Báo O Astro ngày
1-5-1939 cho rằng vào năm 1926, ở Nhựt bổn
còn 71.281 ngôi chùa Phật được quản trị bởi 54.495 nhà sư; năm 1928 có 41.148.000
tín đồ Phật giáo trên tổng
số 58.621.000 cư
dân. Nơi đó, Thiên Chúa giáo thì thế nào trong quần đảo Nhựt bổn ? Theo báo La Luz del Porvenir, có mượn các chi
tiết trong tờ báo cáo về Đại hội Thần linh học
Oomoto Internacia (bằng thế giới ngữ), hôm nay bị giải tán, chúng ta tin
tưởng,
và những vị lãnh đạo của họ bị truy nã và bị giam cầm, 60 năm truyền đạo
bởi những nhà truyền giáo chỉ độ được 250.000 người Nhựt theo đạo, con số cố
định mặc dầu có sự gia tăng vĩ đại về dân số trong những năm vừa qua. Cũng
trong thời gian nầy, nhiều giáo phái mới và tôn giáo mới đặt căn bản trên Phật
giáo và Thần giáo thâu hút hàng ngàn tín đồ mới : như đạo Oomoto chẳng hạn, có
số tín đồ nhiều hơn Thiên Chúa giáo.
KINH CẦU NGUYỆN
nơi các tín đồ Đạo Cao Đài
Tòa Thánh Tây Ninh đã gom
góp nhiều bài trong tạp chí Revue
Caodaiste để làm thành sách và xuất bản
năm 1936 dưới tựa đề : Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân (Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ) với những dòng giới thiệu :
“ Những trang sách mà độc
giả sắp đọc được trích trong tạp chí Revue Caodaiste xuất bản tại Sài Gòn.
Chúng tôi đã cẩn thận gom
góp lại, sắp đặt thứ tự và chỉnh đốn, làm thành một quyển sách nhỏ để giới
thiệu với độc giả một bài tường thuật sơ lược về mục đích và về giáo lý của Đạo
Cao Đài hay Phật giáo canh tân.
Có thể tập sách nhỏ nhoi
nầy sẽ giúp cho các nhà sưu tầm chơn lý
tự tạo một ý tưởng chính xác về lý tưởng Cao Đài trong những nét chính
yếu.”
HỘI THÁNH CAO ĐÀI
Có lẽ người ta đã ghi nhận
rằng, kinh cầu nguyện là phần quan trọng nhứt trong sự thờ cúng của tín đồ Cao
Đài. Thì đây, các Chức sắc của Đạo Cao Đài xác định điều đó :
“ Người ta trách cứ
chúng tôi là hấp thụ một cách vô ích trong các bài kinh cầu nguyện dài,
viện lý do là thời gian dùng cho nhiệm vụ đó phải được sử dụng tốt hơn.
Chúng tôi vui lòng nhìn
nhận lý lẽ vững vàng của sự trách cứ ấy nếu những bài kinh cầu nguyện mà chúng
tôi tụng chỉ là một bài đọc thuộc lòng đơn điệu buồn tẻ, có những tiếng khó
hiểu, không biểu lộ một tâm tư nào cả.
Nhưng nếu thực hành với
trí thông minh và lòng nhiệt thành, có khí lực đầy thắm thía, lời cầu nguyện,
động tác của đức tin, không chỉ là động tác tôn sùng mà còn nâng cao tâm hồn
của chúng ta, một sự nhảy vọt của tâm hồn chúng ta đến Thượng Đế.
Trong tình trạng hiện nay
của sự tiến hóa tôn giáo, khối tín đồ Cao Đài cần tạo một ý chí giúp họ chống
lại sự cám dỗ của vật chất trong tất cả mọi cảnh ngộ và tự bao bọc quanh mình
một ngoại cảnh trong sạch, xa cách những tư
tưởng xấu và những ảnh hưởng thấp trược của không gian.
Cái ý chí đó, để được hiệu
quả, phải được đức tin nâng đỡ. Nay việc tụng kinh lập lại nhiều lần củng cố
được đức tin quí báu, đồng thời nó giúp cho thu hút, bởi sự trong sạch của tâm
hồn, năng lực bảo hộ từ thế giới vô hình.
Phần khác, không có gì say
mê hơn, tuyệt diệu hơn là trở về nội tâm của chính mình ta, mỗi ngày dành ra
vài giờ thành tâm cầu nguyện, quên hết các công việc của thế gian để nâng cao
tư tưởng của ta hướng tới Thượng Đế, lúc
đó chỉ có ta và Ngài mà thôi.
Đó là mục đích của việc
tụng kinh cầu nguyện mà người tín đồ bình thường phải thực hành hằng ngày. Mai
sau, khi được tiến hóa lên một đẳng cấp cao hơn, họ biết đem sự tụng kinh cầu
nguyện trở về hình thức trầm tư hướng nội : sự thiền định.
Về phương diện cầu nguyện,
chúng ta tụng kinh để cầu nguyện cho những người bịnh hoạn đau khổ, chúng ta
cầu xin Đấng Thượng Đế, không phải để cho họ hưởng thụ của cải vật chất lợi ích
cá nhân, mà cho họ được mau chóng hồi phục sức khỏe hay được ân huệ nâng đỡ
tinh thần, giúp họ chịu đựng không yếu hèn một thử thách hay một quả báo.
Chúng ta cũng cầu nguyện
cho những linh hồn đau khổ bất hạnh, cầu xin các Đấng thiêng liêng từ bi tha
thứ cho họ.
Làm được như thế, việc
tụng kinh cầu nguyện tạo nên một trong những việc làm cần thiết cho sự cứu độ
linh hồn.
Những người nào có vài
kinh nghiệm tôn giáo, nói về vấn đề tôn giáo, không từ bên ngoài, (giống như là
một việc hiếu kỳ có giá trị với người khác : nói một cách tổng quát, đó là quan
điểm của các ký giả ở Ba-lê), nhưng mà từ
bên trong, công nhận một sự khôn ngoan lớn nơi các dòng chữ đơn giản nầy.
Chủ nghĩa tượng trưng của Đạo Cao Đài
Trong cùng quyển sách nói
trên, chúng tôi trích ra các đoạn (trang 21) :
“ Từ lương tâm, con người
giữ được những bổn phận đối với Đấng Thượng Đế đã tạo ra con người, những tình
cảm sùng bái được sanh ra. Toàn thể các hành vi cử chỉ mà chúng ta bày tỏ với
Đấng Thượng Đế những tình cảm tôn sùng, hợp thành việc thờ cúng. Sự thờ cúng
trong Đạo Cao Đài cũng giống như vậy.
Những tín đồ Cao Đài, mỗi
ngày tự thực hành việc cúng kiếng trong các Thánh Thất cũng như tại các tư gia,
vào bốn thời (Tứ thời) : lúc 6 giờ, lúc giữa trưa, lúc 18 giờ, kế đó là lúc nửa đêm.
Quì lạy trước Thiên bàn
trong sự phấn khởi của tâm hồn chúng ta hướng lên Thượng Đế, chúng ta bắt
đầu tụng kinh dâng hương (Niệm Hương),
kế đến là bài Khai Kinh.
Tụng xong hai bài kinh
nầy, chúng ta đồng thanh tụng bài kinh Xưng Tụng Ngọc Hoàng Thượng Đế, kế đó là
ba bài Xưng Tụng ba vị Giáo chủ Tam giáo.
Như vậy, nghi thức cúng
thường ngày rất đơn giản.
Còn như việc cúng kiếng
trong các Thánh Thất vào các ngày đại lễ thì nghi thức long trọng hơn nhiều.
Các Chức sắc nam, trong bộ
lễ phục mà màu sắc được qui định bởi cái phái của mình, quì cúng theo hàng
ngang trên chiếc chiếu trải ra trước Thiên bàn, quay mặt lên Thiên bàn.
Ở phía bên phải của họ và
trước bàn thờ Đức Quan Thánh Đế Quân, những nam tín đồ quì trên một chiếc chiếu
khác, tất cả đều mặc y phục toàn trắng với khăn đóng đen truyền thống trên đầu.
Ở phía bên trái và quay mặt lên bàn thờ Đức Quan Âm Bồ
Tát, các nữ tín đồ quì xuống y như các đồng đạo của họ bên phía mặt, họ cũng
mặc toàn trắng. Còn phần các Chức sắc, họ phân biệt với các tín đồ thường bởi y phục kiểu đặc biệt của họ.
Các bài kinh cầu nguyện
đều y như nhau, nhưng ở đây các bài kinh được hòa nhạc và được tụng theo sự
điều khiển của những câu xướng do các lễ
sĩ.
Sự thờ cúng của Đạo Cao
Đài, ngoài các cử chỉ tôn sùng, bao hàm chủ nghĩa tượng trưng mà theo cách chỉ
dẫn đơn giản, chúng tôi chỉ giải thích sơ lược cho quí độc giả :
Sự sắp đặt trên Thiên bàn,
như ông G. Coulet mô tả, chỉ là biểu tượng của sự dung hợp thống nhứt của Ngũ
Chi Đại Đạo. Những vật thờ cúng và những phẩm vật hiến lễ, vv. . . . mang những dấu ấn bí mật, một ý nghĩa tượng
trưng.
Vật thờ cúng: Chính giữa
bàn thờ là một cái đèn bằng thủy tinh hình cầu, được đốt cháy luôn luôn, là đèn
Thái cực (Thái cực đăng), tượng trưng ngôi Thái cực của vũ trụ.
Nơi nguồn gốc của các thời
đại, vũ trụ được tạo ra bởi Thái cực, đó là Đại hồn vũ trụ, là hình thức không
biểu lộ của Thượng Đế.
Bởi sự biểu lộ của Thái
cực, liên tiếp hiện ra hai hình trạng : Âm và Dương (Lưỡng nghi) được tượng
trưng trên bàn thờ bằng hai ngọn lửa cháy (Lưỡng nghi quang).
Phẩm vật hiến lễ: Những
phẩm vật hiến lễ là : Hoa, Rượu và Trà, tượng trưng theo thứ tự ba phần tử cấu
tạo con người : Tinh, Khí và Thần.
TINH: Ấy là danh từ chỉ
cái tinh túy của vật chất, cái tinh ba của vũ trụ, không có nó thì không có sự
sống nào thể hiện ra được. Đó là năng lực giới tính của con người và thú vật,
đó là năng lực nẩy mầm của thảo mộc. Bởi sự bốc hơi, Tinh ở trong thân thể con
người tạo ra phần thô sơ của chơn thần. Nó thuộc xác thân thiêng liêng, còn
thịt da là của xác thân vật chất.
KHÍ : Dịch nghĩa theo từ
ngữ là : hơi thở, nơi con người nó là sức khỏe, sức mạnh, sinh lực. Trong chơn
thần, nó là tác nhân liên kết giữa linh hồn và xác thân vật chất mà chính nó làm sống xác thân vật chất.
THẦN : Nguyên lý trí tuệ,
nơi con người thì chia làm hai : - Thần bực trên, gọi là Dương thần hay Hồn, là
tinh thần thiêng liêng của con người. - Thần bực thấp, gọi là Âm thần hay
Phách, là phần tinh vi nhứt của chơn thần.
Sự chuyển đổi năng lực
giới tính thành năng lực sống (Luyện Tinh hoá Khí); chuyển đổi năng lực sống
thành năng lực tinh thần (Luyện Khí hóa Thần); chuyển đổi năng lực tinh thần
thành sức mạnh tâm linh (Luyện Thần hoàn Hư).
Như thế đó là tiến trình
tinh luyện thần bí Tam thể xác thân của con người.
Về phần các cây nhang mà
chúng ta đốt lên trong mỗi thời cúng, con số nhứt định là 5. Con số ấy tượng
trưng 5 trình độ thọ pháp luyện đạo :
1. Giới hương : sự trong sạch.
2. Định hương : thiền định.
3. Huệ hương : trí huệ.
4. Tri kiến hương : hiểu biết hoàn toàn.
5. Giải thoát hương : sự sạch nghiệp
(giải thoát khỏi luân hồi)
Để được thâu nhận vào
ngưỡng cửa thọ pháp, điều kiện đầu tiên đối với người tín đồ là phải trong sạch
dưới tất cả hình thức : trong sạch về thể xác, về hành động, về ngôn ngữ và trong sạch về tư tưởng.
Một lần vượt qua được
ngưỡng cửa thọ pháp, người tín đồ cần chuyên chú vào việc thiền định. Nhờ sự tu
luyện tâm linh nầy, tư tưởng và cảm giác
của người tín đồ tự tách riêng ra khỏi thế giới cảm giác, người tín đồ nâng cao
linh hồn hướng đến ngôi nhà của mình ở cõi trên với sự tương xứng sâu sắc. Trong
sự đối diện với trầm tư mặc tưởng nội tâm nầy mang đến sự trừu tượng hoàn toàn
hơn và nơi đó, tâm hồn con người tự đồng hóa với Đại hồn vũ trụ. Những chơn lý
được chói sáng dần dần trong trí não của người tín đồ, không một cái gì nơi thế
gian có thể lừa gạt được anh ta bởi cái vẻ huyễn hoặc bên ngoài.
Ở một trình độ tiến hóa
cao hơn, người tín đồ cảm thấy nơi người anh ta đầy thức tỉnh của sự hiểu biết
siêu việt làm cho anh ta cảm biết tất cả các chơn lý vĩnh cửu và không cần cố
gắng, cũng ôm chầm được toàn thể quá khứ và tương lai. Trong trạng thái trí huệ
cao tột đó, anh ta có thể chiêm ngưỡng ánh sáng thiêng liêng, không bị chói
mắt, thứ ánh sáng để thanh lọc, sáng láng và gia phúc. Nay trước mặt anh ta mở
ra con đường giải thoát : sự dứt sạch các nghiệp báo (giải thoát khỏi luân
hồi).
Chủ nghĩa biểu tượng nầy
vừa đơn giản vừa mạnh mẽ, gây ra một bài học lớn về xây dựng và phổ thông tình
huynh đệ của nhơn loại :
Vì của cải mà loài người
bị đau đớn và khổ não, cần phải làm cho tất cả mọi người quên đi lợi ích cá
nhân để chỉ nghĩ tới lợi ích của đoàn thể, cần phải dung thứ cho nhau trong tất
cả những biểu hiện của tư tưởng và của
đức tin, sau cùng cần phải chứng tỏ cho những người nầy người khác sự khoan
dung rộng rãi hơn.
Người ta có thể biện bác rằng,
tình trạng hiện tại của tâm lý nhơn loại đang hướng về sự ích kỷ hơn là vị tha;
nói về tình huynh đệ đại đồng thì như là mơ tưởng hão huyền. Sự biện bác đó
được thừa nhận một cách đau khổ và tồn tại như thế khi nào con người tự nhận thức mình là thể xác hơn là tinh thần; bởi vì Bà Annie Besant đã
nói : “ Vật chất lớn lên nhờ thu hút chung quanh nó, nhờ luôn luôn chiếm đoạt
những cái gì ở bên ngoài nó và sáp nhập vào những cái mà nó đã có. Những vật
thể vật chất trong sử dụng thì hao mòn và cuối cùng tiêu mất hết, và vì số
lượng của chúng được giới hạn, mà những người
muốn sở hữu chúng thì nhiều, nên sự tranh đoạt nổi lên giữa họ. Thật
vậy, lợi lộc và sự sở hữu là điều kiện của thành công vật chất.
Nhưng khi con người bắt
đầu tự nhận thức tinh thần hơn thể xác,
nó hiểu rằng, chia sớt và bố thí là những điều kiện của sự tăng trưởng và hùng
mạnh. Thật vậy, những tài sản tinh thần tăng trưởng khi sử dụng, nó không bao
giờ tiêu mất; khi nó được ban phát, nó sinh sản thêm; khi nó được chia sớt, sự
sở hữu, sự đồng hóa chỉ làm cho nó hoàn toàn hơn.
Tình huynh đệ phải có gốc
rễ trong tinh thần và tràn lan ra ngoài, xuyên qua các lãnh vực trí tuệ và cảm
xúc, để sau cùng tự khẳng định trong thế giới vật chất. Tình huynh đệ không bao
giờ có thể được thiết lập bởi những luật lệ bắt buộc từ bên ngoài, nó phải
chiến thắng bằng tinh thần tuôn ra từ nội tâm.”
Một ngày kia, vua Cung
Vương của một nước chư hầu là nước Sở, làm mất một cây cung săn bắn. Các quan
hầu cận sửa soạn đi tìm cây cung thì Cung Vương ngăn lại nói rằng : “Tìm nó làm
gì ! Hãy biết rằng chúng ta không mất gì cả, khi cây cung bị thất lạc bởi một
người dân nước Sở thì sẽ được tìm thấy bởi một người dân khác của nước Sở.”
Đức Khổng Tử nghe thuật
lại các lời nói nầy, Ngài bình luận : “ Tiếc thay những tình cảm huynh đệ của
Cung Vương bị giới hạn ! Sao nhà vua không nói : Một người làm mất cung, một
người khác sẽ tìm thấy cung.”
Phát biểu như thế, quan
niệm về tình huynh đệ đại đồng của đại triết gia Trung hoa hiện ra tốt đẹp hơn,
cảm kích hơn trong sự vắn tắt mạnh mẽ.
Trên mảnh đất chói lọi
tình huynh đệ nhơn loại, những tín đồ của Đấng Christ và con cháu của Hiram, những tín đồ của Phật
Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử và những người hâm mộ Thông Thiên học, Thần linh
học, Huyền học, gặp nhau hợp nhứt trong ý chí chung là xây dựng Đền Thờ của
Nhân loại. Tất cả hãy giúp đỡ, hơn chính chúng nó nữa, vào sự hợp nhứt tình
huynh đệ nầy, vào sự hợp tác xây dựng nầy, để rồi chúng ta không hổ thẹn lâu
dài về những tội lỗi và những việc làm tàn
ác, cho đến bây giờ chúng ta đã làm đổ máu biết bao nhiêu thế kỷ của
lịch sử ! Đã đến lúc chuộc lại bao nhiêu
sự tàn bạo trước đây !
Chúng ta hãy cầu nguyện !
. . . Chúng ta hãy thiền định ! . . . Chúng ta hãy trở nên những giáo đường
sống ! . . .
Để đạt đến đỉnh cao, sau
nhiều thử thách, tín đồ Cao Đài tùy ý xin vào tu luyện nơi Tịnh Thất.
Tịnh Thất là nơi mà người
tín đồ được thâu nhận để được thọ truyền bửu pháp.
Tất cả tín đồ xin vào Tịnh
Thất được thâu nhận phải tuân theo những
qui tắc sau đây :
Điều thứ 1 : Phải làm tròn
Nhơn đạo và ăn chay trường trên 6 tháng.
Điều 2 : Phải được giới
thiệu bởi một tín đồ có đức hạnh hơn mình.
Điều 3 : Tất cả liên lạc
thơ từ với bên ngoài bị cấm hẳn, trừ ra với cha mẹ với điều kiện được Tịnh chủ
đọc trước.
Điều 4 : Phải từ chối sự tới
lui Tịnh Thất đối với tất cả những người ngoài tôn giáo, dầu là quan chức hay
thân tộc của tín đồ.
Điều 5 : Cấm không được
chuyện vãn với người ngoài, tuy nhiên có thể tiếp rước sự viếng thăm của cha mẹ
hay con cái sau khi nhận được sự cho phép của Tịnh chủ.
Điều 6 : Phải nhịn ăn
trầu, hút thuốc và nhịn ăn các thứ chi ngoài các bữa ăn dọn ra trong Tịnh Thất.
Điều 7 : Phải giữ tinh
thần an tịnh, lương tâm yên lặng. Phải sống thuận hòa với các bạn trong Tịnh
Thất và tránh nói chuyện lớn tiếng, phải
giúp đỡ họ trong việc tu luyện.
Điều 8 : Phải vâng theo
tất cả mạng lịnh của Tịnh chủ và thực hành các bài tập luyện tinh thần theo
những qui tắc giờ khắc ấn định bởi Tịnh chủ.
Có bao nhiều người Tây
phương say mê cầu nguyện ?
Tôi muốn nói
sự cầu nguyện tự nhiên và tự do.
Có bao nhiều người Tây
phương say mê thiền định ?
Vâng, phải lập lại điều
nầy : về vấn đề tâm linh, chúng ta, những người Tây phương là những người dốt.
. . . Cả đến Đấng Tạo Hóa
chỉ là ảo tưởng, một chim mồi giả, một danh từ, sự cầu nguyện sẽ vô ích, sự
thiền định sẽ vô ích. Trong cái dốt nát thô tục của chúng ta, trong sự chống
đối tôn giáo điên cuồng của chúng ta, chúng ta loại trừ cái nầy cái kia khỏi sự
thực hành thường ngày của chúng ta, khỏi những bài tập luyện tinh thần của mỗi ngày ! Nhưng đây nầy, có lẽ một khoa
học mới : Sinh vật học vũ trụ (với thi hào Théo Varlet), đem chúng ta đến đó,
một cách hoàn toàn êm ái mà không có lót nỉ, để chúng ta không kinh hoảng.
Những nhà trí thức lớn là hạng người ưa làm nũng, không hề thích nhận mình là
kẻ lầm lẫn . . .
Những lời khuyên
gởi đến một tín đồ Cao Đài Âu châu
Phật giáo canh tân, đó là sự
khoan dung rộng rãi, là điểm nối của tất cả các con đường, cho đến bây giờ,
được theo đuổi bởi các dân tộc muốn tiến
đến Thần linh. Người ta sẽ la lên rằng chúng tôi tự cao tự đại. Phải chăng
chúng ta không đau khổ noi gương Đấng Cứu Thế để làm chút ít việc thiện chung
quanh chúng ta ?
ĂN CHAY : Quí vị có thể bắt đầu giữ 10 ngày chay hằng
tháng. Nếu chúng ta từ bỏ ăn mặn, đó là vì chúng ta muốn tránh đau khổ cho các con vật kém tiến
hóa hơn chúng ta, chúng nó cũng biết đau đớn như chúng ta. Nói theo y học, con
người, bởi sự cấu tạo, không phải để nuôi sống bằng thịt, mà cơ quan tiêu hóa
của con người chịu đựng không nổi. Hơn nữa, các động vật bị bịnh như chúng ta,
khó mà nhận biết được và người ta có thể ăn phải các phần bịnh hoạn đó. Những
bịnh hoạn của con người, nhập thêm bịnh của con vật, sẽ tạo ra những bịnh khác
nữa, mà y học còn bất lực để khám phá bản chất và còn bất lực trong việc chữa
trị.
Ăn chay, một cách tổng
quát, đem đến cho con người sự hiền dịu mà con người thì phải luôn luôn mạnh
khỏe thể xác và tinh thần.
Đó chỉ là vấn đề thói
quen; chúng ta cũng chỉ đòi hỏi 6 ngày chay trong tháng đối với những tân tín
đồ.
BÀN THỜ : Vâng, chúng ta phải có một bàn thờ. Tất cả những
gì mà quí vị nói trong lá thư chỉ là sự thật chính xác. Phải luôn luôn để cho ý
tưởng cảm thông với Thần linh và cái bàn thờ là nơi để nhắc nhở chúng ta. Việc
tụng kinh tập thể vào giờ nhứt định, một cách thật sự, đặt tinh thần của mỗi
người chúng ta vào trong một cộng đồng tư
tưởng và cho một phản chiếu nơi cõi thiêng liêng mà THẦY của chúng ta
điều khiển. Đấng Christ há không nói rằng, nếu chúng ta đặt hai người để cầu
xin ơn huệ trong sự tụng kinh cầu nguyện thì nguyện vọng của chúng ta sẽ được
chuẩn nhận. Nay chúng ta có thể tự đặt tinh thần dưới chân của Đại Từ Phụ.
Người Âu châu, hơn là
người Á châu, phải luôn luôn có một bàn thờ trong nhà. Thật vậy, người Âu châu
làm việc nhiều hơn người Á châu, vì đời sống làm cho họ khó khăn hơn và anh ta
phải tranh đấu từ sáng đến chiều vì lương thực hằng ngày. Và bàn thờ là nơi để
nhắc nhở anh ta bổn phận đối với Đấng Tạo Hóa khi anh ta trở về nhà.
Cần phải tránh những nghi
lễ rườm rà, làm cho có cảm tưởng là chủ nghĩa lừa bịp hay tà giáo, nhưng cũng
không nên bãi bỏ tất cả. Những nhà trí thức, nhà bác học, thường mang những cực
đoan : họ là hoặc vô thần hoặc sùng đạo đôi khi đến chỗ không khoan dung, chưa
nói là cuồng tín.
Chúng ta hãy ở trong sự
Trung Dung như Đức Khổng Tử đã khuyên
dạy chúng ta điều đó.
Trường hợp có người chết,
các huynh đệ Cao Đài chúng ta phải tập hợp lại càng nhiều càng tốt, để tụng
kinh cầu nguyện chung. Những sự cầu nguyện nầy có mục đích giúp linh hồn người
chết thoát ra thể xác dễ dàng bởi sức mạnh của tư tưởng tập trung, để chúng ta đưa linh
hồn người chết lên những từng trời mà
những cố gắng riêng của người chết không thể lên đến đó được.
Đối với quí vị, hãy mơ ước
sống khá lâu để truyền bá đức tin mới nầy, để tôn vinh THẦY thiêng liêng của
chúng ta.
Đối với chúng tôi, chúng
tôi biết rằng, cái chết ở thế giới nầy chỉ là sự phục sinh trong cõi vô hình,
sự chết không làm chúng ta sợ hãi, trái lại, nó là sự giải thoát. Tuy nhiên,
trong lúc người ta có thể còn làm được một ít việc thiện vật chất và tinh thần
chung quanh mình, người ta cần phải sống khá lâu để hoàn thành sứ mạng của
chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể tiến
hóa và đến gần các Đấng thiêng liêng bởi sự hoàn hảo đạo đức của linh hồn , bởi
những hành động từ thiện và bác ái. Đó là những phương pháp duy nhứt giúp chúng
ta đi vào trong cõi riêng biệt của Thượng Đế.
CHỨC SẮC : Sự cai
trị càn khôn vũ trụ của Đấng Thượng Đế gồm có hai ngành khác nhau : một ngành
cai trị linh hồn và vật thể, ngành kia là đào tạo và giáo dục.
Đa số các Đấng sáng lập
tôn giáo chỉ thuộc ngành thứ nhì : ngành của các huấn luyện viên. Các Đấng ấy
là những nhà lập pháp vĩ đại của Thượng Đế nơi thế gian. Vì Đấng Thượng Đế
không muốn trên thế gian nầy, một người
một mình nắm tất cả quyền hành thiêng liêng, nên Ngài chia quyền hành ấy ra làm
hai và giao phó cho hai Chức sắc cao cấp nhứt : Giáo Tông và Hộ Pháp.
1. - Giáo
Tông : cầm quyền chưởng quản Cửu Trùng Đài.
Cửu là 9, Trùng là từng trời, Đài là lầu đài (Chín bực của hệ thống đẳng
cấp thiêng liêng, tượng trưng 9 từng trời).
2. - Hộ Pháp: đảm nhận Tư pháp
của đạo, trông nom việc áp dụng luật pháp, và là chưởng quản Hiệp Thiên Đài
(nơi liên lạc giữa Thượng Đế và Nhơn loại). Hiệp là hợp lại, Thiên là trời.
Trời hiệp với Người hay là Người hiệp với Trời.
- Đức Giáo Tông được giúp
đỡ bởi những Chức sắc liệt kê trong sách “ Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân”,
trang 35 và tiếp theo ở chương : Đạo luật.
Những Chức sắc của phái
Nho (hay phái Ngọc) mặc áo tràng màu đỏ,
ý nghĩa là quyền hành.
Những Chức sắc phái Phật
(hay phái Thái) mặc áo tràng màu vàng nghệ (tượng trưng đạo đức).
Những Chức sắc phái Tiên
(hay phái Thượng) mặc áo tràng màu xanh da trời, tượng trưng sự khoan dung hay
chủ nghĩa hòa bình.
Chỉ có Đức Giáo Tông và
Chưởng Pháp phái Thượng mặc đạo phục màu trắng.
Những Chức sắc nữ cũng mặc đạo phục trắng.
Những Chức sắc đồng phẩm,
dầu thuộc phái Ngọc hay phái Thượng, phái Thái đều có quyền hành như nhau, điều
nầy được qui định trong Đạo Luật kể trên, họ chỉ phân biệt nhau bởi màu sắc của
đạo phục.
Khi một trong những Chức
sắc nầy ở duy nhứt trong một Thánh Thất thì ông là người chỉ huy, có phận sự
trông nom tất cả và thông thạo tất cả.
Khi có nhiều Chức sắc
trong cùng một Thánh Thất, người đứng đầu của Thánh Thất có thể giao phó cho
các Chức sắc khác những công việc tùy theo sự căn cứ trên năng lực hay kiến
thức của họ, hoặc trên phái của họ.
Chức sắc phái Ngọc có thể
đảm nhận về nhân viên, nghi lễ, trật tự.
Chức sắc phái Thượng lo
việc tổ chức nội bộ, công việc văn phòng, đào tạo và giáo dục tín đồ, các
hội từ
thiện.
Chức sắc phái Thái lo về
tài chánh, công việc kiến trúc và những dịch vụ khác.
- Đức Hộ Pháp được phụ tá
bởi những cộng sự viên sau đây :
Thượng Phẩm hướng dẫn các
chơn linh đến Niết Bàn.
Thượng Sanh trông nom nhơn sanh và đưa nhơn sanh về con đường
Đạo (con đường Chơn lý).
Mỗi vị trong ba Đại Chức
sắc nầy có 4 cộng sự viên trực tiếp của các Chi sau đây (giải thích một chút
vắn tắt) :
* Chi Pháp (Bí pháp) có Đức Hộ Pháp chưởng quản, điều khiển :
. Bảo Pháp, người bảo hộ
các luật pháp đã thiết lập (bên cạnh Bí pháp).
. Hiến Pháp, người tìm
kiếm cái Thiện và Mỹ cho sự hoàn hảo của những gì hiện hữu.
. Khai Pháp, người truyền
bá.
. Tiếp Pháp, giúp đỡ việc
áp dụng luật pháp và tiếp nhận tất cả khiếu nại và khuyên nhủ.
* Chi Đạo (Đạo pháp) có Thượng Phẩm chưởng quản, trông nom : Bảo Đạo, Hiến Đạo, Khai Đạo, Tiếp Đạo (cùng
một quyền hành như trên nhưng chỉ trong Chi của mình).
* Chi Thế (Thế pháp) có Thượng Sanh chưởng quản, trông nom : Bảo Thế,
Hiến Thế, Khai Thế, Tiếp Thế (cùng một quyền hành như trên nhưng chỉ trong Chi
của mình).
15 vị Chức sắc nầy tạo
thành một Hội đồng có quyền về tư pháp và kiểm soát.
Các vị nầy thông công với
Đấng Thượng Đế và các Đấng thiêng liêng bởi năng lực đồng tử của họ.
Các vị nầy được trợ giúp
bởi một cơ quan có 12 vị Hàn lâm (Thập nhị Bảo Quân) mà chỉ có vài vị được bổ
nhiệm.
Để tiến lên các phẩm vị
nầy, phải bắt đầu từ các phẩm vị : Sĩ Tải, Truyền Trạng, Thừa Sử, Giám Đạo, Cải
Trạng, Chưởng Ấn và Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
Khi vị Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
cải hóa được một quốc gia, ông có thể tùy theo chỗ khuyết mà tiến lên lần lượt
đến một trong các phẩm vị : Tiếp, kế đó Khai, sau đó Hiến, tiếp theo Bảo, và
đến một trong ba phẩm Chức sắc cao cấp nhứt đã liệt kê bên trên. Cũng tùy theo sự thủ đắc trên, ông sẽ được
vào một trong ba Chi : Pháp, Đạo, Thế.
Những Chức sắc cao cấp của
Hiệp Thiên Đài được giao phó việc đào tạo và giáo dục nhơn sanh, việc tư pháp
của Đạo và kiểm soát các hành vi của Chức sắc Cửu Trùng Đài, tuy nhiên, không
có quyền xen vào việc cai trị và hành chánh của Hội Thánh. Những vị nầy là
những nhà lập pháp. Những vị nầy cũng có sứ mạng truyền bá đức tin mới bằng tất
cả phương tiện : Báo chí, diễn thuyết, vv . . . và chăm lo sự hoàn thiện, sự
tiến bộ của văn chương, nghệ thuật và tất cả những gì có thể giúp nhơn loại
sống ít đau khổ hơn trong sự an lạc tinh thần.
Tôi (Phối Sư Thượng Vinh
Thanh, Trần Quang Vinh, lúc đó còn ở phẩm Giáo Hữu) ở trong phái Thượng, như đa
số các Chức sắc trong “Phái đoàn Truyền giáo Hải ngoại” (Hội Thánh Ngoại
Giáo) là những chơn linh của Bạch Vân
Động (Bạch Động nơi cõi thiêng liêng)
hiện nay tái kiếp để làm việc cho
sự thành công của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Hào quang của mỗi người
chúng tôi, tùy theo từng trời mà chúng tôi ở, có màu sắc riêng biệt : xanh,
vàng, đỏ hay màu trắng trong. Cái phái của mỗi người chúng tôi có thể được tiết
lộ bởi những Đấng thiêng liêng hướng đạo hay Đức Chí Tôn của chúng ta, từ đó
chúng tôi là hội viên của Hội Thánh, nghĩa là Chức sắc bắt đầu từ phẩm Lễ Sanh.
CÁC BÀI KINH : Về vấn đề các bài kinh,
chúng tôi có kinh bằng tiếng Việt Nam. Đó là những bài kinh cầu nguyện có từ
1200 năm mà các Lạt-ma của Hàng Sơn Tự tại Cô Tô Thành nước Trung hoa đã nhận được bằng phương pháp đồng tử. Hiện
nay chúng tôi không thế nào dịch được. Sau nầy, chúng tôi sẽ cầu xin sự giúp đỡ
của các Đấng thiêng liêng để có những bài kinh cho người Âu Châu. Rất có thể,
chơn linh Victor Hugo hay của Nữ Thánh Jeanne d’Arc sẽ đến vì mục đích nầy. Lúc
ấy, chúng tôi sẽ gởi đến cho quí vị. “
Vài lời khuyên nhủ nầy đủ
chứng tỏ - một lần nữa - rằng Đạo Cao Đài không chỉ chú ý vào khối tín đồ dốt
nát, nhu nhược, mê muội, mà còn chú ý đến những người trí thức tiến bộ và ở bực
cao, đến khuynh hướng thần bí mà họ có nhu cầu thỏa mãn mãnh liệt về tôn giáo.
Thiên bàn và lễ phẩm
THIÊN BÀN (bàn thờ
Đức Chí Tôn) : Bàn thờ giống như một cái nhà nhỏ (khánh thờ) đóng kín ba phía,
phía trước mở ra và có màn che. Vào giờ cúng, người ta kéo tấm màn để lộ ra cái dấu hiệu tôn giáo (Thiên Nhãn =
Lương tâm thiêng liêng), người ta đốt một đôi đèn sáp, năm cây nhang và gỗ trầm
(tượng trưng 5 yếu tố cấu tạo con người, ở trạng thái thanh lọc, sự Thánh hóa
hoàn toàn của con người).
Trong tư gia : Thiên bàn
có thể được đặt trên lò sưởi phòng khách, nơi đó sắp đặt các vật cúng, không
cần có khánh thờ như đã nói ở trên.
Thiên bàn cũng có thể đặt
trên một cái bàn, cao hơn những cái bàn bình thường khác, đặt dựa vào vách ngăn
trong phòng danh dự.
GIỜ CÚNG : Việc cúng kiếng thực hành 4 lần mỗi ngày :
- giữa 5 giờ và
7 giờ.
- giữa 11 giờ và 13 giờ.
- giữa 17 giờ và 19 giờ.
- giữa 23 giờ và 1 giờ.
LỄ PHẨM : Người ta dâng Trà vào buổi sáng và buổi chiều,
dâng Rượu vào giữa trưa và giữa đêm.
Đối với Trà, người ta dâng
Trà trong một cái tách mà người ta đặt bên cạnh một cái tách khác đựng nước
trắng tinh khiết; đối với Rượu, người ta rót rượu vào trong ba cái ly nhỏ.
Những cái tách và những cái ly phải được đậy lại ngoài các giờ cúng. Vào ngày mùng 1 hay ngày
15 mỗi tháng (âm lịch) và những ngày lễ, người ta dâng Hoa và Trái cây.
Chính giữa Thiên bàn người
ta đặt một cái đèn chong nhỏ, được đốt cháy cả đêm lẫn ngày, bởi vì ngọn lửa ấy
tượng trưng ngọn lửa thiêng liêng hay ánh sáng thiêng liêng soi sáng càn khôn
vũ trụ.
Vào giờ cúng, người ta đốt
hai cây đèn sáp và 5 cây nhang. Người ta chỉ đốt trầm vào các đại lễ.
Ý NGHĨA CỦA SỰ SẮP ĐẶT LỄ PHẨM :
Chúng tôi được dạy rằng :
Nơi Bạch Ngọc Kinh (Niết Bàn), cái ngai của Đức Chí Tôn ở hướng Bắc, như vậy
hướng Đông ở phía trái và hướng Tây ở phía mặt.
Thành ra lời dạy nầy,
trong bất cứ nơi nào có đặt Thiên bàn, thì Thiên Nhãn ở hướng Bắc, hướng Đông
hay Dương ở phía trái và hướng Tây hay Âm ở phía mặt.
Trong càn khôn vũ trụ có
hai nguyên lý : Âm và Dương, làm nguồn gốc cho tất cả sự tạo hóa.
1 . Hai cây đèn sáp tượng
trưng hai Nghi Dương và Âm, phối hợp để sinh sản, một cách tổng quát, ánh sáng
mặt trăng và mặt trời (Âm Dương) là hình ảnh của năng lực sinh sản.
Cây đèn sáp bên trái tượng
trưng ánh sáng mặt trời (Dương) phải được đốt trước tiên.
2 . Năm cây nhang tượng
trưng Ngũ giác quan của con người.
3 . Ba ly rượu tượng trưng : vật thiên thể hay sinh
lực của chúng ta. Rượu nho thật sự là tinh túy của dây nho, cũng như sinh lực
là tinh túy của con người. Dây nho và trái nho tượng trưng vật chất hay thể xác
của chúng ta. Nước cốt trái nho tượng trưng sinh lực hay chơn thần của chúng
ta.
Rượu là tinh thần của dây
nho và trái nho, nên tượng trưng chơn thần thiêng liêng của chúng ta.
4 . Tách nước trắng tinh khiết tượng trưng Dương, phải đặt nơi phía trái của
Thiên Nhãn và tách nước trà tượng trưng Âm, phải đặt nơi phía mặt. (Nước trà và
nước trắng ấy đổ chung lại tạo thành nước Thánh (nước âm dương). Nước Thánh ấy
có thể cho người bịnh uống và phải thành tâm cầu nguyện và được dùng trong phép
Tắm Thánh).
Hoa tượng trưng Dương,
phải được đặt nơi phía trái và trái cây là Âm được đặt phía mặt. Các hoa khô,
được giữ kỹ, nấu với nước sôi tạo thành thuốc nước, có thể trị được các bịnh
khi những người bịnh nầy thành thật tin tưởng huyền diệu của Đức Chí Tôn.
Ba yếu tố chánh (Tam Tài)
của vũ trụ là : Thiên (Trời), Địa (Đất), Nhơn (Người). - Trời được cấu tạo chủ
yếu là : Nhựt (mặt trời), Nguyệt (mặt trăng), Tinh (ngôi sao). - Đất được cấu
tạo chủ yếu là : Thủy (nước), Hỏa (lửa), Phong (gió). - Người được cấu tạo chủ
yếu là: Tinh (vật chất), Khí (sinh lực), Thần (linh hồn).
Những lễ phẩm tượng trưng
ba yếu tố chánh của sự cấu tạo chúng ta : Hoa tượng trưng vật chất, Rượu sinh lực, Trà
linh hồn.
Nghi lễ và kinh kệ
Trước khi đề cập Nghi lễ,
tôi phải giải nghĩa cho quí vị rõ : Lạy là gì ?
Nơi nước Việt Nam chúng
ta, Lạy là dấu hiệu bề ngoài của lòng kính trọng bên trong mà người ta chứng tỏ
đối với Đức Chí Tôn, các Đấng thiêng liêng, đối với vua chúa, người chết và đối
với cha mẹ. Như vậy, sự lạy không có gì là sỉ nhục như người ta đã nghĩ.
Để thực hiện việc lạy,
trước tiên người ta chấp hai tay (dấu hiệu của sự tín ngưỡng tuyệt đối) theo
cách sau đây :
Đặt ngón cái của bàn tay
trái trên chân của ngón áp út và nắm tay lại. Người ta bao bên ngoài bàn tay
trái đã nắm lại ấy bằng bàn tay mặt, đặt ngón cái của tay mặt lên trên chân
ngón trỏ của tay trái.
Giải thích vị trí của hai
bàn tay chấp lại : Trời được tạo ra vào năm Tý và Người được tạo ra vào năm
Dần, cho nên chúng ta đặt ngón cái của bàn tay trái vào chỗ của năm Tý và đặt
ngón cái của bàn tay mặt vào chỗ của năm Dần.
Trong vị thế đứng, người
ta đặt hai tay chấp lại ở giữa ngực. Trước khi quì xuống, người ta cúi mình xá
3 lần từ cao xuống thấp (hai tay luôn luôn chấp lại) với dấu hiệu hiến dâng tấm
lòng chơn thành của chúng ta lên Thượng Đế.
Để lạy, người ta quì
xuống, đưa chấp tay lên cao tới trán,
rồi hạ chấp tay xuống mặt sàn, mở hai bàn tay ra và hai ngón cái gác tréo nhau,
lạy xuống, cái đầu đụng trên hai bàn tay một số lần tùy theo cấp bực của Đấng
thiêng liêng mà người ta lạy.
Vào giờ ấn định cho việc
cúng tập thể, các tín đồ tập hợp trong một căn phòng dành thờ phượng. Họ đứng
thành hai hàng dài theo chiều dài của căn phòng, hai tay chấp lại và đặt lên
ngực; những Chức sắc thì mặc lễ phục và đội mão, những tín đồ nam đứng bên trái
và những tín đồ nữ đứng bên mặt, trước tiên hai bên đứng đối diện nhau. Ngay
khi đã sẵn sàng, họ đứng trong tư thế cung kính. Tất cả tín đồ nam nữ chào nhau
bằng cách cúi đầu và xá xuống một xá, hai bàn tay luôn luôn chấp lại. Kế đó, các
tín đồ nam nữ tiến tới để tạo thành những hàng ngang gồm ba hoặc bốn người hay
hơn nữa, tùy theo bề rộng của căn phòng, đứng sát nhau và chừa một khoảng trống
ở giữa để phân cách rõ rệt nam và nữ, kế
đó các tín đồ xoay người hướng lên bàn thờ, mắt nhìn lên Thiên Nhãn. Vị Giáo
Hữu (Chức sắc) và các tín đồ cúi mình xá sâu xuống 3 lần trước bàn thờ rồi quì
xuống, chân trái bước tới rồi quì chân mặt xuống trước, chân trái xuống sau.
Khi đó, người ta làm các
dấu sau đây : người ta đưa chấp tay lên đụng trán, niệm “ Nam mô Phật” (nhân danh Phật, đối chiếu
Thượng Đế), sau đó đưa chấp tay qua bên trái, cao ngang bằng lỗ tai, niệm “Nam
mô Pháp” (đối chiếu với Tạo hóa), rồi đưa qua bên mặt cũng cao ngang lỗ tai, niệm “Nam mô Tăng”
(đối chiếu với Nhơn loại).
Kế đó, đưa chấp tay đặt
trên ngực, niệm năm câu chú sau đây :
- Nam mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Nam mô Quan Thế Âm Bồ
Tát Ma Ha Tát.
- Nam mô Lý Thái Bạch Tiên
Trưởng.
- Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế
Quan Thánh Đế Quân.
(Đó là những Đấng đại diện Tam giáo : Khổng
giáo, Lão giáo và Phật giáo)
- Nam mô chư Phật, chư
Tiên, chư Thánh, chư Thần.
Cúi đầu sâu xuống sau mỗi
câu niệm.
Sau mỗi lần tụng kinh, lạy
3 lạy, nghĩa là cúi mình xuống 3 lần, mỗi lần lạy thì trán chạm xuống đất 4 lần
đối với Đức Chí Tôn, 3 lần đối với các Đấng thiêng liêng khác.
Trong bài kinh, người tín
đồ cầu khẩn Đức Chí Tôn cho được nâng cao trí khôn ngoan, được ban cho đủ sức
khỏe và can đảm để theo đuổi con đường Đạo do Đức Chí Tôn vạch ra và ban cho
nhơn loại một nền hòa bình nhiều hứa hẹn. Vị Chức sắc, ngoài những lời cầu
nguyện nầy, còn cầu khẩn Đức Chí Tôn che chở để truyền bá nền Thánh giáo, biết
chịu đựng khổ đau để cho nhơn loại có thể sống hòa bình và tạo lập một nền hòa
bình thế giới.
Các tín đồ phải làm theo
vị Chức sắc trong tất cả cử chỉ của vị nầy, với lòng sùng đạo.
Vào những ngày lễ, lúc
khởi đầu cuộc lễ, vị Chức sắc, người chủ lễ, cầm nơi tay 5 cây hương khi ông
lấy dấu và niệm các câu chú, sau đó ông trao lại cho một trong nhiều vị phụ lễ
(đứng bên cạnh bàn thờ). Vị phụ lễ cắm các cây hương nầy vào lư hương.
Vào lúc nầy, chúng tôi chỉ
có những bài kinh bằng quốc ngữ. Chúng tôi sẽ cầu khẩn Đức Chí Tôn ban cho
kinh bằng tiếng Pháp. Trong lúc chờ đợi,
các tín đồ niệm chú và cầu nguyện.
Lúc cuối lễ cúng, những người
tham dự đều lạy rồi đứng dậy (luôn luôn
chân mặt lên trước), xá sâu xuống 3 xá trước Thiên bàn, quay nửa vòng quanh
chính mình từ phải qua trái, hướng về bàn thờ Đức Hộ Pháp (vị Phật bảo hộ Niết
Bàn) được thiết lập đối diện bàn thờ Đức Chí Tôn, và cúi đầu xá xuống. Kế đó,
tất cả đều trở về sắp hàng giống như lúc khởi đầu lễ cúng, đứng day mặt đối
diện nhau và mỗi người đứng tại vị trí của mình.
Họ chào nhau bởi cúi đầu
xá xuống, và lui ra.
BÀN THỜ HỘ PHÁP : Lúc nầy người ta đặt
dựa vách tường một cái bàn nhỏ, trên đó đặt một đôi đèn sáp, một lư hương, một
lư trầm, một ly rượu, một tách trà, một ly nước trắng, một bình hoa, một dĩa
nhỏ đựng trái cây. Trên vách tường có treo một tấm giấy cứng viết hai chữ : “HỘ
PHÁP” (vị Phật, bảo hộ Niết Bàn, bảo hộ
tín đồ), dấu hiệu chữ “KHÍ” hay Khí sanh quang phục sinh nhơn loại hấp hối.
Các vị Chức sắc cần thận
trọng, trước khi chấm dứt mỗi kỳ đại lễ,
nên thuyết đạo để khuyến khích các tín đồ tin tưởng Đức Chí Tôn, Đấng
Tạo Hóa và là Cha Chung của tất cả chúng ta, thương yêu nhau, đoàn kết nhau cho
một nền hòa bình thế giới.
Ghi chú : Vì có nhiều dân tộc không quen “lạy”, chúng ta
có thể lúc đó thay thế cái lạy bằng việc cúi mình sâu xuống.
Ký tên : THƯỢNG TRUNG NHỰT.
Nghi lễ nầy có phức tạp đối với người Tây phương,
tuy có nhiều thiện chí, họ có thể không thích bắt chước các đồng nhi. Trong chủ nghĩa tự do của họ, trong tinh thần
khoan dung, Đạo Cao Đài chấp nhận những sự đơn giản hóa, nhứt là nơi các dân
tộc Âu châu và Mỹ châu ít biểu thị vấn
đề tín ngưỡng.
HƯỚNG ĐI TÂM LINH
. . . Có những việc vượt
quá tầm hiểu biết của con người mà ngôn ngữ của con người hoàn toàn không có
khả năng diễn tả. Cũng thế, các Đấng thiêng liêng đã phát lộ cho chúng ta, luôn
luôn khuyên bảo chúng ta đừng quá trì hõa tìm tòi khám phá bí mật mà chính các
Đấng cũng không đủ sức để vén lên được.
Chúng ta chỉ tìm tòi để
hiểu biết chơn lý, cái chơn lý mà chúng ta cần cho việc cư xử hiện nay để chúng
ta không còn nghi ngờ; một lần mà chúng ta tìm thấy, hãy bền lòng đi trong con
đường đó.
Với sự khuyên nhủ chúng
ta, các Đấng thiêng liêng không có ý định ngăn cản chúng ta tìm tòi hiểu biết,
thăm dò những bí mật để tiến hóa lần lần. Không, các Đấng không có ý định như
thế. Các Đấng ấy sợ rằng chúng ta mất thời gian để truy tầm những việc hoàn toàn không hữu ích.
. . . Quí vị có thể xác
nhận với các bạn của quí vị rằng : Đức Khổng Tử, Đức Lão Tử, Đức Thích Ca, Đức
Jésus xứ Nazareth chỉ là những vị thầy dạy dỗ, là những phản ảnh của Đại hồn vũ
trụ, Đại hồn nầy không phải là Thượng Đế tách rời hẳn vũ trụ, nhưng trái lại
được xác định một cách mật thiết với vũ trụ.
Mỗi người, dù hung dữ, dầu
tà mị, đều luôn luôn có một chút phẩm chất tốt, nhưng không có một người nào có
thể cho là mình có được tất cả phẩm chất tốt. Thượng Đế làm cho chúng ta không
hoàn hảo để chúng ta có ý thức về sự yếu đuối của chúng ta để rồi làm cho chúng
ta khiêm tốn, khuyến khích chúng ta thu đoạt nhiều hơn những phẩm chất tốt,
những đức hạnh, để đạt đến sự hoàn hảo.
Chúng ta phải dùng tất cả
những phương tiện riêng của chúng ta để tiến lên, tiến hóa lên càng lúc càng
tốt hơn. Mỗi người đều có một cái gì đó để đạt đến phẩm vị thiêng liêng; một
Đấng Chơn linh có thể tạo ra một thế giới và làm chủ thế giới đó.
. . . Trong lá thư sau
cùng, tôi có giải thích cho quí vị, tại sao chúng tôi bị dẫn đến việc cấm các
tín đồ thông công với các Đấng thiêng liêng bằng dụng cụ của các đồng tử không
chánh thức. Quí vị hãy lưu ý rằng, câu Minh thệ đã được đọc cho viết trong cùng
một tinh thần đó, bởi Đức Chí Tôn có mục đích cũng thế, là đặt chúng ta phải lo
gìn giữ để chống lại những vận dụng của các Tà Thần, và khi đọc cho chép lời
Minh thệ ấy, Đức Chí Tôn biết rằng, nó đem đến những tín đồ, một cách tổng
quát, là người Việt Nam mà phần đông đều không biết những cám dỗ của Quỉ vương,
có thể sẽ bị Quỉ vương quyến rũ một cách dễ dàng, và Quỉ vương đã đến một cách
đau khổ trong những năm vừa qua.
Đức Chúa Jésus Christ đã
có tiên tri kẻ chống Chúa và lời tiên tri nầy đã thực hiện. Ở Nam Kỳ, trước và
sau khi thành lập nền Tân tôn giáo, những kẻ chống Chúa đã đến và đã lập ra
những chi phái tôn giáo để gieo rắc sự chia rẽ, để dụ dỗ nhiều người đi ra khỏi
con đường chơn lý. Kẻ chống Chúa đã dùng tất cả những mưu mô và tạo ra rất
nhiều nạn nhân.
Như quí vị thấy đó, lời
Minh thệ chứng minh sự đúng đắn giữa chúng tôi và những người Việt Nam khác.
Đức Hộ Pháp và các cổ pháp
Cổ : xưa; Pháp: luật pháp,
qui tắc, dấu hiệu, biểu hiệu.
Quí vị phân biệt ba vật
khác nhau tạo thành cổ pháp của Đức Hộ Pháp :
a) một thứ hình khối mang
chữ “Xuân Thu”;
b) một thứ hình ống;
c) một thứ hình que có ở
đầu cùng một chùm lông đuôi.
a). Thứ hình khối ấy tượng
trưng một cuốn sách gồm 5 quyển gọi là “Xuân Thu” : Xuân = mùa xuân, Thu = mùa
thu.
Đó là một tác phẩm xã hội
viết ra bởi Đức Khổng Tử dưới dạng là Kinh Phúc Âm (Kinh Thánh) có nghĩa là sự
hoàn thiện luân lý, giảng dạy ngoài các nghi lễ, lời bói toán về tiên tri, văn
học, âm nhạc, những luật lệ của Nhơn đạo : bổn phận làm người, làm một công
dân, làm cha, làm mẹ, làm chồng, làm vợ, làm con, làm anh làm chị, làm thầy làm
trò, làm quan, làm vua, cả đến những bổn phận đối với thú vật và thảo mộc. Đó
là biểu tượng của Khổng giáo.
Cuốn sách ấy gọi là Xuân
Thu, bởi vì tư tưởng của Đức Khổng
Tử làm nẩy nở và kết quaû luân lý của
con người, giống như mùa Xuân và mùa Thu là hai mùa có ngày và đêm dài bằng
nhau và dễ chịu.
b). Thứ hình ống tượng
trưng một cái chén lớn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi còn sanh tiền, dùng để
nhận lấy thức ăn cúng dường bởi các tín đồ. Hoàng Thái tử của một vị vua giàu
có, nhiều thế lực của một Vương quốc ở Ấn Độ, Thái tử Sĩ Đạt Ta về sau trở thành Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, đã có can đảm từ bỏ tài sản của thế gian để đi tìm trong cảnh cô tịch
sự bình an của tâm hồn và đi tìm chơn
lý. Ngài phải ăn xin để sống, để nuôi dưỡng xác thân với mục đích là truyền bá
Đức tin mà Ngài đã đạt được.
Cái chén
ấy gọi là Bình Bát Vu : Bình là cái thau, Bát là cái chén, Vu là ăn xin.
(Cái bát hình cái thau để nhận của bố thí), đó là biểu tượng của sự dứt bỏ những
của cải của thế gian, sự quên mình,
lòng hy sinh, sự bất vụ lợi toàn thể của đời sống (chủ nghĩa khổ hạnh). Đó là
cổ pháp của Phật giáo.
c). Một thứ que được trang trí một chùm lông
đuôi gọi là Phất chủ (Phất là chuyển động hay xua đuổi, chủ là bụi bặm) hay
Phất trần (xua đuổi các thứ ô trược của thế gian), tượng trưng sự luyện tập
tinh thần gồm việc tự thanh lọc hằng ngày tất cả các tật xấu. Như cái tên gọi của
nó chỉ rằng, Phất chủ dùng để xua trục các thứ dơ bẩn của cõi trần.
Đó là biểu tượng của Lão giáo, biểu tượng của sự thanh lọc các
tình cảm.
Tóm lại, ba giáo lý : Khổng giáo, Lão giáo,
Phật giáo, (Thiên Chúa giáo được xem là một nhánh của Khổng giáo) là ba giai
đoạn tiến hóa của linh hồn, ba cấp bực thọ pháp hướng đến các Đấng thiêng liêng
thanh khiết.
Ba vật được mô tả ở trên hợp lại tạo thành cổ
pháp của Hộ Pháp, bởi vì Ngài, nói một cách thiêng liêng, lãnh trách nhiệm hợp
nhứt Tam giáo và trông nom cho mọi người sống hòa bình trong sự tôn kính các định luật tiến hóa.
THÔNG
SỰ, được gọi là Hộ Pháp Em,
bởi vì thừa hưởng của Đức Hộ Pháp một phần quyền hành để xử đoán các tín hữu trong ấp
đạo của mình, mặc áo tràng lễ phục
mà bên phải và bên trái nơi ngực có hai cổ pháp và trên khăn đóng ngay chính
giữa trán cũng có một cổ pháp nữa (tất cả ba cổ pháp gắn ở ba góc).
PHÓ TRỊ SỰ, được gọi là Giáo Tông
Em, bởi vì ông thay mặt Đức Giáo Tông trong ấp đạo của ông, tiêu biểu tình
thương đối với tất cả sinh vật, trông nom một cách thương mến tất cả hành vi
trong đời sống mỗi tín đồ, về sự bình an của tâm hồn trên sự tiến bộ của con
đường tiến hóa.
Phó Trị Sự mặc áo tràng
được trang trí nơi cổ một băng dài kim tuyến bạc và nơi tay áo bên trái một
miếng vải tam sắc : vàng (Phật giáo), xanh (Tiên giáo), đỏ (Khổng giáo). Đó là
phản ảnh bên ngoài của Tam giáo.
CHÁNH TRỊ SỰ, được gọi là Đầu Sư Em
(Đầu là thứ nhứt, Sư là thầy, Em là em
nhỏ) hay người thầy thứ nhứt của các em nhỏ, hay là anh cả trong một làng đạo.
Đầu Sư nhận lãnh hai quyền hành được
giao phó bởi Giáo Tông và Hộ Pháp. Như vậy, Chánh Trị Sự có đầy đủ bổn phận của
Giáo Tông và Hộ Pháp trong một làng đạo.
Chánh Trị Sự mặc áo tràng
trắng, được trang trí nơi cổ một cái băng kim tuyến vàng và nơi tay áo trái một
miếng vải tam sắc, có kích thước lớn hơn của Phó Trị Sự. Trên khăn đóng của
Chánh Trị Sự có gắn cổ pháp của Hộ Pháp.
Tòa Thánh của chúng ta
đang dự bị dịch quyển Pháp Chánh Truyền :
Pháp là luật pháp, qui
tắc, dấu hiệu, biểu tượng, vv. . . tất cả cái gì dẫn xuất từ Luật tiến hóa.
Chánh là bền vững, không
sai lầm, bất khả xâm phạm, hoàn toàn đúng đắn (mực trung dung của tất cả).
Truyền là mạng lịnh, tổ
chức.
Pháp Chánh Truyền là những
qui tắc về tổ chức bất khả xâm phạm.
Tác giả của Pháp Chánh
Truyền là THẦY thiêng liêng của chúng ta, Đấng Cao Đài, đã đọc cho chúng ta
chép bởi sự thông công bằng đồng tử.
Xin nhắc lại : Những giải
thích nầy rất sơ lược, có thể hiện ra rất phức tạp đối với người Tây phương mà
họ rất sợ những chi tiết tỉ mỉ, đặc tính của sự thờ phương của người Đông
phương. Quí vị hãy an lòng : Ở đây luôn luôn Đạo Cao Đài thừa nhận những sự đơn
giản hóa nhiều hơn nữa ở các nước khác.
Về phần liên quan đến các
trẻ nhỏ kiểu Âu châu mà quí vị có nói tới trong một bức thư, những người hay
cười chê nói rằng, việc đó đến từ sự lai
giống. Nhưng do sự nghiên cứu và quan sát nghiêm chỉnh, chúng tôi dám quả quyết
rằng, những đứa trẻ ấy được được sanh ra bởi những bà mẹ hiền từ trong những
gia đình Việt Nam, đã sống với những người chồng Việt Nam. Các bà không bao giờ
đặt chân đến thành thị có người Âu châu cư ngụ hay lui tới và luôn luôn sống
trong những nơi hoang vắng không một người Âu châu nào đến thăm viếng. Tuy
nhiên nhiều trẻ con của họ có gương mặt kiểu Âu châu hay thuộc nòi giống
A-ry-en; những đứa trẻ đó đôi khi có dáng đi như hình thức của người Âu châu mà
mái tóc của chúng nó luôn luôn đen như người Việt Nam.
Chúng tôi tin tưởng biết
rằng, những kiểu trẻ nhỏ ấy giữ được một phần hình thể của những kiếp luân hồi
trước mà nơi đó chúng nó được sanh ra bởi những cha mẹ là người Âu châu. Chúng
nó đến thế gian thường hơn với chơn thần mà chúng có được trong những tiền kiếp
luân hồi.
Bởi những sự tiết lộ,
chúng tôi nhận xét rằng, một người nào đó có môi bị chẻ hai ở tiền kiếp, hiện
nay mang một môi sứt ; rằng một người khác, nó là một con thú tiến hóa còn giữ
một phần bản năng cũ của nó với một dáng dấp xưa.
Những điều nầy làm cho
người ta cười, tất nhiên, một người duy vật như thế, nhưng hơn nữa, (anh ta lại
rất tin dị đoan) anh ta lấy làm khiếp sợ khi đốt ba điếu thuốc (hai bạn và hắn)
với cùng một que diêm, khi đi xe không mang theo bùa hộ mạng hay một linh vật,
khi ăn sáng hay ăn trưa với 13 người, khi vắt ngang cánh tay bạn vừa bắt tay từ
giã, vv . ..
Điều bất thường luôn luôn
là cái bia của sự châm biếm chua cay và
xô đuổi của chúng ta mà chúng ta chỉ là những kẻ khốn khổ và yếu đuối.
Kinh nghiệm về Đạo Cao Đài
ở Âu châu gây ra những nhận xét của một Đạo huynh :
“ Vài công thức, vài trạng
thái bên ngoài của Đạo Cao Đài sẽ được thay đổi để có thể lấy lại một cách hiệu
quả sự chú ý của những người khả dĩ lấy
nó để xem xét. Tôi nghĩ - và cái nầy đã là một kinh nghiệm đối với tôi - rằng
bức tượng trên bàn thờ biểu thị biểu tượng Thiên Nhãn tỏa sáng, có thể có lợi
hơn nếu được hoàn toàn thay thế bằng một hình ảnh có màu sắc rực rỡ, những Đấng
thiêng liêng hay những Đấng giáng trần
có hình ảnh tại nhà của các tín
đồ.
Nơi đây, tại nước Pháp,
người ta rất thích sự đơn giản, các lược đồ, những nét lớn gợi ý, ít ra là giữa
công chúng, đặc biệt nơi đó tôi cần thiết phải có những buổi giảng đạo.
Tôi xin nói với Đạo huynh
về vấn đề nầy rằng bức họa tuyệt đẹp Đức Quan Âm Bồ Tát mà Đạo huynh đã gởi cho
tôi làm nhiều người ưa thích, và tôi tin tưởng biết được lý do : Bức tranh rất
ít màu sắc, nét vẽ đơn giản hơn là hình tượng của Bồ Tát hay hình tượng của Đức
Quan Thánh Đế Quân.
Tôi đã viết thơ cho Đạo
huynh về vấn đề nghi lễ và kinh kệ, có thể nên đơn giản hóa hơn nữa để thế chỗ
cho sự trầm tư bình thường, có thể ngắt
đoạn những câu cầu nguyện ngắn. Tôi cũng nghĩ rằng, người ta có thể làm những
bài đọc ngắn trọng yếu trước bàn thờ của Đạo. Tất cả là việc của sự hiểu biết,
của sự thích nghi và của sự khoan dung.
Cái đèn trên bàn thờ (Thái
cực đăng) là vật của lễ chế, được hiểu rõ và nhìn nhận nhứt : Dĩ nhiên những
người đặc biệt lo việc tế lễ như những Chức sắc hay người tương đương, có thể
không dùng những sự cho phép nầy và hết sức tuân theo những kiểu cách cư xử
của người Việt Nam.
Về giáo lý hay giáo huấn
nói riêng, tôi cũng đã nhiều lần viết thơ dài dòng cho Đạo huynh, tôi xin trở
lại để xác định với Đạo huynh rằng, nó sẽ dễ ưa một cách siêu phàm để không
nhấn mạnh trên hình dạng riêng của Thần linh, hình dạng mà tôi không ngần ngại đổ tất cả trách nhiệm cho chủ
nghĩa duy vật Tây phương hiện nay.
Người ta không muốn một
Thượng Đế-Jéhova với những quyết đoán độc tài; những người mà họ còn tin tưởng
vào Thượng Đế ấy là những tín đồ Công giáo La Mã, hay những tín đồ Tin lành
chính thống, nhưng chắc chắn không gồm đa số, cả ngay bên trong của những nhà
thờ Công giáo.
Tất cả đòi hỏi chính xác
và những cuộc đối thoại mà tôi tiếp được
từ tháng 12 năm 1934 về vấn đề Đạo Cao Đài, được hội tụ vào điểm chánh nầy là :
Đức Khổng Tử, Đức Lão Tử, Đức Thích Ca, Đức Chúa Jésus xứ Nazareth chỉ là những
vị thầy dạy dỗ, là những phản ảnh của Đại hồn vũ trụ, Đại hồn nầy không phải là
Thượng Đế tách rời hẳn vũ trụ, nhưng trái lại được xác định một cách mật thiết
với vũ trụ.
Nếu tôi giảng ngược lại,
người ta sẽ nghe tôi chỉ vì lịch sự, hay họ sẽ nói tôi muốn trở lại thành La Mã.
Đạo huynh kính mến,
Vì tôi bị khó xử và khổ
tâm để nói pha loãng với Đạo huynh như thế,
những gì mà tôi cảm thấy vô cùng quan trọng cho việc lan truyền Đạo Cao Đài nơi nước Pháp.
Tôi có khuynh hướng nghĩ
rằng, sau khi tôi được thơ của Đạo huynh liên quan đến tâm sự của tôi, sự tái
kiếp của tôi hiện nay ở Tây phương vào thời kỳ nầy là hoàn toàn do nhân quả, để
giúp tôi làm cái gạch nối giữa thế giới sụp đổ và một thế giới khác ló dạng ở
chơn trời, trong phạm vi hoạt động khiêm tốn của tôi.
Nhưng có biết bao sự thiếu hiểu biết gặp phải nơi đây ! Biết bao những chỗ tiểu dị cần minh xác vào lỗ tai của những tín đồ Công
giáo hay những người theo chủ nghĩa duy
vật, họ rất giống nhau trong chủ nghĩa tín điều của họ xuất phát từ một ảo tưởng chung !
Những suy nghĩ đúng đắn
nầy đưa ra từ năm 1935, không mất một chút giá trị nào của nó : được thử nghiệm
ở phương Tây, ở nước Pháp, Đạo Cao Đài kêu gọi sự giản dị hóa để cho những
người sống trong khí hậu của Voltaire (môi trường hoài nghi) rằng họ chán ngán
các danh từ và nghi lễ quá phức tạp của
tất cả Thông Thần học của Đông phương.
Chúng tôi nên nói thêm, sự
phức tạp ấy biểu kiến hơn là có thật, là một quyến rũ mạnh mẽ, là niềm vui
sướng ngọt ngào cho những người khát khao chủ nghĩa thần bí (theo nghĩa đẹp
nhứt và cao quí nhứt của từ ngữ).
LỜI CỦA TÒA THÁNH
Nhựt báo Le Kmer (Người
Cao Miên) ngày 30-5-1937 đã phỏng vấn vắn tắt Ngài Phạm Công Tắc, lãnh đạo tối
cao hiện nay của Đạo Cao Đài.
Đây là bài viết tường
thuật cuộc đàm thoại nầy :
“ Chúng tôi không quyết
định hồi tưởng lại bằng những dòng chữ nầy, sự lộng lẫy và huy hoàng của cuộc
lễ đánh dấu lễ Khánh Thành Thánh Thất Cao Đài tại Nam Vang, các đồng nghiệp đã
làm tốt trước chúng tôi.
Chúng tôi mới vừa say mê
xem xét với các bạn đọc của chúng tôi, với tất cả sự vô tư, những lời tuyên bố
của Ngài Phạm Công Tắc, lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài, mà Ngài muốn nói với chúng tôi.
Chúng tôi cảm động sâu xa
và cảm kích sự tiếp đãi mà chúng tôi
nhận được từ nhân vật nầy, với sự khiêm tốn và rất giản dị. Cuộc đàm thoại thân
ái và hữu nghị, đượm tình huynh đệ, bởi vì không lúc nào Ngài Phạm Công Tắc
hành xử như một Giáo Hoàng, cũng không tỏ ra hẹp lượng.
Đó là một bộ óc rất sáng
suốt, những quan niệm tôn giáo của Ngài quả thực có đôi chút khác biệt với
chúng tôi, nhưng lý tưởng theo đuổi rất đẹp mà chúng tôi nghiêng mình kính phục
trước đức tin chân thành của Ngài, làm chúng tôi nhớ lại những điều đã viết
trong tất cả những sách Xướng Kinh trong Lễ Giáng Sinh :
“ Vinh hiển thay Đấng
Thượng Đế nơi tối cao của các từng Trời. Và nền hòa bình trên địa cầu cho những
người tâm thiện !”
Chúng tôi nói thêm rằng,
sau khi thấy và nghe, chúng tôi cho rằng, những tín đồ Cao Đài quả thực là
những người thiện tâm.
Về câu hỏi mà chúng tôi
đặt ra với Ngài về đề tài Giáo lý được trình bày trong quyển sách tặng cho một
cách niềm nở tất cả những khách thăm viếng, đã được bày tỏ :
“ Thật ra Ngài không phải là người đa Thần, nhưng trên
nguyên tắc, Ngài là người đa Thần, bởi vì ngoài việc sùng bái chánh thức Đấng
Thượng Đế tối cao, Ngài còn cho phép các tín đồ tự do thờ các Thần Linh khác đã
chinh phục tâm hồn của họ.”
Thật vậy, chúng tôi xin Ngài
Phạm Công Tắc để ý rằng, trong tất cả biểu lộ cho loài người về vấn đề các Đấng
Thần Linh, một việc đã thành, cũng như đối với những nhà huyền bí học, chỉ có
một Đấng Thượng Đế duy nhứt với ba hình thể (Tam vị nhứt thể) mà người ta chỉ định gọi là “Thượng Đế Ba
Ngôi”.
Ngài Phạm Công Tắc đáp :
- Điều nầy đúng, nhưng đối
với chúng tôi, Thượng Đế là : “ Vô Lượng, Vĩnh Cửu, Tối Cao, Tuyệt Đối, và Vô Danh.”
Trong tôn giáo của chúng tôi, tiếng “Thần Linh” làm cho quí vị chướng
tai, nó không có nghĩa thuộc về ngoại đạo tà giáo mà quí vị gán cho nó, nó chỉ
định một cách đơn giản là các Chơn linh hoàn toàn tách rời hẳn vật chất và tiến
tới gần nhứt Đấng Tối Cao. Đó là vài bực Thánh.
Danh từ “Đấng Vĩnh Cửu”
của chúng tôi được các dân tộc khác gọi bằng nhiều hình thức khác nhau. Những
danh từ khác nhau nầy lại phân chia nhơn loại thay vì hợp nhứt nhơn loại, cho
nên chúng tôi không gọi Đấng ấy là Thượng Đế mà gọi là Đấng Tối Cao, Đấng Tuyệt
Đối, Đấng Vĩnh Cửu.
Với một câu hỏi khác liên
quan Đấng Christ, Ngài trả lời rất minh bạch :
“ Chúng tôi không tìm cách
hủy diệt giáo lý của Đấng Christ, trái lại, chúng tôi sẽ làm vững chắc thêm,
bởi vì không thể chối cãi sự hiện hữu của Chúa.
Những cố gắng của chúng tôi có mục đích sửa soạn việc phục hưng toàn thể
nhơn loại bằng tâm linh. Nhơn loại dường như quên hết các câu phương châm của
Chúa, nếu tuân theo các phương châm nầy thì sẽ giữ được hòa bình trên thế giới.
Đạo Cao Đài là cây cầu bắc
qua cái hố sâu (tưởng như không thể vượt qua được) chia cách Đấng Christ và Đức Phật Thích Ca, mà Đức Phật
là người đi trước, sự hòa hợp của hai giáo lý bổ túc cho nhau và cần thiết cho
sự hợp nhứt các dân tộc Tây phương và Á
châu, để cho tình huynh đệ được thạnh hành giữa các dân tộc.”
Chúng tôi chỉ biết nghiêng
mình kính phục trước những lời nói khôn ngoan như thế, hơn nữa nó lại thích hợp
với những lời nói của Đấng Christ do Thánh Mathieu, tác giả sách Phúc Âm, thuật
lại :
“ Ta không đến xóa bỏ luật
pháp, những nhà tiên tri; Ta đến để tiếp nối và bổ khuyết họ.”
Hơn nữa, người ta tò mò
nhận xét rằng, từ vài năm nay, trong
toàn thế giới, số người lưu tâm đến những Thánh giáo tăng lên không ngừng; cái
nhu cầu tín ngưỡng nầy thật tiêu biểu và đối với chúng ta là bằng chứng hiển
nhiên mà ông Daniel và Thánh Jean đã nói
tiên tri về thời kỳ mà Đấng Christ sẽ trở lại thế gian nầy để phân phát cho mỗi
người sự thưởng phạt của Ngài và thời kỳ đó gần đến từ nay.
Cũng thế, chúng tôi chỉ có
thể hoan hỷ về công trình thực hiện bởi
Đạo Cao Đài để đem về cho Đấng Christ những con chiên lạc loài ở Viễn Đông bởi sự chuyển tiếp cần thiết theo
lời nói của Thánh Jean :
“ Người ta không chỉ có
một mục đồng duy nhứt và một đàn chiên duy nhứt.”
Tờ báo Le Populaire
d’Indochine (Người bình dân Đông Dương) ngày 27-11-1936 cũng có một cuộc đàm
luận với vị lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài trong những trường hợp sau đây :
“ Từ hôm qua, một đám đông
mà người ta ước lượng vài chục ngàn người, đứng đầy các lối đi, những khu vườn
và những lùm cây của Tòa Thánh Tây Ninh.
Họ tới từ khắp các nơi của
Nam Kỳ, những người nầy đi thuyền, những người kia đi xe bò. Họ cắm trại ở
ngoài trời, đàn ông đàn bà, họ ngồi trên những chiếc chiếu trải kế bên mấy con
bò to lớn đã đưa họ đến đây.
Tòa Thánh Tây Ninh đang
trong cuộc lễ.
Tòa Thánh Tây Ninh làm lễ
kỷ niệm Đại tường mãn tang Cố Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.
Trên quảng trường của Đại
Đồng Xã, ánh mặt trời chiếu sáng chói chan, có một bàn thờ lớn được dựng lên để
tưởng niệm vị Cựu lãnh đạo của Đạo Cao Đài.
Trên bàn thờ nầy, được
căng ra một tấm vải khổng lồ, trình bày chơn dung Ngài Lê Văn Trung trong bộ
đạo phục.
Hai bên cạnh của cái đàn
vĩ đại mà chính nó là quảng trường của Đại Đồng Xã, đứng sắp hàng theo từng
tỉnh, những phái đoàn đại biểu trong
nước với những vị trưởng đoàn cùng cờ lịnh và phướn. Một qui định mới được
thiết lập sau cái chết của Ngài Lê Văn Trung, qui định ngày Đại tường sau 20
tháng chớ không phải 24 tháng. Nhưng đối với Ngài Lê Văn Trung, qui định cũ vẫn
được duy trì.
Trong khi chờ Đại lễ vào
ban đêm, chúng tôi đến viếng thăm người kế vị Ngài Lê Văn Trung là Ngài Phạm
Công Tắc trong một ngôi biệt thự nhỏ ở cuối đường Thượng Trung Nhựt. Ngài Phạm
Công Tắc tiếp chúng tôi với vẻ lịch sự tế nhị mà mỗi người đều biết. Ngài rất
vui lòng trả lời tất cả các câu hỏi của chúng tôi :
- Ngài có thông công được
với chơn linh của Ngài Lê Văn Trung không ?
- Có, nhiều lần rồi.
- Bởi chính mình Ngài hay
bởi trung gian của đồng tử ?
- Bởi trung gian của một
đồng tử, mặc dầu Bần đạo chính là một
đồng tử và Bần đạo có thể trực tiếp tiếp xúc với chơn linh của Cố Quyền Giáo
Tông.
- Ngài có khuyên bảo điều
gì không ?
- Ngài khuyên chúng tôi cố
gắng mở rộng tôn giáo cho tất cả đức tin, tất cả tín ngưỡng, trong một tinh
thần rộng rãi của sự khoan dung, diệt trừ các sai lầm của chủ nghĩa duy vật ở
khắp mọi nơi mà chúng tôi gặp phải.
- Xin nói cho chúng tôi
biết về công trình truyền Đạo Cao Đài nơi các nước ngoại quốc.
- Đó không phải là một
công trình dễ dàng vì nó phải thích hợp để không đánh thức những tính mẫn cảm
của quốc gia mà mình đến. Đối với cuộc truyền đạo của chúng tôi nơi nước Trung
hoa, những thành phần của phái đoàn đã được chỉ định, nhưng lúc nầy họ đang
hoàn thành sự huấn luyện văn hóa trong Hạnh đường.
- Có bao nhiêu Hạnh đường
của Đạo Cao Đài ?
- Hai : một tại Tòa Thánh
và một tại Nam Vang. Chánh phủ có khuyên chúng tôi nên bỏ qua, nhưng việc ấy
không thể được vì phải huấn luyện các giáo sĩ chơn thật.
- Có nhiều người Pháp
trong tôn giáo của Ngài không?
- Có chứ ! Nhiều người Pháp gia nhập vào tôn giáo chúng
tôi bằng thơ từ. Ở Pháp, Bà Félicien Challaye đảm nhận quyền hành chánh với
phẩm Giáo Sư (đối phẩm Giám Mục), trong
lúc đó, ông Gabriel Gobron đảm nhận quyền tư pháp với phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
(nghĩa là người đào tạo).
- Hiện nay Đạo Cao Đài có
bao nhiêu tín đồ ?
- Có một lúc, chi phái Bến
Tre làm thiệt hại tôn giáo chúng tôi, làm cho nhiều tín đồ ra đi. Nhưng nay thì
chúng tôi khôi phục lại được 9 phần 10 số tín đồ mà chúng tôi có được lúc Đạo
Cao Đài bành trướng mạnh nhứt. Con số lên đến một triệu tín đồ. Ở Bắc Kỳ, chúng
tôi có từ 5 đến 7 ngàn tín đồ.
Đến đây, chúng tôi xin cáo
từ Ngài vì có nhiều người khách cũng
muốn hầu chuyện với Ngài.
Từ 7 giờ tối, các vườn của
Tòa Thánh sáng rực với hàng ngàn đèn lồng, trong khi đó những hình bằng giấy
tượng trưng các vị Thần chiếu ra ánh
sáng êm dịu. Mặt trăng trong suốt làm
cho buổi lễ nầy có tính chất huyền ảo
nhẹ nhàng.
Hàng chục ngàn tín đồ đã
chiếm các địa điểm dành riêng cho họ để chờ xem lễ rước diễn hành. Và người ta
không thể phủ nhận một đôi chút huyền
bí toát ra từ đám rước im lặng, từ màu
trắng của ánh trăng và từ cuộc diễn hành không dứt dưới những cây to đứng im
lìm trong gió nhẹ, không bị xao động bởi một tiếng kêu nhỏ nào.
Sau cùng, giữa những kẻ
đối nghịch, Đạo Cao Đài cũng gặp được các nhà Thần linh học, vài nhà Thần linh
học nào đó, mặc cho nguồn gốc của Đạo Cao Đài và những thực hành Thần linh học
(ít nhứt, trong Hội Thánh mới đủ điều kiện). Cái đó liên quan đến điều gọi Thần
linh học là rượu mới làm vỡ tan các bầu rượu cũ : một đám đông tín đồ không
hiểu biết gì về sự bùng nổ của Thần linh học trong thế giới
tối tân của chúng ta, cãi
cọ nhau, tranh giành nhau để biết Thần linh học là một triết lý, một khoa học,
một tôn giáo, không hiểu rõ (hay không
muốn hiểu rõ) rằng, Thần linh học đồng thời là tất cả những cái đó, và không
chịu đựng nổi sự phân chia giả tạo nầy của những kẻ học thức rởm hay dốt nát.
Chúng tôi có những quốc
gia Thần linh học tôn giáo (Anh, Ba Tây, vv . . .) và những quốc gia Thần linh
học khoa học (Pháp, Ý, Cuba, Argentine, vv . . .) Hay hơn hết : trong cùng một quốc gia, người
ta thấy nhiều nhóm khuynh hướng Thần linh học tôn giáo (Thần linh học cơ đốc ở
nước Anh, nước Pháp, vv . . .) và những Hội Thần linh học khuynh hướng khoa học
(Tạp chí Thần linh học ở Ba-lê, Tạp chí Thần linh học Bỉ ở Liège, vv . . .)
Những người theo Thần linh
học khoa học, một cách tổng quát, thù nghịch Đạo Cao Đài, họ trách cứ các lễ
cúng, các nghi lễ, Hội Thánh, những giáo lý đại cương của Đạo Cao Đài và thiếu
chút nữa, những nhà truyền giáo nầy trục xuất Đạo Cao Đài cũng như không
muốn nghe về Đạo Cao Đài !
Tôi biết điều gì mà tôi
nói và viết những nhận xét khổ tâm nầy. . . . . . Họ muốn, hơi một chút, một Á châu có tính
Voltaire (duy vật) hơn cả Voltaire ! Một
sự dốt nát như thế không thể khuyến khích . . . . .
Ngài Phạm Công Tắc, lãnh
đạo cao cấp của Đạo Cao Đài, viết thư cho tôi ngày 25-3-1935 từ Tòa Thánh Tây
Ninh (Nam Kỳ) một bức thơ mà tôi công bố ra đây, không phải vì những lời đánh
giá khen tặng tôi, mà vì bức thơ nầy có những lời giáo huấn và những lời chính
xác chứa trong đó. (Có lẽ người ta tin tưởng tôi nếu tôi thú nhận điều nầy :
tôi không còn cố gắng làm việc, làm việc một cách vô ngã, vô danh, như tất cả
những người thọ giáo tiến bộ phải làm cho việc phụng sự xã hội, nhưng tôi cố
gắng thờ ơ hoàn toàn trước những lời ca tụng hay chỉ trích, phát biểu trên tác
phẩm của tôi và trên tôi).
“ Hiền hữu thân mến,
“ Hiền hữu Vinh (Trần
Quang Vinh) có cho Bần đạo xem tất cả thơ từ
của Hiền hữu, cũng như những bài báo của Hiền hữu xuất hiện trong nhiều
tạp chí.
“ Cho phép Bần đạo cám ơn
Hiền hữu đến tận đáy lòng là Hiền hữu đã bận rộn phục vụ giáo lý mới với lòng
tận tụy cao quí. THẦY thiêng liêng của chúng ta để ý đến Hiền hữu và chúng tôi
cầu xin THẦY ban cho Hiền hữu một sức khỏe tốt hơn để tiếp tục công trình không
gián đoạn mà Hiền hữu đã thực hiện một cách tốt đẹp.
“ Ngay chiều nay, vì mục
đích nầy, Bần đạo sẽ chứng đàn và dâng lên THẦY một thỉnh nguyện. Hiền hữu nên
tin chắc rằng Bần đạo rất khổ tâm khi biết rằng Hiền hữu đau bịnh và thỉnh
thoảng cơn bịnh hoành hành làm Hiền hữu không ngồi dậy nổi. Hiền hữu phải có
một sức khỏe tốt để làm việc. Con người chỉ có một ít năm để sống trên cõi trần nhiều thử thách
và đối với con người, thời gian quí báu, rất quí báu khi con người biết sử dụng
nó.
“ Nhơn loại đã sống trong
đau khổ, bổn phận của chúng ta là tìm tòi bằng tất cả phương tiện để, nếu không
tiêu diệt được các đau khổ thì ít nhứt
là làm cho nó nhẹ bớt.
“ Còn được bao nhiêu hơi
thở của đời sống, chúng ta hãy làm việc, làm việc luôn luôn cho sự phục sinh
nhơn loại, cho tình huynh đệ của các giống dân, cho nền hòa bình thế giới, một
nền hòa bình nhiều hứa hẹn (và rất ít
thực hiện).
“ Đó là nhờ sự hoạt động
không mệt mỏi của Hiền hữu mà Hiền hữu cố gắng làm cho nhiều người hiểu biết
giáo lý mới của Đạo Cao Đài trong nhiều trung tâm của nhiều quốc gia. Bần đạo
xin Hiền hữu bền lòng trong phận sự của mình, bởi vì Bần đạo tin chắc rằng, một
ngày rất gần đây, những nổ lực của Hiền hữu được khen ngợi thành công.
“ Bần đạo quả quyết rằng,
THẦY thiêng liêng của chúng ta và nhiều Đấng thiêng liêng chăm nom Hiền hữu và
cổ xúy Hiền hữu một cách huyền diệu.
“ Nên luôn luôn liên lạc
mật thiết và liên tục với các Câu Lạc Bộ Thần linh học và làm cho các vị trong
Câu Lạc Bộ nầy hiểu chúng ta, những người ở Nam Kỳ, do theo Thiên ý, chúng ta
chỉ có một sứ mạng nhỏ là tạo ra một cách giản dị một Hội Thánh, để chúng ta
khắc ghi vào lòng một đức tin, một đức tin vĩ đại nơi Thượng Đế và phải hội
hiệp tất cả các sứ giả Thần linh học của toàn thế giới để sửa soạn một giáo lý
mới đủ khả năng canh tân thế giới trong con đường chơn lý, để rồi nhơn loại
không còn đi vào chỗ tối tăm và họ biết được họ từ đâu đến, những gì phải làm
trong kiếp sanh hiện tại và cái gì mà họ sẽ trở thành sau khi chết.
“ Hiền hữu được đặc biệt
chỉ định làm một nhiệm vụ lớn lao nầy. Vì thế, Đức Chí Tôn ban cho Hiền hữu
biết được nhiều thứ tiếng. Hiền hữu có được lợi thế lớn hơn chúng tôi ở nơi
đây, chúng tôi, ngoài tiếng mẹ đẻ, chỉ nói và viết Pháp văn không hoàn hảo.
“ Bần đạo biết rằng những
nhà Thần linh học nơi họ có những nguyên tắc không đổi, rằng họ không thích tôn
giáo, không thích nghi lễ bề bộn, rất khó làm cho họ chấp nhận ý tưởng của
chúng ta và tiếp nhận một đức tin mới. Nhưng Bần đạo tin tưởng Đức Chí Tôn và
các Đấng thiêng liêng sẽ giúp đỡ chúng ta trong nhiệm vụ khó nhọc nầy và khi
thời cơ đến, vị thầy của họ là Allan Kardec sẽ biểu thị để đem họ về với chúng
ta. Chơn linh Victor Hugo dưới ẩn danh “Biểu Tượng” sẽ gởi cho họ nhiều thông
điệp.
Phần khác, Hiền hữu
François ở Nam Vang có thông báo với Bần đạo bức thơ trả lời cho Hiền hữu Henri
François ở Pháp. Bần đạo chấp nhận đầy đủ lời lẽ trong thơ . . . Bần đạo rất
vui vẻ lập lại câu nầy : “ Những nhà trí thức, những nhà bác học thường cực
đoan. Họ, hoặc vô thần hay tín ngưỡng, đôi khi đến chỗ không khoan dung nếu
không nói là cuồng tín. Hãy ở trong chỗ Trung Dung mà nhà hiền triết Khổng Tử
đã khuyên bảo chúng ta.”
“ Đính theo đây bản dịch
của một Thánh giáo mà Hiền hữu Cao Đức Trọng (Tiếp Đạo) và Bần đạo đã nhận được
của chơn linh Victor Hugo, liên quan đến Chức sắc Hiệp Thiên Đài. Hiền hữu vui
lòng đọc những lời giải thích về vấn đề
nầy gởi đến Hiền hữu Henri François bởi chữ đồng âm của nó ở Cao Miên.
“ Bần đạo nghĩ rằng, Hiền
hữu được nhiều người yêu cầu để nói cho họ biết làm thế nào chúng ta đi đến
việc hợp nhứt tất cả tôn giáo, mà các tôn giáo nầy khác biệt nhau rất rộng rãi,
chống đối nhau nữa và nói trái ngược nhau, nếu không nói là họ đặt nhau vào thế
thù địch, do các nguyên lý, các giáo điều, nghi lễ, tín ngưỡng, vv . . . của
các tôn giáo.
“ Chúng ta có thể trả lời
bằng vài câu nầy mà theo ý Bần đạo, giải thích vấn đề khá rõ ràng mặc dầu ngắn
gọn.
“ Chúng ta hãy xem các tôn
giáo như những Phân khoa đại học. Để được thâu nhận vào một Phân khoa, sinh
viên phải trước tiên có bằng cấp Tú Tài, nó là cái chìa khóa giúp sinh viên gia
nhập vào Phân khoa đã chọn.
“ Muốn có được các bằng cấp nầy, sinh viên phải
trải qua tất cả các lớp sơ học, tiểu học, vv. . . nơi đó sinh viên phải kiếm
được một hành lý đủ các kiến thức khác nhau, cả đến những điều kỳ dị.
“ Muốn
tạo thành một trường Đại học, phải có nhiều Phân khoa, mỗi Phân khoa có sự giáo huấn đặc
biệt, nhưng tất cả Phân khoa đều đặt dưới sự điều khiển duy nhứt : Ông Viện
trưởng. Những kiến thức khác nhau đoạt được luôn luôn sử dụng trong đời sống tương
lai của sinh viên và cho sinh viên một dấu ấn chứng nhận là người học thức.
Trong Phân khoa mà em sinh viên chọn, em phải hoàn thành các môn học sở thích,
nhưng những môn học khác đã thâu đoạt được không phải là hoàn toàn vô ích đối
với em.
“ Kỹ sư thì thông thạo
toán học, y sĩ thì biết rõ cơ thể học, luật sư thì thông thạo luật lệ, nhưng
mỗi người cần phải biết hơn thế nữa, văn chương, toán học, một ít môn học khác,
luôn luôn cần thiết cho cuộc sống.
“ Mặc dầu những kiến thức
đặc biệt, nghề nghiệp của họ không thể sống bên ngoài xã hội. Như thế, xã hội
hợp nhứt họ lại khi họ ra trường. Vả chăng, kỹ sư không thể không cần y
sĩ, y sĩ không thể không cần kỹ sư.
“ Đối với tôn giáo cũng
thế.
“ Người thế tục, nghĩa là
không tôn giáo, phải có được vài nguyên tắc luân lý, vài khái niệm triết học,
vv. . . để không làm mất thể diện, không bị đào thải khỏi xã hội. Anh ta chuẩn
bị nhập vào một tôn giáo mà anh ta thích.
“ Các tôn giáo giống như các Phân khoa đại học : một cách
không sâu sắc, những giáo điều, những tín ngưỡng, vv. . . dường như không hòa
hợp nhau, thường chống đối nhau. Phải như thế, bởi vì mỗi người có một thị
hiếu, một khuynh hướng, một sở thích, một học thức, một giáo dục, lắm khi hoàn
toàn khác nhau của những người ở gần nhau.
“ Tôn giáo được tạo ra
khác nhau do trình độ văn minh của các dân tộc, do mức độ tiến hóa, do hoàn
cảnh, do môi trường sống, do phong tục và tạp quán, vv. . .
“ Nhưng đứng trên tất cả
những điều khác biệt đó, là Đấng Tạo Hóa, Đấng Thượng Đế, nghĩa là Lương tâm vũ
trụ, hòa hợp tất cả mọi người, mặc dầu có những dị biệt về màu da, trình độ văn
minh, vv . . . Đó là những tín đồ Cao
Đài tự đặt việc phụng sự đức tin lớn nơi Thượng Đế cho sự hợp nhứt nầy, để chấm
dứt cơn ác mộng khủng khiếp là cuộc chiến tranh thế giới, cốt nhục tương tàn,
ám ảnh con người và đang chuẩn bị tích cực vào lúc nầy ở Âu châu.
“ Những giáo điều, óc đảng
phái vây bọc con người trong một vòng tròn rất nhỏ hẹp, nơi đó, con người chỉ
thấy một phần rất nhỏ của thế giới mà mặt trời soi sáng. Con người phải tiến
hóa, cũng thế, phải tìm tòi hiểu biết để tiến bộ, để rồi không dậm chân tại
chỗ. Các tôn giáo đối với họ phải giống như một sợi dây ràng buộc một đứa trẻ
đã biết đi, nhưng một chị vú em có đầu
óc đần độn hay có sự lo sợ vô lý về trách nhiệm của mình, luôn luôn giữ chặt
đứa bé một cách mạnh mẽ giữa hai tay, lấy cớ rằng đứa bé sẽ mất thăng bằng và
té xuống.
“ Nhơn loại hiện tại đã khá trưởng thành, không nên ràng buộc để dẫn dắt nó và ngăn trở nó đi đến đường
Đạo. Phải cho nó đại khí của Vô cực, để
thích hợp với trạng thái của tâm hồn và sự sùng đạo của nó. Phải cho nó hoạt
động và sống trong chơn lý, nhưng không phải trong chỗ tối tăm, cũng không phải
trong sự nghi ngờ ám ảnh và vật ám ảnh.
Lúc nãy, đọc thơ của Hiền
hữu một cách lý thú, Bần đạo giã từ Hiền hữu bằng cách ôm chặt Hiền hữu, cầu xin
Đức Chí Tôn bao phủ Hiền hữu trong phép lành và trong hồng ân của Ngài và Hiền
hữu vui lòng chuyển lời kính chào Bà Gabriel Gobron.
PHẠM CÔNG TẮC
Lãnh đạo của Đạo
Cao Đài TTTN
Như người ta đã thấy, đây là cộng tác viên của tạp chí La Revue Spirite (Ba-lê) cũng là
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn của Đạo Cao Đài mà Đức Hộ Pháp ngỏ lời với ông.
Nếu chúng tôi bị bạc đãi khó chịu trong một vài
trung tâm Thần linh học, chúng tôi càng cám ơn ông Hubert Forestier,
bạn thân của chúng tôi. Ông là chủ bút của tạp chí La Revue Spirite, không bao
giờ cản trở việc đăng bài lên báo khả dĩ tạo niềm tin cho các thân hữu Việt
Nam, giúp họ đi ra khỏi danh sách những người
tử đạo.
Trái lại, ông luôn luôn
sung sướng can thiệp vào bằng ơn huệ của ông, đáng kể là giúp tôi dễ dàng làm
nhiệm vụ, trong vài Hội nghị Thần linh học thế giới (Barcelone 1934, Glasgow
1937) và ông cho đăng công khai nhiều tài liệu binh vực Đạo Cao Đài.
Trong các trung tâm Thông
Thiên học, cũng có nhận thức như vậy, một cách tổng quát, mặc dầu có vài phần
tử chống Cao Đài, không khả năng xem xét
lại sự phán đoán ban đầu đã kết tinh có
ảnh hưởng xấu đến những nhà Thông Thiên học khác. . .
Về phần các ông hoàng và
các lãnh chúa của giáo lý huyền bí, của khoa học huyền bí, vài vị trở nên tốt,
tự từ bỏ tánh ngạo mạn của quỉ đã làm say sưa họ và mê hoặc họ !
PHỤNG SỰ ĐẠO CAO ĐÀI
Tôi đã cống hiến nhiều
khoảng thời gian của đời tôi cho Đạo Cao Đài. Tôi đã chia sớt những nỗi cực
nhọc của Đạo, những nỗi đau đớn, những nỗi thất vọng của Đạo vào những lúc bi
thảm, nơi đó, những người lòng dạ hẹp hòi và những đứa con của lòng thù hận
hành hạ và ngược đãi Đạo Cao Đài đủ mọi cách, vô liêm sỉ hay giả dối. Tôi đã
sống trong những sự vui vẻ, những hy vọng, những chiến thắng của Đạo, những lúc
sung sướng mà nơi đó những hiệp sĩ tinh thần và những người thiện chí hòa giải
một cuộc hưu chiến hay nhìn nhận quyền
của Đạo được hưởng nhiều công lý hơn.
Mặc dầu sức khỏe của tôi
bấp bênh, những sự đau đớn nầy tôi đã thọ lãnh, đôi khi được thêm vào những sự
quấy nhiễu gần như hằng ngày làm cho tôi phải chịu đựng suốt nhiều năm dài
trong hoàn cảnh chung quanh là quyến thuộc của tôi. Những thử thách của Đạo Cao
Đài lại thêm vào nữa việc trả quả của tôi, trong một tình huynh đệ đau đớn.
Sau những ngày nặng nề khó chịu, tuyệt vọng,
một tia sáng thỉnh thoảng xuyên qua đám mây và mặt trời quét tan sương mù của dãy núi Ardenne : đó là sức khỏe của tôi, một
lần nữa được hồi phục một thời gian, đó là một vài nhựt báo hay vài lá thư, bởi đường máy bay
hay bởi đường tàu biển từ Đông Dương đem lại cho tôi một tin vui làm tôi mừng
quýnh.
Trong mười ba năm tôi đã sống như thế, đời sống của những huynh đệ của tôi ở Việt Nam hợp chung lại với đời
sống của tôi.
Tôi đã hối tiếc ngàn lần
là tôi không có nhiều uy quyền tinh thần, không có những mối liên lạc hữu ích,
không có tài năng và huệ nhãn để giúp đỡ nhiều hơn các huynh đệ Việt Nam trong
những cố gắng xây dựng cũng như trong sự sầu não thầm lặng. Tôi rất muốn làm thật nhiều cho họ và tôi cảm thấy
rằng, với tất cả sự khiêm tốn, tôi đã làm quá ít !
Xin tha thứ cho tôi, những
huynh đệ tốt bụng và hiền lành Việt Nam, tôi chưa xứng đáng là Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn tại nước Pháp mà quí vị đã chỉ định một cách long trọng, tôi chỉ là một
tín đồ khiêm tốn mà quí vị đã gọi thân mật là : “Anh GAGO”.
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét