LỜI TỰA.
Đạo Cao Đài được Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế
lập ra là nhờ Cơ Bút.
Kỳ lập Đạo thứ ba nầy, Đức Chí Tôn không giáng sanh
xuống cõi trần mang xác phàm mà lập Đạo như các Đấng Giáo Chủ trong hai thời kỳ
Phổ Độ trước: Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ, mà Đức Chí Tôn chỉ dùng điển
quang tối diệu của Ngài phóng xuống cõi trần, điều khiển cây Ngọc Cơ chuyển
động, để viết ra văn tự truyền đạt tư tưởng của Ngài, qui tụ các linh căn đã
vâng lịnh Ngọc Hư Cung đầu kiếp xuống trần làm tướng soái cho Đức Chí Tôn lập
Đạo.
Nếu Đức Chí Tôn không dùng Cơ Bút thì Đức Chí Tôn
chưa thể lập Đạo kỳ nầy. Do đó, Cơ Bút là vấn đề cốt yếu của Đạo Cao Đài.
Quỉ Vương đã biết được yếu điểm nầy, nên tìm cách
khuấy phá Cơ Bút để làm mất đức tin, hầu tiêu diệt nền Đạo. Nhưng Đức Chí Tôn
đã ngăn ngừa trước bằng cách “Cấm Cơ Bút Phổ Độ” vào cuối tháng 6 năm Đinh Mão
(1927) sau khi Đức Chí Tôn đã lập xong Pháp Chánh Truyền và Hội Thánh đã lập
xong Tân Luật.
Lúc đó chỉ còn có Cơ Bút tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây
Ninh, để Đức Chí Tôn ban thêm Thánh Ngôn, Thánh giáo, hoàn thành Giáo Lý và
Triết lý của Đạo Cao Đài, đồng thời Đức Lý Giáo Tông lập ra các Đạo Nghị Định
tạo thành luật pháp căn bản điều hành nền Đạo, và cũng để các Đấng ban cho Tân
Kinh và các chi tiết về Nghi lễ.
Đức Chí Tôn đã nói trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển:
“Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ
Phổ Độ, Quỉ Vương đã khởi phá khuấy, đến danh ta nó còn mượn, duy Ngai Ta nó
chẳng dám ngồi mà thôi”.
Đức Chí Tôn nói “Cái Ngai của Ta” là ý nói Đàn cơ
tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh, được lập ra để cầu Đức Chí Tôn hay các Đấng
thiêng liêng giáng dạy, do Đức Quyền Giáo Tông hay Đức Hộ Pháp làm Chủ đàn, hai
vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài làm Phò loan, Độc giả và Điển ký là Chức sắc Cửu
Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài.
Đàn cơ tại Cung Đạo được xem là Tòa ngự của Chí
Tôn, để Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Đạo, chỉ tại nơi đây, Quỉ Vương không dám đến
khuấy phá; còn các Đàn cơ khác tại các nơi khác thì có thể bị các chơn linh Quỉ
vị của Quỉ Vương nhập vào phá khuấy để thử thách đức tin của người mới nhập môn
vào Đạo.
Quỉ Vương đã biết chỗ yếu điểm của Đạo Cao Đài là
Cơ Bút nên nó đánh ngay vào chỗ hệ trọng nầy để mưu toan phá tan cơ Đạo và tiêu
diệt nền Đạo.
Tuy nhiên, Đức Chí Tôn đã dự bị trước tất cả để bảo
toàn nền Đạo, cho nên khi Ngự Mã Thiên Quân vâng lịnh Đức Chí Tôn giáng trần
làm Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Đức Chí Tôn hỏi:
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí Pháp
hay Thể Pháp trước?
Đức Hộ Pháp trả lời: - Xin mở Bí Pháp trước.
Đức Chí Tôn nói: - Nếu con mở Bí Pháp trước thì
phải chịu khổ đa. Đang lúc Đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở Bí Pháp trước thì cả
sự bí mật huyền vi của Đạo, Đời thấy rõ rồi xúm nhau tranh giành phá hoại thì
mối Đạo mới ra thể nào? Vì thế, con nên mở Thể Pháp trước, dầu Đời quá dữ,
tranh giành phá hoại cả cơ thể hữu vi hư hỏng đi nữa thì cũng vô hại, miễn là
mặt Bí Pháp còn là Đạo còn.
Đức Chí Tôn để cho Quỉ Vương phá khuấy đủ cách, thử
xem có tiêu diệt được Đạo Cao Đài hay không, lúc đó mới thấy rõ Cao Đài là
Chánh Đạo, đủ năng lực cứu rỗi nhơn sanh trong thời Hạ ngươn mạt kiếp. Quỉ
Vương trở lại kính phục Đạo và được Đức Chí Tôn giao cho làm giám khảo thử
thách người tu để người tu đoạt vị xứng đáng.
Cơ Bút là phần thiết yếu của Đạo Cao Đài, nhưng Cơ
Bút không phải là Bí Pháp của Đạo, nên khi tất cả Cơ Bút bị cấm chỉ, Đạo Cao
Đài phải chịu nhiều điều khó khăn bất tiện vì hai Đấng nơi cõi Thiêng liêng là:
Đức Lý Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp không thể trực tiếp điều hành nền Đạo bằng
Cơ Bút. Hội Thánh chỉ hành đạo theo Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, các Đạo Nghị
Định và các Đạo Luật của Hội Thánh ban hành thuở trước mà thôi.
Nếu người cầm quyền Đạo lúc nầy có cải sửa luật
pháp của Đạo thì chỉ có thể cải sửa phần Thể Pháp, còn phần Bí Pháp vẫn do các
Đấng thiêng liêng gìn giữ y nguyên. Thế là nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn không
bao giờ bị biến thái hay bị tiêu diệt đặng, mà lại có một điều rất ngộ nghĩnh
gần như nghịch lý là: Càng gây khó khăn để chận đứng nền Đạo bao nhiêu thì nền Đạo
lại càng phát triển rộng ra bấy nhiêu.
Chúng ta đọc đoạn Thánh Ngôn sau đây của Đức Chí
Tôn giáng cơ ngày 5-11- Bính Dần (dl 9-12-1926) [Xem Thánh Ngôn Sưu Tập], rồi
chúng ta chiêm nghiệm lại các giai đoạn thăng trầm của nền Đạo trong 80 năm
qua:
“Thầy
vì Tam Kỳ Phổ Độ, tùng nhơn nguyện, cho nên muốn khuấy rối bao nhiêu, Đạo lại
càng phát triển bấy nhiêu.
“Trước
Thiên ý chẳng đồng nhơn trí, nên không thể nào chuyển đặng. Đạo cao nay nhơn
tâm đồng hiệp, cảm thấu Thiên đình, Thiên tùng nhơn nguyện, cũng như đồng thinh
vậy, nên Đạo mới dễ chuyển hơn. Các con hiểu à!
“Ấy
vậy, hễ biết đến nguồn Đạo thì phải nhứt tâm đợi ngày thành tựu thì các con sẽ
thấy sự tối cao tối trọng của nền Chánh giáo của Thầy đem ban cho các con mà
lập thành Quốc Đạo”.
Do đó, chúng ta thấy ngày nay, các tín đồ của Đạo
Cao Đài đều có mặt khắp nơi trên thế giới: từ Á Châu, Úc Châu, Mỹ Châu, Âu Châu
cho đến Phi Châu. Tại các nước nầy, nơi nào có tín đồ Cao Đài cư ngụ, đều có
xây dựng các Thánh Thất thờ Đức Chí Tôn và các Điện Thờ Phật Mẫu. Còn trong
nước Việt Nam thì các Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu đều được xây dựng lại rất
đẹp đẽ, to lớn uy nghi, trong khắp các Tỉnh Thành từ Nam đến Bắc.
Tất cả những điều đó đã chứng minh lời nói của Đức
Chí Tôn bao giờ cũng đúng cả.
* * *
Trước khi mở Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn dùng huyền
diệu thiêng liêng khiến cho chư vị tiền khai khởi sự Xây Bàn thông công với các
Đấng trong cõi vô hình, để tạo đức tin cho chư vị môn đệ đầu tiên. Sau đó mới
nhờ Thất Nương Diêu Trì Cung hướng dẫn tạo Ngọc Cơ cách Phò cơ viết ra chữ
bóng, để việc thông công được mau lẹ, tiếp nhận các Thánh giáo mau hơn và đầy
đủ hơn.
Do đó, trước tiên chúng ta nghiên cứu việc Xây Bàn,
kế đó đến việc Cầu Cơ, Chấp Bút, vấn đề các Đồng tử, và sau cùng là việc cấm Cơ
Bút Phổ Độ với những qui định nghiêm nhặt về Cơ Bút để tránh Cơ Bút giả.
Nay kính.
Hiền Tài. Nguyễn Văn Hồng
Phần Thứ Nhất
Xây Bàn
1) Khởi sự Xây Bàn tại Sài Gòn:
Xây Bàn là gì? Xây Bàn là cầu các Chơn linh trong
cõi giới vô hình giáng điển vào Bàn, làm cho cái Bàn lắc qua lắc lại, chưn Bàn
gõ lên mặt gạch phát ra tiếng, rồi căn cứ vào tiếng gõ nầy mà qui định ra các
chữ theo bảng mẫu tự: như Bàn gõ 1 tiếng là chữ A, gõ 2 tiếng là chữ Ă, gõ 3
tiếng là chữ Â, gõ 4 tiếng là chữ B, gõ 5 tiếng là chữ C, gõ 6 tiếng là chữ D,
gõ 7 tiếng là chữ Đ, gõ 8 tiếng là chữ E, 9 tiếng là Ê, vv... , sau đó ráp các
chữ lại thành một từ, rồi thành câu, đó là câu nói hay câu trả lời của Chơn
linh giáng bàn.
Theo Lịch sử của Đạo Cao Đài:
Vào năm 1924, ba ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc,
và Cao Hoài Sang, có quen biết Đại Úy Paul Monet, một Hội viên của Hội Thần
Linh Học Pháp. Ba ông nhờ ông Monet ngồi đồng để thông công nói chuyện được với
các Đấng Chơn linh vô hình. Việc nầy rất bất ngờ và thú vị đối với ba ông, nung
chí ba ông muốn hiểu biết thêm về những gì của thế giới vô hình.
Trong giới nghiên cứu Thần Linh Học ở Việt Nam có
đủ hạng người, nhưng ông Cư đã có một lần chứng kiến cuộc thông công với các
Đấng vô hình nên ông ước vọng liên lạc với thế giới vô hình bằng mọi cách. Điều
nầy luôn luôn chiếm ngự tâm trí của ông và có một số người đồng chí hướng.
* Thứ bảy, đêm 5-6-Ất Sửu (dl 25-7-1925). khởi sự xây bàn
tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa, gần chợ Thái Bình, Sài Gòn.
Chiều nay thứ bảy nên được nghỉ làm việc ở Sở, ông
Cao Quỳnh Cư đến nhà ông Cao Hoài Sang thăm chơi để cùng ông Cao Hoài Sang và
Phạm Công Tắc hàn huyên tình đời thế sự, vì ông Tắc cũng ở gần nhà ông Sang.
Hết hồi đàm đạo với chén trà câu thơ, giờ càng
khuya, ông Cao Quỳnh Cư dường như có Thần linh thúc giục hay vì linh tánh khích
động, mới nghĩ ra việc Xây Bàn tiếp xúc với các vong linh khuất mặt.
Hai ông Tắc và Sang đều đồng tình hưởng ứng.
Lúc đó, ông Cao Quỳnh Diêu và hai người con của ông
là Cao Quỳnh Đức và Nguyễn Văn Thân (con nuôi, hiệu Huệ Chương) cũng vừa đi xe
kéo tới nhà ông Sang.
Quí ông xúm nhau khiêng một cái bàn tròn ra đặt nơi
hàng ba nhà của ông Sang. Chiếc bàn tròn nầy có một trụ giữa và có ba chân,
đường kính mặt tròn chừng hơn 5 tấc, cao khoảng 8 tấc, được chêm cái trụ giữa
cao lên chừng vài phân để bàn có thể lắc qua lắc lại dễ dàng, gõ trên mặt nền
gạch phát ra tiếng. Trên một cái bàn nhỏ đặt dựa vách kế bên có chưng bình hoa
tươi tốt và có đốt nhang. Trên bàn tròn cũng đốt 3 cây nhang cắm vào cái lỗ nhỏ
giữa mặt bàn.
Tất cả các ông bắt ghế ngồi vây quanh bàn tròn, đặt
hai bàn tay úp lên mặt bàn cho hai ngón cái gác lên nhau, còn ngón út của người
nầy thì gác lên ngón tay út của người kế bên. Quí ông ngồi lẳng lặng tịnh thần.
Lát sau, cái bàn bắt đầu nghiêng qua bên nây rồi nghiêng qua bên kia như có ai
đẩy qua đẩy lại vậy. Mấy ông hỏi kỹ với nhau thì không có ai xô đẩy gì cả, như
vậy là có vong linh nhập vào bàn làm cho bàn nghiêng qua lại và gõ nhẹ lên mặt
gạch.
Tiếp theo đó thì bàn bắt đầu nhịp chân gõ chữ. Bàn
gõ 1 tiếng, các ông đọc A, gõ 2 tiếng đọc B, 3 tiếng đọc C, ... cứ như vậy đến
khi bàn ngưng tại chữ nào thì lấy chữ đó và cứ như vậy ráp lại thành chữ, rồi
thành câu có ý nghĩa.
Đêm ấy có nhiều vong linh nhập bàn, gõ ra tiếng
Pháp, cũng có vong linh là học sinh Hà Nội gõ ra tiếng Việt.
Đây là buổi xây bàn lần đầu tiên, có lẽ có nhiều
vong linh muốn nhập bàn và tranh nhau nói chuyện, nên làm xáo trộn, cái bàn gõ
khi chững chạc, khi lựng khựng, làm cho các ông ngạc nhiên, lại thêm chán nãn
vì không thành từ thành câu gì cả. Khi đã quá khuya, ông Cư hồ nghi có hồn ma
hay ngạ quỉ nhập bàn phá phách, nên ông đề nghị ngưng xây bàn và hẹn đêm mai
thử lại.
* Chúa nhựt, đêm 6-6-Ất Sửu (dl 26-7-1925). Chơn linh Cao Quỳnh Lượng
và Ngài Cao Quỳnh Tuân nhập bàn.
Qua đêm mai, Chúa nhựt ngày 26-7-1925 (âl 6-6-Ất
Sửu), lúc đó khoảng 8 giờ tối, quí ông đã có mặt tại nhà ông Cao Hoài Sang để
thí nghiệm xây bàn lần nữa, nhưng bữa nay quí ông khiêng cái bàn tròn ra đặt
ngoài sân và xúm nhau ngồi vây quanh bàn, đặt hai bàn tay úp lên mặt bàn y như
hôm qua.
Ngồi tịnh thần một lát thì bàn chuyển động bắt đầu
gõ. Ông Cư liền dặn quí ông đừng ai rút tay ra khỏi bàn, làm xao động e vong
xuất ngoại, rồi ông lật đật nói với vong rằng:
- Xin khoan đi, để tôi hỏi ít lời. Bây giờ chưa
kiếm đặng cách nào cho hiểu nhau thì duy cứ gõ 2 tiếng là: ừ, chịu; còn gõ 1
tiếng là: không, chẳng phải.
Vong liền gõ 2 tiếng, tỏ ra: Chịu theo lời dặn.
Đoạn ông Cư ngụ ý nói với vong:
- Ta hiểu theo đây thì có thể nói chuyện với nhau
tiện hơn: Nếu tôi hỏi chi, muốn trả lời thì cứ gõ theo vần quốc ngữ, mỗi chữ
mỗi gõ, đến chữ nào dùng thì ngưng lại, nghĩa là lấy chữ chót; rồi bắt đầu gõ
trở lại mà nối chữ khác, xong rồi sẽ ráp chữ lại mà đọc, giống như đánh giây
thép vậy.
Vong liền gõ 2 tiếng tức là: Ừ, chịu.
Hiểu nhau rồi, bàn gõ, ông Cư khởi đọc, nhưng sự
chi cũng vậy, lúc đầu thế nào cũng lộn xộn, rồi sau thì quen dần.
Ông Cư khởi đọc trở lại lần nữa: A, Ă, Â, B, C, D,
Đ, E, Ê, G, H, I, K, L, tới chữ L thì bàn ngưng gõ, nghĩa là lấy chữ L. Ông Cư
dặn ông Sang nhớ chữ đó để sau ráp lại.
Ông Cư khởi đọc lại theo tiếng gõ của bàn, đến chữ
Ư thì bàn ngưng gõ, lấy chữ Ư, vv......
Lần lượt được các chữ: L, Ư, Ơ, N, G, C, A, O, Q,
U, Y, N, H, ráp lại thì được 3 chữ: Lượng Cao Quỳnh.
Khi tiếp được 3 chữ ấy rồi thì mấy ông mới hớn hở
vui mừng. Ông Cư nói:
- Như phải là Cao Quỳnh Lượng thì chắc biết mấy
người ngồi đây, vậy cứ gõ tên mỗi người xem có trúng không.
Ông Cư nói dứt lời thì bàn gõ, ông Cư đọc vần như
trước, chừng xong ráp lại thành các tên: Diêu, Cư, Tắc, Sang, Đức, Thân. Mọi
người hiện diện đều cười rộ lên vì vong linh chỉ trúng tên tất cả, lúc đó cái
bàn dở hỏng lên một chân lắc qua lắc lại dường như cũng cười theo vậy.
(Cao Quỳnh Lượng là con của Ngài Cao Quỳnh Diêu, đã
chết cách đây vài năm, nên biết rõ tên của tất cả người xây bàn.)
Sau đó ông Diêu hỏi Cao Quỳnh Lượng:
- Con có ở hầu ông nội không? Đáp: - Có.
- Mời ông nội đến đây tiện không? Đáp: - Đặng.
Trả lời xong thì bàn dở lên rồi để nhẹ xuống không
còn dao động nữa. Ông Tắc nói: Bộ khi nó đi rồi.
Nghe vậy, mấy ông dang tay ra nghỉ hết..
Bốn ông: Diêu, Cư, Tắc, Sang đều cảm thấy rất lạ
lùng, hình như thế giới vô hình vừa hé ra cho mấy ông thấy một điều bí mật.
Nghỉ được nửa giờ, tất cả đều trở lại ngồi xây bàn
như lúc nãy. Kỳ nầy, mấy ông có màu kiêng dè, không dám cười giỡn nữa. Tịnh tâm
một chút thì bàn gõ. Ông Cư đọc vần: A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê, G, H, I, K,...
giống như lúc nãy, lần lượt tiếp đặng 3 chữ: CAO QUỲNH TUÂN.
Ấy là tên thân phụ của hai Ngài: Cao Quỳnh Diêu và
Cao Quỳnh Cư. Hai ông Diêu và Cư đứng dậy chấp tay xá rồi ngồi trở xuống. Ông
Cư nói:
- Vì buổi Thầy quá vãng, anh em con vẫn còn nhỏ
dại, cho đến nỗi anh của con đã trộng mà còn không nhớ đặng hình ảnh của thầy,
huống chi là con còn nhỏ quá, duy buổi lớn khôn, nghe người truyền ngôn lại cái
hạnh đức của thầy mà thôi, nếu tiện, xin thầy dùng dịp nầy cho anh em con một
bài thi tự thuật hầu để roi truyền ngày sau cho con cháu thờ làm kỷ niệm. (Ông
Cư gọi thân phụ là thầy)
Ngài Cao Quỳnh Tuân bằng lòng, rồi gõ bàn cho bài
thi:
Ly
trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi
mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng
mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình
thương câu dặn gắng tâm đời.
Bên
màn đôi lúc trêu hồn phách,
Cõi
thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót
nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp
nhau nhắn nhủ một đôi lời.
CAO QUỲNH TUÂN
Khi viết đến câu chuyển thì cả thảy đều nao lòng
rưng rưng nước mắt, chừng qua câu kết thì 3 ông Diêu, Cư, Tắc vùng khóc lớn
lên, ông Sang cũng mủi lòng khóc theo.
Bàn gõ tiếp: Thầy xin kiếu.
Ông Cư vội nói: - Thưa thầy, ngày mai con nấu mâm cơm
cúng thầy, kính thỉnh thầy về chứng lòng thảo của chúng con. [Ngài Cao Quỳnh
Tuân (1844-1896) qui vị ngày 14-11-Bính Thân (dl 8-12-1896). Ngài là Xuất Bộ
Tinh Quân giáng trần. Ngài mất sớm, hưởng đặng 53 tuổi.]
Vong linh liền chuyển cái bàn gõ 2 tiếng, ngỏ ý
chấp thuận lời mời, kế đó vong xuất.
Sau khi tiếp đặng bài thi Đường luật ý nghĩa thâm
thúy và quá hiển hích với lời của một người cha hiền nhắn nhủ lại cùng vợ và
các con, làm cho bốn ông: Diêu, Cư, Tắc, Sang cảm kích và tin tưởng có linh hồn
nơi thế giới vô hình, không còn xem thường việc xây bàn là trò chơi giải trí
nữa.
* Đêm 10-6-Ất Sửu (dl 30-7-1925). Chơn linh Cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn.
Cách 4 hôm sau, quí ông hẹn nhau vào lúc 8 giờ tối
tại nhà ông Cao Hoài Sang để xây bàn nữa. Kỳ nầy sắp đặt chỉnh tề hơn, có một
bàn nhỏ kế bên đặt hương, đăng, hoa, trà, quả.
Đúng 9 giờ tối, cuộc xây bàn bắt đầu, bốn ông:
Diêu, Cư, Tắc, Sang và hai người con của ông Diêu là Đức và Thân cũng ngồi vào,
đặt hai bàn tay úp xuống mặt bàn như đêm xây bàn hôm trước.
Tịnh thần một lát thì bàn lay chuyển một cách uyển
chuyển nhẹ nhàng, bàn liền gõ, ráp lại thành mấy chữ: “Thác vì tình”. Nghe đến
đó, các ông đều rỡn tóc.
Ông Cư hỏi: - Đàn ông hay đàn bà?
Vong gõ trả lời: - Đoàn Ngọc Quế, con gái.
Ông Cư bèn xin một bài thi tự thuật.
Vong liền gõ bàn cho một bài thi như sau:
TỰ THUẬT
Nỗi
mình tâm sự tỏ cùng ai?
Mạng
bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những
ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào
dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng
sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ
tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn
dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi
mình tâm sự tỏ cùng ai?
ĐOÀN NGỌC QUẾ
Các ông tiếp được bài thi Đường luật rồi thì rất
phục thi tài của người khuất mặt nhưng nghe như có điều bí ẩn gì, không lẽ một
vong linh thường mà làm được bài thi kiệt tác như vậy, nên ông Cư hỏi: - Cô bị
bịnh gì mà thác?
Bàn gõ trả lời: - Sanh trưởng tại Chợ Lớn, con một,
thác vì tình năm 19 tuổi.
Ông Cư thấy Cô làm thi hay quá nên mời Cô thường
đến để xướng họa thi văn. Cô Đoàn Ngọc Quế gõ bàn trả lời bằng lòng và sau đó chơn
linh Cô xuất.
Buổi xây bàn nầy kết quả rất tốt đẹp. Bốn ông:
Diêu, Cư, Tắc, Sang hết nghi ngờ, tin tưởng rõ rệt là có các chơn linh nơi thế
giới vô hình.
Bài thi của Cô Đoàn Ngọc Quế quá hay, bốn ông trầm
trồ mãi, rồi quí ông đem đờn ra, một ông ngâm bài thi, ba ông đờn hòa theo, rồi
cùng nhau mượn chung rượu đầy vơi trong lúc tàn canh để gợi hứng niềm hoài cảm.
* Thứ sáu, đêm 11-6-Ất Sửu (dl 31-7-1925). Có 3 người khách đến thử
xây bàn.
Đêm hôm sau, 11-6-Ất Sửu (dl 31-7-1925), 3 ông
Diêu, Cư, Tắc cũng hẹn nhau tới nhà ông Sang để tiếp tục xây bàn. Bốn ông vừa
ngồi vào chuẩn bị xây bàn thì có 3 ông khách quen thân vào tới, tên là: Vương
Hồng Sễn, Đoàn Ngọc Quế, Nguyễn Văn Xuân. Ông Sễn và Xuân làm thơ ký tập sự
chung một sở trường máy, đường Đỗ Hữu Vị, nay là trường Kỹ Thuật Cao Thắng, ông
Quế thì lớn tuổi hơn, làm Thông Phán ở Phòng Nhì dinh Thượng Thơ. Ba ông đi xe
kéo tới nơi liền xin vào thí nghiệm Xây Bàn, nên bắt ghế ngồi quanh bàn chung
với bốn ông.
Bảy người ngồi giáp chung quanh bàn, các bàn tay úp
xuống bàn đặt khít nhau, giáp chu vi mặt bàn.
Ngồi tịnh thần chừng 10 phút, bàn bắt đầu chuyển
động, 3 cây nhang cắm giữa bàn rung rung như báo cho biết có vong linh nhập
bàn. Trong nhà lúc đó đồng hồ gõ 9 tiếng.
Bàn bắt đầu gõ, xưng tên là: Đoàn Ngọc Quế, tiểu
thơ.
Tên cô tiểu thơ vong linh trùng tên với ông Đoàn
Ngọc Quế đang ngồi xây bàn, ông Quế liền hỏi:
- Chẳng hay trong nhóm hôm nay có người nào trùng
danh tánh trùng tự với tiểu thơ chăng?
Lập tức cái bàn nghiêng nghiêng qua phía ông Đoàn
Ngọc Quế rồi gõ mạnh một tiếng “cộp”.
Ông Sễn liền hỏi:
- Nội trong bọn có người nào mới lạ chăng?
Cái bàn liền gõ là “có” và gõ tên người lạ đó là
“SỄN”.
Bàn gõ khoan thai yểu điệu quả là tánh nết của một
tiểu thơ khuê các. Khi nào không muốn trả lời câu hỏi quá tọc mạch thì bàn
nghiêng nghiêng qua một bên nhưng không gõ, ba cây nhang rung rung như bất
bình. Lần lần hỏi đến gia đạo của Cô và Cô đau bịnh chi mà thác?
Cô gõ bàn cho bài thi như sau:
Trời
già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo
nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy
bữa nhăn mày làm chước quỉ,
Khiến
ôm mối thảm lại Diêm đình.
Xây bàn đến đây cũng đã khá khuya, ba ông khách:
Vương Hồng Sễn, Nguyễn Văn Xuân, Đoàn Ngọc Quế xin kiếu từ ra về. Ba ông nầy
chính mắt thấy, chính tay xây bàn nên không còn điều gì để nghi ngờ là chuyện
huyễn hoặc hay do bàn tay con người sắp đặt ra để lừa bịp thiên hạ. Các ông tin
chắc có linh hồn nơi cõi giới vô hình và người hữu hình có thể thông công được
với người vô hình.
Sau khi 3 vị khách ra về, 4 ông: Diêu, Cư, Tắc,
Sang tiếp tục xây bàn để cầu hỏi vong linh Cô Đoàn Ngọc Quế.
Bàn tiếp tục gõ, Cô Quế cho thi tiếp:
Người
thì ngọc mã với kim đàng,
Quên
kẻ dạ đài nỗi thảm mang.
Mình
dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc
ai chung hưởng phận cao sang.
ĐOÀN NGỌC QUẾ
Ông Cư hỏi Cô Quế: - Hồi còn tại thế, Cô ở đâu?
Cô Quế gõ bàn trả lời: - Ở Chợ Lớn.
- Học trường nào? - Học trường đầm (Sainte
Enfance).
Câu chuyện xây bàn kể từ đây, bốn ông lấy làm quan
tâm hào hứng và làm cho các giới văn nhân tài tử nghe đến đều thích thú việc
xây bàn.
Từ bữa có bài thi Tự thuật của Cụ Cao Quỳnh Tuân và
sự xuất hiện của vong linh Cô Đoàn Ngọc Quế rất giỏi thi văn, cho bài thi “Thác
vì tình” làm cho các ông rất phấn khởi muốn hiểu biết thêm những bí mật của thế
giới vô hình.
Vì thế, ban ngày quí ông đi làm việc ở Sở, nhưng
lòng rất băn khoăn, không mấy thiết tha với công việc ở Sở nữa, trông cho mau
hết giờ để trở về nhà, rồi trông trời mau tối để xúm nhau xây bàn tiếp chuyện
với các vong linh.
Ông Cư nhận thấy đã xây bàn nơi nhà ông Sang 4 đêm
rồi, làm phiền gia chủ không ít, nên mời quí ông đêm sau đến nhà ông tiếp tục
xây bàn mời Cô Đoàn Ngọc Quế về làm thi.
* Thứ bảy, đêm 12-6-Ất Sửu (dl 1-8-1925). xây bàn tại nhà Ngài Cao
Quỳnh Cư.
Theo lời mời của ông Cư, đêm nay xây bàn tại hiên
nhà ông Cư, ở số 134 đường Bourdais Sài Gòn, nay là đường Calmette Quận I.
Tại đây, ông Cư dùng chiếc bàn mặt vuông có 4 chân,
chêm lên một chân để cho bàn lắc qua lắc lại dễ dàng, gõ nhẹ lên mặt gạch phát
ra tiếng.
Đêm nay, ông Diêu bận việc nên vắng mặt, chỉ có 3
ông: Cư, Tắc, Sang ngồi xây bàn. Cô Quế nhập bàn chào mừng ba ông, đàm luận một
hồi rồi ba ông xin kết làm anh em thi hữu với Cô. Cô gõ bàn bằng lòng và gọi:
Ông
Cư là Trưởng ca,
Ông
Tắc là Nhị ca,
Ông
Sang là Tam ca,
Còn Cô
xưng là Tứ muội.
Kết nghĩa anh em như vậy rồi, ba ông gạn hỏi tên
thiệt của Tứ muội là chi, mấy anh em Qua muốn Tứ muội đừng giấu giếm. Nài nỉ
mãi, cuối cùng Cô gõ bàn đề 3 chữ: V T L.
Ba ông phăng hỏi đến mồ mã của Cô ở đâu? Cô cũng
chỉ rõ cho ba ông hết điều ngờ vực, hiện ngôi mộ của Cô ở khu vườn Bà Lớn. (Bà
Lớn là Bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương)
* Chúa nhựt, ngày 13-6-Ất Sửu (dl 2-8-1925). đi viếng mộ của Cô Vương
Thị Lễ.
Sáng hôm nay nhằm ngày Chúa nhựt nghỉ làm ở Sở, ba
ông (Cư, Tắc, Sang) sắm sửa nhang đèn quả phẩm đi tìm viếng mộ của Cô Quế trong
Vườn Bà Lớn, ở Ngã Bảy, gần Phú Thọ. Quả nhiên, đúng theo lời chỉ dẫn của Cô,
ba ông tìm thấy ngôi mộ của Cô xây gạch rất đẹp, nhà mồ có bia in hình Cô còn
rất trẻ trung, dung nhan xinh đẹp, phía dưới đề tên VƯƠNG THỊ LỄ đúng với ba
chữ mà Cô viết tắt VTL.
Ba ông vừa mừng vừa cảm động, hiểu rõ Đoàn Ngọc Quế
là tá danh, tên thật là Vương Thị Lễ.
Ba ông bày đèn nhang quả phẩm khấn vái vong hồn của
Cô và mời Cô về nhà nhập bàn trò chuyện. Ba ông có ý thử xem, ban ngày vong có
dám về nhập bàn không?
GHI CHÚ: Cô Vương Thị Lễ
là cháu ngoại của Ông Bà Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương. Cô là con gái của ông Vương
Quan Trân (anh ruột của Quan Phủ Vương Quan Kỳ). Cô sanh ngày 8-1-Canh Tý
(1900), học trường Sainte Enfance, trình độ Trung học Pháp, mất ngày 25-10-Mậu
Ngọ (dl 28-11-1918) vì bịnh, lúc đó Cô được 19 tuổi.
Thăm mộ của Cô Lễ xong, ba ông trở về, tới nhà lúc
9 giờ, liền đem bàn ra để cầu Cô Lễ. Cô nhập bàn, xác nhận đó là ngôi mộ của Cô
và cảm ơn ba ông về sự thăm viếng nầy.
Tất cả ba ông đều rất cảm khích và phấn khởi trong
việc Xây bàn có kết quả tốt đẹp, hiểu được sự bí mật vô hình mà ít người rõ
thấu.
Thấy rõ sự hiển linh và huyền diệu trong việc tiếp
xúc với các Chơn linh trong cõi vô hình là nhờ Cô Vương Thị Lễ, tá danh Đoàn
Ngọc Quế, là vị Nữ Tiên Thất Nương Diêu Trì Cung đến khơi màn bí mật để dìu dắt
ba ông, lại dùng thi phú tuyệt hay đánh vào tâm lý của các văn thi sĩ đương
thời, nên ba ông tích cực say mê xây bàn, đêm nào cũng hiệp nhau xây bàn cho
đến khuya, ngây ngất trong niềm vui mãn ý.
Thế giới vô hình như đang hé mở trước ba ông.
Việc Xây bàn tại Sài Gòn tạm dừng nơi đây để bắt
qua việc Xây bàn mở Đạo tại Nam Vang.
2) Xây Bàn tại Nam Vang.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Xây Bàn
tại nhà ông Cao Đức Trọng ở Kim Biên (Nam Vang):
Đức Hộ Pháp đắc lịnh Đức Chí Tôn đi Kim Biên (Phnom
Pênh) để mở Đạo Cao Đài tại đây vào cuối tháng sáu năm Đinh Mão (1927). Đức Hộ
Pháp tạm ngụ tại nhà ông Cao Đức Trọng (anh ruột của Ngài Cao Hoài Sang), trong
dãy phố 8 căn gọi là phố Lang Cô trong ngỏ hẽm của đường Ohier. Nhà ông Cao Đức
Trọng ở căn bìa phía đường cái đi vào, nhà của ông Trần Quang Vinh ở cách đó
hai căn, căn thứ năm là nhà của ông Đặng Trung Chữ làm kế toán hãng buôn.
Ông Trần Quang Vinh thuật lại giai đoạn Đức Hộ Pháp
Xây Bàn tại đây trong quyển Bổ Túc Hồi Ký như sau:
“Trong lúc anh em thân thuộc ở gần toàn là công tư
chức, hằng đêm tụ họp trước sân nhà ông Cao Đức Trọng chuyện trò và nhơn dịp ấy
tiếp xúc với Đức Hộ Pháp là người bạn mới ở Sài Gòn đổi lên. Trong những câu
chuyện thường, Đức Hộ Pháp hằng đàm luận về thi phú văn chương, nhứt là nhắc
nhở các bài thi học hỏi nơi Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng, tường thuật
bao nhiêu huyền diệu trong việc Xây Bàn và cầu cơ lúc ở Sài Gòn, lập đi lập lại
những thi văn hướng dẫn về con đường đạo đức, những bài tiên tri nói về Đạo Cao
Đài và tương lai nước Việt.
Câu chuyện rất hấp dẫn, thâu phục được các bạn trí
thức, kéo tới việc Xây Bàn thử để xem các Đấng dạy thế nào.
* Huyền diệu Cơ Bút: Xây Bàn và Cầu Cơ tại nhà ông Cao Đức Trọng:
Lúc mới khởi việc Xây Bàn thì chỉ có Đức Hộ Pháp và
ông Cao Đức Trọng để tay lên bàn tròn, ba chơn (cái bàn nầy giống hệt cái bàn
tại nhà Ngài Cao Hoài Sang ở Sài Gòn dùng để Xây Bàn trước đây). Cơ lên nhưng
bàn nhịp hơi yếu, thêm một người nữa để tay vào thì bàn nhịp mạnh hơn. Cách đếm
và ráp chữ cũng giống y như lúc Đức Hộ Pháp hiệp với các bạn ở Sài Gòn xây bàn
vậy.
Trong những bạn bè đến chơi, có người xin hỏi về
gia đạo, về tương lai, về việc nước, v.v... thì tức khắc được thưởng một bài
thi hoặc 4 câu hoặc 8 câu để thỏa mãn lòng hiếu kỳ.
Những vị được bài thi, đọc đi đọc lại tự biết việc
mình, khen cơ nói trúng phốc nên khen lấy khen để, gọi là linh thiêng, tỏ vẻ
kính trọng hơn trước, rồi tiếng đồn lan rộng, nhiều người khác đến mỗi đêm.
Càng ngày khách càng đông. Xây Bàn thì chậm chạp,
chỉ mỗi đêm được năm ba bài thi, nên Đức Hộ Pháp nảy ra hai ý kiến tuyệt diệu:
Một là: Tạo ra một Tiểu Ngọc Cơ, hình thức như
Ngọc Cơ tại Tòa Thánh, cũng có cần cơ, mỏ cơ và một cái giỏ đương bằng mây phất
giấy vàng, ngang miệng giỏ có một cây ngang dẹp, giữa cây có soi một cái lỗ cho
vừa đút xuống cái cốt bàn cơ. Bàn cơ thì hình vuông như bàn cờ tướng, trên mặt
có vẽ chữ A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê, . . . tới chữ Z theo hình rẽ quạt. Khi đút
Ngọc Cơ vào cốt, hai vị phò loan hai tay nắm miệng giỏ, mỗi người một bên. Khi
điển quang vào tay thì Ngọc Cơ chuyển động, quay qua quay lại trên trụ cốt, xây
vòng theo chữ vẽ hình rẽ quạt, khi đến chữ nào mỏ cơ ngừng thì có người hầu kế
bên đọc, một người khác viết lại từ chữ.
Cách thức nầy tuy chậm hơn Ngọc Cơ ở Tòa Thánh
nhưng mau hơn Xây Bàn gấp 10 lần.
Hai là: Buộc ai muốn cầu cạnh điều chi thì phải
dâng sớ, phải viết một tờ sớ kể lể việc mình cầu khẩn, đội lên đầu khi hầu đàn,
cơ giáng thì tuần tự kêu tên từ người.
Huyền diệu thay! Mỗi khi có một hai chục người dâng
sớ, hai vị phò loan là Đức Hộ Pháp và ông Cao Đức Trọng làm sao biết tên họ, mà
trong mỗi bài thi tặng cho mỗi người đều có mang tên người ấy ở đầu bài thi.
Trong lá sớ của mỗi người dâng lên là họ hỏi việc riêng của họ, mà trong bài cơ
tiếp được thì trả lời trúng theo sở cầu của họ, họ hết sức bái phục.
* Một vụ tráo lá sớ để thử cơ:
Một đêm nọ, có bà góa phụ tên Trần Kim Phụng, là
một người đàn bà sang trọng có tên tuổi, lại là bậc thi sĩ ở Nam Vang mà ai ai
cũng đều kính nể, đến hầu đàn mà có tư ý là muốn thử cho biết thiệt hư. Bà cũng
vào trước đàn cơ quì lạy như mọi người, dâng sớ xin thi.
Trong đàn thì đông đảo, mỗi người đội một lá sớ,
lòng thành cầu khẩn. Lúc mới vào đàn, còn đương lộn xộn, kẻ đứng người quì,
bỗng nhiên có ông bạn quen, tên Huỳnh Đình Thới, kế toán viên hãng buôn, cố ý
đến thử sự linh thiêng của đàn cơ, ông lỏn ra phía sau chỗ bà Trần Kim Phụng đã
quì và đội lá sớ lên đầu, ông lén tráo lá sớ của ông thế vào lá sớ của bà mà bà
không hay, cũng không ai để ý, rồi ông quì xuống có đội lá sớ của bà Trần Kim
Phụng.
Khi cơ giáng ban một bài thi bát cú cho bà Trần Kim
Phụng mà lá sớ do ông Huỳnh Đình Thới đội dâng, chữ đầu của bài thi là PHỤNG:
Phụng đến bờ dương trổi tiếng kêu. (Tác giả chỉ nhớ câu đầu của bài thi) mà
trọn ý tứ của bài thi thì toàn là việc của bà Trần Kim Phụng.
Rồi đến lượt ông Huỳnh Đình Thới, mà lá sớ lại do
bà Trần Kim Phụng đội dâng, cớ giáng cho một bài thi bát cú có chữ THỚI đứng
đầu, mà ý tứ và sự việc đều đúng theo sở cầu của ông Thới đã viết trong lá sớ.
Khi bãi đàn, đem thi ra đọc lại, ông Thới mới thú
thật là ông tráo lá sớ của ông cho bà Trần Kim Phụng đặng thử xem cơ thiệt hay
giả, chừng ấy ông mới bái phục sự linh hiển thiêng liêng.”
3) Nguồn gốc của Xây Bàn tại Việt Nam.
3 . 1 . Thần Linh Học
ở nước Mỹ:
Phong trào Thần Linh Học thế giới khởi đầu xuất
hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1847, thành phố New York, nơi nhà của ông Veckman trong
một nông trại tại Hydesville. Hằng đêm ông Veckman nghe có tiếng đập cửa hay
tiếng gõ vào vách, nhưng khi mở cửa ra xem thì không thấy ai cả, làm cho gia
đình ông hoảng sợ, cho là có hồn ma phá khuấy nên không dám ở đó nữa, phải trả
nhà dọn đi nơi khác.
Sau đó có gia đình ông thợ may nghèo tên là John
Fox đến mướn ở. Mấy tháng đầu, ông Fox chẳng thấy chi lạ cả, nhưng thời gian
sau thì hiện tượng gõ cửa đập vách lại xảy ra, và đặc biệt ban đêm, đồ đạc
trong nhà tự nhiên xê dịch từ chỗ nầy qua chỗ khác.
Ban đầu, ông bà Fox cũng hoảng sợ, nhưng thấy các
hiện tượng lạ nầy không có phương hại chi đến gia đình nên ông bà bỏ qua không
để ý đến nữa, dần dần rồi cũng quen với các hiện tượng kỳ bí đó.
Ông bà Fox có hai đứa con gái, đứa lớn tên Margaret
15 tuổi và đứa nhỏ tên Kate 12 tuổi.
Một hôm, ông bà Fox định đi ngủ sớm vì ban ngày may
vá mỏi mệt quá, và không để ý đến tiếng đập vách. Khi vào phòng ngủ thì thấy
Kate còn thức và vỗ tay chơi. Liền sau đó, ông bà Fox nghe có tiếng gõ vách đáp
lại. Cô bé vỗ tay 3 tiếng thì có 3 tiếng gõ vách đáp lại.
Bà Fox nói thử: Hãy gõ 10 tiếng coi.
Liền đó có 10 gõ vách đáp lại.
Bà Fox kinh ngạc nói tiếp: Nếu linh hiển, hãy gõ
đúng số tuổi của Kate.
Liền đó tiếng gõ đáp lại đếm đúng 12 tiếng.
Bà Fox lại nói: Nếu là người thật thì gõ 1 tiếng
trả lời.
Hoàn toàn yên lặng.
Chờ một chút, bà Fox nói tiếp: Nếu là hồn linh thì
gõ 2 tiếng trả lời.
Tức thì có 2 tiếng gõ đáp lại.
Hiện tượng lạ lùng nầy ngày hôm sau được lan truyền
ra khắp nơi rất nhanh, khiến nhiều người hiếu kỳ tấp nập đến xem. Giới tu sĩ,
giới khoa học, đều tìm đến tận nơi để quan sát, thử nghiệm, nghiên cứu. Kết quả
họ rất ngạc nhiên lẫn kinh sợ, xác nhận hiện tượng kỳ bí có xảy ra thực, nhưng
không cách nào giải thích được sự kỳ bí nầy.
Sau đó, có một nhà nghiên cứu tên là Issas Post đến
xem, nảy ra sáng kiến là bảo hồn linh gõ theo thứ tự các mẫu tự A, B, C,... Gõ
1 tiếng là chữ A, gõ 2 tiếng là chữ B, gõ 3 tiếng là chữ C, v.v... để sau đó
ráp lại thành câu văn mà nói chuyện với nhau.
Vong linh liền gõ 2 tiếng để tỏ sự đồng ý.
Thế là nhờ phương cách nầy, tuy mất nhiều thời giờ,
nhưng ông Issas Post có thể nói chuyện được với hồn linh. Ông được hồn linh trả
lời nhiều điều mà trước đây không ai có thể biết được về thế giới vô hình.
Nhờ phương pháp nầy, ông Fox nói chuyện được với
hồn linh. Hồn linh cho biết, khi còn sống tên là Charles Haynes, làm phu khuân
vác, có 5 con, sau đó góa vợ, đã bị chủ nhà trước giết chết, xác được chôn
trong hầm của nông trại. Hồn linh cũng cho biết tên của người giết chết ông ta,
là người đã ở kế căn nhà nầy hai năm về trước.
Ông Fox đào thử trong hầm của nông trại thì tìm
thấy được: một mớ vôi, một mớ than, nhiều mảnh chén bể, một nắm tóc, vài khúc
xương, một miếng mềm giống như óc.
Ông Fox rất ngạc nhiên và hoảng sợ.
Lối xóm đồn ầm lên là gia đình ông Fox nói chuyện
được với hồn ma.
Báo chí hay tin, liền cử người đến quan sát, rồi
đăng tin lên báo, khắp nước Mỹ đều hay biết. Giới tu sĩ và giới trí thức rất
chú ý đến hiện tượng bí ẩn nầy.
Hậu quả của việc thông linh nầy là gia đình ông Fox
không làm ăn gì được cả, nên phải dọn nhà đi nơi khác ở.
Vì việc nầy, Giáo hội Méthodiste (Église
Methodiste) thuộc đạo Tin Lành trục xuất ông bà Fox ra khỏi Giáo hội. Ông Fox
đưa gia đình đến ở Rochester, là nơi đông đúc dân cư, tránh khỏi khu vực đó,
nhưng hồn ma Charles Haynes cũng theo gia đình ông Fox đến Rochester.
Hai chị em Margaret và Kate phải làm trung gian để
những người sống muốn nói chuyện với linh hồn ông Haynes.
Rất nhiều người trước đây không biết gì về hồn ma
và cũng không tin có ma, nay chứng nghiệm được hiện tượng hiển nhiên như vậy
thì họ rất tin tưởng và cũng trở thành Đồng tử giống như hai cô gái Margaret và
Kate.
Nhiều cuộc trình diễn được tổ chức trước công
chúng, kết quả rất tốt đẹp, khiến nhiều người phải xác nhận có linh hồn, người
chết thì thể xác tiêu tan, nhưng linh hồn vẫn tồn tại nơi thế giới vô hình.
Tiếng tăm của gia đình ông Fox nổi bật giữa quần
chúng nước Mỹ. Báo chí Mỹ không ngớt tường thuật tỉ mỉ các buổi thông linh nầy.
Hội Đồng Thành phố Rochester thành lập Ban điều tra
đặc biệt về hiện tượng thông linh đó. Sau mấy năm nghiên cứu, ba lần họp, có
đến hàng trăm diễn giả thuyết trình, tranh luận sôi nổi, nhưng chưa đạt được
một kết luận dứt khoát nào.
Kinh sợ trước những hiện tượng kỳ bí mà họ chứng
kiến, một số người hồ đồ xấu miệng đồn lên rằng, gia đình ông Fox là phù thủy,
là hiện thân của ma quỉ, họ sách động đám đông đập chết toàn cả gia đình ông
Fox gồm bốn người, một cách hết sức oan uổng.
Sau khi gia đình ông Fox bị thảm sát, hiện tượng
thông linh “gõ cửa hay gõ vách” vẫn tiếp tục xuất hiện ở nhiều nơi trên đất
nước Mỹ.
Luật Sư J. Edmonds, Giáo Sư E. Mapes thuộc Hàn Lâm
Viện Hoa Kỳ, Giáo Sư Robert Hare tại Đại Học Đường Pensylvania, sau nhiều năm
nghiên cứu, thông công được với nhiều người trong thế giới vô hình, đã có những
kết luận rất xác đáng, nên tổ chức các buổi thuyết trình, viết ra nhiều sách để
phổ biến, xác nhận sự hiện hữu của linh hồn và của thế giới vô hình.
Năm 1852, một Hội Nghị Thần Linh Học (Congrès
Spirite) đầu tiên được tổ chức tại Cleveland nước Mỹ.
Năm 1854, số người theo Thần Linh Học ở Hoa Kỳ lên
đến con số 3 triệu người, trong đó có hơn 10 ngàn Đồng tử.
3 . 2. Thần Linh Học ở nước Pháp:
Từ năm 1852, một Phái đoàn Thần Linh Học từ Mỹ đi
qua nước Anh và đã gây được một phong trào Thần Linh Học mạnh mẽ tại nước Anh.
Năm 1853, một nhóm Thần Linh Học khác lại đi từ Mỹ
qua nước Pháp và Đức, cũng gây được những phong trào Thần Linh Học đáng kể ở
hai nước nầy.
Năm 1854, ông Chevreul thuộc Hàn Lâm Viện Khoa Học
Pháp và ông Faraday ở nước Anh, đả phá kịch liệt Thần Linh Học, nhưng không kết
quả.
Bà Giradin, một Đồng tử Thần Linh Học ở nước Pháp
đã giúp cho Văn hào Victor Hugo đang tị nạn, sống lưu vong ở đảo Jersey của
nước Anh.
Tất cả những bài nhận được trong các cuộc Xây Bàn
của Victor Hugo tại đảo Jersey được ông Gustave Simon xuất bản vào năm 1923,
với nhan đề: “Chez Victor Hugo, Les tables tournantes de Jersey”.
Trong cuốn sách nầy, bài đầu tiên do Xây Bàn có
được là nhờ dùng cái Bàn tròn 3 chân đặt trên một cái Bàn vuông lớn có 4 chân.
Khi bà De Giradin mua cái Bàn Tròn 3 chân đặt trên
cái Bàn Vuông 4 chân, có phải bà chịu ảnh hưởng của quan niệm triết lý về vũ
trụ của người phương Đông: Thiên viên Địa phương, nghĩa là Trời tròn Đất vuông?
Bài đầu tiên có được do Xây Bàn, được dịch ra Việt
văn như sau đây:
Ghi chú của ông Auguste Vacquerie. Sự hoài nghi của ông. Sự ngập ngừng do
dự của cái bàn. Sự thành khẩn của Bà Giradin. Chơn linh đầu tiên đến dự là
Léopoldine, con gái của Victor Hugo.
Ghi chú của ông Auguste Vacquerie
Khi người ta nói đến việc Xây Bàn, chúng tôi nghi
ngờ. Chúng tôi đã thử làm cho cái bàn xây, nhưng không kết quả. Chúng tôi thấy,
nhứt là trong sự chú trọng về các mặt cho vào hiện tượng nầy, một sự thúc đẩy
của cảnh sát Pháp mà họ muốn cho công chúng quên lãng những điều hổ thẹn của
chánh quyền.
Chúng tôi đã ở nơi đó khi Bà De Giradin đến viếng
thăm ông Victor Hugo tại đảo Jersey. Bà đến vào thứ ba, ngày 6-9-1853.
Bà nói với chúng tôi về việc Xây Bàn. Cái bàn không
chỉ quay mà còn biết nói nữa. Người ta qui ước với cái bàn là: những tiếng phát
ra khi bàn gõ sẽ là những chữ cái của bảng mẫu tự và người ta ghi ra chữ nào mà
cái bàn ngừng gõ. Như thế, người ta ghi được từng chữ, từng tiếng, từng câu và
từng trang. Chúng tôi thấy nơi đó một nghịch lý thú vị. Đến nỗi, vào thứ tư,
khi Bà cùng với Victor Hugo thử làm cho cái bàn gõ trong phòng ăn, chúng tôi
vẫn ngồi nơi phòng khách, các bàn vẫn không gõ!
Bà Giradin nói rằng: tại vì cái bàn nầy hình vuông,
cần phải có một cái bàn tròn. Chúng tôi không có loại bàn nầy.
Thứ năm, Bà đem đến một cái bàn nhỏ, tròn, có 3
chân mà Bà mua được trong tiệm bán đồ chơi của trẻ con tại Saint-Helier. Hôm
sau, Bà thử xây bàn lần nữa, không kết quả.
Riêng tôi, tôi rất ít tin tưởng vào việc Xây Bàn
nên tôi đi ngủ trong lúc người ta xây bàn. Ngày thứ bảy, Victor Hugo và Bà
Giradin dùng bữa ăn chiều tại nhà một cư dân của đảo Jersey, ông Godfray. Bà
Giradin thử xây bàn lần nữa, vẫn vô ích.
Chiều Chúa nhựt, đây là những gì
xảy đến:
Jersey, 11-9-1853.
Hiện
diện: Bà De Giradin, Bà Victor Hugo, ông Victor Hugo, Charles Hugo, Francois
Hugo, Cô Adèle Hugo, Tướng Le Flô, ông De Tréveneuc, Auguste Vacquerie.
Bà Giradin và Auguste Vacquerie ngồi vào và đặt tay
lên cái bàn tròn nhỏ, bàn tròn nhỏ được đặt trên một cái bàn vuông lớn.
Sau vài phút, bàn tròn dao động.
Bà Giradin hỏi: - Ai
đó?
Cái bàn dở lên một chân
và không hạ xuống.
Bà Giradin hỏi: - Có
điều gì làm cho trở ngại? Nếu đúng thì gõ 1 tiếng, nếu sai thì gõ 2 tiếng.
Cái bàn gõ 1 tiếng.
Bà De Giradin: - Điều
gì?
- Hình thoi.
Thật vậy, chúng tôi đã
ngồi theo hình thoi, chúng tôi ngồi nơi hai cạnh của một góc cái bàn lớn. Tôi không hoàn
toàn tin tưởng. Tôi không nói đích xác rằng Bà De Giradin đùa với chúng tôi và
tự ý gõ vài tiếng. Nhưng tôi nói rằng với sức lực của ý muốn và của sự căng
thẳng của tinh thần, Bà có thể đưa vào bàn tay một áp lực không theo ý muốn. Ta
nên tìm một cái bàn khác và đặt trên đó cái bàn nhỏ.
Bà De Giradin và Charles Hugo ngồi vào vị trí thế
nào để tạo thành một góc vuông đối với cái bàn phía dưới. Cái bàn lay động.
Tướng Le Flô nói: - Nói cho tôi biết tôi đang nghĩ
gì?
- Sự chung thủy.
Tướng Le Flô nghĩ tới vợ của ông. Tôi ít tin tưởng.
Tôi thấy điều nầy rất thiêng liêng và rất khéo léo khi trả lời “Sự chung thủy”
nơi một người chồng đang nghĩ đến vợ mình, mà tôi cho rằng câu trả lời dành cho
Bà De Giradin.
Ông Victor Hugo viết một chữ trên tờ giấy và xếp tờ
giấy ấy lại rồi đặt trên bàn.
Auguste Vacquerie: - Hồn linh có thể nói cho tôi
biết cái chữ viết trong đó?
- Không.
Victor Hugo: - Tại sao?
- Giấy.
Tất cả những câu trả
lời nầy bắt đầu làm tôi ngạc nhiên chút ít. Để chắc chắn rằng cái bàn nầy không
phải do Bà De Giradin tác động, tôi yêu cầu được ngồi vào bàn với Charles Hugo.
Tôi liền vào ngồi xây bàn với Charles Hugo. Cái bàn lại lay động. Tôi nghĩ tới
một cái tên, tôi nói:
Auguste Vacquerie: - Tôi đang nghĩ đến tên gì?
- Hugo.
Đúng là tên đó.
Đó là lúc mà tôi bắt đầu tin tưởng.
Từ lúc đó, Bà De Giradin cảm thấy xúc động và nói với chúng tôi là không
nên mất thời giờ vì những câu hỏi trẻ con đó. Bà đoán trước một cuộc xuất hiện
lớn, nhưng chúng tôi nghi ngờ, chúng tôi khăng khăng nhứt quyết thách đố cái
bàn trả lời những chữ đã viết hay những ý nghĩ. Cái bàn viết ra những chữ rời
rạc.
Bà De Giradin: - Hồn linh chế nhạo chúng tôi?
- Đúng.
Bà De Giradin: - Tại sao?
- Vô lý.
Bà De Giradin: - Thôi! Hồn linh nói về mình đi.
- Trở ngại.
Bà De Giradin: - Cái gì làm trở ngại hồn linh?
- Người không tín ngưỡng.
Bà De Giradin: - Một hay nhiều?
- Chỉ một người.
Bà De Giradin: - Tên người ấy?
- Người tóc hoe.
Thật vậy, ông De Tréveneuc tóc hoe là người không
tín ngưỡng nhứt trong chúng tôi.
Bà De Giradin: - Hồn linh có muốn y đi ra khỏi đây
không?
- Không.
Cái bàn dao động qua lại từ chối trả lời. Tôi rời
khỏi bàn. Tướng Le Flô vào thế chỗ tôi.
Ngồi nơi bàn là Charles Hugo và Tướng Le Flô.
Tướng Le Flô: - Nói cho tôi biết cái tên mà tôi
đang nghĩ tới.?
Bà De Giradin đồng thời hỏi: - Hồn linh là ai?
- Con gái.
Tướng Le Flô không nghĩ đến con gái ông. Tôi, tôi
đang nghĩ đến cháu trai Ernest và tôi hỏi:
- Tôi đang nghĩ đến ai?
- Người chết.
Bà De Giradin cảm động: - Con gái đã chết.
Tôi bắt đầu trở lại hỏi: - Tôi đang nghĩ tới ai?
- Người chết.
Tất cả mọi người đang nghĩ đến đứa con gái của
Victor Hugo đã mất.
Bà De Giradin: - Hồn linh là ai?
- Là linh hồn của chị gái.
Bà De Giradin có một chị gái đã mất. Cái bàn nói chữ “soror” bằng tiếng La
tinh, có phải để nói rằng Bà là chị gái của một người?
Tướng Le Flô: - Charles Hugo và tôi đang xây bàn,
chúng tôi mỗi người đều có một chị gái đã mất. Hồn linh là chị gái của ai?
- Nghi ngờ.
Tướng Le Flô: - Hồn linh là người nước nào?
- Nước Pháp.
Tướng Le Flô: - Thành phố nào?
Không trả lời. Chúng tôi cảm thấy tất cả sự hiện
diện của người chết. Tất cả mọi người đều khóc.
Victor Hugo: - Hồn linh có sung sướng không?
- Có.
Victor Hugo: - Hồn linh đang ở đâu?
- Ánh sáng.
Victor Hugo: - Phải làm thế nào để đi đến với hồn
linh?
- Thương yêu.
Kể từ lúc nầy, trong lúc người ta đang xúc động,
cái bàn như cảm nhận được, không do dự nữa. Khi có người hỏi thì bàn trả lời
liền. Khi chậm trễ đặt câu hỏi, thì bàn dao động qua bên phải rồi qua bên trái.
Bà De Giradin: - Ai gởi hồn linh tới?
- Thượng Đế nhân từ.
Bà De Giradin rất cảm động: - Hãy nói về mình đi. Hồn linh có điều gì nói với
chúng tôi không?
- Có.
Bà De Giradin: - Điều gì?
- Hãy chịu đau khổ cho một thế giới khác.
Victor Hugo: - Hồn linh có thấy được nỗi đau khổ của những người yêu mến
hồn linh?
- Có.
Bà De Giradin: - Họ đau khổ lâu không?
- Không.
Bà De Giradin: - Họ sẽ sớm trở về nước Pháp không?
Bàn không trả lời.
Victor Hugo: - Hồn linh có bằng lòng khi họ cầu
nguyện cho hồn linh không?
- Có.
Victor Hugo: - Hồn linh luôn luôn ở bên cạnh họ
phải không? Và chăm sóc họ?
- Vâng.
Victor Hugo: - Nhờ họ
mà hồn linh trở lại?
- Không.
Victor Hugo: - Nhưng hồn linh sẽ
trở lại chứ?
-Vâng.
Victor Hugo: - Hẹn gặp lại.
- Vâng.
Xong lúc 1 giờ rưỡi sáng.
Đây là kết quả đầu tiên trong việc Xây Bàn tại nhà
của văn hào Victor Hugo ở đảo Jersey, vào ngày 11-9-1853.
Sau 3 lần Xây Bàn theo lối Bàn Gõ (Table
frappante), Victor Hugo nhận thấy phải mất nhiều thì giờ mới có được một câu
trả lời của các Đấng giáng bàn, nên ông Victor Hugo nghĩ ra cách Xây Bàn theo
lối Bàn Quay (Table tournante):
Mặt bàn hình tròn, có thể quay nhẹ nhàng chung
quanh một trục ở giữa, trên mặt bàn vẽ một mũi tên theo đường bán kính, các chữ
mẫu tự được vẽ trên một vòng cung đặt trước mũi tên, khi bàn xây qua xây lại
thì mũi tên lướt qua các mẫu tự. Khi Đấng thiêng liêng nhập bàn dùng mẫu tự nào
thì bàn dừng lại để mũi tên chỉ vào mẫu tự ấy. Trên vòng mẫu tự có vẽ 2 chữ
“Oui” và “Non”. Cách xây bàn tròn nầy giống như cách cầu bằng Tiểu Ngọc Cơ ở
Việt Nam. (Xem phần sau).
Dùng Bàn Quay thì nhanh hơn dùng Bàn Gõ thập bội.
Tóm lại, việc Xây Bàn của 4 vị: Cao Quỳnh Cư, Phạm
Công Tắc, Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Diêu là căn cứ theo các sách Thần Linh Học
của Tây phương truyền qua Việt Nam thời đó nói về việc Xây Bàn theo cách bàn
gõ.
1) Tổng quát về Cơ Bút.
Cơ Bút có hai nghĩa sau đây tùy theo trường hợp:
- Cơ Bút là Cầu cơ và Chấp bút.
- Cơ Bút là dùng cây Cơ làm ngòi bút cho các Đấng
thiêng liêng viết ra chữ, tạo thành một bài văn dạy đạo.
Cây cơ là dụng cụ làm bằng nang trúc hay nang tre,
đan thành một cái giỏ nhỏ, đường kính chừng 3 tất, cao cũng chừng 3 tấc, bên
ngoài bọc một lớp vải vàng, kết ngang trên miệng giỏ một cái cán làm bằng gỗ
quí như giáng hương, mít nài hay cây dâu, mà đầu cán được chạm hình đầu chim
loan (đôi khi chạm hình đầu rồng), giỏ cơ được úp xuống, cái cán nằm bên dưới,
cán dài chừng 7 tấc, nơi gần chỗ đầu chim loan, khoan một lỗ thẳng đứng để gắn
vào đó một cọng mây dùng làm cây bút viết ra chữ bóng trên mặt bàn.
Đó là Đại Ngọc Cơ dùng để viết ra chữ bóng.
Theo bí pháp, Đại Ngọc Cơ cấu tạo theo hình chùm
sao hình bánh lái trong đó có ngôi sao Bắc Đẩu nên rất linh diệu.
(Đó là 2 loại Đại Ngọc Cơ dùng trong Đạo Cao Đài để
cầu Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Tiên Phật cao trọng tại Cung Đạo Tòa
Thánh.
Ngoài ra quí Chức sắc Hiệp Thiên Đài còn chế ra
loại Tiểu Ngọc Cơ, không viết ra chữ bóng mà đầu cần cơ chỉ những vần mẫu tự
cần dùng để sau đó ghép lại thành chữ, rồi thành câu và thành bài văn hay bài
thi.
Trước cái cần cơ, đặt bảng mẫu tự gồm đủ các mẫu tự
theo vần Việt Nam, vẽ trên một cung tròn, hay đôi khi vẽ trên những ô vuông như
bàn cờ tướng.
Khi xưa, người ta còn dùng loại Tiểu Ngọc Cơ làm
bằng miếng ván mỏng có hình quả tim giống như cái nút cơ, dưới tấm ván nầy,
người ta khoét 3 lỗ nhỏ và gắn vào đó 3 hột đạn, để Ngọc Cơ di chuyển nhẹ nhàng
trên mặt tấm kiếng phẳng, mà dưới tấm kiếng đặt bảng mẫu tự A Ă Â B C D Đ,....
có ghi sẵn các chữ: CÓ – ĐÚNG – SAI – KHÔNG - PHẢI, THĂNG, các số từ 1đến 9, và
các dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Tiểu Ngọc Cơ dùng để cầu các Đấng thiêng
liêng bình thường để học hỏi giáo lý.
Phân biệt Đại Ngọc Cơ và Tiểu Ngọc Cơ:
- Đại Ngọc Cơ có kích thước lớn hơn nhiều so với
Tiểu Ngọc Cơ, đầu cần cơ có chạm hình đầu chim loan hay đầu rồng, Đại Ngọc Cơ
viết ra chữ bóng nên không dùng bảng mẫu tự.
- Tiểu Ngọc Cơ có kích thước nhỏ hơn nhiều so với
Đại Ngọc Cơ, đầu cần cơ không có chạm hình gì hết, có tạo ra một mũi nhọn để cơ
chỉ lên bảng mẫu tự. Tiểu Ngọc Cơ không viết ra chữ bóng, mà chỉ vào các mẫu tự
để ráp lại thành chữ và thành câu.
CÁC HÌNH VẼ MINH HOẠ TIỂU
NGỌC CƠ
1 . Tiểu Ngọc Cơ có hình giống Đại Ngọc Cơ.
(nhưng nhỏ hơn và không
chạm đầu chim loan)
2 . Hình Tiểu Ngọc Cơ có hình chữ T hoặc hình cái giỏ.
3 . Bảng mẫu tự theo hình cung.
4. Tiểu Ngọc Cơ có hình
quả tim (nút cơ)
5 . Bảng mẫu tự theo hình bàn cờ
2) Thất Nương hướng dẫn cầu bằng Ngọc Cơ - Hội Yến DTC lần đầu tiên.
Theo lịch sử của Đạo Cao Đài:
Đêm 5-8-Ất Sửu (dl 22-9-1925). Thất Nương tiết lộ về Diêu Trì Cung và hướng dẫn
quí Ngài Cư, Tắc, Sang cách cầu các Đấng bằng Ngọc Cơ.
Thất Nương cho biết về Diêu Trì Cung:
“Trên có Cửu Thiên Nương Nương cai quản, dưới có
chín Tiên Nương mà Cô là Thất Nương, Hớn Liên Bạch là Bát Nương.”
Ba ông (Cư, Tắc, Sang) nhờ Thất Nương dạy cho cách
cầu Đức Bà Cửu Thiên Nương Nương. Thất Nương nói:
- Ba anh muốn cầu thì phải ăn chay trước ba ngày và
cầu vào đêm Trung Thu, phải có Ngọc Cơ cầu mới đặng.
Quí ông không hiểu Ngọc Cơ là chi, nhờ Cô chỉ dạy.
Thất Nương tả hình dáng Ngọc Cơ, dẫn giải rõ căn
cội, lấy hình chùm sao Bắc Đẩu tạo thành, dạy cách phò Ngọc Cơ, rồi biểu 3 ông
mỗi người làm sẵn một bài thi mừng Đấng Cửu Thiên Nương Nương, sẽ cầu Nương
Nương vào đêm Trung Thu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét