Cũng trong Thánh
giáo ngày 13-1-1927, Đức Lý Thái Bạch còn nói thêm :
" Các huynh đệ thân mến, Chúa Jésus nhân từ đã đến với các bạn để vạch
ra con đường Thánh thiện cho các bạn. Hãy cố gắng đi theo đường ấy để sau nầy
có được sự bình an của tâm hồn, hãy bước tới mỗi ngày một bước mau lẹ trong
tình thương yêu của Thượng Đế. Hãy đoàn kết, hãy thương yêu nhau người nầy
người khác, hãy giúp
đỡ lẫn nhau. Đó là Thiên điều.
"
Vào lúc nầy, nơi mà mỗi người bị bắt buộc chịu đựng nỗi khổ sở, nếu người nào
chỉ nghĩ đến lợi lộc cá nhân, nếu người nào tìm cách gieo đau khổ và phiền não,
người đó sẽ mạo hiểm bị lôi cuốn vào trong dòng thác địa ngục, nơi đây, cái
hung dữ sẽ bẻ gãy cuộc sống và làm hoen ố tâm hồn."
Sự thật, Đạo Cao Đài hay Đại Đạo là một tôn giáo
giản dị nhứt hiện nay khi nói về việc hành đạo và sự thờ cúng. Tôn giáo mới nầy
chỉ đòi hỏi các tín đồ mỗi ngày tụng kinh cầu nguyện Đấng Cao Đài, hoặc tại nhà
của họ, hoặc trong Thánh Thất; không có phép sám hối xưng tội, không có phép
thông công. (Việc cầu cơ là một việc làm tế nhị và nguy hiểm, chỉ dành riêng cho
Hội Thánh.
Số lượng Giáo sĩ
giới hạn trong phạm vi cần thiết nhứt để truyền bá giáo lý, khuyến khích
tín đồ thực hành Nhơn đạo, như Đức Khổng
Tử đã quan niệm. Chỉ có một Thượng Đế duy nhứt, là Đức Chí Tôn, Đạo Cao Đài
khuyên bảo các tín đồ noi theo đạo đức thuần túy của Đức Chúa Jésus, đạo đức
của Đức Khổng Tử, cả hai đều không có gì khác nhau.
Đạo Cao Đài cũng khuyên bảo sùng bái các Đấng chơn
linh thượng đẳng, ân nhân của nhơn loại vào các thời kỳ khác nhau; Đức Chúa
Jésus, cũng như Đức Phật Thích Ca, cũng như Đức Khổng Tử, cũng như các vị Thần
thời cổ Trung hoa, không nên quên các Đấng ấy trong các lời cầu nguyện.
Trên nguyên tắc, các Chức sắc của Đạo Cao Đài bị
cấm cầu các Đấng thiêng liêng trong khối đông đảo tín đồ, để tránh cho những
đồng tử trở nên chuyên nghiệp và tránh lạm dụng tính dễ tin của quần chúng ưa
chuyện thần bí.
Ngọc cơ được cất giữ trong Thánh Thất. Nhưng những
đồng tử linh tính tiếp tục được các tín đồ nghe theo. Theo ý kiến của tôi (tác
giả), thật là bất công khi tuyên bố quá nhanh rằng các vị sáng lập Đạo Cao Đài
muốn che giấu sự thật để dành riêng cho mình độc quyền tiếp xúc các Đấng vô
hình.
Người hành đạo cần vươn lên để chiếm được cái quyền
đạt đến trí huệ trọn vẹn. Trong vài trường hợp, đó là thái độ của Giáo hội Công
giáo đối với Thần linh học.
NGUYÊN
TẮC CĂN BẢN
được
xác nhận năm 1946
(Xem Chương : Các yếu tố cốt yếu của Đạo Cao Đài)
Giáo lý của Đạo Cao Đài không chỉ nhằm mục đích hoà
hợp các tín ngưỡng tôn giáo, mà còn thích nghi với tất cả mức độ tiến hóa của
tâm linh.
1 . Về phương diện đạo đức : Giáo lý Đạo Cao Đài nhắc nhở con người có bổn
phận đối với chính mình, đối với gia đình, đối với xã hội, ấy là một gia đình
mở rộng, kế đó đối với nhơn loại, gia đình thế giới;
2 . Về phương diện Triết học : Giáo lý Đạo Cao Đài truyền dạy sự khinh thường
danh vọng, sự giàu có, sự xa hoa, tắt một lời là sự giải thoát khỏi những nô lệ
vật chất, để tìm tòi trong tâm linh sự
yên tĩnh của tâm hồn;
3 . Về phương diện văn hóa : Giáo lý Đạo Cao Đài khuyên nhủ sùng bái Thượng
Đế, Đại Từ Phụ của tất cả chúng ta, tôn thờ các Đấng chơn linh thượng đẳng vốn
tạo nên hệ thống trật tự oai nghiêm trong thế giới huyền bí. Chấp nhận sự thờ
cúng tổ tiên theo truyền thống dân tộc, bài trừ việc cúng bằng các thứ thịt thú
vật, cũng như giấy vàng mã;
4 . Về phương diện tâm linh : Giáo lý Đạo Cao Đài xác nhận sự đồng ý với các
tôn giáo khác về các hệ thống triết học tâm linh và tâm lý, sự hiện hữu của
linh hồn và sự tồn sinh của nó nơi thể xác, sự tiến hóa của linh hồn bởi sự đầu thai chuyển kiếp liên tiếp, cái
kết quả sau khi chết của các hành vi của con người định bởi luật Nhân quả.
5 . Về phương diện truyền giáo : Đạo Cao Đài truyền đạo cho các tín đồ xứng
đáng những giáo huấn mặc khải mà nó cho phép các tín đồ, bởi quá trình tiến hóa
tâm linh, đạt đến sự hưởng thụ toàn phúc.
Các
tín đồ
Có ba loại tín đồ :
1 . Những tu sĩ chơn tu, những Chức sắc cao cấp, những người bị bắt buộc tuân
thủ một lối sống, nếu không khổ hạnh thì ít nhất cũng phải kiêng cữ một số điều : quan hệ xác thịt nam nữ bị cấm
chỉ, họ có thể có vợ nhưng vợ chỉ là bè bạn; rượu, thịt, cá đều bị cấm chỉ; họ
chỉ được nuôi sống bằng thảo mộc (ăn chay). Chỉ riêng họ mới được phép giao
tiếp với Đức Thượng Đế và các Đấng chơn linh thượng đẳng, nhưng chỉ được làm
trong trường hợp đặc biệt mà thôi.
2 . Các đồng tử, có số lượng 12 người, họ cũng được xem là Chức sắc hay phụ
tá, không phải là tu sĩ chơn tu, nhưng họ cũng bị bắt buộc tuân thủ một số luật
lệ và kiêng cữ một số điều trong đời sống vật chất. Họ vẫn đi làm việc thường
ngày trong các hoạt động thương mãi hay kỹ nghệ. Họ cũng bị chính thức cấm chỉ
cầu cơ, khi không có hiện diện của những Chức sắc cao cấp mà không được các vị
nầy mời đến sau khi tụng kinh cầu nguyện
Đức Chí Tôn.
3 . Những môn đồ bình thường, đây là
khối đông đảo tín đồ, họ không có bổn phận nào khác hơn là tuân theo đạo đức và
qui tắc hành xử do các Chức sắc của Ban Trị Sự Cao Đài truyền dạy và đáng kể là
phải cúng lạy đều đặn mỗi ngày trước bàn thờ Đấng Cao Đài, trong một ngôi chùa
riêng biệt, hoặc trong một Thánh Thất mới tạo nên, hay nơi tư gia của họ trước
một bàn thờ nhỏ được sắp đặt, trên đó đặt hình vẽ Thiên Nhãn có mây bao quanh,
giữa hai chưn đèn nghi lễ có một lư hương chứa đầy tro để cắm nhang, và phẩm
vật dâng cúng là hoa quả, nhiều hay ít cũng được.
Theo một tài liệu khác gần đây, tôi (tác giả) thấy
những tín đồ chia làm hai bậc : Thượng thừa và Hạ thừa.
Được xếp vào bậc Thượng thừa là những tu sĩ chơn
tu, họ có thể là Chức sắc hay tín đồ thường. Ở bậc Thượng thừa, họ bị bắt buộc
để râu dài và tóc dài, phải ăn chay, cấm xa hoa, cấm quan hệ tình dục. Đời sống
của họ thoát khỏi sự nô lệ vật chất, hoàn toàn dâng hiến để phụng sự tôn giáo.
Những tín đồ thuộc Hạ thừa gồm đông đảo tín đồ, vẫn
tiếp tục theo đuổi công việc bình thường, bổn phận về tôn giáo của họ gồm việc
thực hành cúng lạy hằng ngày và hành xử đúng theo Tân Luật.
Các tín đồ ở cả hai bậc đều bắt buộc tuân theo Ngũ
Giới Cấm, trích ra từ đạo đức của Phật
giáo: không sát sanh, không gian tham, không tà dâm, không ăn cao lương mỹ vị,
không phạm tội bằng lời nói.
Về chế độ ăn uống, đối với các tín đồ bậc nhì (Hạ
thừa), qui định việc ăn chay theo từng bậc, phải kiêng cữ thịt thú vật, chỉ ăn
chay một số ngày nhứt định trong một tháng âm lịch. Như thế, khởi đầu ăn chay
tạm thời 2 ngày sóc vọng mỗi tháng, kế đó tiếp tục lên Lục trai, ăn chay 6 ngày
trong một tháng, rồi Thập trai tức là 10 ngày trong mỗi tháng.
Đạo Cao Đài thu nhận vào lòng tất cả những người có
thiện ý, không phân biệt chủng tộc, địa vị xã hội. Một người dân có thể sát
cánh trong tình huynh đệ với một Đốc phủ sứ.
Sự
thờ cúng trong Đạo Cao Đài
" Sự thờ cúng được cử hành mỗi ngày tại Thánh
Thất, cũng như tại tư gia, vào bốn thời (Tứ thời) : lúc 6 giờ, giữa trưa (12
giờ), 18 giờ và giữa đêm (12 giờ khuya).
Quì lạy trước Thiên bàn, trong sự nhiệt thành của
tâm hồn hướng về Đấng Thượng Đế, chúng ta khởi đầu tụng kinh Niệm Hương, tiếp
theo tụng Khai Kinh, mà lời kinh như sau :
Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh thái dương giọi trước phương đông.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.
Trong Tam giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng, làm phải làm lành.
Trung dung Khổng Thánh
chỉ rành,
Từ bi Phật dặn lòng
thành lòng nhơn.
Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.
Nghi thức ấy đã xong, chúng ta cất giọng tụng kinh
bài Vinh Danh Thượng Đế (Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế), kế đó tụng 3 bài kinh xưng
tụng ba Đấng Giáo chủ Tam giáo : Đức Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử.
Nghi thức cúng lạy hằng ngày tất cả đơn giản như
thế.
Về phần hiến lễ trong Thánh Thất, vào các ngày lễ
lớn, việc thực hành các nghi tiết có phần quan trọng hơn.
Làm
thế nào cầu nguyện Đức Chí Tôn ?
Tôi xin quí vị, chư
Đạo huynh của tôi, cầu nguyện và ca tụng Đấng ban cho sự sống, sức mạnh,
vẻ đẹp và cái có giá trị hơn nữa là : Trí khôn ngoan mà nó làm cho quí vị giống
Đấng ấy. Tôn xin quí vị, những Đạo huynh của tôi, ca tụng, cầu nguyện và đặt
mình vào trật tự.
Tư thế trật tự đứng bất động trong chỗ chờ đợi . .
. tôi xin quí vị chờ đợi những ân huệ của Thượng Đế.
Tư thế trật tự đứng trong điệu bộ của bước đi đầu
tiên đến cõi ánh sáng . . . Tôi xin quí
vị bước đến cõi ánh sáng.
Tư thế trật tự ngồi trong sự chờ đợi và sự tịnh tâm
hướng nội . . . Tôi xin quí vị tịnh tâm, cầu nguyện và chờ đợi.
Tôi xin quí vị, những Đạo huynh của tôi, cầu
nguyện, ca tụng trong tâm Đấng ban cho sự sống.
Sự sống của thể xác để theo đuổi việc giúp đỡ những
người nào cần đến quí vị.
Sự sống của trái tim để thương yêu mọi người, mọi
vật, để thương yêu tất cả sự sống, tất cả sự sống thiêng liêng, Thiên thần, con
người, thú vật, thảo mộc, khoáng chất và nguyên tử.
Tôi xin quí vị thương yêu đất, nước, lửa, không
khí.
Tôi xin quí vị thương yêu những cục sỏi trên đường
đi và những ngôi sao trên bầu trời.
Tư thế trật tự trong trạng thái ngủ, trong trạng
thái nghỉ ngơi, đều phải là một hành động tạ ơn.
Sự bất động là một trật tự, một tư thế của hành
động, cầu nguyện, ca tụng Đấng ban cho sự sống, sức mạnh, vẻ đẹp và cái gì còn
hơn thế nữa, trí khôn ngoan.
Các đạo huynh, các Đạo tỷ của tôi, tôi xin quí vị
cầu nguyện và ca tụng Đấng ban cho sự sống.
Tôi đem đến
các thứ hoa tươi năm sắc. Tôi đem đến các thứ hoa tươi.
Hoa huệ trắng của sự chơn thật trong sạch trong cái
duy nhứt của Thượng Đế.
Tất cả các màu sắc có ở trong màu trắng của đức
tin cũng như tất cả tín ngưỡng đều ở nơi
đức tin.
Hoa cúc nơi đồng ruộng của niềm hy vọng thiêng
liêng. Màu xanh của bầu trời làm cho nhìn lên cao.
Trong niềm hy vọng thiêng liêng, tất cả những ý
tưởng của loài người.
Hoa hồng đỏ của tình thương yêu vấy máu, của tình
thương yêu bị đóng đinh vào cây thập tự, hoa hồng đỏ của lòng nhân ái.
Hoa hồng mang cây Thánh
giá.
Cây Thánh giá mang hoa
hồng.
Hoa hồng - Thánh giá.
Hoa hướng dương màu
vàng, hoa hướng dương của huỳnh kim, hoa hướng dương của lời nói im lặng.
Mặt đất quay hướng đến mặt trời, cũng như mặt trời
của hoa hướng dương quay.
Huỳnh kim (vàng ròng) của trời rơi trên mặt đất.
Hoa màu bông cà, cây hoa tím của sự khiêm tốn bí
mật. Màu tím làm ra tình thương yêu đỏ và hy vọng xanh, màu tím của sự sầu thảm
nhưng cũng của quyền lực bí mật.
Màu hoa cà của người nào biết được chơn lý.
Lòng
bác ái
Mấy từ ngữ đơn giản nầy tóm lược khuynh hướng chủ
yếu của Đạo Cao Đài. Những ứng dụng thực tiễn suy ra gồm :
1 . Tình huynh đệ giữa nhơn loại.
2 . Lòng thương yêu loài vật.
Bởi vì chúng ta có bổn phận trong tình huynh đệ đối
với mọi người, xem mọi người đều là anh em trong đại gia đình thế giới, chúng
ta cũng có bổn phận đối xử tốt loài vật, vì chúng nó là những em út còn lạc hậu
trên con đường tiến hóa. Chúng ta phải chăm sóc chúng vì chúng được tạo ra để
giúp việc cho chúng ta, đối đãi với chúng một cách dịu dàng, và tránh làm cho
chúng đau đớn vô ích. Đời sống thú vật của chúng cần được tôn trọng, bởi vì nếu
làm tổn thương đến chúng thì chúng ta đã làm chậm trễ sự tiến hóa của nạn nhân.
Vì vậy, tất cả tín đồ Cao Đài ý thức bổn phận của
mình và giữ việc ăn chay để tránh khỏi làm tòng phạm sát sanh hằng ngày, làm
tổn hại những em út cấp dưới.
Ông Schopenhauer nói : Giữa lòng thương xót loài
vật và lòng nhân từ có sự ràng buộc chặt chẽ, người ta có thể nói không ngần
ngại rằng, khi một người hung dữ với
loài vật thì người ấy không thể là người lành.
3 . Lòng nhân từ đối với thảo mộc :
Không ai biết hết những ích lợi của thảo mộc đã đem
lại cho nhơn loại. Ân nhân yên lặng của con người, nó không hề trách móc về sự
bội bạc, sự tàn ác của con người. Cây cối che bóng mát cho những ai ngồi tại
gốc của nó, không phân biệt khách bộ hành mệt nhọc hay người tiều phu hung bạo.
Người ta nói, cây đàn hương đã xông hương lưỡi rìu chặt nó.
Thảo mộc là một kho thuốc thiên nhiên thực sự, nơi
đó, chúng ta có thể tìm được những thứ thuốc trị bệnh bá chứng cho chúng ta.
Bài học về lòng tốt, lòng hy sinh không
thể rút ra từ thảo mộc cho lợi ích của chúng ta hay sao ?
Những thí nghiệm khoa học gần đây của Sir Bose, một
bác học Ấn Độ, đã chứng minh rằng thảo mộc sống như loài người, mà vài loại
cây, đặc biệt như cây mắc cở có một hệ thần kinh nhạy cảm hơn của chúng ta về
những tổn thương thân thể. Chúng ta sẽ nghĩ gì khi một người nào đó đùa giỡn bẻ
gãy một cành cây hay nhổ bật rễ một cái cây ?
Nếu vì nhu cầu cho đời sống vật
chất buộc chúng ta phải dùng thảo mộc, thì đối với “các thí sinh thi lên động
vật” nầy, chúng ta phải có lòng tốt là không bao giờ nên chặt bỏ hay phá hại
chúng một cách vô ích.
4 . Phụng sự nhơn sanh. (bổ túc bổn phận của tình huynh đệ)
Biết bao nhiêu dịu dàng, trìu mến, thiên nhiên đã
đem lại cho con người khi sống ẩn dật trong cảnh cô tịch. Lánh xa thế giới loài
người, mà những cám dỗ không còn giá trị, trong cảnh tĩnh mịch của cuộc sống ẩn
dật, người ta thanh lọc cuộc sống, lắng dịu những đam mê và nâng cao tư tưởng
lên gần Thượng Đế. Rồi trong niềm say mê trầm tư mặc tưởng, nơi đó được khơi
dậy cái tình cảm của Đấng thiêng liêng, nên cảm nhận nhiều hơn cái nguồn gốc
thiêng liêng của mình.
Đó là đời sống nội tâm dẫn lối những người thượng
thừa, được phú bẩm những năng lực lớn, khi sứ mạng phàm trần của họ hoàn thành,
họ mong muốn được an lạc tinh thần. Nhưng, trước khi đạt đến giai đoạn cao cấp trong con đường hành tu của
nhơn loại, người khách lữ hành, vẫn tìm cách tiến lên, nhưng phải giúp đỡ những
kẻ đang dò dẫm đi sau.
Như thế, tất cả tín đồ Đạo Cao Đài, lo lắng về hành
động theo nguyên tắc nhân ái, trong mọi trường hợp, tự hiến mình cho việc phụng
sự nhơn sanh. Được thúc đẩy bởi lòng ham muốn giúp đỡ đồng loại, họ sẵn sàng
đem đến sự an ủi cho những nỗi khổ đau về tinh thần và xã hội bằng những lời
nói hay việc làm của họ. Và trong niềm khao khát về lòng từ bi, họ luôn luôn đưa
tay giúp đỡ tất cả những người cần đến sự giúp đỡ của họ. Chịu đựng tất cả nỗi
khổ nhục bất cứ từ đâu tới, họ vẫn sống không thù hận, giữa những người thù hận
họ. Tất cả tín đồ Đại Đạo, Chức sắc hay Đạo hữu,
phải nhận nhiệm vụ khó khăn là đem linh hồn đến Thượng Đế, ghi khắc vào trí não
những Thánh giáo của Đấng Cao Đài, dựa trên lòng yêu mến điều thiện và sự tôn
thờ chơn lý.
Nếu đã cố gắng tuyên cáo chơn lý mà vẫn không
thuyết phục được những kẻ vô tín ngưỡng, thì ít ra cũng làm cho họ dao động vài
phần, và lúc bấy giờ những nghi ngờ được khơi dậy trong tâm hồn những kẻ từ
trước đến nay không có đức tin, sẽ làm tiếp những gì còn lại. . . .
Chính khi
hoàn thiện và cứu độ kẻ khác, người ta cũng hoàn thiện và cứu độ chính mình, vì
những hành động thương yêu, từ thiện, đến lượt nó tạo nên lộ phí trong cuộc
hành trình dài về Cực lạc. Bởi vì việc phụng sự nhơn sanh là một trong những
điều kiện cần thiết của việc tự độ, người ta có tất cả lợi ích để thực hiện với
lòng nhiệt thành hơn là cho phép họ lòng hâm mộ tôn giáo và tiến bộ đạo đức của
họ.
Không dám có cao vọng tự đặt mình là nhà truyền
giáo, người tín đồ phải thúc đẩy đặc biệt những đồng đạo của mình làm điều
thiện và đạo đức. Nó có thể đạt được, không phải bằng bài thuyết giảng trống
rỗng, mà bằng cách làm gương và thích hợp cuộc sống theo giáo lý mà mình chủ
trương. Nếu thỉnh thoảng nó trốn lánh bổn phận, xa rời con đường đạo mà Đức Chí
Tôn đã vạch ra, thì đấy chính là do sự yếu đuối hay khinh suất của nó, chớ
không phải do những Thánh giáo mà nó có sứ mạng truyền bá, bởi chúng tôi há cần
nhắc lại luôn luôn những Thánh giáo ấy, một lý tưởng hòa bình và tình yêu huynh
đệ.
Giống như các tôn giáo hiện hữu, Đạo Cao Đài cũng
có những kẻ giả tu (không thành tín sùng đạo) và những tín đồ còn thiếu đức tin
để chống lại những cám dỗ của các Tà Thần. Đó là những phần tử bất hảo làm hoen
ố tôn giáo mà họ đang theo và họ sẽ bị loại ra hoàn toàn.
Đạo
Cao Đài đem đến điều gì ?
Đạo Cao Đài đến để phát hiện chơn lý và xác định
mục đích của sự sáng tạo ra loài người.
Đạo Cao Đài ban cho các tín đồ ý thức về quyền lực
của tín đồ khi chơn linh của họ hiệp nhứt vào Thượng Đế.
Đấng Cao Đài đến hướng tới loài người đang bị ngăn
trở trong bước đường đi đến cõi ánh sáng và chứng minh rằng lý trí con người sẽ
chiến thắng tất cả những chướng ngại, tất cả những thiếu hiểu biết.
Đấng Cao Đài giải phóng các xiềng xích.
Vậy Đạo Cao Đài hòa hợp hoàn toàn với con người tự
do, suy nghĩ một cách tự do mà chơn linh của con người sẽ một ngày nào đó ý
thức được quyền lực riêng của nó.
Nhưng Đấng Cao Đài đặt con người tự do để bảo vệ
chống lại tinh thần kiêu căng, bởi vì tất cả ánh sáng bên trong đến từ ánh sáng
trên cao.
Ánh sáng chỉ có thể đến từ cõi ánh sáng.
Ánh sáng dưới thấp khởi phát từ ánh sáng ở trên cao.
Ánh sáng của loài người khởi phát từ ánh sáng thiêng liêng.
Sự
tiền định của Đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài được tiền định để trở thành, không chỉ
ở Viễn Đông mà trong toàn cả vũ trụ, một sự tổng hợp các tôn giáo, một siêu
thông thiên học phát ra từ chủ nghĩa thông thiên học nhân tạo. Đạo Cao Đài
không yêu cầu sự duy nhứt về tính siêu việt tôn giáo, nhưng mong muốn và hướng đến sự hòa hợp các tín ngưỡng
và các triết lý. Không một nguyên tắc nào của Đạo Cao Đài có thể bị từ chối bởi
một chơn linh kém tiến hóa.
Cũng như trong tất cả thời kỳ, luôn luôn có một con
đường mở ra hướng đến cõi ánh sáng của Đấng Tối Cao, cũng như trong tất cả các
nơi có dựng lên một đền thờ thần bí hay hữu hình để thu hút những ân huệ của
Nguyên nhân của các nguyên nhân (Thượng Đế) và để toan tính nâng cao con người
Tiểu vũ trụ lên cái vĩ đại là Đại vũ trụ.
Những tôn giáo của các địa phương, những tôn giáo
của tất cả thời kỳ, những tôn giáo đang hoạt động hôm nay : Ấn Độ giáo, Phật
giáo, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, đều luôn luôn thích hợp với thời
gian và địa phương đã tạo thành nó và phát triển nó. Đó là môi trường nước tạo
ra hình thể của các thứ cá. Đó là sức hấp dẫn của Trời làm cho con người bước đi thẳng đứng.
Đạo Cao Đài phát sinh tại Đông Dương được định dùng
cho cả thế giới, bởi vì thông điệp mà Đạo Cao Đài đem lại đã có sẵn trong tất
cả tôn giáo.
Việc có nhiều tôn giáo không là chướng ngại cho
việc hòa hợp nếu một mối dây liên lạc
khéo léo nhưng thực tế gây ra một điểm tiếp xúc. Mối dây liên lạc đó khéo léo
nhưng thực tế, Đạo Cao Đài đem lại cho người muốn nghe không định kiến, tất cả
lòng thành thật, tất cả tình huynh đệ trong thông điệp của Đạo :
Sự sống, Lòng thương yêu, Chơn lý.
Đạo Cao Đài, Tôn giáo và Triết lý.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo có giá trị liên kết các
phần tử giữa họ, liên kết những người đang sống của thời hiện tại trong tất cả
các địa phương, với những người đã chết của thời quá khứ, và nó chuẩn bị cho
kiếp tái sinh tương lai.
Đạo Cao Đài làm cho nó cái công thức của chủ nghĩa
thực nghiệm triết học Auguste Comte : "Những
người chết thống trị, một cách cần thiết và càng lúc càng thêm, những người
sống."
Nhưng đối với Đạo Cao Đài, những người chết thực sự
là luôn luôn sống.
Giáo lý của Đạo Cao Đài là một triết lý có giá trị,
nó trình bày, chứng minh, bàn cãi và xác nhận trong thiện ý cũng như trong duy
lý hay thần bí. Chủ nghĩa duy lý dĩ nhiên không là chủ nghĩa vô thần có hệ
thống.
Chỉ
có một Thượng Đế, tên của Ngài là gì ?
Chỉ có một Thượng Đế, Nguyên nhân của các nguyên
nhân, Nguyên lý của tất cả nguyên lý. Chỉ có một Thượng Đế được tôn thờ, sùng
kính, cầu nguyện dưới những tên khác nhau trên khắp hoàn cầu. Chỉ có một Thượng
Đế.
Cao Đài, tên của Ngài là thế đó, mà Đấng Thượng Đế
duy nhứt và hoàn toàn đã dùng để biểu thị ở Việt Nam và để chỉ cho thế giới
biết một tôn giáo mới, nhờ nó con người chắc chắn tìm được Thượng Đế.
Cao Đài, đó là tên của Đấng Thượng Đế duy nhứt, và
Ngài ở trong tất cả những tên trong hiện tại hay quá khứ mà con người đặt cho
Thượng Đế hay dưới những tên nầy, Thượng Đế được biểu thị đối với con người.
Cao Đài, tên của Ngài là thế đó.
Cao
Đài
Cao Đài là cái đài cao nhứt. Đó
là sự biểu
lộ của En-Soph xứ
Kether.
Cao Đài là cái tháp không nóc mà trên mặt bằng cao
nhứt của tháp, Đấng ấy tự đặt “Đấng mà người ta không thể gọi tên” bởi một tiếng
nào của loài người. Những người theo chủ nghĩa thần bí gọi Đấng ấy là En-Soph,
những người Do Thái gọi là Iod, He, Vau.
Chữ Cao Đài thay thế tên của Thượng Đế. Đó là một trong rất nhiều tên của Đấng thiêng
liêng duy nhứt, mà cái tên chỉ là một trong những trạng thái, Đấng ấy là vô
tận.
Bởi cái dấu hiệu 3 lần, Tam vị Nhứt thể luôn luôn
biểu lộ trên các đỉnh cao. Thượng Đế ở chỗ cao nhứt hơn tất cả đỉnh cao, rộng lớn hơn tất cả không gian, bền
vững hơn tất cả thời gian.
TAM = Chúng ta sùng
bái 3 lần Đấng Thượng Đế duy nhứt gọi là Cao Đài.
KỲ = Thượng Đế vĩnh
cửu của tất cả thời kỳ và tất cả thời gian. Lúc hiện tại luôn luôn là thời
gian, thời kỳ của Thượng Đế.
Cao Đài biểu lộ vào thời kỳ thứ ba của quá khứ, của
hiện tại và tương lai.
PHỔ = Sự hy sinh, sự
ăn chay, sự chờ đợi, sự biểu thị trước của cái gì sẽ đến, của cái gì đang đến.
Sự ăn chay, đó là sự chờ đợi của thực phẩm thiêng liêng, của Thánh ngôn. Tất cả
tu sĩ, tất cả người khôn ngoan sống bằng Thánh ngôn. Cho nên, người khôn ngoan
cũng như tu sĩ chờ đợi trong sự ăn chay và sự ăn chay của người ở phàm trần để
nuôi sống “người” ở cõi thiêng liêng.
Trong sự ăn chay, bạn sẽ thấy Đấng Cao Đài.
ĐỘ = Như thế sẽ đến sự giải thoát, cũng như sẽ đến
sự phục sinh.
Như thế sẽ đến sự phán xét và cũng như tất cả sự xá
tội. Đấng Cao Đài biểu lộ như thế để xá tội và để thương yêu.
(Tiếp theo đây là đoạn có 16 dòng ngắn, nói về Đức
Quan Âm Bồ Tát, nhưng quan niệm của tác giả không đúng theo giáo lý của Đạo Cao
Đài, nên chúng tôi không dịch vào đây).
Ngũ
giới cấm.
1 . Không giết hại các sinh vật (vì chúng đều có Sanh hồn do Thượng Đế ban
cho);
2 . Không gian tham (để tránh khỏi sa
đọa vào vật chất vì nhu cầu sở hữu và thống trị). Chính sự tiến bộ của xã hội hiện nay mà tất cả dường
như khêu gợi lòng kiêu ngạo và thèm khát giàu có.
3 . Không dùng cao lương mỹ vị :
- Không ăn thịt thú vật (phải ăn chay).
- Không uống rượu (vì nó làm hại thể xác và chơn
thần).
" Tác dụng độc hại của rượu lên chơn thần :
" Chơn thần nhập vào thể xác và bao bọc thể
xác bởi khí thể của nó. Trung tâm sinh hoạt của nó ở tại óc và trung tâm linh
khí của nó ở tại Nê huờn cung. (Chính tại trung tâm Nê huờn cung nầy mà Hộ Pháp
đến gìn giữ chơn linh của người tu luyện cho đến khi đắc đạo).
" Nay, tác dụng kích thích của rượu lan lên
tận óc, làm tụ máu trong não, gây ra những xáo trộn trong chơn thần, thiệt hại đến đời sống người luyện đạo, phá
vỡ sự hòa hiệp huyền bí (của Khí và Thần) đã được thiết lập nơi người tín đồ.
Hơn nữa, trong lúc loạn thần ấy, để cửa mở trống (trung tâm linh khí) cho Tà
Thần xâm nhập chiếm đoạt thể xác, thi hành quyền lực trên thể xác, xúi giục thể
xác gây ra những hành động đáng trách, có thể dẫn đến sự sa đọa vào địa ngục.
Cho nên, Đức Chí Tôn chính thức cấm chúng ta uống rượu.”
4 . Không tà dâm (việc nầy đưa chúng ta vào nghiệp
ác).
5 . Không phạm tội bằng lời nói :
" Sự khải thị dạy cho chúng ta biết rằng
Thượng Đế đã đặt định một chơn linh hướng dẫn và gìn giữ cái mạng sống của con
người. Cái chơn linh ấy rất vô tư, có sứ mạng không ngừng liên lạc với các Đấng
trọn lành nơi hệ thống thượng đẳng (Ngọc Hư Cung) để trình bày trước Tòa Phán
xét một bản báo cáo chi tiết về tất cả hành động tốt xấu. Đó là bản báo cáo tất
cả việc làm của con người, gồm những công đức và tội lỗi, không thể tránh khỏi
bị xử trí bởi luật Quả báo luân hồi. Hơn nữa, chơn linh ấy được giao phó gìn
giữ chúng ta, mà còn có sứ mạng dạy bảo khuyên nhủ chúng ta. Trong ngôn ngữ
nghèo nàn và thiếu thốn của con người, người ta gọi chơn linh ấy là Lương tâm.
Nay, trước khi chúng ta tìm cách lừa dối kẻ khác bằng những lời nói dối, chúng
ta đã lừa dối Lương tâm của chúng ta, nghĩa là lừa dối chơn linh ấy.
" Chơn linh ấy ghi chép không những tất cả
việc làm mà còn tất cả lời nói của chúng ta, cả khi chưa thực hành. Bởi vì,
dưới mắt của các Đấng trong Tòa Phán xét, những tội lỗi của lời nói cũng đáng
bị trừng phạt như lúc hành động.
"
Như vậy, chúng ta cần phải thật cẩn thận trong lời nói cũng như trong hành
động."
Sự
sáng tạo thế giới.
Sự sáng tạo thế giới luôn luôn là hiện hữu và chơn
lý tôn giáo, truyền bá từ thế kỷ nầy qua thế kỷ khác, tùy theo thời kỳ, trong
sự hòa hợp hay đối nghịch.
Sự sáng tạo chơn linh con người luôn luôn là hiện
hữu và sự nâng lên cao của nó luôn luôn
diễn ra. Chơn linh nào không tiến hóa, thì thoái hóa và rơi trở vào vật chất.
Chơn linh bị vật chất hóa, giáng sanh và cư ngụ ở
giữa chúng ta, nhưng nó quay trở lại Thượng Đế, kéo chúng ta theo và làm chúng
ta trong sạch với Đấng ấy.
Những Thiên sứ của Thượng Đế đã đến: Krishna, Thích
Ca Mâu Ni, Khổng Tử, chỗ khác : Hermès và Pythagore, Socrate và Platon.
Tất cả Thiên sứ đều có nhiều môn đồ : những người
theo phái đạo ở gần Biển chết của Do Thái, những người theo chủ nghĩa Duy trí,
những đoàn viên của giáo đoàn Temple, những người của Thánh giá hồng, và nhiều
người khác nữa ở Tây phương hay ở Đông phương. Ngày nay ở Viễn Đông : các tín
đồ của Đạo Cao Đài.
Thánh
giáo Pháp văn.
Những Thánh giáo Pháp văn thường được tiếp nhận bởi
các đồng tử của Đạo Cao Đài do các Đấng ban ra như : Allan Kardec, Léon Denis,
Camille Flammarion, Descartes, Jeanne d’Arc, Chateaubriand, vv ... và nhứt là
Victor Hugo và gia đình Victor Hugo.
Nhiều vị lãnh đạo trong
Đạo Cao Đài, là người VN hiện nay, do sự tái kiếp của nhiều người trong gia đình Hugo.
Những việc kỳ lạ làm cho người ta tin tưởng điều đó. Trong một số ít
Thánh Thất, có treo hình của Victor Hugo.
Sự đầu thai chuyển kiếp trong Đạo Cao Đài.
Liên quan với Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo, và
tôitin tưởng có thể xác quyết mà không sợ bị buộc tội : với giáo lý của Kardec
(Allan Kardec được xem là một vị Thần linh tôn giáo), Đạo Cao Đài tin vào
thuyết Nhân Quả và Luân Hồi, hệ quả của nó. Người tín đồ Cao Đài thẳng thắn
tuyên bố rằng, không mới lạ gì về điểm nầy.
Tất cả sự chấp ý (tư tưởng, lời nói hay việc làm)
là một cái Nhân, sẽ mang lại cái Quả :
Cái Nhân gắn chặt với cái Quả, Quả là sự biến thái
cách nào đó của Nhân, là sự giải thích cụ thể của Nhân.
Sự giải thích ấy chính xác đến nỗi chỉ cần xem xét
tỉ mỉ kiếp đầu thai hiện tại của một thực thể, đủ để chỉ cho chúng ta biết cùng
một lúc kiếp quá khứ và kiếp tương lai của nó. Kiếp đầu thai hiện tại của một
thực thể với sự xen kẽ những nỗi vui buồn được xác định bởi những việc làm mà
họ đã hoàn thành trong kiếp sống trước. Cũng vậy, những việc làm trong kiếp
hiện tại xác định nguyên nhân tác thành của kiếp lai sinh.
Cái Quả có thể được tách ra khỏi Nhân trong một
thời gian lâu hay mau. Nếu khoảng cách đó ngắn, cái Quả đến tức khắc và kẻ có
tội thấy ngay hình phạt trước mắt.
Nếu khoảng cách đó dài, đó là vì kẻ tội lỗi còn
được hưởng một thời gian nữa cái Quả tốt của những việc làm tốt của nó trong
những kiếp trước xa xưa hay kế cận còn kéo dài.
Nhưng, ngay sau khi sự miễn dịch vô hình ấy chấm
dứt thì luật Nhân Quả liền thể hiện đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, sự suy sụp
diễn ra nhanh đến chóng mặt, giải thích như thế về sự suy tàn của một số gia
đình như đã nói ở trên. (Trích trong tạp chí La Revue Caodaiste, Tháng 3, số
33).
Tự do ý chí của con người bị giới hạn bởi cái Quả
nghiệp của kiếp trước. Người tín đồ Cao Đài quả quyết rằng, chính mình tạo ra
số phận của mình. Việc hành thiện giúp cho thực thể tự cổi bỏ dần dần cái
nghiệp quả của nó.
Ngài Ngô Văn Chiêu, tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài
mới qui vị gần đây, nói : “Để tự biết mình, người môn đệ phải tự chúc mình
những nỗi khổ đau.”
Đạo Cao Đài còn tin tưởng rằng, sự xuất hiện của
một sắc dân mới, cũng như giáo sư Pietro Ubaldi (29-4-1933) tin rằng, loài
người tương lai sẽ là Thần thông nhơn, một mẫu mới của sinh vật, như những
người bạn Thông thiên học của chúng ta đã nhận thấy mẫu người mới đang hình
thành :
" Kinh nghiệm chứng tỏ rằng, mỗi lần giáng
trần của Đấng Cứu Thế, Ngài mang tên gọi là : Lão Tử, Thích Ca hay Jésus, loài
người như được đánh thức từ cơn mê. Một luồng sức mạnh huyền bí lưu thông khắp
nơi, giúp con người hiểu được những điều mầu nhiệm mà đến lúc đó họ vẫn còn lờ
mờ, sự khai mở đột ngột và mầu nhiệm của một vài năng khiếu như: trực giác, ký
ức, trí thông minh, huệ nhãn, cho phép người tín đồ đạt tới Đạo, từ đấy mở rộng
cửa đối với họ.
Tiếp nhận được linh khí của vũ trụ, chỉ đến gần
trái đất sau hàng ngàn thế kỷ, người tín đồ hiểu một cách dễ dàng những Thánh giáo và để đốt giai đoạn, một
ngày nào đó, người tín đồ sẽ được đến gần và nhập vào Thượng Đế.
" Kể từ khi xuất hiện Đạo Cao Đài, mà Đức Chí
Tôn là Giáo chủ, những hiện tượng thuộc loại nói trên, được loan báo chút ít
khắp Nam Kỳ. Điều ngạc nhiên hơn hết là việc ăn chay trường thực hiện không khó
khăn bởi những tín đồ nam nữ ở mọi lứa tuổi. Người ta thấy những đứa trẻ 4 hay
5 tuổi không chịu nổi khi thấy dĩa cá
hay thịt. Người ta thấy những đứa trẻ 13 hay 14 tuổi khước từ ăn mặn để chỉ ăn
toàn rau cải và chỉ ăn một lần trong mỗi ngày, vào lúc giữa trưa (ăn ngọ).
Người ta cũng thấy những người chỉ ăn toàn là trái cây. Các sự kiện nầy của một
đẳng cấp mới, làm ngạc nhiên những tu sĩ Phật giáo mà chính họ thú nhận rằng,
trong số họ chỉ có một số ít người là giữ được trường chay.
"
Kế đó, đến sự phát triển bất ngờ của vài năng khiếu như : ký ức, sự thông minh,
trực giác nơi những người mà họ vốn chưa bao giờ tiếp thu một kiến thức nào."
Tạp chí La Revue Caodaiste từ khi sáng lập, đã loan
báo một vài sự kiện về đầu thai chuyển kiếp ở Việt Nam. Chúng ta vui mừng được
thấy những huynh đệ của Đạo Cao Đài đã thừa nhận những cuộc điều tra và kiểm
soát độ chính xác khoa học cần thiết ở Tây phương mà nó cần những bằng chứng cụ
thể hơn là những sự làm chứng về đạo đức.
Những bằng chứng ấy đem chúng ta đến cái điểm lợi
ích lớn lao : một sự kiện tái sinh được kiểm tra tỉ mỉ đã đánh đổ ngay những sự
chống đối quen thuộc vốn đã nghe cả trăm lần chống đối sự tái sinh (đầu thai).
Tạp chí La Revue Caodaiste đi theo con đường đó và chúng tôi khen ngợi họ.
Đạo Cao Đài nhắc lại, mỗi người của chúng ta, trước khi đi tái
sinh, phải ăn cháo lú (loại cháo làm quên hết dĩ vãng). Nếu người nào ăn nhiều
cháo ấy (khi người ấy có nhiều tội lỗi và nên quên nhiều), nó không nhớ lại
được tiền kiếp của nó. Nếu người nào ăn ít cháo lú (khi người ấy đến một của những kiếp tái sinh gần đây và nó không
hổ thẹn về những lỗi lầm trầm trọng), bằng phương pháp hồi quang phản chiếu,
bằng trực giác, bằng sự phát huệ, nó sẽ nhớ lại những kỷ niệm về những kiếp tái
sinh trước đây.
Nhưng, đó là là khả năng thiên phú của một người ưu
tú về thiền hay những bậc hiền triết khiêm tốn và trầm lặng mà người đời không
biết đến họ.
Sự xác nhận ấy được chứng thực, và chúng tôi dám
nói rằng: Chúng tôi thích những tài liệu được thiết lập bởi phương pháp thực
nghiệm.
Kết luận :
Thời đại của
chúng ta đang phá sản, hỗn độn, khao khát giàu có, hận thù, vui lòng nói đến sự
xem xét lại thuế khóa, xem xét lại các hiệp ước, các đường biên giới, quan
thuế, vv ... Nhưng họ lại quên xem xét
lại cái mà người ta ít nói đến là cái chìa khóa của tất cả mọi sự xét lại:
Chúng ta có nên bắt đầu bằng sự xem xét lại Lương tâm không ?
Chính vì Đạo Cao Đài hiểu rõ sự cần thiết đó và trù
tính xem xét lại Lương tâm mà tôn giáo nầy đã gặp phải sự chống đối của bao thế
lực hắc ám tại Á châu : Tổng hợp mạnh mẽ các tôn giáo ở Á châu, làm gạch nối
với Thiên Chúa giáo, tập hợp sự kiện tâm linh và Thần linh làm nền tảng cho
thuyết duy tâm hiện đại của Tây phương; kêu gọi lòng thương yêu đến Vô Danh, Vô
Cực, đến nền hòa bình thế giới và đại đồng huynh đệ các dân tộc, vĩnh phúc nơi
Đấng Cao Đài, vĩnh phúc cho các anh, tín đồ Đạo Cao Đài, những người anh em xa
xôi của nước Việt Nam, mà chúng tôi đã tiếp nhận được và hôm nay xin cảm tạ lời
giáo huấn và bài học hay.
Châu Âu xưa cũ có dám chấp nhận sự đảo lộn giá
trị mà thời đại mới đòi hỏi không ?
Chúng tôi tin là có, và do đó, chúng tôi nói lời
cảm tạ đối với các tín hữu Cao Đài ở Đông Dương.
ĐẠO CAO ĐÀI VÀ VICTOR HUGO
Tạp chí Religio, la
Rivista di Studi Religiosi tại La Mã do Ernest Buonainti làm Giám đốc đã nêu ra
một bài báo về Đạo Cao Đài. Ông G. Mingiano viết như sau (trang 478):
Victor Hugo và
Đạo Cao Đài :
Một trong những bạn thân của tôi làm một cuộc hành
trình đến Viễn Đông, viết thơ cho tôi từ Sài Gòn :
" Anh biết chăng,
Victor Hugo đã được phong Thánh ? Đó là một tôn giáo ở Nam Kỳ gọi là Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ, có một tư tưởng lạ lùng
là cấp cho một đại thi sĩ Pháp những vinh dự thiêng liêng. Anh nói thế nào ?
Đương lúc ấy, ở nước
Pháp, người ta phải lập một nghị quyết, cho biết làm cách nào cho xứng đáng
nhứt cuộc lễ kỷ niệm 50 năm của Victor Hugo, trong khi các buổi lễ khác được
diễn ra tại Panthéon (Công Thần miếu), tại trường Đại học Sorbonne, tại đảo
Guernesey, được duy trì trong sự bình thường đúng mực của những vinh dự chính thức, thì đây là một
tôn giáo ở Nam Kỳ ban cấp cho nhà thơ những vinh
dự thiêng liêng và ghi danh ông vào hàng
phẩm Thần linh. Như thế, một người được vinh dự tôn thờ (hay gần như vậy) mà
trong di chúc nổi tiếng của ông không nhìn nhận tất cả giá trị và nội dung tôn
giáo ở những giáo hội đã được thiết lập và chỉ nhận lãnh lời cầu nguyện của
những người khiêm tốn. (1)
* * *
(1) Vâng, có lẽ ! nhưng đừng quên rằng V. Hugo là
một nhà Thần linh học (TLH) và sự ảnh hưởng TLH đối với ông làm cho đời sống của ông chia làm hai phần : trước và sau khi gia nhập
TLH.
“ Chúng ta hãy cho vào cử chỉ của người Cao Đài
cách đối xử đúng của nó : Sự tán dương một thiên tài dĩ nhiên như là sự biểu lộ
của ánh sáng thiêng liêng; sự tán dương thơ văn dĩ nhiên như là sự biểu lộ của
loài người trong sự điều hòa thiêng liêng. Hình thức tôn vinh tự đóng khung một
cách tự nhiên trong những quan niệm căn bản của một tôn giáo mới, mà chưa đầy
10 năm đã tập hợp được gần một triệu tín đồ.
Ở Ba lê, vào cuối năm 1931, tôi có quen biết một
sinh viên Nam Vang, theo học Văn khoa tại Đại học Sorbonne. Cậu là một tín đồ
Cao Đài. Cậu cho tôi biết rằng :
" Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nghĩa chính xác là
Đạo Cao Đài, được thành lập vào tháng 11 năm 1925 và phô bày một sự tổng hợp ba
tôn giáo lớn ở Đông phương : Phật giáo, Khổng giáo và Lão giáo, hợp với Thiên
Chúa giáo và Thần giáo, tượng trưng Ngũ
Chi Đại Đạo mà Đấng Cao Đài (Thượng Đế) mở ra cho nhơn loại để phát triển và
tiến hóa tâm linh. Như người ta thấy, Hồi giáo không có chỗ đứng trong các con
đường dẫn tới Đấng Tối Cao. Trái lại, Đức Chúa Jésus Christ được tín đồ Cao Đài
xem là Sứ giả của Thượng Đế, giáng trần để hướng dẫn một phần nhơn loại vào con
đường tu hành, con đường tương xứng với khả năng hiểu biết những giá trị tâm
linh.
" Với ý thức tôn kính sâu xa, cậu sinh viên
trẻ tuổi Đông Dương ấy gọi tên Đấng Christ với sự vâng phục, cậu nói với tôi về
nghi lễ của Thiên Chúa giáo mà cậu biết cái ý nghĩa huyền bí, đối với tôi, tôi
thú thật, là bài học cao nhứt, hiệu quả nhứt về sự dung thứ, đồng thời là một
gương mẫu của tình huynh đệ chơn thật dâng lên Đấng Tối Cao, nơi đó sự khác
nhau của các danh từ mà người đời cầu nguyện không làm thay đổi gương mặt luôn
luôn rực rỡ bác ái.
" Sau cùng cần gì phải biết một Đấng chơn linh
thực sự hay không là chơn linh của Fénelon ?
Khi mà chơn linh chỉ nói những điều tốt đẹp và nói như chính chơn linh
Fénelon, đó là một chơn linh tốt; dưới cái tên ấy, chơn linh tự làm cho biết
thì không quan hệ và thường chỉ là phương tiện để ấn định ý tưởng của chúng ta."
Allan
Kardec
Thuật
lại bởi René Sudre.
“ Hãy biết rằng tất cả mọi người đều biết qui tắc,
mục đích, đường đi của mình;
Rằng từ một ngôi sao đến một con mọt gạo, khoảng
không bao la tự lắng nghe;
Rằng tất cả đều có ý thức về sự sáng tạo;
Và lỗ tai có thể thấy,
Vì các vật và con người có một cuộc đối thoại lớn.”
Bóng Tối nói như thế.
Victor Hugo, Jersey, 1855.
Victor Hugo, khi còn sống là một người thực hành
Thần linh học, ông thông công bằng phương tiện là cái bàn và bởi chấp bút.
Ước muốn của ông là được giáng sanh để
biểu lộ cho những huynh đệ của ông biết về sự giáng sanh khi, chính ông, là
người đã thoát xác.
Do đó, những thông điệp của Hugo được nhìn nhận xác
thực dễ dàng hơn những thông điệp của Fénelon (để thuật lại ví dụ của Allan
Kardec) hay của tất cả chơn linh khác.
Hơn nữa, sự long trọng của thông điệp mà tôi sắp
trình bày nơi đây, là do phẩm tước cao cả của vị chất vấn thỉnh cầu để giúp cho sự xác thực.
Đây là thông điệp Thần linh học của Chơn linh
Victor Hugo hay Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trong một đàn cầu cơ ngày 20-4-1930 lúc 1
giờ sáng.
HỘ PHÁP : - Xin cho tôi hiểu nguyên thỉ của Thầy chúng
ta và quyền hành của người.
Chơn linh VICTOR HUGO đáp :
Hiểu cho đặng huyền vi khó nổi, (*)
Tra khuôn hồng tỏ mối không minh.
Theo tôi nghĩ
thế giới mình,
Ngoài ra còn có lắm hình càn khôn.
Nhiều thế khác biệt phân lớn nhỏ,
Sinh tồn loài vật
rõ y nhau.
Một ngôi nào đó nên cao,
Về thần hồn với về loài nhơn sanh.
Cũng có lúc giống mình như hệt,
Tấn hóa nâng khí phách nên hiền.
Máy trời đẹp vẻ thiên nhiên,
Vật loài đều hưởng trọn quyền Chí Linh.
Các địa quả thái bình an tịnh,
Cả chúng sanh dốt tánh
can qua.
* * *
Chú thích : Đức Hộ Pháp
hỏi Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (Victor Hugo) bằng tiếng Pháp, Ngài trả lời bằng
thi văn tiếng Pháp. Đức Hộ Pháp dịch lại bằng thi văn tiếng Việt. Bài dịch nầy
trích trong “Diễn văn và Thuyết đạo Đức Hộ Pháp, 1928-1940” trang 58-66.
Tương đối dứt, tuyệt
đối ra,
Chơn hồn tranh đấu về
khoa tánh lành.
Sanh chi cũng ngoan
minh cách trí,
Quyền linh hồn chủ quỉ
phàm tâm.
Thế hèn luật cũng không
cần,
Tương thân chỉ cậy nhờ phần
đức tin.
Cái chết bị tâm linh đánh bại,
Sống chết dường trái phải không phân.
Thương sanh truyền phép xa gần,
Hồn và người vốn Thánh Thần hiển nhiên.
Nhiều thế giới càn khôn ta có,
Sanh hoạt nầy quả cớ nên nhiều,
Địa cầu chừng đặng cao siêu,
Các Ngài rõ giá những điều phân phô.
HỘ PHÁP : - Chừng nào trái địa cầu nầy đặng hưởng điều
ấy ?
Thần linh dụng tiếng làm Ngài hiểu,
Cho tỏ tường phẩm hiệu dường bao.
Qua luyện tội Thánh cảnh vào,
Còn lâu nữa mới làm trào Phật Tiên.
Muốn biết đặng căn nguyên Từ Phụ,
Ở cùng người hoặc đủ hiểu Người.
Chẳng hồn nào quyết định lời,
Thích Ca thì cũng để lời phỏng ngôn.
Chớ coi trọng lời tôi bày tỏ,
Tôi thuật lời tưởng ngỡ như linh.
Tỷ như lúc trước Chí Linh,
Có sanh ở một cảnh hình càn khôn.
Người cũng đứng phẩm hồn hậu bổ,
Vật nên người, người trở nên Hiền.
Lần hồi lên phẩm thiêng liêng,
Khai Thiên người mới đoạt quyền Chí Linh.
Đã chịu lắm sinh sinh tử tử,
Đủ huyền linh làm chủ trí khôn.
Lại hay thâu phục chơn hồn,
Đặng làm Thần đệ vĩnh tồn triều nghi.
Đài Thiên cảnh vừa khi đặng lớn,
Dắt triều đình vào chốn không trung.
HỘ PHÁP: - Vậy chớ khi ấy Người đã có Thiên cung riêng
của Người rồi hay sao ?
Phải mỗi đứa riêng trong cảnh giái,
Của chúng ta tạo tại linh hồn.
Hồn, người, do bởi giác hồn,
Tạo nên cảnh giới cộng làm chánh chung.
Trong các Đấng lòng trung vẫn ít,
Phần đông do kẻ nghịch
oan khiên.
Tu chơn bỏ máy diệu
huyền,
Thì ta mở lối cảnh Thiên quỉ vào.
Quỉ vương hỏi nơi nào mà đến,
Cứ tầm chơn đừng đếm giả truyền,
Chắc do trong đám triều Thiên,
Chí Linh khó sửa cho tuyền Thánh tâm.
Ta hằng bị tình thâm phản nghịch,
Đố kỵ, cùng vui thích hại ta.
Hộ Pháp, tay Ngài tê quá thay là,
Đêm mai tôi tiếp nói qua việc nầy.
Lời ác cảm ngày nay còn tiếp,
Bây giờ đây cậy pháp danh Thầy.
Đừng lo kẻ dữ làm chi,
Biết khôn đó cũng có ngày ăn năn.
Tôi tiếp chuyện khai Thiên tôi nhận,
Cũng kỉnh phương học vấn của Ngài.
Chí Tôn tới chốn dạ đài,
Bình an phẳng lặng không loài động sanh.
Trong thứ khí không
danh mây nước,
Vật chất sanh ngủ ước
vô chừng.
Hào quang bao phủ mấy
vầng,
Vật không biến hóa, thú
ngừng không sanh.
HỘ PHÁP: - Thưa phải là hình ảnh của
nước
trong Sám truyền đạo Thánh đã có nói đó hay không ?
Phải thứ khí kêu danh thủy khí,
Đông đặc nhiều xem kỹ đứng đầu.
Rằng Trời mặt nước ngự chầu,
Thì là phải hiểu cao sâu thế nầy.
Chơn thần người dẫy đầy ánh sáng,
Lấy dương quang ấp đảng vô năng,
Sanh lằn hỏa khí bao giăng,
Âm Dương tương khắc nổ lằn Thiên thinh.
Thái Cực nở với hình nguơn thủy,
Hai quyền năng dục khí hóa cơ.
Vật tiêu hóa khí, khí nhơ,
Tiêu thành nguơn khí bấy giờ sanh quang.
Khí sanh quang ấy toàn linh cảm,
Định linh hồn chết sống nơi tay.
Dị thường sanh hóa rất hay,
Sau nầy ta cũng thấy hoài huyền linh.
Vật chi tại tài tình Sư Phụ,
Ta không phương hiểu thấu cho cùng.
Lửa Thái Cực lớn vô chừng,
Rảy cùng thế giới muôn trùng hỏa tinh.
Phân phát quá rồi hình phải tuyệt,
Cùng càn khôn rảy riết không ngằn.
Hỏa tinh lớn hóa nhựt quang,
Nhựt tinh nguội lập cả hàng thế gian.
Nơi nào ánh linh quang chiếu diệu,
Vạn vật toàn đại tiểu đều thông.
Chí Linh tánh đức bao trùm,
Hữu sanh ai cũng do cùng Nhứt Linh.
Các nguơn khí ánh linh chiếu thấu,
Chi trược ngưng thứ xấu biến thạch hình.
Thổ, mộc, thú, nhơn, vạn linh,
Bán thanh sanh khí, thanh thành hạo nhiên.
Khối linh cảm ban tuyền vạn loại,
Tùy theo hàng phẩm thảy vừa chừng,
Hồn linh sanh hưởng hồng ân,
Còn bên thể phách về phần sanh quang.
Ngài đủ rõ hành tàng sót lại,
Tới đây tôi đành phải ngưng văn.
HỘ PHÁP: - Kiếu lỗi Ngài, nhưng quả mọi việc đều do
nơi Sư Phụ thì tức nhiên nó phải tận thiện tận mỹ mới phải, cớ sao chúng tôi
lại còn thấy đặng nhiều điều sai sót của cơ Tạo hóa vậy ?
- Những điều
chi sơ sót gọi rằng,
Hoặc khi tôi có cớ bằng giải khuyên.
HỘ PHÁP : - Sự hung ác và sự vô ích của cả loài
người loài vật và thảo mộc. Cái tánh đức của vạn loại khó lấy trí khôn người mà
định khen cho đặng.
Không vô ích dữ hiền mặt thế,
Sống phải toan kiếm kế nuôi thân.
Chí Tôn con cái đều cần,
Lòng thương kia phải dành phần lợi sanh.
Cho tấn hóa, người hành đau thảm,
Người phải cho mô phạm bảo thân.
Dưới đời mấy mặt hiền nhân,
Với ta gọi dữ họ cần ích riêng.
Sao đặng tiếng Thánh hiền các Đấng,
Sử nhơn gian nào chứng chép ghi.
Đấu tranh mạnh yếu thường khi,
Xem ra thấy mạnh cũng thì phần hơn.
Lẽ mạnh yếu thiệt hơn chiến đấu,
Nâng trí mưu cơ xảo nên hay.
Cảnh phàm tương đối là đây,
Dữ, vô dụng, ấy là lời bia danh.
Nơi hoàn võ cá nhân có chỗ,
Các Trời kia lớp ngõ học đường.
Càn khôn thế giới là trường,
Chư hồn đến học cho thường mới hay.
Kẻ nào nhẫng bỏ bài trốn mãi,
Không đặng
lên, học lại bài xưa.
Các hồn ai cũng mến ưa,
Sách thiêng liêng đọc mấy tờ vĩnh sanh.
Ai cũng ước công thành danh toại,
Phải nhiều thời nhiều phép nhiều kinh.
Vật hèn tới phẩm tối linh,
Con đường đi biết mấy nghìn thời gian.
Chung cuộc hiểu hành tàng ta đã,
Sau mới tường căn quả Chí Linh.
Biệt phân đẳng cấp tánh linh,
Là phương dành để cho mình sánh cân.
Trong học thức Ngài cần quảng đại,
Phân tánh người tùy cái tài ba.
Đem người phàm tánh cho
ra,
Ngoài vòng Thánh chất,
chánh tà phân minh.
Lấy gương tốt để dành
Hội Thánh,
Năng dạy khuyên các nhánh bất trung.
Đừng thèm ghét kẻ gian hùng,
Coi phần hồn trọng độ giùm là hay.
Cứ thương mãi đặng cho nhơn loại,
Chơn lý kia cạn giải đôi lời :
TỪ BI BÁC ÁI
và TRỜI.
HỘ PHÁP: - Cha và Thầy khác nhau. Tại sao Đại Từ
Phụ cũng xưng là Thầy ?
Người cũng vẫn Cha Thầy luôn một,
Cả chơn linh hài cốt tay Người.
Nuôi mình dùng vật thanh tươi,
Tạo hồn lấy phép tột vời Chí Linh.
Nơi Người vốn quang minh cách trí,
Tấn hóa hồn phép quí không ngưng.
Vật hèn trước mắt thành trân,
Hồn hèn Người lại dành phần Phật Tiên.
Luật thương yêu, quyền là ngay chánh,
Gần thiện căn xa lánh phàm tâm.
Làm Cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Thiên.
THẾ
NÀO LÀ TÍN ĐỒ CAO ĐÀI ?
Trong tạp chí Religio, la Rivista di Studi
Religiosi, ông Mingiano viết :
Những tín đồ Cao Đài được phân làm hai hạng :
- Bực thứ nhứt (Thượng thừa) gồm tất cả Chức sắc từ
phẩm tột đỉnh (Giáo Tông) đến hạng thấp
nhứt là tín đồ mới vào tu, tất cả bị bắt buộc tuân theo chế độ ăn chay nghiêm
khắc, nghèo và thanh đạm (họ tự nuôi sống duy nhứt bằng rau cải và trái cây),
được xem xét gắt gao. Hội Thánh là nơi căn bản truyền thụ và gồm 7 cấp truyền
thụ : cấp cao nhứt là những anh lớn, có ưu thế tuyệt đối thông công với các sứ
giả của Thượng Đế, những chơn linh cao cấp của ánh sáng mà họ nhận được khí
lực, những lời giáo huấn và khuyên nhủ.
- Bực thứ nhì gồm khối đông đảo tín đồ, ngoài bổn
phận giữ gìn Ngũ giới cấm, họ còn phải khiêm tốn, thật thà, vâng phục quyền
hành bề trên mà họ trực thuộc và vâng lời Hội Thánh.
" Sự thờ cúng không chỉ bao gồm việc tụng
kinh chung, nơi đó, các tín đồ được cầu
nguyện trước một bàn thờ, trên đó đặt một quả cầu lớn trong suốt, trong đó đốt
một cái đèn tượng trưng ngọn lửa thiêng. Trên quả cầu ấy vẽ một hình tam giác
tượng trưng sự toàn hảo và sự tổng hợp các năng lực thiêng liêng, trong tam
giác là Thiên Nhãn.
Trong tôn giáo nầy, hai trạng thái mà tôi xem là cơ
bản nhứt :
"Thứ nhứt : để là một tín đồ Cao Đài, họ không
cần bày tỏ một đức tin nào, không cần liên hệ bởi một lời thề nào : Tự do tín
ngưỡng là tối thượng ở nơi đây. Sự giáo dục thấy được và phát triển, không có ý
bắt buộc các tín đồ, nhưng họ ưng thuận một cách tự do, sự gia nhập tự nhiên và
tự nguyện.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét