Lịch Sử và Triết Lý Đạo Cao Đài - 1 / 6 (TDĐN. Gabriel Gobron)


DẪN NHẬP: Gabriel Gobron, tác giả của quyển sách nầy nói về Đạo Cao Đài, là một văn sĩ, ký giả, nhà diễn thuyết hăng hái và can đảm.
Gabriel Gobron sanh tại Bayonville ngày 5 tháng 7 năm 1895, đã từ trần ngày 8 tháng 7 năm 1941 tại Rethel.

Thông thạo nhiều ngôn ngữ, nhà khảo cứu không mệt mỏi trong thế giới thần linh và linh hồn, tiểu thuyết gia, sử gia, ký giả,
giáo sư,  Gabriel Gobron là người hiếu kỳ và mãi mãi là người hiếu kỳ. Cao thượng, lòng quảng đại tràn ngập tinh thần, Gabriel Gobron là nhà bút chiến hăng hái.
Chắc chắn là người hiếu kỳ, nhưng không phải xu hướng tài tử, khi ông nghĩ rằng mình đã phát hiện một cái đẹp tinh thần, một chơn lý triết học hay tôn giáo, ông muốn phổ biến cho mọi người biết ngay và chia sớt với họ. Ông không ngần ngại đả kích luôn luôn hăng hái những ai mà dưới mắt ông muốn che đậy sự thật. Chính vì thế, ông đã khám phá ra Đạo Cao Đài và chính vì thế ông đã đấu tranh đến hơi thở cuối cùng, cầunguyện cho tôn giáo ấy phát triển. G. Gobron là người đại trí, nhứt là một người cao thượng.

Sau giai đoạn sưu tầm, nghiên cứu và khám phá từ năm 1930, G. Gobron là nhà truyền giáo xác tín, một người thọ giáo sáng suốt và chẳng bao lâu sau ông chính thức được Đạo Cao Đài tín nhiệm ở phương Tây và đặc biệt ở Pháp.

Những buổi thuyết giảng, những bài báo, những công trình nghiên cứu tiếp nối nhau với những bài chưa in, đã tạo thành một tập ký lục dày mà quyển sách nầy, xuất bản sau khi G. Gobron mất, là một trong những phần chánh.

Vì vậy, tác phẩm nầy tạo thành một thông điệp chính xác của thế giới vô hình. Đối với chúng tôi, đây là một tác phẩm rất an ủi, khi hoàn thành bài nầy, than ôi ! rút lại chỉ còn có 200 trang.

Thông điệp của thế giới vô hình, tác phẩm nầy xuất bản sau khi Gabriel Gobron mất, chúng tôi hy vọng, sẽ được đón nhận một cách đặc biệt bởi đông đảo bạn bè thần linh học của tác giả, người đã đóng góp rất nhiều bằng ngòi bút, lời nói và sự thực nghiệm cho Thần linh học.

Tác phẩm của ông được in ra chừng 10 quyển và có chừng 100 bài viết hoặc nghiên cứu được xuất bản khắp nơi trên thế giới, trong các ngôn ngữ mà Gabriel Gobron nói và viết được, ngoài tiếng Pháp : Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha.
Là tác giả của nhiều tiểu thuyết, Gabriel Gobron đã viết rất hay những trang sách khó khăn mô tả đời sống của những người lao động ở đồng ruộng và ở thành thị.
Thật vậy, Gabriel Gobron có một tâm hồn tế nhị, dễ cảm, dịu dàng, lắm khi tự ý giấu kín phía sau hình dáng thô kệt theo kiểu Léon Bloy.

Cái tính dễ cảm bí mật nầy của tâm hồn làm cho ông có hơn một lần, gây cảm hứng trên những trang giấy đáng lưu ý với một sự tế nhị, một giọng thâm thúy.

Sự thân ái tế nhị và nết na, sự phản kháng của một thi sĩ lãng mạn không chối từ đóa hoa xanh nhỏ của những khúc tình ca bình dân và những khúc bi ca cổ của một phong tục địa phương mà ông thích.

Lúc ấy nhà văn đó cố gắng viết hết sức lực về những cuốn sách cũ và lớn, được cảm hứng bởi những nỗi bực bội của đời sống trưởng giả thường ngày, giống như Henri Heine đã viết những bài hát ngắn với nhiều nỗi đau khổ đã trải qua.

Tuy vậy, chắc chắn rằng Gabriel Gobron là một người nổi loạn suốt đời, một người không thích hợp, một người đứng ngoài vòng, giống như các thi sĩ : Théo Varlet và Malcolm Mac-Laren, ông nầy thích và biết rõ Hội Mercure Universel (Thủy tinh thế giới). Người ta thấy ở bên cạnh và trong các tác phẩm của Gabriel Gobron là một người uyên bác, một sử gia, một ký giả, thấy những trang sách như bị nổi xung, bị kích động, đau đớn đến la hét, chửi rủa.

Người ta nói " sự tranh luận và thù hận ", sự thật đó là tác phẩm của Gabriel Gobron, tất cả tràn ngập sự thật, tràn ngập đời sống phiền não, thuộc vào nhóm văn chương mà người ta đặt tên rất đúng là Chủ nghĩa đau khổ, được ông Julien Teppe phát hiện.

Lời văn và nhịp điệu của câu văn của văn sĩ Gabriel Gobron thích nghi một cách tự nhiên với đề tài nghị luận.

Lời văn và hình thức thì thích hợp với những tình cảm đến mức hiện ra quá chênh lệch, quá khác nhau và cảm tưởng tổng quát biểu thị cho chúng ta biết rằng, không một mánh lới nhà nghề nào không điều khiển sự cấu tạo một tác phẩm tự do và nghiêm khắc, giống như thiên nhiên tự do với những rừng cây dày và rừng thưa đẹp.

Gabriel Gobron dường như được giúp đỡ trong việc hoàn thành tác phẩm của ông bởi một trong những pháp sư, được tô điểm bởi Brenghel-le-Jeune, ông nầy pha trộn và khuấy đều cái hay nhứt với cái tệ nhứt, những món thuốc khác nhau nhứt, kháng cự nhứt. Cái nồi nước sôi, cái nắp được giở lên và lúc đó văn sĩ  Gabriel Gobron không bằng lòng về tính xác thực của các sự việc được kể lại một cách đơn giản : ông trải ra và với những lời trực tiếp hơn,  ông lấy làm thích ý trong vấn đề cô đọng nhứt bởi câu văn chọn lọc với các từ ngữ thích hợp.

Tôi xem xét quyển sách " Notre-Dame des Neiges " như là một tài liệu tâm lý của hạng người lớn, một người phát biểu không cẩn thận, cũng không đẹp đẽ và không một chút giả dối xã hội nào. Cái làm vui lòng hay không vui lòng là: con người tự giải thoát mình khi viết văn, và trong trường hợp nầy, con người không chỉ hành động về sự quyết đoán cá nhân mà còn nhiều sự kế thừa, bày tỏ chán nãn  tự đè nén hay làm thăng hoa.

Như thế, những "sinh vật" tìm thấy nơi loài người, tự thoát khỏi những áp bức, những bất công bị bắt buộc bởi đời sống, những bất công của xã hội, của cá nhân, của cộng đồng, của kinh tế, vv ... Và nơi tận cùng, tất cả nơi tận cùng, nhưng thực tế, sống động, bền chặt, cảm động, sự dày vò bí mật của tâm hồn cần đến Thượng Đế và công lý nên nó phát biểu: "Sung sướng cho những người nào đói khát công lý  vì họ sẽ được mãn nguyện." (Trích ra từ bài tựa của Valentin Bresle, Giám đốc sáng lập Hội Mercure universel, 12 đường Fromentin, Ba-lê  9è)

Những thông điệp nhận được bởi vài đồng tử chuyên cần và mẫn cảm chứng tỏ rằng, Gabriel Gobron bây giờ là một trong những người mãn nguyện.

Những bất công của xã hội và kinh tế, những áp bức của người giàu đối với người nghèo, sự vô ý thức của những người nầy và những người khác, bị bạc đãi một cách gay gắt trong nhiều tác phẩm của Gabriel Gobron giữa những tác phẩm khác trong " Les Couarrails de Pont-à-Mousson " và trong " Barbandouille " và trong " Tournemol " tiểu thuyết của một giáo sư xấu nết.

Trong các tác phẩm nầy, Gabriel Gobron không khởi đầu bằng những lời bóng gió, mà lời văn trực tiếp đầy tính thóa mạ, ông nhấn mạnh một cách phũ phàng trên những sự việc mà không phô trương, nhưng ông cũng nói thẳng rằng những sự cải tổ và biến đổi đáng mong ước của xã hội hiện tại mà ông đã tiên đoán có sự hư thối và sa lầy trong tồi tệ.

Cho phép tôi thuật lại lần nữa cái tựa sách, nghiên cứu năm 1938, trình bày về sự kiện Gabriel Gobron.

" Đó là một sự kiện, vì Gabriel Gobron là một người hiền lành, một con cừu non  đang cố gắng một cách vô ích để trở nên điên dại, nơi đó cái thái độ công kích ấy, tôi sắp nói về ông ta, làm cho tưởng nghĩ đến  Léon Bloy và những nhà tiên tri của Kinh Cựu Ước."
Gabriel Gobron là một người hiền lành và những giấc mơ của ông rất đẹp đẽ :
" Từ nơi trường Tiểu học, tôi đã mơ ước học tập để dạy cho các em nhỏ, tạo lập bên cạnh "ngôi nhà của Thượng Đế" "một ngôi nhà vũ trụ" !  Làm giáo dục không phải là một việc tức thời, thực dụng, buôn bán, duy vật, mà làm giáo dục về Sinh vật học vũ trụ, để chỉ cho các học sinh thấy rằng, chúng ta là những đứa con vinh hiển của vũ trụ hơn là những đứa con tối tăm của thôn xóm !  Phát giác cái tánh thiêng liêng đang ngủ yên trong chúng ta, cái tiềm thức mà bởi nó, chúng ta liên lạc được với các thực thể và các khả năng thần bí khó tin nhứt và huyền diệu nhứt, và bảo đảm sự chiến thắng của tinh thần trên thú tánh, trên con vật đang kêu gào trong chúng ta !"

Phát giác cái tánh thiêng liêng đang ngủ yên trong chúng ta, để tìm kiếm Thượng Đế nơi con người hơn là để Thượng Đế tìm kiếm nhơn loại.

Lúc đó, con người có thể suy xét về sự dung hợp " ngôi nhà của Thượng Đế " và " ngôi nhà vũ trụ " trong một Đền thờ vĩ đại của tình huynh đệ, sự tổng hợp của  tất cả.

Chúng ta còn cách xa cái hòa điệu của huyền bí, cũng như cách xa những thứ đó bởi lỗi lầm và thiếu hiểu biết của những người theo giáo điều độc đoán và những người duy lý. Ngôi nhà của Thượng Đế và ngôi nhà vũ trụ còn chống đối nhau lâu dài. Tuy nhiên, họ là sự biểu lộ của tình huynh đệ thường xuyên của " một Tiểu Thượng Đế " ở trong trái tim của mỗi người, cái nhà sống của thần linh.

Cuốn sách của Gabriel Gobron tích tụ những tư  tưởng rất đúng, tế nhị và cao thượng trên sự giáo dục về bố thí, sự tự do về kính trọng, trên tâm linh, vv... Hình thức văn chương thì trong sáng hơn, dịu dàng hơn, hòa hợp hơn, đó là lớp nước mênh mông trong mát trước cái đập ngăn, những dòng thác và những sự tràn ngập của bút pháp tranh luận sống sượng.

Cần phải binh vực đám dân khờ, phải binh vực người bị bốc lột, chống lại kẻ bốc lột, nhưng không để cho đám dân khờ tưởng rằng ông là một vị Thánh nhỏ, bởi vì ngay khi một người dân khờ ở về phía bên kia, .... nó sẽ học tập mau chóng cái quyền hành đã làm hư thối bàn tay nắm giữ quyền hành ấy.

Cho nên, đồng thời với việc binh vực dân khờ, Gabriel Gobron phô bày ra những thói gàn rỡ, những tật xấu, những thiếu hiểu biết của đám dân khờ hiền lành nầy.

Và mặc kệ cho những cái tai quá bở, Thánh Bernard nói: " Hãy là những con người xứng đáng ".

Gabriel Gobron viết : “Chế ngự thú tánh, chế ngự con thú đang kêu gào trong chúng ta” và bởi bút pháp của ông mà xảy đến việc một bác sĩ mới Jekyll nói một cách tự do với ông Hyde rằng, tất cả chúng ta hãy dựa vào chúng ta. Nhưng, giống như trong tiểu thuyết của Stevenson, xảy ra việc ông  Hyde tự thoát ra khỏi chính ông nhờ bác sĩ  Jekyll. Người ta tự hỏi, nếu Gabriel Gobron không có khuynh hướng quá đặc sắc tách rời vật chất với tinh thần nhờ một cú đá hay một cú đấm.

Con thú là thế đó, nó hữu ích và có thể cải thiện được, tự biến chất để tiến hóa và tự nâng cao từ bình diện nặng trược lên bình diện thanh khiết.

Thí dụ như cách thức hơi thô lỗ một chút mà Gabriel Gobron nói về tính năng và tính nhục dục được truyền thụ những bí thuật của Stanislas de Guaita, Gabriel Gobron biết rõ cái tâm điểm của con người là “G” trong đồ hình Ngũ giác thiêng liêng, mang một cách chính xác trong nó tất cả khả năng tiến hóa, biến đổi trên tất cả các bình diện : vũ trụ, xác thịt, thần bí và thiêng liêng. Bởi tâm điểm “G”, vật chất bốc lên và tự thanh lọc hướng đến tinh thần, tinh thần giáng sanh trong vật chất. Tất cả tạo thành một.

Hơn nữa, về giá trị văn chương và triết lý, những tác phẩm của Gabriel Gobron xây dựng và chứa đựng những tài liệu về tâm lý. Những tác phẩm đó là sự biểu lộ những dồn nén xã hội của nhiều thế hệ. Điều nầy là sự thật đối với nhiều tác phẩm của tác giả nầy :

" Những bất công phải chịu đựng, những ước mơ chơn thật và trong sạch không thể thực hiện, những áp bức di truyền, tất cả sự thừa kế dồn chứa lại, đó là tất cả những gì mà tác giả kể lại cho chúng ta biết, tác giả bị thúc đẩy bởi ngàn con quỉ cảm hứng mà nó khêu gợi cái tốt nhứt và cái tồi tệ nhứt trong sự truyền hệ lâu dài mà Gabriel Gobron đem lại cho chúng ta.

Thỉnh thoảng Gabriel Gobron gần đạt đến sự vĩ đại khi cái tánh giản dị của ông tự nó hiện ra thế nào thì ông thế nấy. Nhưng liền đó, ông Hyde trở lại và đây là tác giả của chúng ta dao động trong các chi tiết nặng nề, tuy có ý nghĩa và có lý lẽ của sự vật.

Khi thưởng thức những đoạn văn được phê bình rất đẹp (nơi đó tánh đa cảm điều hòa ngự trị bút pháp làm cho bút pháp giản dị), độc giả hiểu rõ rằng, sự lãng phí, sự mất tự chủ, sự cuồng nhiệt của hận thù truyền kiếp, thực sự tạo thành, với lòng kiêu hãnh có sẵn, những tài liệu tâm lý mà tôi đã nói và nó làm cho tác giả là một diễn viên, đồng thời cũng không là diễn viên, không đặt nơi tấn kịch của con người."

Điều nầy phải được nói tới, bởi vì trong quyển sách hiện tại “Histoire et Philosophie du Caodaðsme”, tác phẩm xuất bản sau khi tác giả mất, sự kiện tâm lý đã vượt lên trên : quyển sách nầy là một bằng chứng của siêu hình học.

Không phải tổ tiên của Gabriel Gobron phô diễn ra bởi khả năng đồng tử  của ông về văn chương, nhưng rõ ràng là Gabriel Gobron từ phương Đông vĩnh cửu đã cho chúng ta những thông điệp của ông. Quyển sách nầy là một bằng chứng quí báu, và chúng tôi dám nói rằng, đây là quyển sách căn bản có những ảnh hưởng tâm linh đáng kể.

Tiếng “Caodaðsme” do chữ “Cao Đài” mà dịch nghĩa từng chữ là : Đền đài Tối cao. Từ ngữ nầy ở trong các kinh cầu nguyện rất cổ điển của Phật giáo. Điều nầy đặt nguồn gốc chính của tôn giáo nầy, trước tiên chúng ta sẽ thấy đó là Phật giáo canh tân.

Tôn giáo mới nầy (Thông điệp chủ yếu từ năm 1926) có gốc rễ nơi những truyền thống lâu đời nhất của Phật giáo và những khải thị thanh khiết nhất.

Đạo Cao Đài trong một vài điểm nào đó, được so sánh với đạo Tin Lành về nguồn gốc đối với Công giáo La mã. Vả lại, cái khả năng so sánh ấy đã vượt qua trong cái nghĩa lợi lộc, nghĩa là trong cái nghĩa hòa hợp tốt đẹp, giống như hiện tại cho phép xem xét trong một tương lai không xa, sự hiệp nhứt của các Giáo hội Công giáo trong một Tổng Giáo hội Công giáo thống nhứt.

Tính cách đặc biệt của Đạo Cao Đài là tinh thần tổng hợp. Cho nên, vai trò hòa giải của Đạo Cao Đài có thể đem lại những đóng góp lớn lao cho nền hòa bình tôn giáo hay nền hòa bình nói chung.

Không có chủ nghĩa đảng phái trong Đạo Cao Đài, cũng như thay vì dẫn tới những đối kháng giữa các tôn giáo, tôn giáo mới nầy đang và sẽ tạo ra, càng lúc càng hơn, mối khuyến dụ thường xuyên về sự hòa hợp tốt đẹp giữa nhiều sự phục tòng tôn giáo, thần bí, triết lý hay bí pháp.

Sự hòa hợp tốt đẹp của các thế lực tâm linh ban cho thế giới sự hài hòa tốt nhất trên tất cả các mặt.
Đạo Cao Đài mà chúng ta sẽ thấy là một tổng hợp tôn giáo, bằng tâm linh và bằng chơn lý, nó khuynh hướng làm điều hòa nhơn loại với những luật pháp của trật tự vũ trụ.

Để hiểu thấu những nghi lễ của tôn giáo nầy, một tôn giáo mới, đồng thời cũng rất cổ điển, người ta cần phải được tự do về tinh thần, thành thật về trí thức, tốt đẹp trong thân ái và phụng sự điều thiện một cách cụ thể.

Sự tự do tinh thần tất yếu là thoát khỏi sự cưỡng bách của các giáo điều áp đặt, sự dối trá tinh thần liên tục nơi những tiên nghiệm không thể tháo ra được trong việc thực hành điều thiện toàn cầu.

Người ta có thể nói, và chúng ta sẽ thấy điều đó trong phần tiếp theo của quyển sách nầy, rằng Đạo Cao Đài, bên cạnh phần cảm hứng nơi tác giả, phần lớn là thông điệp, tất cả tập hợp những lời phát biểu mà sự minh bạch  và chính xác là một hứng thú cho lý trí, cũng như sự hiển nhiên là một hứng thú cho trí khôn ngoan. Những phát biểu hợp lý nầy, phần hơn hay trước tiên, là tiên triệu hay gợi cảm. Điều nầy chỉ làm tăng thêm tiến bộ thần bí cho sự tỏa sáng hấp dẫn của giáo lý mà nó đang cố gắng đạt đến, với tất cả sức lực thiêng liêng và phàm trần : Chơn lý căn bản, cái Toàn mỹ trong việc thực hành điều Thiện toàn cầu.

Điều nầy làm ngạc nhiên một số độc giả, rằng Đạo Cao Đài xuất phát từ sự khải thị đương thời và sự khải thị nầy đến bằng con đường Thần linh học.

Người ta cũng ngạc nhiên thấy những người thủ cựu thích những tư tưởng có sẵn, những sự sắp hạng rất trật tự và những mối tương quan hợp lý mà giả tạo, nếu người ta tiết lộ những nguồn gốc Thần linh học của những phong trào lớn quan trọng của con người từ  phong trào Jeanne d’Arc đến Đạo Cao Đài.

Tính chất Thần linh của thiên tài quân sự Jeanne d’Arc được chứng minh bởi công trình nghiên cứu của Trung tá Collet, đã xuất bản năm 1920 tại Nancy, quyển sách "Đời binh nghiệp của Jeanne d’Arc", những chính xác kỹ thuật, được trình bày hợp lý về những cuộc hành quân; những trình bày nầy thuộc khả năng của Trung tá để xác nhận cái gì thuộc về cảm hứng bởi sự phân tách minh bạch những lý thuyết Thần linh học của Gabriel Delanne, Brierre de Boismont, Léon Denis và vài người khác.

Điều gì gây cảm hứng cho Jeanne d’Arc thì cũng gây cảm hứng cho một trong những phong trào lớn nhứt ở Tây phương về thi ca, về văn chương, chánh trị, về thẩm mỹ và tôn giáo mà người ta chỉ định dưới chủng loại: Chủ nghĩa Lãng mạn.

Thật vậy, chủ nghĩa Ossian mà người ta biết, là một trong những nguồn gốc chánh yếu của chủ nghĩa Lãng mạn Âu châu. Nó được sanh ra từ  những tác phẩm của đồng tử : James Marpherson. Đó là trường hợp gọi là “Đồng tử Thần linh học có trước văn tự”, James Marpherson đã viết ra những thông điệp anh hùng ca bằng thi văn tiếng Anh, chỉ rõ về nguồn gốc trong ngôn ngữ Ái nhĩ lan bởi Ossian, ông vua thi sĩ  anh hùng ca của thế kỷ thứ 3.

Người ta buộc tội James Marpherson là gian trá văn chương, dĩ nhiên, bởi vì những bài thi ca tiếng Ái nhĩ lan không được ông trích ra trong một tài liệu nào cả. Những thông điệp thi ca nầy được chơn linh vua Ossian đọc ra cho ông chép theo ngôn ngữ của đồng-tử-viết, nhưng trong một bút pháp và âm điệu gốc, làm tăng thêm sự thán phục của phần nhiều các nhà văn lớn của thời kỳ nầy và của các thời kỳ tiếp theo sau nữa.

Turgot, Diderot góp phần làm cho hiểu biết các thi văn của Âu châu, Bà De Stael xem Ossian như là Homère của miền Bắc. Chateaubriand thừa nhận sự khâm phục sau khi đã buộc tội gian trá văn chương.

Chúng tôi có được những thông điệp của Ossian đã đọc cho James Marpherson chép từ năm 1760 đến 1763 trong một ấn bản dịch ra Pháp văn của P. Christian (Lavigne, xuất bản tại Ba-lê 1842).  P. Christian là tác giả của quyển sách nổi tiếng và căn bản là “Histoire de la Magie” (Lịch sử của pháp thuật).

Những thông điệp của vua Ossian được đọc cho James Marpherson chép lại (hoặc  muốn nói là cảm hứng cũng được) trong khoảng thời gian 3 năm (1760-1763) gồm: Fingal 6 bài hát, Comola thơ bi kịch, cuộc chiến tranh Inistona, sự giải phóng Carrictura, Cathon, Darthula, cuộc chiến Témora, vv. .. tất cả có chừng 20 bài thi dài ngắn khác nhau.

Các bài thi nầy bị mất uy tín dưới mắt của quần chúng khi bị qui kết là gian trá văn chương.

Chúng ta có nhiều lý do để tin tưởng rằng Shake-speare, Walter Scott và vài vị khác đã làm giống như  James Marpherson và Victor Hugo, là những đồng tử cảm hứng của chủ nghĩa Lãng mạn. Họ đã truyền lại những thông điệp giống như  James Marpherson truyền lại những thông điệp của Ossian.

Một ngày nào đó sẽ rất thú vị để xuất bản quyển sách "Nguồn gốc Thần linh học của chủ nghĩa Lãng mạn” và Gabriel Gobron đem lại cho chúng ta về đề tài nầy một nguồn cảm hứng và một nguồn tài liệu về nguồn gốc và về sự xác thực hiển nhiên.

Người hiếu kỳ, đó là P. Christian, người thọ giáo huyền học và chính ông là một đồng tử đã dịch ra Pháp văn những tác phẩm của Ossian, thi sĩ anh hùng ca của thế kỷ 3, những bài thơ tiếng Ái nhĩ lan, được tiếp nhận bởi James Macpherson. Ông Christian hoàn thành sự nghiên cứu nhập môn  của ông bởi những dòng chữ nầy, vì những bài thi văn binh vực, ở nơi nầy nơi khác, sự so sánh với thi văn của Homère và thường đem ông đến trên thi văn của dân Hébreux mà người ta hết lời ca tụng và có lẽ khó hiểu thấu."

Những bằng chứng về nguồn gốc Thần linh học của Đạo Cao Đài sẽ được chứng minh dễ dàng hơn nguồn gốc của chủ nghĩa Ossian, và cũng để tỏ lòng kính trọng bởi phương

tiện thông công nầy với thế giới vô hình mà quyển sách nầy được xuất bản, được canh tân, được làm sáng tỏ và đúng lúc.

Đó là khoa Thần linh học đã dẫn dắt Gabriel Gobron đến Đạo Cao Đài, cũng như ông đã được khải thị bởi Thần linh học.

Đạo Cao Đài là Phật giáo canh tân thực sự, và cũng là một hình thức đặc biệt của Thần linh học : Thần linh học Việt Nam.

Hôm nay, chúng tôi viết thêm vào đây  cho được đầy đủ, sự tổng hợp các tôn giáo, bởi vì cái mà chúng tôi hy vọng tiết lộ với công chúng thì nó tự tiết lộ trong lần xuất bản nầy.

Những khích lệ cần thiết đã được ban cho chúng tôi.
Vì Đạo Cao Đài xuất phát từ  Thần linh học để canh tân Phật giáo và sau đó sẽ phát triển trong sự tổng hợp hài hòa các tôn giáo. Như thế, đạo chẳng mất đi những ưu điểm trong nguồn gốc Thần linh học, cũng không trong nguồn gốc tạo thành của Phật giáo.

Là khoa Thông Thiên học thực sự, giáo lý Đạo Cao Đài, với sự chọn lọc hoàn hảo, thu hút tất cả cái Thiện cái Mỹ của các tôn giáo khác, nhứt là những tinh hoa trong luân lý thực hành, hoặc trong lễ nghi, hoặc trong triết lý.

Tánh khiêm cung của "Anh Gago" (đó là tiếng mà các tín đồ Cao Đài ở Đông Dương gọi Gabriel Gobron) khiến ông vui lòng giới hạn vai trò mình là người tranh luận bênh vực và truyền bá nền Tân tôn giáo. Những nghiên cứu, sự thiền định, sự thần bí của Gago làm cho ông xứng đáng hơn nữa. Ta có thể nói rằng, ngày hôm nay, Gago là một triết gia đầu tiên và một sử gia đầu tiên của Đạo Cao Đài.

Công trình của ông dường như chưa hoàn thành khi ông từ bỏ đời sống hằng ngày để đi vào cõi Đông phương vĩnh cửu; với sự phát hành sách nầy, giá trị sử gia của Đạo Cao Đài được xác nhận.

Từ thế giới vô hình, Anh Gago sẽ soi sáng và che chở chúng ta vì đó là ý muốn sâu thẳm trong đức tin của ông.

Một cách thành kính, chúng ta hãy nghe ông nhận lãnh sứ mạng với sự khiêm tốn hoàn toàn tính cách Cao Đài:
“ Nếu tôi nhận lãnh vai trò khô khan của một sử gia đầu tiên của Đạo Cao Đài, chính là vì những huynh đệ và thân hữu Việt Nam của tôi đã phán đoán trong sự khoan dung thái quá của họ rằng tôi là một trong những người phương Tây có nhiều tài liệu nhứt về sự tiến triển và những khổ não của Đạo Cao Đài.

“ Một sức khỏe mong manh khó giúp tôi hoàn thành bổn phận nặng nề của một nhiệm vụ như thế. Tôi xin lỗi quí độc giả chú ý, kế bên tất cả khiếm khuyết trong công việc của tôi, tôi chỉ cầu xin quí vị nhất là tha lỗi cho tôi, khi nó đưa tôi đến chỗ quá đáng, nghĩa là của tình huynh đệ, cả với các vị đối nghịch và kẻ thù rằng: Đây là một tín đồ Cao Đài không xứng đáng, nó cũng không đi đến quyền lực của lãnh chúa, người bịnh sẽ vứt bỏ cái mũ của nó trong sự tức giận và chà đạp lên những văn phẩm thần thánh của Đấng Christ, của Đức Phật, Đức Khổng…"

Với sự sám hối, chúng tôi gởi đi thông điệp nầy, cuối cùng, chúng tôi im lặng để độc giả, thoát khỏi những lời phê bình của chúng tôi, đọc di cảo đầu tiên nầy của Gago.

DELECOURT-GALLOIS
Người thực hiện di chúc của Gabriel Gobron.

LỜI GHI CỦA NHÀ XUẤT BẢN
Để nhận thức quyển sách nầy, chúng tôi xin báo trước với độc giả là những bài và tài liệu trình bày nơi đây được ông Gabriel Gobron viết hay tập hợp lại giữa năm 1937 và 1939.

Những hình ảnh, những chú thích và lời dẫn nhập được thêm vào năm 1948 bởi ông DELECOURT-GALLOIS, người thi hành di chúc của ông Gabriel Gobron, với sự ưng thuận của bà góa phụ Marguerite G. Gobron.
Địa chỉ: 9 Rue de Serre, 54000 Nancy (Meurthe-Moselle) France. 

GABRIEL GOBRON
HISTOIRE et PHILOSOPHIE du CAODAISME
Bouddhisme rénove, ù
Spiritisme vietnamien,
Religion nouvelle en Eurasie
(Xuất bản năm 1949)

LỊCH SỬ    TRIẾT LÝ của  ĐẠO CAO ĐÀI
Phật giáo canh tân,
Thần linh học Việt Nam,
Tân tôn giáo ở đại lục Âu Á.

Nguyên tác của Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
GABRIEL GOBRON
Bản dịch của Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng

NGUỒN GỐC THẦN LINH HỌC Việt Nam
Mục sư  Stainton Moses lui về ẩn dật tại núi Athos trong 6 tháng, trong khoảng thời gian nầy, ông nghiên cứu Thần học và đối chiếu các lý thuyết trái nghịch nhau. Việc làm tuyệt vời nầy đem lại cho tâm trí ông, từ chỗ thiên về khuôn phép, giáo điều, không khoan dung, đến chỗ khiêm tốn hơn, minh triết và chơn thực. Sau đó, ông được bổ nhiệm đến ở trong một ngôi nhà nhỏ của Mục sư thuộc đảo Man. Nơi đây, các thú nhàn rỗi không thiếu: cảnh thiên nhiên, đọc sách, cầu nguyện, thiền định, trầm tư mặc tưởng về thần bí, làm cho ông thành một nhà giảng đạo rất thương tâm: Đấng Thượng Đế đã nắm chặt lấy ông và xem chừng như không buông thả ông, như xưa kia ma quỉ không buông thả Socrate. Thượng Đế dẫn Mục sư Stainton Moses đến trường đại học Oxford, biến ông thành một trong những công cụ quí báu nhứt của " Tân Thiên khải ", một trong những đồng tử  linh cảm nhất trong thế kỷ của chúng ta.

Chính cũng trong  cảnh cô tịch, yên tĩnh,  ẩn dật mặc tưởng mà Đấng Cao Đài tìm thấy người tín đồ đầu tiên của Ngài.  Chẳng    đền thờ nào đẹp hơn thiên nhiên, chẳng co quyển sách nào thiêng liêng hơn quyển sách đời: Đức Jésus lui về vườn Gethsémani cũng tại sa mạc; Thánh François d’Assise nói về Thần mưa, Thần gió, về những ngôi sao im lặng, về những con chim én lắm lời và sờ bàn tay lên mõm của con chó sói Gubbio rồi dắt nó về nơi Ngài như dắt một con chó hiền từ ngoan ngoãn. Nhà tự nhiên học Thụy điển  Bengt Berg có thể làm cho con Lahol, một con chim rất nhát ở miền Laponie, đẻ trứng và ở trong lòng bàn tay của ông. (Mon ami le pluvier, Stock). Nơi nào Thánh nhân cư ngụ, đất chỗ đó là Thánh địa và thiên nhiên là huyền bí.

Nơi nào có Thánh nhân cư ngụ thì nơi đó thiên nhiên tự nâng cao lên trên chính nó.
Thánh nhân vượt lên trên con người. Thánh nhân là người ở bên trên con người.
Thánh nhân vượt lên trên con người, ở phía trên con người để thông công với các Đấng chơn linh.
Cho nên, bước vào chương đầu của quyển sách nầy, chúng tôi phải nghe một giọng nói rằng :

*  *  *

(1) Hội Thần linh học quốc gia Anh quốc được thành lập năm 1873 một phần nào trên sự khởi đầu của Mục sư Stainton Moses, ông đã tạo ra 11 năm sau nầy Hội Liên hiệp Thần linh học Luân đôn, ngày nay rất mạnh ở nước Anh - trang 35-René Sudre, giới thiệu Siêu linh học của loài người, Payot xuất bản 1926.

Nhờ những giúp đỡ của Stain Moses và vài người khác mà ông Crookes thành công trong việc thành lập " Hội Khảo cứu Tâm linh " (S.P.R) ngày 20-2-1862, giữ vai trò đáng kể trong " Lịch sử của Siêu linh học ".

* Từ trên cái tháp không nóc, nơi đó sự xuất thần mang lại cho tôi : Tôi nhìn thấy cõi trần buồn bã và lạnh lẽo, đen tối và rối loạn.
* Từ trên cái tháp không nóc, nơi đó đức tin nâng cao tôi lên, tôi thấy biển xanh trong sự thanh tĩnh cao độ của một Nữ đồng trinh không tiết lộ được.
* Từ trên cái tháp không nóc, nơi đó niềm hy vọng dẫn dắt tôi, tôi thấy ngôi sao buổi sáng, không có buổi chiều và ngày dài vô tận.
* Từ trên cái tháp không nóc, nơi đó lòng bác ái  đặt vào tôi, tôi nhìn thấy mặt trời chiếu sáng trái đất.

Cõi trần buồn bã và lạnh lẽo lúc ấy trở nên hồng tươi và ấm áp. Màu đen tự chuyển thành màu trắng, màu trắng tự chuyển thành màu đen.

Sự yên tĩnh và điều hòa ngự trị cõi trần.
* Từ trên cái tháp không nóc, trái tim vui vẻ của tôi đã khóc, trí não của tôi xuất thần, đã thấy thể xác đau khổ của tôi bị tan vỡ.
* Từ trên cái tháp không nóc, tôi thấy chiếc tàu lớn của bóng tối băng qua biển ánh sáng, và không thể tả, tôi lặng ngắm Đấng Điều chỉnh các tinh tú, Đấng Sắp đặt các thế giới.  Tôi đã thấy: những phần tử, các mùa và các tháng vâng lịnh theo Đấng điều chỉnh.

Vành tròn mênh mông của Con Mắt duy nhứt.
* Từ trên cái tháp không nóc, tôi đã thấy  nơi Đấng ấy, bởi  Đấng ấy, vì Đấng ấy.

Người tín đồ Cao Đài đầu tiên.
Đạo Cao Đài được thành lập chánh thức từ năm Bính Dần (1926), nhưng từ 6 năm trước đã có một người thờ phụng Đấng Cao Đài : đó là ông Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu, sau đó ông tòng sự tại Phòng nhì của Phủ Thống đốc Nam Kỳ.

Là Quận Trưởng hành chánh vào năm 1919 tại Phú Quốc (một hòn đảo trong vịnh Thái Lan), Ngài Ngô Văn Chiêu  sống cuộc đời hiền đức theo đúng điều luật chặt chẽ của Lão giáo. Trong địa phương hẻo lánh ấy lại thích hợp với đời sống tu hành, thỉnh thoảng nhờ những đồng tử nhỏ tuổi, từ 12 đến 15 tuổi, ông Phủ Chiêu tổ chức các đàn cơ Cầu Tiên, nhận được những lời giáo huấn cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh. Trong số những Đấng tiếp xúc được, có một Đấng tự xưng là “Cao Đài”, quan tâm đặc biệt đến ông Phủ Chiêu.

Lúc đầu, cái tên ấy làm kinh ngạc những người hiện diện, bởi vì không có một quyển sách tôn giáo nào ghi chép việc nầy. Tuy nhiên, ông Phủ Chiêu mà sự mẫn tiệp của ông làm cho bạn bè ngưỡng mộ, nhận ra rằng đó là biệt danh của Thượng Đế, vì bởi những khải thị và những giáo huấn triết lý ở trình độ cao mà ông đã lãnh hội được nhiều lần.

Ông Phủ Chiêu xin phép Đấng Cao Đài cho ông được phụng thờ Ngài dưới một hình thức xác thực và ông được lịnh tượng trưng Ngài bằng một con Mắt làm biểu hiệu.

Kinh cầu nguyện Thiên Nhãn:

Thiên Nhãn
Ngài là huỳnh kim và là tinh thể của Trời.

BẢN THỂ dĩ thái (chất ê-te) của tất cả bản thể của các vật, Ngài thấy nơi tất cả các vật.
TINH THẦN không thể xác biểu thị bởi một cái nhìn (người khôn ngoan không nên lầm lộn Biểu tượng với cái gì tượng trưng biểu tượng). Ngài là cái nhìn thấu suốt tới Vô cực.
TRÍ HIỂU BIẾT hoàn toàn, xuyên suốt, bao trùm: Bát quái đồ Thiên.
SỰ SỐNG: nguyên lý của tất cả sự sống, sự sống của tất cả nguyên lý mà tia sáng mặt trời làm phát triển và nẩy nở thêm nhiều trong Huỳnh kim (vàng ròng) của Trời.
AN NGHỈ những đêm bằng ánh sáng của mặt trăng.

Tinh thể của Trời.
Ánh sáng của Thiên thể.
Ánh sáng của mặt trời.
Ánh sáng của mặt trăng.
Ánh sáng duy nhứt nơi Thiên Nhãn,
Ánh sáng duy nhứt của Thiên Nhãn.
Tam vị Nhứt thể của Con Mắt Duy Nhứt.
                                                                                                          Thiên Nhãn

Xin làm cho tinh thần của tôi tắm trong ánh sáng của Huỳnh kim và Tinh thể của Ngài.
Xin được như nguyện (Amen)

Đó chính là sự nhập môn của người tín đồ Cao Đài đầu tiên vào tôn giáo mới và tôn giáo nầy 6 năm sau được lập nên ở  Sài Gòn.

Chẳng bao lâu sau, ông Phủ Chiêu được đổi về thủ đô Sài Gòn, nơi đây, ông thuyết phục được vài người tin theo đạo mới và gia nhập đạo.

Nhưng, chúng ta hãy tạm rời những người nhập đạo mới đầu tiên  ấy trong giây lát để chỉ cho độc giả biết cách thức mà Đấng Cao Đài tuyển mộ các đồng tử.

Vào giữa năm Ất Sửu (1925), một nhóm nhỏ các thơ ký người Việt Nam thuộc nhiều nghiệp vụ hành chánh khác nhau tại Sài Gòn, tiêu khiển vào mỗi buổi tối bằng việc thông công với người vô hình theo lối Thần linh học. Họ dùng cái “bàn gõ” (table frappante). Những thử nghiệm đầu tiên không kết quả. Nhưng với sức nhẫn nại và kiên trì, họ đạt được những kết quả tích cực.

Với những câu hỏi đặt ra cho các Đấng chơn linh, hoặc bằng thơ, hoặc bằng văn xuôi, họ nhận được những câu trả lời đáng kinh ngạc. Cha mẹ hay bạn bè quá cố của họ hiển linh để nói với họ những việc gia đình và đồng thời khuyên họ hy sinh quên mình. Những phát hiện xúc động ấy giúp họ nhận biết sự hiện hữu của thế giới huyền bí.

Tuy vậy, có một Đấng thiêng liêng thông công được rất đáng chú ý vì sự ân cần của Ngài và những điều giáo hóa của Ngài về đạo đức và triết lý ở một mức độ rất cao. Đấng ấy ký dưới tên giả là "AĂÂ", không muốn cho biết về Ngài, mặc dầu có những lời cầu nguyện của những người tham dự.

Sau đó, những ông thơ ký Việt Nam khác đến tham gia làm đông đảo thêm nhóm xây bàn tài tử. Những đàn Cầu Tiên được tổ chức nghiêm túc hơn và đều đặn hơn.

Vì việc dùng cái "bàn gõ" không tiện lợi, nên một Đấng thiêng liêng bảo phải thay thế bằng "Ngọc cơ". Với Ngọc cơ, các Đấng có thể viết chữ trực tiếp, việc thông công tự nhiên được nhanh hơn và các đồng tử phò cơ đỡ mệt hơn.

Ngày 24-12-1925, nhân dịp Lễ Noel, Đấng thiêng liêng dẫn dắt bấy lâu nay, vẫn khăng khăng giữ nặc danh, nay tiết lộ với các vị phò cơ, Ngài là Đấng Thượng Đế đến dưới tên gọi là Cao Đài để truyền dạy chơn lý tại nước Việt Nam.

Diễn tả bằng tiếng Việt Nam, Ngài nói đại ý như sau :
" Hãy vui hưởng ngày lễ nầy. Đây là lễ kỷ niệm ngày Ta đến Âu châu để dạy đạo. Ta rất vui lòng gặp các con, những tín đồ đầy lòng kính trọng và yêu mến Ta. Ngôi nhà nầy của một trong các vị phò cơ sẽ có tất cả ơn phước của Ta. Những biểu hiện Toàn Năng của Ta sẽ khiến các con còn kính mến Ta hơn nữa."

Từ đó, Đấng Cao Đài truyền thụ nền Tân giáo lý cho các tín đồ.
Đây chính là sự tuyển chọn các đồng từ đầu tiên có phận sự tiếp nhận các Thánh Ngôn (thông điệp thiêng liêng).
*  *  *

Tôi có hỏi THẦY, từ cõi vô hình rất gần, THẦY đã trả lời tôi.
Tôi hỏi THẦY:  Kính THẦY, trái đất là gì ?
THẦY trả lời:  Trái đất là một chiếc tàu lớn đang lênh đênh  trên đại dương ánh sáng.
Ánh sáng nầy, đó là Thời gian và cũng là Không gian.
Thời gian đó là ánh sáng không thấy được.
Không gian đó là ánh sáng thấy được.

Cho nên, Thời gian bao phủ Không gian, giống như tinh thần bao phủ tất cả vật chất.
Thời gian đứng bên trên, bên trong và bên ngoài.
Không gian đứng bên dưới, bên ngoài và bên trong.
Từ Không gian vô hình, đó là Thời gian.
Từ Thời gian mà nó tự thực hiện, đó là Không gian.
Trái đất là một chiếc tàu lớn đang lênh đênh và mãi mãi lênh đênh trong đại dương ánh sáng.
Trái đất là sự ngưng kết của Thời gian. Sự đông đặc của tinh thần trong vật chất.

*  *  *

Nếu chúng ta tham khảo tạp chí "Ấn Độ tranh ảnh" có loạt bài đề cập tới những biểu hiện khác nhau về tôn giáo tại Ấn Độ thuộc Anh, tại Thái Lan, Trung hoa, Nhựt bổn và Phi Luật Tân, vv ..., chúng ta thấy trong tạp chí số 2 tháng 3 năm 1933, một khảo cứu về Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ. Chúng ta đọc qua đề tài về nguồn gốc của tôn giáo ấy:

" Mới đây (1929), Đạo Cao Đài đã phổ biến nhanh chóng và lan rộng khắp Nam Kỳ Nguồn gốc: Đầu năm 1926, một vài trí thức trẻ người Việt Nam, tất cả đều là tín đồ Phật giáo, tụ họp trong một căn nhà nhỏ tại trung tâm Sài Gòn. Họ thường xây bàn để thí nghiệm về Thần linh học.

Sau giai đoạn dò dẫm, họ hoàn thành và nói rằng họ đạt được những kết quả đáng kinh ngạc khi dùng những người bạn có khả năng tiếp điển mạnh mẽ.

Khởi đầu trong việc giao tiếp thiêng liêng, một trong những vị Tiên của Trung hoa cổ là Lý Thái Bạch, Homère của Trung hoa, người đã canh tân văn học Trung quốc vào triều đại thứ 13 nhà Đường (713 - 742) và là một tín đồ Lão giáo nhiệt thành.

Như thế, một lần nữa, chúng tôi đã chứng minh được tiểu đề : Đạo Cao Đài hay Thần linh học Việt Nam.

Nhân chứng người Pháp
Đó là ông Jean Ross, cộng tác viên của báo “Le colon français” ở Hải Phòng, viết về nguồn gốc của Đạo Cao Đài :

" Năm 1926 !  Chúng tôi đang ở vào đầu năm.
Trong vài ngày nữa là đến Tết Việt Nam. Cách chợ trung tâm không xa, trên con đường thẳng góc với đại lộ nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn, một dãy phố có vẻ đơn sơ là nơi ở của phần đông các công chức thuộc cơ quan hành chánh lớn và các công ty. Tại một trong những căn phố đó, từ nhiều tháng nay, những thơ ký trẻ của sở thuế, sở công chánh, sở hỏa xa, của công ty, . . . (ở xa nên không ghi rõ), tụ họp nhau vào buổi tối sau giờ làm việc ở sở, giải trí với nhau bằng cách

Xây bàn, làm cho cái bàn  nói được.
Họ là những tín đồ Phật giáo tất cả (1). Họ bắt đầu như thế nào ?  Một trong những người ấy đã nghe nói về Thần linh học, về Xây bàn  trong sở làm việc,  nơi mà một trong những ông sếp của ông ta, gốc Nam Kỳ, là một  tín đồ Thần linh học xác tín, đại diện của Hội Thần linh học quan trọng nhứt của nước Pháp. Ông ta nói lại cho nhiều bạn nghe và một ngày đẹp trời, bốn người bạn ấy ngồi vây quanh một cái bàn.

“ Cứ thử xem có được không ? Có thật không ? Họ đã bảo nhau như thế. Những kết quả buổi đầu luôn luôn không sáng sủa, nhưng dần dần họ loại bỏ những người không có khả năng tiếp điển thiêng liêng và thay vào đó là những bạn có thiên tư  hơn, họ ghi nhận được những kết quả kỳ diệu.

Họ đặt những câu hỏi cho cái bàn và họ đều nhận được câu trả lời. Họ hỏi rằng có phải họ giao tiếp được với Thần linh ?  Câu trả lời khẳng định là : đúng.

Chuyện trở nên nghiêm túc. Mỗi lần thí nghiệm, họ hỏi danh hiệu của vị Thần linh giáng bàn nói chuyện với họ. thường là những vị Thánh hiền thời cổ Trung hoa như Lý Thái Bạch hay Quan Thánh Đế Quân, đôi khi là một Đấng vô danh. Việc làm lúc đầu chỉ là một trò giải trí với chủ nghĩa thần bí vốn rất quen thuộc với tâm hồn người Việt Nam, về sau trở thành cuộc nói chuyện có tính đặc ân với các Đấng Thần linh thượng đẳng của thế giới huyền bí mà họ cầu xin những lời khuyên bảo.

Không hề có một nghi ngờ nào về tính cách chơn thật của các cuộc nói chuyện đó, trước hết vì tất cả những người
*  *  *

Chú thích của dịch giả :  (1) Đính chánh :  Nhóm xây bàn  đó có 4 ông :  Phạm Công Tắc theo Công giáo, 3 ông : Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu và Cao Hoài Sang thì chưa có tín ngưỡng tôn giáo.

tham dự đều cùng xuất phát từ một điểm khởi hành, họ không thể nghi ngờ trò lừa bịp của một ai trong bọn họ, kế đó, vì sự thông linh với thế giới huyền bí làm họ phát hiện được những sự nâng cao tình cảm, những kiến thức khoa học và triết học sâu sắc mà không một ai trong bọn họ có thể là tác giả.

Nhưng việc sử dụng cái bàn xây để trao đổi với thế giới vô hình, thật sự không được tiện lợi !  Phải mất nhiều thời gian mới nhận được một câu trả lời.

Chính vào thời kỳ mà tôi nói (tác giả G. Gobron), nghĩa là trước Tết Bính Dần (1926), họ thố lộ tâm tình với Thần linh mà họ tiếp xúc. Vị ấy trả lời là nên dùng Ngọc cơ.

Họ thỉnh cầu chỉ dẫn Ngọc cơ gồm có những gì ? (Những người nầy ước chừng không thông thạo Thần linh học hay chỉ tham dự một đàn Cầu Tiên duy nhứt nên họ chỉ mới tập sự). Đấng Thần linh khuyên họ nên đến hỏi một người đồng bào của họ là ông Phủ Chiêu, rất thông thạo về cách cầu cơ trong Thần linh học (2), bởi vì rất khó mà làm cho hiểu được với phương tiện là một cái bàn cử động.

Lúc đó, Đạo Cao Đài sắp được sáng lập hay nói đúng hơn là sắp bước vào giai đoạn được quần chúng  biết đến, bởi từ nhiều năm nay, như chúng ta đã thấy, có một người thờ phụng Đấng Cao Đài. Người nầy theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca, không ai khác hơn là ông Phủ Chiêu.
*  *  *

Chú thích của dịch giả :  (2) Đính chánh : Lúc bấy giờ nhóm 4 vị xây bàn chưa liên lạc với ông Phủ Chiêu. Việc cầu cơ là do Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi ông phán Phan Văn Tý thuộc Chi Minh Thiện. Ông Tý cho mượn một cây Ngọc cơ và hướng dẫn quí ông cầu cơ. (Xem Đại Đạo Truy Nguyên của Huệ Chương). Việc Xây bàn là theo Thần linh học phương Tây, nhưng việc Cầu cơ thỉnh Tiên là theo Lão giáo, từ đạo Minh Sư bên Trung hoa truyền qua VN.

Ngoài luân lý đạo đức của Đức Phật và Đức Khổng Tử mà ông Phủ Chiêu sùng kính như những biểu hiện thiêng liêng, ông còn tin tưởng sự hiện hữu của Thượng Đế Toàn năng, là Chúa tể càn khôn vũ trụ mà ông gọi là Đấng Cao Đài. Ông cũng tin tưởng các Đấng thiêng liêng mà ông đã liên lạc được trong nhiều năm.

Phẩm hạnh của vị tín đồ Cao Đài đầu tiên ấy rất gương mẫu, người mà các thanh niên được gởi tới để học hỏi.

Đồng bào của ông Phủ Chiêu, toàn thể đều xem ông như một vị Thánh sống.  Ông chỉ bảo các vị thơ ký cách dùng Ngọc cơ (mà sau nầy tôi sẽ có dịp quay trở lại) giúp cho những buổi cầu cơ được dễ dàng rất nhiều. Chính ông cũng trực tiếp tham dự, hân hoan sử dụng các đồng tử có đặc khiếu, thành thạo, có khả năng tiếp điển mạnh mẽ lạ thường.

Sau khi đến liên lạc với ông Phủ Chiêu, cũng trong hoàn cảnh tương tự và theo sự chỉ bảo của Đấng thiêng liêng nói trên, các vị thơ ký ấy đến tìm nhà của một người đồng bào  khác, là cựu quan chức Nam kỳ, cựu Nghị viên Thượng Nghị viện Đông Dương, Lê Văn Trung (3), người cũng tự mình thỉnh thoảng tham dự  các đàn cầu cơ. Những người thơ ký trẻ tuổi chưa hề biết tên Lê Văn Trung trước khi Đấng thiêng liêng chỉ dẫn. Ông Trung trước kia không sống đời đạo đức
*  *  *
Chú thích của dịch giả : (3)  Đính chánh : Nhóm thơ ký trẻ gồm các vị : Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, theo lịnh của Đức Chí Tôn đến gặp Ngài Lê Văn Trung trước khi đến với ông Phủ Chiêu. Trước khi nhóm thơ ký trẻ đến tìm ông Trung thì ông Trung đã đến hầu đàn ở Chợ Gạo Phú Lâm, được Đức Lý Thái Bạch độ ông bằng cách dùng huyền diệu làm cho đôi mắt của ông sáng lại (vì trước đây  ông bị bịnh quáng mắt). Sau khi Ngài Trung gia nhập nhóm, Đức Chí Tôn ra lịnh quí ông đến gặp ông Phủ Chiêu để hỏi về cách thờ phượng Đức Chí Tôn.

gương mẫu, mà lại thích hưởng thụ những gì có thể được. Vào thời điểm trước khi  những thơ ký trẻ tuổi tìm đến ông để xin lời chỉ bảo, thì ông Trung đã tiêu phá gần hết gia tài của ông.

Trước 50 tuổi, ông Lê Văn Trung, dưới con mắt của mọi người, là một người đam mê vật chất, tham dự cầu cơ một cách tài tử, xem như là lời dặn trước của Đấng Thượng Đế, chỉ định ông hiệp với ông phủ Chiêu mà ông Trung đã quen biết từ lâu, để chỉ đường mở lối cho các vị trẻ tuổi đã theo Thần linh học. Kể từ ngày ấy, ông Trung quyết định sống cuộc đời gương mẫu và tỏ ra xứng đáng với sứ mạng mà Đấng Cao Đài giao phó. Vì thế, ông ngưng hút thuốc phiện một cách đột ngột mà không thấy khó chịu. (Những tín đồ Cao Đài nói rằng, điều đó chứng tỏ ông Trung được Đức Chí Tôn phù hộ, vì một người khác không thể cai thuốc dễ dàng như thế). Ông cử uống rượu, cử ăn thịt cá, trở nên ăn chay thật sự và sống khổ hạnh như những vị hòa thượng khắc khổ nhất.

Sự nhập đạo nhiệm mầu nầy lôi cuốn một số đông môn đệ đầu tiên thường thuộc những gia đình khá giả hay đang nắm chức vụ cai trị khá cao, nhứt là ông Phủ Tương đang làm việc trong tỉnh Chợ Lớn, như là bạn đồng liêu của ông Phủ Chiêu, là một người có đạo đức cao, luôn luôn thực hành nhơn đạo của Đức Khổng Tử, ông Đốc phủ Lê Bá Trang, ông Huyện hàm Nguyễn Ngọc Thơ và bạn đời của ông là bà góa phụ Monnier, người Nam Kỳ, rất giàu, từ nhiều năm đã dùng một phần tiền thu nhập vào các công việc từ thiện.

Ông Phủ Chiêu là người được chỉ định trước tiên vào chức vụ chỉ huy tối cao của nền Tân tôn giáo, Giáo Tông của Đạo Cao Đài, nhưng ông Phủ Chiêu né tránh nên Ngài Lê Văn Trung được chỉ định thay thế.

Tôi (tác giả G. Gobron) có hỏi một trong những Chức sắc cao cấp, những lý do vì sao ông Phủ Chiêu có thái độ như vậy ?  Vị ấy trả lời cho tôi biết rằng ông Phủ Chiêu chính là tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, đã làm tròn phận sự lãnh đạo tối cao của nền tôn giáo, nhưng ông tỏ ra không đủ khả năng vượt qua các thử thách mà Thượng Đế đã định cho ông, cũng như đã đặt ra cho tất cả vị lãnh đạo cao cấp khác, trước khi nâng phẩm vị họ lên  một bậc trên nấc thang mà tột đỉnh là sự hoàn thiện. Do đó, ông phải chuộc lại sự yếu đuối mà ông đã từng chứng tỏ, trước khi lấy lại địa vị mà ở quá khứ  dành quyền cho ông.

Giáo Tông của Đạo Cao Đài
Sự nhập đạo của Ngài Lê Văn Trung, người trở thành Giáo Tông của Đạo Cao Đài, là một trong những biến cố lớn ở Đông Dương.

Đó là vào năm 1925, ông Trung ở Chợ Lớn, say mê vào công cuộc kinh doanh, trong cảnh huyên náo của một thành phố vốn tôn thờ tiền bạc, ông hoàn toàn xa lánh tôn giáo. Một buổi chiều, theo lời mời của một người bà con, vốn là một tín đồ xác tín Thần linh học thuộc Chi  Minh Lý ở Sài Gòn (Chi nầy giống như  Minh Tân, Minh Thiện, phát sinh từ Thần linh học trong những năm trước 1925 - Lời chú thích của tác giả), ông đến dự một đàn cầu cơ tại Chợ Gạo trong vùng ngoại ô.

Tại buổi hội nhóm nầy, Đức Lý Thái Bạch  giáng đàn, nói riêng với ông Trung, tiết lộ nguyên căn thiêng liêng của ông, đồng thời báo cho ông biết sứ mạng tôn giáo sau nầy của ông. Đức Lý khuyến khích ông Trung sớm đặt mình vào nền tôn giáo mới. Xúc động vì ân sủng, ông Trung không ngần ngại thay đổi cách sống. Được sự nâng đỡ của đức tin, ông Trung can đảm bỏ hút thuốc phiện  ngay và bắt đầu ăn chay; ông cũng từ bỏ công việc kinh doanh để có thể hiến dâng hoàn toàn cho tôn giáo.

Sự nhập đạo của vị nầy, mới hôm qua còn tha thiết của cải và sự hưởng thụ cuộc đời, thật quá rõ ràng để người ta tự hỏi, phải chăng cho đến hôm đó, những đàn cầu cơ tổ chức tại Chợ Gạo, đã được thúc giục lập ra bởi các Đấng với sứ mạng truyền  giáo, trong mục đích duy nhứt là dìu dắt ông Lê Văn Trung trở lại con đường Đạo Pháp.

Cho nên, khi ông Trung quyết định sống theo Đức tin mới mà ông vừa tiếp thu được, các Đấng thiêng liêng liền ra lịnh giải tán nhóm đồng tử Thần linh học (nơi đàn Chợ Gạo)  trong sự  kinh ngạc và đau buồn sâu đậm của những người trong nhóm.

Tại Sài Gòn, Đấng Cao Đài nhận thấy đã đến lúc đem những đồng tử xây bàn của Ngài tiếp cận với ông Lê Văn Trung. Ngài gởi hai trong số những đồng tử nầy (ông Cư và Tắc)  đến nhà ông Trung với lịnh truyền là tổ chức tại đó một đàn cầu cơ để Ngài ban cho những lời giáo huấn.

Ông Trung, không quen biết những đồng tử nầy, nhưng vẫn chấp nhận lời đề nghị của họ khi đã biết lý do mà họ tìm đến ông. Một đàn cầu cơ được thiết lập. Đấng Cao Đài, giữa những lời giáo huấn, báo cho ông Trung biết sứ mạng trọng đại sắp tới của ông trong nền Tân tôn giáo mà Ngài sắp lập ra để cứu độ nhơn loại.

Sự tiết lộ nầy xác nhận những lời bóng gió trong  những Thánh giáo khác nhau mà ông Trung đã nhận được từ đàn Chợ Gạo với những đồng tử khác. Sự kiện đó củng cố thêm lòng tín ngưỡng của ông và khuyến khích ông hiến dâng trọn vẹn cho công cuộc hành đạo.

Sau đó ít lâu, Đấng Cao Đài gởi quí ông Trung, Cư, Tắc đến gặp ông Phủ Chiêu, người sẽ hướng dẫn họ trong con đường đạo với tính cách là một người Anh Cả. Về phía ông Phủ Chiêu, ông đã được Đấng Cao Đài cho biết trước, nên tiếp đón ba vị khách trên một cách thân ái. Ông liền  đưa ba vị khách đến tiếp xúc những đồng đạo đầu tiên của ông.

Cái hạt nhân của Đạo Cao Đài được hình thành gồm 12 người, tất cả đều học thức trong văn hóa Pháp, đều là công chức mà phần lớn trong các cơ quan hành chánh tại Sài Gòn.

Lòng nhiệt thành và tinh thần bất vụ lợi của các vị tiên phong, trong những ngày giờ đầu tiên, thu hút một số đông tín đồ mỗi ngày mỗi nhiều. Đạo Cao Đài thoát khỏi phạm vi giới hạn nhỏ hẹp, truyền bá khắp trong dân chúng vào đầu năm Bính Dần (1926).

Ông Phủ Chiêu, quen với cảnh sống cô tịch, cảm thấy trái ý bởi sự qui tụ đông đảo tín đồ, làm cho ông lo lắng. Là một công chức có ý thức trong các nhiệm vụ, ông quyết định từ đây lánh xa phong trào tôn giáo lớn mạnh nầy.  

Ngài Lê Văn Trung được Đấng Cao Đài chỉ định thay ông Phủ Chiêu vào cuối tháng tư  năm ấy.

Những Thánh Thất đầu tiên
Những đàn cầu cơ tiếp tục được tổ chức ngày càng nhiều tại các tư gia và phần lớn là tại các Thánh Thất, trong đó có các trung tâm sau đây : Chợ Lớn, Cần Giuộc, Lộc Giang, Tân Định, Thủ Đức và Cầu Kho.

Hai đồng tử được bổ nhiệm đến mỗi Thánh Thất để tiếp nhận các Thánh giáo của Đấng Cao Đài. Sự thu nhận các tân tín đồ cũng được quyết định tại nơi đó. Các tín đồ đến gia nhập hằng loạt, làm tăng thêm đến hằng trăm người đăng ký nhập môn trong mỗi kỳ đàn.

 Tuyên ngôn chánh thức của Đạo Cao Đài
Tôn giáo mới phát triển rất nhanh vì được dân chúng tiếp nhận nồng nhiệt. Lo lắng cho hoạt động giữa thanh thiên bạch nhựt và giữ trong giới hạn của phạm vi pháp luật nghiêm nhặt, các nhà lãnh đạo đưa ra một Tuyên ngôn chánh thức có 28 người ký tên, được gởi đi ngày 7-10-1926 đến ông Thống Đốc Nam Kỳ. Đính kèm theo Tuyên ngôn nầy là danh sách các tín đồ ký tên gồm 247 người hiện diện trong buổi lễ công nhận sự hiện hữu chánh thức của Đạo Cao Đài.

Việc truyền đạo
Sau khi bản Tuyên ngôn được chánh quyền địa phương lịch sự tiếp nhận, các nhà lãnh đạo của nền Đại Đạo tổ chức các đoàn truyền giáo trong quốc nội.

Có tất cả ba đoàn truyền giáo : một cho các tỉnh miền Đông, một cho các tỉnh ở Trung ương và một cho miền Tây.

Chưa đầy hai tháng, hơn 20 ngàn người cải giáo nhập môn vào Đạo Cao Đài, trong đó có nhiều nhân sĩ bản xứ. Chính nhờ các đàn cầu cơ và nhất là nhờ lòng nhân đức vô hạn của của Đấng Thượng Đế luôn luôn thể hiện trong mỗi lần cầu nguyện. Những Thánh giáo có một ảnh hưởng quyết định trên những người hầu đàn, nên Đạo Cao Đài đã tiếp nhận sự nhập môn vào đạo hằng loạt.

Thành quả lớn lao ấy là do những nghi thức thờ cúng mới của Đạo Cao Đài không có gì trái với những gì mà các tôn giáo chánh đã thực hành trong nước.

LỄ KHAI ĐẠO

Từ ngày mùng 10 tháng 10 âm lịch (dl 14-11-1926), những cuộc đi truyền đạo được đình chỉ. Tất cả những nổ lực của các vị lãnh đạo đều tập trung vào Lễ Khai Đạo, diễn ra trong ba ngày: 14, 15 và 16 tháng 10 âm lịch của năm Bính Dần (dl 18, 19, 20-11-1926) tại chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén (Tây Ninh). Toàn Quyền Đông Dương, cũng như Thống Đốc Nam Kỳ và các viên chức cao cấp của Pháp và Việt đều được mời dự lễ.

Đại lễ cử hành rất long trọng, qui tụ đáng kể nhiều tín đồ đến từ khắp các tỉnh Nam Kỳ. Cuộc lễ cũng thu hút hằng ngàn người ngoại đạo đến  xem vì hiếu kỳ hay đến quan sát.

Sự hiện diện của Đại Úy Monet, một đại tín đồ Thần linh học Pháp, được đặc biệt chú ý.
Trong cuộc lễ nầy, Hội Thánh Cao Đài được xây dựng và Tân Luật được thiết lập và ban hành.

Thủ phủ chính thức của Đạo Cao Đài
Từ Lâm Tự là một ngôi chùa Phật vừa mới được xây cất bởi Hòa Thượng Giác Hải ở Chợ Gạo (Chợ Lớn). Vị Hòa Thượng nầy đã cải giáo để nhập vào đạo mới là Đạo Cao Đài. Nhưng sau đại lễ Khai Đạo, những tín đồ Phật giáo đã cung cấp tiền bạc cho Hòa Thượng xây chùa Từ Lâm, không được Hòa Thượng tham khảo ý kiến về sự hiến chùa cho Đạo Cao Đài, nên đòi hỏi giao hoàn chùa lại cho cố chủ.

Mặt khác, kinh nghiệm cho biết chùa quá nhỏ, khoảnh đất cất chùa quá chật hẹp, khó có thể xây dựng một cách thích đáng Tòa Thánh của một nền Tân tôn giáo đang phát triển với một tương lai vĩ đại.

Theo chỉ dẫn của Đấng Đại Tiên, khoảnh đất mà trên đó xây dựng Đền thờ tạm thời hiện nay đã được chọn và mua để xác định xây dựng Tòa Thánh Cao Đài, tọa lạc tại làng Long Thành, tỉnh Tây Ninh, khá rộng khoảng 100 mẫu, đủ đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai.

Việc di chuyển Thánh Thất từ Gò Kén đến làng Long Thành thực hiện vào tháng 3 năm 1927. Số tín đồ tiếp tục tăng lên đáng kể. Những cuộc hành hương đến Thánh Thất mới đáng ghi chép: mỗi ngày tiếp đón cả ngàn người.

Cũng như tất cả tôn giáo khác vào buổi đầu, Đạo Cao Đài cũng có những kẻ chống đối mà những lời chỉ trích của họ thường rất kịch liệt, luôn luôn bị xúi giục bởi một đầu óc    thiếu khách quan.

Trong lúc đó, những vị lãnh đạo Cao Đài, vâng theo lời giáo huấn của Đức Chí Tôn, cố gắng giữ mình và tự hoàn thiện trong nền Đại Đạo,  bằng cách chỉ quan tâm đến lợi ích về đạo đức và tinh thần của nhơn loại.

Đó là câu trả lời duy nhứt mà họ được phép dùng để đối phó với những kẻ công kích, vì tất cả tín đồ chân chính của Đạo Cao Đài phải giữ nghiêm khắc với chính mình. 

Rốt cuộc, sau 4 năm hiện hữu, Đạo Cao Đài đã có nửa triệu tín đồ. Mặc dầu có rất nhiều trở ngại gieo rắc trên đường đi, họ luôn luôn tiếp tục tiến bước và đắc thắng đến mục đích mà Đấng Thượng Đế đặt ra cho họ: Sự phục hưng nhơn loại trong nền hòa bình thế giới.

Nguồn gốc của giáo lý Đạo Cao Đài
Tạp chí " L’Inde illustrée " (Ấn độ hình ảnh) tóm tắt cho biết như sau đây :

" Cao Đài là danh xưng tượng trưng của Thượng Đế, được khải thị tại phương Đông lần thứ ba.

" Ý tưởng của các tín đồ về đức tin mới là Đấng Thượng Đế, theo lời giáo hóa về sự tiến bộ tinh thần của loài người, được tinh tế hơn xưa, Thượng Đế lần nầy thể hiện qua các đồng tử, không muốn ban cho một người nào nơi cõi trần cái đặc ân  sáng lập Đạo Cao Đài.

" Cái hình thức biểu hiện mới của Đấng Thượng Đế chứng tỏ rằng tôn giáo đặt dưới quyền thống trị của vị sáng lập trần thế, không thích hợp tính cách đại đồng, vì các nhà tiên tri của họ nổi lên chống lại cái chân lý được đề xướng bởi các tôn giáo khác mà họ tỏ ra không có sự khoan dung.

" Giáo lý Đạo Cao Đài là sự dung hợp giáo lý của các tôn giáo xưa ở phương Đông : Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo.

" Trong một Thánh giáo được chuyển đi vào ngày 13-2-1927, với sự hiện diện của vài người Pháp, Đức Lý Thái Bạch, một trong những khâm sứ của Thượng Đế, đã trình bày giáo lý ấy. Chúng tôi xin trích ra từ Thánh giáo ấy những dòng sau đây :

" Những Thánh giáo của các tôn giáo không được thực hành đúng. Trật tự và hòa bình thời xưa bị xóa bỏ. Qui luật đạo đức của loài người bị xuyên tạc. Đối với những người thiếu suy nghĩ và hoài nghi, Thượng Đế chỉ tồn tại trên từ ngữ. Họ không biết rằng nơi chỗ tối cao đang ngự trị một Đấng Chúa tể của mọi sự biến đổi của vũ trụ và của tất cả số phận con người.

" Thuở xưa, các dân tộc không hiểu biết nhau, thiếu các phương tiện vận chuyển, Ta (Đấng Thượng Đế) thiết lập trong các thời kỳ khác nhau năm nhánh của Đại Đạo (gọi là Ngũ Chi Đại Đạo) gồm :
1 . Nhơn đạo : Khổng giáo.
2 . Thần đạo : Khương Thái Công, thờ các vị Thần.
3 . Thánh đạo : Thiên Chúa giáo.
4 . Tiên đạo :  Lão giáo.
5 . Phật đạo :  Phật giáo.

" Mỗi Chi Đại Đạo dựa trên tập quán và phong tục của mỗi giống dân được đặc biệt kêu gọi để hành đạo.

" Ngày nay, tất cả những phần đất của thế giới được khai phá : nhơn loại hiểu biết nhau hơn, khao khát một nền hòa bình thật sự. Nhưng vì có nhiều tôn giáo nên nhơn sanh luôn luôn không sống trong sự điều hòa người nầy với người khác. Cho nên, Ta quyết định qui hiệp tất cả tôn giáo thành một mối duy nhứt để đem trở về một khối thống nhứt nguyên thủy.

" Hơn nữa, giáo lý của các tôn giáo, trải qua nhiều thế kỷ, đã bị biến thể bởi chính các vị lãnh nhiệm vụ truyền giáo, đến mức mà ngày nay, Ta nhứt định chính mình Ta đến với các con  để chỉ dạy con đường phải theo. . .

           
     Home           [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét