
Đó là hành trang tối thiểu để người đạo đi vào cuộc đời (nhập thế). Cuộc sống trong xã hội luôn
luôn thay đổi và biến động. Cách tu, lối tu vì thế cũng phải tiến bộ cho phù
hợp với đời. Thời còn ăn lông ở lỗ, núi hang là nơi ở thiên nhiên nên con người chọn lối tu núi tức là tu Tiên. Khi con
người biết quần tụ cất nhà để ở thì con người nảy ra lối tu chùa tức tu theo phật.
Trong luật cạnh tranh sinh tồn, người đẻ mà đất không đẻ nên
thức ăn thiếu thốn, người ta giành giật nhau từng miếng ăn manh áo.
Đức Khổng
Tử ra đời kêu gọi con người phải biết phải học nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên ha. Từ đó nảy sinh lối tu tề của Nho giáo.
Xã hội ngày càng văn minh, tiếnbộ, nếp sống sinh hoạt cũ không
còn thích hợp nữa. Thành thị hay nông thôn, chỗ nào cũng có người, cũng có chợ.
Người ta sống giữa chợ đời, trò đời thì cũng phải có lối tu chợ tức tu tâm. Đó
là lối tu của người tín hữu Cao Đài hiện nay, mỗi người đều tự giác tha, và
điều rõ câu : “ Ngô thân bất độ hà nhân độ”. Đạo ẩn trong lòng mọi người, nó
sẳn sàng trấn áp mọi “nộ, ố, bi, ai”.Họ có một nội tâm sinh động và một nội lực
thâm hậu để chống trả mọi cơn khảo đảo từ ngoài đưa vào. Thế mới gọi là “đại ẩn
ẩn thành thị” tức tu giữa thành thị mới gọi là đại ẩn. Lại có câu : “Nhất tu
thị, nhị tu sơn”.
Xét về quá trình các phương pháp tu, từ tu núi, tu chùa, tu
tề, tu chợ, chắc chắn tu giữa chợ là lối tu khổ luyện nhất . Người tín hữu
không bỏ nhà ẩn thân nơi non cao , không vào chùa để tham thiền nhập định mà
tiếp xúc với mọi người, chung đụng với mọi người, gần gũi với mọi cám dỗ chực
đưa bất cứ tín hữu nào vào đường tội lỗi, nếu chưa luyện đạo tâm vững vàng.
Đạo lập ra để cứu đời, tận độ chúng sanh toát khỏi nguy nàn.
“Mở một mối đạo chẳng phải thường tình, mà sanh nhằm đời gặp đặng mối đạo chẳng
phải dễ”. (TNHT .I,tr.53) “Đạo Trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước
ấy hầu mãn”. (TNHT.II, tr.114)
" Các con vì
Đạo là việc công lý, mà công lý đánh đổ cường quyền thì đạo mới phải đạo ". (TNHT.I, tr.98)
Thế nên, ngay từ đầu, Đạo Cao Đài nêu rõ chủ trương của mình
là vì hòa bình, dân chủ, tự do.
“Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo hòa bình dân chủ mục,
Đài tiền sùng bái Tam Kỳ cộng hưởng tự do quyền.”
Đúng là chữ CHÁNH , giáo sư Latapie (Phó quản lý nội viện)
sợ Pháp làm khó dễ nên xin đổi ra chữ MỤC .
Bởi lẽ, “Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở
đời này thì Đạo chưa thành”. (TNHT.I, tr.98)
Làm thế nào để khỏi thấy một điều bất bình? Đức Chí Tôn dạy
phải thi hành “Luật Thương yêu, quyền công chánh”. Vì “Sự thương yêu là giềng
bảo sanh của Càn Khôn thế giới . Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn
Khôn mới an tịnh”.
Giáo lý Đạo Cao Đài đề cao gia đình một vợ một chồng. “Cấm
người trong Đạo, từ ngày ban hành luật này về sau, không được cưới hầu thiếp.
Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối …Vợ chồng người Đạo không được để
bỏ nhau. (Tân Luật, TN 1966, tr.12)
Tuy vậy, Đức Chí Tôn hằng nhắc nhở chư mộn đệ : Tà dâm là
một trọng tội.
“Phàm xác thân con người, tuy con người coi thân hình như
một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chứa vàn vàn, muôn muôn sinh vật.
Những sinh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối. Vật chất ấy có tính linh …
Các vật thực nào tì vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra
huyết. Nó có thể hườn ra nhân hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại.
Vì vậy mà một giọt máu là một khối chơn linh.
Như các con dâm quá độ là sát mạng chơn linh ấy. Khi các con
thoát xác, nó đến tại Nghiệt Đài mà kiện các con. Vậy phải giữ gìn giới cấm ấy
cho lắm”. (TNHT.I, tr. 26)
Vì nhận nơi con người điều có tính dục do cha mẹ truyền lại
nên chấp nhận người Đạo phải có vợ chồng nhưng tuyệt đối cấm dâm dục. Khi trở
thành chức sắc, Tân Luật “Cấm vợ chồng bỏ nhau” nên chức sắc Đạo Cao Đài có vợ
có chồng là vậy. Không làm điều chi trái với thiên nhiên để rồi phải vụng trộm
như các hàng giáo sĩ của các tôn giáo khác.
Vả lại, nếu đi tu mà bỏ nhà để vợ, không làm điều gì có ích
cho gia đình, tìm chỗ thanh vắng lo cho riêng mình thì có ích chi cho xã hội.
Đó không phải là chủ trương của Đạo Tam Kỳ. Vào Đạo tu tâm sửa tánh để trở nên
người hiền lành nhân đức, làm điều ích nước lợi dân mà phổ độ chúng sanh vào
đuờng ngay nẻo phải.
Người tín đồ nào cũng hiểu lời nói của Mạnh Tử “Bất hiếu hữu
tam vô hậu vi đại”. Ngài than không có người hiền nối mối Đạo, đó là tội vô hậu
lớn. Về sau, Châu Tử chú giải theo phong kiến “Tội không con là lớn hơn cả” để
cưới hầu thiếp. Vả lại, cổ nhân có dạy : “Trong sử hay bút ký, mấy điều gian
hại chẳng luận chữ hiếu có con hay không con”.
Năm 1923, Đức Vân Trung Tử giáng đàn dạy : “Chẳng phải ông
MạnhTử nói không con là bất hiếu. Nếu không con bất hiếu sau Lục Tổ trước còn
thành Phật đặng?” (Hội Lý Xiển Chơn, TN 1959, tr.13)
Trong gia đình vợ chồng “Các con hòa hợp nhau trong sự sống
chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt”. (TNHT.I,tr.51) Nam Nữ bình đẳng :
“Giục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam” (Nữ Trung Tùng Phận ). Trong một xã hội nữa
phong kiến, nữa thuộc địa mà giáo lý Đạo dạy Nam Nữ bình quyền, đó không phải
là cuộc cách mạng đổi mới cho thân phận người phụ nữ ư? Trong khi đạo Kitô, phụ
nữ không được làm Linh Mục, đạo Hồi phụ nữ không đuợc đến nhà thờ.
Thêm vào đó, theo cổ tục, khi có kinh nguyệt, người phụ nữ
tránh ra ngoài thì giáo lý Đạo dạy : “Không vì nguyệt huyết kỵ anh linh”. Sự
tiến bộ của khoa học ngày nay đã giải thích được điều đó.
Vốn là một tôn giáo tiến bộ nên : “ Việc tang không nên xa
xí, không nên để lâu ngày, không dùng đồ âm công loè loẹt, chỉ dùng toàn đồ
trắng. Trong việc tế vong linh, không nên dùng vật hy sinh, nên dùng toàn đồ
chay thì được phước”. Việc cầu siêu vong linh trong tuần cửu cửu (81 ngày),
tiểu tường (200 ngày) đến Đại tường (300 ngày) là mãn tang”. (Tân Luật, sđđ,
tr.13)
Xem thế, thời gian mãn tang khó trong Đạo chỉ có 581 ngày
trong khi phong tục cũ phải mất 3 năm (1095 ngày) gấp đôi thời gian trong Đạo,
choáng hết thời gian làm ăn, ngăn trở sinh hoạt.
Đạo cấm hẳn vọng ngữ (Ngũ giới cấm) : “Các con nói dối dù
chưa dối người, các con đã dối lương tâm mà lương tâm tức là chơn linh”. (Đạo
Sử II,tr.273) Năm Mậu Thìn (1928), Đức Chí Tôn cấm tham lam: “Tham vào tâm, tâm
hết Đạo, tham vào chùa, chùa hết chánh giáo, tham vào nước, nước hết chánh trị,
tham lam lộng klhắp thế giới, thế giới hết Thần Tiên. Lòng tham có thể giục lỗi
Đạo cùng Thầy”. (TNHT.II, tr.63)
Nhất là bối toán, đồng cốt, giết sinh vật để tế lễ,trong Đạo
Cao Đài rất cấm kỵ. (TNHT.I,tr.86)
" Những điều
mê hoặc dị kỳ,
Các con nên phải xa
đi đừng làm.
Kho tàng là chuyện
bá xàm,
Nộm hình, tà khí,
độn nham tà quyền.
Bỏ vòng vàng bạc,
giấy tiền,
Thánh Thần đâu có
quá điên lấy xài! "
“Thầy dạy con đừng cúng chi hết, vì chơn nhơn chẳng hưởng
của phàm bao giờ. Còn làm việc đãi, chẳng nên gọi là cúng”. (Đạo Sử II, tr.123)
Tắt một lời, Đạo Cao Đài là một tôn giáo hướng thượng tiến
bộ. “Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian mà thế gian gọi là tà quái dị đoan, nếu
có xảy ra một ít dị đoan trongĐạo đã dùng lỡ, ấy là tại nơi tâm của một vài môn
đệ, nếu chẳng giữa theo lẽ Chánh mà hành Đạo và bày biên nhiều sự vô lối thì
trong ít năm sau sẽ trở nên một mối Tả Đạo”. (TNHT.II, tr.42)
Việc tế lễ Đức Chí tôn của Đạo Cao Đài hết sức tiến bộ. Xét
quá trình các tôn giáo từ xưa tới nay, ta thấy rằng : Vào thời thượng cổ, quan
niệm về Thượng Đế còn mơ hồ. Con người thờ Tô tem gần như rộng khắp mặt đất.
Trong Cựu ước, người ta hiến lễ lên thần linh bằng đồng nam
đồng nữ làm vât hy sin. Đạo giáo thì độc tôn, Thánh Moise là Đấng hằng hữu và
phải tàn sát tất cả sắc dân nào có tín ngưỡng riêng.
Qua thời Trung Cổ, người ta quan niệm Thuợng Đế có quyền tác
họa , ban phước. Kẻ nào làm lành được lên Thiên Đàng hay Cực Lạc, còn đứa dữ bị
đày vào hỏa ngục hay Địa ngục. Tôn giáo nào cũng cho mình là Chánh là Phải . Do
đó mới gây ra chiến tranh tôn giáo như ở Ấn Hồi hoặc kỳ thị tôn giáo ở Âu Châu.
Về tế lễ Trời Đất, thay đổi những con vật lớn bằng những con
vật nhỏ gọi là Tam sanh mà không còn dùng con người làm vật hy sinh như trước
nữa.
Thời kỳ hiện đại, ngoài những kinh sấm truyền báo trước Đạo
Cao Đài xuất hiện Xem “Đại Đạo Sử Cương” ,quyển I , ở Châu Aâu có Hội thông
thiên học , Hội Baha’i tuyên truyền thuyết tôn giáo Đại Đồng (La religion
universelle) và báo tin cho toàn nhân loại sẽ có một nền tôn giáo chủ trương
Đại Đồng thế giới ra đời . Đến năm 1926, Thượng Đế đã giáng trần lập Đạo Cao
Đài và đã có Giáo hội, giáo pháp, kinh lễ chuẩn định.
Đạo Cao Đài cũng quan niệm rằng : Việc hiến lễ lên Đức Chí
Tôn không còn chi bằng sanh mạng của mình. Nhưng thay vì dùng đồng Nam, đồng Nữ
hoặc dùng sinh vật để cầu phước , cầu danh lợi cho riêng mình, người tín hữu
Cao Đài dùng Tam Bửu là ba món quí báo nhất của con người gồm tinh khí thần hay
bằng Bông Rượu Trà dâng lên Đức Đại Từ Phụ.
- Bông tượng trưng cho hình thể hữu vi(thể xác) tức là Tinh.
- Rượu tượng trưng cho trí não khôn ngoan tức là Khí.
- Trà tượng trưng cho linh hồn tức là Thần.
Việc hiến lễ của Tính hữu Cao Đài không cầu mong phước lộc
cho riêng mình mà chỉ nguyện dâng cả thân này, từ thể xác, trí não đến linh hồn
làm con vật hy sinh để phục vụ, thi hành lịnhcủa Đức Đại Từ Phụ đưa nhân loại
đến cảnh huynh đệ đại đồng . Tắt một lời, xét việc hiến lễ từ xưa đến nay, cách
hiến lễ của Đạo Cao Đài có ý nghĩa cao thượng và tiến bộ nhứt.
Khi bước vào làm lễ Đức Chí Tôn, ta gặp bức bích họa Tam
Thánh 1 Chặn ngang đường. Chỉ một bức tượng này thôi đủ nói lên tôn chỉ, mục
đích, tuyên ngôn, giáo lý của Đạo Cao Đài. Nội dung bản Thiên Nhơn Hòa Ước gồm
có năm đề cương khiết lãnh như sau:
1/-Tôn chỉ : Vạn giáo qui nhứt bổn. Trong đó Thanh Sơn Đạo
Sĩ đại biểu Lão giáo, Nguyệt tâm chơn nhơn (Victor Hugo) đại biểu Thánh giáo,
Tôn Trung Sơn đại biểu Phật giáo (Vì tiền kiếp là Nguyễn Trãi) Bức bính họa này
do họa sĩ Lê Minh Tòng vẽ vào năm 1947 (thời kỳ trang trí Tòa Thánh) do ý của
Đức Hộ pháp. - Bức bính họa này do họa sĩ Lê Minh Tòng vẽ vào năm 1947 (thời kỳ
trang trí Tòa Thánh) do ý của Đức Hộ pháp. . Tuy biểu tượng Tam giáo nhưng bao
hàm vạn giáo vì ba tôn giáo trên Thiên bàn xếp hàng ngang nên còn chấm lửng đến
vô tận dẫn đến Đại Đồng Tôn giáo.
2/-Mục đích : Đại Đồng nhân loại, trong đó, TSĐS là người
Việt Nam. NTCN là người pháp và TTS là ngưới Trung Hoa . Tuy ba sắc dân mà biểu
trưng cả nhân loại.
3/-Tuyên ngôn : Nhân loại cùng Đấng cha chung. Hiện tượng
hóa thân từ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người Việt Nam chuyển kiếp là người Pháp
Richelieu… Hoặc trước ta ở Ấn Độ theo Aán giáo khi đầu thay sang Israel ta sẽ
theo Do Thái giáo. Thế thì ta thay đổi, tôn giáo thay đổi, nhưng Đức Thượng Đế
chỉ có MỘT mà thôi.
4/-Triết lý : Trời còn hiệp nhứt. Trong bản hòa ước có 4 chữ
Thiên Thượng Thiên Hạ (Dieu et Humanité) “Thiên Nhơn vốn hiệp nhứt rồi bất tất
phải nói hợp” (Trình Hiệu). Trong Đạo Cao Đài, Trời người hợp nhất qua trung
gian đồng tử tức phò cơ, chấp bút .
5/-Giáo lý : Trong bản hòa ước ghi rõ: bác ái, công bình,
thương yêu và công chánh. Loài người chỉ cần thực hiện hai chữ THƯƠNG YÊU là sẽ
thấy ĐẠI ĐỒNG HUYNH ĐỆ.
Tóm lại, Đức Chí Tôn đã dạy, Thầy đến dạy sự thương yêu va
diệt mê tín, chẳng dùng điều chi tà giáo dị đoan. Thật là một tôn giáo hướng
thượng và tiến bộ. Đạo Cao Đài làm sáng lại truyền thống Nam Phong chớ không
phục cổ. Xây dựng tương lai Nhơn phong với mô thức xã hội văn minh giản dị phác
thực chớ không phải thứ văn minh mưu xảo phồn tạp.
CHƯƠNG II
THANH NIÊN
TIẾT 1 : ĐOÀN HƯỚNG ĐẠO SINH CAO ĐÀI
TIẾT 2 : ĐẠI ĐẠO THANH NIÊN HỘI
TIẾT 1 : ĐOÀN HƯỚNG
ĐẠO SINH CAO ĐÀI
" Hướng Đạo
dẫn đường dân chúng tìm chân lý
Cao Đài mở lối quần
sanh hiểu nghĩa nhân "
Cuối năm 1949, ảnh hưởng chiến tranh, nhiều gia đình di cư
về Toà Thánh, đem theo con cái vô nghề rỗi công. Trước hoàn cảnh đó, giáo sư Hồ
Thái Bạch (Hiền tài) họp cùng một số người đồng chí hướng lập ra Bá Nghệ Đoàn,
được Đức Hộ Pháp chuẩn phê quyết định số 470 ngày 05-06-1949
Trụ sở Đoàn năm giữa Đường Nhơn và Bắc Tông Đaọ. Bá Nghệ
Đoàn dạy cho thanh thiếu niên nhiều nghề như mộc, hồ, đan, khắc mộc gỗ..Trong
đó, chỉ có hai nghề đan mây tre lá và khắc mộc gỗ cho Chơn Truyền Aán quán có
nhiều người theo học và phát triển nhất.
Số thanh thiếu niên tụ tập ngày càng đông. Giáo sư Bạch
quyết hợp thức hoá với Đạo và Đời. Ông làm đơn gởi lên văn phòng Hộ Pháp xin
thành lập Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài và Đạo Linh Sơn với Hội Hướng Đạo Việt
Nam.
Ngày 5 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1952), Đức Hộ Pháp ký Thánh
lịnh số 18/TL cho phép Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài được phép hoạt động theo lời
hứa và Luật Hướng Đạo như dưới đây
LỜI HỨA HƯỚNG ĐẠO
Tôi xin lấy danh dự của tôi mà hứa rằng :
- Làm tròn bổn phận đối với tôn giáo và tổ quốc
- Giúp ích mọi người bất cứ lúc nào
- Tuân theo luật Hướng Đạo
LUẬT HƯỚNG ĐẠO
1. Hướng Đạo Sinh là người trọng danh dự.
2. Hướng Đạo Sinh tuân theo luật Đạo, luật nước và người
cộng sự.
3. HĐS giúp ích mọi người bất cứ lúc nào.
4. HĐS là bạn của mọi người.
5. HĐS lễ độ và nhã nhặn.
6. HĐS yêu các giống sinh vật
7. HĐS vâng lời.
8. HĐS vui vẻ khi gặp khó khăn.
9. HĐS biết tiết kiệm của người và của mình.
10. HĐS trong sạch từ tư tưởng, lời nói đến việc làm.
BÀI HÁT CHÍNH THỨC
Của Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài
Lời và nhạc : Vân Đằng
Đưa nhau lên đường anh em thanh niên
Kiến tạo thanh bình chúng ta bước đều
Hướng Đạo Sinh Cao Đài ! HĐS nhân nghĩa,
Hướng Đạo Sinh Cao Đài ! Từ bi, bác ái, công bằng.
Ta đi lên gieo vui tươi muôn nơi
Ta đi lên, người HĐS. Cao Đài !
Để thực thi luật Hướng Đạo “ giúp ích mọi người”, Ban Huynh
Trưởng hội họp quyết định thành lập trường tiểu học Minh Đức - Tân Dân. Cơ sở
trường đặt trong nội ô ở gần cửa số 3.
Trường do huynh trưởng Lê Hoàng Hải ( Lễ sanh) làm cai
trường. Ban giáo viên gồm có : Nguyễn Thành Kỉnh, Nguyễn Văn Trạng, Lê Văn Cẩn
…
Những học sinh cô nhi, con chức sắc neo đơn đều được ăn cơm
tại Trai đường của Đạo. Ban giáo viên ăn cơm tại trụ sở Hướng Đạo do tiền lương
của giáo sư Bạch cung cấp. Ngoài ra, không có lãnh khoản tiền nào khác và được
cầu phong vào hàng chức sắc. Trường phải đóng cửa vì Ban Thanh Trừng.
Các ngày lễ lớn , Đoàn Hướng Đạo Sinh Cao Đài lãnh tổ chức
các cuộc vui như đốt lửa trại, trình diễn văn nghệ, biểu diễn xếp chữ, trồng
tháp …
Hoạt động của Đoàn từ 1952 đến 1955 có ba điểm son lớn :
- Giúp đỡ tương trợ đồng bào bị lụt năm Nhâm Thìn (1952) ở
Tây Ninh.
- Lưu diễn văn nghệ ở miền Tây với Quái kiệt Trần Văn Trạch
giúp đồng bào bị hoả hoạn ở chợ Thiếc năm 1953 ( Sài gòn).
- Giúp đồng bào di cư 1954 tại trại tạm cư Trường Trung Học
Lê Văn Trung và những hoạt động từ thiện khác.
TIẾT 2 : ĐẠI ĐẠO
THANH NIÊN HỘI
" Đại Đạo oát
triền hợp lực dựng nền nhân
Thanh niên hội hiệp
đồng tâm xây chánh giáo "
1. Sơ lược về ĐĐ
Thanh niên Hội.
Đại Đạo Thanh Niên Hội thành lập năm 1965, đứng đầu là vị
Hội Trưởng. Hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương,điều khiển do các ban
chấp hành nhiệm kỳ là ba năm như BCH Trung Ương, Châu Thành Thánh Địa, Phận
Đạo, Tỉnh Hội, Quận Hội, có hệ thống ngang với các Châu Tộc Đạo và trợ lực cho
các Châu Đạo, trợ lực cho các Tộc về giáo dưỡng thanh niên.
Hội kỳ chiều ngang 2/3 chiều dài, nền xanh da trời, viền
trắng trên nền có ba vòng tam thanh và sao Bắc Đẩu .
Đồng phục nam áo sơ mi trắng có cầu vai, quần tây dài màu
xanh, đầu đội nón rộng vành, nữ áo sơ mi trắng có cầu vai, vái màu nâu, nón
trắng hay nón vải.
Thanh niên gia nhập phải tuân theo “Điều lệ Hội”, xin lược
ghi một số điều :
- Điều thứ nhứt : Hội Thánh công nhận Đại Đạo Thanh Niên Hội
là một cơ quan để tiếp sức với Hội Thánh trong việc thi hành Thế Luật của Đạo
cho được đắc lực.
- Điều thứ ba : Đại Đạo Thanh Niên Hội thành lập nhằm mục
đích đoàn kết chặt chẽ tầng lớp thanh niên con em của Đạo thành một khối vững
chắc để phục vụ Hội Thánh.
Gây tình thương thân tương ái giữa các đoàn thể thanh niên.
Đào tạo nhân tài cho xã hội. Quyết tâm giữ vững nền Tâm pháp
của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Những điều vừa nêu trên đã ấn định mục tiêu và nhiệm vụ của
Đại Đạo Thanh Niên Hội là xây dựng một xã hội mới theo Tân Pháp của Đạo Cao Đài
là tứ hải giai huynh đệ, năm châu chung nhà để xây dựng thế giới Đại Đồng phồn
vinh.
Muốn được như thế, người thanh niên đạo trước hết phải tạo
cho mình một thể chất khoẻ mạnh và trong sạch. Kế đến phải tự rèn luyện bản
thân có những đức tính tốt như trọng danh dự, trọng tự do, trọng tín nghĩa và
sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa vì Đạo.
Điều cần yếu nhất là phải học hành siêng năng.
Ngài Hiến Đạo ban huấn từ cho Đại Đạo Thanh Niên Hội nhân
Đại lễ Hội Yến 14-8-Aát Hội (2-10-1971) đã nhấn mạnh điều đó như sau :
“ Thế kỷ XX là thế kỷ hạt nhân nguyên tử…..Thế kỷ khoa học
tiến bộ mau lẹ.
“ Thanh niên phải làm gì để theo kịp đà tiến triển của khoa
học. Các em phải học tập cho rộng để mở mang kiến thức, nghĩ cho sâu để hiểu rõ
ngọn ngành, nghiên cứu kỹ lưỡng để phân biệt phải trái …
“ Học là niềm đam mê, học hoài học không chán, lấy sự học
làm thú vị. Học như vậy mới hay, mới có kết quả tốt đẹp. Học để biết sự biến chuyển
trong đời, trong sự thể, biết cái mới lạ, cái đẹp hay. Học như vậy mới thật là
học …
“ Các em thanh niên vốn là con cháu của tín hữu Cao Đài con
nhà đạo đức, các em không thể làm chuyện hư hèn để tiếng nhơ cho họ hàng thân
tộc. Các em phải tránh xa khỏi bị đầu độc bằng phim ảnh truỵ lạc của bọn con
buôn trục lợi.
“ Hỡi các em thanh niên, đất nước đặt hy vọng vào các em
đạo, trông cậy vào các em. Các em cố gắng học cho tốt để mai sau góp phần xây
dựng xứ sở, dìu dắt đống bào bước lên đường văn minh tiến bộ theo kịp bằng
người” ( TT 38, tr. 8, 9).
2. Đại hội bầu cử
ĐĐTN Hội
Vào ngày mồng 4 tháng 5 Giáp Dần (dl 23-6-1974), đại hội bầu
cử Ban chấp Hành Trương Ương Đại Đạo Thanh Niên hội nhiệm kỳ 1974-1976 tại Đạo
Đức Học Đường, gồm có đại châu thành Thánh Địa, các Châu Tộc Đạo của các địa
phương về tham dự đông đủ.
Khởi đầu, ông Hội trưởng BCH Trung Ương ĐĐTNH đọc diễn văn
khai mạc và vị Tổng Thư ký tường trình về mọi sinh họat của Hội trong nhiệm kỳ
vừa qua. Ông Quyền Thượng Chánh Phối Sư ban huấn từ đại ý.
Sự hiện diện đông đủ của các cấp Hội giúp buổi lễ thêm long
trọng và được quí vị Thời Quân, quí Ngài Đầu Sư đến dự và đồng chủ tọa để
khuyến khích nung chí trên bước đường hoạt động thanh niên, bồi đắp tương lai
hậu tấu cho Giáo Hội.
Nhân dịp Đại Hội, ông nhắn nhủ với các hội viên. Điều thứ
nhứt của Đạo Lịnh thành lập Đại Đạo Thanh Niên Hội có ghi : “Hội Thánh công
nhận ĐĐTNH là một cơ quan để tiếp sức với Hội Thánh trong việc thi hành thế
luật của Đạo cho được đắc lực”.
Điều thứ ba của bản điều lệ cũng ghi : ”ĐĐTNH thành lập nhằm
mục đích đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp thanh niên con em của Đạo thành một
khối vững chắc để phục vụ Hội Thánh. Gây tình tương thân tương ái giữa các đoàn
thể thanh niên đào tạo nhân tài cho xã hội. Quyết tâm giữ vững nền Tân pháp của
ĐĐTKPĐ”. Song song với các điều trên, người thanh niên Đại Đạo đặt tình thương
nhân loại lên trên hết, chống mọi tư tưởng sa đà thoái hóa. Như thế, nhiệm vụ
bức htiết của ĐĐTNH trong lúc này là “Xây dựng một xã hội mới đặt trên nguyên
tắc công bằng, bác ái và tự do dân chủ.
Muốn thế, người thanh niên Đạo bắt đầu phải tự xây dựng bản
thân bằng những điều căn bản sau :
- Xây dựng một cơ thể lành mạnh trong xác thân khang kiện
- Xây dựng nếp sống đạo đức vị tha
- Xây dựng tư cách làm người. Trọng tín nghĩa, thờ danh dự,
ham tự chủ, giàu hy sinh và tinh thần phục vụ cao.
Đó chính là những mục tiêu tối thượng của phong trào thanh
niên Đại Đạo, trong sứ mạng tiếp sức với Hội Thánh thi hành thế luật của Đạo
cho ra thiệt tướng.
3. Đạo lịnh và điều
lệ thành lập ĐĐTN Hội
A/ ĐẠO LỊNH SỐ 038-ĐL
Điều thứ nhứt : Hội Thánh công nhận Đại Đạo Thanh Niên Hội
là một cơ quan để tiếp sức với Hội Thánh trong việc thi hành Thế Luật của Đạo
cho được đắc lực.
Điều thứ nhì : Chức sắc hành quyền Đạo ở Trung ương cũng như
ở địa phương phải hết lòng nâng đỡ Đại Đạo Thanh Niên Hội trong nhiệm vụ nói
trên.
Điều thứ ba : Chư vị Hiến Pháp Chưởng quản Bộ Pháp Chánh,
Đầu Sư Cửu Trùng Đài, Chưởng Quản Phước Thiện, Nữ Chánh Phối Sư, Chưởng Quản Nữ
Phái Cửu Trùng Đài và Nữ Phối Sư Chưởng Quản Nữ Phái Phước Thiện, các tư kỳ
phận lãnh ban hành và thi hành Đạo lịnh này./.
Toà Thánh, ngày 25 tháng 5 năm Aát Tỵ (
24-6-1965 dl )
THƯỢNG SANH
PHÊ KIẾN
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
( ấn ký)
BẢO THẾ
QUYỀN CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
(ấn ký)
B -/ ĐIỀU-LỆ
ĐẠI-ĐẠO THANH-NIÊN
HỘI
*
*
*
Chương 1: Danh-Hiệu,
Trụ-Sở, Mục-Đích, Phạm-Vi, Thời-Hạn
Điều Thứ I:
Danh-Hiệu
Điều Thứ II: Trụ-Sở
Điều Thứ III:
Mục-Đích
Điều Thứ IV:
Phạm-Vi, Thời-Hạn
Chương 2:
Thành-Phần, Nhiệm-Vụ, Điều-Kiện Nhập Hội & Ra Hội
Điều Thứ V:
Thành-Phần Hội-Viên
Điều Thứ VI:
Nhiệm-Vụ của Hội-Viên
Điều Thứ VII:
Điều-Kiện Nhập Hội & Ra Hội
Điều Thứ VIII:
Thiếu-Sinh Đại-Đạo
Chương 3: Tổ-Chức
Điều Thứ IX: Tổ-Chức
của Đại-Đạo Thanh-Niên Hội
Điều Thứ X:
Thành-Phần của mỗi Cấp
Điều Thứ XI:
Nhiệm-Kỳ, Định-Kỳ & Đại-Hội
Điều Thứ XII:
Kỷ-Luật
Điều Thứ XIII:
Hội-Đồng Kỷ-Luật
Chương 4: Tài-Chánh
Điều Thứ XIV:
Tài-Chánh của Hội
Điều Thứ XV: Chi Thu
Chương 5: Nội-Quy,
Sửa-Đổi Điều-Lệ, Giải-Tán
Điều Thứ XVI: Nội-Quy, Sửa-Đổi Điều-Lệ, Giải-Tán
CHƯƠNG I
DANH-HIỆU, TRỤ-SỞ, MỤC-ĐÍCH, PHAÏM-VI,
THỜI-HAÏN
ĐIỀU THỨ I DANH-HIỆU
Nay thành-lập trong hàng thanh-niên nam-nữ Đạo Cao-Đài một
Hội lấy tên là ĐẠI-ĐẠO THANH-NIÊN HỘI.
ĐIỀU THỨ II TRỤ-SỞ
Cơ-quan Trung-Ương đặt tại: TÒA-THÁNH TÂY-NINH (Việt-Nam).
ĐIỀU THỨ III MỤC-ĐÍCH
Đoàn-kết chặt-chẽ các từng lớp thanh-niên của Đạo thành một
khối vững-chắc để phục-vụ nhơn-loại.
Gây tình tương-thân tương-ái, trao-đổi văn-hóa, kiến-thức và
kinh-nghiệm giữa các đoàn-thể thanh-niên tôn-giáo trên thế-giới; thể-hiện tình-thương
vạn-loại đúng theo tôn-chỉ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Đào-tạo nhân-tài cho xã-hội trên căn-bản: Đức, Trí và
Thể-Dục để bảo-đảm hạnh-phúc chung cho nhân-loại.
Duy-trì, bảo-vệ và phát-triển văn-hóa truyền-thống Việt-Nam.
Quyết-tâm giữ-vững nền Tân-Pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ,
bảo-vệ tự-do tín-ngưỡng và tôn-trọng các nền tôn-giáo, tiến tới một thế-giới
đại-đồng duy nhất trong Bảo-Sanh, Nhân-Nghĩa và Công-Bằng. Hội chủ-trương đặt tình-yêu
nhân-loại trên hết và tuyệt-đối không tham-gia chính-trị.
ĐIỀU THỨ IV PHẠM-VI, THỜI-HẠN
Hội hoạt-động trên lãnh-thổ Viet-Nam và và vô kỳ hạn.
*
* *
CHƯƠNG II
THÀNH-PHẦN, NHIỆM-VỤ, ĐIỀU-KIỆN NHẬP HỘI VÀ RA HỘI,
THIẾU-SINH ĐẠI-ĐẠO
ĐIỀU THỨ V THÀNH-PHẦN HỘI-VIÊN
Hội-Viên Sáng-Lập là những người khởi-xướng và đứng ra
thành-lập Hội.
Hội-Viên Danh-Dự là những Chức-Sắc, Chức-Việc trong Đạo hoặc
những nhân-sĩ trí-thức có uy-tín trong xã-hội có nhiệt-tâm đối với Hội.
Hội-Viên Chỉ-Đạo là những người được mời giúp ý-kiến và
hoạch-định đường-lối cho Hội, thành-phần cốt-cán của Hội.
Hội-Viên Ân-Nghĩa là những người hảo-tâm thiện-chí giúp Hội
về phương-tiện tinh-thần lẫn vật-chất.
Hội-Viên Hoạt-Động là tất cả hội-viên thiệt-thọ của Hội có
trách-nhiệm trực-tiếp về sinh-hoạt của Hội.
ĐIỀU THỨ VI NHIỆM-VỤ CỦA HỘI-VIÊN
Thi-hành triệt-để Thế-Luật của Đạo.
Trung-thành với Tôn-Chỉ và Mục-Đích của Hội.
Tôn-trọng Điều-Lệ và Nội-Qui của Hội.
Gia-công khảo-cứu và sưu-tầm để trao-dồi văn-hóa, tập-luyện
thể-dục thể-thao để kiện-toàn bản-thân hầu làm tròn bổn-phận một tín-đồ
xứng-đáng của Đạo Giáo, một công-dân tốt của đất-nước.
Bàn-luận, đóng góp ý-kiến, tuyệt-đối không được chỉ-trích
hay cãi-vã gây bất hòa nhau.
Kính trên, nhường dưới, hòa-thuận nhau, không phân-biệt
tôn-giáo, chủng-tộc.
Tham-gia các công-việc từ-thiện.
Khuyến-khích và giúp-đở lẫn nhau trên đường tu học,
thực-hiện Đại Đoàn-Kết. Giữ nền hòa-ái tương-thân, làm cho mọi người hướng về
Thượng-Đế, nhìn-nhận là Đấng Cha chung theo tinh-thần Đại-Đồng Nhân-Loại.
ĐIỀU THỨ VII ĐIỀU-KIỆN NHẬP & RA HỘI
Những thanh-niên có khuynh-hướng đạo-đức.
Không phân-biệt màu da sắc tóc, tôn-giáo.
Phải làm đơn gia-nhập Hội và có một Hội-Viên tiến-dẫn.
Hội-Viên muốn ra Hội phải gởi đơn đến Hội.
Hội-Viên đã xin ra Hội có thể xin gia-nhập trở lại, cũng
phải tùng theo thể-lệ đã ấn-định như một hội-viên mới xin gia-nhập.
ĐIỀU THỨ VIII THIẾU-SINH ĐẠI-ĐẠO
Những thiếu-niên nam-nữ dưới 18 tuổi sẽ kết-nạp vào đoàn
Thiếu-Sinh Đại-Đạo nếu có sự chấp-thuận của cha-mẹ.
*
* *
CHƯƠNG III
TỔ-CHỨC
ĐIỀU THỨ IX TỔ-CHỨC CỦA ĐẠI-ĐẠO THANH-NIÊN HỘI
Tổ-chức của ĐẠI-ĐẠO THANH-NIÊN HỘI theo hệ-thống từ dưới lên
trên gồm có:
Phân-Hội
Hương-Hội
Quận-Hội
Tỉnh-Hội
Khu-Hội
Liên-Khu-Hội
Bang-Hội
Trung-Ương
ĐIỀU THỨ X THÀNH-PHẦN CỦA MỖI CẤP
Thành-phần của mỗi cấp sẽ được quy-định rõ trong bản
Nội-Quy.
ĐIỀU THỨ XI NHIỆM-KỲ, ĐỊNH-KỲ & ĐẠI-HỘI
Nhiệm-Kỳ:
Sau khi được Chính-Phủ chính-thức cho phép thành-lập Hội
trong thời-hạn tối-đa là sáu tháng các sáng lập viên phải triệu-tập Đại-Hội để
bầu Ban Chấp-Hành Trung-Ương chính-thức.
Nhiệm-kỳ của Ban Chấp-Hành Trung-Ương là ba (3) năm.
Nhiệm-kỳ của các cấp khác là một (1) năm.
Định-Kỳ:
Ban Chấp-Hành các cấp họp hằng tháng một kỳ.
Ban Chấp-Hành Trung-Ương họp tam-cá-nguyệt một kỳ. Riêng Ban
Chấp-Hành Trung-Ương có thể họp bất-thường do Hội-Trưởng triệu-tập hoặc do 2/3
số nhân-viên yêu-cầu.
Đại-Hội:
Mỗi năm vào dịp Rằm tháng Giêng (Âm-Lịch) sẽ tổ-chức Đại-Hội
thường-niên để:
Tường-trình công-việc năm qua và hoạch-định chương-trình
hoạt-động cho năm tới.
Bầu-cử Ban Chấp-Hành Trung-Ương khi mãn nhiệm-kỳ.
Thành-phần của Đại-Hội gồm có các Hội-Viên lãnh-đạo các cấp
đại-diện.
Thủ-tục bầu-cử và nghị-quyết:
Đại-Hội chỉ hợp-lệ khi có sự hiện-diện của 2/3 các đại-diện
hợp-pháp.
Trong trường-hợp không đủ số nầy, Ban Chấp-Hành sẽ triệu-tập
Đại-Hội lần thứ hai trong thời-hạn một (1) tháng, và Đại-Hội nầy với bất-cứ bao
nhiêu đại-diện hợp-pháp tham-dự cũng đều có giá-trị.
Bầu-cử và nghị-quyết theo thể-thức đa-số tương-đối những
đại-diện có mặt, hoặc có đại-diện hợp-pháp.
Trường-hợp số phiếu tương-đương phải bỏ phiếu lại lần thứ
hai.
Trong lần bỏ phiếu lần thứ hai, nếu hai số phiếu bằng nhau
thì ý-kiến của chủ-tọa hội-nghị sẽ có giá-trị tuyệt-đối.
ĐIỀU THỨ XII KỶ-LUẬT
Tưởng-Thưởng:
Sau 5 năm Hội-Viên không gián-đoạn công-nghiệp và có đủ
điều-kiện về:
Phương-diện hạnh-đức
Trình-độ học-thức
Tinh-thần phục-vụ
Trên 25 tuổi
Sẽ được Hội-Thánh chọn cầu-phong cho lên Lễ-Sanh do đề-nghị
của vị lãnh-đạo, chư-vị Tân Lễ-Sanh nầy sẽ làm cán-bộ ưu-tú để dạy lại đàn em.
Sau 3 năm làm cán-bộ sẽ được Hội-Thánh thâu-dụng bổ-nhiệm hành Đạo ở
địa-phương.
Trừng-Phạt:
Những Hội-Viên không tuân-hành đúng theo quyết-nghị của
Trung-Ương và hành-động có phương-hại đến danh-nghĩa Hội, tùy trường-hợp phải
chịu những kỷ-luật sau đây:
Phê-bình
Cảnh-cáo
Quỳ hương
Khai-trừ có thời-hạn
Khai-trừ vĩnh-viễn
ĐIỀU THỨ XIII HỘI-ĐỒNG KỶ-LUẬT gồm:
Hội-Trưởng
3 Phó Hội-Trưởng
Tổng Thư-Ký
2 Kiểm-Soát Viên tham-dự
Hội-Trưởng: Chủ-tọa
phiên-họp và nghị-quyết trừng-phạt (theo các quy-luật của Hội.)
Đệ I Phó Hội-Trưởng:
Giữ quyền buộc-tội Hội-Viên phạm kỷ-luật của Hội.
Đệ II Phó Hội-Trưởng:
Đứng ra biện-hộ cho Hội-Viên phạm kỷ-luật của Hội.
Đệ III Phó Hội-Trưởng:
Tuyên đọc bản phạm kỷ-luật trạng của Hội-Viên phạm kỷ-luật (nêu rõ
điều-khoản.)
2 Kiểm-Soát Viên:
(tham-gia ý-kiến và chứng-kiến.)
- Trong trường-hợp một trong những Hội-Viên chỉ-đạo phạm
kỷ-luật, sẽ do Đại-Hội họp Hội-Đồng Kỷ-Luật xét-xử dưới sự chứng-kiến của
Hội-Thánh.
Tổng Thư-Ký: là
thuyết-trình viên và có phận-sự ghi-chép các phiên-xử.
*
* *
CHƯƠNG IV
TÀI-CHÁNH
ĐIỀU THỨ XIV TÀI-CHÁNH CỦA HỘI gồm có:
Tiền gia-nhập Hội và tiền niên-liễm của Hội-Viên.
Tiền do các Hội-Viên Ân-Nghĩa giúp.
Nguồn-lợi hợp-pháp do hoạt-động của Hội tạo nên.
Động-sản, bất-động-sản hiện-hữu và đang được tạo mãi do
nhu-cầu của Hội có Ban Chấp-Hành đứng tên.
ĐIỀU THỨ XV CHI
THU:
Tiền gia-nhập Hội
và niên-liễm của Hội sẽ do Thủ-quỹ thâu.
Thủ-quỹ chỉ giữ
được tối đa 10.000 đồng, ngoài ra sẽ đưa gởi ở ngân-khố hoặc Hộ-Viện Hội-Thánh.
Thủ-quỹ chỉ được
quyền chi tới 1.000 đồng mỗi lần trong một công-việc và không được chi quá 3
lần trong 1 tháng. Trên 5.000 đến 10.000 đồng phải có chữ-ký của Hội-Trưởng.
Từ 10.000 đồng
trở lên phải do toàn Ban Chấp-Hành ấn-định.
Nếu công-việc chi
không ở trong chương-trình của Đại-Hội quyết-định thì phải chờ tới Đại-Hội để
lấy quyết-định.
Tiền niên-liễm sẽ
đóng từng tam-cá-nguyệt vào khoảng từ 1 đến 10 ngày tháng đầu của
tam-cá-nguyệt.
Tiền nhập Hội
đóng 1 lần ngay khi làm lễ nhập Hội.
*
* *
CHƯƠNG V
NỘI-QUY, SỬA-ĐỔI ĐIỀU-LỆ, GIẢI-TÁN
ĐIỀU THỨ XVI NỘI-QUY, SỬA-ĐỔI ĐIỀU-LỆ, GIẢI-TÁN
Bản Nội-Quy của Hội sẽ do 1 Ủy-Ban nghiên-cứu và soạn-thảo
được Đại-Hội chấp-thuận.
Chỉ có Đại-Hội mới có quyền quyết-định sửa-đổi Điều-Lệ.
Hội có thể bị giải-tán khi Hội đủ các điều-kiện như sau:
Do quyết-nghị của Hội-Thánh.
Do quyết-nghị của 2/3 tổng-số Hội-Viên.
Do quyết-nghị của Chánh-Quyền.
Trong trường-hợp Hội giải-tán, tài-sản của Hội sẽ giao cho
cơ-quan Phước-Thiện của Hội-Thánh.
Làm tại Tòa-Thánh Tây-Ninh, ngày 8 tháng 4 Giáp-Thìn
(Dương-Lịch, ngày 19 tháng 5 năm 1964)
Khán
Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài
Bảo-Sanh-Quân
Bác-Sĩ Lê-Văn-Hoạch
T.M. Ban Chấp-Hành
Hội-Trưởng
Lễ-Sanh Ngọc-Hòa-Thanh
Kỹ-Sư Nguyễn-Ngọc-Hòa
PHẦN THỨ HAI
CHƯƠNG I
VĂN HOÁ
TIẾT 1 : NGHI LỄ
VÒNG ĐỜI
Trong Đạo Cao Đài, con người từ lúc sinh ra cho tới chết đều
làm bốn lễ chánh. Đó là nghi lễ vòng đời. Đứa bé sau khi sinh ra được đưa đến
Thánh Thất làm lễ Tắm Thánh, lớn lên lấy vợ gả chồng thì có lễ Hôn phối, đến
già thì có lễ Chúc Thọ và khi qua đời có lễ Tang.
1. Lễ Tắm Thánh :
Tam Thánh ký hoà ước mở đạo Tam Kỳ. Ba Ngài đứng đón nhơn
sanh ngay cửa chánh vào Đền Thánh.
Đứa bé được đem đến làm lễ tắm thánh cũng phải qua ba Ngài
cân thần trước và ban đạo hiệu như Bạch Linh (HTK), Bạch Minh (HTB), Vân Phong
(LTP), Vân Đằng .v..Thánh danh do Đức Lý ban cho các chức sắc, còn đạo hiệu do
Bạch Vân Động ban cho bất cứ ai, nhất là tín đồ để trục đuổi tà khí mà tiếp
nhận ân điển thiêng liêng.
Đức Chí Tôn có dạy :
“Chơn thần của các con, gặp tà khí thì khó chịu nên Thầy
xuống điển nhiều đặng ngăn tà mị, một đôi khi phải nhập xác vì điển xuống
nhiều. Cũng một lẽ ấy mà mỗi lần lập thệ đều có nhập xác” (Thánh ngôn Quyển
II-1970-trang 90) .
Đối với trẻ sơ sinh, cha mẹ có bổn phận phải đem nó đến
Thánh Thất hay Đền Thánh để làm phép Tắm Thánh. Điều thứ 12 chương Thế luật của
Bộ Tân luật ĐĐTKPĐ ghi rõ như sau :
“Đứa con nít khi được một tháng sắp lên phải đem đến Thánh
Thất sở tại mà xin làm lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn đạo”.
Sau nghi lễ này, đứa trẻ sẽ được coi là tín đồ về mặt pháp lý.
Nó được cấp giấy chứng nhận gọi là “Giấy Tắm Thánh”. Cha mẹ có bổn phận phải
giữ gìn giấy này cho đến khi nó trưởng thành. Theo luật lệ hiện hành của Hội
Thánh, đến năm 18 tuổi, đứa trẻ được coi là trưởng thành. Nó phải làm lễ Nhập
môn Minh thệ và đem giấy Tắm Thánh đổi lấy Sớ Cầu Đạo Thiệt Thọ. Hội Thánh sẽ
ghi tên nó vào Bộ Đạo chính thức từ đây.
Sở dĩ có sự ràng buộc nầy là vì khi còn bé thơ, cha mẹ đem
nó đi Tắm Thánh, nó chưa có ý thức gì về hành động này cả. Việc làm này hoàn
toàn do cha mẹ nó định đoạt. Giờ đây đứa bé đã trưởng thành, nó có ý thức và
trách nhiệm đối với mọi hành động của nó. Nó được hoàn toàn tự do xác định rằng
nó muốn theo Đạo Cao Đài hay không tuỳ ý nó. Thoảng như nó nhất quyết từ chối
không theo Đạo, luật lệ của Hội Thánh cũng không nhập môn, không có Sớ Cầu Đạo
thì kể là không có Đạo.
Còn về mặt thần quyền, bí pháp Tắm Thánh cũng có cùng ý
nghĩa như phép Giải oan, nghĩa là đem ân điển thiêng liêng truyền vào cơ thể
hài nhi để giúp nó phát triển dễ dàng cả về tÂm linh lẫn thể chất theo chiều
hướng tốt đẹp. Đối với trẻ người ta coi là vô tội, ít nhứt từ khi mới sinh ra,
nên dùng chữ “Tắm Thánh” chứ không dùng chữ “Giải oan”vì nó chưa gây nên oan
nghiệt gì cả.
* Tại sao cha mẹ có bổn phận phải đem con đi làm lễ Tắm
Thánh:
Khi một chơn linh xuống trần, quyết định chọn lựa gia đình
có đạo đức để đầu thai làm con, chơn linh ấy xét thầy có nhiều hy vọng để được
bậc cha mẹ nuôi dưỡng mình suốt thời kỳ thơ ấu trong nếp sinh hoạt đạo đức, hy
vọng được hưởng ân huệ của Đức Chí Tôn ban cho trong Tam Kỳ Phổ Độ này, được
Chí Tôn ân xá tội tình từ kiếp trước. Nếu bậc cha mẹ không đem trẻ con đi Tắm
Thánh, nó sẽ không hưởng được ân lành của Đức Chí Tôn ban cho và con đường tấn
hoá của nó có thể gặp trở ngại vì những quả nghiệp xấu mà nó đã gây ra từ bao
kiếp trước và vì chưa được ân xá nên phải trả theo luật công bình thiêng liêng
vậy.
Trách nhiệm ấy về phần cha mẹ gánh chịu trực tiếp vì bậc cha
mẹ là người hiểu Đạo mà không lo tròn bổn phận đối với con trẻ, làm chậm trễ bước
đường tấn hoá của các chơn linh xuống trần.
2. Lễ hôn phối :
Chiếu Tân Luật điều thứ 6 đến thứ 10 dạy sự chọn Hôn trong
người đồng Đạo, trừ khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới được kết làm
giai ngẫu.
Tám ngày trước lễ Sính hôn, chủ hôn Trai phải dán Bố cáo nơi
Thánh Thất sở tại cho trong bổn Đạo hay biết sau khỏi điều trắc trở.
Làm lễ Sính hôn, hai đàng Trai và Gái phải đến Thánh Thất
hoặc Đền Thánh mà cầu lễ Chung hôn (tức là lễ Hôn phối).
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Tất cả người trong Đạo khi kết thành Hôn Nhơn cho con cháu
phải tuân hành theo Tân Luật như sau :
1- Trước hết phải chọn Hôn người trong Đạo như “Điều thứ 6
của Tân Luật”.
2- Trước ngày Sinh hôn phải đăng ký Bát nhựt tại Thánh Thất
sở tại “Điều thứ 7 Tân Luật”
3- Khi làm lễ cưới gả hai đàng Trai và Gái phải xin phép lập
lễ Hôn phối tại Thánh Thất hoặc Đền Thánh “Điều thứ 8 Tân Luật”
4- Cấm không được cưới hầu thiếp, trừ khi nào không con nối
hậu thì đặng phép cưới hầu thiếp, nhưng chính chánh thê đứng cưới hỏi mới đặng
“Điều thứ 9 Tân Luật”.
5- Cấm người trong Đạo không được để bỏ nhau, trừ khi ngoại
tình hay thất hiếu với công cô “Điều thứ 10 Tân Luật”.
Trườnghợp bất khả kháng hành lễ tại tự gia.
BÀN TRỊ SỰ THI HÀNH NHƯ SAU :
a. Buộc chủ hôn Nam, Nữ phải xin phép Đầu Phận, Bàn Trị Sự
hỏi rõ việc kết hôn nêu trong điều thứ 6 và thứ 7 của Tân Luật.
b. Mỗi khi bổn Đạo gả, cưới phải thỉnh Bàn Trị Sự hay Đầu
Phận đến chứng sự hoặc hướng dẫn cách thức hành lễ để tránh điều bất trắc trong
vụ, trừ ra trong gia đình của Chức sắc Đại Thiên Phong dĩ hạ (dù hành lễ tại tự
gia).
c. Khi Bàn Trị Sự đến chứng sự hành lễ phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm, nên cần lưu ý m ọi việc chu đáo theo phép Đạo.
d. Phần hướng dẫn hành lễ, trước hết phải đôi bên Trai, Gái
có thỉnh Chánh Trị Sự, thì hai vị này vào cầu nguyện Chí Tôn kế hai sui gia
Nam, Nữ sau là chàng rể. Khi xong tiếp bái lễ Từ Đường (Ông, Bà quá vãng).
Đoạn trình Hội Thánh, Quốc Vương Thuỷ thổ, Ông bà tại tiền
(sống) Cha Mẹ và tiếp công cô.
3. Lễ chúc thọ
Theo tài liệu Hạnh Đường, khoá huấn luyện giáo hữu năm Nhâm
Tý (1972) lễ chúc thọ mừng đáo tuế được chia làm ba thời kỳ :
- Thời kỳ Hạ thọ : từ 65 tới 75 tuổi
- Thời kỳ Trung thọ : từ 75 tới 85 tuổi
- Thời kỳ Thượng thọ : từ 85 tới 100 tuổi.
Để hợp với cơ tiến hoá, Hội Thánh áp dụng nghi lễ chúc thọ
theo Tam Kỳ Phổ Độ như sau :
a. Lập nội nghi : chưng cặp lộng, hoa quả. Phía sau nội nghi
đặt một cái ghế hoặc tràng kỷ để chiếu gối,trà bánh gọi là thọ tịch, cho vị
hưởng thọ an toạ.
b. Phía ngoài đối diện với nội nghi lập bàn ngoại nghi dọn
các phẩm vật, cơm,rượu, trà ..v..v..
Hai bên trái phải đặt 2 dãy bàn dọn bánh trái, trà rượu để
mừng thân bằng quyến thuộc gọi là bồi tế đến chúc thọ.
Các lễ sĩ hành lễ chúc thọ dâng cơm rượu trà ba lần. Sau đó
là tiệc chay hiếu hỉ.
BÀI THÀI ĐÁO TUẾ
1. TỪNG PHẠN (cơm)
Trai phạn xin dâng thọ phước lành,
Nghìn thu hạnh đức rạng thanh danh.
Thuỷ chung vẹn
giữ gương nhân nghĩa
Thọ hưởng hồng
ân, buổi Đạo thành.
2. TỪNG RƯỢU
Hồng tửu kính dâng chúc thọ trường,
Tinh thần quí thể đặng an khương.
Tâm thành đức cả nêu gương Đạo,
Đất Việt trùng hưng hưởng thái bường.
3. TỪNG TRÀ
Thanh trà mỹ vị lễ xin dâng,
Đáo tuế ngươn sanh chí lục trần.
Hạnh ngộ Tam Kỳ thiên tứ phước,
Đạo thành đời rạng cảnh phong thuần.
4. Lễ tang
1 -
Thành phục :
a. Cáo Từ Tổ :
Thành phục theo nghi châm chước có Nhạc, có Lễ sĩ chấp sự
tang phục để trên mâm và đặt trước bàn thờ Tổ phụ. Tang chủ qùi, Đồng nhi đọc
kinh Cầu Tổ Phụ Qui Liễu (một lần) tiếp đọc bài kinh Cứu khổ ( 3 lần). Trong
Kinh cứu khổ, đoạn “Ngũ bá ha la hớn cứu hộ (đọc) “ Chơn linh cửu huyền thất tổ
siêu thăng tịnh độ”.
Nghi cáo Từ Tổ tại tư gia, Tang chủ quì, tay bắt ấn Tý lạy 3
lạy theo hàng Thần vị.
b. Cúng vong :
Cáo Từ Tổ xong, đem mâm Tang phục qua để trước bàn vong phát
choTang chủ thọ tang ( Chức sắc hoặc Chức việc sở tại phát tang) hành lễ :
nghi, châm chước có Nhạc, 2 Lễ sĩ chấp sự, Tang chủ quì tế lạy bắt ấn Tý, Đồng
nhi đọc một bài kinh Thế Đạo (hoặc vợ tế chồng, chồng tế vợ, hoặc con tế cha
mẹ).
2 - Cúng Triêu (Sáng), Tịch (Chiều)
Hành lễ cúng Triêu, Tịch trước bàn vong theo nghi châm chước
có nhạc, 2 lễ sĩ chấp sự, Đồng nhi đọc kinh Thế Đạo một bài.
3 -
Lễ Đăng Điện
Nghi Đăng Điện có 6 lễ sĩ hiến lễn, cách thức đăng điện và
Đồng nhi thài theo qui định từ phẩm cấp trong Đạo. Tang chủ lần lượt quì chánh
tế, tay bắt ấn Tý, Đồng nhi đọc Kinh Thế Đạo (vợ tế chồng hoặc chồng tế vợ).
Con tế cha mẹ, em tế anh chị , trò tế Thầy ..v..v..tuỳ theo trường hợp.
Tại tư gia : chỉ thực hiện cúng tế đăng điện một lần, không
phân biệt giàu nghèo, các phần khác chỉ châm chước mà thôi.
4 -
Phụ tế
Thân bằng cố hữu cúng tế sau phần chánh tế, nghi châm chước,
có nhạc, 2 lễ sĩ chấp sự, Tế chủ quì lạy bắt ấn Tý, Đồng nhi đọc một bài kinh
Thế Đạo, Kinh cầu bà con thân bằng cố hữu đã qui liễu.
Phần niệm hương phụ tế : chỉ phát hương cho quí vị đứng hàng
đầu mà thôi (nếu có tiểu sử hành đạo thì đọc trước khi niệm hương phụ tế).
5 -
Lễ cầu siêu :
Tất cả Tang quyến hoặc Thân quyến quì trước bàn linh. Chức
sắc, Chức việc, Đồng nhi và toàn Đạo đến dự lễ đứng hai bên, tay bắt ấn Tý cũng
đọc bài Kinh Cầu Siêu đọc xen bài Kinh Khi Đã Chết Rồi. Đọc 3 lần, khi dứt niệm
câu chú của Thầy ( 3 lần)
6 -
Đưa Linh Cữu
Cúng Thầy trước rồi làm lễ Cáo Từ Tổ, khi làm lễ Cáo Từ Tổ
thì tụng kinh cầu Tổ Phụ tiếp tụng kinh cứu khổ (3 lần). Khi dứt niệm câu chú
của Thầy (3 lần) y như lúc thành phục.
Cáo Từ Tổ xong Tang chủ đến trước bàn vong cúng vong theo
nghi châm chước thường lệ. Tiếp theo thiết lễ Cầu Siêu y như lần cầu siêu
trước. Nếu có làm phép đoạn căn hoặc phép độ thăng thì thực hiện trong lần Cầu
Siêu này.
7 -
Lễ Động Quan
Có Nhạc, 2 lễ sĩ chấp sự, Đạo tỳ nhập bái quan xong khiển
điện di linh cửu ra Thuyền Bát Nhã. Đồng thời vị Chức Sắc hoặc Chức Việc cầm
phướn dẫn Linh Cửu và tang chủ bưng khai Linh Vị đến trước Thiên Bàn xá 3 xá
rồi ra phía trước quan tài sắp đặt theo thứ tự di quan đã được qui định trong
Tang lễ.
Hễ phát hành thì Đồng nhi tụng bài kinh đưa Linh Cửu từ nơi
phát hành ra tới huyệt.
8 -
Hạ huyệt
Khi ra tới huyệt , vị chứng lễ đến trước Linh Cửu thiết lễ
cầu nguyện Hoàng Thiên Hậu Thổ gởi thi hài xác tục của người qui liễu xong.
Tang quyến quì trước đầu huyệt tay bắt ấn Tý, Đồng nhi tụng kinh hạ huyệt (3
lần), mỗi lần dứt một hiệp thì cúi đầu, mãn hiệp thứ ba tiếp tụng, vãng sanh
Thần chú (3 lần) khi dứt niệm câu chú của Thầy (3 lần).
5. Lễ khánh thành nhà thuyền Bát Nhã Trung ương :
Đức Phật Tổ dùng tinh ba Tam muội mà tạo thành thuyền Bát Nhã.
Các chơn linh đều nương thuyền Bát Nhã mà về Cực Lạc.
Các nhơn viên, về tâm linh do Đức Di Lạc, cai quản gồm Tổng
Lái, Tổng Mũi, Tổng Thương, Tổng Khậu và 12 bá trạo ( chèo thuyền).
Tổng lái : biểu tượng Bát Quái Đài, là chơn linh của Hắc Sát
Tinh, về bí pháp là chơn khí của Hộ Pháp.
Tổng mũi : biểu tượng Hiệp Thiên Đài, là chơn linh của Bạch
Hổ Tinh, về bí pháp là chơn khí của Thượng Phẩm.
Tổng thương : biểu tượng Cửu Trùng Đài là chơn linh của
Huỳnh Long Tinh, về bí pháp là chơn khí của Thượng Sanh
Tổng khạâu : biểu tượng Nhơn sanh nên hiển hiện đủ lục dục,
thất tình.
12 bá trạo : biểu tượng Thập Nhị Địa Chi là Tý, Sửu, Dần, Mẹo,
Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Đức Chí Tôn vì đức bảo sanh, nên sai tam vị thần : Tổng lái,
Tổng mũi và Tổng thương xuống trần giữ vững con thuyền Bát Nhã rước các chơn
hồn về nguyên.
Về bí pháp : Đức Di Lạc cai quản nhà thuyền đặng độ dẫn 92
ức nguyên nhân tu luyện để trở về hội ngộ với Đức Tôn.
Về thể pháp : Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Phật Mẫu tạo thuyền
Bát Nhã độ người qua sông mê trong kinh phật có 4 câu :
Trung khổ hải độ
thuyền Bát Nhã
" Phước Từ Bi
giải quả trừ căn
Hườn hồn chuyển đoạ
vi thăng
Cửu tiên hồi phục
Kim Bàn chưởng âm."
Nhà thuyền Bát Nhã có 2 ban : Ban kéo thuyền và Ban chèo
thuyền. Ban chèo thuyền gồm có chèo hầu (tại Khách Đình hay Phật Mẫu ) và chèo
đưa. Thật ra, việc chèo thuyền ảnh hưởng văn hoá truyền thống ở miền Trung.
Người ta gọi là Hò Bá Trạo hay Hò Đưa Linh ( ông Nam Hải), cũng đủ các nhân vật
như chèo thuyền trong Đạo.
Nhà thuyền Bát Nhã đã xây cất từ năm 1927 ở góc đường Cao
Thượng Phẩm và Oai Linh Tiên. Sau đó được xây cất lại bằng những vật liệu nặng.
Vào ngày 22 tháng 3 năm Đinh Mùi ( dl 1-5-1967) Đức Cao
Thượng Sanh đến dự lễ khánh thành nhà thuyền Bát Nhã Trung Ương và ban huấn từ
như sau :
" Hôm nay, tôi hân hạnh đến dự buổi lễ Khánh Thành nhà
thuyền Bát Nhã Trung Ương, được chứng kiến một công tác cần thiết mà Hội Thánh
Phước Thiện đã hoàn thành để cho Ban Nhà Thuyền Toà Thánh được có một ngôi nhà
kiên cố đặng giữ gìn các thuyền Bát Nhã và cho nhân viên nhà thuyền có nơi trú
ngụ xứng đáng .
Thời cuộc đương lúc khó khăn, nền tài chánh eo hẹp mà Hội Thánh
Phước Thiện đã cố gắng thành công trong việc kiến tạo nói trên thì thật là một
công trình đáng khen ngợi.
Để tâm lo cho ích lợi chung, không quản cần cù mệt nhọc,
quyết chí tìm phương cứu khổ giúp đời và biết quên mình để cho bao nhiêu người
được hưởng sự vui vẻ, đó là chí hướng của bậc hoài bão chủ nghĩa thương đời.
Cái chí hướng cao quí đó đúng là chí hướng của người chức
sắc Phước Thiện vậy.
Đạo còn biết bao nhiêu điều cần phải thực hiện để hoàn thành
sứ mạng đối với nhơn sanh, nhứt là Hội Thánh Phước Thiện là tượng trưng hình
ảnh của Đức Chí Tôn tại thế đặng cứu khổ cho con cái Đức Ngài thì cái trách
nhiệm thật quan trọng và nặng nhọc thế nào.
Nhưng lấy sự thành công trong một việc mà phỏng đoán và hy
vọng trong bao nhiêu việc khác thì tưởng lại bước đường tuy khó khăn song cũng
không đến nỗi không thể đi đến nơi đến chốn. Một việc đã thành đạt thì trăm
việc khác cũng có thể thành đạt, nhà thuyền Bát Nhã đã cất xong thì bao nhiêu
công tác khác cũng có thể thành tựu được …
Điều cốt yếu là phải nuôi chí thành cho vững chắc trong não
cân đã phát hiện cái ý niệm tạo nên công nghiệp để giúp Đạo, cứu đời thì cứ giữ
mãi cái ý niệm đó và cương quyết không khi nào để cho lay chuyển, một tháng làm
không rồi thì hai tháng, một năm không rồi thì hai năm và dẫu tới mười năm cũng
phải đeo đuổi theo mãi cho tới khi hoàn thành mới chịu.
Tôi nhận thấy Hội Thánh Phước Thiện có nhiều thiện chí xây
dựng, nhứt là vị chưởng quản Phước Thiện từ mấy năm nay đã gắng sức thực hành
công tác từ thiện để giúp ích cho người già cả và cho Đạo hữu trong lúc ương
yếu bịnh hoạn.
Với tinh thần phục vụ đó, tôi tin chắc Hội Thánh Phước Thiện
sẽ tiến tới sự thành lập các cơ sở kinh tế hầu có phương tiện cứu khổ nhơn sanh
nhứt là trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc nầy.
Trở lại việc hoàn thành nhà thuyền Bát Nhã, tôi có lời
khuyến khích toàn thể nhơn viên nhà thuyền rán tận tuỵ với phận sự, nhứt là
chẳng nên có mặc cảm là công việc mình quá thấp hèn đối với các công việc khác.
Trong việc Đạo, mỗi người đều có trách vụ riêng, và mỗi trách
vụ đều có sự cần ích riêng biệt.
Không thể nói phận sự nầy cao quí, phận sự kia hạ tiện, vì
cả thảy công việc đều hướng về chủ đích phụng sự cho Đạo và cho nhơn sanh.
Sự công dụng của các cơ cấu trong Đạo đều khác nhau, nhưng
tất cả các cơ cấu đều có sự liên quan mật thiết với nhau cũng y như những bộ
phận trong một động cơ nếu thiếu một món nào, dầu là một cái khoen hay một đinh
ốc nhỏ thì động cơ phải bị tê liệt.
Sự sanh hoạt trong cửa Đạo cũng chẳng khác chi sự sanh hoạt
ngoài mặt đời, kẻ rành về nghề này, người chuyên môn về nghề khác, có nghề đòi
hỏi sự lao tâm, cần nơi sự lao lực. Lao tâm hay lao lực, miễn nghề nghiệp tinh
xảo thì người hành nghề luôn luôn được phần thưởng xứng đáng, vì vậy có câu : “
Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh” thật là đúng như vậy.
Nhưng Đạo khác hẳn với Đời là người đời dùng sự lao tâm hay
lao lực để đổi lấy món tiền thù lao và sự ban thưởng bằng vật chất, còn người
Đạo thì tình nguyện đem công quả để đổi lấy sự ban thưởng thiêng liêng chung
cuộc.
Mấy em nhơn viên nhà thuyền đã ra công phục vụ mà không so hơn
thiệt, cứ làm việc âm thầm, không cầu cạnh, không đòi hỏi, lấy chủ nghĩa vị tha
làm chủ đích, chính là mấy em dành phúc quả cho mình đó.
Phần thưởng về hữu hình có khi không tương xứng với âm đức
và công nghiệp, nhưng ân huệ thiêng liêng thì chắn hẳn là không thể mất mát
được.
Dự buổi lễ Khánh Thành Nhà Thuyền Bát Nhã hôm nay tôi để lời
chia vui với Hội Thánh Phước Thiện và mong ước quý chức sắc Phước Thiện hiệp
đồng tâm chí để xây dựng nhiều cơ sở khác hầu có đủ phương tiện thật hành nhiệm
vụ cao quí của cơ quan cứu khổ trong cửa Đại Đạo”.
TIẾT 2 . LỄ HỘI VÍA ĐỨC CHÍ TÔN VÀ PHẬT
MẪU
1. Vía Đức Chí Tôn
Tại sao chọn ngày mùng 9 tháng giêng làm lễ vía Đức Chí Tôn
?
Theo tục lệ, mùng 7 hạ nêu để chấm dứt Tết Nguyên Đán thì
nhân sanh mở ngay ngày Tết Khai hạ. Theo Dịch lý, ngày mùng 7 ứng vào con ngựa
trong Thập Nhị Chi, ngày mùng 8 ứng vào lúa, ngày mùng 9 ứng vào Trời. Cho nên
lấy ngày đó làm lễ Vía Đức Chí Tôn.
Mặt khác, số 9 là số thái dương, số 8 là số của thiếu âm, số
7 là số của thiếu dương, và số 6 là số của thái âm. Theo thứ tự trong Tứ tượng
thì thái dương là ngôi số 1, lấy 1 trừ 10 còn 9 dùng làm số đặc biệt của Thái
dương, tức Trời vậy.
Thờ quả Càn Khôn là thờ CỬU THIÊN KHAI HÓA vì Càn 3 hào,
Khôn 6 hào cộng lại là 9. vả lại, quẻ Khôn chồng lên quẻ Càn thành quẻ Thái có
nghĩa là thông suốt. Quẻ Thái làm chủ tháng giêng. Kết hợp lại, mùng 9 tháng
giêng là Vía Trời.
Thêm vào đó, trong Kinh Dịch gọi số 9 = 3 x 3 là SỐ Tham
Thiên hằng số. Nhà toán học Pythagore cũng nói : Chín là số hoàn hảo, là bình
phương của ba, tam hợp hài hòa trọn vẹn”. (Neuf est le nombre parfait en tant que carré le trois
qu’est le trinité de l’harmonie complète).
Vả lại, các ngày hội lễ trong năm nảy sanh từ nền văn
minh nông nghiệp. Mùa xuân, tháng giêng lễ Cha, tức Vía Đức Chí Tôn, mùa thu,
tháng 8 lễ Mẹ tức Vía Đức Phật Mẫu. Các ngày lễ này, các Chức sắc phải về triều
lễ tại Tòa Thánh.
Ngoài nghi lễ tôn nghiêm, Hội Thánh còn cho tổ chức các
cuộc vui như dưng cộ
bông, lửa trại, thai đố, ngâm thơ … vừa nâng cao đời sống tâm linh, vừa buông
thả tình
cảm để thư giãn. Thế nên, lễ Vía xen lẫn cái huyền nhiệm và cái thực tế, cái
chính thống tôn giáo và cái buông thả của nhân gian.
Trong ba ngày lễ Vía Đức Chí Tôn, trừ ngày mùng 9 chánh
lễ, còn các ngày khác là lễ tạ ơn
tổ tiên hoặc tổ chức các cuộc vui, trong đó Văn Minh điện thu hút nhiều người
nhứt.
Trong nắng xuân ấm áp, Hội Thánh cho dựng một cái đài lục
giác giữa Đại đồng xã, gồm tầng trệt và tầng cao để mọi người đứng xa đều thấy
rõ người điều hành. Ban tổ chức gồm một Trưởng ban cầm cái mõ (thường là Phối
Sư Thái Đến Thanh) Một ban cổ nhạc trần thiết ở tầng trên giữa căn nhà lục
giác. Phía trước Văn Minh điện có một cái cầu thang duy nhứt lên và xuống, phía
bên trên có đề 3 chữ : Văn Minh Điện, tức nhà văn minh về đạo đức, văn học, mỹ
thuật …
Các cuộc vui gồm : Thai đố, thi thơ, hát vè, ngâm thơ. Ai
trúng thì được thưởng kinh sách có giá trị.
Văn Minh Điện bắt nguồn từ hai câu thơ giáng cho của bà Đoàn
Thị Điểm được sửa từ và rút ra trong truyện “Chinh phụ ngâm” như sau :
" Chín tầng
ngôi báu trao tay,
Nửa đêm truyền lịnh
định ngày xuống ngai."
Xuất nhứt nhơn (một người). Rõ ràng đây là câu đố. Mãi đến
cách mạng tháng tám năm 1945, Bảo Đại xuống ngôi, người ta mới biết nhứt nhơn
đó là Vĩnh Thụy. Từ đó, thú chơi thai đố ngày càng thạnh hành. Cái vui của Văn
Minh Điện là những câu thai đố được lý, hò, ngâm, diễn, đọc với điệu bộ dễ cười
của các diễn viên nghiệp dư. Chính nhờ điệu bộ đó, người xem đoán được phần nào
nội dung câu đố.
Một diễn viên đọc với điệu bộ câu này :
" Cất mình qua
ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng
trăng tà về Tây."
Xuất nhứt điểu (một con chim), âm điệu thơ Kiều mà lại là
câu đố hóa búa. Một tín hữu mặc áo dài trắng giơ tay xin giải đáp. Trưởng ban
cuộc thi mời anh lên thang gác. Anh nọ đứng lựng chựng cầu thang đáp : Con chim
cút. Viên giám khảo giơ cao tay đánh vào mõ cái cốc. Mọi người đều biết sai,
cười ồ lên. Anh nọ bẽn lẽn xuống cầu thang. Nếu ai đáp đ1ung mõ được đánh một
hồi. Ban nhạc tiếp thanh âm hòa tấu một bài để tuyên dương người đáp đúng. Một
thiếu nữ giơ tay trả lời là con quạ vàng. Ban giám khảo yêu cầu giải thích. Cô
gái đáp : “Lần đường theo bóng trăng tà về Tây” thì chỉ có Mặt trời, mà Mặt
trời là Kim Ô. Ban ngày đôi khi có Mặt trăng nhưng do ánh sáng của Mặt trời làm
ta không thấy trăng. Một hồi mõ dài được gõ lên. Ban nhạc hòa tấu khúc “Trạng
nguyên hành lộ”. Cô gái được thưởng một chồng kinh sách với những tràng pháo
tay vang dậy.
Kế đến là cuộc thi ngâm thơ, thí sinh có thể lấy thơ trong
“Thi văn Hiệp tuyển” hay tự biên tự diễn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét