Lời
của dịch giả
Khi sưu tầm được quyển HISTOIRE du CAODAISME, cái tên
sách đã cuốn hút tôi, nhứt là tên
tác giả GABRIEL GOBRON. Sau đó tôi lại may mắn sưu tầm thêm được quyển HISTOIRE
et PHILOSOPHIE du CAODAISME cũng của
cùng một tác giả.
Đây là hai quyển sách viết về Lịch sử Đạo Cao
Đài bằng Pháp văn, do một Chức sắc người Pháp,
phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Hiệp
Thiên Đài là ông Gabriel Gobron, viết về lịch sử, giáo lý và triết lý của Đạo
Cao Đài. Hai quyển sách nầy được xuất bản ở Ba-lê, nước Pháp vào hai năm 1948
và 1949.
Khi Đức Hộ Pháp Âu du, Đức
Hộ Pháp dùng quyển sách thứ nhì để giới thiệu về Đạo Cao Đài tặng cho những vị
khách nào muốn tìm hiểu về nền Tân tôn giáo ở Việt Nam.
Nhận thấy hai quyển sách
nầy chứa nhiều tài liệu lịch sử chưa hề được đề cập đến trong các sách Lịch sử
Đạo Cao Đài xuất bản tại Việt Nam, do đó, tôi cố gắng dịch cả hai quyển ra Việt
văn để cống hiến quí đồng đạo.
Vì Ngài Gabriel Gobron ở
nước Pháp thường xuyên hơn ở Việt Nam nên có một vài sự kiện lịch sử ông viết
chưa chính xác, dịch giả xin phép được đính chánh trong phần chú thích ghi bên
dưới để tránh cho quí bạn đạo độc giả không hiểu lầm.
Đây là quyển sách lịch sử,
dịch giả không muốn bỏ sót một chi tiết nào nên cố gắng dịch sát nguyên bản
Pháp văn, do đó các câu văn dịch phải chịu kém phần văn chương.
Trong quyển sách nầy, tác
giả G. Gobron đã dùng nhiều từ ngữ cổ, đôi khi có tính cách địa phương, không
phổ thông, do đó phần dịch ra Việt văn rất khó khăn, nhứt là sách tôn giáo và
triết lý, mà trình độ của dịch giả còn rất hạn chế, nên chắc chắn không thể
tránh khỏi nhiều sai sót.
Ước mong quí độc giả cao
minh nêu ra những chỗ sai sót để dịch giả sửa chữa, hầu sau nầy bản dịch được
khá hơn để hiến dâng Hội Thánh sử dụng. Được như vậy, dịch giả vô cùng cảm tạ.
Dịch giả : Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng.
Tiểu sử vắn tắt của Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn
GABRIEL GOBRON
Ông là một trí thức Pháp,
làm Giáo sư Trung học, làm Ký giả cho nhiều tờ báo ở Pháp, đã nghiên cứu nhiều
về Thần linh học, nên khi Ngài Phối Sư Thượng Vinh Thanh phổ độ ông thì ông
liền theo Đạo Cao Đài vào năm 1931, trong thời gian Ngài Phối Sư sang công tác
nơi nước Pháp.
Năm 1932, Đức Quyền Giáo
Tông và Đức Hộ Pháp phong cho ông phẩm Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, cử ông làm đại diện
Đạo Cao Đài tại Pháp, tham dự các Hội nghị Tôn giáo quốc tế và các Hội nghị
Thần linh học ở Châu Âu.
Ông Gabriel Gobron sanh
ngày 5-7-1895 tại Bayonville tỉnh Meurthe-et-Moselle thuộc vùng Loraine nước
Pháp và mất ngày 8-7-1941 do bịnh nặng tại Rethel quận Ardennes nước Pháp. Ông
Gabriel Gobron nói và viết thông thạo nhiều thứ tiếng ngoài tiếng Pháp : Anh,
Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.
Vợ của ông là Bà
Marguerite Gobron, cũng nhập môn theo Đạo Cao Đài một lượt với ông, được phong
phẩm Nữ Lễ Sanh, sau được thăng lên Nữ Giáo Hữu.
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel
Gobron tham dự nhiều lần các Hội nghị Tôn giáo thế giới, trình bày đầy đủ tôn
chỉ, giáo lý và triết lý của Đạo Cao Đài, đồng thời viết nhiều bài báo binh vực
Đạo Cao Đài và truyền bá Giáo lý Cao Đài. Nhờ vậy nhiều người Âu Châu mới biết
được Đạo Cao Đài.
Ông đau bịnh luôn nên tất
cả bài viết về Đạo Cao Đài được ông giao phó và di chúc cho ông DELECOURT -
GALLOIS sắp xếp và xuất bản sau khi ông
mất.
Ông Delecourt-Gallois giao
cho nhà xuất bản DERVY xuất bản 2 cuốn sách của Gabriel Gobron viết về Đạo Cao
Đài :
- Histoire du Caodaisme,
xuất bản tháng 6 năm 1948.
- Histoire et Philosophie
du Caodaisme, tháng 7 năm 1949.
* Ghi chú: chân dung Ngài Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gobron là : Ảnh sưu tầm
của đạo-hữu Kiệt (Tây Ninh, VN)
HISTOIRE du
CAODAÏSME
(Xuất bản năm
1948)
NOTE DE
L’ÉDITEUR
Pour la compréhension du
livre, nous
prévenons le lecteur que
les textes et
les documents présentés
ici ont été
écrits ou rassemblés par
M. Gabriel
Gobron, entre 1937 et 1939.
Seules les photographies
sont de date récente.
LỜI GHI CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Để nhận thức về quyển sách
nầy, chúng tôi
xin báo trước với độc giả
là những bài và tài liệu
trình bày nơi đây được ông
Gabriel Gobron
viết và tập hợp lại từ năm
1937 đến 1939.
Chỉ có các bức ảnh là mới
thêm vào gần đây.
HISTOIRE du CAODAÏSME
Bouddhisme rénové,
Spiritisme annamite,
Religion nouvelle en
Eurasie.
LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI
Phật giáo canh tân,
Thần linh học Việt Nam,
Tôn giáo mới ở đại lục
Âu-Á.
Nguyên tác của Tiếp Dẫn
Đạo Nhơn
GABRIEL GOBRON
DẪN NHẬP
Đạo Cao Đài
Tiếng “Caodaisme” do chữ
“Cao Đài” mà dịch nghĩa từng chữ là: Đền đài Tối cao. Từ ngữ nầy ở trong các
kinh cầu nguyện rất cổ điển của Phật giáo. Điều nầy đặt nguồn gốc chính của tôn
giáo nầy, trước tiên chúng ta sẽ thấy đó là Phật giáo canh tân.
Tôn giáo mới nầy (Thông
điệp chủ yếu từ năm 1926) có gốc rễ nơi những truyền thống lâu đời nhất của
Phật giáo và những khải thị thanh khiết nhất.
Đạo Cao Đài trong một vài
điểm nào đó, được so sánh với đạo Tin Lành về nguồn gốc đối với Công giáo La
mã. Vả lại, cái khả năng so sánh ấy đã vượt qua trong cái nghĩa lợi lộc, nghĩa
là trong cái nghĩa hòa hợp tốt đẹp, giống như hiện tại cho phép xem xét trong
một tương lai không xa, sự hiệp nhứt của các Giáo hội Công giáo trong một Tổng
Giáo hội Công giáo thống nhứt.
Tính cách đặc biệt của Đạo
Cao Đài là tinh thần tổng hợp. Cho nên, vai trò hòa giải của Đạo Cao Đài có thể
đem lại những đóng góp lớn lao cho nền hòa bình tôn giáo hay nền hòa bình nói
chung.
Không có chủ nghĩa đảng
phái trong Đạo Cao Đài, cũng như thay vì dẫn tới những đối kháng giữa các tôn
giáo, tôn giáo mới nầy đang và sẽ tạo ra, càng lúc càng hơn, mối khuyến dụ
thường xuyên về sự hòa hợp tốt đẹp giữa nhiều sự phục tòng tôn giáo, thần bí,
triết lý hay bí pháp.
Sự hòa hợp tốt đẹp của các
thế lực tâm linh ban cho thế giới sự hài hòa tốt nhất trên tất cả các mặt.
Người bạn đáng thương tiếc
của chúng tôi, Gabriel Gobron, muốn chứng minh cái đẹp, cái chơn thực, cái hiệu
dụng của Đạo Cao Đài bằng cách trình bày lịch sử và cách hành đạo của nền tôn
giáo ấy.
Gabriel Gobron sanh tại
Bayonville ngày 5 tháng 7 năm 1895, đã từ trần ngày 8 tháng 7 năm 1941 tại
Rethel.
Thông thạo nhiều ngôn ngữ,
nhà khảo cứu không mệt mỏi trong thế giới thần linh và linh hồn, tiểu thuyết
gia, sử gia, ký giả, giáo sư, Gabriel
Gobron là người hiếu kỳ và mãi mãi là người hiếu kỳ. Cao thượng, lòng quảng đại
tràn ngập tinh thần, Gabriel Gobron là nhà bút chiến hăng hái.
Chắc chắn là người hiếu
kỳ, nhưng không phải xu hướng tài tử, khi ông nghĩ rằng mình đã phát hiện một
cái đẹp tinh thần, một chơn lý triết học hay tôn giáo, ông muốn phổ biến cho
mọi người biết ngay và chia sớt với họ. Ông không ngần ngại đả kích luôn luôn
hăng hái những ai mà dưới mắt ông muốn che đậy sự thật. Chính vì thế, ông đã
khám phá ra Đạo Cao Đài và chính vì thế ông đã đấu tranh đến hơi thở cuối cùng,
cầunguyện cho tôn giáo ấy phát triển. G. Gobron là người đại trí, nhứt là một
người cao thượng.
Sau giai đoạn sưu tầm,
nghiên cứu và khám phá từ năm 1930, G . Gobron là nhà
truyền giáo xác tín, một người thọ giáo sáng suốt và chẳng bao lâu sau ông
chính thức được Đạo Cao Đài tín nhiệm ở phương Tây và đặc biệt ở Pháp.
Những buổi thuyết giảng,
những bài báo, những công trình nghiên cứu tiếp nối nhau với những bài chưa in,
đã tạo thành một tập ký lục dày mà quyển sách nầy, xuất bản sau khi G. Gobron
mất, là một trong những phần chánh.
Vì vậy, tác phẩm nầy tạo
thành một thông điệp chính xác của thế giới vô hình. Đối với chúng tôi, đây là
một tác phẩm rất an ủi, khi hoàn thành bài nầy, than ôi ! rút lại chỉ còn có
200 trang.
Thông điệp của thế giới vô
hình, tác phẩm nầy xuất bản sau khi Gabriel Gobron mất, chúng tôi hy vọng, sẽ
được đón nhận một cách đặc biệt bởi đông đảo bạn bè thần linh học của tác giả,
người đã đóng góp rất nhiều bằng ngòi bút, lời nói và sự thực nghiệm cho Thần
linh học.
Có thể nói, Thần hinh học
đã đưa Gabriel Gobron đến với Đạo Cao Đài, bởi vì như thế chúng ta sẽ thấy, tôn
giáo nầy chính thật là Phật giáo canh tân, đã có nơi nguồn gốc và bảo tồn đến
nay những sợi dây liên lạc chắc chắn với Thần linh học. Do đó nơi tác phẩm nầy,
Gabriel Gobron có ghi tiểu đề thứ nhì là: Thần linh học Việt Nam.
Bởi tôn trọng để kỷ niệm
tác giả, cũng như để chính xác trong sự trình bày, chúng tôi giữ nguyên hai
tiểu đề xem như hoàn hảo:
Đừc Hộ Pháp đọc di cảo của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
Đạo Cao Đài,
Phật giáo canh tân, và
Thần linh học Việt Nam .
Để cho đầy
đủ, chúng tôi có thể nói thêm : Sự tổng hợp các tôn giáo. Làm như thế là lấn sang
một tác phẩm khác mà chúng tôi hy vọng sau nầy sẽ công bố nếu như chúng tôi
được sự khích lệ cần thiết. Những sự khích lệ ấy là một việc thuần túy tinh
thần.
Vì Đạo Cao Đài xuất phát
từ Thần linh học để canh tân Phật giáo
và sau đó sẽ phát triển trong sự tổng hợp hài hòa các tôn giáo. Như thế, đạo
chẳng mất đi những ưu điểm trong nguồn gốc Thần linh học, cũng không trong
nguồn gốc tạo thành của Phật giáo.
Là khoa Thông Thiên học
thực sự, giáo lý Đạo Cao Đài, với sự chọn lọc hoàn hảo, thu hút tất cả cái
Thiện cái Mỹ của các tôn giáo khác, nhứt là những tinh hoa trong luân lý thực
hành, hoặc trong lễ nghi, hoặc trong triết lý.
Tánh khiêm cung của “Anh
Gago” (đó là tiếng mà các tín đồ Cao Đài ở Đông Dương gọi Gabriel Gobron) khiến
ông vui lòng giới hạn vai trò mình là người tranh luận bênh vực và truyền bá nền
Tân tôn giáo. Những nghiên cứu, sự thiền định, sự thần bí của Gago làm cho ông
xứng đáng hơn nữa. Ta có thể nói rằng, ngày hôm nay, Gago là một triết gia đầu
tiên và một sử gia đầu tiên của Đạo Cao Đài.
Công trình của ông dường
như chưa hoàn thành khi ông từ bỏ đời sống hằng ngày để đi vào cõi Đông phương
vĩnh cửu; với sự phát hành sách nầy, giá trị sử gia của Đạo Cao Đài được xác
nhận.
Từ thế giới vô hình, Anh
Gago sẽ soi sáng và che chở chúng ta vì đó là ý muốn sâu thẳm trong đức tin của
ông.
Một cách thành kính, chúng
ta hãy nghe ông nhận lãnh sứ mạng với sự khiêm tốn hoàn toàn tính cách Cao Đài
:
“ Nếu tôi nhận lãnh vai
trò khô khan của một sử gia đầu tiên của Đạo Cao Đài, chính là vì những huynh
đệ và thân hữu Việt Nam của tôi đã phán đoán trong sự khoan dung thái quá của
họ rằng tôi là một trong những người phương Tây có nhiều tài liệu nhứt về sự
tiến triển và những khổ não của Đạo Cao Đài.
“ Một sức khỏe mong manh
khó giúp tôi hoàn thành bổn phận nặng nề của một nhiệm vụ như thế. Tôi xin lỗi
quí độc giả chú ý, kế bên tất cả khiếm khuyết trong công việc của tôi, tôi chỉ
cầu xin quí vị nhất là tha lỗi cho tôi, khi nó đưa tôi đến chỗ quá đáng, nghĩa
là của tình huynh đệ, cả với các vị đối nghịch và kẻ thù rằng : Đây là một tín
đồ Cao Đài không xứng đáng, nó cũng không đi đến quyền lực của lãnh chúa, người
bịnh sẽ vứt bỏ cái mũ của nó trong sự tức giận và chà đạp lên những văn phẩm
thần thánh của Đấng Christ, của Đức Phật, Đức Khổng…”
Với sự sám hối, chúng tôi
gởi đi thông điệp nầy, cuối cùng, chúng tôi im lặng để độc giả, thoát khỏi
những lời phê bình của chúng tôi, đọc di cảo đầu tiên nầy của Gago.
NGUỒN GỐC
THẦN LINH HỌC Việt Nam
Mục sư Stainton Moses lui về ẩn dật tại núi Athos
trong 6 tháng, trong khoảng thời gian nầy, ông nghiên cứu Thần học và đối chiếu
các lý thuyết trái nghịch nhau. Việc làm
tuyệt vời nầy đem lại cho tâm trí ông, từ chỗ thiên về khuôn phép, giáo điều,
không khoan dung, đến chỗ khiêm tốn hơn, minh triết và chơn thực. Sau đó, ông
được bổ nhiệm đến ở trong một ngôi nhà nhỏ của Mục sư thuộc đảo Man. Nơi đây,
các thú nhàn rỗi không thiếu : cảnh thiên nhiên, đọc sách, cầu nguyện, thiền
định, trầm tư mặc tưởng về thần bí, làm cho ông thành một nhà giảng đạo rất
thương tâm : Đấng Thượng Đế đã nắm chặt lấy ông và xem chừng như không buông
thả ông, như xưa kia ma quỉ không buông thả Socrate. Thượng Đế dẫn Mục sư
Stainton Moses đến trường đại học Oxford, biến ông thành một trong những công
cụ quí báu nhứt của “Tân Thiên khải”, một trong những đồng tử linh cảm nhất trong thế kỷ của chúng ta.
Chính cũng trong cảnh cô tịch, yên tĩnh, ẩn dật mặc tưởng mà Đấng Cao Đài tìm thấy
người tín đồ đầu tiên của Ngài.
Chẳng có đền thờ nào đẹp hơn thiên nhiên, chẳng
cóquyển sách nào thiêng liêng hơn quyển sách đời : Đức Jésus lui về vườn Gethsémani
cũng tại sa mạc; Thánh François d’Assise nói về Thần mưa, Thần gió, về những
ngôi sao im lặng, về những con chim én lắm lời và sờ bàn tay lên mõm của con
chó sói Gubbio rồi dắt nó về nơi Ngài như dắt một con chó hiền từ ngoan ngoãn.
Nhà tự nhiên học Thụy điển Bengt Berg có
thể làm cho con Lahol, một con chim rất nhát ở miền Laponie, đẻ trứng và ở
trong lòng bàn tay của ông. (Mon ami le pluvier, Stock). Nơi nào Thánh nhân cư
ngụ, đất chỗ đó là Thánh địa và thiên nhiên là huyền bí.
Người tín đồ Cao Đài đầu tiên
Đạo Cao Đài được thành lập
chánh thức từ năm Bính Dần (1926), nhưng từ 6 năm trước đã có một người thờ
phụng Đấng Cao Đài : đó là ông Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu, sau đó ông tòng sự tại
Phòng nhì của Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
Là Quận Trưởng hành chánh
vào năm 1919 tại Phú Quốc (một hòn đảo trong vịnh Thái Lan), Ngài Ngô Văn
Chiêu sống cuộc đời hiền đức theo đúng
điều luật chặt chẽ của Lão giáo. Trong địa phương hẻo lánh ấy lại thích hợp với
đời sống tu hành, thỉnh thoảng nhờ những đồng tử nhỏ tuổi, từ 12 đến 15 tuổi,
ông Phủ Chiêu tổ chức các đàn cơ Cầu Tiên, nhận được những lời giáo huấn cần
thiết cho sự tiến hóa tâm linh. Trong số những Đấng tiếp xúc được, có một Đấng
tự xưng là “Cao Đài”, quan tâm đặc biệt đến ông Phủ Chiêu.
Lúc đầu, cái tên ấy làm kinh
ngạc những người hiện diện, bởi vì không có một quyển sách tôn giáo nào ghi
chép việc nầy. Tuy nhiên, ông Phủ Chiêu mà sự mẫn tiệp của ông làm cho bạn bè
ngưỡng mộ, nhận ra rằng đó là biệt danh của Thượng Đế, vì bởi những khải thị và
những giáo huấn triết lý ở trình độ cao mà ông đã lãnh hội được nhiều lần.
Ông Phủ Chiêu xin phép
Đấng Cao Đài cho ông được phụng thờ Ngài dưới một hình thức xác thực và ông
được lịnh tượng trưng Ngài bằng một con Mắt làm biểu hiệu.
Đó chính là sự nhập môn
của người tín đồ Cao Đài đầu tiên vào tôn giáo mới và tôn giáo nầy 6 năm sau
được lập nên ở Sài Gòn.
Chẳng bao lâu sau, ông Phủ
Chiêu được đổi về thủ đô Sài Gòn, nơi đây, ông thuyết phục được vài người tin
theo đạo mới và gia nhập đạo.
Nhưng, chúng ta hãy tạm
rời những người nhập đạo mới đầu tiên ấy
trong giây lát để chỉ cho độc giả biết cách thức mà Đấng Cao Đài tuyển mộ các
đồng tử.
Vào giữa năm Ất Sửu
(1925), một nhóm nhỏ các thơ ký người Việt Nam thuộc nhiều nghiệp vụ hành chánh
khác nhau tại Sài Gòn, tiêu khiển vào mỗi buổi tối bằng việc thông công với
người vô hình theo lối Thần linh học. Họ dùng cái “bàn gõ” (table frappante).
Những thử nghiệm đầu tiên không kết quả. Nhưng với sức nhẫn nại và kiên trì, họ
đạt được những kết quả tích cực.
Với những câu hỏi đặt ra
cho các Đấng chơn linh, hoặc bằng thơ, hoặc bằng văn xuôi, họ nhận được những
câu trả lời đáng kinh ngạc. Cha mẹ hay bạn bè quá cố của họ hiển linh để nói
với họ những việc gia đình và đồng thời khuyên họ hy sinh quên mình. Những phát
hiện xúc động ấy giúp họ nhận biết sự hiện hữu của thế giới huyền bí.
Tuy vậy, có một Đấng
thiêng liêng thông công được rất đáng chú ý vì sự ân cần của Ngài và những điều
giáo hóa của Ngài về đạo đức và triết lý ở một mức độ rất cao. Đấng ấy ký dưới
tên giả là “A à ”, không muốn cho biết về Ngài, mặc dầu có những lời cầu
nguyện của những người tham dự.
Sau đó, những ông thơ ký
Việt Nam khác đến tham gia làm đông đảo thêm nhóm xây bàn tài tử. Những đàn Cầu
Tiên được tổ chức nghiêm túc hơn và đều đặn hơn.
Vì việc dùng cái “bàn gõ”
không tiện lợi, nên một Đấng thiêng liêng bảo phải thay thế bằng “Ngọc cơ”. Với
Ngọc cơ, các Đấng có thể viết chữ trực tiếp, việc thông công tự nhiên được
nhanh hơn và các đồng tử phò cơ đỡ mệt hơn.
Ngày 24-12-1925, nhân dịp
Lễ Noel, Đấng thiêng liêng dẫn dắt bấy lâu nay, vẫn khăng khăng giữ nặc danh,
nay tiết lộ với các vị phò cơ, Ngài là Đấng Thượng Đế đến dưới tên gọi là Cao
Đài để truyền dạy chơn lý tại nước Việt Nam.
Diễn tả bằng tiếng Việt
Nam, Ngài nói đại ý như sau :
“ Hãy vui hưởng ngày lễ
nầy. Đây là lễ kỷ niệm ngày Ta đến Âu châu để dạy đạo. Ta rất vui lòng gặp các
con, những tín đồ đầy lòng kính trọng và yêu mến Ta. Ngôi nhà nầy của một trong
các vị phò cơ sẽ có tất cả ơn phước của Ta. Những biểu hiện Toàn Năng của Ta sẽ
khiến các con còn kính mến Ta hơn nữa.”
Từ đó, Đấng Cao Đài truyền
thụ nền Tân giáo lý cho các tín đồ.
Đây chính là sự tuyển chọn
các đồng từ đầu tiên có phận sự tiếp nhận các Thánh Ngôn (thông điệp thiêng
liêng).
Về ông Phủ Chiêu, người
tín đồ Cao Đài đầu tiên, tạp chí La Revue Caodaiste (số 22 tháng 3 năm 1933),
nhân dịp ông từ trần, cho chúng ta biết vài chi tiết.
Gia đình và Bà Giáo Hữu Marquerite Gobron vợ của Ngài Tiếp Dẫn Đạo Nhơn ra phi trường tiếp đón Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa.
Gia đình và Bà Giáo Hữu Marquerite Gobron vợ của Ngài Tiếp Dẫn Đạo Nhơn ra phi trường tiếp đón Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa.
I .
Thời thơ ấu : Ông Phủ Ngô Văn Chiêu chào đời ngày 28-2-1878 tại Bình Tây (Chợ Lớn)
trong một ngôi nhà nhỏ ở phía sau chùa Quan Đế. Ngay khi sanh ra, cậu bé từ
chối bú sữa mẹ, nên phải thay sữa mẹ bằng nước cháo.
Cha mẹ của cậu rất nghèo,
sau đó dọn nhà về Mỹ Tho và giao cậu cho người cô để được cô gởi cậu đi học.
Vốn rất thông minh, ở tuổi
12, cậu đã dám đến gặp quan Chủ Tỉnh Mỹ Tho để xin học bổng và được chấp thuận.
Cậu được nhận vào học sinh nội trú có học bổng bậc tiểu học, rồi trung học tại
Collège Mỹ Tho. Cậu đã hăng hái làm việc
và đã trúng tuyển kỳ thi tuyển Thư ký Hành chánh. Thời bấy giờ, việc làm nầy là
điều mơ ước của những học sinh có bằng cấp Thành Chung. Ở tuổi 21, người thanh
niên ấy vì không có điều kiện học xa hơn
nữa, nên bằng lòng bước vào cuộc đời công chức để giúp đỡ cha mẹ.
II . Cuộc sống
công chức và Thiên chức tôn giáo :
Người công chức ấy (ông
Chiêu) khởi đầu được bổ dụng vào Sở Di Trú tại Sài Gòn, làm việc trải qua 3 năm
từ 1899 đến 1902. Vốn là người có khuynh
hướng tôn giáo, ông thích kể chuyện các vị Thánh và những chuyện mạo hiểm của
các vị Tiên ở nước Trung hoa thời cổ, mà ông được bè bạn người Tàu kể cho nghe
trong thời gian ở nhà người cô, có chồng là người Tàu. Một hôm, một người bạn
gặp ông đang kể chuyện các vị Thánh cho các học trò Tàu ở Chợ Lớn mà ông thường
đến dạy kèm vào buổi tối.
Ông rất tôn kính các bậc
Thần Thánh. Tại nhà của ông, ông lập bàn thờ Đức Quan Thánh Đế Quân và thường
tụng kinh Minh Thánh, quyển kinh mà chơn linh Quan Thánh nhập vào một người có
đạo đức cao viết nên và ông đã ăn chay 2 ngày mỗi tháng.
Vào năm 1902, nơi đàn cầu
cơ lập ra ở Thủ Dầu Một, ông đến hầu đàn, một vị Đại Tiên giáng đàn tiết lộ cho
ông biết sứ mệnh tôn giáo và khuyến khích ông sớm theo Đạo.
Nếu chúng ta tham khảo tạp
chí “Ấn Độ tranh ảnh” có loạt bài đề cập tới những biểu hiện khác nhau về tôn
giáo tại Ấn Độ thuộc Anh, tại Thái Lan, Trung hoa, Nhựt bổn và Phi Luật Tân, vv
. . . , chúng ta thấy trong tạp chí số 2 tháng 3 năm 1933, một khảo cứu về Đạo
Cao Đài ở Nam Kỳ. Chúng ta đọc qua đề tài về nguồn gốc của tôn giáo ấy :
“ Mới đây (1929), Đạo Cao
Đài đã phổ biến nhanh chóng và lan rộng khắp Nam Kỳ
Nguồn gốc : Đầu năm 1926,
một vài trí thức trẻ người Việt Nam, tất cả đều là tín đồ Phật giáo, tụ họp
trong một căn nhà nhỏ tại trung tâm Sài Gòn. Họ thường xây bàn để thí nghiệm về
Thần linh học.
Sau giai đoạn dò dẫm, họ
hoàn thành và nói rằng họ đạt được những kết quả đáng kinh ngạc khi dùng những
người bạn có khả năng tiếp điển mạnh mẽ.
Khởi đầu trong việc giao
tiếp thiêng liêng, một trong những vị Tiên của Trung hoa cổ là Lý Thái Bạch,
Homère của Trung hoa, người đã canh tân văn học Trung quốc vào triều đại thứ 13
nhà Đường (713 - 742) và là một tín đồ Lão giáo nhiệt thành.
Như thế, một lần nữa,
chúng tôi đã chứng minh được tiểu đề : Đạo Cao Đài hay Thần linh học Việt Nam.
Nhân chứng người Pháp
Đó là ông Jean Ross, cộng
tác viên của báo “Le colon français” ở Hải Phòng, viết về nguồn gốc của Đạo Cao
Đài :
“ Năm 1926 ! Chúng tôi đang ở vào đầu năm.
Trong vài ngày nữa là đến
Tết Việt Nam. Cách chợ trung tâm không xa, trên con đường thẳng góc với đại lộ
nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn, một dãy phố có vẻ đơn sơ là nơi ở của phần đông các
công chức thuộc cơ quan hành chánh lớn và các công ty. Tại một trong những căn
phố đó, từ nhiều tháng nay, những thơ ký trẻ của sở thuế, sở công chánh, sở hỏa
xa, của công ty, . . . (ở xa nên không ghi rõ), tụ họp nhau vào buổi tối sau
giờ làm việc ở sở, giải trí với nhau bằng cách
Xây bàn, làm cho cái
bàn nói được.
Họ là những tín đồ Phật
giáo tất cả (1). Họ bắt đầu như thế nào ?
Một trong những người ấy đã nghe nói về Thần linh học, về Xây bàn trong sở làm việc, nơi mà một trong những ông sếp của ông ta,
gốc Nam Kỳ, là một tín đồ Thần linh học
xác tín, đại diện của Hội Thần linh học quan trọng nhứt của nước Pháp. Ông ta
nói lại cho nhiều bạn nghe và một ngày đẹp trời, bốn người bạn ấy ngồi vây
quanh một cái bàn.
“ Cứ thử xem có được không
? Có thật không ? Họ đã bảo nhau như thế. Những kết quả buổi đầu luôn luôn
không sáng sủa, nhưng dần dần họ loại bỏ những người không có khả năng tiếp
điển thiêng liêng và thay vào đó là những bạn có thiên tư hơn, họ ghi nhận được những kết quả kỳ diệu.
Họ đặt những câu hỏi cho
cái bàn và họ đều nhận được câu trả lời. Họ hỏi rằng có phải họ giao tiếp được
với Thần linh ? Câu trả lời khẳng định
là : đúng.
Chuyện trở nên nghiêm túc.
Mỗi lần thí nghiệm, họ hỏi danh hiệu của vị Thần linh giáng bàn nói chuyện với
họ. thường là những vị Thánh hiền thời cổ Trung hoa như Lý Thái Bạch hay Quan
Thánh Đế Quân, đôi khi là một Đấng vô danh. Việc làm lúc đầu chỉ là một trò
giải trí với chủ nghĩa thần bí vốn rất quen thuộc với tâm hồn người Việt Nam,
về sau trở thành cuộc nói chuyện có tính đặc ân với các Đấng Thần linh thượng
đẳng của thế giới huyền bí mà họ cầu xin những lời khuyên bảo.
Không hề có một nghi ngờ
nào về tính cách chơn thật của các cuộc nói chuyện đó, trước hết vì tất cả
những người
Chú thích của dịch giả: (1) Đính chánh: Nhóm xây bàn
đó có 4 ông : Phạm Công Tắc theo
Công giáo, 3 ông: Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu và Cao Hoài Sang thì chưa có tín
ngưỡng tôn giáo.
tham dự đều cùng xuất phát
từ một điểm khởi hành, họ không thể nghi ngờ trò lừa bịp của một ai trong bọn
họ, kế đó, vì sự thông linh với thế giới huyền bí làm họ phát hiện được những
sự nâng cao tình cảm, những kiến thức khoa học và triết học sâu sắc mà không
một ai trong bọn họ có thể là tác giả.
Nhưng việc sử dụng cái bàn
xây để trao đổi với thế giới vô hình, thật sự không được tiện lợi ! Phải mất nhiều thời gian mới nhận được một
câu trả lời.
Chính vào thời kỳ mà tôi
nói (tác giả G. Gobron), nghĩa là trước Tết Bính Dần (1926), họ thố lộ tâm tình
với Thần linh mà họ tiếp xúc. Vị ấy trả lời là nên dùng Ngọc cơ.
Họ thỉnh cầu chỉ dẫn Ngọc
cơ gồm có những gì ? (Những người nầy ước chừng không thông thạo Thần linh học
hay chỉ tham dự một đàn Cầu Tiên duy nhứt nên họ chỉ mới tập sự). Đấng Thần
linh khuyên họ nên đến hỏi một người đồng bào của họ là ông Phủ Chiêu, rất
thông thạo về cách cầu cơ trong Thần linh học (2), bởi vì rất khó mà làm cho
hiểu được với phương tiện là một cái bàn cử động.
Lúc đó, Đạo Cao Đài sắp
được sáng lập hay nói đúng hơn là sắp bước vào giai đoạn được quần chúng biết đến, bởi từ nhiều năm nay, như chúng ta
đã thấy, có một người thờ phụng Đấng Cao Đài. Người nầy theo giáo lý của Đức
Phật Thích Ca, không ai khác hơn là ông Phủ Chiêu.
Chú thích của dịch giả : (2) Đính chánh : Lúc bấy giờ nhóm 4 vị xây
bàn chưa liên lạc với ông Phủ Chiêu. Việc cầu cơ là do Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi
ông phán Phan Văn Tý thuộc Chi Minh Thiện. Ông Tý cho mượn một cây Ngọc cơ và
hướng dẫn quí ông cầu cơ. (Xem Đại Đạo Truy Nguyên của Huệ Chương). Việc Xây
bàn là theo Thần linh học phương Tây, nhưng việc Cầu cơ thỉnh Tiên là theo Lão
giáo, từ đạo Minh Sư bên Trung hoa truyền qua VN.
Ngoài luân lý đạo đức của
Đức Phật và Đức Khổng Tử mà ông Phủ Chiêu sùng kính như những biểu hiện thiêng
liêng, ông còn tin tưởng sự hiện hữu của Thượng Đế Toàn năng, là Chúa tể càn
khôn vũ trụ mà ông gọi là Đấng Cao Đài. Ông cũng tin tưởng các Đấng thiêng
liêng mà ông đã liên lạc được trong nhiều năm.
Phẩm hạnh của vị tín đồ
Cao Đài đầu tiên ấy rất gương mẫu, người mà các thanh niên được gởi tới để học
hỏi.
Đồng bào của ông Phủ
Chiêu, toàn thể đều xem ông như một vị Thánh sống. Ông chỉ bảo các vị thơ ký cách dùng Ngọc cơ
(mà sau nầy tôi sẽ có dịp quay trở lại) giúp cho những buổi cầu cơ được dễ dàng
rất nhiều. Chính ông cũng trực tiếp tham dự, hân hoan sử dụng các đồng tử có
đặc khiếu, thành thạo, có khả năng tiếp điển mạnh mẽ lạ thường.
Sau khi đến liên lạc với
ông Phủ Chiêu, cũng trong hoàn cảnh tương tự và theo sự chỉ bảo của Đấng thiêng
liêng nói trên, các vị thơ ký ấy đến tìm nhà của một người đồng bào khác, là cựu quan chức Nam kỳ, cựu Nghị viên
Thượng Nghị viện Đông Dương, Lê Văn Trung (3), người cũng tự mình thỉnh thoảng
tham dự các đàn cầu cơ. Những người thơ
ký trẻ tuổi chưa hề biết tên Lê Văn Trung trước khi Đấng thiêng liêng chỉ dẫn.
Ông Trung trước kia không sống đời đạo đức
Chú thích của dịch giả : (3) Đính chánh : Nhóm thơ ký trẻ gồm các vị : Cao
Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, theo lịnh của Đức Chí Tôn đến gặp Ngài
Lê Văn Trung trước khi đến với ông Phủ Chiêu. Trước khi nhóm thơ ký trẻ đến tìm
ông Trung thì ông Trung đã đến hầu đàn ở Chợ Gạo Phú Lâm, được Đức Lý Thái Bạch
độ ông bằng cách dùng huyền diệu làm cho đôi mắt của ông sáng lại (vì trước
đây ông bị bịnh quáng mắt). Sau khi Ngài
Trung gia nhập nhóm, Đức Chí Tôn ra lịnh quí ông đến gặp ông Phủ Chiêu để hỏi
về cách thờ phượng Đức Chí Tôn.
gương mẫu, mà lại thích
hưởng thụ những gì có thể được. Vào thời điểm trước khi những thơ ký trẻ tuổi tìm đến ông để xin lời
chỉ bảo, thì ông Trung đã tiêu phá gần hết gia tài của ông.
Trước 50 tuổi, ông Lê Văn
Trung, dưới con mắt của mọi người, là một người đam mê vật chất, tham dự cầu cơ
một cách tài tử, xem như là lời dặn trước của Đấng Thượng Đế, chỉ định ông hiệp
với ông phủ Chiêu mà ông Trung đã quen biết từ lâu, để chỉ đường mở lối cho các
vị trẻ tuổi đã theo Thần linh học. Kể từ ngày ấy, ông Trung quyết định sống
cuộc đời gương mẫu và tỏ ra xứng đáng với sứ mạng mà Đấng Cao Đài giao phó. Vì
thế, ông ngưng hút thuốc phiện một cách đột ngột mà không thấy khó chịu. (Những
tín đồ Cao Đài nói rằng, điều đó chứng tỏ ông Trung được Đức Chí Tôn phù hộ, vì
một người khác không thể cai thuốc dễ dàng như thế). Ông cử uống rượu, cử ăn
thịt cá, trở nên ăn chay thật sự và sống khổ hạnh như những vị hòa thượng khắc
khổ nhất.
Sự nhập đạo nhiệm mầu nầy
lôi cuốn một số đông môn đệ đầu tiên thường thuộc những gia đình khá giả hay
đang nắm chức vụ cai trị khá cao, nhứt là ông Phủ Tương đang làm việc trong
tỉnh Chợ Lớn, như là bạn đồng liêu của ông Phủ Chiêu, là một người có đạo đức
cao, luôn luôn thực hành nhơn đạo của Đức Khổng Tử, ông Đốc phủ Lê Bá Trang,
ông Huyện hàm Nguyễn Ngọc Thơ và bạn đời của ông là bà góa phụ Monnier, người
Nam Kỳ, rất giàu, từ nhiều năm đã dùng một phần tiền thu nhập vào các công việc
từ thiện.
Ông Phủ Chiêu là người
được chỉ định trước tiên vào chức vụ chỉ huy tối cao của nền Tân tôn giáo, Giáo
Tông của Đạo Cao Đài, nhưng ông Phủ Chiêu né tránh nên Ngài Lê Văn Trung được
chỉ định thay thế.
Tôi (tác giả G. Gobron) có
hỏi một trong những Chức sắc cao cấp, những lý do vì sao ông Phủ Chiêu có thái
độ như vậy ? Vị ấy trả lời cho tôi biết
rằng ông Phủ Chiêu chính là tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, đã làm
tròn phận sự lãnh đạo tối cao của nền tôn giáo, nhưng ông tỏ ra không đủ khả
năng vượt qua các thử thách mà Thượng Đế đã định cho ông, cũng như đã đặt ra
cho tất cả vị lãnh đạo cao cấp khác, trước khi nâng phẩm vị họ lên một bậc trên nấc thang mà tột đỉnh là sự hoàn
thiện. Do đó, ông phải chuộc lại sự yếu đuối mà ông đã từng chứng tỏ, trước khi
lấy lại địa vị mà ở quá khứ dành quyền
cho ông.
Giáo Tông của Đạo Cao Đài
Sự nhập đạo của Ngài Lê
Văn Trung, người trở thành Giáo Tông của Đạo Cao Đài, là một trong những biến
cố lớn ở Đông Dương.
Đó là vào năm 1925, ông
Trung ở Chợ Lớn, say mê vào công cuộc kinh doanh, trong cảnh huyên náo của một
thành phố vốn tôn thờ tiền bạc, ông hoàn toàn xa lánh tôn giáo. Một buổi chiều,
theo lời mời của một người bà con, vốn là một tín đồ xác tín Thần linh học
thuộc Chi Minh Lý ở Sài Gòn (Chi nầy
giống như Minh Tân, Minh Thiện, phát
sinh từ Thần linh học trong những năm trước 1925 - Lời chú thích của tác giả),
ông đến dự một đàn cầu cơ tại Chợ Gạo trong vùng ngoại ô.
Tại buổi hội nhóm nầy, Đức
Lý Thái Bạch giáng đàn, nói riêng với
ông Trung, tiết lộ nguyên căn thiêng liêng của ông, đồng thời báo cho ông biết
sứ mạng tôn giáo sau nầy của ông. Đức Lý khuyến khích ông Trung sớm đặt mình
vào nền tôn giáo mới. Xúc động vì ân sủng, ông Trung không ngần ngại thay đổi
cách sống. Được sự nâng đỡ của đức tin, ông Trung can đảm bỏ hút thuốc phiện ngay và bắt đầu ăn chay; ông cũng từ bỏ công
việc kinh doanh để có thể hiến dâng hoàn toàn cho tôn giáo.
Sự nhập đạo của vị nầy,
mới hôm qua còn tha thiết của cải và sự hưởng thụ cuộc đời, thật quá rõ ràng để
người ta tự hỏi, phải chăng cho đến hôm đó, những đàn cầu cơ tổ chức tại Chợ
Gạo, đã được thúc giục lập ra bởi các Đấng với sứ mạng truyền giáo, trong mục đích duy nhứt là dìu dắt ông
Lê Văn Trung trở lại con đường Đạo Pháp.
Cho nên, khi ông Trung
quyết định sống theo Đức tin mới mà ông vừa tiếp thu được, các Đấng thiêng
liêng liền ra lịnh giải tán nhóm đồng tử Thần linh học (nơi đàn Chợ Gạo) trong sự
kinh ngạc và đau buồn sâu đậm của những người trong nhóm.
Tại Sài Gòn, Đấng Cao Đài
nhận thấy đã đến lúc đem những đồng tử xây bàn của Ngài tiếp cận với ông Lê Văn
Trung. Ngài gởi hai trong số những đồng tử nầy (ông Cư và Tắc) đến nhà ông Trung với lịnh truyền là tổ chức
tại đó một đàn cầu cơ để Ngài ban cho những lời giáo huấn.
Ông Trung, không quen biết
những đồng tử nầy, nhưng vẫn chấp nhận lời đề nghị của họ khi đã biết lý do mà
họ tìm đến ông. Một đàn cầu cơ được thiết lập. Đấng Cao Đài, giữa những lời
giáo huấn, báo cho ông Trung biết sứ mạng trọng đại sắp tới của ông trong nền
Tân tôn giáo mà Ngài sắp lập ra để cứu độ nhơn loại.
Sự tiết lộ nầy xác nhận những
lời bóng gió trong những Thánh giáo khác
nhau mà ông Trung đã nhận được từ đàn Chợ Gạo với những đồng tử khác. Sự kiện
đó củng cố thêm lòng tín ngưỡng của ông và khuyến khích ông hiến dâng trọn vẹn
cho công cuộc hành đạo.
Sau đó ít lâu, Đấng Cao
Đài gởi quí ông Trung, Cư, Tắc đến gặp ông Phủ Chiêu, người sẽ hướng dẫn họ
trong con đường đạo với tính cách là một người Anh Cả. Về phía ông Phủ Chiêu,
ông đã được Đấng Cao Đài cho biết trước, nên tiếp đón ba vị khách trên một cách
thân ái. Ông liền đưa ba vị khách đến
tiếp xúc những đồng đạo đầu tiên của ông.
Cái hạt nhân của Đạo Cao
Đài được hình thành gồm 12 người, tất cả đều học thức trong văn hóa Pháp, đều
là công chức mà phần lớn trong các cơ quan hành chánh tại Sài Gòn.
Lòng nhiệt thành và tinh
thần bất vụ lợi của các vị tiên phong, trong những ngày giờ đầu tiên, thu hút
một số đông tín đồ mỗi ngày mỗi nhiều. Đạo Cao Đài thoát khỏi phạm vi giới hạn
nhỏ hẹp, truyền bá khắp trong dân chúng vào đầu năm Bính Dần (1926).
Ông Phủ Chiêu, quen với
cảnh sống cô tịch, cảm thấy trái ý bởi sự qui tụ đông đảo tín đồ, làm cho ông
lo lắng. Là một công chức có ý thức trong các nhiệm vụ, ông quyết định từ đây
lánh xa phong trào tôn giáo lớn mạnh nầy.
Ngài Lê Văn Trung được
Đấng Cao Đài chỉ định thay ông Phủ Chiêu vào cuối tháng tư năm ấy.
Những Thánh Thất đầu tiên
Những đàn cầu cơ tiếp tục
được tổ chức ngày càng nhiều tại các tư gia và phần lớn là tại các Thánh Thất,
trong đó có các trung tâm sau đây : Chợ Lớn, Cần Giuộc, Lộc Giang, Tân Định,
Thủ Đức và Cầu Kho.
Hai đồng tử được bổ nhiệm
đến mỗi Thánh Thất để tiếp nhận các Thánh giáo của Đấng Cao Đài. Sự thu nhận
các tân tín đồ cũng được quyết định tại nơi đó. Các tín đồ đến gia nhập hằng
loạt, làm tăng thêm đến hằng trăm người đăng ký nhập môn trong mỗi kỳ đàn.
Tuyên ngôn chánh thức của Đạo Cao Đài
Tôn giáo mới phát triển
rất nhanh vì được dân chúng tiếp nhận nồng nhiệt. Lo lắng cho hoạt động giữa
thanh thiên bạch nhựt và giữ trong giới hạn của phạm vi pháp luật nghiêm nhặt,
các nhà lãnh đạo đưa ra một Tuyên ngôn chánh thức có 28 người ký tên, được gởi
đi ngày 7-10-1926 đến ông Thống Đốc Nam Kỳ. Đính kèm theo Tuyên ngôn nầy là
danh sách các tín đồ ký tên gồm 247 người hiện diện trong buổi lễ công nhận sự
hiện hữu chánh thức của Đạo Cao Đài.
Việc truyền đạo
Sau khi bản Tuyên ngôn
được chánh quyền địa phương lịch sự tiếp nhận, các nhà lãnh đạo của nền Đại Đạo
tổ chức các đoàn truyền giáo trong quốc nội.
Có tất cả ba đoàn truyền
giáo : một cho các tỉnh miền Đông, một cho các tỉnh ở Trung ương và một cho
miền Tây.
Chưa đầy hai tháng, hơn 20
ngàn người cải giáo nhập môn vào Đạo Cao Đài, trong đó có nhiều nhân sĩ bản xứ.
Chính nhờ các đàn cầu cơ và nhất là nhờ lòng nhân đức vô hạn của của Đấng
Thượng Đế luôn luôn thể hiện trong mỗi lần cầu nguyện. Những Thánh giáo có một
ảnh hưởng quyết định trên những người hầu đàn, nên Đạo Cao Đài đã tiếp nhận sự
nhập môn vào đạo hằng loạt.
Thành quả lớn lao ấy là do
những nghi thức thờ cúng mới của Đạo Cao Đài không có gì trái với những gì mà
các tôn giáo chánh đã thực hành trong nước.
LỄ KHAI ĐẠO
Từ ngày mùng 10 tháng 10
âm lịch (dl 14-11-1926), những cuộc đi truyền đạo được đình chỉ. Tất cả những
nổ lực của các vị lãnh đạo đều tập trung vào Lễ Khai Đạo, diễn ra trong ba ngày
: 14, 15 và 16 tháng 10 âm lịch của năm Bính Dần (dl 18, 19, 20-11-1926) tại
chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén (Tây Ninh). Toàn Quyền Đông Dương, cũng như Thống Đốc
Nam Kỳ và các viên chức cao cấp của Pháp và Việt đều được mời dự lễ.
Đại lễ cử hành rất long
trọng, qui tụ đáng kể nhiều tín đồ đến từ khắp các tỉnh Nam Kỳ. Cuộc lễ cũng
thu hút hằng ngàn người ngoại đạo đến
xem vì hiếu kỳ hay đến quan sát.
Sự hiện diện của Đại Úy
Monet, một đại tín đồ Thần linh học Pháp, được đặc biệt chú ý.
Trong cuộc lễ nầy, Hội
Thánh Cao Đài được xây dựng và Tân Luật được thiết lập và ban hành.
Thủ phủ chính thức của Đạo Cao Đài
Từ Lâm Tự là một ngôi chùa
Phật vừa mới được xây cất bởi Hòa Thượng Giác Hải ở Chợ Gạo (Chợ Lớn). Vị Hòa
Thượng nầy đã cải giáo để nhập vào đạo mới là Đạo Cao Đài. Nhưng sau đại lễ
Khai Đạo, những tín đồ Phật giáo đã cung cấp tiền bạc cho Hòa Thượng xây chùa
Từ Lâm, không được Hòa Thượng tham khảo ý kiến về sự hiến chùa cho Đạo Cao Đài,
nên đòi hỏi giao hoàn chùa lại cho cố chủ.
Mặt khác, kinh nghiệm cho
biết chùa quá nhỏ, khoảnh đất cất chùa quá chật hẹp, khó có thể xây dựng một
cách thích đáng Tòa Thánh của một nền Tân tôn giáo đang phát triển với một
tương lai vĩ đại.
Theo chỉ dẫn của Đấng Đại
Tiên, khoảnh đất mà trên đó xây dựng Đền thờ tạm thời hiện nay đã được chọn và
mua để xác định xây dựng Tòa Thánh Cao Đài, tọa lạc tại làng Long Thành, tỉnh
Tây Ninh, khá rộng khoảng 100 mẫu, đủ
đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai.
Việc di chuyển Thánh Thất
từ Gò Kén đến làng Long Thành thực hiện vào tháng 3 năm 1927. Số tín đồ tiếp
tục tăng lên đáng kể. Những cuộc hành hương đến Thánh Thất mới đáng ghi chép :
mỗi ngày tiếp đón cả ngàn người.
Cũng như tất cả tôn giáo
khác vào buổi đầu, Đạo Cao Đài cũng có những kẻ chống đối mà những lời chỉ
trích của họ thường rất kịch liệt, luôn luôn bị xúi giục bởi một đầu óc thiếu khách quan.
Trong lúc đó, những vị
lãnh đạo Cao Đài, vâng theo lời giáo huấn của Đức Chí Tôn, cố gắng giữ mình và
tự hoàn thiện trong nền Đại Đạo, bằng
cách chỉ quan tâm đến lợi ích về đạo đức và tinh thần của nhơn loại.
Đó là câu trả lời duy nhứt
mà họ được phép dùng để đối phó với những kẻ công kích, vì tất cả tín đồ chân
chính của Đạo Cao Đài phải giữ nghiêm khắc với chính mình.
Rốt cuộc, sau 4 năm hiện
hữu, Đạo Cao Đài đã có nửa triệu tín đồ. Mặc dầu có rất nhiều trở ngại gieo rắc
trên đường đi, họ luôn luôn tiếp tục tiến bước và đắc thắng đến mục đích mà
Đấng Thượng Đế đặt ra cho họ : Sự phục hưng nhơn loại trong nền hòa bình thế
giới.
Nguồn gốc của giáo lý Đạo Cao Đài
Tạp chí “L’Inde illustrée”
(Ấn độ hình ảnh) tóm tắt cho biết như sau đây :
“ Cao Đài là danh xưng
tượng trưng của Thượng Đế, được khải thị tại phương Đông lần thứ ba.
“ Ý tưởng của các tín đồ
về đức tin mới là Đấng Thượng Đế, theo lời giáo hóa về sự tiến bộ tinh thần của
loài người, được tinh tế hơn xưa, Thượng Đế lần nầy thể hiện qua các đồng tử,
không muốn ban cho một người nào nơi cõi trần cái đặc ân sáng lập Đạo Cao Đài.
“ Cái hình thức biểu hiện
mới của Đấng Thượng Đế chứng tỏ rằng tôn giáo đặt dưới quyền thống trị của vị
sáng lập trần thế, không thích hợp tính cách đại đồng, vì các nhà tiên tri của
họ nổi lên chống lại cái chân lý được đề xướng bởi các tôn giáo khác mà họ tỏ
ra không có sự khoan dung.
“ Giáo lý Đạo Cao Đài là
sự dung hợp giáo lý của các tôn giáo xưa ở phương Đông : Phật giáo, Lão giáo,
Nho giáo.
“ Trong một Thánh giáo
được chuyển đi vào ngày 13-2-1927, với sự hiện diện của vài người Pháp, Đức Lý
Thái Bạch, một trong những khâm sứ của Thượng Đế, đã trình bày giáo lý ấy.
Chúng tôi xin trích ra từ Thánh giáo ấy những dòng sau đây :
“ Những Thánh giáo của các
tôn giáo không được thực hành đúng. Trật tự và hòa bình thời xưa bị xóa bỏ. Qui
luật đạo đức của loài người bị xuyên tạc. Đối với những người thiếu suy nghĩ và
hoài nghi, Thượng Đế chỉ tồn tại trên từ ngữ. Họ không biết rằng nơi chỗ tối
cao đang ngự trị một Đấng Chúa tể của mọi sự biến đổi của vũ trụ và của tất cả
số phận con người.
“ Thuở xưa, các dân tộc
không hiểu biết nhau, thiếu các phương tiện vận chuyển, Ta (Đấng Thượng Đế)
thiết lập trong các thời kỳ khác nhau năm nhánh của Đại Đạo (gọi là Ngũ Chi Đại
Đạo) gồm :
1 . Nhơn đạo : Khổng giáo.
2 . Thần đạo : Khương Thái
Công, thờ các vị Thần.
3 . Thánh đạo : Thiên Chúa
giáo.
4 . Tiên đạo : Lão giáo.
5 . Phật đạo : Phật giáo.
“ Mỗi Chi Đại Đạo dựa trên
tập quán và phong tục của mỗi giống dân được đặc biệt kêu gọi để hành đạo.
“ Ngày nay, tất cả những
phần đất của thế giới được khai phá : nhơn loại hiểu biết nhau hơn, khao khát
một nền hòa bình thật sự. Nhưng vì có nhiều tôn giáo nên nhơn sanh luôn luôn
không sống trong sự điều hòa người nầy với người khác. Cho nên, Ta quyết định
qui hiệp tất cả tôn giáo thành một mối duy nhứt để đem trở về một khối thống
nhứt nguyên thủy.
“ Hơn nữa, giáo lý của các
tôn giáo, trải qua nhiều thế kỷ, đã bị biến thể bởi chính các vị lãnh nhiệm vụ
truyền giáo, đến mức mà ngày nay, Ta nhứt định chính mình Ta đến với các
con để chỉ dạy con đường phải theo. . .
Cũng trong Thánh giáo ngày
13-1-1927, Đức Lý Thái Bạch còn nói thêm :
“ Các huynh đệ thân
mến, Chúa Jésus nhân từ đã đến với các
bạn để vạch ra con đường Thánh thiện cho các bạn. Hãy cố gắng đi theo đường ấy
để sau nầy có được sự bình an của tâm hồn, hãy bước tới mỗi ngày một bước mau
lẹ trong tình thương yêu của Thượng Đế. Hãy đoàn kết, hãy thương yêu nhau người
nầy người khác, hãy giúp đỡ lẫn nhau. Đó là Thiên điều.
“ Vào lúc nầy, nơi mà mỗi
người bị bắt buộc chịu đựng nỗi khổ sở, nếu người nào chỉ nghĩ đến lợi lộc cá
nhân, nếu người nào tìm cách gieo đau khổ và phiền não, người đó sẽ mạo hiểm bị
lôi cuốn vào trong dòng thác địa ngục, nơi đây, cái hung dữ sẽ bẻ gãy cuộc sống
và làm hoen ố tâm hồn.”
Sự thật, Đạo Cao Đài hay
Đại Đạo là một tôn giáo giản dị nhứt hiện nay khi nói về việc hành đạo và sự
thờ cúng. Tôn giáo mới nầy chỉ đòi hỏi các tín đồ mỗi ngày tụng kinh cầu nguyện
Đấng Cao Đài, hoặc tại nhà của họ, hoặc trong Thánh Thất; không có phép sám hối
xưng tội, không có phép thông công. (Việc cầu cơ là một việc làm tế nhị và nguy
hiểm, chỉ dành riêng cho Hội Thánh.
Số lượng Giáo sĩ giới hạn trong phạm vi cần thiết nhứt để
truyền bá giáo lý, khuyến khích tín đồ thực hành Nhơn đạo, như Đức Khổng Tử đã quan niệm. Chỉ có một Thượng
Đế duy nhứt, là Đức Chí Tôn, Đạo Cao Đài khuyên bảo các tín đồ noi theo đạo đức
thuần túy của Đức Chúa Jésus, đạo đức của Đức Khổng Tử, cả hai đều không có gì
khác nhau.
Đạo Cao Đài cũng khuyên
bảo sùng bái các Đấng chơn linh thượng đẳng, ân nhân của nhơn loại vào các thời
kỳ khác nhau; Đức Chúa Jésus, cũng như Đức Phật Thích Ca, cũng như Đức Khổng
Tử, cũng như các vị Thần thời cổ Trung hoa, không nên quên các Đấng ấy trong các
lời cầu nguyện.
Trên nguyên tắc, các Chức
sắc của Đạo Cao Đài bị cấm cầu các Đấng thiêng liêng trong khối đông đảo tín
đồ, để tránh cho những đồng tử trở nên chuyên nghiệp và tránh lạm dụng tính dễ
tin của quần chúng ưa chuyện thần bí.
Ngọc cơ được cất giữ trong
Thánh Thất. Nhưng những đồng tử linh tính tiếp tục được các tín đồ nghe theo.
Theo ý kiến của tôi (tác giả), thật là bất công khi tuyên bố quá nhanh rằng các
vị sáng lập Đạo Cao Đài muốn che giấu sự thật để dành riêng cho mình độc quyền
tiếp xúc các Đấng vô hình.
Người hành đạo cần vươn
lên để chiếm được cái quyền đạt đến trí huệ trọn vẹn. Trong vài trường hợp, đó
là thái độ của Giáo hội Công giáo đối với Thần linh học.
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Giáo lý của Đạo Cao Đài
không chỉ nhằm mục đích hoà hợp các tín ngưỡng tôn giáo, mà còn thích nghi với
tất cả mức độ tiến hóa của tâm linh.
1 . Về
phương diện đạo đức : Giáo lý Đạo Cao Đài nhắc nhở con người có bổn phận
đối với chính mình, đối với gia đình, đối với xã hội, ấy là một gia đình mở
rộng, kế đó đối với nhơn loại, gia đình thế giới;
2 . Về
phương diện Triết học : Giáo lý Đạo Cao Đài truyền dạy sự khinh thường danh
vọng, sự giàu có, sự xa hoa, tắt một lời là sự giải thoát khỏi những nô lệ vật
chất, để tìm tòi trong tâm linh sự yên
tĩnh của tâm hồn;
3 . Về
phương diện văn hóa : Giáo lý Đạo Cao Đài khuyên nhủ sùng bái Thượng Đế,
Đại Từ Phụ của tất cả chúng ta, tôn thờ các Đấng chơn linh thượng đẳng vốn tạo
nên hệ thống trật tự oai nghiêm trong thế giới huyền bí. Chấp nhận sự thờ cúng
tổ tiên theo truyền thống dân tộc, bài trừ việc cúng bằng các thứ thịt thú vật,
cũng như giấy vàng mã;
4 . Về
phương diện tâm linh : Giáo lý Đạo Cao Đài xác nhận sự đồng ý với các tôn
giáo khác về các hệ thống triết học tâm linh và tâm lý, sự hiện hữu của linh
hồn và sự tồn sinh của nó nơi thể xác, sự tiến hóa của linh hồn bởi sự đầu thai chuyển kiếp liên tiếp, cái
kết quả sau khi chết của các hành vi của con người định bởi luật Nhân quả.
5 . Về
phương diện truyền giáo : Đạo Cao Đài truyền đạo cho các tín đồ xứng đáng
những giáo huấn mặc khải mà nó cho phép các tín đồ, bởi quá trình tiến hóa tâm
linh, đạt đến sự hưởng thụ toàn phúc.
Các tín đồ
Có ba loại tín đồ :
1 .
Những tu sĩ chơn tu, những Chức sắc cao cấp, những người bị bắt buộc tuân
thủ một lối sống, nếu không khổ hạnh thì ít nhất cũng phải kiêng cữ một số điều : quan hệ xác thịt nam nữ bị cấm
chỉ, họ có thể có vợ nhưng vợ chỉ là bè bạn; rượu, thịt, cá đều bị cấm chỉ; họ
chỉ được nuôi sống bằng thảo mộc (ăn chay). Chỉ riêng họ mới được phép giao
tiếp với Đức Thượng Đế và các Đấng chơn linh thượng đẳng, nhưng chỉ được làm
trong trường hợp đặc biệt mà thôi.
2 .
Các đồng tử, có số lượng 12 người, họ cũng được xem là Chức sắc hay phụ tá, không phải
là tu sĩ chơn tu, nhưng họ cũng bị bắt buộc tuân thủ một số luật lệ và kiêng cữ
một số điều trong đời sống vật chất. Họ vẫn đi làm việc thường ngày trong các
hoạt động thương mãi hay kỹ nghệ. Họ cũng bị chính thức cấm chỉ cầu cơ, khi
không có hiện diện của những Chức sắc cao cấp mà không được các vị nầy mời đến sau khi tụng kinh cầu nguyện Đức Chí Tôn.
3 .
Những môn đồ bình thường, đây là khối
đông đảo tín đồ, họ không có bổn phận nào khác hơn là tuân theo đạo đức và qui
tắc hành xử do các Chức sắc của Ban Trị Sự Cao Đài truyền dạy và đáng kể là
phải cúng lạy đều đặn mỗi ngày trước bàn thờ Đấng Cao Đài, trong một ngôi chùa
riêng biệt, hoặc trong một Thánh Thất mới tạo nên, hay nơi tư gia của họ trước
một bàn thờ nhỏ được sắp đặt, trên đó đặt hình vẽ Thiên Nhãn có mây bao quanh,
giữa hai chưn đèn nghi lễ có một lư hương chứa đầy tro để cắm nhang, và phẩm
vật dâng cúng là hoa quả, nhiều hay ít cũng được.
Theo một tài liệu khác gần
đây, tôi (tác giả) thấy những tín đồ chia làm hai bậc : Thượng thừa và Hạ thừa.
Được xếp vào bậc Thượng
thừa là những tu sĩ chơn tu, họ có thể là Chức sắc hay tín đồ thường. Ở bậc
Thượng thừa, họ bị bắt buộc để râu dài và tóc dài, phải ăn chay, cấm xa hoa,
cấm quan hệ tình dục. Đời sống của họ thoát khỏi sự nô lệ vật chất, hoàn toàn
dâng hiến để phụng sự tôn giáo.
Những tín đồ thuộc Hạ thừa
gồm đông đảo tín đồ, vẫn tiếp tục theo đuổi công việc bình thường, bổn phận về
tôn giáo của họ gồm việc thực hành cúng lạy hằng ngày và hành xử đúng theo Tân
Luật.
Các tín đồ ở cả hai bậc
đều bắt buộc tuân theo Ngũ Giới Cấm, trích ra từ đạo đức của Phật giáo : không sát sanh, không
gian tham, không tà dâm, không ăn cao lương mỹ vị, không phạm tội bằng lời nói.
Về chế độ ăn uống, đối với
các tín đồ bậc nhì (Hạ thừa), qui định việc ăn chay theo từng bậc, phải kiêng
cữ thịt thú vật, chỉ ăn chay một số ngày nhứt định trong một tháng âm lịch. Như
thế, khởi đầu ăn chay tạm thời 2 ngày sóc vọng mỗi tháng, kế đó tiếp tục lên
Lục trai, ăn chay 6 ngày trong một tháng, rồi Thập trai tức là 10 ngày trong
mỗi tháng.
Đạo Cao Đài thu nhận vào
lòng tất cả những người có thiện ý, không phân biệt chủng tộc, địa vị xã hội.
Một người dân có thể sát cánh trong tình huynh đệ với một Đốc phủ sứ.
Sự thờ cúng trong Đạo Cao Đài
“ Sự thờ cúng được cử hành
mỗi ngày tại Thánh Thất, cũng như tại tư gia, vào bốn thời (Tứ thời) : lúc 6
giờ, giữa trưa (12 giờ), 18 giờ và giữa đêm (12 giờ khuya).
Quì lạy trước Thiên bàn,
trong sự nhiệt thành của tâm hồn hướng về Đấng Thượng Đế, chúng ta khởi đầu
tụng kinh Niệm Hương, tiếp theo tụng Khai Kinh, mà lời kinh như sau:
Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh thái dương giọi trước phương đông.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.
Trong Tam giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng, làm phải làm lành.
Trung dung Khổng Thánh chỉ rành,
Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.
Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.
Nghi thức ấy đã xong,
chúng ta cất giọng tụng kinh bài Vinh Danh Thượng Đế (Kinh Ngọc Hoàng Thượng
Đế), kế đó tụng 3 bài kinh xưng tụng ba Đấng Giáo chủ Tam giáo : Đức Phật, Đức
Lão Tử, Đức Khổng Tử.
Nghi thức cúng lạy hằng
ngày tất cả đơn giản như thế.
Về phần hiến lễ trong
Thánh Thất, vào các ngày lễ lớn, việc thực hành các nghi tiết có phần quan
trọng hơn.
Người ta trách Đạo Cao Đài
một cách tổng quát đã xa lìa Thần linh học khoa học, để trở thành một tôn giáo.
Đáng tiếc ! Có thể lắm ! Nhưng đừng quên quá mau rằng, chúng ta không ở Paris,
Bruxelles, Berlin hay Rome, và rằng tâm hồn của người Á châu luôn luôn nhiệt
thành, mặc dầu trên khuôn mặt vẫn đeo cái mặt nạ đông cứng và không cảm giác.
Lòng bác ái
Mấy từ ngữ đơn giản nầy
tóm lược khuynh hướng chủ yếu của Đạo Cao Đài. Những ứng dụng thực tiễn suy ra
gồm :
1 . Tình huynh đệ giữa nhơn loại.
2 . Lòng thương yêu loài
vật.
Bởi vì chúng ta có bổn
phận trong tình huynh đệ đối với mọi người, xem mọi người đều là anh em trong
đại gia đình thế giới, chúng ta cũng có bổn phận đối xử tốt loài vật, vì chúng
nó là những em út còn lạc hậu trên con đường tiến hóa. Chúng ta phải chăm sóc
chúng vì chúng được tạo ra để giúp việc cho chúng ta, đối đãi với chúng một
cách dịu dàng, và tránh làm cho chúng đau đớn vô ích. Đời sống thú vật của
chúng cần được tôn trọng, bởi vì nếu làm tổn thương đến chúng thì chúng ta đã
làm chậm trễ sự tiến hóa của nạn nhân.
Vì vậy, tất cả tín đồ Cao
Đài ý thức bổn phận của mình và giữ việc ăn chay để tránh khỏi làm tòng phạm
sát sanh hằng ngày, làm tổn hại những em út cấp dưới.
Ông Schopenhauer nói :
Giữa lòng thương xót loài vật và lòng nhân từ có sự ràng buộc chặt chẽ, người
ta có thể nói không ngần ngại rằng, khi một người hung dữ với loài vật thì người ấy không thể là người
lành.
3 . Lòng nhân từ đối với
thảo mộc :
Không ai biết hết những
ích lợi của thảo mộc đã đem lại cho nhơn loại. Ân nhân yên lặng của con người,
nó không hề trách móc về sự bội bạc, sự tàn ác của con người. Cây cối che bóng
mát cho những ai ngồi tại gốc của nó, không phân biệt khách bộ hành mệt nhọc
hay người tiều phu hung bạo. Người ta nói, cây đàn hương đã xông hương lưỡi rìu
chặt nó.
Thảo mộc là một kho thuốc
thiên nhiên thực sự, nơi đó, chúng ta có thể tìm được những thứ thuốc trị bệnh
bá chứng cho chúng ta. Bài học về lòng tốt, lòng hy sinh không thể rút ra từ thảo mộc cho lợi ích của
chúng ta hay sao ?
Những thí nghiệm khoa học
gần đây của Sir Bose, một bác học Ấn Độ, đã chứng minh rằng thảo mộc sống như
loài người, mà vài loại cây, đặc biệt như cây mắc cở có một hệ thần kinh nhạy
cảm hơn của chúng ta về những tổn thương thân thể. Chúng ta sẽ nghĩ gì khi một
người nào đó đùa giỡn bẻ gãy một cành cây hay nhổ bật rễ một cái cây ? Nếu vì
nhu cầu cho đời sống vật chất buộc chúng ta phải dùng thảo mộc, thì đối với
“các thí sinh thi lên động vật” nầy, chúng ta phải có lòng tốt là không bao giờ
nên chặt bỏ hay phá hại chúng một cách vô ích.
4 . Phụng sự nhơn sanh. (bổ túc bổn phận của tình
huynh đệ)
Biết bao nhiêu dịu dàng,
trìu mến, thiên nhiên đã đem lại cho con người khi sống ẩn dật trong cảnh cô
tịch. Lánh xa thế giới loài người, mà những cám dỗ không còn giá trị, trong
cảnh tĩnh mịch của cuộc sống ẩn dật, người ta thanh lọc cuộc sống, lắng dịu
những đam mê và nâng cao tư tưởng lên gần Thượng Đế. Rồi trong niềm say mê trầm
tư mặc tưởng, nơi đó được khơi dậy cái tình cảm của Đấng thiêng liêng, nên cảm
nhận nhiều hơn cái nguồn gốc thiêng liêng của mình.
Đó là đời sống nội tâm dẫn
lối những người thượng thừa, được phú bẩm những năng lực lớn, khi sứ mạng phàm
trần của họ hoàn thành, họ mong muốn được an lạc tinh thần. Nhưng, trước khi
đạt đến giai đoạn cao cấp trong con
đường hành tu của nhơn loại, người khách lữ hành, vẫn tìm cách tiến lên, nhưng
phải giúp đỡ những kẻ đang dò dẫm đi sau.
Như thế, tất cả tín đồ Đạo
Cao Đài, lo lắng về hành động theo nguyên tắc nhân ái, trong mọi trường hợp, tự
hiến mình cho việc phụng sự nhơn sanh. Được thúc đẩy bởi lòng ham muốn giúp đỡ
đồng loại, họ sẵn sàng đem đến sự an ủi cho những nỗi khổ đau về tinh thần và
xã hội bằng những lời nói hay việc làm của họ. Và trong niềm khao khát về lòng
từ bi, họ luôn luôn đưa tay giúp đỡ tất cả những người cần đến sự giúp đỡ của
họ. Chịu đựng tất cả nỗi khổ nhục bất cứ từ đâu tới, họ vẫn sống không thù hận,
giữa những người thù hận họ. Tất cả tín đồ Đại Đạo, Chức sắc hay Đạo hữu, phải
nhận nhiệm vụ khó khăn là đem linh hồn đến Thượng Đế, ghi khắc vào trí não
những Thánh giáo của Đấng Cao Đài, dựa trên lòng yêu mến điều thiện và sự tôn
thờ chơn lý.
Nếu đã cố gắng tuyên cáo
chơn lý mà vẫn không thuyết phục được những kẻ vô tín ngưỡng, thì ít ra cũng
làm cho họ dao động vài phần, và lúc bấy giờ những nghi ngờ được khơi dậy trong
tâm hồn những kẻ từ trước đến nay không có đức tin, sẽ làm tiếp những gì còn
lại. . . .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét