Nầy Thiện nam tử! Ví như có người
ở trong biển lớn, nhẫn đến trăm ngàn do tuần, trông thấy chiếc thuyền lớn ở
ngoài khơi xa, liền nghĩ rằng: Đó là chiếc thuyền hay là khoảng không. Nhìn
lâu, trong tâm quyết định biết là thuyền lớn. Bực thập trụ Bồ Tát, ở trong tự
thân, thấy Phật tánh cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như vị Vương
tử, thân rất yếu đuối, dạo chơi suốt đêm,
đến sáng ngày sau, mắt mờ thấy không
được rõ. Bực Thập trụ Bồ Tát dầu ở nơi thân mình thấy được Phật tánh nhưng chưa
được rõ ràng cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như quan
lại, vì công sự suốt đêm trở về nhà chớp nhoáng thấy bầy trâu, liền nghĩ rằng:
Đó là trâu ư, hay là dãy nhà, nhìn lâu, dầu nhận là trâu mà còn chưa định chắc.
Bực Thập trụ Bồ Tát, dầu ở nơi thân mình thấy Phật tánh, chưa có thể định chắc
cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Như Tỳ kheo trì
giới, nhìn trong bát nước không có trùng, mà thấy tướng trùng, liền nghĩ rằng:
Trong nước đây là trùng hay bụi đất, nhìn lâu, dầu biết là bụi nhưng chẳng rõ
ràng. Bực Thập trụ Bồ Tát, ở trong thân mình thấy Phật tánh chẳng được rõ ràng
lắm cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Ví như có
người, xa thấy đứa trẻ đứng trong bóng tối, liền nghĩ rằng: Đó là con vật, là
chim, hay là người? Nhìn lâu, dầu nhận thấy là đứa trẻ, nhưng vẫn chẳng rõ
ràng. Bực Thập trụ Bồ Tát ở nơi thân mình thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm cũng
như vậy.
Nầy Thiện nam tử ! Ví như có
người ở trong đêm tối, thấy bức họa tượng Bồ Tát liền nghĩ rằng: Đây là tượng
Bồ Tát hay làtượng Thiên thần, nhìn lâu dầu nhận là tượng Bồ Tát, nhưng chẳng
rõ ràng. Bực Thập trụ Bồ Tát ở nơi thân mình thấy Phật tánh chẳng rõ ràng lắm
cũng như vậy.
Nầy Thiện nam tử! Phật tánh ấy
rất sâu như vậy, khó biết khó thấy, chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh
Văn, Duyên Giác đến được. Người trí phải quan sát như vậy để rõ biết Phật tánh.
2 . CÁI BIẾT
Cực kỳ tự nhiên là chơn. Mọi hành
động phát sinh từ cái nhiên chơn của bản thân đều là đạo tiến hoá trong trời
đất.
Cha mẹ thiêng liêng cũng như cha
mẹ nơi phàm thế, không hề mong con cái mình lúc no mà bảo đói, khi dốt mà tự
thị mình khôn. Kiểng chân không thể đứng lâu, xoạt cẳng không thể đi lâu. Chỉ
do sự thật mới trường tồn. Dù kết quả của hành động do chơn tâm có thành bại
đặng thất ra sao đi nữa, đó vẫn là hiệp Thiên ý. Cho nên nói Đạo Thầy là đạo
chơn thật và giữ cho tâm nhiên như tâm của đứa bé con còn đỏ hỏn là theo Đạo.
Cái biết chơn thật của nguời này
khác với cái của nguời khác. Thông thuờng, ngũ quan cảm nhận các sự thấy sờ
nghe ngửi nếm những thứ này thứ khác và cái trí ghi nhận, đào độn chúng để
thành sự phán đoán nhưng ngoài những thứ đó, còn có thể có những quan năng và
khả năng khác nữa.
Cái trí, nhất là trí nhớ tuy tiện
dụng nhưng vẫn là một chuớng ngại cho việc hiển lộ hay đón nhận những cái chơn
tự phát của mình hay của kẻ khác trong từng hoàn cảnh: Hôm qua thấy thỏ chạy va
vào thân cây mà chết, ngày nay bỏ buổi cày để ôm cây đợi thỏ. Đó là cách suy
nghĩ tuy có khi là chơn thật trong các kinh nghiệm quẩn quanh có giới hạn và
khuyết điểm của mình nhưng nếu mình tự hỏi tự hỏi thêm nữa thì có thể sẽ biết
khác hơn.
Hơn nữa, bên trên các qui luật
vật chất còn có các ý chí tự do. Tích lũy cái nhớ chuyện xưa để dự đoán tương
lai là một cách suy tư hàm ngụ ý nghĩ rằng chẳng hề có ý chí tự do trong trời
đất.
Một khả năng khác thuờng với đại
đa số không hẳn là điều kỳ quái đáng chê. Lắm khi chính cái trí nhớ đã lẫn lộn
cùng cái biết và dẫn con nguời lạc mất cội nguồn nguyên thuỷ tự chơn tự phát và
tự do của mình.
Một số lớn các lý thuyết hay kế
hoạch đã chỉ dựa trên những dự đoán chớ không phải dựa vào cái biết cho nên dẫn
tới những tương lai bấp bênh vô định, gọi đó là nghiệp lực. Cho nên biết cái
biết là buớc đầu của nỗ lực giải phóng con nguời khỏi các mê tín, kể cả các thứ
mê tín mang màu khoa học nữa.
2 . 1 . BIẾT CÁI BIẾT
2 . 1 . 1 . BIẾT CÁI GÌ ? BIẾT BẰNG CÁCH NÀO ?
Biết cái gì như biết rằng toà nhà
có mấy từng. Biết bằng cách nào như biết cầu thang để đi lên các tầng lầu ấy.
Thuờng thì hai thứ biết có khác nhau nhung có khi hai thứ biết ấy là một, như
kẻ ở trong toà nhà do leo các cầu thang mà biết có mấy tầng (hai cái biết là
một). Ai đó ở ngoài toà nhà do thấy mà biết có mấy tầng dù chẳng biết cầu
thang, thang máy hay thang cuộn ở đâu (hai cái biết khác nhau).
Có khi do biết thực hành cách nào
đó mà biết cái gì đó, như khi dùng kính hiển vi mà thấy đuợc vi trùng. Cũng có
khi do có quan năng cảm nhận tinh vi
(bản năng, ngũ quan, linh tánh) mà biết cái chi đó không cần phải dùng phương
pháp đo đạc, thống kê nào, như nguời có thần nhãn.
Ngay cả những khả năng cụ thể như
biệt tài âm nhạc hay thủ công cũng khó đuợc giải thích và dạy truyền. Biết thực
hành việc sàn gạo cho thóc gom lại một nơi gạo tụ một chỗ chưa hẳn có thể nói
hay dạy lại lý thuyết và phương pháp nào để làm đuợc như vậy. Con dơi có thể
định huớng các chuớng ngại trên đuờng bay mà không cần mắt thấy ánh sáng, nó
cũng không cần hay không thể giảng giải là do máy móc hay cơ chế chi.
Nói như vậy là để nhắc rằng không
phải mọi việc đều cần phải do thực nghiệm hay phải do lý giải mới có. Ngoài tầm
nghe thấy của người nào đó hay khoa học nào đó không hẳn là không có sự tồn tại
cụ thể. Con mối không thể cảm nhận đuợc văn chương trên tờ giấy mà nó đang ăn.
2.1.2. CÁI BIẾT VÀ CÁI THẬT.
Có những sự thật ngoài tầm biết
của nguời này nhưng trong tầm biết của nguời kia. Có những sự thật ngoài tầm
biết của mọi nguời nhưng không thể có cái biết nào ngoài sự thật. Có thể nói
cái ta biết là cái có thật nhưng không thể nói cái ta không biết là không có.
2.1.3. CÁI BIẾT VÀ ĐÚC TIN.
Có cái tin chẳng phù hạp với cái
thật (như khi tin rằng cái nhà nào đó có năm tầng trong khi thực sự nhà ấy có bảy
tầng) nên chẳng thể gọi là cái biết nhưng không thể có cái biết nào mà không có
cái tin. Biết ắt hẳn là tin, tin chưa hẳn là biết nhưng khi đã không tin thì
không biết.
Có cái không biết mà tin nhưng
không thể có cái không tin mà biết. Không tin rằng Thuợng Đế đã ban cho con
nguời quyền tự do tuyệt đối nên không thể biết những khả năng tiềm ẩn của mình
và của nguời khác, không có ý tìm hiểu cách phát triển các khả năng ấy. Và
chánh tín rất cần cho sự tiến hoá. Dùng chiêu bài đánh đổ mê tín mà lại mê tín
vào một số lý thuyết hạn hẹp nào đó (dù là nhân danh khoa học đi nữa) cũng là
một thứ mê tín sâu nặng vào thân phận nô lệ các qui luật vật chất mà mình xúm
nhau vẽ ra và tin vào.
Cho nên kẻ khiêm nhuờng thuờng
nói tôi chưa biết đuợc như vậy chứ chẳng nói tôi không tin.
2.1.3.1. Tin người biết chi đó nên mình nghĩ mình biết cái chi đó.
Có khi vì tin A biết việc nào đó
nên mình cũng biết việc nào đó. Cái học thuờng là như vậy nhưng khi khởi nghi A
thì cũng nghi luôn cái biết của mình về việc đó.
2.1.3.2. Tin vào phương pháp chứng minh nào đó nên mình nghĩ mình biết cái
chi đó.
Có lúc vì B có đức tin dựa trên
một tiến trình có tỉ lệ xác quyết cao (như dựa theo tiến trình “nếu và chỉ nếu
X là thật“) nên có thể nói là biết X.
Nhưng như truờng hợp con két nọ -
không có năng khiếu tìm hỏi lý do hay trình bày lý do, tức không có quan điểm,
không có đức tin - do đuợc luyện tập mà phản xạ nói ra tiếng “đỏ“ mỗi khi đuợc
cho thấy màu đỏ, tuy phát biểu ấy là đúng, cơ chế tạo ra phát biểu ấy có tỉ lệ
xác quyết cao (con két nhiều lần nói đúng như vậy), khó mà nói rằng nó biết màu
sắc ấy là đỏ.
Có kẻ chủ trương rằng để nói con
chó biết đuợc ông A là nguời quen của nó, phải.
Có sự thật như vậy, có việc rằng
con chó mừng rỡ đi theo ông A,
Có thể chứng minh,
Điều chứng minh đó phải là cần
thiết để dẫn tới kết luận, như việc con chó đó từ khi gặp ông A, cứ nhất định
theo ông ấy thôi,
Phải không thể phản biện. Nếu có
thể chứng minh đuợc rằng ông A là nguời lạ, chỉ mặc y phục của chủ con chó
thôi, kết luận trên là sai.
2.1.4. CÁI BIẾT VÀ SỰ PHÁN ĐOÁN
Thoạt đầu mình chỉ tin cái gì có
thể lý giải đuợc. Nhờ vậy mà cái trí của mình được hình thành. Con nguời thuờng
hay tầm lý nên không tin được cái Đạo nào không có lý pháp chi cả.
Nhưng rồi mình lại nhận ra rằng
điều mình tin là có lý (có thể giải thích hay giải nghĩa nó) chưa hẳn là cái
thật biết (hữu lý pháp chưa hẳn là hữu chơn Đạo). Vì sao? Vì có các lý pháp của
tà quái vốn không chơn chánh và làm mình mất hẳn sự tự chủ và tự kỉnh, biến
mình ra như con vật. Kẻ có tâm tự kỉnh không chịu tin theo các lý pháp phi chơn
ấy.
Không tâm tự kỉnh cho nên không
thấy Đạo. Lại cũng ví không thấy biết Đạo mà không tâm tự kỉnh. Không thấy cái
lẽ chơn thật bình hoà như vậy nên tuởng phép lạ là Đạo, các pháp lý cao kỳ là
Đạo.
Trong cái chơn thật bình hoà, có
cái Tâm pháp làm ta thật biết có xảy ra cái chi đó dù ta không có lý pháp giải
thích hay giải nghĩa nó đuợc.
Những cái gọi là phán đoán thuờng
là dựa vào cái đã nhớ, tin, và biết có tính cách giới hạn. Chúng tạo nên một hệ
thống các định đề hay tín niệm không chứng minh để từ đó mà so sánh, phán đoán,
tích lũy thêm những cái biết có tính buộc ràng thêm nữa vào hệ thống ấy. Hệ
thống ấy, cho dù có nhiều điều ly kỳ hấp dẫn, càng đi sâu vào càng có cái độc
đáo, vốn là sản phẩm của cái tự do của TA chớ không phải là cái khách quan ràng
buộc TA. Nếu cho đó là cái khách quan ràng buộc ta, ta đành phải chấp nhận nó,
thì hệ thống ấy lại thành ra khối biệt nghiệp hay cộng nghiệp của mình, khiến
mình không đuợc tự do, tự phát, tự tin.
Đó thật không phải là cái biết có
tính giải phóng con nguời. Chưa có câu trả lời cho vấn đề thế nào là một tư duy
khoa học (scientific speculation) để khám phá chân lý, mặc dù có cái gọi là
những trình tự và lý luận khoa học (scientific procedures and reasoning) để khám
phá và dò theo các công trình sáng tạo theo đó nguời ta phải dùng các thiết bị
để đo đạc theo trình tự nào đó và trình bày các số liệu, rồi giải nghĩa các số
liệu ấy bằng các từ ngữ khoa học.
Nhà khoa học thực nghiệm giống
như nguời cẩn thận lần dò theo từng mảng ánh sáng mà cây đèn của ông ta rọi lên
trên cánh đồng bao la đầy dẫy những manh mối mới nên thuờng báo cáo lại những
quan điểm mình đã đạt đến mỗi lúc một khác.
Triết gia nghiên cứu khoa triết
học về cái biết (epistemology) cũng mãi còn nhiều manh mối cho tới khi ông ấy
thôi truy tìm về cái biết hay nói khác đi, khi có kinh nghiệm về cái không
biết.
2 . 2 . BIẾT CÁI KHÔNG BIẾT
Nếu có thể dùng cái biết để biết
cái biết, hoá ra chủ thể quan sát phân thân thành khách thể bị quan sát. Lửa
không đốt đuợc lửa, cây thuớc không đo đuợc cây thuớc. Ai biết việc phân thân
như vậy là lầm thì không làm như vậy nữa. Nhưng hiếm khi tâm trí ta rơi vào
trạng thái không nghĩ nghị như vậy. Đó là trạng thái đại định, có sự chiêm
nguỡng mà không có sự đánh giá.
Có kinh nghiệm về tình trạng trí
não tâm thức ngưng nghỉ như vậy là biết cái không biết. Nhưng làm sao khi tâm
thức ngưng nghỉ lại cũng biết là mình
đang ngưng nghỉ? Nếu mình động lên cái biết như vậy thì đâu còn cái không biết
nữa.
Có lẽ phải bảo rằng mình biết
thôi dùng tâm trí (thôi biết) truớc khi mình rơi vào đại định. Và khi xuất
định, mình đuợc ai đó khác dạy rằng làm như hồi nảy là đại định đó. Ai có lần
đuợc bảo như vậy ắt hiểu việc này ra sao. Khi cố hình dung lại chính tình trạng
của mình trong khoảnh khắc truớc đó, mình ắt nhớ là mình đã chỉ lắng nghe thôi,
không cố hiểu cố nhớ, cũng không lo luờng việc chi. Cũng thấy cảnh vật, thấy
nguời nói, không là ngủ, không là xuất hồn, không là mê, thức mà không nghĩ
mình thức để chi, không có tư thế đứng ngồi chi đặc biệt, chỉ có sự chuyên tâm
mà không cố chuyên, nếu có ai hỏi chi ắt có thể trả lời chớ không phải là hoàn
toàn ngu si ngơ ngẩn.
Khi viết ra chữ TH, có thể là
mình không nghĩ sẽ hình thành chữ THI hay chữ THẦY; đó là truờng hợp của nguời
được dùng làm đồng tử để cõi vô hình giáng bút (muợn tay mà viết chữ vẽ hình).
Cũng có thể truớc khi viết ra chữ mình đã biết đó là chữ gì, như mình nghĩ ra
vậy. Đó là sự giáng tâm.
Không động lên cái cố biết, duy
có nguời rất khiêm nhuờng, chẳng nghĩ mình hơn thiên hạ mới làm được. Đức Lão
Tử (tức là Đức Thái Thượng Lão Quân) nghe nói là một Đấng rất cao siêu vô vi cư
Thái Cực chi tiền, hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng mà lại nói Ta có ba món
báu: một là từ, hai là kiệm, ba là không thấy mình hơn nguời khác. Phải chăng
ta có thể nhân đó mà hiểu rằng có từ, kiệm và không cảm thấy mình hơn thiên hạ
như vậy thì thân tâm mình mới rỗng ran mà cư Thái Cực chi tiền?
Lại nữa, phải chăng có như Thái
Thuợng (vô vi) rồi mới chứng Thái Cực và sau đó mới đến đuợc Thái Bạch? Do Thái
Cực mà có Luỡng Nghi nuớc lửa. Do hoà đuợc nuớc lửa mà có ánh sáng. Ngụ từ ánh
sáng là ngọn lửa lạnh ý nói điều này. Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu[1] là
nói về cơ hữu vi sau Thái Cực đó vậy.
Cho nên chẳng phải cái Vô trong
cuộc tương tác mà mình đã đến được (biết duy trì cái không biết) có nghĩa là
Thực Vô (như sự hoàn toàn không có chi).
Nó là cái Hư Vô vì là nguồn của vô vàn cái có.
Từ chỗ Hư Vô đó mà tự nhiên có
cái biết đón không thấy đầu theo không thấy cuối cho nên nói Không biết cái
biết.
2 . 3 . KHÔNG BIẾT CÁI BIẾT
Cái biết từ Hư Vô chi khí là cái
sáng của Thiên Nhãn. Do Phật tâm ứng với Phật Tánh mà có. Sự ứng đó có thể
thoạt có thoạt không nhưng cái biết do đó rất chắc thật và có thể kiểm chứng
đuợc.
Phật Tánh là kho báu giác tánh,
như là Căn.
Phật tâm là đối tuợng cảm nhận,
như là Trần.
Thiên Nhãn là cái thấy biết làm
chứng, như là Thức.
Do được khai khiếu mà có thêm các
thứ biết khác thường: người được khai nhãn thì thấy, khai nhĩ thì nghe, khai
tâm thì cảm nhận, khai trí thì biết. Căn tốt hơn thì thức sẽ tinh vi hơn.
Nếu may duyên được Khai Sanh
Quang, một phần thưởng của Thiên Đình, thì Căn Đức thêm hiển lộ, Chơn Đạo hướng
về sự qui hiệp Vạn Linh với Chí Linh được khai mở, Phật Tâm, Phật Tánh và Thiên
Nhãn đồng ứng cùng nhau.
Thái học ĐẠO chơn TÂM,
Thượng trường THI Đạo PHÁP,
Đạo qui CĂN diệu LÝ,
Tổ thiện ĐỨC tầm TU.
Thiên tình là đại đồng, Thiên tính là nhất quán. Tâm,
pháp, lý Tiên Thiên không giống sự chấp vào tiểu ngã như tâm, pháp, lý Hậu Thiên cho nên phải tu mới qui
vào Tổ của Đạo Thái Thượng được.
Khởi học qui thiện trước rồi sau mới có thể diệu tầm
Chơn Đạo. Thiện là lành, hiền, tốt, giỏi. Thiện lành là do văn hoá, tập quán mà
có. Thiện lành của thời nầy, chỗ nầy có thể khác với thiện lành của thời khác,
lúc khác nhưng học trường qui thiện là học bỏ ác tệ để nhập hoà
với đồng loại, vậy là tập tành áp dụng cái chơn ngã tự trung của mình vào cuộc sống,
không để cho những cảm giác ngoại nhiễm chủ trị nữa.
Chơn thần của con người là một thể chịu sự xúc cảm để
kinh nghiệm chính mình và thế giới chung quanh. Gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng, đó là tính của chơn thần. Khi đem tâm qui thiện là bắt đầu dùng trí
và sau đó để linh tánh (chơn linh) chủ ngự mà quyết đoán. Đó là lần theo chơn
Đạo, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ ràng buộc chi hoặc về giới luật, lý giải,
hay pháp môn tu hành (như đã nói ở cuối đoạn 2.5) để tìm cho ra cái chính thật
ta của mình.
Vì sự Thiện không sánh bằng với
sự Chơn nên phẩm Chí Thiện vẫn dưới phẩm Chơn Nhơn, huống hồ là Chơn Phật. Mãi
chấp vào thiện ác phải quấy thì lạc mất lẽ chơn.
Căn là rễ, còn dùng với nghĩa là
gốc gác (của sự việc gì). Sáu thứ căn tạo nên sự biết của con người là mắt thấy
biết, tai nghe biết, lưỡi nếm biết, mũi ngửi biết, da chạm xúc biết và trí nghĩ
biết. Những thứ biết ấy đã quen vào mức độ, tánh chất nào thì cái tâm biết có
màu sắc, kiểu vở đó.
Nếu được khai mở thêm đệ thất và
đệ bát khiếu, sự thấy biết của con người ắt được rộng mở và chính xác hơn,
không ưa bị gò bó trong các căn thức thấp kém nữa.
Sự gở bỏ ảnh hưởng của các buộc
ràng từ các thứ căn thức giống như việc tháo các nút buộc, nút nào cột sau cùng
thì phải mở trước. Các thứ nghiện ngập hay nhu cầu, ý tưởng không thật thiết
yếu phải lần hồi bỏ đi, cho đến khi gốc lõi của cái sống thiên nhiên và cái biết
bày chình ình ra đó tất mhiên mình sẽ nếm mùi của sự thật. Đạo qui căn là như
vậy.
Cơ Đạo nay đã đến giai đoạn Đạo
Tâm, trọng điểm là lập cho được con đường tiếp nhận các giáo huấn vô ngôn tự
nơi chơn tâm mình để từ đó thọ pháp, hành pháp. Phương tu là theo cái Lý của
Tâm Pháp và phương ngộ là Căn Đức. Lý chuyển từ Thái Cực nhất trung, căn thọ từ
tông tộc thông dung (cùng thấu tỏ nhau).
Gốc của Thiện Đức là Chơn Trung,
tu Thiện Đức gốc ở nghe theo tâm chính nhiên tự trung của mình. Đó là tâm có cả
âm dương lẫn trọng tài nhưng cũng là không chấp trước gì cả mà khi động dụng
thì vô tận vô cùng.
[1] Tệ Huynh xin chỉ rõ quyền
hành lớn lao của Ðức Lý Ðại Tiên Thái Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ:
Ánh Thái Cực biến sanh Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng dâng thửa Thiên Triều,
Càn Khôn Thế Giái dắt dìu Tinh Quân.
Tinh Quân thọ sắc thuở Phong Thần,
Cho đến Ðường Triều mới
biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,
Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
Ðộng Ðình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Ðảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các Nguyên Nhân.
Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông
đọc tại Tòa Thánh, 8-4-Giáp Tuất (1934).
3 . BA NGUỒN LỬA SỐNG
Nói chung, có ba cấp độ của lửa
sống:
- Lửa nội tại của thế giới vật
thể, hiện thực ra thành lửa ma xát và đó là lửa chuyển từ trong ra ngoài qua sự
chuyển động quanh trục.
- Lửa Minh Thương từ ngôi Thái
Dương, tức lực hấp dẫn tạo chuyển động theo chu kỳ quĩ đạo.
- Lửa Qui Phục vào cõi Chí Chơn
của vũ trụ, tức điển lực thu hút theo hướng di chuyển thẳng.
Sinh hoạt còn bị chi phối bởi cái
ta (tiểu ngã) thì chỉ biết có lửa ma xát thôi. Qui luật trong trường hợp này là
tiết kiệm và triết lý sống là hành động khôn ngoan theo thuật dưỡng sanh.
Khởi có sự thương yêu kính mến một
nguồn sống nào đó hấp dẫn mình, dòng sinh lực vật thể/tâm linh sống dậy và từ
đó mới có chiều hướng thượng. Bấy giờ mình mới biết đến lửa trí huệ là thế nào.
Qui luật trong trường hợp này là luật hút đẩy hay đồng thanh tương ứng đồng khí
tương cầu.
Hai trường hợp trên đây là việc
của ta hay của phe ta. Qua mức tiến hóa cao hơn nữa, những ý thức về ta và về
phe ta hoàn toàn nhường chỗ cho ý thức làm việc vì Thiên Cơ. Sự làm việc này
không nhằm để lập công cho ta hay cho bất cứ phe nào của ta. Do ta đã qui phục
vào khối Đại Toàn, coi tất cả là một mà sự câu thông với nguồn Đại Toàn xuất
hiện. Cũng do nguồn Đại Toàn đã ứng theo sở nguyện mà xóa dùm bản ngã cho ta.
Lửa sinh hoạt bấy giờ là điển lực, bất kể các chu kỳ thời vận của Nhựt Nguyệt.
Luật tắc sinh hoạt là luật tổng hợp. Nói khác đi, sự làm việc của ta nhằm vào
công cuộc tiến hóa chung.
Tình trong trường hợp thứ nhất là
từ cái Dục trong nội tại thân thể vật chất mà có. Các nhu cầu ăn uống ngủ
nghỉ…tạo ra lửa Dục này. Lửa Dục này sở dĩ chuyển được thành lửa trí huệ cũng
do nhân duyên gặp người đồng thanh đồng khí khiến cho giận-buồn- muốn- ghét bị
triệt tiêu, chỉ còn mừng-thương-vui mà thôi. Trong trường hợp thứ ba, mừng-thương-vui theo kiểu vì ta
và vì phe ta tự nhiên nhường chỗ cho tình ái vũ trụ giữa những bậc có khả năng
và tâm thức Đại Ngã, tức là tâm trí và tình ái của các Đấng Tạo Hóa chắt chiu
từng mầm sống nhỏ nhít nhưng không lụy vào bất cứ giới hạn nào.
Ba cấp độ thị hiện của ba thứ lửa
ấy là:
1 . Thế giới cụ
thể khách quan,
2 . Thế giới tâm
lý chủ quan,
3 . Nguồn tâm
linh tại vị trí trung ương của mỗi thế giới.
Các bước từ 1 đến 16 trong các đồ
hình từ 27 đến 30 là các bước đi xuyên qua thế giới cụ thể của vật chất có qui
luật khách quan và thế giới của tâm lý chủ quan. Qui luật khách quan của thân
thể vật chất thì có tính chu kỳ theo dòng thời gian. Tâm lý chủ quan thì do lực
Tiên Thiên từ nguồn Thái Dương đào tạo. Và bên trên hai thứ lực Hậu Thiên và
Tiên Thiên này là lửa điển tâm linh xây dựng nguồn ý chí.
Liên hệ tâm linh không mở ra được
thì ý chí không xây dựng được.
Alice
Bailey và Djwhal Khul đã viết:
Một yếu tố
nữa tạo ra chu ký tuần hoàn là các ảnh hưởng của các định tinh hay các tú
lên hệ thống của chúng ta và ngay cả trên bất cứ tầm mức cơ cấu nào trong hệ
thống:
Chòm
Đại Hùng Tinh.
Chòm
Tiểu Hùng Tinh.
Sao
Bắc Cực (nơi mà hành tinh của chúng ta đặc biệt có tương quan)
Chòm sao Pleiades,
Chòm sao Capricorn.
Sao Draco.
Sao Sirius.
Nhiều Tinh và Tú trong hệ Zodiac.
Bí ẩn đươc
dấu trong khoa Thiên Văn dạy cho nội môn, và cho tới khi chủ thể của năng lượng
có làm việc xuyên qua thể cái vía, hay qua sự phóng xạ, và có sự thấu hiểu hơn về
việc thăng hoa toàn thân từ tình trạng thấp đến tình trạng
cao, điều bí mật thực sự của “ảnh hưởng” của những thiên thể này lên
chính mình sẽ vẫn trong tình trạng như hiện tại – một bí mật không
được phát hiện. Nếu tác dụng phóng xạ của con người hay một nhóm con người qua
lại nhau vẫn còn là một điều chưa được khoa học thực nghiệm rõ biết thì ảnh
hưởng huyền bí của những (thiên) thể lớn
lao này cũng vẫn chưa được biết. Khoa học nhận biết một số các chất dẫn đến hay
hướng đến sự mạch lạc trong vũ trụ, giống như các luật tổng quát của trật tự xã
hội trong nhân loại đều được công nhận, nhưng người ta ít biết về các sự phóng
xạ năng lượng từ các thể vía của các thiên thể mặt trời và nhóm mặt trời và từ
các hành tinh và nhóm hành tinh này. Người ta đã biết các hoạt động nguyên tử
của chúng nhưng biết rất ít về việc chúng có cái phần tương tự như “từ lực thú
vật” nơi con người. Người ta cũng hoàn toàn không tính đến hoặc không chấp nhận việc các thể
vía của chúng có từ lực phóng xạ rất mạnh. Phải tính đến các yếu tố này khi
nghiên cứu đến yếu tố thời gian và chu kỳ, và sự dùng hạ trí để nghiên cứu các
số liệu không giúp hiểu rõ bí pháp được. Sự hiểu biết ấy đến từ trực giác do
cuộc điểm đạo kích hoạt. (A Treatise on Cosmic Fire, tr. 796.)
4 . ĐỒ HÌNH THIÊN QUỐC CỦA VALENTINIUS
Valentinus
(còn viết là Valentinius) (khoảng 100-160 sau công nguyên) được biết là một nhà
tu của trường phái Ngộ Đạo (Gnosticism), tiếp thu học vấn từ
Alexandria, một khu vực đô thị lớn chịu ảnh hưởng của Công Giáo. Clement of
Alexandria ghi nhận rằng Valentinus theo học với Theudas và Theudas là môn đệ
của St. Paul of Tarsus. Valentinus nói rằng ông đã được Theudas truyền thụ giáo
lý biệt truyền mà ông đã nhận được từ Paul. St. Paul of Tarsus này chính là
thánh Paul, mà cùng với Simon Peter và James the Just là ba vị môn đồ nổi bật
nhất của Đức Jesus Christ. Nhưng những bí pháp này đã bị Tòa Thánh La Mã bỏ qua
kể từ giữa thế kỷ thứ hai.
Ông dạy rằng có ba hạng người,
người có bản chất tinh thần, người tâm linh và người vật dục. Chỉ người có bản
chất tinh thần mới nhận được đủ trí huệ giúp mình trở về Thiên quốc. Người có
bản chất tâm linh (những người Công Giáo bình thường) nhận được một sự cứu rỗi
kém hơn, còn người có bản chất vật dục thì phải chịu phận bị tàn diệt mà thôi.
Valentinus đã viết về nhiều vấn
đề nhưng giáo pháp của ông đã bị lảng quên rất lâu cho đến khi Charles William
King, trong sách the Gnostics and their Remains (1864, 1887 2nd ed.) nói rằng
nguồn gốc của trường phái Ngộ Đạo (Gnosticism) là từ Đông Phương, nhất là từ
Phật Giáo.
Bà Blavatsky cho rằng điều này
cũng có thể tin được nhưng GRS Mead, một thành viên của hội Thông Thiên Học từ
năm 1884 và là một thư ký riêng của bà Blavatsky từ 1889 cho tới khi bà qua đời
năm 1891, lại cho rằng sách của King's thiếu tính trọn vẹn của chuyên gia.
Trong các năm 1890-1 Mead cho in
bản dịch của Pistis Sophia trên tạp chí Lucifer, và từ đó, nhiều công trình của
ông đã làm cho phái Gnosticism có thể được công chúng thông minh ngoài giới hàn
lâm biết đến. Sách của ông đã tiếp tục có ảnh hưởng rộng rãi.
Giáo hội Gnostic được lập ở Pháp
năm 1890, những trường phái dạy về diệu pháp của tình dục lần lượt được mở ra ở
nhiều nơi như Paschal Beverly Randolph ở Mỹ, Ordo Templi Orientis (Order of
Oriental Templars, OTO) ở Đức và Áo.
Nhiều hội đoàn liên quan đến giáo pháp này đã được mở ra ở nhiều nơi
The Gnostic Society, được thành
lập năm 1928 để nghiên cứu giáo lý gnostic và từ khoảng 1993, the Gnosis
Archive từ một usenet newsgroup đã phát triển mau chóng thành một website trên
internet cho đến nay.
Sau đây là đồ hình của
Valentinius xuất hiện trên tạp chí Lucifer, tháng 5 năm 1890, dẫn bởi Alice
Bailey & Djwhal Khul, A Treatise on Cosmic Fire -Một khảo Luận về Lửa Tiên
Thiên và Hậu Thiên). Những chú thích kèm theo đồ hình là trong sách A Treatise … nói trên.
Trước
nhất là một điểmPoint(Điểm), ngôi một Monad, ngôi Bythus (ngôi Thậm Thâm), Đấng
Từ Phụ không được biết và không thể biết. Kế đó là Triangle(Tam Giác), ngôi
Bythus và bộ đôi Lưỡng Nghi Duad, là Nous (Trí) và đối phần của nó là Aletheia (Sự Thật). Sau đó
là (Hình Vuông), Lưỡng Nghi kép Duad,
Tetraktys hay Tứ Tượng, Nhị Dương , Ngôi Lời và
Anthrôpos (Con người), Nhị Âm, đối tác của nó, Zoê (Đời sống) và ngôi Ekklesia (Giáo Hội), Tấ cả là Bảy. Tam Giác
là Tiềm Năng của Tinh Thần, Hình Vuông là Tiềm Năng của Vật Chất; đường sổ dọc
là Tiềm Năng của Tinh Thần, và đường ngang là Tiềm Năng của Vật Chất.
Kế đó là ngôi sao năm cánh
Pentagram, ngôi Pentad, dấu hiệu huyền bí của Manasaputras hay các Con của Trí
Huệ, mà cùng với bạn đối tác của nó làm thành Mười. rồi đến các tam giác đan
chéo nhau Two interlaced Trianglesthành Ngôi sao Sáu Cánh Hexas, mà cùng với
đối tác của nó làm thành con số 12, hay Thập Nhị Chi. Đó là phần nội dung của
Thiên Quốc và, cộng chung với ngôi Ý trong Thiên Tâm, có tất cả là 28, vì
Bythus hay Đức Từ Phụ không được nhận biết, vì ấy là Căn cội của tất cả. Hai
vòng tròn nhỏ bên trong Thiên Quốc là
cặp đối tác Christos-Pneuma (Christ và ngôi Thánh Thần); đó là Hậu Thiên
(after-emanations), và, như vậy, một mặt, nó biểu trưng cho sự hạ thế của Chơn
Linh để khai tâm và thăng tiến Vật Chất,
mà chủ yếu nó cũng phát ra từ một nguồn cội, và mặt kia, ấy là sự giá
lâm hay sự nhập thể của Kumâras hay của
các Đại Linh Căn của nhân loại.
5 . BẢY MÓN BÁU TRONG NHÀ CỦA DUY MA CẬT
Bấy giờ trong nhà ông Duy Ma Cật
có một Thiên nữ thấy các vị trời, người đến nghe pháp, liền hiện thân ra tung
rải hoa trời trên mình các vị Bồ Tát và Ðại đệ tử. Khi hoa đến mình các vị Bồ
Tát đều rơi hết, đến các vị Ðại đệ tử đều mắc lại. Các vị Ðại đệ tử dùng hết
thần lực phủi hoa mà hoa cũng không rớt.
Lúc ấy, Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi
Phất :
- Tự sao mà phủi hoa ?
Xá Lợi Phất nói :
- Hoa này không như pháp nên
phủi.
- Chớ bảo hoa này là không như
pháp. Vì sao ? Hoa này nó không có phân biệt, tự Nhân giả phân biệt đó thôi !
Nếu người xuất gia ở trong Phật pháp có phân biệt là không như pháp, nếu không
phân biệt là như pháp. Ðấy, xem các vị Bồ Tát, hoa có dính đâu ? Vì đã đoạn hết
tưởng phân biệt. Ví như người lúc hồi hộp sợ, thời phi nhơn mới thừa cơ hại
đặng. Như thế, các vị Ðại đệ tử vì sợ sanh tử nên sắc thinh, hương, vị, xúc mới
thừa cơ được, còn người đã lìa được sự sợ sệt thì tất cả năm món dục không làm
chi đặng. Do tập khí kiết sử chưa dứt hết nên hoa mới mắc nơi thân thôi, còn
người kiết tập hết rồi, hoa không mắc được.
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Thiên nữ ở nhà này đã được bao
lâu ?
- Tôi ở nhà này như Ngài được giải
thoát.
- Ở đây đã lâu ư ?
- Ngài giải thoát cũng lâu như
thế nào ?
Ngài Xá Lợi Phất nín lặng không
đáp.
Thiên nữ nói :
- Tại sao bực kỳ cựu đại trí lại
nín lặng ?
- Giải thoát không có ngôn
thuyết, nên ở nơi đó ta không biết nói làm sao !
Thiên nữ nói :
- Ngôn thuyết văn tự đều là tướng
giải thoát. Vì sao ? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở hai
bên, văn tự cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở hai bên. Thế nên, Ngài
Xá Lợi Phất, chớ rời văn tự mà nói giải thoát. Vì sao ? Vì tất cả pháp là tướng
giải thoát.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi :
- Không cần ly dâm, nộ, si, được
giải thoát ư ?
Thiên nữ nói :
- Phật vì kẻ tăng thượng mạn nói
ly dâm, nộ, si là giải thoát thôi, nếu kẻ không tăng thượng mạn thời Phật nói
tánh của dâm nộ, si là giải thoát.
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Hay thay,
hay thay, Thiên nữ ! Nàng được cái gì, chứng cái gì mà biện tài như thế
?
Thiên nữ nói :
- Tôi không được, không chứng,
mới được biện tài như thế. Vì sao ?
- Nếu có được, có chứng thời ở
trong Phật pháp là kẻ tăng thượng mạn.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ :
- Ở trong
ba thừa, ý nàng cầu thừa nào ?
Thiên nữ
nói :
- Cần pháp
Thanh Văn để hóa độ chúng sanh, tôi làm Thanh Văn; cần pháp nhơn duyên để hóa
độ chúng sanh, tôi làm Bích Chi Phật, cần pháp đại bi để hóa độ chúng sanh, tôi
làm Ðại thừa. Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Như người vào rừng chiêm
bặc(19), chỉ ngửi có mùi chiêm bặc, chứ không còn mùi hương
nào khác. Cũng như người vào nhà này chỉ ngửi mùi hương công đức của Phật chớ
không ưa ngửi mùi hương công đức của Thanh Văn và Bích Chi Phật.
- Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Có
những vị Ðế thích Phạm Vương, Tứ Thiên Vương và chư Thiên, long thần, quỉ cả
thảy vào trong nhà này nghe Thượng nhân đây giảng nói chánh pháp, đều ưa mùi
hương công đức của Phật phát tâm rồi ra.
- Thưa Ngài Xá Lợi Phất, tôi ở
nhà này đã mười hai năm chưa từng nghe nói pháp Thanh Văn, Bích chi Phật, Chỉ
nghe đại từ đại bi của Bồ Tát và những pháp bất khả tư nghị của chư Phật. Thưa
Ngài Xá Lợi Phất ! Nhà này thường hiện ra tám pháp “chưa từng có, khó đặng”. Tám pháp là gì ?
- Nhà này thường dùng ánh sáng
sắc vàng soi chiếu ngày đêm không khác, chẳng cần ánh sáng của nhật nguyệt soi
chiếu, đó là pháp “chưa từng có, khó
đặng” thứ nhất, – Nhà này hễ ai vào rồi không còn bị các thứ cấu nhiễm làm
não loạn, đó là pháp “chưa từng có khó đặng” thứ hai.
- Nhà này thường có các vị Ðế Thích, Phạm Thiên, Tứ
Thiên Vương và các Bồ Tát ở phương khác nhóm họp không ngớt, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ ba. – Nhà này
thường nói sáu pháp Ba la mật và pháp bất thối chuyển, đó là pháp “chưa từng
có, khó đặng” thứ tư. Nhà này thường trổi âm nhạc bực nhứt của trời, người,
vang ra vô lượng tiếng pháp, đó là pháp “chưa
từng có, khó đặng” thứ năm. – Nhà này có bốn kho tàng lớn chứa đầy các món báu,
giúp khắp cho kẻ nghèo thiếu, hễ cầu liền được không bao giờ hết, đó là pháp
“chưa từng có, khó đặng” thứ sáu. – Nhà này Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di
Ðà, Phật A Súc, Phật Bửu Ðức, Phật Bửu Diệm, Phật Bửu Nguyệt, Phật Bửu Nghiêm,
Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hướng, Phật Nhứt Thiết Lợi Thành, vô lượng chư Phật
trong 10 phương, khi Thượng Nhân đây niệm đến liền hiện tới rộng nói tạng pháp
bí yếu của chư Phật, khi nói xong các Ngài đều trở về, đó là pháp “chưa từng có, khó đặng” thứ bảy. – Nhà
này tất cả cung điện tốt đẹp của chư Thiên và các cõi Tịnh độ của chư Phật đều
hiện ở trong đây, đó là pháp “chưa từng
có, khó đặng” thứ tám.
- Thưa Ngài Xá Lợi Phất ! Nhà này
thường hiện ra 8 pháp “chưa từng có, khó đặng” như thế, ai thấy được việc không
thể nghĩ bàn đó mà lại còn ham ưa pháp Thanh Văn ư ?
Ngài Xá Lợi Phất nói :
-
Vì sao ngươi không chuyển thân nữ kia đi ?
Thiên nữ nói :
- Mười hai năm nay tìm kiếm mãi
cái tướng nữ nhơn hẳn không thể đặng, phải chuyển đổi cái gì ? Ví như nhà huyễn
thuật hóa ra một người nữ huyễn, nếu có người hỏi rằng : Sao không chuyển thân
nữ đó đi ? Vậy người hỏi đó có đúng chăng ?
Ngài Xá Lọi Phất nói :
- Không đúng. Huyễn hóa không có
tướng nhứt định còn phải chuyển đổi gì nữa.
Thiên nữ nói :
- Tất cả pháp cũng như thế, không
có tướng nhứt định, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ ?
Tức thời Thiên nữ dùng sức thần
thông biến Ngài Xá Lợi Phất thành ra Thiên nữ, Thiên nữ lại tự hóa mình giống
như Ngài Xá Lợi Phất mà hỏi rằng: Tại sao Ngài không chuyển thân nữ đi?
Ngài Xá Lợi Phất mang lấy hình
tướng thân nữ mà đáp rằng :
- Ta nay không biết tại sao lại
biến thành thân đàn bà này?
Thiên nữ nói :
- Thưa Ngài Xá Lợi Phất ? Nếu
Ngài chuyển được thân đàn bà đó, thời tất cả người nữ cũng sẽ chuyển được. Như
Ngài Xá Lợi Phất không phải người nữ mà hiện thân nữ, thời tất cả người nữ cũng
lại như thế, tuy là hiện thân nữ mà không phải người nữ đâu. Vì thế, Phật nói :
tất cả các pháp không phải đàn ông, không phải đàn bà.
Bấy giờ Thiên nữ thu nhiếp thần
lực, thân Ngài Xá Lợi Phất trở lại như cũ. Thiên nữ hỏi Ngài Xá Lợi Phất:
- Tướng đàn bà bây giờ ở đâu ?
Ngài Xá Lợi Phất đáp :
- Tướng đàn bà không ở đâu, mà ở
tất cả.
Thiên nữ nói :
- Tất cả pháp lại cũng như thế,
không ở đâu mà ở tất cả. Vả lại không ở đâu mà ở tất cả là lời Phật nói.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ :
- Nàng ở nơi đây chết rồi sẽ sanh
nơi đâu?
Thiên nữ đáp:
- Phật hóa sanh thế nào, tôi cũng
hóa sanh thế ấy.
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Phật hóa sanh không phải chết
rồi mới sanh.
Thiên nữ nói :
- Chúng sanh cũng thế, không phải
chết rồi mới sanh.
Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ :
- Ngươi bao lâu sẽ chứng được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác?
Thiên nữ đáp :
- Khi nào Ngài Xá Lợi Phất trở
lại phàm phu, tôi sẽ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Có khi nào ta trở lại phàm phu.
Thiên nữ nói :
- Có khi nào tôi lại được Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì sao? Vì Bồ Ðề không xứ sở nên không có được.
Ngài Xá Lợi Phất nói :
- Hiện nay các Phật chứng Bồ Ðề
vô thượng (A nậu đa la tam miệu tam bồ đề), các Phật đã chứng, sẽ chứng nhiều
như số cát sông Hằng thời gọi là gì?
Thiên nữ đáp :
- Ðấy là theo số mục văn tự ở đời
mà nói có 3 đời, chớ không phải nói Bồ Ðề có quá khứ, vị lai và hiện tại. Thưa Ngài Xá Lợi Phất! Ngài đặng đạo A la hán
ư?
Ðáp :
- Không có đặng mà đặng.
Thiên nữ nói :
- Các Phật, Bồ Tát cũng như thế,
không đặng mà đặng.
Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo ngài
Xá Lợi Phất :
Thiên nữ này đã từng cúng dường
92 ức Đức Phật, đã được thần thông du hý của Bồ Tát, nguyện lực đầy đủ, chứng
vô sanh nhẫn không có thối lui, vì theo bổn nguyện nên tùy ý mà hiện ra để giáo
hóa chúng sanh.
6 . SỰ THÀNH LẬP CƠ TIẾN HÓA
Một Thí Dụ: Sự
Tiến Hóa Của Loài Thú.
(Chapter
Seven: THE EVOLUTION OF ANIMALS,
First
Principles of Theosophy by C. Jinarajadasa)
Khi nghiên cứu thiên nhiên, ta có
thể từng thấy rằng số nhiều các sinh thể không phải được thấy trong loài người
mà trong giới thú vật và thảo mộc. Các lý thuyết khoa học hiện đại cho ta biết
rằng có một cầu nối trong sự tiến hóa hình thể từ thảo mộc đến thú vật, và từ
thú đến người; cho nên rõ ràng rằng, vì cho tới mức này con người là bậc cao
nhất trong tiến hóa, tất cả các hình thể thấp hơn con người phải đang hướng về
kiểu cách này.
Kiểu cách cao nhất trong giới thú
và gần với con người hơn hết là “cái mắc
xích bị mất”; và con vượn người là hình thức hiện còn tồn tại gần cái “cái
mắc xích bị mất” ấy nhất. Về mặt hình thể vật chất, ta có thể thấy đủ rõ ràng
sự chuyển tiếp từ vượn người đến người; nhưng khi xét đến trí thông minh trong
giới thú vật, có một khoảng trống rất lớn trong quan điểm tiến hóa khoa học. Ta
có vài loại thú vật nhà như chó, mèo và ngựa trong đó có xuất hiện những đặc
trưng của trí thông minh và xúc cảm có tính người; về bản tính bên trong nhiều
con trong loài chó lại gần với loài người hơn là con vượn người. Rõ ràng rằng
không thể có sự chuyển tiếp, về mặt hình thể, từ chó đến người; do vậy, chắc
hẳn rằng, nếu sự tiến hóa lại tiến hành cứng nhắc theo bậc thang hình thể như
khoa học đề ra, các tánh chất cao cấp của con người đã có phát triển trong
những con thú nuôi của chúng ta phải thực tế bị phí uổng đi.
Để hiểu rõ hơn việc thiên nhiên hoạt động ra sao, ta phải bổ túc quan điểm tiến hóa hình thể trong giới thú vật bằng quan điểm về tiến hóa của mạng căn của chúng. Chỉ với quan điểm sau này ta mới có thể hiểu rõ vai tuồng của giới thú vật trong diễn trình tiến hóa.
Để hiểu rõ hơn việc thiên nhiên hoạt động ra sao, ta phải bổ túc quan điểm tiến hóa hình thể trong giới thú vật bằng quan điểm về tiến hóa của mạng căn của chúng. Chỉ với quan điểm sau này ta mới có thể hiểu rõ vai tuồng của giới thú vật trong diễn trình tiến hóa.
Mạng căn nào, dù là kim thạch,
thảo mộc, thú cầm hay con người, trên cơ bản vẫn là Cái Sống Duy Nhất, nó là sự
thị hiện bản chất và hành động của Đấng Tạo Hóa; nhưng mạng căn này phát lộ
những thuộc tính của mình hoặc đầy đủ hoặc thiếu sót, là do nó có đã vượt nhiều
hay ít những giới hạn trong cuộc tiến hóa của mình hay không. Trong giới kim
thạch, những giới hạn này là lớn nhất, nhưng trong giới thảo mộc, thú cầm và
con người thì ít hơn. Trong sự tiến hóa những thuộc tính của mình, Mạng Căn
tuần tự vượt qua những giới hạn này; sau khi trãi qua cái giới hạn trong vật
chất kim thạch, và đã học nơi đó cách tự biểu lộ mình trong việc hình thành các
hình dạng kỹ hà qua sự kết tinh, nó tiếp tục tiến đến việc trở thành mạng căn
trong giới thảo mộc. Giữ lại tất cả những khả năng mà Mạng Căn đã học qua vật
chất kim thạch, nay nó lại thêm vào đó những khả năng như một cái cây, và khám
phá ra những phương cách mới để tự phát hiện. Khi đã làm đủ các công tác tiến
hóa trong giới thảo mộc rồi, Mạng Căn
này, với tất cả những kinh nghiệm thu được trong cuộc sống kim thạch và
cây cối, xây dựng những cơ thể trong giới thú vật, để có thể phát hiện thêm nữa
những thuộc tính của mình qua những hình thức phức tạp hơn và dễ uốn nắn hơn
của cuộc sống thú vật. Khi công tác tiến hóa trong giới thú vật của nó đã xong,
giai đoạn tự khám phá tiếp theo của nó là trong giới loài người.
Xuyên qua tất cả những giai đoạn
vĩ đại này, trong tư cách một loài kim thạch, thảo mộc, thú vật hay con người,
chính Cái Sống Duy Nhất ấy đang hành động, đang xây dựng, tái xây dựng, tái xây
dựng, luôn luôn xây dựng những hình thể cao hơn và cao hơn nữa. Mạng Căn này,
lâu trước khi bắt đầu công việc của mình trong vật chất kim thạch, đã tự phân
ly mình để nhập vào bảy dòng sống lớn, mỗi dòng có tính chất đặc trưng và bất
biến của mình (hình PL 6.1).
Trong đồ hình, Nguồn Sống Duy
Nhất được tượng trưng bằng hình tam giác trong vòng tròn.
Mỗi dòng trong bảy dòng này tự
phân biệt mình để đi vào bảy lối biến
thái. Nếu ta tượng trưng bảy dòng lớn bằng những số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, những
biến thái trong mỗi dòng sẽ như bảng sau đây.
Bây giờ ta đã rõ cách thức theo
đó kiểu sống thứ nhất có bảy biến thể. Trong loại thứ nhất, tính chất riêng của
nó được nhấn mạnh lên gấp đôi (1.1), nhưng từ biến thái thứ hai tới thứ bảy,
tính cách riêng của nó lại được biến thái bởi sáu loại tính cách cơ bản kia
1.2, 1.3,1.4,1.5,1.6,1.7. Với sáu loại cơ bản kia cũng cùng một nguyên lý như
vậy, như ta sẽ thấy trong bảng. Các kiểu này được biết như những “Tia”.
Mỗi một trong bốn mươi chín biến
thái của Sự Sống Duy Nhất đi theo sự phát triển đặc tính riêng của mình kinh
qua tất cả những tầng giới sự sống, kim thạch, thảo mộc, thú cầm và nhơn loại.
Kiểu sống trong Giới thú vật thuộc vào biến thái 3.2, đi từ giới kim thạch qua
thế giới thảo mộc dọc theo kênh riêng của mình, và là sự sống 3.2 của giới thảo
mộc. Khi đã đến lúc để bước vào giới thú vật, nó xuất hiện ở đó vẫn theo sự
sống 3.2, và qua hình thức của thú vật đặc biệt dành riêng cho sự phát triển
kiểu sống này. Khi đời sống thú vật lại tới giai đoạn bước qua giới nhân loại,
nó sẽ xây dựng nên một kiểu người 3.2, chứ không phải theo một kiểu nào khác.
Bốn mươi chín biến thái này của dòng sống duy nhất theo bốn mươi chín kênh
chuyên biệt qua suốt các giới, và không có sự trộn lẩn kiểu sống này với kiểu
sống kia.
Khi bốn mươi chín dòng sống trong
giới thú vật sẵn sàng bước qua giới nhân loại, từng loại trong bảy biến thái
của mỗi kiểu cơ bản lại đồng qui vào thành một vài hình thức thú vật tiền định,
ở giai đoạn cao nhất của cuộc sống thú vật của mình. Những hình thức thú vật
này được Thiên Cơ sắp xếp sao cho đến gần được với nhân loại như là thú vật
nuôi; và, dưới ảnh hưởng của những chăm sóc hào phóng dồn cho chúng nó, mạng
căn thú vật ấy phát lộ được các thuộc tính ẩn của mình, và phát triển chúng, và
“hình thành cá tính riêng” cho chính
mình để tiến vào giới nhân loại.
Ngày nay, chúng ta có vài loài
thú vật đứng cương vị như cánh cửa mở vào giới con người; những loài đó như là
chó, mèo, ngựa, voi và có lẽ cả khỉ nữa. Cuộc chuyển hóa từ thú sang người có
thể diễn ra qua các cửa này, với điều
kiện là có các ảnh hưởng thích đáng từ các hành vi của con người được mang
đến cho chúng. Dù rằng kiếp chó và mèo là kiểu cách cao nhất đi theo hai “Tia”
của mình, sự chuyển hóa chỉ xảy ra được khi một con chó hay mèo đặc biệt nào đó
đã phát triển được trí thông minh và sự từ ái của mình từ hành vi trực tiếp của
con người.
Các thú vật nuôi của chúng ta đã
từng phát triển từ các thứ thú vật lúc trước hoang dại hơn; loài chó là hậu duệ
của loài sói, và loài mèo là từ nhiều giống thuộc nhà họ miêu, như loài báo,
loài cọp v.v. Ở giai đoạn này, dòng chảy của Cái Sống thể hiện trong dòng sống
chó, dòng Khuyển (Canine), tất cả đều hội tụ vào chó nhà để tiến vào giới nhân
loại; và tương tự như vậy, các loại mạng căn dòng Miêu (Feline) hội tụ vào loài
mèo nuôi. Trong những kỷ nguyên tương lai, ta sẽ có những thú vật “được thuần hóa thành vật nuôi” cũng từ
những hình thức khác, tạo ra bảy cửa tiến vào nhân giới.
Để hiểu cuộc tiến hóa của loài
thú, ta cần biết rõ ý niệm về hồn khóm. Theo cái nhìn của Thông Thiên Học, cá
thể con người không phải là thân thể vật chất của người đó, mà là chủ thể tâm
linh đang mang một hình hài thể chất, vốn cũng là một con thú thôi. Y như vậy,
con thú thật sự cũng không phải là thể chất, đó là một mạng căn vô hình tác
động lên một hình thể thú vật giống như linh hồn tác động lên thân thể con
người. Cái mạng căn vô hình kích hoạt những hình hài thú vật đó được gọi là hồn
khóm (Group-Soul).
Hồn khóm là một số lượng xác định
chất của cái trí có năng lượng mà Đấng Tạo Hóa thêm cho. Chất cái trí này có
chứa sinh lực nhất định ở cấp bậc tiến hóa thú vật, và trong sinh lực ấy có
chứa trữ tất cả các phát triển khả hữu của tâm thức và sinh hoạt thú vật. Cái
hồn khóm này, ở những chu kỳ tiến hóa trước, là hồn khóm thảo mộc; và ở những
chu kỳ trước đó, là hồn khóm kim thạch. Cho nên giờ này, ở giai đoạn ta đang
xét tới đây, hồn khóm thú vật đã trở nên có tính chuyên môn cao độ rồi, do kinh
nghiệm chúng thu được từ thảo mộc và từ vật chất kim thạch. Ở giai đoạn tiến
hóa này, không có một hồn khóm thú vật
cho giới thú vật nữa, cũng như không có một loại thể chất cho mọi con thú, và
cũng giống như trong sự tiến hóa của các hình thể ngày nay ta có sự phân nhánh thành các giới, chi
(sub-kingdom), nhóm (group), lớp (class), các bộ (order), họ (family), giống
(genus) và loài (species) cho nên trong hồn khóm cũng có những phân loại tương
tự. Đồ hình kế tiếp, hình PL 6.3, sẽ cho ta ý niệm về cung cách hoạt động của
hồn khóm.
Cho như có một hồn khóm, trên
cảnh giới cái trí, của vài loại mạng căn thú vật nào đó; hồn khóm này sẽ luân
hồi trở đi trở lại trên trái đất qua các đại biểu thú vật của mình. Mạng căn
của hai con thú trong hồn khóm này sẽ hoàn toàn khác nhau trong suốt thời gian
chúng còn sống; nhưng khi chúng chết, mạng căn của mỗi con trở lại với hồn
khóm, và được hòa trộn với tất cả mạng căn trở lại như vậy của những con thú
khác để hình thành nên hồn khóm của thứ loài đó. Nhìn đồ hình PL 6.3, nếu ta
xem A và B là hai đại biểu của hồn khóm trên cảnh giới vật chất, thì, khi chúng
sinh con – A sinh ra a, b, c, d và e và B sinh ra f và g – mạng căn có linh hồn
nằm trong thể xác của thế hệ mới đến thẳng từ hồn khóm trên cảnh giới cái trí.
Cho như trong lứa đẻ của A, các con thú con được tượng trưng bằng a, d và e
phải chết non vì yếu sức, hay bị hủy diệt vì những kẻ thù của giống loài; và
cũng thế một đứa con của B, tượng trưng
bằng g cũng đồng chịu số phận như vậy. Khi các con thú này chết, mạng căn của
chúng quay thẳng về hồn khóm, và đóng góp vào kho kinh nghiệm những kinh nghiệm
mới mẻ mà chúng đạt được trước khi chết.
Bây giờ, theo đồ hình, ta thấy rằng g cho sinh ra h, i, j và c sinh
ra k và l và f cho ra đời m, n và o. Mạng căn có linh hồn trong thể xác của thế
hệ thứ ba cũng đến thẳng từ hồn khóm, nhưng nó sẽ được khắc ghi lên đó những
kinh nghiệm thu thập được bởi những phần tử của các thế hệ trước đã chết trước khi
chúng được bào thai. Khi mỗi con thú chết, mạng căn mang hồn trong hình hài con
thú ấy được đổ trút lại vào hồn khóm, và khi mạng căn này trở lại với hồn khóm,
thêm vào các kinh nghiệm mà chúng thu thập được trong các thứ môi trường vật
thể khác nhau, để tạo ra phần trí nhớ bẩm sinh. Chính trí nhớ của những kinh
nghiệm thời trước này tự hiện ra thành bản năng trong loài thú; và ý thức của
hồn khóm thay đổi dần, tùy theo mức đóng góp mà nó nhận được từ các đại biểu
trên thế gian sau khi chúng trở về.
Sẽ rõ ràng rằng b, c và f chỉ
sống còn được vì chúng có khả năng tự thích ứng với môi trường thiên nhiên, lúc
nào cũng thay đổi quanh chúng và a, d, e và g phải chết vì chúng không đủ mạnh
để tự thích ứng với môi trường đó. Mấy con trước sống còn vì chúng là những con
mạnh nhất, thích ứng nhất, trong một môi trường đầy chiến đấu và cạnh tranh; và
vì là thành phần thích ứng để sống còn,
chúng trở nên những mạch dẫn truyền cho các mạng căn đang tiến hóa của hồn
khóm, thế là chúng cho sinh ra những hậu duệ có phẩm chất đã được phát triển
thích ứng để sống còn cho môi trường nào đó.
Trong hành vi chọn lựa hình thức
thích hợp nhất để sống còn này của thiên nhiên, trong thế giới vô hình, có
những bậc mà đồ hình này gọi là “Các Đấng
Kiến Tạo”. Các Nguồn Thông Minh này thuộc vào một giới cao hơn giới nhơn
loại, và được biết với tên là các Tiên Thánh (Devas hay Angels).
Một bộ phận mà các “Đấng Soi Sáng” này có khi làm việc là
hướng dẫn tiến trình sống với thiên nhiên; chính họ đã hướng dẫn Cuộc Chiến Đấu
để tồn tại, và, trong phần trách nhiệm của mình, trông chừng sự phát triển các
đặc tính hướng tới những hình thức lý tưởng cho thứ loài. Họ phối hợp các genes
di truyền vốn liên hệ rất gần gủi với sự phát hiện những đặc tính tiềm ẩn của
mạng căn đang ngụ trong hình hài vật thể. Những Đấng Kiến tạo này có trước mặt
mình một số Những Kiểu Mẫu phải phát triển cho được trong thiên nhiên, để có
thể phục vụ tốt nhất cho Cái Sống; với những Nguyên Mẫu trước mặt mình, họ
trông chừng và rèn đúc những cơ quan từ những thế giới vô hình, sao cho có thể
mang tới sự đến của kẻ thích ứng nhất mà những lý thuyết tiến hóa thông thường
khó thể giải thích được.
Các lý thuyết về sinh vật ngày
nay không đủ để giải thích “ba vấn đề
chánh yếu của sự tiến hóa” – nguyên ủy của các giống loài, nguyên ủy của sự
thích ứng, và sự bảo trì các khuynh hướng trường kỳ. Ý tưởng theo kiểu cái “tự nhiên mù” kia lại có thể làm việc
một cách có chủ định bằng phương pháp thuần túy máy móc “mò mẫm học tập qua thử và sai” không có tính thuyết phục. Việc
thích nghi quả có định hướng tới một mục đích hữu định trong trường kỳ. Quan
điểm về hồn khóm và về các Đấng Kiến Tạo Thiêng Liêng cho ta một sự giải thích
hợp lý. Chính các Đấng Kiến Tạo này đã dùng phương pháp thử nghiệm và sai lầm
trong các hoạt động trường kỳ của mình qua các thời đại nhưng ngay từ đầu trước
mặt họ đã có cái kiểu mẫu tận chung.
Sự phấn đấu để tự tồn của các
sinh linh là phương pháp được chấp nhận bởi Các Đấng Kiến Tạo, để tìm ra sinh
linh nào trong số chúng nó sẽ phát triển, trong cuộc phấn đấu ấy, những kiểu
thích nghi có thể dùng làm mẫu giúp ngày càng gần giống hơn với các Nguyên Mẫu.
Phải nhớ rằng trong cái chết của bất cứ cơ thể sống nào, mạng căn của nó không
phải tan biến vào chỗ chẳng còn chi nữa; mạng căn ấy, với kinh nghiệm của mình,
quay lại với hồn khóm của mình, và rồi về sau
lại phát sinh ra để cư ngụ trong một hình thù mới. Cho nên khi ta thấy
rằng trong số một trăm hạt giống có lẽ chỉ có một hạt tìm được chỗ đất mầu để
nẩy mầm, và chín mươi chín hạt phải bị phí đi, cái phí phạm đó chỉ là biểu kiến
(thấy được bên ngoài) vì mạng căn của chín mươi chín cái “bất xứng” ấy lại xuất hiện trong thế hệ sau như là hậu duệ của hạt
giống “xứng hợp”.
Với nguyên lý này về sự bất khả
hủy diệt của cái Sống trước mặt mình, các Đấng Kiến Tạo sắp xếp cho có một cuộc
phấn đấu để trường tồn trong giới thực vật và thú cầm. Phương pháp này đưa tới
một sự tàn nhẫn dữ dội trong thiên nhiên, nhưng ở mặt vô hình của nó cũng có
một sự cộng tác thân ái nhất giữa các Đấng Kiến Tạo đang điều hành sự phát triển
của những lực lượng thù nghịch nhau. Tất cả họ đều có chung một mục đích, đó là
thực hiện Thiên Ý, vốn đã đặt trước mặt họ cái Nguyên Mẫu phải được tái sản
xuất trong sự tiến hóa của các hình hài.
Bây giờ ta phải hiểu bằng cách
nào mà một mạng căn thú vật lại tự tách ly mình trong diễn trình dẫn tới sự cá
biệt hóa. Nếu ta coi xét đến bất cứ hồn khóm nào, thí dụ như của loài chó
(Canine – hình 58), ta sẽ trước nhất để ý rằng hồn khóm của nó nằm trong cảnh
giới cái trí.
Ta hãy coi như hồn khóm của giống
khuyển tự biểu lộ chính mình trong các hình thể loài Khuyển (Canine) ở nhiều
nơi trên thế giới. Sự khác biệt khí hậu và những chuyển biến trong môi trường
sẽ làm cho những cá thể khác nhau đưa ra những đáp ứng khác nhau, tùy theo phần
thế giới nơi mà mỗi mạng căn thể hiện; mỗi cá thể trong một xứ khi chết sẽ mang
lại cho hồn khóm một kiểu kinh nghiệm và khuynh hướng khác nhau. Khi những kinh
nghiệm này được tích lũy lại qua một khoảng thời gian, trong hồn khóm sẽ nổi
lên những trung tâm khác nhau, mỗi trung tâm xuất hiện ra những khuynh hướng và
kinh nghiệm khác nhau. Nếu ta nghĩ rằng mỗi kinh nghiệm là một tần số rung động
trong mạng căn của phần tử trong cuộc, thì, nơi nào một đám đông có sinh ra hai
tần số rung động, đám đông ấy có khuynh hướng phải phân chia ra, giống như cái
ly bị vỡ khi nước sôi được rót vào đó, vì tần số rung động của các hạt bên
trong thình lình bị làm cho rung động mau hơn các hạt cấu tử bên ngoài.
Tượng tự, ta sẽ thấy ra rằng, sau
nhiều thế hệ, hồn khóm của họ Khuyển sẽ chia nhỏ ra thành các hồn khóm chuyên
biệt của họ sói, chồn, chó, chó rừng và các giống loại khác. Tương tự, hồn khóm
của họ nhà Miêu (Feline – hình PL 6.4) sẽ chia ra, tùy theo những chuyên biệt kinh nghiệm, thành
những nhóm hồn khóm của sư tử, cọp, mèo v.v. Thật vậy, cũng y như giống chia
nhỏ thành những họ, hồn khóm cũng từ từ tự chia thành các hồn khóm nhỏ hơn chứa
những tính chất và khuynh hướng ngày càng chuyên biệt hơn.
Trong tiến trình chia nhỏ hồn
khóm này, ta sẽ đến một điểm mà một nhóm hồn khóm nhỏ sẽ là chỗ trú của chỉ một
số ít các hình thù thể chất; khi việc này xảy ra, và khi các hình thể có thể
được mang tới để chịu ảnh hưởng của con người, sự chuyển hóa từ thú đến người
có thể xảy ra và đã gần đến việc hình thành cá tính.
Nếu giả như ta xét đến hồn khóm
nguyên thỉ của họ nhà Miêu, ta sẽ, theo dòng thời gian, có một hồn khóm nhỏ
kích hoạt ra một giòng mèo nuôi có tính chuyên biệt cao (hình PL 6.4); ở giai
đoạn này, có thể có sự cá thể hóa. Nếu ta xét đến hai con mèo, số 1 và số 2, ta
có thể coi như kinh nghiệm của chúng nó không giống nhau; ta sẽ coi con mèo số
một tìm được một hộ gia cư nơi đó nó được hoan nghênh và nó được dồi dào sự
thích thú và tình yêu thương, còn con mèo số 2 lại được sinh ra trong một hộ
gia cư khác nơi đó nó bị bỏ xó trong bếp và bị cấm không cho vào phòng khách.
Con mèo số một, trong môi trường thuận lợi của mình sẽ bắt đầu đáp ứng lại
những tần số rung động cao từ những ý nghĩ và cảm xúc của ông bà chủ tác động
lên nó; và cả lúc trước khi nó chết nữa, điều này sẽ mang đến một sự chuyên
biệt cao trong hồn khóm nhỏ nhoi đến nỗi phần hồn khóm mà con mèo số 1 đại diện
sẽ tách ly khỏi phần còn lại của hồn khóm. Trong trường hợp con mèo số 2, khi
nó chết, cái mạng căn trong nó sẽ trở về với hồn khóm, để hòa nhập vào đó với
những mạng căn khác quay về.
Khi con mèo số 1 phải tự tách ly
khỏi hồn khóm của mình trong cuộc sống, những giai đoạn sau nữa của của sự cá
thể hóa có thể được hiểu nhờ đồ hình tiếp theo (PL 6.5).
Nhưng bây giờ con vật ta xét đến
không phải là con mèo mà là một con chó, “Jack”.
Jack trước là một con chó thuộc nòi chó sục cáo hết lòng với ông bà chủ của
mình, và cũng là một bạn tốt của tác giả. Nếu ta nhìn đồ hình và tưởng tượng
cái hồn khóm có Jack trong đó trước khi nó đến với chủ nó là một hình chữ nhật,
rồi tình thương đặc biệt dồn cho Jack sẽ có kết quả, như được chỉ ra trên đồ
hình, là hút cái phần hồn hóm của Jack thành ra một hình tháp hướng lên trên.
Sau đó, cái số lượng vật chất cõi trí, tượng trưng cho “hồn của Jack” từ từ tự tách ly khỏi phần còn lại của vật chất cõi
trí tạo nên hồn khóm, như chỉ rõ trong cột ba của đồ hình.
Bấy giờ đã đến lúc Jack tách ly khỏi hồn khóm
chó, không chỉ vì tần số cao cấp mà ông bà chủ và các bạn gởi cho nó, mà còn do
một Nhất Nguyên, một “phần chiết ra của
Thiên Tính” đang tìm cách hình thành một cái “ngã” hay là một cái Hồn để bắt đầu cuộc hành hương của mình vào
giới con người.
Ngôi Nhất Nguyên này đã từ lâu
cấp cho nó một nguyên tử trung tâm của mỗi cõi, như là một “điềm báo” ký gởi trước về viễn cảnh của công tác tương lai của nó.
Những “nguyên tử trường tồn” này của
nó đã được tiếp nối gởi ra cho các chất cơ bản, cho kim thạch, thảo mộc, và các
hồn khóm thú vật để từ đó tiếp nhận bất cứ kinh nghiệm nào có được.
Khi “nguyên tử thường trực” thấy có tiếp cận được với một phần hồn khóm
thú vật có tính chuyên biệt cao, như là “hồn
của Jack” thì, từ cảnh giới cao của mình, ngôi Nhất Nguyên lại gởi xuống
một vài ảnh hưởng, để đáp ứng lại những việc mà các bạn nhân loại đã làm cho “hồn của Jack”. Những ảnh hưởng này được
tượng trưng trong đồ hình như là lực từ Ngôi Nhất Nguyên ban rải xuống trên “hồn của Jack”. Ngôi Nhất Nguyên được tượng trưng bằng hình nón ngược đầu ở bê
trên và mỗi ngôi sao trong hình nón này tượng trưng cho phẩm chất mà Ngôi Nhất
Nguyên đang thị hiện trên mỗi cảnh giới hoạt động của Jack.
Khi “hồn của Jack”, do kết quả của những bức xạ thiêng liêng hơn và
mạnh mẽ hơn từ Ngôi Nhất Nguyên[2], tự tách ly khỏi hồn khóm, trông bên ngoài
Jack vẫn còn hình thù là chó, nhưng nó thật sự đang trong giai đoạn chuyển
tiếp, vì nó không còn là chó nữa dù chưa phải là người. Giai đoạn này được mô
tả trong cột ba của đồ hình.
Giai đoạn kế đó, được mô tả trong cột cuối cùng của đồ hình, là khi, do kết quả của sự ban bố của Ngôi Nhất Nguyên từ những cảnh giới cao hơn, Cái Vía được thành lập.
Chuyện thật xảy ra chỉ có thể
được mô tả bởi một ví von, nếu ta tưởng tượng rằng “hồn của Jack” được tượng
trưng trong cột ba bằng hình tháp dưới thấp, giống như một khối hơi nước không
có tính kết dính mạch lạc, không hình thù chi chính xác; rồi ta lại nghĩ rằng
tất cả hơi nước này bây giờ đông đặc thành một giọt nước, rồi ta lại nghĩ rằng
không khí được thổi vào trong nước ấy và bọt bong bóng được tạo ra; thì đây là
chuyện giống như điều đã xảy ra cho “hồn
của Jack” khi Ngôi Nhất Nguyên đi xuống để tạo ra cái vía. Một cảm hứng
thiêng liêng, ấy là năng lượng của Ngôi Nhất Nguyên tuôn đổ vào chất cõi trí[3]
và đối với Jack ấy là cái linh hồn nhỏ bé của mình. Vật chất cõi trí tự nó sắp
xếp thành ra Cái Vía, để trở thành chiếc xe chở của cái gọi là “Đứa Con Trong Lòng của Cha” đi xuống
dưới để trở thành một hồn người.
Nên nói rõ rằng, trong tiến trình
hình thành cá tính này, con thú không trở thành con người theo cùng cách mà
thảo mộc đã trở thành con thú; trong việc hình thành cá tính, tất cả những gì
mà từ lâu vốn là con thú bây giờ lại biến thành chiếc xe để chở một phần của
Thiên Tánh, Ngôi Nhất Nguyên, đến từ trên cao. Ngôi Nhất Nguyên này không thể
làm cho Cái Vía thành ra có Ngã tính cho tới khi tất cả những giai đoạn trước
của các kinh nghiệm trong cõi thú vật và các cõi trước đó đều được hoàn tất,
trong khi nó sử dụng những gì mà giới thú vật đã chuẩn bị cho nó, thật ra nó là
một dòng năng lượng và tâm thức rất khác với những gì có trong các giới thấp
hơn con người. đó là lý do tại sao có một khoảng trống vô biên giữa con vượn
người cao cấp nhất và cái hồn cá thể trẻ trung nhất; trong hồn này là cái sống
của một ngôi Nhất Nguyên, còn trong con vượn, ta chỉ có những biểu hiện cao cấp
hơn của đời sống thú vật mà thôi.
Từ lúc mà “hồn của Jack” tự phân ly khỏi hồn khóm chó, thực ra nó đã thôi làm
chó, dù nó vẫn còn hình hài con chó. Từ điểm phân ly này cho tới lúc thực sự
hình thành cái vía, có nhiều giai đoạn chuyển hóa. Những giai đoạn này có thể
được làm cho nhanh hơn do sự hiểu biết thích đáng của con người về tiến trình
hình thành cá tính, sao cho các bạn bè thú vật của chúng ta có thể nhanh chóng
bước qua sự tiếp nhận Ân Thiêng để biến mỗi chúng nó thành ra một Hồn Người.
Một trong những đặc ân lớn nhất
trong cuộc sống mà con người có được là cộng tác với Thiên Cơ để làm nhanh lên
tiến trình hình thành cá tính của các con thú cao cấp, nhưng đấy là một cái ân
mà thời nay, vì không biết, chỉ một ít người sẵn sàng tiếp nhận mà thôi. Ngày
nay hầu hết người ta coi như dĩ nhiên rằng thú vật tồn tại chỉ nhằm mục đích
phục vụ cho con người; dù rằng thú vật thật ra để cho ta sức mạnh và trí thông
minh của chúng, để giúp ta phát triển nền văn minh của mình, nhưng chúng tồn
tại không phải chủ yếu là vì con người, mà là để hoàn tất mục đích của chúng
trong Cõi Thiêng Liêng. Trong sự đối xử của ta với thú vật, ta phải nhớ rằng
trong khi chúng cho ta sức mạnh, bổn phận tiên khởi của ta vẫn phải là coi sóc
xem chúng có phát triển theo cách thức làm nhanh lên cái tiến trình xây dựng cá
tính của chúng hay không.
Thời đại này chúng ta huấn luyện
trí thông minh của loài ngựa để có hãnh diện với tốc độ, của loài chó để phát
triển tài khéo đi săn, của loài mèo để thành ra “tay giỏi bắt chuột”. Tất cả những thứ này đều cực kỳ sai lầm, vì
thú vật được cho tiếp cận với con người để chúng nó cai cái bản năng man rợ của
mình, và để khơi dậy những nhân tính cao cấp hơn từ trong chúng nó. Mỗi hành vi
của con người nhằm sử dụng cái khéo léo thuần túy thú vật để thỏa mãn dục vọng
của mình là một điều tai hại cho cái sống của con thú đang tiến hóa. Bây giờ ta
phải học cho biết rằng trong khi sự thông minh thượng đẳng và khả năng điều ngự
thiên nhiên của chúng ta đã cho ta điều ngự được loài thú, sự điều ngự ấy vẫn
phải thực hiện vì sự lợi ích của giới thú vật chớ không phải vì chính chúng ta [4].
*
* *
[1] Đây chính là Thầy với ba sự
thị hiện: tạo Càn Khôn Thế Giới, tạo Càn Khôn Vạn Vật và tạo Đạo phục hồi các
con về với Thầy. (LND)
[2] Trong sự hình thành cá tính,
hai đối cực được đặt gần nhau, và tại lúc gặp nhau, ánh sáng tuôn ra, chiếu
sáng cái hang vật chất và chiếu sáng lối đi mà hành giả phải theo trên đường về
ngồn cội.
Liên hệ với loài người, sự chiếu
rọi này dẫn đến:
Sự tự biết mình,
Mục tiêu,
Tách rời khỏi tất cả các bản ngã
hay các lãnh vực có tính cá nhân
Ý thức (điều quan trọng nhất),
Khả năng tiến hóa,
Khả năng “chiếu sáng hơn nữa hơn
nữa cho đến ngày trọn lành”.
Điều này đúng cho cả Đức Thái
Dương Thượng Đế lẫn cho người ỡ Thiên Đường.
Sự hình thành cá tính có nghĩa
đen là sự đến với nhau (từ trong bóng tối của sự lơ đãng) của hai yếu tố Vật
Chất và Tinh Thần bằng phương tiện của một yếu tố thứ ba, ấy là ý chí thông
minh, mục tiêu và hành động của một Cá Thể. Do việc tiếp cận nhau của hai cực
này mà ánh sáng được sản sinh, một ngọn lửa được chiếu rọi, một quả cầu vinh
quang chói lọi được dần dần thấy rõ có gia tăng cường độ của ánh sáng, sức nóng
và sự rực rỡ cho tới khi đạt được khả năng hoặc đến cái mà ta gọi là trọn lành.
Ta nên lưu ý rằng những từ ánh sáng, sức nóng và sự rực rỡ là những dấu hiệu
đặc trưng của mọi cá thể có cá tính từ các Đấng thiêng liêng cho tới loài người
Alice Bailey & Djwhal Khul -
A Treatise on Cosmic Fire – Sollar Fire, The Fire of Mind
[3] Thông Thiên Học gọi Tam Thể
Tối Cao là “Adi- Amupadaka – Atma”,
Tam Thể Thượng của con người là “Atma – Buddhi – Manas” (trong đó Manas là
Thượng Trí). Tam Thể Hạ là “Hạ Trí – Tình
Cảm – Xác Thân Vật Chất”. (LND)
[4] Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
cũng từng dạy:
“Nếu ta thấy được cõi hư-linh kia
cái tinh của các vạn-loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết
oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét vì vậy mà nó có vay trả luân-hồi mãi mãi
đọa đày bất-năng thoát tục.
Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà
luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật,
phải thương tất cả để chấm dứt cái oan-nghiệt ấy mà truyền bá cái huờn thuốc
linh-đơn nầy là đạo-đức của Chí-Tôn, để cứu vớt quần-sanh thoát vòng đọa lạc.” ( Đền Thánh, đêm Rằm
tháng 2 Năm Đinh-Hợi (1947)
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét