Buổi chiều, quốc kỳ
các nước, cờ hiệu, những tấm biểu ngữ, cờ phướn, đủ các màu sắc, tạo thành một
trang trí lộng lẫy với ngôi đền thờ sáng rực và những khán đài kết hoa đẹp mắt,
nơi đó để nghinh tiếp nhà cầm quyền Pháp và bản xứ, những đại diện báo chí và
những quan khách.
Bên trong đền thờ, tại chánh điện có một vẻ trang
nghiêm đặc biệt, không loại trừ vẻ đẹp giản dị. Bên phải và bên trái của chánh
điện
là hai bàn thờ: một thờ Đức Quan Thánh Đế Quân, một thờ Đức Quan Âm Bồ
Tát.
Ở bên ngoài, có hai chữ Vạn lớn được chiếu sáng rực
rỡ, bao quanh Thiên nhãn mà con ngươi là một bóng đèn điện màu xanh. Đối diện
Thánh Thất có đắp lên một cái sân cao gọi là đàn " Bạch Vân " trên
đó có một bàn thờ lớn với chơn dung Victor Hugo ngồi chống khuỷu tay lên bàn,
có hai hàng tín đồ mặc áo dài với ba màu : vàng, xanh, đỏ.
Trong một cái sân rộng ở khoảng giữa đàn Bạch Vân
và đền thờ, có nhiều nhân vật Pháp, Cao miên, Việt Nam, Trung hoa, Ấn độ, tham
dự nhiều trò giải trí khác nhau, đặc biệt là đốt pháo bông, múa lân và múa long
mã theo điệu nhạc Tần, nhạc Pháp và Việt Nam, thi đua trổ tài tạo ra những
tiếng ầm ĩ điếc tai.
... Tiếp theo bài diễn văn khai mạc là bài thuyết
đạo có ý nghĩa cao siêu của Ngài Phạm Công Tắc, đọc bằng tiếng Việt Nam. Ngài
hiện diện từ lúc đầu làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Sau bài thuyết đạo
mà các tín đồ lắng nghe là sự hoan hô rất lâu bởi những thính giả hâm mộ.
Thật vậy, lễ Khánh thành nầy đánh dấu một thành
công tốt đẹp của những tín đồ Cao Đài tại Nam Vang, đã tận dụng hết sức mình để
làm cho đền thờ, trước đây là ngôi nhà lá bình thường, thành một Thánh Thất
xứng đáng và đáng kính phục.
Tờ báo La Dépêche (Tin điển) ngày 26-5-1937 cũng có
bài tường thuật khá chi tiết mà chúng tôi chỉ thuật lại vài đoạn chĩ rõ
những hình dạng mới của cuộc lễ:
"
Trên đại lộ Pierre Pasquier, trong khu phố mà một cộng sự viên của chúng tôi
mới đây đặt tên là " Cư xá trên hồ của Nam Vang ", tại vị trí của một
ngôi nhà thờ nhỏ bằng lá hiến làm đền thờ cho Phật giáo canh tân, những tín đồ
Cao Đài tại Cao Miên xây dựng lên một Thánh Thất lộng lẫy mà kiểu vở giống một
cách lạ lùng kiểu vở của Thánh đường Saint-Mexmes ở Chinon. "
Sau khi mô tả chi tiết Đền thờ, chúng ta đọc tiếp :
" Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã rời Tòa Thánh
Tây Ninh đến Nam Vang, ngụ tại một ngôi nhà cất trong phạm vi Thánh Thất, đến
giờ hành lễ, Ngài đi đến Thánh Thất, mặc đại phục Hộ Pháp, được che dưới những
cây tàn vàng, đi trước Ngài là một dàn nhạc và theo sau là đoàn tùy tùng đông
đảo.
Tại cửa vào Thánh Thất, Đức Hộ Pháp được tiếp đón
bởi vị Chủ trưởng của Hội Thánh Ngoại Giáo, bao quanh bởi các Chức sắc địa
phương. Ngài được hướng dẫn đến một cái bụt danh dự đặt sau cửa chánh, trên đó, Ngài đứng suốt
buổi lễ cúng đàn, tay cầm cây Kim tiên làm cho bọn tà thần yêu quái sợ hãi lánh xa nơi thờ phượng thiêng liêng.
Khói của các cây nhang cắm trong lư hương bay lên
làm như tấm màn trước Quả Càn khôn và các Đấng thiêng liêng. Những Chức sắc mặc
áo rộng đỏ, xanh, vàng; những tín đồ trong đạo phục trắng, quì trên những chiếc
chiếu theo hàng dài, chiếm gian giữa và hai gian bên của Thánh Thất.
Những người xướng lễ cất cao giọng xướng lên những
câu khác nhau trong buổi lễ cúng đàn.”
Khi lễ cúng đàn chấm dứt, Đức Hộ Pháp được đưa về
nhà nghỉ với cùng một nghi thức như lúc rước.
Khi ấy, Ngài được nhựt báo La Dépêche mở một cuộc
phỏng vấn nhanh :
" Đức Hộ Pháp là một trí thức tinh anh, Ngài
nói và viết tiếng Pháp một cách đáng khen. Ngài đọc nhựt báo La Dépêche khi
chúng tôi được ông Khâm Trấn đưa vào
phòng khách. Tức thì Ngài đứng dậy bắt tay chúng tôi như một vị quí phái, và nụ
cười trên môi, Ngài chỉ ghế mời chúng tôi ngồi.
E ngại vất vả phải chịu một cuộc phỏng vấn dài,
Ngài khởi đầu nói cho chúng tôi biết Ngài là độc giả trung thành của tờ báo
chúng tôi và Ngài đặc biệt chú ý đến lần xuất bản nói về Cao Miên, bởi vì trên
đất Miên, có hơn 40 ngàn đồng đạo của Ngài.
Đối với Ngài, Đạo Cao Đài là một tôn giáo có năng
lực hòa hợp và hòa bình xã hội. Sự tiếp đãi tử tế mà các tín đồ Cao Đài Việt
Nam đã thấy được ở Cao Miên, làm cho Ngài cảm động sâu xa. Ngài hết lòng mong
ước những động bào của Ngài biết bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với nhà cầm
quyền bản xứ và tiếp tục làm việc nơi đây hay những nơi khác trong sự tôn trọng
luật pháp và phong tục bản xứ.
Nhưng Ngài tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy rằng, những
mệnh lệnh, do hiểu lầm, không nghi ngờ gì nữa, đã ban ra trong dịp các ngày lễ
nầy, cấm thần dân của vua Miên Monivong không được tham dự các trò giải
trí bình dân tổ chức trong chu vi Thánh Thất Cao Đài. . . .
Ông Thượng Chữ Thanh,
Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, trụ sở tại Nam Vang, mở lời trước để thông báo
: Bà Lâm Ngọc Thanh, một Chức sắc cao cấp nữ phái của Đạo Cao Đài đã tắt hơi tại Vũng Liêm
và yêu cầu những vị hiện diện một phút
mặc niệm.
Kế đó Ngài ca tụng những vị sáng lập Đạo Cao Đài ở
Nam Kỳ, đặc biệt là công đức của Cố Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và của một
Chức sắc khác rất thương tiếc là Ngài
Cao Quỳnh Cư.
Tiếp theo, Ngài kể lại lịch sử của nền Tân tôn giáo
tại Cao Miên, rồi thông báo với cử tọa rằng, lễ Khánh Thành Thánh Thất Nam Vang
trùng hợp với lễ Kỷ niệm ngày mất của Victor Hugo, Chưởng Đạo thiêng liêng của
Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài.
Ba bài diễn văn đọc bằng tiếng Quảng Đông, tiếng
Triều Châu và tiếng Cao Miên, trình bày mô phỏng theo bài diễn văn của ông
Thượng Chữ Thanh. . . . .
Buổi chiều, lúc 16 giờ 30 phút, lễ rước các Đấng
thiêng liêng diễn ra trong châu vi Thánh Thất. Dẫn đầu đám rước là lân, tiếp
theo là rồng, đi theo thứ tự là cộ Đức
Phật Di-Lạc mà tượng của Ngài với nụ cười cởi mở điềm nhiên nơi Cực Lạc Niết
Bàn, bàn thờ Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, chơn dung của Victor Hugo, tượng
Cô Jeanne d’Arc, chơn dung của Cao Quỳnh Cư, của Tôn Dật Tiên, người sáng lập
nước Cộng hòa Trung hoa, và sau cùng là một cái cộ lớn có một ngọn núi thiêng,
trên đó có tượng của nhà đại hiền Lý Thái Bạch ngự trên ngai, bên phải có Nữ Bồ
Tát Quan Âm, và bên trái có tượng của vị anh hùng Quan Công.
Dưới chân núi ấy là Cố Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung đang ban phép lành cho đám đông.
Đoàn cộ đi trước, theo sau là những dàn nhạc huyên
náo, đi biểu diễn ba vòng chung quanh Thánh Thất, đi ngang qua khán đài, nơi đó
có Đức Hộ Pháp, các nhân vật và các Chức sắc của Đạo.
Trong một phần của khán đài, chúng tôi để ý thấy
nhiều phụ nữ Trung hoa mới nhập môn vào đạo mặc đạo phục trắng như những người
Việt Nam, với những cổ pháp và phù hiệu theo phẩm tước."
Ở bên Pháp tờ báo Le Fraterniste, ở Cao Miên tờ báo La Vérité ngày 20-10-1937 đăng cảm tưởng tổng quát:
" Những tranh ảnh của các báo, những ảnh in
trên báo, dưới mắt tôi, chứng tỏ rằng cái vẻ huy hoàng hiếm có của các buổi lễ
đã diễn ra dưới sự chủ tọa của Đức Hộ Pháp.
Hàng ngàn tín đồ lớp lớp từ các nơi đổ về: 15, 20,
25 ngàn người ? Khó mà thẩm định có bao
nhiều người trong đám đông Á châu như thế.
Những bài diễn văn đã được đọc và truyền trên đài
phát thanh, như của " Charles ", Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, của " François ", người chủ chốt
của phong trào. Các diễn văn nầy phản ánh một số tư tưởng làm cho tôi chú ý để ghi lại.
Sự bảo hộ của Đấng Victor Hugo đủ để nhấn mạnh tính
chất siêu phàm Thần linh học của Đạo Cao Đài mà người lãnh đạo cao cấp nhứt
hiện nay là vị Chưởng quản của cơ quan
đồng tử tại Tòa Thánh Tây Ninh (Nam Kỳ).
Sự liên kết tinh thần giữa các tôn giáo Đông phương
và các tôn giáo Tây phương, xác nhận mỗi nơi mỗi lúc, bởi vì các Thánh Thất Cao
Đài được mở ra để tôn thờ Đấng Christ, Đức Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Giáo
chủ Mahomet và tất cả những Thiên sứ của Thượng Đế khắp địa cầu, như những nhà
Thần linh học (Victor Hugo, Camille Flammarion) hay những ân nhân của nhơn
loại.
Vào lúc mà ít nhiều người đã vận động liên kết trên
tất cả các mặt của cái nhãn hiệu bề ngoài để chia rẽ con người và gieo rắc hận
thù, chúng ta nên khuyến khích phong trào nầy của sự hòa giải, thống nhứt toàn
cầu.
Vào lúc mà ít nhiều người lấy lại công thức độc
đoán và các lời bài xích của thời trước :“Các người chỉ có thể được cứu vớt tại
đây.” Dường như tốt đẹp để nhắc lại rằng, cả với người điếc, điều đó không bao
giờ chấm dứt những trò đùa đáng thương hại của nghi thức : điều quan hệ duy
nhứt không phải là tín điều, mà là hành động. Allan Kardec phát biểu một cách
minh bạch: Ngoài phước đức, không có gì
cứu vớt.
Tinh thần hòa bình và chủ trương hòa bình của Đạo
Cao Đài đáng được khen ngợi. Những tín đồ Cao Đài phản đối sự phân biệt các
chủng tộc, các tôn giáo, các màu da,
muốn có sự hòa hợp các chính phủ và chấm dứt chiến tranh, điều đó luôn
luôn được tuyên bố bởi các chính phủ.
Đối diện với Tây phương, tín đồ Cao Đài kêu lên :
Chúng tôi vì hòa bình; tình huynh đệ giữa con người, tình thân hữu giữa các dân
tộc, sự hợp tác giữa các chủng tộc. Chúng tôi tránh xa chánh trị tàn ác của các
nước độc tài, của người ác đen, nâu hay đỏ, và những người liều mạng bị mua
chuộc trong mỗi nước, tìm cách bắt chước bọn Badinguet mới.
Người ta thấy sự tổng hợp về tâm linh là đáng kính
phục, nơi đó người không tín ngưỡng cũng tìm thấy thức ăn tinh thần, bởi vì trong
một Thánh Thất Cao Đài, người ta có thể cầu xin các nguyên tắc hướng dẫn của
triết gia Khổng Tử, hay hiền triết Lão Tử.
Thật vậy, Thánh Thất Cao Đài không thừa nhận những
kho châu báu tâm linh. Chúng tôi xa lánh những người chuyên dán nhãn hiệu,
những môn phái, những phe đảng nhỏ của các quan chức và phó quan chức lạc hậu,
vô giá trị."
Thời
khắc biểu cho thấy sự quan trọng của ba ngày lễ:
Chương
trình ngày 21-5-1937
BUỔI
SÁNG :
5 giờ 15 : Chức sắc và tín đồ tập hợp nơi Thánh
Thất.
5 giờ 30 : Rước Đức Hộ Pháp vào Thánh Thất.
6 giờ : Cúng đại đàn và trấn thần Quả Càn khôn.
9 giờ : Rước Đức Hộ Pháp lên cái sân cao dành cho
Chức sắc và giới thiệu Hội Thánh.
9 giờ 30 : Đồng nhi tụng kinh cầu nguyện. Diễn văn
khai mạc bằng tiếng Việt của Giáo Sư Thượng Chữ Thanh, Chủ trưởng HT Ngoại
Giáo. Diễn văn bằng tiếng Trung hoa và tiếng Cao Miên.
11 giờ 30 : Cầu nguyện trên máy vi âm để cầu chúc
hòa hiệp và hòa bình cho toàn thế giới.
Giữa trưa: Cúng đàn cầu nguyện những người quá
vãng.
BUỔI
CHIỀU :
16 giờ : Chức sắc tập hợp tại cái sân cao phía
trước.
16 giờ 30 : Rước chơn dung Victor Hugo đi quanh
Thánh Thất và sau đó đem đặt trên đàn Bạch Vân.
17 giờ 30 : Lễ cúng thời Dậu thường lệ, đồng nhi
tụng kinh cầu nguyện.
- Thuyết đạo bằng tiếng Miên của Chánh Trị Sự Phạm Văn
Châu.
- Thuyết đạo bằng tiếng Việt của Nữ Giáo Sư Hương Phụng (Bà Trần Kim Phụng), Tiếp Đạo Cao
Đức Trọng và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
- Diễn văn bằng tiếng Pháp của Chủ Trưởng HTNG.
23 giờ : Đại lễ kỷ niệm Victor Hugo: Chưởng Đạo
HTNG.
Chương
trình ngày 22 tháng 5
BUỔI
SÁNG :
5 giờ : Lễ cúng thời Mẹo thường lệ.
8 giờ : Cầu nguyện cho sự an nghỉ các vong linh và
cầu nguyện cho sự hòa hiệp và hòa bình thế giới.
11 giờ : Lễ cúng thời Ngọ thường lệ.
BUỔI
CHIỀU :
16 giờ : Các Chức sắc tập hợp tại đàn phía trước.
16 giờ 15 : Rước Đức Hộ Pháp đến tại đàn phía
trước.
17 giờ: Rước quan khách thuộc chánh quyền Pháp và
bản xứ, đại diện báo chí và những khách mời.
17 giờ 15: Đồng nhi tụng kinh tôn vinh nền tôn
giáo. Diễn văn Khánh thành Thánh Thất do ông Phó Chủ trưởng HTNG đọc trên máy
vi âm.
18 giờ : Quan khách viếng thăm Thánh Thất.
18 giờ 15 : Ký tên vào Sổ Vàng lưu niệm.
18 giờ 30 : Tiệc trà danh dự.
20 giờ : Diễn văn của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Thuyết
đạo của Ngài Thượng Chữ Thanh. Thuyết đạo của các Chức sắc khác.
23 giờ: Lễ cúng thời Tý thường lệ.
* * *
Viết tắt: HT: Hội Thánh. HTNG: Hội Thánh Ngoại
Giáo.
Chương
trình ngày 23 tháng 5
BUỔI
SÁNG :
5 giờ : Lễ cúng thời Mẹo thường lệ.
6 giờ : Tập hợp các cộ bông, bàn lễ, rồng, lân, dàn
nhạc vv. trên đại lộ Pierre Pasquier, đối diện Thánh Thất.
6 giờ 45: Khởi hành đám rước biểu diễn trong thành
phố.
11 giờ : Lễ cúng thời Ngọ thường lệ.
BUỔI
CHIỀU :
16 giờ : Tập hợp các Chức sắc tại sân cao phía
trước.
16 giờ 30 : Phát thưởng cộ bông, rồng, lân, bàn lễ,
dàn nhạc.
17 giờ : Đồng nhi tụng kinh tôn vinh nền tôn giáo,
có nhạc. Lễ cúng thời Dậu thường lệ.
18 giờ : Chức sắc thuyết đạo. Diễn văn bế mạc của
Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh.
22 giờ : Đồng nhi tụng kinh cầu nguyện cho sự an
nghỉ các vong linh và cầu nguyện cho sự hòa hiệp và hòa bình thế giới.
23 giờ : Đại lễ cúng đàn ngày 15 tháng 4 năm Đinh
Sửu.
Ông Charles Bellan, cựu Thống sứ Pháp tại Cao Miên,
từ Ba-lê gởi đến cho chúng tôi ngày 1- 9 -1937 cảm tưởng tổng quát của ông:
" Tôi có đọc
một cách rất thích thú các tài liệu mà quí bạn đã gởi cho tôi, về lễ
Khánh Thành Thánh Thất Cao Đài tại Nam Vang. Tôi có trao tài liệu ấy cho vài
thân hữu và nhân sĩ, mà họ chú ý đến phong trào nầy với khuynh hướng thống nhứt
các tôn giáo và tình huynh đệ đại đồng thế giới.
Trải qua nhiều thời gian, những sự chống đối của
các tôn giáo khác nhau đã làm cho máu chảy thành sông, ước mong rằng các tôn
giáo có một sự hiểu biết lẫn nhau cần thiết cho hạnh phúc của nhơn loại.
Sự tiến bộ của khoa học phế bỏ càng ngày càng nhiều
các khoảng cách, nhưng nếu các dân tộc hiểu rõ nhau hơn thuở xưa, không ít sự
thật mà họ thường bị lừa gạt bởi những lãnh tụ độc ác, nhưng than ôi ! vẫn còn
tồn tại nhiều hiểu lầm giữa họ.
Nếu Đạo Cao Đài bành trướng, người ta hy vọng sẽ có
một kỷ nguyên hòa bình và yên ổn, nếu không là hạnh phúc, vì hạnh phúc không có
ở thế gian.
Cho nên, mỗi người cần phải làm việc theo chiều
hướng đó. Về phần tôi, tôi thực sự rất sung sướng biết rằng sự ngược đãi đáng
ghê tởm mà người tín đồ Cao Đài là nạn nhân, đã chấm dứt.
Như thế, sự cố gắng giúp đỡ của mỗi người, người ta
không thể ngăn chận sự truyền bá một giáo lý mà như lời Phật dạy - không phải
là hận thù, mà là tình thương yêu mới hiệp nhứt các trái tim - được ngự trị sự
yên ổn trên mặt địa cầu còn quá loạn động nầy.
Tình thân ái huynh đệ. ( Ký tên: Charles Bellan )
MINH XÁC GIÁO LÝ
Một trong những thân hữu theo Đạo Cao Đài của chúng tôi, ông Gabriel Abadie
de Lestrac, có trình độ hiểu biết nhiều hơn những đại ký giả ở Ba-lê (Kinh đô
ánh sáng) dành cho tờ báo “VU” ngày 7-9-1932 một bài báo có kèm theo tài liệu
và tranh ảnh nói về Đạo Cao Đài. Khác hơn những kẻ giàu có nhờ phục vụ điều sai trái và
dối trá, ông Gabriel Abadie có thể chứng minh với biết bao nỗi đau khổ khi ông
bắt đầu nói sự thật về Đạo Cao Đài.
" Khởi đầu từ năm 1926, trong một căn phố ở
bên cạnh Chợ Bến Thành Sài Gòn, tụ tập vài trí thức trẻ, tất cả đều là tín đồ
Phật giáo, để nghiên cứu Thần linh học
trong khi nhàn rỗi. Tư tưởng đó dẫn họ
đi đến những cuộc xây bàn, để nghe những tiết lộ của một vị trong những vị thầy
của họ là nhà Thần linh học xác tín, đại diện Hội Thần linh học quan trọng nhứt
của nước Pháp.
Những buổi khởi đầu xây bàn chưa thể kết luận được,
nhưng dần dần, với sự kiên nhẫn cao độ, đặc tánh của người phương Đông và loại
ra những người nào không có “điển” để thay thế những bạn khác có khả năng tiếp
điển khá hơn, họ ghi nhận được nhiều kết quaû phi thường.
Lúc khởi đầu, họ thú nhận đã thông công được với
chơn linh của một vị hiền triết của nước Trung hoa thời xưa là Đức Lý Thái Bạch
(thế giới thường gọi Ngài là Li-Tai-Pé), một vị Homère của nước Trung hoa, Ngài
đã canh tân văn chương Trung hoa dưới triều đại thứ 13 nhà Đường (713-742), và
Ngài là một tín đồ nhiệt thành của Lão giáo, đã viết ra cho những trí thức trẻ nói trên một vài bài Thánh
giáo. Họ cũng tiếp tục nhận được như thế vài bài Thánh giáo của Đức Quan Thánh
Đế Quân, một vị Turenne của Trung hoa.
Lúc đầu những tín đồ mới nầy của Thần linh học hình
như xem việc xây bàn là một trò giải trí và sau đó nhanh chóng trở thành một
công việc huyền bí : sự đối thoại với các Đấng chơn linh thượng đẳng của thế
giới vô hình, nơi đây họ cầu xin những lời chỉ giáo của các Đấng ấy.
Nhưng việc dùng cái "bàn xây" để liên lạc
với thế giới huyền bí dường như ít tiện
lợi, họ bộc bạch với các Đấng thiêng liêng và họ được chỉ dạy dùng “Ngọc cơ”, giống như một cái mũ bằng mây và
đồng thời noi theo sự hướng dẫn của một trong những đồng bào của họ là ông Phủ
Chiêu, rất thông thạo về Thần linh học. Ông Phủ Chiêu theo giáo lý của Đức Phật
Thích Ca và thực hành đạo đức của Đức Khổng Tử, ông đã thông công được với các
Đấng nầy từ nhiều năm qua và nhận được một tiết lộ : Sự hiện hữu của Đấng
Thượng Đế tối cao, Chúa tể càn khôn vũ trụ, và Ngài là Đấng Cao Đài. Ông Phủ
Chiêu chỉ dạy cho các vị trẻ tuổi nầy cách sử dụng cây Ngọc cơ và tham dự vào
các đàn cầu cơ.
Theo những lời khuyên nhủ của Đấng chơn linh, họ tự
giới thiệu với một người trong những đồng bào của họ, ông cựu quan chức Nam kỳ
và là Nghị viên Hội Đồng Chánh phủ, ông Lê Văn Trung, trong lúc ông nầy đang có
một cuộc sống phóng đãng và hưởng thụ tha hồ, không chuẩn bị vai tuồng mà ông
sắp được gọi đến để giao phó.
Sự nhập đạo của ông Lê Văn Trung thật huyền diệu.
Được hưởng ơn huệ, người ghiền thuốc phiện bỏ hút,
người ghiền rượu bỏ nhậu, người ấy ngưng ăn thịt cá, từ bỏ những thú vui xác
thịt, trở thành một người ăn chay trường và thực hành khổ hạnh giống như những
nhà sư khắc khổ nhứt.
Tiếp theo, trong một đàn cơ đáng ghi nhớ, tập hợp
nhiều người, cây ngọc cơ truyền lịnh cho Ngài Lê Văn Trung lãnh việc truyền bá
Đạo Cao Đài và ban cho Ngài danh hiệu "Giáo Tông" của một nền tôn
giáo mới."
Về vấn đề đại đồng của Đạo Cao Đài, đạo huynh của
chúng tôi (ông Gabriel Abadie) giải thích rất hay ý nghĩa của từ ngữ Cao Đài:
" Cao Đài là danh từ tượng trưng Đấng Chí Tôn mà trong kỳ ba nầy, Đấng ấy sẽ hiển thị ở
Đông phương.
Ý tưởng của các tín đồ Cao Đài về đức tin mới là
Đấng Thượng Đế, sự giáo huấn của Ngài tùy theo mức tiến hóa của tinh thần nhơn
loại; tinh anh hơn thuở xưa, lần nầy Đấng Thượng Đế biểu thị bằng đường lối
thông công với các đồng tử, Ngài không muốn chấp nhận một người nào đặc ân sáng
lập Đạo Cao Đài. Hình thức mới mẻ về sự biểu thị của Đấng Chí Tôn làm cho tất
cả tôn giáo chịu dưới quyền lực của một vị sáng lập, là người cõi phàm, thì
không thích hợp tánh cách đại đồng, bởi vì các nhà tiên tri (tức là những vị
lãnh đạo tôn giáo) nổi lên chống lại những giáo lý được tuyên bố bởi các tôn
giáo khác, đối với những giáo lý mà họ chứng tỏ một sự không dung thứ đáng kể.
Giáo lý của Đạo Cao Đài phần lớn được trích ra từ
ba chánh đạo xưa của Á Đông : Phật giáo,
Lão giáo, Khổng giáo. Đạo Cao Đài giữ lại những nguyên tắc thuần túy
được nhìn nhận như là những chơn lý vĩnh cửu, bất biến của Thiên điều. nhưng
Đạo Cao Đài buộc phải khôi phục trong ý nghĩa chơn thật của nó một vài giáo điều đã bị biến đổi.
Được canh tân như thế nên giáo lý nầy dung hợp được tất cả tín
ngưỡng tôn giáo và thích ứng với những trình độ khác nhau của sự tiến hóa tâm
linh.
- Về phương diện luân lý, Đạo Cao Đài nhắc nhở con
người bổn phận và nghĩa vụ của mình, dạy con người biết cách cư xử đối với
chính bản thân mình, đối với gia đình, xã hội và đối với toàn nhơn loại.
- Về phương diện triết lý, Đạo Cao Đài giảng giải
sự khinh thường công danh quyền thế, sự phú quí xa hoa, tắt một lời là giải
thoát con người khỏi nô lệ vật chất để tìm kiếm sự sự yên tịnh tràn ngập trong
tâm hồn.
- Về phương diện thờ cúng, Đạo Cao Đài khuyên nhủ
thờ phượng Thượng Đế và tôn sùng các Đấng chơn linh thượng đẳng, lập thành hệ
thống thần bí uy nghiêm. Đạo Cao Đài nhìn nhận sự thờ cúng Tổ tiên được thiết
lập theo nguyên tắc của Phật giáo, nhưng chống lại sự dâng cúng các thứ thịt cá
và việc sử dụng các loại giấy vàng bạc.
- Về phương diện tâm linh, Đạo Cao Đài đồng ý với
các tôn giáo khác về sự hiện hữu của linh hồn sau khi thoát xác, sự tiến hóa
của linh hồn bởi nhiều kiếp luân hồi liên tiếp, những hậu quả sau khi chết của
những hành động do con người gây ra theo đúng luật Nhân quả báo ứng.
- Về phương diện tâm truyền, Đạo Cao Đài giảng đạo
cho các tín đồ đã được xét đoán là xứng đáng, những giáo huấn khải thị để cho
phép họ đạt đến hạnh phúc hoàn toàn bởi một tiến trình tiến hóa tâm linh.
Căn bản của giáo lý Cao Đài là thực hành điều thiện
và đức hạnh. Làm thế nào biết được bằng cách khác trong một tôn giáo hỗn hợp ba
hệ thống lớn của Đông phương: Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo, để chỉ giữ lại
những giáo huấn cao siêu nhứt và loại bỏ
những giáo huấn lạc hậu xem như là những
yếu tố mê tín và dốt nát ?
I . Đức Phật từ bi giảng dạy lòng tín ngưỡng và từ
thiện.
II . Giáo lý của Đức Lão Tử qui định sự tôn thờ chơn
lý và khuôn khổ đức tánh.
III . Đức Thánh Khổng Tử vạch ra con đường Trung Dung.
Đấng Cao Đài gom lại các nguyên tắc lớn về bác ái
và nhân từ, do ba Đấng Giáo chủ Tam giáo giảng dạy, để thuyết giảng giáo lý của
tôn giáo mới, mà nơi đó, con người của tất cả các màu da, phải tiến đến những
khuôn khổ mới cho sự tạo lập một thế giới tốt hơn, một thế giới không có chiến
tranh và chinh phục và nơi đó các chủng tộc sẽ là huynh đệ với nhau.”
Đạo huynh của chúng tôi (ông Gabriel Abadie) trả
lời điều phàn nàn của một ký giả cho
rằng, trong Đạo Cao Đài, Đức Chúa Jésus Christ chỉ là một Đấng thiêng liêng
thuộc hàng thứ nhì:
" Đấng Christ dùng làm gạch nối giữa Khổng
giáo, Lão giáo và Phật giáo. Ngài được đặt dưới các Đấng thiêng liêng ở viễn
đông là vì Ngài đến thế giới nầy sau các Đấng kia nhiều thế kỷ.”
Vào năm 1932, ông Gabriel Abadie tiên đoán sẽ có
việc hà hiếp, ngược đãi không kềm chế
liên tiếp lâu dài và đau khổ đối với các tín đồ Cao Đài, và những thứ đó
không thể nào trốn khỏi, phần ông vẫn không hơn:
Tôn giáo mới hay Phật giáo canh tân, do sự khoan
dung nổi tiếng của các dân tộc viễn đông, không gây ra một cuộc tranh cãi nào
giữa sự thờ cúng xưa và sự thờ cúng cải cách ngày nay, bởi vì Đạo Cao Đài không
cố chấp tuyên bố rằng: trừ ra đạo đức và giáo lý của Đạo Cao Đài, thì bên ngoài
chỉ có những sai lạc và trừng phạt.
Trái lại, Đạo Cao Đài chứng tỏ sự tôn kính các tôn
giáo khác đã có những giáo huấn xứng đáng để nó tôn thờ và nó không ngần ngại
đặt hình ảnh Đấng Christ một cách vinh quang bên cạnh Đức Phật Thích Ca, Đức
Lão Tử và Đức Khổng Tử. Đạo Cao Đài muốn
truyền bá một nền đạo đức có giá trị chơn thật hơn là lo ngại về nguồn gốc. Không
còn thiếu, bản chất của giáo lý mới là luật pháp của ba Đấng Giáo chủ Tam giáo,
nên Đạo Cao Đài bảo toàn các tín ngưỡng xưa, những phong tục và những lễ nghi.
Người ta có thể tự hỏi, nhứt là những năm gần đây,
những nguyên nhân sâu xa nào thúc đẩy tâm hồn của dân chúng bản xứ, cho đến lúc
nầy vẫn còn yên ngủ, hướng về lòng mộ đạo đến nhiệt thành tin tưởng thần bí của những thời kỳ tín
ngưỡng.
Người ta sẽ tự hỏi : Tại sao có sự canh tân tôn
giáo ?
Giáo lý của Đạo Cao Đài hướng về các hoạt động xã
hội và luân lý, bằng cách lấy lại cho dân tộc Việt Nam ý thức truyền thống của
đời sống đơn giản đạm bạc và lo xa, dưới sự hướng dẫn của những người ưu tú của
họ.
Người ta cũng có thể ngạc nhiên khi thấy nước Pháp,
hay đúng hơn là vài vị quan chức người Pháp, quá hăng hái, và chắc chắn bị kẻ
xấu xúi giục, chống lại những người tà giáo của một ngoại giáo cải cách để lợi dụng, hơn nữa giống như những tín
ngưỡng xưa không đòi hỏi cái lợi đó, và yêu cầu giáo lý chính thống của Phật
giáo xưa phải được tôn trọng, không sửa đổi, không tiến hóa một cách nào hết để
thích hợp với những quan niệm mới mẻ hơn.
Giải thích về cuộc vận động chống lại Đạo Cao Đài
được tìm thấy ở trong sự sùng bái Đạo Cao Đài mà tôn giáo canh tân nầy đã thâu
phục được một số tín đồ ở Nam Kỳ hơn một triệu người trên tổng số 3 triệu rưỡi
dân.
Cựu Thống đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse ngày
hôm nay bị bêu xấu vì đã tuyên bố cho
phép tôn giáo mới nầy tồn tại trong phạm vi quyền hạn của ông. Nhưng lại báo
động có một cuộc vận động bài trừ, mưu hại những kẻ tà giáo.
Báo Le Cygne (Bạch Nga, gần Hà Nội) đã công bố một
loạt bài nhan đề: Bộ mặt thật của Đạo Cao Đài (tháng 9 năm 1936), nơi đây,
chúng tôi chỉ trích ra những đoạn kỳ lạ
nhứt. Như cái tựa đã chỉ rõ, đây là một
bài phóng sự khách quan. Chúng tôi chỉ biết khen ngợi vì chơn lý cũng phụng sự
Thượng Đế.
“ Xin các bạn yên tâm ! Thay vì bĩu môi khi đọc đầu
đề của cuộc điều tra, nhìn tôi với con mắt ngạc nhiên, hoài nghi hay chế giễu,
lằm bằm những lời nguyền rủa, xin các bạn hãy bình tỉnh nghe lời tâm sự của một
người giống như các bạn, cũng gần giống
như tất cả những trí thức ở Bắc Kỳ, sẵn sàng nhạo báng một tôn giáo mới phát
sinh trong đất nước của quí bạn, một cách rất đơn giản là vì họ không biết gì
cả về tôn giáo nầy. "Mới phát sinh"
thì không đúng với từ ngữ: theo đạo lịch Cao Đài, nhơn loại ở vào năm thứ 10
của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, như vậy tôn giáo nầy đã được lan truyền từ 10 năm
rồi.
Một nhà xã hội học lão luyện phải chú ý rằng, từ
một phần tư thế kỷ nầy, nước Việt Nam phải chịu một cuộc rung chuyển thình lình.
Một cuộc xáo trộn toàn diện xảy ra trong định mạng của dân tộc, trong tư tưởng và trong tín ngưỡng. Sự trở về của hai
vị họ Phan (*) báo hiệu triệu chứng đầu tiên của cơn sốt nầy, cứ tăng dần mỗi
ngày.
Về phương diện chánh trị, đây là một cuộc cách mạng
trong trí não và trong tâm hồn.
Về phương diện kinh tế, đây là một cuộc phát triển
mãnh liệt của kỹ nghệ, sự thành hình các hợp tác xã và những nghiệp đoàn.
* * *
(*) Hai nhà cách mạng : Phan Bội Châu và Phan Chu
Trinh.
Về phương diện văn học, đây là sự cải cách tận gốc
rễ về ngôn ngữ, sự dẫn nhập những tư
tưởng mới về thi văn và nghệ thuật cho đến trong lãnh vực tôn giáo, đây
là sự phát sinh một đức tin mới."
Trách cứ rằng Đạo Cao Đài chỉ gồm những khối tín đồ
dốt nát và mê tín, bị bốc lột một cách khéo léo bởi những tay lừa đảo bịp
bợm. Lời kháng biện như sau :
"
Hàng ngàn tín đồ Đạo Cao Đài, không phải tất cả mọi người đều nhẹ dạ dễ tin hay
mê tín dị đoan. Một số đông người trong họ theo đạo mới ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung
hoa, Pháp, đều là những trí thức thượng lưu như : Giáo sư, Trạng sư, Nhà văn, Ký giả, Dân biểu.
Không
phải không có lý do cho rằng, Đạo Cao Đài được nói tới nhiều trên khắp thế
giới, rằng nhiều tạp chí nổi tiếng ở Ba-lê, Luân đôn, Lisbonne, Varsovie, đến
các tạp chí ở La Mã, Buenos-Ayres, đều nghiên cứu giáo điều và giáo lý của Đạo Cao Đài.
Tác
giả bài điều tra nầy được đặc quyền hiếm có, lục soát các văn kiện của Tòa
Thánh Tây Ninh, nơi đó tác giả được đọc các thơ từ và tài liệu quí báu, những giấy xin nhập môn
cầu đạo gởi đến Đức Giáo Tông, của những nhân vật ngoại quốc ở nhiều thủ đô
khác nhau nơi Âu Châu và Mỹ Châu. Đến nước Nhựt, một nước tự hào về Võ sĩ đạo,
cũng phái nhiều người đến Tây Ninh để nghiên cứu tìm hiểu những điều về đức tin
mới, đã làm chấn động dư luận thế giới."
Tờ báo La Vérité (Sự thật) bên cạnh đó có một phóng
sự đăng từ ngày 11 đến 13-5-1938, được lấy in thành sách (xuất bản đặc biệt của nhựt báo ấy tại Nam
Vang) mà chúng tôi sẽ thuật lại những trích đoạn sau đây :
"
Từ 12 năm nay, Đạo Cao Đài phát triển ở Đông Dương, người ta chú ý rằng, không
có một nghiên cứu khách quan và trọng yếu nào được công nhận. Tuy nhiên, phong
trào tôn giáo và xã hội nầy liên quan đến hàng trăm ngàn người trên một phạm vi
càng lúc càng rộng hơn. Nền Tân tôn giáo tự cảm thấy nhỏ hẹp trong giới hạn của
nơi phát khởi, Nam Kỳ, đã gởi các nhà truyền giáo sang nước Cao Miên, Trung Kỳ
và Bắc Kỳ. Tại những nơi nầy, họ đạt được vài thành quả.
Đạo
Cao Đài có một Thánh Thất tại Ba-lê và có tham vọng không bao lâu nữa sẽ đem
lời lành đến các nơi rất xa như : nước Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ và Âu Châu.
Như
thế, sự tự hào của người Việt Nam phô
diễn một cách bất ngờ trong một trường hoạt động mà con cháu của giống dân Giao
Chỉ chưa biết đến. Họ không có một chút gì mang đến cho nền tư tưởng của nhơn loại ? Tại sao ?
Bí mật.
Đạo
Cao Đài dường như xem thường sự bí ẩn đã được đặt ra như thế, bởi vì Đạo Cao
Đài mong ước được kính trọng về mặt tôn giáo với cùng một danh hiệu ngang hàng
như Phật giáo. Vả lại, Đạo Cao Đài không
vô ích khi tự nhận là Phật giáo canh tân ?
Cái
ước vọng duy nhứt nầy của đức tin mới gồm hằng triệu tín đồ, trong đó có nhiều
người trí thức khuyến khích chúng tôi nghiên cứu rõ ràng Đạo Cao Đài.
Hôm
nay, vâng theo mệnh lệnh của vài thân hữu, chúng tôi quyết định trình bày với
công chúng quan tâm muốn hiểu biết vài
sự thật của nền Tân tôn giáo nầy, những đoạn văn ngắn về quan sát và phân tách
khách quan."
Báo La Vérité (Sự thật)
Trong lời tựa của quyển sách, nhựt báo thêm vào những nhận xét :
"Trên nguồn gốc Thần linh học của Đạo Cao Đài, người ta dễ dàng có nhiều
lời mỉa mai, người ta toan tính dập tắt dưới sự buồn cười những bài Thánh giáo
tiếp được bởi cái bàn xây và cây Ngọc cơ.
Có gì là kỳ lạ bất ngờ, khi Chơn lý vĩnh cửu mượn
cái phương tiện ấy, thay vì phát biểu trên núi Sinai giữa hào quang và sấm
chớp; thay vì bày tỏ qua tiếng nói của các nhà Tiên tri cảm hứng hay sự xuất
hiện huyền diệu ?
Sự môi giới thông công của một đồng tử, được tuyển
chọn cho sứ mạng cao quí nhứt, phải chăng cũng không hợp pháp ? không cung cấp
một sự bảo đảm nào, một tiếng nói được lựa chọn nào cho đến bây giờ để thông
công giữa Trời với Người ?
Về phần những sự ngược đãi mà Đạo Cao Đài đã gánh
chịu và thời kỳ nầy có lẽ không đóng lại, có thể không thấy được nơi đó những
bằng chứng tốt nhứt về nguồn gốc thiêng liêng và tính chất phi phàm của Đạo Cao
Đài ?
Tất cả tôn giáo đều truyền giảng sự công bình, lòng
nhân từ, đặt trên sự hy sinh và lòng bác ái, biết sự thù nghịch của con người,
sự oán hận của những thế lực, sự giận dữ và sự chê bai tất cả mà các tôn giáo
đến làm xáo trộn tính ích kỷ thỏa thích, làm rung động quyền lực và chống lại
lòng kiêu căng và bạo lực.
Là người hành hạ hay bị hành hạ, là người thống trị
bởi sức mạnh hay là nạn nhân của bạo lực, bắt buộc đức tin bởi vũ khí hay nhận chịu khổ nhục, trong lịch
sử, không có một lựa chọn nào khác đối với những tôn giáo mới phát sinh.
Đạo Cao Đài có lựa chọn nào ?
Cái vũ khí duy nhứt của đạo là sự hiền từ ôn hòa,
sức mạnh duy nhứt của đạo là ngự trị trong sự mềm yếu. Đạo chỉ có thể chống lại
những kẻ nghịch bằng sự nhẫn nhục và tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của
công lý; nó chỉ có thể tuyên bố tất cả bằng sự phục tùng luật pháp, không yếu
hèn, sự ràng buộc không thể bác bỏ vào chơn lý xuất phát từ Thượng Đế, nó chỉ
có thể cố gắng chứng minh bởi sự kiên quyết và sự bền vững, sự chân chính của
sứ mạng thiêng liêng. Đó là cái mà đạo đã làm.
Và sức mạnh sử dụng nơi những kẻ ngược đãi phải bị khuất phục trước lòng can đảm anh
hùng và trầm tĩnh, thừa nhận quyền sống của đạo, quyền hưởng tự do, tài sản duy
nhứt mà đạo đòi hỏi.
Chiến thắng của bạo lực, hôm nay đã bị giải
giới, chỉ còn lại nơi Đạo Cao Đài sự
chiến thắng cái ngu dốt của con người, sự mù quáng, sự hoài nghi của họ. Đó là
những kẻ thù khác đáng ghê sợ !
Những tôn giáo khác, mà Đạo Cao Đài là tổng hợp, đã
đương đầu với những kẻ nghịch trước Đạo
Cao Đài, họ đã đạt đến thành công. Tại sao Đạo Cao Đài không thành công nơi đó,
cũng như họ ?
Người ta có thể trách cứ Đạo Cao Đài điều gì ? Quá
ư thiện tâm, quá ư thành thật, quá ư
khoan dung ? Có phải do đặt ra một ý
tưởng quá rộng rãi, quá nhiều tình huynh đệ mà người ta có thể làm cho đạo tổn
hại ?
Trái lại, phải chăng trong sự dung hợp các tôn giáo
khác nhau, mỗi tôn giáo vẫn giữ đức tin ban đầu của nó, cái đó là tinh túy tạo
thành cho tất cả một loại sản nghiệp chung, mà nó phải tìm kiếm phương cách để
ngự trị giữa nhơn loại, tình huynh đệ và hòa bình thế giới ?
Đây là cách thức mà Đức Chí Tôn, trong một Thánh
giáo, giải thích sự cần thiết phải dung hợp các tôn giáo:
" Thuở xưa, các dân tộc không hiểu biết nhau
và thiếu phương tiện vận chuyển. THẦY bấy giờ lập ra, vào những thời kỳ khác
nhau, Ngũ Chi Đại Đạo gồm: Nho giáo, Thần giáo, Thiên Chúa giáo, Lão giáo, Phật
giáo, mỗi tôn giáo đặt căn bản trên tập quán và phong tục của mỗi giống dân,
được kêu gọi một cách đặc biệt để áp dụng những giáo lý ấy.
" Ngày nay, tất cả các phần trên thế giới đều
được khám phá, nhơn loại tự hiểu biết mình hơn, mơ ước một nền hòa bình thực
sự. Nhưng vì lý do có nhiều tôn giáo như thế nên loài người không luôn luôn
sống trong hòa hợp cùng nhau. Cho nên
THẦY quyết định thống nhứt tất cả
tôn giáo thành một mối duy nhứt để đem chúng nó trở về cái duy nhứt nguyên
thủy.
"
Hơn nữa, Thánh giáo của các mối đạo trải qua nhiều thế kỷ, càng lúc càng bị
biến đổi bởi chính những người lãnh sứ mạng truyền đạo, đến nỗi ngày nay THẦY
nhứt định đến chính mình THẦY hướng dẫn các con."
Như vậy, toàn thế giới ngày nay phô bày sự truyền
bá Đạo Cao Đài, thừa kế những giáo lý xưa đã chinh phục gần như toàn thể nhơn
loại.
Nhiệm vụ sẽ khó khăn vất vả, vì như Thánh giáo mà
chúng ta vừa đọc, loài người đã quên hết những nguyên tắc, quên cả giáo lý mà
họ mong muốn chủ trương. Họ đôi khi bảo toàn từng chữ nhưng thường thường làm mất
hết cái ý nghĩa tinh thần.
Nhiệm vụ sẽ khó khăn vất vả, vì nếu mảnh đất, nơi
những nhà truyền giáo phải đến để chuẩn bị cho sứ mạng của họ, bị bỏ hoang mọc
đầy cây cỏ vô ích hay độc hại, hơn thế nữa, mãnh liệt và đâm rễ vững chắc hơn
nhờ tất cả dục vọng xấu xa của con người dùng bón phân cho các thứ cây đó.
Không bao giờ, tuy nhiên, nhu cầu cần thiết cảm
thấy ích lợi là nhắc nhở người đời biết rằng, tất cả mọi người đều là con của
một Đấng Cha Chung, và rằng những vụ huynh đệ tương tàn rùng rợn diễn ra hôm
qua thì nó sẽ sẵn sàng khai diễn ngày mai, gây ra sự đổ nát và đau khổ không
chỉ cho chính họ mà còn cho con cái và cháu chắt của họ.
Đạo Cao Đài đồng nghĩa với hòa bình, tình huynh đệ,
lòng bác ái. Có thể hàng triệu tín đồ Cao Đài sẽ dự tính một ngày nào đó, hy
vọng gần đây, hồi tưởng và khuyên nhủ hướng dẫn họ vâng theo những phương ngôn
bất hủ, được tìm thấy trong những Thánh thư bất cứ lúc nào, trong đó tóm tắt
tất cả tri thức và tất cả minh triết: "Hãy
thương yêu nhau."
Quan điểm của Hội Thánh Cao Đài về bài phóng sự nầy
như thế nào ? Nhựt báo La Vérité cho
chúng ta biết :
" Công
việc nghiên cứu của chúng tôi có tính khách quan, cho biết rõ về Giáo hội chính
thống của Đạo Cao Đài, nhận được của vị lãnh đạo cao cấp nhứt của Đạo Cao Đài
là Ngài Phạm Công Tắc một bức thơ thú vị mà chúng tôi trích lục ra sau đây lời
đính chánh về sự liên hệ của Đạo Cao Đài với Đạo Minh Lý.
Quí độc giả sẽ thừa nhận qua bức thơ nầy, sự khoan
dung rộng rãi của tinh thần Cao Đài, không chống lại một tín ngưỡng nào khác vì
lý do không hợp thời hay không chính thống. Một thái độ như vậy làm vẻ vang cho
các tín đồ Cao Đài, không cần tất cả quan điểm khác về xã hội hay triết lý.
(Lời Tòa
soạn)
Ngài Phạm Công Tắc, vị lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao
Đài hay Phật giáo canh tân, Tòa Thánh Tây Ninh, gởi ông Chủ nhiệm nhựt báo La
Vérité, Nam Vang.
" Kính ông Chủ nhiệm,
" Hội Thánh Cao Đài và tôi, chúng tôi cảm động
sâu xa về cảm tình cao cả của quí báo đối với tôn giáo của chúng tôi. Chúng tôi
đã đọc bài phóng sự của quí báo với sự thích thú. Hơn nữa, đây là cơ quan duy
nhứt đã binh vực một cách dũng cảm quyền lợi của chúng tôi từ lúc khởi đầu.
Chúng tôi có thể nói rằng, quí báo là bạn thân của chúng tôi.
" Bài phóng sự nầy rất hay trên mọi phương
diện, chỉ trừ vài sai sót nhỏ về tài liệu khảo chứng mà chúng tôi xin quí báo
vui lòng cho chúng tôi đính chánh :
" Đạo Cao Đài không xuất phát từ Minh Lý Đạo.
Chúng tôi thừa nhận rằng Minh Lý Đạo được thành lập trước chúng tôi, nhưng khác
biệt với chúng tôi về phương diện thần
bí và triết lý. Sự thật là phong trào Thần linh học Việt Nam xuất hiện một cách
tự nhiên, không có sự giúp đỡ của một khái niệm, một giáo lý hay một giáo điều
ngoại quốc nào cả. Phong trào xảy đến không thể đoán trước được. Người ta có
thể nói rằng, phong trào nầy gần như rất huyền diệu, như bị lôi kéo bởi một
năng lực vô hình, sự biểu lộ tiềm ẩn. Hơn nữa, người ta cảm thấy phong trào
nầy xảy ra trong khắp thế giới. Tất cả
các tổ chức Thần linh học được tạo ra sau chiến tranh đều được phát sinh có lẽ từ một
năng lực huyền bí.
" Bên cạnh Đạo Cao Đài, một nhóm trí thức tự
lập ra để tìm hiểu sự khả dĩ để hòa hợp hai nền văn minh Đông phương và Tây
phương. Trong trường hợp nầy, họ thử đem lại gần nhau hai triết lý: Triết lý
của Thiên Chúa giáo và triết lý của Khổng giáo. Sự toan tính thực hiện đáng
được khuyến khích, vì lẽ đạo đức cao siêu của những nhà đại tư tưởng luôn luôn hướng về điều Thiện và Mỹ.
Như vậy là có một nơi để cho các tư tưởng có thể gặp nhau và có thể hợp nhứt.
" Biết được điều đó, nhóm trí thức Việt Nam ấy
tự đặt ra cho mình bổn phận là chuẩn bị một mảnh đất cho sự hòa hợp thông đồng.
Họ bắt đầu rất khiêm tốn, trước hết là làm một cuộc so sánh hai triết lý bằng
cách tìm kiếm một trung gian. Họ thỏa mãn thấy được những tư tưởng vĩ đại không xa rời những nhà tư tưởng của loài người.
" Phần đạo đức thì duy có một, chỉ có phần
thực hành là khác nhau. Nơi đây, đối với họ có một trở ngại hay một vướng mắc.
Năng lực hành động không ở trong tầm tay của những người phàm như họ, mà nó ở
trên trí tuệ của họ. Một phong trào nhỏ ngưng trệ xảy ra trong phong trào Cao
Đài. Các nhà trí thức ấy tìm ra được một con đường: sự thống nhứt của đức tin
và của sự thực hành tất cả tôn giáo.
" Không cần thuật lại, quí vị có thể tiên đoán
cái giá trị của sự toan tính như thế.
" Một trong những người bạn thân của nhóm trí
thức từ nước Pháp thân hành đến là Đại úy Monet. Ông là nhà Thần linh học. Ông
chú ý đến sự tìm tòi của nhóm trí thức nầy, nhưng sự thông thạo trong thực hành
tất cả đức tin tôn giáo, ông cũng không thể biết hết. Ông khuyên các trí thức
nên hỏi ý kiến của các Đấng Thần linh.
Ông nói rằng, cần phải cầu viện sự giúp đỡ của cõi vô hình để chia bớt các khó
khăn.
Lần thông công Thần linh học đầu tiên được ban cho
bởi các Đấng Thần linh dưới hình thức là lời khuyên, trao cho họ cái chìa khóa
mở các bí ẩn.
" Như thế, câu kết luận là : Đức tin có được
từ Lương tâm, Lương tâm không thể tùy thuộc. Lương tâm có khác nhau tùy theo
trạng thái tinh thần của mỗi cá nhân. Nó có tính vô ngã và không thể nhượng
lại, bởi vì nó phát xuất từ Thượng Đế (Đại hồn của vũ trụ). Như vậy, sự tự do
của Lương tâm cho tất cả mọi người được công bố, nhưng sự thống nhứt trong tinh
thần của Thiện và Mỹ bị bắt buộc, nơi đó phát sanh giáo lý mới của Đạo Cao Đài:
giáo lý của sự khoan dung rộng rãi.
“ Người ta có thể nói rằng, Đạo Cao Đài là một tôn
giáo thuần túy triết học, trong khi đó, Minh Lý Đạo là một tổ chức chỉ có thờ
phượng Tam giáo Đông phương : Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo, pha lẫn
chút ít
thần bí thôi miên.
" Minh Lý đối với Đạo Cao Đài là một bạn thân
trong sự biểu lộ về mặt xã hội, nhưng không là
anh em ruột thịt.
"
Chúng tôi ước mong có thể hội ngộ cùng Minh Lý Đạo trong việc thực hành điều Mỹ
và Thiện mà chúng tôi đang làm nhiệm vụ truyền giáo."
Ký tên: Phạm Công Tắc.
Và đây là một trong những đàn cơ nổi tiếng tại điểm
gốc xuất phát Đạo Cao Đài :
" Đó là vào năm 1926, tôi cư ngụ trong một căn
phòng của tòa nhà Audouit, hôm nay trở thành tòa nhà Huỳnh Đình Khiêm. Tại nhà
tôi, có nhiều thanh niên nam nữ tới lui với tôi, họ là cựu học sinh trung học, chiến
sĩ cộng hòa, đảng viên cấp tiến hay cách
mạng.
" Một sáng Chúa nhựt, một thanh niên lạ mặt
tiến vào văn phòng tôi, ngồi xuống ghế đối diện và nói một cách tự nhiên, những
lời nói không làm tôi ngạc nhiên: Thật vậy, tôi đã quen với cách viếng thăm và
sự phát biểu ý kiến của kiểu người nầy.
- Thưa ông, bạn thân mến, nếu ông muốn thì chúng ta sẽ kết thân để cùng nghiên
cứu triết lý và chánh trị. Ông hẳn biết hơn tôi những sự tương quan gắn liền
hai hoạt động nầy.
Trong hoàn cảnh cơn sốt xã hội và chánh trị mà
chúng ta sống trong thời kỳ đó, hình như xa cách lạ lùng với tôi, tôi không mấy
ngạc nhiên khi đọc danh thiếp của vị khách viếng thăm : Nhà cách mạng Việt Nam.
Sắp trải qua kỳ thi Tú Tài phần thứ nhứt, cậu con
trai bạo dạn nầy bị đuổi học. Tội của cậu ? Cậu đã viết thơ cho ông Cognac, lúc
đó là Thống Đốc Nam Kỳ, để phản kháng vài lời tuyên bố của ông. Kể từ lúc đó,
cậu cựu học sinh trung học bắt đầu đọc rất nhiều sách, chuyên sâu vào nhiều hệ
thống triết lý khác nhau, tự thuyết phục mình cần phải làm cách mạng. Để biểu
thị đức tin mới mẻ của mình, cậu không ngần ngại in danh thiếp của cậu như tôi vừa chỉ bên trên.
Sự bồng bột của hạng người như bạn ấy thì rất nhiều
mà ý tưởng làm tôi nghi ngờ bạn ấy là kẻ
khiêu khích.
Sau đó, tôi mới nhận thấy bạn mới ấy là người rất
thông thái, cậu ấy thông thạo triết lý tâm linh và đặc biệt Thần linh học làm
cho cậu thích thú. Nhờ thế mà tôi biết được phong trào xây bàn và sự thông công
bằng đồng tử.
Vào một buổi chiều tối của tháng 11, bạn tôi lập
lại cho tôi nghe nhiều lần sự huyền diệu của cái bàn xây mà cậu đã học trong
các tác phẩm của những vị chủ xướng Thần linh học Pháp mà ngày nay đã mất:
Allan Kardec và Léon Denis; bấy giờ tôi tỏ ra một nghi ngờ quả quyết trên sự
xác thực của các hiện tượng nầy, thách đố cậu ta thử thí nghiệm. Tức thì cậu
dẫn tôi đến nhà của vị cầm đầu chánh thức của trường phái thần bí mới được phát sanh, mà diễn tiến về sau có
ảnh hưởng lớn đến sự thành lập và phát triển Đạo Cao Đài: phái ấy tự xưng là " Minh Lý Đạo " có thể dịch
nghĩa từng chữ : con đường của lẽ phải rõ ràng.
Tôi vội vàng nhìn nhận ở đây rằng, tôi được hiện
diện với những người vô cùng dễ thương và chơn thật. Đó là những công chức khiêm tốn của các cơ quan hành chánh và
thương mại, khao khát học tập và tự vươn mình lên trong xã hội, nhờ vào các nổ
lực thường xuyên của họ. Họ được 10 người và tự kết thành nhóm như một loại câu
lạc bộ để bàn cãi về triết lý tâm linh
và kế đó, khi những lý thuyết đã được đồng hóa, nhờ vào một qui tắc mà họ tự
tạo ra để tổ chức và tôn thờ những vị Thánh Hiền của họ.
Tôi rất ngạc nhiên về kiến thức tâm linh cao siêu
và rộng rãi của họ. Tất cả họ đều có khả năng thuật lại cho tôi nghe những
Thánh giáo trong các tác phẩm lớn Thần linh học.
Hơn các thầy người Pháp của họ, họ thúc đẩy với sự
táo bạo sử dụng Henri Durville, một nhà thần bí nổi tiếng, trong công việc tìm
kiếm chơn lý.
Như thế, một trong những vị đứng đầu là ông Xung,
rất muốn mở đầu mối quan hệ giữa tôi và
nhóm của họ, bởi một thí nghiệm thôi miên trên người tôi, tác giả của những dòng
chữ nầy. Tuy nhiên tôi thú thật rằng, tôi không có một điều gì đặc biệt để kết
luận một cách xác thật.
Sau khi bảo tôi nhắm mắt lại, ông ta làm những động
tác khác nhau trong không khí với hai bàn tay mở rộng chung quanh cái đầu của
tôi mà không chạm vào đầu. Sau 15 phút của sự sửa soạn thôi miên nầy, ông ra
lịnh cho tôi, với một tiếng nói êm dịu và rõ ràng, nghiêng đầu qua một phía nào
đó, hay thi hành vài cử chỉ với hai cánh tay, điều nầy tôi làm không khó khăn.
Những người tham dự là thành viên của nhóm, và bạn
tôi, ông Xung, tỏ ra hài lòng thấy rõ về cuộc thí nghiệm. Tôi yêu cầu tham dự
một đàn cơ quan trọng, ông Âu Kích, người được kính mến nhứt của nhóm, lo sửa
soạn đàn cơ nầy.
Trên một cái bàn dùng làm bàn thờ, ông Âu Kích cắm
9 cây đèn cầy theo hình tam giác. Sau diễn biến nầy, ông giải thích cho tôi
biết, số 9 mà sự sắp đặt theo hình học đó bao hàm con số 3 (thật vậy, 3 góc
trong tam giác) có một sự quan trọng tượng trưng, chỉ có những người đã thọ
giáo mới có thể hiểu được. Lúc đó, các lễ dâng cúng khởi sự liên tiếp. Những
tín đồ của nhóm làm lễ trước bàn thờ, ông trưởng nhóm Âu Kích quì ở chính giữa.
Họ tụng kinh cầu nguyện Đấng Thượng Đế và các Đấng thiêng liêng. Sau khi dâng
hiến tâm hồn thì tiếp theo là lễ Dâng Hoa, Dâng Rượu và Dâng Trà.
Tôi để ý trong các câu kinh của họ có những đề mục được biết của các tôn
giáo khác ở Á Châu. Hơn nữa, giáo lý đại cương của họ không che đậy triết lý
của họ là tổng hợp các tôn giáo : Phật
giáo, Khổng giáo và Lão giáo.
Nhưng ở đây, thình lình, người đứng đầu vẽ trong
không khí những cử động lạ thường với cánh tay mặt của ông. Tất cả đều im lặng
như bị phù phép. Ông Xung nói vào lỗ tai tôi rằng các Đấng thiêng liêng sắp
thông công qua trung gian của ông Âu Kích. Thật vậy, ông Âu Kích cầm một cây
bút chì lớn mà người ta đặt trước trên một cái bàn nhỏ với giấy trắng, tự đặt mình
phận sự viết lại những lời nói thiêng liêng, đôi mắt nhắm lại. Người ta giải
thích cho tôi biết rằng, ông ấy là đồng tử được các Đấng thiêng liêng ưa thích,
được tôn kính bởi các tín đồ, rằng Đức Quan Âm Bồ Tát đã đề tặng cho tôi, nhờ
bởi phương cách của người đầu nhóm nầy.
Quả thật tôi rất hãnh diện được báo cho biết, qua
những tiền kiếp của tôi, tôi đã hoàn thành nhiều công trình lớn lao và tôi bị
đày xuống thung lũng đầy nước mắt nầy (cõi trần) để đền cái tội kiêu căng mà
tôi đã phạm phải. Tôi là một kẻ kiêu căng khó chịu nổi trong nhiều kiếp liên tiếp.
Như thế, các bạn tôi tin tưởng đồng cốt, nghĩa là
sự thông công với thế giới vô hình, do đó tin tưởng sự tồn sinh của linh hồn.
Khác với các tín đồ Công giáo, họ không nói về Địa
ngục vĩnh cửu, nhưng nói về sự chuyển dịch của linh hồn, nó rời bỏ thể xác, có
thể sống trên các địa cầu khác hơn địa cầu mà chúng ta đang sống. Họ tương đồng
với các tín đồ Phật giáo, song với một hạn chế quan trọng là: Khi các tín đồ
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhìn nhận linh hồn con người có thể trở lại cõi
trần ở trong thể xác của một con thú, thì những tín đồ của Minh Lý, tân thời
hơn, chống lại lý thuyết nầy. Luật hấp dẫn thay thế sự chuyển dịch linh hồn
theo Phật giáo, một cách bất ngờ trong
đức tin mới của họ.
Như thế, không cần thiết làm cho một người hung dữ
trở lại kiếp sống trong lớp da của con heo hay con chó nơi cõi trần để đền
những tội lỗi của kiếp trước. Hơn nữa, đó là trình bày Đấng Tạo Hóa dưới hình
thức một quan tòa quá hung dữ !
Không ! Luật hấp dẫn ngự trị trong không gian đủ cho sự công bình thiêng liêng. Người nào
có một đời sống hy sinh sẽ thành Thần linh sau khi chết và nhờ Luật hấp dẫn,
người đó sẽ đến một thế giới thanh cao trong vũ trụ. Trái lại, người hung ác,
kẻ gian tham, tự họ sẽ rơi xuống, sau khi khởi hành từ trái đất, vào một hành
tinh có điều kiện sinh tồn còn khổ cực hơn nữa. Tất cả diễn ra một cách tự
nhiên và tự động, để có thể nói được như thế.
Mặc dầu những dòng chữ sau cùng nầy không mấy rõ
ràng hay chưa chắc chắn về phương diện Thần linh học Latinh (Thần linh học
anglo-saxon xác định không có sự trở lại địa cầu, nhưng có sự tiến hóa trong
các địa cầu của vũ trụ).
Chúng ta hãy đi đến phần hữu ích của Đạo Cao Đài:
" Trong lúc đó, với sự chiến thắng của chủ
nghĩa tư bản, cơ cấu kinh tế tộc trưởng cổ xưa của xứ Nam Kỳ bị tan rã. Bộ luật
Gia Long chỉ công nhận pháp nhân tập thể của các làng xã và của gia đình, chính
thật là chống lại chủ nghĩa cá nhân, và Bộ luật nầy hầu như bị bãi bỏ ở Nam Kỳ,
nơi đây sự tự do cá nhân được công nhận nhiều hay ít bởi luật pháp tu chính, nó
là lý do làm mất ảnh hưởng của Khổng giáo. Dù sao, Khổng giáo lập thành một tôn
giáo với luật pháp, giáo sĩ, đền thờ, chớ không phải chỉ là một nền luân lý.
Rõ ràng là trong các điều kiện ấy, uy quyền của
người cha, cũng như uy quyền của người chồng, uy quyền của địa chủ ở Nam Kỳ có
thể bị đe dọa nhiều hơn ở trong các nơi khác của nước Việt Nam, mà nơi đó Bộ
luật Gia Long và
Khổng giáo vẫn còn giữ được tất cả quyền hành.
Theo ý tôi, đây là lý do duy nhứt để cho "đức tin mới" có chỗ phát sinh
trong 20 tỉnh của Nam Kỳ.
... Nếu giáo lý của Đức Phật Thích Ca có thể chia
nhỏ ra làm hai tông phái lớn: Đại thừa hay còn gọi là Bắc tông gồm Đông Dương
với đông đảo tín đồ Phật giáo, và Tiểu thừa hay Nam tông ảnh hưởng lên nước Cao
Miên và Lào. Tại sao giáo lý ấy không thể khoát lên cái hình thức tân thời của
Đạo Cao Đài ? Chúng tôi bỏ qua những vụ ngược đãi Đạo Cao Đài trong quyển sách
nầy.
Về tương lai của Đạo Cao Đài, có hai điều chú ý:
2. - Tuy rằng người ta có thể nói Khổng giáo là
quốc giáo của nước Trung hoa và Việt Nam. Trong các nước nầy, quyền hành thiêng
liêng và thế tục nhập chung lại trong tay của cùng một người : Hoàng đế, con
của Trời, do đó Ngài là người chủ của linh hồn và thể xác của các thần dân. Để có một tôn giáo, phải có
những đền thờ hay những giáo đường, những luật pháp tôn giáo và một giới giáo
sĩ. Các điều kiện nầy được tập hợp trong giáo lý của Nho giáo. Đền thờ, phải
chăng ở ngay trong nhà của người cha ?
Trong lúc đó, bộ sách Tứ Thư và Ngũ Kinh tóm tắt giáo lý đại cương của vị Thánh nước Lỗ: Đức Khổng Tử. Giới giáo sĩ
là đoàn thể các Nho sĩ, họ nắm
hai quyền : tâm linh và thế tục, giống như là một loại Hoàng đế, Thiên tử, hay
Giáo Hoàng.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tại Nam Kỳ, xem
như là hậu quả, hủy bỏ Bộ luật Gia Long, và sự hủy bỏ nầy là ưu đãi chủ nghĩa
cá nhân, làm thiệt hại chủ nghĩa tập sản của Khổng giáo, làm sụp đổ các điều
kiện thuận lợi cho sự tồn tại của Nho giáo. Vì vậy, một cách lịch sử, nó giải
thích sự nẩy nở của nhiều giáo phái mới và đáng kể nhứt là Đạo Cao Đài.
2 - Đặc biệt là vào thế kỷ của chủ nghĩa tư bản
quốc tế, sự phục hưng tôn giáo ở Việt Nam chúng ta thì đồng thời với phong trào
Á Châu cũng cùng một bản chất, cùng một sứ mạng lịch sử. Bởi vì ở Nhựt bổn và Trung hoa, những phần tử
bị dày xé bởi giai cấp trưởng giả phong kiến
tìm cách tạo lập một siêu cấu trúc xã hội, lập ra một ngàn lẻ một chi
phái Tân Phật giáo. Những tín đồ Cao Đài
và Minh Lý ở nước ta nên đối chiếu giáo lý của mình với giáo lý của các tôn
giáo phục hưng ở Trung hoa và Nhựt bổn.
... Tôi xin thêm rằng, Minh Lý Đạo chỉ là một giáo
phái mới trong những giáo phái khác đã mọc lên như nấm. nhưng giáo phái Minh Lý
có kỷ cương nhứt, có kiến thức hơn hết về phương diện triết lý, có một lý
thuyết được phô diễn hoàn toàn trong giáo lý đại cương của nó.
Đạo Cao Đài (nghĩa từng chữ : tôn giáo của Đài Cao)
mà người sáng lập là Ngài Lê Văn Trung, liên hệ rất sớm với Minh Lý để mượn của
giáo phái nầy : lý thuyết, sự thờ cúng, tổ chức nghi lễ. Nhưng trong lúc học
phái tự hào của ông Âu Kích chỉ hướng đến đào tạo một lớp người ưu tú, thì Đạo
Cao Đài hướng đến quần chúng. Nhờ thế, Đạo Cao Đài phô bày những nét đặc trưng
của một tổ chức tôn giáo quần chúng.
Sự khác biệt và sự phức tạp của các trường phái tôn
giáo mới ở Nam Kỳ đã thấy nẩy nở từ năm 1926
là những nét đặc biệt của thời kỳ tư
tưởng tự do và mãnh liệt.
Không thể kể hết các giáo phái, chúng ta chỉ kể các
giáo phái quan trọng nhứt: Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân, Cao Đài. Đến lúc Đạo
Cao Đài tự phân nhỏ ra thành trường phái chính thống và không chính thống.
Ngoài những giáo hội của "Phật giáo canh tân", mà tôn giáo nầy có quyền cho là
xứng đáng trong triết học, chúng ta sẽ dự vào sự nẩy nở của một chi phái mà phần thực hành rất
kỳ lạ. Không có một nghi ngờ nào, ở đây họ hoạt động trong sự hồi tưởng tính
cách lãng mạn Trung hoa.
Thế nên, chúng ta đã thấy Nguyên soái Nguyễn Văn
Điền với các tín đồ của ông, công khai chống lại giáo phái
Tây Ninh. Được chất vấn bởi nhà cầm quyền về mưu toan xâm phạm Thánh địa Cao
Đài, cả bọn họ đều từ chối trả lời.
Cũng tò mò về chi phái của Nguyễn Kim Muôn, ông nầy
không sợ phô bày những lời nói khó che đậy về tín ngưỡng kết liền với chủ nghĩa
khoái lạc của Hồi giáo.
Tất cả những giáo phái mà chúng tôi đã nói trên
đây, đều phát sanh gần như đồng thời. Những giáo phái nầy đều dựa vào, tất cả
không loại trừ, sự phục hưng Phật giáo đã bị phán đoán là lỗi thời.
Điều ngạc nhiên là xứ Nam Kỳ, xứ duy nhứt trong các
nước của Liên Bang, lãnh khởi xướng cách phục hưng tôn giáo mà nó dự phần, có
lẽ nó không biết một phong trào rộng lớn hơn và tổng quát hơn bao gồm cả Trung
hoa và Nhựt bổn.
Thật vậy, trong hai nước nầy, đáng kể là trong xứ
mặt trời mọc, người ta chú ý sự nẩy nở của một ngàn lẽ một giáo phái Tân Phật giáo mà nó thực
hành Thần linh học.
Giáo sư Chamberlain đã trình bày trước công chúng
Âu châu những triết lý khác nhau của phong trào tôn giáo ở Nhựt bổn.
Đạo Cao Đài, bởi đặc tính Thần linh học, thường lẫn
lộn với những khuynh hướng tôn giáo mới của Trung hoa và Nhựt bổn về tính chất
thần bí. Chúng tôi có được nhiều tài liệu rất rõ ràng không cho phép chúng tôi
nghi ngờ :
Nước Trung hoa, từ nhiều thế kỷ, biết rõ về việc
cầu cơ (báo Psychic News, Luân đôn, ngày 8-4-1939).
Sự thờ cúng các Đấng Thần linh và sự thực hành các
phép thuật (báo Opinion, Saigon, ngày 1-7-1937).
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói bằng một thổ ngữ của nước Đức (báo La Ricerca Psichica, Milan, tháng 11
năm 1938).
Về sự phục hưng tôn giáo ở Nhựt bổn (Vers une
économie fraternelle, Kagawa, trang 18).
Sự chiếu hình tinh tú, sự chấp bút, sự biến đổi vật
chất : Nam tước Meck chứng minh rằng, ở Trung hoa, người ta đã làm thí nghiệm
với những đồng tử giỏi nhứt (báo The Two Worlds, Manchester, ngày 16-12-1938).
Nhà văn nữ Pearl Buck tuyên bố rằng, Đông phương và
Tây phương phải dung hợp nhau (tạp chí The New-York Times Magazine (Nữu Ước
thời báo) (ngày 20-11-1938).
Cuộc thám hiểm khoa học của người Đức ở nước Tàu và
Thái lan (Gazette de Hongrie, Budapest, 29-10-38).
Cuộc tàn sát thú vật bởi người Do Thái (báo The Two
Worlds, ngày 7-7-1939).
Những Đại nhạc hội của Wesak (đại lễ của Phật giáo)
(The Occult Review, Luân đôn, năm 1939, trang 167).
Sự tồn sinh của quá khứ nơi người Nhựt (Tribune de
Genève, ngày 25-4-1939).
Le Kuatsu
hay nghệ thuật của người Nhựt về việc gọi hồn người chết trở về (O
Astro, Thánh Paul, Ba tây, 10-38).
Thần linh học ở Trung hoa: Họ hồi sinh người chết !
(The Two Worlds, ngày 7-7-1939).
Cây ma quái ở Viễn Đông (nước Tàu), (The Two
Worlds, ngày 14-7-1939).
Thần đạo Nhựt bổn (Revue théosophique, Ba-lê, tháng
12 năm 1935).
Khổng Tử, Lão Tử và sự tồn sinh (báo Light, Luân
đôn, ngày 20-7-1939).
Phật giáo trong miền Bắc Ấn Độ và Miến Điện (báo
Light, Luân đôn, ngày 20-7-1939). .
. . vv .........
Nhưng sự chống đối giữa tinh thần Âu châu với những
quan niệm tôn giáo của Á châu thường
bùng nổ luôn.
Trong tạp chí La Nouvelle Revue (ngày 1-9-1935),
người ta có thể đọc thấy sự thú nhận về quyển sách tựa đề : Phật giáo, của ông Entai Tomomastu:
“ Khi giới thiệu với chúng tôi quyển sách Le
Bouddhisme của ông Entai Tomomastu, bạn tôi, dịch giả là ông Kui Matsuo, cũng
chính là tác giả quyển sách: Các chi phái Phật giáo của Nhựt bổn, cũng như nhiều sách triết học và dịch thuật
giá trị, ông Matsuo viết thơ cho chúng tôi: "Quyển
sách nầy không phải là một tác phẩm thông thái của một chuyên gia, nhưng chỉ là
một tác phẩm dành cho những người tân thời và những trí thức hoài nghi."
Mặc dầu giáo lý của Phật giáo được trình bày rất
giản dị, đối với chúng tôi, nó dường như
không phải là tác phẩm nầy, và nhứt là cái triết lý mà nó muốn đặt vào tầm tay của tất cả những người
nào có thể thấu suốt sâu xa những khối quần chúng Âu châu, cái nguyên lý "vô ngã" và nguyên lý "nhân quả" mà những tín đồ
Phật giáo lãnh hội được đối với tâm trạng của những người Tây phương, bởi quá
đối nghịch với những quan niệm của đa số người luôn luôn thích ném lên cái thực thể có tên là "Số phận", trách nhiệm của những đau khổ của họ, hơn là
thừa nhận nơi đó cái chơn lý: "gieo
nhân nào thì gặt quả nấy."
Trong tác phẩm của ông Entai Tomomatsu, những gì
làm chúng ta phải ghi lấy sự chú ý một cách đặc biệt là : Ngoài tâm lý học của
Đức Phật mà tác giả khôi phục lại cái ý nghĩa sâu xa của con người, sự trình
bày ý định thực hiện bởi vài nhà trí thức Nhựt bổn muốn đem Phật giáo trở lại
cái nguồn gốc cao thượng của nó bằng cách giải tỏa những quan niệm của vài chi
phái liên hệ cho rằng, đối với các tín đồ, sự tụng kinh cầu nguyện, sự thiền
định ngồi kiết già và nhứt là sự dâng cúng các
phẩm vật tạo thành điều cốt yếu.
Phong trào nầy được nhiều người chấp nhận và có cảm
tình, nó dựa vào sự kiện mà Đức Phật, kể từ khi đắc đạo, luôn luôn quan tâm đến
công đức nơi các hoạt động xã hội hơn là sự tụng kinh cầu nguyện hăng hái hay
là sự tu khổ hạnh chuyên luyện nhứt.
Phong trào nầy, khi nó còn thuần túy Á châu. Xứng
đáng được mọi người trong nước chúng ta biết đến, bởi vì nó cho phép sự thích
ứng của Phật giáo trong đời sống thực tế, nó có thể tạo được nhiều hậu quả quan
trọng trong khắp thế giới.
Và nếu người ta xem xét không có một bản văn nào
hiện hữu giúp dễ hiểu biết Phật giáo thì người ta phải cám ơn ông Entai
Tomomatsu và dịch giả trung thực của ông đã cho chúng ta một tác phẩm để thế
cho lời giới thiệu vào sự nghiên cứu một triết lý đủ khả năng xuyên suốt không
chỉ một thời kỳ mà tất cả thời kỳ, như tác giả nói với chúng tôi.
Sự chống đối bùng nổ còn mãnh liệt hơn, khi có một
tin vặt đăng trên báo như vầy: "
Những bí mật của các vị Thánh ở Ba Tây" :
Trong khi tờ báo "Bulletin des Amitiés spirituelles" (Tạp chí của tình
thân hữu tâm linh) (số 40 trang 17) chú trọng làm giảm bớt đức tin của các siêu
nhân và đem họ về nơi Tiểu Quỉ vương kiêu căng ở trong một góc trời của Đấng
Tạo Hóa và muốn soán ngôi Thượng Đế, O
Pensamento, tạp chí lớn đầu tiên của Thánh Paulo (Ba Tây) kiểm điểm lại những
năng lực phát triển bởi những vị đắc pháp thần thông, bị khinh thường bởi Sédir (trang 396) và giáo phái cơ đốc của ông
:
1 . Khả năng liên hệ với những vật thể hành tinh của hệ mặt trời;
2 . Vũ trụ của chúng ta không còn bí ẩn đối với họ vì lý do sự nhìn thấy bên
trong của họ;
3 . Sự biết được tương lai;
4 . Khả năng hành động trên vật chất;
5 . Sự truyền âm thanh đến một khoảng cách rất xa;
6 . Ảnh hưởng giới hạn trên hành động của người khác;
7 . Đọc được tư tưởng của người khác;
8 . Hiểu được tự nhiên các thứ ngôn ngữ;
9 . Khả năng kéo dài đời sống (thuốc trường sanh);
10 . Sự lành khỏi các bịnh;
11 . Năng lực phân thân. vv ...
Đối với những kẻ tiểu đắc thần thông đáng khinh bỉ
nầy, bị đóng trại trong một góc nhỏ của Đấng Tạo Hóa, cái nầy không phải quá
xấu ! Nhưng có điều đau khổ - và người
ta đóng vai trò gì - là lấy những khả năng của những vị Thánh chống lại đạo đức
của Đấng Christ, cáo giác họ như là kẻ xung khắc, để rồi đi đến việc giữ vững
tinh thần của giáo phái, bởi sự "dốt
nát được vun trồng", thay vì mở rộng cánh tay về phía mọi người, không
phân cao thấp khác biệt ! Có nhiều người
không sẵn sàng thể hiện tình huynh đệ khắp thế giới, người ta chỉ thấy quá
nhiều bởi những giới hạn, bởi những che khuất mà họ tìm cách bắt buộc người
khác.
Báo O Astro ngày 1-5-1939 cho rằng vào năm 1926, ở
Nhựt bổn còn 71.281 ngôi chùa Phật được
quản trị bởi 54.495 nhà sư; năm 1928 có
41.148.000 tín đồ Phật giáo trên tổng số
58.621.000 cư dân.
Nơi đó, Thiên Chúa giáo thì thế nào trong quần đảo
Nhựt bổn ? Theo báo La Luz del Porvenir,
có mượn các chi tiết trong tờ báo cáo về Đại hội Thần linh học Oomoto Internacia (bằng thế giới ngữ), hôm
nay bị giải tán, chúng ta tin tưởng, và những vị lãnh đạo của họ bị truy nã và
bị giam cầm, 60 năm truyền đạo bởi những nhà truyền giáo chỉ độ được 250.000
người Nhựt theo đạo, con số cố định mặc dầu có sự gia tăng vĩ đại về dân số
trong những năm vừa qua. Cũng trong thời gian nầy, nhiều giáo phái mới và tôn
giáo mới đặt căn bản trên Phật giáo và Thần giáo thâu hút hàng ngàn tín đồ mới
: như đạo Oomoto chẳng hạn, có số tín đồ nhiều hơn Thiên Chúa giáo.
Một người phải nói đến mọi người :
Lý Thái Bạch của nước Trung hoa như là Homère của
nước Hy Lạp và Ossian của nước Tô Cách Lan.
Quan Thánh Đế Quân của nước Trung hoa như là
Turenne của nước Pháp.
Đức Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử là người thế nào thì Đấng ấy là thế đó, và
Anh là con của Thượng Đế thì cũng như tôi, tôi là huynh đệ của Anh. Nỗi đau khổ
của Anh là nỗi đau khổ của tôi. Điều vui mừng của tôi được làm con của Thượng
Đế thì cũng là điều vui mừng của Anh, vì Anh là huynh đệ của tôi.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét