Lời Nói Đầu.
Khi đi sưu tầm tài liệu để tìm hiểu về MINH THIỆN
ĐÀN (MTĐ), chúng tôi gặp được 2 bạn:
- Lê
hoàng Ân, con của Ngài Hiền Nhơn Lê văn Trung,
- Đinh
công Khanh, con của Ngài Đinh công Trứ, Đốc Trường Qui Thiện,
Cho
chúng tôi mượn xem 2 Tập Thánh Giáo của MTĐ :
*
Tập thứ nhứt, khổ 17 x 22 cm , gồm 185 trang,
chữ viết tay, do Ông Sĩ Tải Hương của MTĐ,
chép tay, chép các Thánh giáo nơi
Minh Thiện Đàn và nơi Thảo Đường, bắt đầu từ ngày mùng 1-Giêng-Tân Mùi (dl
17-2-1931) cho đến ngày 22-4-Mậu Dần (dl 21-5-1938) [Xem thủ bút của Ông Sĩ Tải
Hương nơi trang sau]. (Chức Sĩ Tải của MTĐ là chức vụ Thư ký, chớ không phải là
phẩm SĨ TẢI của Bộ Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài).
Cổng sau của Khổ Hiền Trang
*
Tập thứ nhì, khổ 19 x 29 cm , gồm 181 trang,
chữ viết tay, do Ông Nguyễn hữu Ngàn (1921-1984) quê quán ở Mỹ An Phú tỉnh Tân
An, là em rễ của Ngài Đinh công Trứ, làm Đầu Phòng Văn của Ban Trị Sự Trí Giác
Cung, chép tay các Thánh giáo của Minh Thiện Đàn kể từ ngày 15-Giêng-Mậu Thìn
(dl 23-1-1928) cho đến ngày 6-11-Giáp Tuất (dl 12-12-1934) [Xem thủ bút của Ông
Ngàn nơi trang sau].
Đặc biệt trong 2 Tập Thánh giáo nầy, ngày tháng năm thì biên ngày âm
lịch, tháng âm lịch, còn năm thì theo dương lịch. Thí dụ như : Trong Tập Thánh
giáo thứ nhì chép là 30-2-29, chúng ta phải hiểu là : Ngày 30 âl tháng 2 âl năm
Kỷ Tỵ tương ứng với năm dl 1929. (tháng 2 dl không có ngày 30).
Nếu kết hợp 2 Tập Thánh giáo chép tay nầy :
-
Tập I chép Thánh giáo từ năm 1931 đến năm 1938,
-
Tập II chép Thánhgiáo từ năm 1928 đến năm 1934,
Chúng ta sẽ được một Quyển Thánh Giáo trong khoảng 11 năm từ năm 1928
đến năm 1938, tức là từ những ngày sơ khởi thành lập Minh Thiện Đàn ở Phú Mỹ
cho đến
khi Đức Phạm Hộ Pháp dùng Minh Thiện Đàn và Phạm
Môn làm nền tảng để thành lập Cơ Quan Phước Thiện, chánh thức được Quyền Vạn
Linh công nhận bằng Đạo Luật năm Mậâu Dần ngày
15-Giêng-Mậu Dần (dl 16-2-1938) và Đạo Nghị Định số 48 / PT của Đức Lý
Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp ký ngày 19-10-Mậu Dần (dl 10-12-1938).
Trong ý hướng bảo tồn và lưu truyền các lời Thánh ngôn quí báu dạy Đạo
của Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu, Tam Trấn Oai Nghiêm, và các Đấng Thiêng liêng khác,
cũng như hoài bão phát huy nền Giáo lý và Văn hóa Cao Đài, chúng tôi xin đánh
máy vi tính chép lại 2 Tập Thánh giáo Minh Thiện Đàn nói trên, phối hợp lại
theo thứ tự ngày tháng năm âm lịch, đối chiếu với ngày tháng năm dương lịch, để
làm thành một quyển duy nhứt Thánh giáo
MTĐ.
Nếu Quí bạn đạo nào còn lưu giữ Thánh giáo MTĐ khác với những bài trong
tập Thánh giáo nầy, xin vui lòng cho chúng tôi chép lại để bổ sung vào đây cho
thật đầy đủ. Đó là một điều rất quí báu lưu truyền cho các thế hệ sau.
Về Chánh tả, chúng tôi xin sử dụng Chánh tả tiếng Việt đương thời năm
1997.
Nếu có điều chi sơ sót là hoàn toàn ngoài ý muốn, mong quí bạn Đạo niệm
tình tha thứ vàsửa chữa bổ túc cho.
Tiếp sau đây, chúng tôi xin trình bày:
*
Lược sử thành lập Minh Thiện Đàn,
*
Tiểu sử Ngài Đinh công Trứ, Chủ Trưởng MTĐ.
*
Tiểu sử Ngài Lê văn Trung (Đồng Nghĩa Đường).
Hiền Tài Nguyễn văn Hồng
(25-12-1997.
âl 26-11-Đinh Sửu)
Thủ bút của ông Sĩ Tải HƯƠNG (Sẽ bổ túc sau)
Thủ bút của ông Nguyễn Hữu NGÀN (Sẽ bổ túc sau)
MINH THIỆN ĐÀN
Sau đây là Lược sử Thành lập Minh Thiện Đàn.
*
Năm 1927 (Đinh Mão), Đức Phạm Hộ Pháp và Ngài Bảo Văn Pháp Quân vâng lịnh Đức
Phật Mẫu, đi xuống làng Phú Mỹ, quận Châu Thành tỉnh Mỹ Tho, tìm đất lập một
Thánh Thất gọi là Thánh Thất Khổ Hiền Trang.
Thánh Thất nầy được giao cho Ông Giáo Hữu Thượng Minh Thanh làm chủ.
Đức Lý Giáo Tông giáng cơ cho bài thi khoán thủ 3 chữ “Khổ Hiền Trang“ để kỷ niệm :
KHỔ thà cam chịu chớ đừng than,
HIỀN hảo cùng nhau mới vẹn toàn.
TRANG điểm ngọc lành cho đáng giá,
Dồi mài chí thiện Thượng Minh Thanh.
* Ngày 14-10-Đinh Mão (dl 8-11-1927), Ông
Đinh công Trứ, nhà ở tại làng Phú Mỹ, chấp cơ, Đức Lý Giáo Tông giáng dạy lập
Minh Thiện Đàn tại nhà của Ông.
*
Ngày 15-7-Mậu Thìn (dl 29-8-1928), Ông Lê văn Trung, nhà cũng ở tại Phú Mỹ, gia
nhập Minh Thiện Đàn.
Hai Ông: Đinh công Trứ và Lê văn Trung được Đức Lý Giáo Tông dùng làm
cặp Phò loan chánh thức của Minh Thiện Đàn, và Đức Lý chỉ định Ông Đinh công
Trứ làm Chủ Trưởng Minh Thiện Đàn.
Bàn thờ Thánh Tượng Thầy bên trong Thông Thiên Đài
*
Ngày 3-Giêng-Kỷ Tỵ (12-2-1929), Đức Quan Thánh Đế Quân giáng cơ lập Đồng Nghĩa
Đường tại nhà Ông Lê văn Trung cho nhơn
sanh nhập vào Minh Thiện Đàn.
“Đồng Nghĩa Đường là để cầu xin cho cả Đạo hữu đặng tương thân tương ái
mà chấn hưng Minh Thiện Đàn.”
Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy : Minh Thiện Đàn tức là Qui Thiện, mà Qui
Thiện là Phạm Môn, nên phải hiệp với Đức
Hộ Pháp.
*
Ngày 25-2-Kỷ Tỵ (dl 4-4-1929), Ông Lê văn Trung từ Phú Mỹ đi lên Thủ Đức rước
Đức Hộ Pháp xuống Thánh Thất Khổ Hiền Trang ở Phú Mỹ, vì Đức Hộ Pháp đang lánh
nạn tại đây.
Bài thi cảm tác của Đức Hộ Pháp khi đi Thủ Đức lánh nạn :
Thắng
khổ người tu vẫn để lòng,
Vì
thua, Thủ Đức phải đành dông.
Buồn
chưa đứng đặng trên đầu rắn,
Vui
đã phân minh chí khí rồng.
Nào
kể vịt gà chê tiếng phụng,
Chỉ
phiền hồng hộc ghét đuôi công.
Mởû
kho giúp đói đây trề miệng,
Ta
quảy hồng ân rải giáp vòng.
Đức Lý Giáo Tông giáng cơ giao Minh Thiện Đàn cho Đức Hộ Pháp chưởng
quản.
Đức Hộ Pháp cho mời tất cả những người đã gia nhập Minh Thiện Đàn đến
Thánh Thất Khổ Hiền Trang để Đức Ngài hành pháp cân thần. Có tất cả 93 vị, Đức
Hộ Pháp cân thần lựa được 24 vị.
*
Đêm 28 rạng 29-2-Kỷ Tỵ (dl 7 rạng 8-4-1929), Đức Hộ Pháp cho gom gia đình của
tất cả 24 vị được chọn nói trên đến Thánh Thất Khổ Hiền Trang để lập Hồng thệ
thọ Đào Viên Pháp.
Sáng hôm sau, Đức Hộ Pháp đặng điện tín báo tin Đức Cao Thượng Phẩm ở
Thảo Xá Hiền Cung Tây Ninh bịnh rất nặng, Đức Ngài vội trở về Tòa Thánh.
Mặt tiền Thánh Thất Khổ Hiền Trang
mới, kế bên là Điện thờ Phật mẫu cũ
Theo tài liệu “Phạm Môn Sử lược
Hồi ký” của Đạo Nhơn Nguyễn đức Hòa thì danh sách lập Hồng thệ Đào viên
Pháp của Minh Thiện Đàn kỳ I chỉ có 23 vị, thiếu 1 vị, kể tên ra sau đây :
1 . PHAN VĂN MINH làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
2 . LÊ VĂN TRUNG làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
3 . HUỲNH VĂN PHUÔNG làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho..
4 . ĐINH CÔNG TRỨ làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
5 . TRẦN VĂN ĐĂNG làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
6 . TRẦN VĂN LỢI Lương
Hòa Lạc Mỹ Tho.
7 . NGUYỄN VĂN TẤN Lương
Hòa Lạc Mỹ Tho.
8. LÊ VĂN AN làng Phú Mỹ, tỉnh
Mỹ Tho.
9. TRẦN THAÏNH
MẬU làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ
Tho.
10 . NGUYỄN VĂN TƯƠI làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
11 . LÊ CẢNH PHƯỚC làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
12 . HỒ VĂN HUYỆN làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
13 . LÊ VĂN NINH làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
14 . NGUYỄN VĂN SOI làng
Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
15 . DƯƠNG VĂN HIỆP Hưng
Thạnh Mỹ Mỹ Tho.
16 . NGUYỄN VĂN HẬU Lương
Hòa Mỹ Tho.
17 . NGUYỄN VĂN VÀNG Đạo
Ngạn Mỹ Tho.
18 . PHAN VĂN HUỠN An Hữu Mỹ Tho.
19 . HỒ VĂN CỬU Tân Hòa Thành Mỹ Tho.
20 . ĐỖ VĂN PHÒ Tân Hòa Thành Mỹ Tho.
21 . UNG VĂN LƯNG Tân Hòa Thành Mỹ Tho.
22 . NGUYỄN VĂN SÙNG làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho.
23 . LÊ VĂN DƯƠNG Tân Hòa Thành Mỹ Tho.
* Ngày 10-6-Kỷ Tỵ (dl 16-7-1929),
Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông, Giáo
Sư Latapie đến Thánh Thất Khổ Hiền Trang
Phú Mỹ lần thứ nhì. Đức Hộ Pháp hành pháp liên tiếp 3 đêm, cân thần cho 647 vị
Minh Thiện Đàn, chọn được 48 vị, còn lại bao nhiêu, Đức Ngài dạy lo làm âm chất
thêm thì mới đủ điểm cân thần.
Tổng cộng 2 lần cân thần các vị
Minh Thiện Đàn tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang ở Phú Mỹ, Đức Hộ Pháp lựa được :
24 + 48 = 72 vị.
Sau ngày 15-7-Kỷ Tỵ, Đức Quyền Giáo
Tông và Đức Hộ Pháp chứng giấy thông hành cho 72 vị Minh Thiện Đàn nầy đi hành
thiện, làm chức Tín đồ, đi xem công quả hành đạo ở các tỉnh : Mỹ Tho, Bạc Liêu,
Rạch Giá, Sóc Trăng, vv... Tờ nầy số 12 đề ngày 15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931 ). Ông Đinh công Trứ và
Ông Lê văn Trung phải đi lưu hành, 70 vị còn lại chỉ thi hành phận sự ở địa
phương mình.
Nhờ kỳ đi hành thiện nầy, số Đạo
Hữu ký tên theo về Tòa Thánh Tây Ninh (không theo Chi phái) rất đông, được
17.400 vị ở các tỉnh miền Tây.
* Ngày 15-Giêng-Canh Ngọ (dl
13-2-1930), Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp ban Huấn Lịnh cho Minh Thiện Đàn
4 chữ : TRUNG - NGHĨA - TRÍ - DÕN , và dạy 72 vị đã được chọn trong 2 kỳ cân
thần hãy về Tòa Thánh, hiệp cùng các vị trong Phạm Môn để tạo lập cơ sở, những
vị còn lại thì được khuyến khích tiếp tục ở tại địa phương mình để lo lập công
quả thêm.
* Ngày 29-2-Canh Ngọ (dl
28-3-1930), Đức Hộ Pháp đến Phú Mỹ với 2 vị Nữ phái và 4 vị Nam phái: Ông Tri,
Chiêu, Lư, và Lễ Sanh Thái Chia Thanh, để hiệp cùng với quí vị trong Minh Thiện Đàn
đi lấy phép ếm Long Tuyền Kiếm của người Tàu, ếm gần Sở Thảo Đường, do Bát
Nương mách bảo.
*
Ngày 30-6-Tân Mùi (dl 13-8-1931), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ lập 12 người đệ tử
Minh Thiện Đàn để kiểm soát Thánh giáo, gồm các Ông: PHƯỚC, TIẾT, KỲ, DUƠN, AN,
PHUÔNG, GIAO, MẬU, PHÒ, CHÁNH, PHÚ, (còn thiếu 1 vị vì chưa có ai xứng đáng, để
lựa sau).
1 . Lê cảnh Phước 7 . Trang văn Giao
2
. Lê văn Tiết 8 . Trần thạnh
Mậu
3
. Triệu văn Kỳ 9 . Đỗ
văn Phò
4
. Phan văn Duơn 10 .
Nguyễn văn Chánh
5
. Lê văn An 11 . Cao văn Phú
6 . Huỳnh văn Phuông
(Xem Thánh giáo Minh
Thiện Đàng trang 123).
* Ngày 23-4-Nhâm Thân (dl 28-5-1932 ), Đức Lý Giáo Tông
giáng dạy lập Luật Điều Chánh Pháp cho Minh Thiện Đàn. Đức Lý còn dạy lập 36
Ty, mỗi Ty có 12 Sở Lương Điền Công Nghệ trong các tỉnh Long Xuyên, Châu
Đốc, Mỹ Tho, Tân An, vv. (Xem Thánh giáo trang 148, 162)
*
Ngày 24-10-Nhâm Thân (dl 21-11-1932), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ tuyển chọn 12
vị Minh Thiện Đàn lập thành Ban Kiểm Duợt với trách nhậm như sau : (Trang 177)
- PHƯỚC, PHÒ, PHÚ, MẬU: Cai quản phần thuyết Thánh
giáo và các việc văn phòng.
- KỲ,
CHƯƠNG, NINH, CHÁNH: Cai quản Lương viện và Hộ viện.
- AN,
PHUÔNG, GIAO, DUƠN: Cai quản phần Công, Thương, Nông, Nghệ.
Sau đây là họ và tên của 12 vị Kiểm Duợt kể trên :
1
. Lê cảnh Phước 7 . Lê văn Ninh
2
. Đỗ văn Phò 8 . Nguyễn văn Chánh
3 . Cao văn
Phú 9 . Lê văn An
4 . Trần thạnh Mậu 10 . Huỳnh văn Phuông
5 . Triệu văn Kỳ 11 . Trang văn Giao
6 . Phan văn Chương 12 . Phan văn Duơn.
Trong thời gian nầy thì tại Tòa
Thánh Tây Ninh, Đức Hộ Pháp khởi lập Phạm Môn vào năm Canh Ngọ (1930) mà cơ sở Phạm Môn đầu
tiên là Phạm Nghiệp.
Ngày 3-Giêng-Nhâm Thân (dl 8-2-1932), Đức Hộ Pháp làm lễ Hồng thệ chấm
thọ Đào viên Pháp tại cơ sở Phạm Môn ở Trường Hòa, Đức Ngài cân thần lựa được
67 vị, Ông Lê văn Tri xin thêm 5 vị nữa cho đủ số 72 và được Đức Ngài chấp
thuận.
Năm 1933 (Quí Dậu), nhà cầm quyền Pháp ra lịnh đóng cửa Phạm Môn.
Qua năm 1935 (Ất Hợi), Đức Hộ Pháp biến tướng thành trăm ngàn cơ sở
Phước Thiện, đi khai mở cùng khắp trong các tỉnh Nam Kỳ, hình thành Cơ Quan
Phước Thiện.
*
Ngày 15-10-Ất Hợi, (dl 10-11-1935), Ông Lê văn Trung đắc phong Lễ Sanh Giáo
Thiện, và năm Đinh Sửu (1937), Ông được Đức Hộ Pháp bổ đi làm Đầu Họ Phước
Thiện ở Gia Định.
*
Năm Bính Tý (1936), Ông Đinh công Trứ đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện, được Đức Hộ
Pháp bổ đi làm Đầu Họ Phước Thiện Long Xuyên.
*
Năm Mậu Dần (1938), Cơ Quan Phước Thiện do Đức Hộ Pháp lập ra được Quyền Vạn
Linh công nhận với Đạo Luật năm Mậu Dần có giá trị thi hành kể từ ngày
15-Giêng-Mậu Dần (dl 16-2-1938) và Đạo Nghị Định số 48/ PT ngày 19-10-Mậu Dần
(dl 10-12-1938) do Đức Lý Giáo Tông và Đức Phạm Hộ Pháp đồng ký tên.
Do đó, kể từ cuối năm Mậu Dần (1938), Phạm Môn và MTĐ coi như giải thể
để Đức Hộ Pháp dùng thành lập C.Q.Phước Thiện.
nhãn từ Thánh thất cũ được
đem qua thờ ở Thánh thất mới
Sơ
lược Tiểu sử
Ông
ĐINH CÔNG TRỨ
Ông Đinh công Trứ sanh năm Quí
Mão (1903) tại làng Phú Mỹ quận Châu Thành tỉnh Mỹ Tho.
Năm 1927, Ông nhập môn vào Đạo Cao Đài.
Ngày 14-10-Đinh Mão (dl 8-11-1927), Ông Đinh công Trứ, nhà tại Phú Mỹ,
chấp cơ, được Đức Lý Giáo Tông giáng dạy lập MINH THIỆN ĐÀN tại nhà Ông. Sau
đó, Ông và Ông Lê văn Trung được Đức Lý Giáo Tông xử dụng làm cặp Phò loan
chánh thức tiếp nhận các Thánh giáo của các Đấng Thiêng liêng tại Minh Thiện
Đàn.
Ngày 28-2-Kỷ Tỵ (dl 7-4-1929), Ông
được Đức Hộ Pháp chấm thọ Đào viên Pháp tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ,
cùng một lượt với 23 vị nữa trong Minh Thiên Đàn.
Ngày 15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931), Ông và Ông Lê văn Trung được Đức Quyền
Giáo Tông và Đức Hộ Pháp chứng Giấy Thông Hành đi châu lưu hành thiện nơi các
tỉnh : Mỹ Tho, Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Sađec, vv...
Năm 1936 (Bính Tý), Ông đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện, được Đức Hộ Pháp
bổ đi làm Đầu Họ Phước Thiện Long Xuyên.
Năm 1938 (Mậu Dần), Ông được đổi về làm Đầu Họ Phước Thiện Tây Ninh.
Năm 1939 (Kỷ Mão), Ông lãnh lịnh tạm quyền Thủ bổn Phạm Môn.
Năm 1940 (Canh Thìn), Ông lãnh phận sự coi Khách Thiện Đường tại Tòa
Thánh.
Năm 1943 (Quí Mùi), Ông bị nhà cầm
quyền Nhựt Bổn bắt giam ở Sàigòn, thời
gian 5 tháng 10 ngày.
Ngày 26-9-Quí Mùi (dl 24-10-1943), Ông Đinh công Trứ qui tụ một số anh
em trong Minh Thiện Đàn từ Phú Mỹ (Mỹ Tho) lên Tòa Thánh khẩn đất ở Bàu Sen
làng Trường Hòa, xây dựng TRƯỜNG QUI THIỆN để làm nơi tiếp tục tu hành, và Ông
trở thành Chủ Trường Qui Thiện.
Ngày 19-2-Bính Tuất (dl 22-3-1946), giữa phong trào Pháp và Việt Minh
tương tranh, Ông đi qui tụ anh em về Trường QuiThiện dưới ngọn Bạch kỳ Nhan
Uyên, Ông bị quân đội Pháp bắt vì nghi ngờ Ông theo Việt Minh, định đem ra xử
bắn, may nhờ hồng phước của Đức Chí Tôn, có người cứu kịp, nên Ông thoát chết.
Ông trở về Trường Qui Thiện, kiến tạo Điện Thờ Phật Mẫu (một ngôi thờ Phật Mẫu
đầu tiên của Đạo Cao Đài) tại Trường Qui Thiện.
Trong dịp Đức Hộ Pháp xuống chứng lễ Khánh Thành Điện Thờ Phật Mẫu Qui
Thiện, ngày 16-7-Mậu Tý (dl 20-8-1948), Đức Hộ Pháp đổi từ ngữ Chủ Trường
QuiThiện thành Đốc Trường Qui Thiện.
Ngày 25-5-Kỷ Sửu (dl 21-6-1949), lúc 10 giờ
đêm, Ông Đốc Trường Đinh công Trứ bị kẻ nghịch ám sát chết, Ông hưởng được 47
tuổi.
Khi còn ở Minh Thiện Đàn, Đức Lý Giáo Tông ban cho Ông Đạo hiệu là :
Hoằng Nhựt Tăng Đạo sĩ.
Sau khi Ông qui vị, Đức Hộ Pháp ban tặng cho Ông là : Hoằng Thông Tăng
Đạo sĩ.
Sơ lược Tiểu sử
Ông LÊ VĂN TRUNG
Ông Lê văn Trung sanh năm Nhâm Dần
(1902), tại làng Phú Mỹ quận Châu Thành tỉnh Mỹ Tho.
Ông nhập môn vào Đạo Cao Đài ngày
26-5-Đinh Mão (dl 25-6-1927 ) tại Thánh
Thất Khổ Hiền Trang, làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho.
Ngày 15-7-Mậu Thìn (dl 29-8-1928),
Ông gia nhập Minh Thiện Đàn tại nhà Ông Đinh công Trứ, cũng ở tại làng Phú Mỹ.
Sau đó, Ông và Ông Đinh công Trứ được Đức Lý Giáo Tông sử dụng làm cặp Phò loan
chánh thức của Minh Thiện Đàn để tiếp
nhận các Thánh giáo của các Đấng Thiêng liêng bằng cơ bút.
Ngày 3-Giêng-Kỷ Tỵ (dl 12-2-1929), Đức Quan Thánh Đế Quân giáng cơ lập
ĐỒNG NGHĨA ĐƯỜNG tại nhà Ông Lê văn Trung để cho nhơn sanh nhập vào Minh Thiện
Đàn.
Ngày 28-2-Kỷ Tỵ (dl 7-4-1929), Ông được Đức Hộ Pháp cân thần chấm thọ
Đào viên Pháp tại Thánh Thất Khổ Hiền Trang, Phú Mỹ, cùng một lượt với Ông Đinh
công Trứ và 22 vị Minh Thiện Đàn khác.
Ngày
15-11-Tân Mùi (dl 23-12-1931), Ông và Ông Đinh công Trứ được Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp chứng
Giấy Thông Hành đi châu lưu hành thiện nơi các tỉnh : Mỹ Tho, Rạch giá, Long
Xuyên, Bạc Liêu, vv...
Ngày 15-10-Ất Hợi (dl 10-11-1935), Ông đắc phong Lễ Sanh Giáo Thiện.
Năm 1937 (Đinh Sửu), Ông lãnh lịnh đi Đầu Họ Phước Thiện Gia Định.
Ngày 4-10-Kỷ Mão (dl 14-11-1939), Ông lãnh phận sự Thủ bổn Hiệp Thiên
Đài.
Năm 1946 (Bính Tuất), Ông cầu thăng lên phẩm Chí Thiện, đắc lịnh làm
Khâm Châu Đạo Phước Thiện Sài gòn.
Khi Ông Đinh công Trứ, Đốc Trường Qui Thiện, qui vị ngày 25-5-Kỷ Sửu,
Ông được Đức Hộ Pháp cử xuống làm Đốc Trường Qui Thiện thay chỗ Ông Trứ, để ổn
định công việc nơi đây.
Năm
1956 (Bính Thân), đắc phong phẩm Đạo Nhơn.
Năm 1960 (Canh Tý), đắc phong phẩm Chơn Nhơn.
Năm 1961 (Tân Sửu), lãnh phận sự Cố Vấn Phước Thiện kiêm Quản Văn phòng Khai Đạo HTĐ.
Năm 1962 (Nhâm Dần), lãnh phận sự Tổng Quản Văn phòng Tiếp Pháp, Thống
quản Tam vụ : Hòa, Lại, Lễ.
Năm 1964 (Giáp Thìn), làm Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện thay thế Chơn
Nhơn Nguyễn văn Phú.
Ngày 1-12-Nhâm Tý (dl 4-1-1973), Thánh giáo tại Cung Đạo, Đức Hộ Pháp
thăng Ông lên phẩm Hiền Nhơn, lãnh trách nhiệm Cố Vấn Hiệp Thiên Đài kiêm
Chưởng quản Cơ Quan Phước Thiện.
Ngày 17-Giêng-Bính Thìn (dl 16-2-1976), Ông qui vị, hưởng thọ 75 tuổi.
THÁNH
GIÁO tại MINH THIỆN ĐÀN
Làng
Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho
Phò Loan : Ông Đinh công Trứ - Ông Lê văn Trung
Ngày 15-1-Mậu Thìn (dl 6-2-1928)
ĐỨC NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
GIÁNG CHO TẠI TÒA THÁNH
THI :
Nguyệt chiếu minh thiên biến
Quảng Hàn,
Tâm thành cửu kiếp ngộ linh phan.
Chơn
truyền thủ đắc huyền vi pháp,
Nhơn phẩm tự tư đắc địa hoàn.
Ngày 1-2-Mậu Thìn (dl 21-2-1928)
Đức LÝ ĐẠI TIÊN
giáng đàn
HỌA VẬN :
Nguyệt
lãng Trung Thu chiếu Quảng Hàn,
Tâm như
Công Diễn ngộ hồng phan.
Chơn
truyền diệu pháp thanh triều hóa,
Nhơn
cảnh Bồng Lai đắc tịnh nhàn.
Ngày 15-2-Mậu Thìn (dl 6-3-1928)
Ông Lê cảnh Phước làm bài thi xin lỗi Đức Lý Đại
Tiên :
Cúi
đầu xin lỗi với Tiên Ông,
Đệ
tử vì nghi xác chửa thông.
Mắt
thịt khó xem huyền thiệt giả,
Tay
phàm lại nắm pháp hư không.
Tấm
lòng nay choán tin mùi Đạo,
Cái miệng gìn theo tiếng nói công.
Chẳng phải Thuấn Nghiêu mà tận thiện,
Xin Ngài miễn chấp, thứ bao dung.
Đức LÝ ĐẠI TIÊN giáng :
Cầu Ta, Ta phải giáng đàn tiền,
Học hỏi chuyện chi Lão chỉ
truyền.
Chư sĩ
biết Ta là Thái Bạch,
Thương
bây nên cực cũng không phiền.
Phước
! Bài thi xin lỗi của đệ tử đặng lắm đa !
THI :
Hay
hay tài học cũng là hay,
Khuyên
đó tài trai mới đáng tài.
Vậy chớ năm xưa trò học hỏi,
Ai mà
chỉ dạy đặng mau hay ?
* * *
Di
Hưu tài học cũng là cao,
Nên
nó dạy trò mới đặng mau.
Thi
đó khá làm cho nhậm lẹ,
Rồi Ta họa lại thiệt là cao.
Lê cảnh Phước xuất ngoại họa
nguyên vận dâng lên :
Học
hỏi của trò chẳng mấy cao,
Xin
Ngài chỉ dạy tứ thông mau.
Một
bước một dò trông tới bực,
Cơ
linh càng luyện lại càng cao.
Đức LÝ ĐẠI TIÊN họa :
Tiên
Ông ngồi ngự ở trên cao,
Học
Đạo truyền cho mới đặng mau.
Bước
một làm sao mà rõ thấu,
Học
rồi chỉ dạy thiệt là cao.
Hựu :
Cơ linh
diệu Đạo luyện càng cao,
Lão
thiệt thương trò chỉ biết mau.
Phải
ráng trau giồi lo học Đạo,
Rồi sau Ta độ phẩm ngôi cao.
Thăng
Ngày 1-3-Mậu Thìn (dl 20-4-1928)
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ Giáo Đạo
Nam phương
THI :
Cao Đài
Lý trích ngự đàn
tiền,
Môn
đệ tâm thành khả thính Thiên.
Mạc nại
công phu tu thọ khổ,
Thánh Tiên Phật giáo mật cơ truyền.
Thăng
Đức LÝ ĐẠI TIÊN tiếp đàn :
Lý
Tiên ngự tại tiền,
Hối
TRỨ phải về liền,
Hết
lòng mà cầu nguyện,
Chầu
chực rước quần Tiên.
Thăng
Lập đàn tái cầu Đức Lý Đại Tiên :
-
Ta nói cho các đệ tử rõ, ngự trên thì có Đức Chí Tôn, dưới thì Quan Âm, Quan
Thánh , cùng Ta.
THI :
Thanh thanh y chẩm khâm,
Du du tú cẩm tâm,
Khẩu biện tán nho lâm,
Thiên cơ Ngã thức thâm.
Lê cảnh Phước dâng thi hỏi bịnh :
Kế
thất bịnh truyền khâm,
Đệ
tử nguyện thành tâm,
Thỉnh
vấn Tiên Ông biện,
Chiêu
lai tật khinh thâm ?
Đức LÝ ĐẠI TIÊN họa :
Thử
bịnh bất ngọa thâm,
Thiên đạo
đản tồn tâm,
Nguyện
ngôn ngô bất tố,
Nhữ
mạt vận khinh thâm.
-
Nầy Đao hữu ! Đạo hữu há chẳng thấy oai linh của Thầy sao ? Thuốc tại Thiên bàn chẳng phải xa, không tin
Tiên đạo để lo hốt thuốc phàm, mỗi mỗi bịnh ngày nay đều là bịnh Thiên tứ, nói
cho bấy nhiêu đó rõ. Ta thăng.
Ngày 15-3-Mậu Thìn
(dl 4-5-1928)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương
THI :
Nay
Thầy giáng thế nói con tường,
Đạo
đức của trò cũng khá thương.
Tua
khá gắng công mà học Đạo,
Ngày
sau rõ đặng máy huyền thương.
LÝ ĐẠI TIÊN giáng đàn :
Ta
nay bác sĩ sách quần Nho,
Khổng
Thánh ôn nhuần đủ các pho.
Nay
dựng Tiên Thiên, Ta chưởng quản,
Hạ
nguơn đả tật ráng công lo.
Đạo
hữu có biết Bần đạo không ?
Thăng.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương
Thầy miễn lễ cho các con. Các con hiểu việc Đạo của Thầy, thì cũng nhiều
khi Thần, Thánh, Tiên, Phật đã nói cho các con hiểu rồi, còn hỏi gì nữa.
THI :
Cao
Đài Thượng Đế giáo Nam phương,
Dạy
dỗ các con đã tận tường.
Phải
ráng tranh nhau vào phẩm vị,
Chớ
đừng lửng đửng gặp tai ương.
Thầy mừng các con, có Quan Thánh tiếp đàn.
Thầy thăng.
Tiếp đàn :
TIẾT
! Xuân thu tu nghĩa khí,
Vạn
tải thọ đình danh.
Kim
nhựt Thiên tào soái,
Xuất
thế đấu tương tranh.
*
Hớn trào
xuất thế Đế oai vang,
Nay
xuống Nam bang đặng giải nàn.
Vì
bởi cơ Trời đà định lại,
Cho
nên mới có cuộc tân toan.
*
Tân
toan đổi cuộc thế còn mê,
Biển
khổ không qua đặng trở về.
Vì bởi lăng xăng danh với lợi,
Trách thay cho thế rất nên mê.
*
Mê mê nên mới
trái Thiên cơ,
Tiên
đạo không tu để hững hờ.
Rốt
cuộc chê bai sau lòn cúi,
Chừng
ấy tỉnh rồi chúng bỏ ngơ.
Ta
thăng.
CAO
ĐÀI THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương
THI :
Thầy
khuyên các trẻ phải đồng tâm,
Đạo
đức sâu xa ráng kiếm tầm.
Chớ
có nghi ngờ rằng không có,
Mà
lòng xao lãng tưởng trăm năm.
*
Cao
thượng Huỳnh cung đã ngự rồi,
Hạ
mình cứu thế các con ôi !
Bao
giờ cho đặng hồi tâm trẻ,
Thầy
độ ngôi xưa trở lại ngồi.
*
Hồng phan Cực lạc chiếu đòi nơi,
Đệ
tử tâm thành đặng thảnh thơi.
Phải
ráng chí công mà học tập,
Ngày
sau Phật độ sướng trên đời.
Thăng
DIÊU TRÌ KIM MẪU giáng đàn :
Diêu
Trì Thánh Mẫu giáng đàn tiền,
Đệ
tử tâm thành ngộ hữu duyên.
Tu khả tận tâm ban ban chỉnh,
Tuân hành giáo ngữ bái Quần Tiên.
*
Tố Nga hộ giá Thánh Diêu Trì,
Xưng tánh các trò đặng thức tri.
Tả phụ Phu nhơn duy tố tánh,
Danh là Công chúa Ngã Tây Thi.
*
Hữu bật theo hầu hộ Thánh cung,
Nương cơ Ta cũng xuống thi
cùng.
Đạo
hữu đừng chê tài học siển,
Cầu
vui nên mới ghé ngồi chung.
Thăng
QUAN ÂM BỒ TÁT
giáng đàn :
Đệ
tử nghe Thầy đã phán ra,
Sau
nầy phải nhớ mấy lời Ta.
Chớ
có u ơ mà lấp lửng,
Rồi
sau khó đến chốn Thiên ba.
Thăng
LÝ ĐẠI TIÊN giáng đàn
:
Thấy
trò Chức sắc của Thiên phong,
Bằng
chẳng Ta trừng phạt chớ mong.
Chớ
có lửng lơ mà phóng tánh,
Phải
gìn Trung Liệt, giữ lòng
trong.
*
Lễ Sanh phái Thượng mặc đồ xanh,
Phải
ráng sửa lòng đặng chữ thanh.
Chớ
để bơ thờ mà mất tánh,
Ráng
công Tu Luyện hưởng mùi thanh.
Ta thăng.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
giáo đạo Nam phương
THI :
Việc
đời càng thảm lại càng lo,
Đạo
đức khuyên con phải ráng mò.
Thấy
cuộc tang thương buồn trẻ dại,
Nên
Thầy tá thế cứu nàn cho.
NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT giáng
:
Nhiên
Đăng Cổ Phật giáo từ đa,
Dục
đắc chơn truyền nguyện Thích Ca.
Nhựt
bất ly kinh vô thế sự,
Tây
phương đắc ngộ lạc như hà.
ĐỨC CHÍ TÔN giáng
:
Đưa
Thầy về tới chốn Thiên ba,
Đệ
tử thành tâm cúi lạy mà.
Bạch
Ngọc Huỳnh Cung Thầy ngự phán,
Lòng
thương con trẻ xót xa à !
*
Ngày
giờ gắp lắm các con ôi!
Cuộc
thế gần tàn chớ bỏ trôi.
Ráng
rút tranh đua qua tuổi trẻ,
Bền
lòng theo Lão dẫn về ngôi.
Thầy thăng.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương :
Cuộc
đời mầu nhiệm hiểu cho thâm,
Muốn
biết Thiên cơ phải kiếm tầm.
Cái
Hội Long Hoa đà trước mắt,
Các
con tưởng sống đặng trăm năm.
*
Thầy
thương đệ tử thiệt tâm thiền,
Phải
ráng sức tu luyện phép Tiên,
Chớ
có lửng lơ mà thối chí,
Rồi
sau đừng nói thất Chơn truyền.
QUAN ÂM BỒ TÁT giáng
đàn.
THI :
Bà
thương đệ tử có tâm thành,
Phải
ráng sức tu rõ tánh danh.
Chớ
có bơ thờ mà xao lãng,
Thời
sau đừng nói uổng công danh.
CAO
ĐÀI THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương :
Hỷ
hỷ cười mừng với các con,
Như
vầy MINH ĐẠO đặng vuông tròn.
Tam thập lục Thiên Thầy nắm trọn,
Ba
phần để lại, một phần con.
*
Minh minh chi đạo ẩn ư trung,
Tâm chánh hành chánh thị kỳ chơn
đạo giả dã.
Nhược hữu tâm thành kỳ thiện
nguyện,
Thiên
ứng vu tâm vạn sự minh.
Nhược
hữu nhơn tâm đa quái ngại,
Bất
minh bất thức thị tà tâm.
Tâm
tà nan kiến chơn huyền đạo,
Hữu
phước kim phùng Thánh giáo khai.
Ấn
lịnh Sư truyền qui Tam giáo.
Thánh,
Tiên, Phật giáo đạo hoằng khai.
Tín
ngưỡng tâm thành chi vị ngộ,
Trạch
kỳ đệ tử giảng Minh Kinh.
Thầy
cho tựa, để Tam Trấn cho kinh.
Thầy thăng.
QUAN ÂM BỒ TÁT giáng đàn :
Nam
mô A-Di-Đà Phật.
Kim
thừa Ngọc Đế giáng Minh Kinh,
Đạo
ẩn vô hình bất xú thinh.
Minh minh ư nội mạc hình thinh,
Dục đắc chơn hành tâm chánh đạo
Đạo kỳ phị vô đại, kỳ ẩn vô nội,
Phất văn phất kiến, bất tri bất thức,
Kỳ Đạo ư trung.
Đạo giả dã, tâm chi Đạo dã,
Ẩn ẩn ư tâm thị kỳ đại dã.
Nhi tâm bất chánh, vô luân, vô lý, bất tín bất trung,
Nhược nhơn bất ái bất kính,
nhơn chi phi hồ.
Nhược
hữu bảo tồn tâm sơ Thiên sở phú,
Nhơn
linh vạn vật dị phân thì,
Thị
hữu thị vô nan vị thức,
Thâu
tâm bất phóng thận Thiên tâm.
Thăng.
ĐỨC THÁI THƯỢNG ĐẠO TỔ
Tử
viết : Vi thiện giả Thiên báo chi dĩ phước,
Vi
bất thiện giả Thiên báo chi dĩ họa.
Vi
bất thiện giả, cố sở di bất lợi đạt vị chi ác.
Nhi
ác giả dã, nhơn bất sát chi, Thiên tất tru chi.
Vi
thiện tối lạc, kỳ Đạo thậm đại.
Thiện
giả dã kiết chi vị giả.
Vi
thuận Thiên giả chi thiện nhơn,
Nghịch
Thiên giả vị chi ác nhơn.
Hung
giả dã cập kỳ ương dã,
Nhược
nhi vi thiện giả, kỳ phước lai trăn dã.
Cổ
kim kỳ nghịch hồ.
Vi
thiện chi Đạo thậm đại,
Thiên
đạo Nhơn đạo kỳ tại hồ.
Đạo
giả dã xuất ư trung hồ.
Thiên
Địa thới giao khai hoằng Đạo,
Nhi
Đạo giả tại Thiên hồ.
Cô
kỳ sở đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội, thậm kỳ diệu hồ.
Đạo
xuất ư Thiên, Thiên khai Đạo giả dã,
Vi
Thánh giả kỳ trung giả, vi Tiên giả huyền giả,
Vi
Phật giả, chi từ giả, tam phẩm giả, dụng kỳ tâm dã.
Thăng
Tiếp
đàn: QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
Đế
Quân giáng thế đặt Minh Kinh,
Đệ
tử phải giồi cái đức tin.
Chớ
có ơ hờ mà nghi ngại,
Rồi
sau khó biết đặng phân minh.
*
Minh
Kinh truyền thế Đạo huyền linh,
Đệ
tử tâm thành ngộ thiện kinh.
Nhược
hữu tâm thành nhi phụng kỉnh,
Qui
Tiên, Phật, Thanh, giáo tâm minh.
*
Minh
Kinh dĩ giáo tận nhu hòa,
Thiện
ý tâm thành phước lộc đa.
Nhược hữu
phóng tâm hành ác sự,
Họa
ương cập chí hận như hà.
Thâu
tâm cố khả hành chơn chánh,
Bất
ách bất ương thị lạc a.
Kim
nhựt đắc truyền kỳ thiện Đạo,
Gia
công tu luyệ tịnh phong ba.
*
Giã
từ đệ tử lại Thiên cung,
Cầu
các Tiên Ông xuống dạy cùng.
Đệ
tử thành tâm minh nhựt hội,
Chỉnh
đàn giáng xuống tại trò TRUNG.
Thăng.
ĐỨC
QUAN THÁNH giáng đàn :
Đế
Quân xích thố dạo non Bồng,
Mời
các Tiên đồng giáng xuống đông.
Đệ
tử chỉnh đàn cho nghiêm nghị,
Chớ
đừng lấp lửng có nghe không ?
Thăng
Tiếp đàn: ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU
Diêu
Trì Thánh Mẫu nghỉ trong cung,
Quan
Đế cầu Ta xuống dạy cùng.
Đệ
tử tâm thành nên phải giáng,
Chớ không Bà nghỉ đặng thung dung.
*
Ớ các đệ tử !
Đạo
Thầy huyền diệu lắm bây ôi !
Đệ
tử siêng năng phải đắp bồi.
Chớ
có lửng lơ mà thối chí,
Ráng
công tu luyện đặng về ngôi.
Thăng
Tiếp đàn :
Tây
Cung Vương Mẫu giáng đàn tiền,
Quan Đế đi cầu các Thánh Tiên.
Ghé
trước mời Ta, Ta phải xuống,
Rồi
sau Tiên Phật xuống liền liền.
*
Rày
mừng đệ tử rất siêng năng,
Đạo
đức sâu xa biết mót cằn.
Phải
ráng hết lòng mà tín ngưỡng,
Chớ
đừng cười giỡn chạy lăng xăng.
Thăng
Tiếp đàn: LÝ THIÊN
VƯƠNG
Thiên
Vương giáng thế phụ Minh Kinh,
Đệ
tử tâm thành giáo giảng minh.
Tựu thứ phân ban đàn đại tịnh,
Văn
kỳ thiện ngữ thích Minh Kinh.
*
Minh
Kinh truyền thế Đạo huyền linh,
Bất
thức chơn hình bất kiến thinh.
Đệ
tử tâm thành đương đắc ẩn,
Miễn hành chơn đạo thị an ninh.
Thăng
Tiếp đàn: NA TRA THÁI TỬ
Na
Tra Thái Tử hộ Thiên Vương,
Giáng
bút nương cơ Đạo hữu tường.
Miễn
lực
tâm thành nhi tín ngưỡng,
Cơ
linh tự đắc pháp huyền thương.
Thăng
Tiếp đàn: QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
Lỗi lầm đệ tử cũng nhiều khi,
Nếu
bắt quì hương ắt trễ kỳ.
Hãy ráng
chỉnh đàn cho đại tịnh,
Ta đi cầu cứu tại Diêu Trì.
Thăng
Tiếp đàn:
Đế
Quân cầu khắp chốn non đài,
Tiên Phật lòng hờn
chẳng vãng lai.
Bởi vậy nên sai ta trở lại,
Nói cùng Đạo hữu các ngươi hay.
Ta là Thái Tử Quan Bình.
Thăng
Tư tưởng của dòng Thiền Thảo Đường là sự kết hợp giữa Nho và Phật, giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương
Ớ các con !
Thầy nói cho các con rõ, chuyện Minh Đạo để Thầy ấn lịnh truyền lại đã,
chớ bây giờ chưa nghị định Hội Vạn Tiên,
nên chưa cho. Ngày mai, tại nhà trò DUƠN, con
phải sửa sang chỉnh đàn cho nghiêm nghị, chớ có bơ thờ nữa đa nghe con.
Thăng.
Đức DIÊU TRÌ KIM
MẪU giáng đàn :
Diêu Trì
Cung nội nghỉ
vừa an,
Ngọc
Đế lịnh truyền chiếu chỉ sang.
Nên phải
xuống trần mà
dạy dỗ,
Bằng
không chiếu chỉ chẳng lai đàn.
Thăng
QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
từ đàn :
Đêm
khuya Tiên Thánh tạm lui đàn,
Từ giã các trò ở đặng an.
Mai sáng lai đàn cho Minh Đạo.
Y lời Thầy nói tại trò PHAN.
Ngày 20-3-Mậu
Thìn (dl 9-5-1928)
Đế Quân cầu khắp các non Tiên,
Ta xuống trước đây đặng dạy truyền .
Đệ
tử giữ đàn cho thật tịnh,
Các
Tiên đều giáng tại đàn tiền.
Thăng
Tây Cung Vương Mẫu giáng
lai đàn,
Đệ tử tâm thành lập tự
ban.
Tu khả thận tâm kỳ chí
kỉnh,
Tuân hành tiền hậu lập
ngiêm trang.
Thăng
TỐ NGA
Đêm thanh gió tịnh ở Cung
Hằng.
Quan Đế đến cầu phải xuống
săn.
Đạo hữu ráng gìn câu chí
kỉnh,
Chớ đừng lấp lửng lại nhăn
răng.
Trung Quân vương, Hiếu Phụ Mẫu, kỳ đạo chi đại.
Thăng.
Chỉnh
đàn Thầy dạy phải cho nghiêm,
Tiên
Thánh có đâu dễ kiếm tìm.
Đệ
tử không gìn nên mới lỗi,
Ngày
nay có biết ở đâu tìm.
Thăng
Ta
là Hộ Pháp giữ đàn tiền,
Có
phước nên cầu đặng Thánh Tiên.
Phải
ráng hết lòng mà tín ngưỡng,
Ngày
mai Tiên Thánh giáng liền liền.
Thăng
Đế Quân
trở lại nói bây hay,
Thôi hãy an lòng đợi bữa mai.
Phải
ráng chí thành mà cúng kỉnh,
Hội
chư Tiên Thánh xuống cho bài.
Thăng
Ngày 21-3-Mậu Thìn (dl 10-5-1928)
Đức QUAN THÁNH
Chờ đợi các trò
đã mỏn hơi,
Cầu
không cần cấp để chơi vơi.
Có
dặn mà sao còn đến trễ,
Hay
là sợ khó ý bây dời.
Đệ tử cầu Đức Quan Thánh
hựu tội.
Nói cho bây
biết lỡ ra rồi,
Minh
Đạo từ
đây chớ bỏ trôi.
Phải nhớ
mấy lời Ta dặn nhé,
Chớ
đừng xao lãng lại buông trôi.
Thăng
Thiên Bồng Nguyên Soái ở
Khôn cung,
Quan Thánh cầu ta xuống
giúp cùng.
Liếc mắt xem qua đàn chẳngchỉnh,
Vị lòng nên phải tạm ngồi
chung.
Minh Đạo giả Càn khôn chi Đại Đạo. Đạo giả kỳ chí thiện dã. Đạo giả kỳ
trung hiếu dã. Nhược hữu trung hiếu tín
nghĩa bất hành, nhơn chi phi đạo hồ. Đạo giả thuận Thiên chi Đạo dã. Phi đạo
giả kỳ nghịch hồ, tại ư khí bẩm sở câu, vật dục sở tế, nhi sở hành dã, bội hành
hồ. Thiên ý do như thử kỳ nghịch hồ.
Thăng.
Nhiên
Đăng Cổ Phật giáo từ đa,
Dục
đáo Niết Bàn nguyện Thích Ca.
Tu khả
miễn hành kỳ thiện Đạo,
Văn kỳ chánh
ngữ nguyện Di-Đà.
Thấy
bây nhiều đứa ở vô tâm,
Thiệt
Lão thương con lại tủi thầm.
Phải
ráng nghe lời Thầy dạy dỗ,
Chớ
đừng lơ lảng khó trông tầm.
Ngày 15-4-Mậu Thìn
(dl 2-6-1928)
Đức QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
giáng đàn :
Đế
Quân xích thố dạo
non Tây,
Mời
các Thánh Tiên, lại có Thầy.
Chí
dốc sửa sang nên Chánh đạo,
Cơ linh huyền pháp chỉ tròn bây.
Thăng
Đức CHÍ TÔN tiếp
đàn :
Thầy mừng các con. Nghe :
Buồn
buồn chẳng nói, nói thêm buồn,
Tuôn
lụy lụy tuôn, lụy lụy tuôn.
Nhỏ
giọt lơi rơi, rơi giọt nhỏ,
Uông
uông sầu thảm, thảm uông uông.
*
Thu
Thiên lịnh Bửu Điện
Xuân tái
dĩ hưòn Thiền
Hạ vãng
Long Hoa hội
Giáng
thế vạn Thánh Tiên.
*
CAO
ĐÀI giá ngự tại trần gian,
Cứu
vớt nhơn sanh giải thoát nàn.
Khổ
ách đa ương tương thọ khổ,
Sư
nan tá độ tại nhơn nan.
Tiếp đàn :
Lữ
Lữ ừ Tiên Lữ
Đồng
Đồng giáng thế Đồng
Tân Tân
giảng giáo Tân
Tiên
Tiên giáng tại trần.
Thăng
Tiếp đàn :
Quan
Âm giáng thế à
Phụng
chỉ giáo sĩ a
Bài
thi cho chưa đủ
Xuống
thế tiếp thêm mà.
*
Cấp tầm
thanh tịnh ngộ chơn không,
Thâu tánh hồi
Tây mạc chuyển Đông.
Dĩ đắc Âm Dương tương ứng hiệp.
Huyền
linh tự đắc tận giai thông.
Thăng
Ngày 19-4-Mậu Thìn
(dl 6-6-1928)
QUAN THÁNH ĐẾ
QUÂN giáng đàn :
Quan
Đế giáng xuống a
Hỏi
chư Nhu sĩ à
Cầu
chi bây khá nói
Cho
Lão rõ đặng mà.
- Bạch Ngài :
...........
-
Trễ rồi, cho trên Tòa Thánh, Thủ Đức rồi. Lý Tiên không giáng nơi đây. Biểu bây
đêm 16 hầu chép mà trễ nên cho chỗ khác. Thôi bấy nhiêu, ráng mà học tập. Ta thăng.
Có Quan Âm giáng.
Nam
mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Bà
mừng chư sĩ. Nầy chư sĩ,
Có
biết trận dông hồi 4 giờ nầy chăng ?
Dông
ấy hướng nào có biết chăng ?
Ngã
lai chư Phật giáng hồng trần,
Kiểm
sát nhơn gian tối dị phân.
Tai
ách nan ương kỳ dĩ chí,
Thiên
cơ sở đắc tối thời phân.
*
Ráng
ráng bây kha ù ráng,
Cực
cực chớ nên than,
Siêng
siêng năng hành đạo,
Hậu
hậu ngộ hồng phan.
Thăng
Tiếp đàn :
Hải
đảo di sơn kỳ diệu diệu,
Triều
Thiên vạn pháp chưởng phiêu phiêu.
Thánh
quảng quần Tiên cao cực phẩm,
Nhơn
gian dị thức ngã Tiên triều.
Thăng
Ngày 28-4-Mậu Thìn (dl
15-6-1928)
Quan
Âm giáng thế nói bây hay,
Phải
ráng nương theo trổi bước dài.
Nền
Đạo Giáo Tông đà lập vững,
Ngày
giờ còn vắn chẳng bao dai.
Thăng
Ngày 5-5-Mậu
Thìn (dl
22-6-1928)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương
Vui vui
buổi đạo lúc
nầy vui,
Chạnh
xót con thơ dạ ngậm ngùi.
Phải
đặng chung lo mau biết mấy,
Không
tin nên bỏ chảy dòng xuôi.
Thăng
Tiếp đàn :
Nhiên
Đăng thương xót kẻ trần gian,
Nên xuống Linh san đặng
cứu nàn.
Khổ ách
kia qua, tai
trở lại,
Lòng từ chơn thật đến
Thiên ban.
Thăng
Ngày 14-6-Mậu Thìn (dl
30-7-1928)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG
ĐẾ tá danh CAO ĐÀI
Buồn buồn
nan độ tận
nhơn gian,
Giữ đạo
không tâm khiến lạc đàng.
Ba
sáu Yêu vương, Thầy dạy xuống,
Đứa
không tâm đạo phải vương mang.
Thăng
Ngày 20-6-Mậu Thìn (dl 5-8-1928)
Lý mừng
đệ tử hiệp
đồng tâm,
Mối đạo
nơi đây biết
kiếm tầm.
Nay có
đặng rồi thì
chớ bỏ,
Ráng
công tu luyện rõ huyền thâm.
Thăng
Nhiên
Đăng phụng lịnh Đức Cao Đài,
Thuận
ý Ngọc Hoàng, Ngã giáng lai.
Bồ
Tát chơn truyền vô tận ý,
Ma Ha tự đắc độ hàn
tai.
Thăng
Văn Tuyên Khổng Thánh giáng đàn
tiền,
Đệ tử thành tâm giảng giáo liền.
Thi phú Ngũ Kinh tầm khổ đắc,
Chí công học tập Lão chơn truyền.
Thăng
Ngày 27-8-Mậu
Thìn (dl
10-10-1928)
LÝ ĐẠI
TIÊN
Đản khán
chư nhu đạo
hữu tâm,
Hữu tâm
khai tại diệt
phàm tâm.
Phàm
tâm đoạn tuyệt học Thiên tâm,
Thiên
tâm khả miễn Thánh Hiền tâm.
Thăng
Tái cầu :
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáo đạo Nam phương
Thầy miễn lễ cho các con.
Các con ôi ! Việc đạo của Thầy cũng nhiều khi Thần, Thánh, Tiên, Phật,
đã nói cho các con hiểu rồi, còn hỏi gì nữa.
THI :
Cao
Đài Thượng Đế giáo Nam phương,
Dạy
dỗ các con đã tận tường.
Phải
ráng tranh nhau vào phẩm vị,
Chớ
đừng lấp lửng gặp tai ương.
Thầy thăng.
Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ
(Đệ tứ niên)
Ngày 9-Giêng-Kỷ Tỵ
(dl 18-2-1929)
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ĐẾ tá danh CAO ĐÀI giáo đạo Nam phương
Thầy mừng các con.
Buồn lắm ! Thối chí ! Cầu xin chuyện gì ?
Nầy các con ôi ! Đứa nào giữ cho tròn phận sự thì Thầy sẽ không bỏ các
con đâu. Chớ hỏi nhiều. Sái không sái, tin không tin, mỗi đứa đều có đức tin.
Chớ hỏi Thầy, thì dầu giả cũng thiệt, biết không ?
Thầy nói cho mà biết, nếu không phải Thầy, mà rồi nói là Thầy, thì các con cũng nghe
theo, thì có gì mà lạ, nên Thầy có nói với các con : Thầy là các con, thì các
con tính lấy. Phải hiểu rằng Thầy không tư vị. Vẫn Thầy đã còn cầm cân Công
bình thưởng phạt mà tư vị các con sao ?
Vậy các con tính, chánh thì theo, như tà thì bỏ đi, chớ có nghe ai. Thầy thăng.
Ngày 30-2-Kỷ Tỵ (dl 9-4-1929 )
CAO ĐÀI
Thầy mừng các con. Nghe
:
Hỏi bây xa Đạo,
Đạo xa bây,
Tà quái lẫn
nhau ở cả
bầy.
Vậy trẻ tính sao không
lạc lối,
Phân qua cho rõ, đẹp lòng Thầy.
Tiếp đàn :
LÝ ĐẠI TIÊN
Vô vi dạy
dỗ uổng công
phu,
Thế tục nhiều thằng bỏ lắm bỏ lắm ru.
Tà quái lẫn
xen nền đạo
đức.
Làm cho đổi
tánh mỏi lòng
tu.
Thăng
Thầy mừng các con.
Các con nghe :
Đau dạ ôm thương dụng phép hình,
Đừng vì Cha
mến tổn oai
linh.
Một phen thử
Thánh đà trôi hết,
Thầy buộc lập
công khá hết tình.
Thăng
Ngày 19-3-Kỷ Tỵ
(dl 28-4-1929 )
CAO ĐÀI
Tâm thành vĩnh thác đọa trần gian,
Tân khổ bền
tâm đến cảnh nhàn.
Gắng sức theo Thầy tầm đạo chánh,
Về sau vui
hưởng cõi Thiên
ban.
Thầy mừng chư Môn đệ. Thầy thăng. Để
có Anh Tư của các con tiếp đàn.
Anh chào các em.
Cao
thanh ngôi cũ quí dường bao,
Quỳnh ngọc trau dồi đáng giá cao.
Cư thế hồng trần lòng chẳng luyến,
Thượng
về Bồng đảo đạo không nao.
Phẩm
chen giải nhứt Tam Kỳ Đạo,
Đặng
hiệp cùng Thầy quí biết bao !
Nay
rảnh giáng đàn mà tỏ Đạo,
Các
em tua gắng kíp tu mau.
Chơn thần Đồng tử còn mê muội, chấp cơ không đặng đại tịnh, nên Anh xin
mấy em chớ buồn về lời nói của Anh tỏ Đạo mà sao không thấy Anh phân điều nào.
Nầy mấy em ! Đừng quá lễ, hãy bình thân.
Nầy mấy em ! Hãy an lòng, đừng buồn, để Anh về. Còn như mấy em muốn rõ
Đạo, thì ngày 29 sẽ cầu tại Thánh Thất tạm nầy, thì sẽ có Anh xuống mà giảng
Đạo cho các em rõ.
Anh mừng mấy em. Anh xin lỗi với mấy anh em. Thăng.
Ngày 6-6-Kỷ Tỵ (dl
12-7-1929)
LÝ ĐẠI
TIÊN
Lý
gia nhiếp chánh Đạo Tam Kỳ,
Vạn
kiếp giáo truyền pháp hiển vi.
Đệ tử
dục tầm tu
xiển giáo,
Tiền trình
mạc vấn Ngã
vô tri.
Cười ... Cười ...
Cười cười
vui lắm Lão
nên cười,
Hỏi vậy
chớ trò tuổi
mấy mươi.
Tánh
chất phàm trần hay háo thắng,
Tiền
trình chẳng nói hỏi thêm cười.
Thăng
QUAN ÂM
Đạo
đức hằng ngày phải gắng chuyên,
Từ bi
tập tánh đặng
nhơn hiền.
Đồng hòa
cộng lạc vun
nền Đạo,
Nhơn
phẩm trau dồi đến phẩm Tiên.
Thăng
Đức CHÍ
TÔN
Cao Đài
chiếu diệu độ nhơn sanh,
Thánh
đức Thầy
ban có tánh lành
Phẩm cũ
ngôi xưa nay
trở lại,
Liên
đài Từ Phụ quản Tam Thanh.
*
Đạo
Thầy khó tỏ nỗi huyền thâm,
Thượng trí
độ sao khéo kẻo lầm.
Tam
thập lục Thiên còn xen quái,
Bảy hai
thế giới há
không lầm.
Thăng
THƯỢNG PHẨM
Xin mừng chư Chức sắc cùng Đạo hữu.
Hãy bình thân.
THI :
Cao chiếu không trung điển quá quang,
Thượng
tri nhơn sự biệt đồng ban,
Phẩm
khôn diệ đạongô cai quản,
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét