Hạnh Đường và ban huấn từ như sau :
" Hội Thánh hằng để ý chăm nom dìu dắt quý vị, Chức sẳn giảng viên không nài khó nhọc ra công chỉ dẫn, dạy dỗ đàn em cho đủ tài, đủ hạnh hầu phục vụ đắc lực nhơn sanh trên đường tu hành thì quý vị nên gắng lo trau giồi trí thức cho được minh mẫn sáng suốt để ngày sau có thể lập vị xứng đáng cho mình trong cửa Đại Đạo."

Thiết tưởng dầu trong giới nào, từ cổ chí kim ai cũng lấy sự học tập làm phương pháp đào tạo nhân tài, nhứt là trong các tôn giáo, sự học hỏi lại càng cần thiết cho người tu sĩ do câu : " Tự giác nhi giác tha " . Phải đủ sáng suốt mới có thể dìu đường cho kẻ khác, nếu mình không sáng suốt hoặc thông hiểu một cách mù mờ, tức nhiên tránh không khỏi sự lạc đường sai hướng và trên bước lầm lạc của mình, mình sẽ kéo theo cả một đoàn người do mình làm hướng đạo.

Đức Chí Tôn có dạy : " Dầu làm Vua, làm Thầy, làm Công nghệ, làm Đạo sĩ cũng cần phải có cái chí lớn mới thành tựu đặng "

Chúng ta nên quan niệm rằng trước khi lập chí, chúng ta cần phải lo học hỏi để trở nên sáng suốt tức là đem cái trí não ra khỏi vòng mê tối vậy.

Hội Thánh hằng để tâm lo lắng, muốn cho quý vị trở nên những nhơn vật xứng đáng đối với mặt Đạo cũng như mặt Đời, vì quý vị là những cộng sự viên cần yếu của Hội Thánh, đại diện cho Hội Thánh nơi địa phận mình trấn nhậm, tuy ở vào địa vị hạ cấp của guồng máy Hành Chánh Đạo, nhưng quý vị có nhiệm vụ trọng yếu không kém gì các Chức sắc cao cấp của Hội Thánh. Hơn nữa, quý vị là những người thân cận hằng ngày với tín đồ, hoà mình với nhơn sanh chia vui sớt nhọc với Bổn Đạo trong mọi trường hợp thì quý vị chẳng nên khinh thường cái trách vụ cao đẹp của mình.

Cũng như ngoài mặt Đời, nền tảng chính trị của quốc gia ở ấp, xã,trong Đạo Cao Đài nền tảng Hành Chánh Đạo ở nơi ấp và Hương Đạo, rồi kế đến Tộc Đạo hay là Phận Đạo.

Mặc dù ở vào hạ tầng cơ sở, nhưng nếu trong ấp hoặc Hương Đạo có điều xáo trộn trên dưới thiếu sự điều hoà, tín hữu có điều bất mãn, nhơn tâm ly tán, mất hẳn tình đoàn kết tương thần thì ở nơi cấp trên Hội Thánh cũng chịu ảnh hưởng không ít hay khó giữ uy tín đối với mặt Đời và Bổn Đạo.

Bởi thế đem thắng lợi vẻ vang về cho Đạo hay làm cho Đạo thất bại, mang tai tiếng cũng đều do nơi hành vi của quý vị.

Đã mang danh là Hội Thánh em , quý vị nên thận trọng giữ gìn tư cách đứng đắn, làm cho người đời kính nể, người Đạo tin cậy, đối đãi với toàn thể tín hữu nơi địa phận mình như tình huynh đệ trong gia đình, đem tình thương chan rưới khắp cả Bổn Đạo, giúp đỡ, nương nhờ lẫn nhau, thực hành câu " Nhứt gia hữu sự bá gia ưu ".

Được như vậy dù cuộc đời chua cay bi đát đến mức nào, quý vị cũng không đến nỗi lâm vào cảnh khó khăn nan giải.

Điều cần nhứt là phải trọn hiếu với Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ,giữ trọn trung thành với Hội Thánh, ngoài ra gắng công học hỏi, noi gương Thánh trước Hiền xưa mà rèn luyện đức tốt tánh lành. Tiền tài,châu báu có nhiều giá trị ở đời,nhưng đức tốt tánh lành có giá trị hơn nữa, tiền tài châu báu có thể bị chúng cướp giựt chớ đức tốt tánh lành không thể nào mất được và khi xác thân ta trở về với cát bụi, những đức tốt tánh lành sẽ theo linh hồn ta để nâng cao địa vị ta nơi cõi Thiêng liêng, Đức Chí Tôn có cho bài thi dạy rằng:
" Được vàng chớ khá gọi là may
Vàng hết tội kia chất dẫy đầy
Bỏ đức bỏ nhân bao kiếp đọa
Khuyên con giữ Đạo đến cùng Thầy."

Phân biệt được lẽ cao thấp giữa tinh thần và vật chất, quý vị nên quí trọng cái thiên chức ấy.
Muốn làm tròn thiên chức ấy, quý vị nên thực thi mấy điều sau đây :
1 / Thực hành trọn vẹn Tứ đại Điều qui ấn định nơi chương V Tân Luật.
2 / Phải giữ dạ vô tư mà cư xử với Bổn Đạo, không vì ai giàu mà trọng đãi, ai nghèo mà khinh khi.
3 / Chỉ thi hành những việc do Hội Thánh ra lịnh bằng văn kiện chính thức, không nên chia phe phân nhóm làmmất sự đoàn kết thân mật trong Bổn Đạo và gây sự khó khăn cho Hội Thánh.
4 / Nếu có điều khó khăn không giải quyết được phải thỉnh giáo bề trên, không nên phán định sơ suất.
5 / Trong trường hợp nào cũng phải giữ uy tín của mình và nâng cao uy quyền của Hội Thánh

Nếu quý vị tuân hành đúng theo lề lối ghi trên đây, tôi tin chắc quý vị sẽ thành công mỹ mãn và sẽ được người Đạo cũng như người Đời kính phục.

3 . Lễ khai giảng Hạnh Đường khóa Lễ Sanh.
Vào ngày 19-6-Quí Sửu (dl 18-7-1973), toàn thể Lễ sanh tân phong tề tựu tại Hạnh Đường dự lễ khai giảng Hạnh Đường về hành chánh đạo dành cho phẩm Lễ Sanh, đặt dưới quyền chủ tọa của Ngài Hiến Pháp HTĐ.
Khởi đầu buổi lễ, Ngài Hiến Pháp và chư chức sắc cao cấp bái lễ trước bàn thờ Đức Khổng Tử, lần lượt tới giảng viên, học viên. Ông Quyền Thượng Chánh Phối Sư đọc diễn văn khai mạc xác nhận. Khoá có 569 học viên gồm 464 nam và 105 nữ, được phân làm hai lớp chiều và sáng. Thời gian học là 6 tháng.

Sau đó, Ngài Hiến Pháp HTĐ ban huấn từ có đoạn viết:
"Trước hết chức sắc đàn anh cần phải nêu gương tốt cho lời nói đi đôi với việc làm."
" Tôn chỉ của Đại Đạo là qui tam giáo hiệp ngũ chi, nên chúng ta không kỳ thị tôn giáo nào cả. Nhờ đó, sự thống nhất các tôn giáo và chi phái sẽ không gặp điều trở ngại sau này."

" Tôi rất vui mừng được tin Đạo Oomoto mời Đạo Cao Đài sang Nhật dự đại hội .... Trong lúc người ngoại quốc hướng về Đạo ta thì chúng ta phải có thái độ như thế nào để xứng đáng với câu “Danh bất hư truyền ". (Huấn từ của Ngài Hiến Pháp HTĐ TT.8, tr.7)

4 . Lễ khai giảng Hạnh Đường khoá Giáo Hữu .
Vào ngày 17 tháng 4 Giáp Dần (dl 8-5-1974), toàn thể Giáo Hửu cựu và tân phong tề tựu tại Hạnh Đường dự lễ khai giảng khoá Cao Đẳng HaÏnh Đường dưới quyền chủ tọa của Ngài Hiến Pháp HTĐ.
Sau nghi lễ, ông Giáo Sư quyền giám đốc Hạnh Đường đọc diễn văn cho biết có 6 giảng viên và 262 học viên nam nữ chia ra làm hai :
- Học chính thức : nam 153, nữ 6
- Học hàm thụ : nam 71, nữ 32

Sau đó, Ngài Hiến Pháp HTĐ ban huấn từ, có đoạn viết :
" Tôi rất hài lòng nhận thấy hàng năm Hội Thánh đều mở khoá Hạnh Đường, lo đào tạo chức sắc ưu tú, có năng lực phục vụ Đạo pháp đắc lực để phổ htông chơn đạo khắp nơi, ngõ hầu nhân sanh hướng về tình thương bao la, mầu nhiệm của Đức Thượng Đế ".

Đến ngày 17 tháng 9 Giáp Dần (dl 31-10-1974), Ban Giám Đốc Hạnh Đường đã làm lễ bãi khoá hàng phẩm Giáo Hữu.

Sau khi Hội Thánh nguyện hương trước bàn thờ Khổng Thánh, vị Giáo Sư quyền giám đốc Hạnh Đường báo cáo kết quả khoá có 255 vị Giáo Hữu theo học, có nhiều vị đang hành đạo địa phương học hàm thụ. Nên chỉ có 194 vị dự thi cuối khoá, trong đó 182 vị đậu, tỉ lệ 93,8%.

Hội Thánh phái tượng trưng 5 chứng chỉ tốt nghiệp. Tiếp theo một học viên đọc lời tri ân Hội Thánh và các gaỉng viên. Kế đó, Ngài Bảo Đạo, Tổng Giám Đốc Hạnh Đường ban huấn từ, có đoạn viết :
" Với mấy em vừa chấm đậu, tôi xin chân thành ban khen mấy em có trình độ khá vững đủ sức để đảm đương những trách vụ nặng nề mà Hội Thánh sẽ giao phó. Tôi ước mong mấy em thi hành trách vụ, làm vui lòng Hội Thánh và được mọi người kính mến."

“Mấy em nên nhớ rằng mấy em vừa được ban cấp bằng Hạnh Đường thì nên rán cư xử sao cho ra hạnh người ta. Vì lẽ ấy muốn giữ giá trị một chức sắc cần phải giữ hạnh nết cho đoan trang mới đặng mọi người kính nể” (TT.110 tr.10-11).

5 . Giáo lý hướng thượng tiến bộ.
Đạo Cao Đài có một giáo lý bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều có một Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương xóa bỏ hận thù .”Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ sức THƯƠNG YÊU nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à !” (TN 2, tr.69)
Giáo lý cao thượng, tiến bộ, diệt mê tín dị đoan, coi cõi Hằng sống (Thiên đàng) và thế gian (Địa đàng) chỉ là một. " CẢNH NHÀN chẳng phải đâu xa, chỉ ở nơi ĐỊA ĐÀNG đây." (Đàn đêm 21-2 -1927) hoặc " Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa ". (Đàn 28-1-1926). Thầy chỉ rõ : " Hễ cái tâm sáng suốt thiện từ đạo đức là thiên đàng, còn tâm mê muội vạy tà hung bạo là Địa ngục cũng chỉ tại cái tâm ". Chính cái tâm của một số môn đệ thấp kém mà Thầy răn dạy : " Đạo Thầy không mê tín dị đoan , một số môn đệ bày biện vô lối, chẳng bao lâu thành ra mối bàn môn Tả Đạo ". Một số người đã đưa lên bàn thờ những Thánh Tiên thần thoại lý tưởng có từ lâu trong dân gian, nhằm lấy biểu tượng siêu thoát đạt đạo của các Đấng ấy mà tế độ chúng sanh, chớ các Đấng ấy không phải là chủ tể và chủ động trong việc giáo hóa nhơn sanh trong kỳ Ba phổ độ này. Dù vây, điều đó không phù hợp với nền Tân Tôn giáo nên Đức Chí Tôn cho là "Bày biện vô lối".

" Không có nhà thờ nào có ma thuật cả, vì ma thuật luôn giấu diếm, còn nghệ thuật, tôn giáo mở toang cửa mời gọi mọi người "
" Cái đẹp tự thân tôn giáo không đồng nghĩa với bất kỳ cái đẹp lý tưởng nào, nhưng nó thể hiện một cách đặc thù của một nghệ thuật chân tính về nó ".
" Thế nên, nghệ thuật và tôn giáo đều mang chức năng phục vụ xã hội hay một cộng đồng. Điều đó, khiến cả hai không thể bị phân hóa hay chia cắt thành những bộ phận rời" (E.Durkheim).


Người tín hữu Cao Đài nào cũng thông suốt lời dạy sau đây của Đức Chí Tôn : " Thầy đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con đắc đạo ". (TNHT .I, tr.12) Nói thế không phải ai nhập môn vào đạo đều đắc đạo dễ cả mà phải dày công tu luyện. Một đằng khác, Đức Chí Tôn nói rõ hơn : “Than ôi ! Đã bước vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền thánh giáo đâu? Đạo trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần,sanh đứng vào thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ đến kết quả hồn qui Thiên ngoại: Lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi hành. Phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức để cho có ích chung nữa đặng.

Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thây ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng để hành việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do theo ý Trời, phạm một nét vạy tà là phạm nơi Thiên luật. Phải quấy Thần Thánh chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc, khá biết vậy!”

Theo Thánh ý, dù có quyền thiêng liêng giúp đỡ, nhưng con người phải tự cứu lấy mình : " Tận nhơn luật tri Thiên mạng " hay “có Trời mà cũng có Ta”, chớ không phải mọi việc đều buông xuôi phó thác cho số mạng.

" Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Nếu đời không tội lỗi, đâu phải nhọc đến công Thầy ". (TNHT.I, tr.33)

" Thầy khuyên các con hãy mỡ rộng trí ra mà thương nhơn loại,thì mới hạp ý thầy.Các con phải giữ gìn đức hạn, đối với kẻ trên bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung ". (TNHT.I tr.71)

Đức Chí Tôn dạy ta xử ngược lại thế đời: " Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà mạnh,các con nhỏ nhoi mà quyền thế, các con nhịn nhục mà hành phạt. Cử chỉ của các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì gầnngôi Tiên Phật đó ". (TNHT. I tr.46)

" Nho nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đòi đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành "
(TNHT.I, tr.122)

Tàng Kinh Viện                                                                                            [1]  [2]  [3]  [4]  [5]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét