Huyền Diệu Cơ Bút - 2 / 5 (Nữ Soạn-giả Nguyên Thủy)

Kinh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế khởi bằng câu:
Đại La Thiên Đế
Thái Cực Thánh Hoàng

Đấng Đại La Thiên-Đế ngự ở ngôi Thái-Cực tức là vị Thánh-Hoàng. Trước nhất Ngài thể hiện bốn đức: Nguyên Hanh Lợi Trinh
Đại là lớn. La là cái lưới dùng bắt chim trời, còn võng là cái lưới bắt cá dưới nước. Nên có câu
“Thiên la địa võng” là vậy. Đó cũng là hình ảnh chữ Càn hay KIỀN gồm một chữ thập trên là “Thập phương chư Phật” một chữ thập dưới là “Thập điện Diêm cung”.Giữa là chữ Nhựt là vũ trụ, Bên trái là chữ Khí tức khí sanh quang là sự sống. Thế nên mỗi mỗi lời Thi Thơ của các Đấng nó có giá trị phi thời gian. Càng đọc càng thấu lý

Thế nên phần đông lầm hiểu là Đạo Cao-Đài không có triết-lý! Không nói gì đến Vũ-trụ-quan, nhân sinh quan!

Như đã biết, ba ông vốn là những người có tâm hồn nghệ-sĩ, vừa hay thơ lại giỏi đàn. Đánh vào tâm lý, Bà Bát-Nương đến giáng cho thi tựa là “Độc tấu đàn tranh” hay là

Dạo đàn cảm tác:
Gượng khải năm Âm giải tấm lòng,
Nhắn đưa gió ái đến Thu song.
Gióng dây lìa nhạn sầu nghiêng-ngửa,
Dở ngón rơi loan thảm chập-chồng.
Lầu Phụng mơ-màng nghe quyển địch.
Cung Tần văng-vẳng tiếng tơ đồng.
Chia đôi bóng nguyệt còn phân nửa,
Gối lạnh thương ai luống não-nồng.
                                                           Bát-Nương (21-2-1929)

Đức Hộ-Pháp, Họa vận:
Năm Âm mượn bực tỏ tơ lòng,
Đàn “Bắc” ra “Ai” oán dội song.
Tiếng thảm làm cơm tràn quá chén,
Hơi sầu dồn gối chất nên chồng.
Tranh Tần ghẹo khóc người Cung lãnh,
Tỳ Hớn trêu đau khách ải đồng.
Nhạn lạc lìa cung đành lỗi nhịp,
Cậy lằn phong nguyệt nhắc duyên nồng.
                                                           Hộ-Pháp

Mỹ-Ngọc tức Bảo-Văn Pháp-Quân
HỌA
Trổi giọng thinh âm tỏ nỗi lòng,
Tựa màn ánh nguyệt vặc dòm song.
Cung đàn rỉ-rả thưa rồi nhặc,
Dạng khách nhớ nhung chất lại chồng.
Nhấn ngón dường khêu lời hải thệ,
Búng dây như thúc dải tâm đồng.
Nỗi tình nỗi hiếu vai oằn-oại,
Giọt lệ rưới lau tâm nghĩa nồng.
                                                           Bảo-Văn Pháp-Quân

Chánh-Đức tức là Tiếp-Đạo Cao Đức Trọng.
HỌA
Một mối sầu tư bận tấc lòng,
Cậy đờn dập thảm dựa đơn song.
Trông tình sông Ngự dây loan đứt,
Đợi Ngọc cầu Lam tuổi nguyệt chồng.
Gởi nhớ nhờ mây trao bức hẹn,
Hòa thương cậy gió nhắn câu đồng.
Xa duyên chinh nhạn đành ngưng ngón,
Chén ái đêm Đông phảng-phất nồng.
                                                                                  Chánh-Đức
6 - Vườn Thơ hương sắc
Những nét lạ trong thơ mà các Đấng giáng ban cho tạo nên Vườn Thơ hương sắc màu.
Thần Sơn Quan Tổng Thống Tông Kim Diệu Võ
THI
1- Âm dương tuy cách cũng Trời chung,
Thấy trái nên đây mới tỏ cùng.
Thắt dạ thuyền xưa không đậu bến,
Đau lòng hạc cũ chẳng về tùng.
Cúi đầu đành chịu thân trăm tuổi,
Ngước mặt ngơ trông bặt chín từng.
Mạnh yếu há ngồi cam chịu vậy,
Hay chi cá chậu với chim lồng.

2 - Chim lồng bao thuở lại non xanh,
Ngóng mắt trông vơi chốn thoát mình.
Dựng nước chẳng ai tài tướng lược,
Liều mình thiếu kẻ đáng hùng anh.
Vầy thuyền chi sợ cơn giông tố,
Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh.
Thìn dạ chờ Châu về hiệp phố,
Nơi mình sự nghiệp mới tan tành.

3 - Tan tành nhớ đến gánh giang san,
Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng.
Phú quí mồi câu con hạc lánh,
Đỉnh chung gió thổi đám mây tàn.
Đợi thời toan mượn cần câu Lữ,
Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.
Ly loạn gặp thời đời muốn chán,
Công danh phủi sạch hưởng thanh nhàn.

4 - Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên gia,
Trị loạn hằng xem thế nước nhà.
Bể hoạn dập dồi thương bấy trẻ,
Thành sầu chất chứa cám cho già.
Bạc đầu non chịu lằn sương nhuộm,
Nhăn mặt nước chờ trận gió qua.
Thân ái mối dây tua nắm chặt,
Chít chiu ấy cũng một bầy gà.

5 - Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ,
Yếu đuối biết ai để cậy nhờ.
Nắng hạn trông mưa trông mắt mỏi,
Đắng cay mộ nước một lòng chờ.
Ngoài khua tiếng giặc trong khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung quốc thiếu cờ.
Trí Chúa tôi hiền không gặp Chúa,
Nào người gánh nỗi mối xa thơ.

6 - Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng vững bền.
Đắp lũy Cổ Loa chưa mấy mặt,
Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.
Thăng Long bao thuở nâng hùng khí,
Gia Định từ nhiên chấp ấn quyền.
Sông núi dật dờ chờ tạo khách,
Hóa Công nên núi Đạo nên thiền.

7 - Nên thiền khi trước lập công danh,
Chín bệ xem qua chẳng trí quân.
Ích nước xủ tay khoe đẹp áo,
Lợi nhà vỗ bụng dưỡng tròn thân.
Nam Giao vắng vẻ đường cung kiếm,
Văn Hiến khô khan ngọn bút Thần.
Danh vọng ru hồn quên thổ võ,
Thẹn nòi bộc lại mộ đai cân.

8 - Đai cân đã có vẻ chi chưa?
Hay phận tù lao kiếp sống thừa?
Dập đất gập ghình chôn trẻ dại,
Ngừa thời điên đảo trí già xưa.
Ngồi hang thương kẻ mang da chó,
Ngự điện ghét quân đội lốt lừa.
Cái nhục giống nòi kia chẳng rửa.
Xoi hang mạch nước ý chưa vừa

9 - Chưa vừa mộng mị với tây tà,
Dụ xác vong hồn dựa phách ma.
Tiêu hủy thân cây lằn lửa táp,
Tan tành hình nộm trận giông qua.
Rước voi phá mã đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong nhiễu điện tòa.
Đổ lụy hỏi người sao chẳng nhớ,
Ngọn rau tấc đất nước nhà ta.

10 - Nước nhà ta có tiếng anh phong,
Vẻ đẹp trời Đông sắc Lạc Hồng.
Nam Hải trổ nhiều tay Thánh đức,
Giao Châu sanh lắm mặt Anh hùng.
Tinh trung lửa thét thành Bình Định,
Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Đông.
Văn Hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công.
             
Xưa cũng thế mà nay cũng thế! Vẫn cũng dân tình chịu nô-lệ, cách này hoặc cách khác. Vẫn mặt trung mày nịnh! “Thần Tiên thấy vậy cũng chau mày” mà thôi!
Thơ của Đức Nhàn-Âm-Đạo-trưởng
(Thập Thủ liên hoàn)

Như đã nói: Về Đàn phía bên Ngài Bảo-Văn cầu lại có Đức Nhàn-Âm-Đạo-trưởng giáng..
Ngày 14-8 năm Ất-Sửu (dl 31-8-1925) có Đức Ngài Nhàn Âm Đạo trưởng giáng cho:

THI
Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm Xuân.
Nhàn Âm Đạo Trưởng

Bấy giờ có một vong linh tên là Cao Xuân Lộc giáng họa nguyên vận bài thi trên:
HỌA
Sống thác từ xưa đã có chừng,
Nơi trần mãn tính trọn nhơn luân.
Đò đưa phút chịu vui ba tấc,
Tay trắng phủi rồi một tuổi Xuân.
Cao Xuân Lộc

Qua ngày sau 15-8 Ất-Sửu (dl 01-9-1925) thì Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư họa nguyên vần bài thơ :
HỌA
Cõi thọ là đâu khó độ chừng,
Ẩn tàng lợi lạc bậc kinh-luân.
Buổi già ước đặng đem thân gởi,
Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.

Hãy nghe Điệu Thập thủ liên hoàn của Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, tức là 10 bài thơ liên tiếp nhau mà chữ cuối của bài trước làm chữ đầu cho bài thơ sau.

Đề ngày 14-11-1925 .Thơ như sau:
THI
Thi họa vừa khi bước hứng nhàn,
Vòng trần luân chuyển luống lo toan.
Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,
Rằng biết cho dân chịu buộc ràng.

1 - Buộc ràng túng tiếu cõi Nam châu,
Trị loạn vần xây cuộc bể dâu.
Phép nước đòi cơn mây gió thảm,
Nghiệp nhà lắm lúc nước non sầu.
Thương người để dấu noi người trước,
Hiệp chủng làm gương dắt lũ sau.
Cá chậu chim lồng chi dễ chịu,
Rừng xưa bến cũ thảnh thơi đâu.?

2 - Thảnh thơi đâu buổi nước non nhà!
Nam đảnh hầu xem trận gió qua.
Ứa mặt ướm nâng nền thổ võ,
Bền lòng chờ đợi bến Sơn-hà.
Dập dồi bể hoạn thương bầy trẻ,
Lắt lở thuyền du hỗ phận già.
Cũng muốn lẫy-lừng xây thế cuộc,
Vòng trần ngặt đã bước chân ra.

3 - Bước chân ra nghĩ ngậm-ngùi thay,
Nỗi ước nhiều phen khó cạn bày,
Rừng Trước tuy vui chung rượu thắm.
Ơn xưa đâu lợt tấm lòng ngay,
Rèn tâm khá nắm dây thân ái.
Giữ dạ đừng quên mối cảm hoài.
Biển khổ mang bầu chờ tế độ,
Giựt giành chi khỏi trả rồi vay.

4 - Trả rồi vay tua vẹn lòng son,
Bia cũ gương trung dấu vẫn còn.
Đội mão khi ngồi non hớn hở,
Lìa rừng cọp ngóng biển thon von.
Nào khi đất Việt trời ngang dọc,
Chừ lúc vùng Nam phận cúi lòn.
Xương thịt cũng đồng nhân loại thế,
Giày bừa há chẳng hỗ sông non?

5 - Non sầu cỏ nhuộm đã phơi sương,
Thành cũ đường xưa cảnh để buồn.
Lạc ngã người dày trâu ngựa kéo,
Gia tàn yến rũ gió mưa tuôn.
Vật còn biết mến ngày thong-thả,
Mình há đâu quên chỗ cội nguồn?
Vầy hiệp đồng tâm liên ái kết,
Cường quyền sức mọn dễ chi sờn?

6 - Chi sờn máu thịt mảnh thân phàm,
Danh lợi mồi câu nhử tánh tham.
Ví biết trọng mình nhà nước trọng,
Đừng quên tham nhục giống nòi Nam!
Non sông chẳng đổi theo lời nói,
Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.
Ung đúc lòng thành chờ máy Tạo,
Có ngày khuấy nước chọc Trời Nam.

7 - Trời Nam vừa thọ ánh Dương quang,
Cương tỏa tiêu tan thấy cảnh nhàn.
Vần vũ suối bờ Thần tiếp Thánh,
Ồ-ào Bến Nghé quỉ xô quân.
Hồn trung vì nước hơi vừa tỉnh,
Mắt trí xem dân đã quá làn.
Hồng Lạc giống nòi dầu thoát ách,
Là hai mươi triệu kẻ đồng gan.

8 - Đồng gan mới biết đặng đồng tình,
Biết máu thịt mình mới biết binh.
Lợi lộc của nhà thì cứ lấy,
Thế quyền trong nước há ngồi xin.
Trống gông nô lệ sao ham muốn?
Hình bóng quan viên xúm giựt giành.
Lịch sử chép biên bao vẻ đẹp,
Ai từng đem nhục đổi làm vinh.
9 - Làm vinh nghĩ chẳng thẹn non sông,
Chín suối ông cha nhẫng tủi thầm.
Buồn thấy giống Hồng thây chúng xẻ,
Thảm xem giòng Lạc thịt người bầm.
Biên cương buổi nọ Tàu lui gót,
Chín bệ ngày nay quỉ nhảy đầm.
Rút vỏ gươm linh ta quyết một,
Chẳng bao kẻ nghịch đặng ăn nằm.

10 - Ăn nằm nín nẳm đợi Chơn Quân,
Ta quyết sẽ cho kẻ hạ trần.
Nắm mối xa thơ ra sức gánh,
Thâu giềng xã tắc sửa đầu cân.
Thái bình trăm họ nhìn chơn Chúa,
Thạnh trị ba châu trổ trí Thần.
Độc lập gần ngày vui sắp đến,
Bỏ cơn đất Việt chịu tam phân.
             
Bình minh đã lên.rồi. Thì thôi đồng Đạo hãy rán mà chuẩn bị, lo-liệu sẵn tài năng để:
Ung đúc lòng thành chờ máy Tạo,
Có ngày khuấy nước chọc Trời Nam!

Như có một hôm, Ông Cao Hoài Sang buồn, đề một bài thi Tự-thuật, có ý than thân trách phận, sao lăn-lóc với tình đời, tuy tuổi chưa bao nhiêu mà đã mòn-mỏi. Ông đem ra nhà cho Ông Bảo-Văn coi và cũng muốn để cho mấy Ông họa lại chơi cho vui. Nói chuyện với nhau rồi lẩn quẩn cũng cầu chư-vị nữa!

Vào ngồi trong năm phút đồng hồ, thì có thân-sinh của ông Thượng-Sanh Cao Hoài Sang, là Ông Cao Hoằng Ân giáng đến. Thuở ông còn sanh tiền, làm việc Tòa-Án, lại cũng có đổi đi miệt Tây-Ninh, Bạc-liêu và nhiều chỗ khác nữa. Rốt sau, lại về ở Sàigòn rồi mới quá vãng, thiết tưởng nhiều người Tây-Ninh cũng biết danh ông lắm!

Khi ấy, Ngài Cao Quỳnh Cư thưa với ông rằng:
“Sẵn dịp Anh về đây, nhằm lúc Sang làm một bài thi tự-thán, cậy mấy anh em tôi họa, vậy Anh họa chơi luôn thể”.

Ông Bảo-Văn lại nói:
“Anh cứ việc đề thi, dạy nói thế nào, thì Anh định lấy, nhưng tùy theo vận của Từ-Thứ mà lâu nay làng thi chịu phục là: Voi, mòi, còi, roi, thoi mà làm”.

Dứt lời, ông Cao Hoằng Ân tiếp liền, chẳng đợi phút nào cả. Bài thi như vầy:
THI
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm rỡ,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruổi đường hòe há nhọc roi.
Nín-nẵm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn lòng chừng có lượng đôi thoi.
                                                                       Cao Hoằng Ân

Vừa tiếp bài thi ấy, mấy ông trầm-trồ chưa hết, kế gặp vị Đại-Tiên Nhàn Âm Đạo Trưởng giáng đề một bài:
THI
Chiêu tập hồn thi bước Đạo điều,
Non xưa chớp cánh nhạn trông theo.
Trời thanh khách gắng lần qua suối,
Đêm rạng trăng soi lướt khỏi đèo.
Mây khỏa đảnh Tần màu gió cuộn,
Thuyền khơi sông Bích cánh buồm treo.
Giang-san một dãy nền chung dựng,
Biển cả chi nao ít mái chèo.
                                                                       Nhàn Âm Đạo Trưởng

Cách ít lâu, có Tiên-Nương Hớn-Liên-Bạch giới thiệu đến một Tiên Nương khác xin vào ra mắt mấy Ông. Đó là Lục-Nương Diêu-Trì-Cung. Gặp nhằm tiết Thu, nên mấy ông cậy Tiên Nương đề một bài. Lục-Nương giáng:
Bi Thu
Im-lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ-mệt vườn đào điểm sắc thu.
Gió dậy xao Trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dặm vẻ làu.
Non nước đìu-hiu xuân vắng chúa,
Nhìn hoa cảnh úa giục cơn sầu.
                                                                                  Lục-Nương kỉnh hiến.

Ít bữa sau ba ông cầu Đức AĂÂ giải nghĩa hai câu thi thứ 5 và 6 của Lục-Nương:
Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương đậm vẻ làu.

Đức AĂÂ giảng rằng:
Kim mã là ngựa vàng, là chỉ mặt trời
Ngọc Thố là thỏ ngọc là chỉ mặt trăng.

Thi văn lựa hai thú ấy mà chỉ mặt trời và mặt trăng, vì hai thú ấy chạy mau, con này rượt con kia, hết ngày tới đêm, hết đêm tới ngày; chỉ về thời giờ qua rất mau lẹ.

Cũng dùng câu Kim mã quá song là chỉ thời gian qua nhanh. Còn nói là bóng câu qua cửa sổ.
Dứt bài, Tiên Nương lại tiếp một bài điệu Động-Đình:
THI
Đầm ấm cảnh Trời mai ác lố,
Thơ thới đưa thuyền khổ khách chèo;
Nhấp-nhô lượn sóng khỏa lèo,
Luồng đông gió tạt cánh bèo ngưng sông.

Một chiếc quạnh bóng hồng nháng ngọn,
Mây đoanh non tuyết đóng nhành thung;
Về Nam đỗ cánh rừng tòng,
Ngút xem tủa áng cây đông khóa rèm.

Đường xúm-xít chị em ruổi bước,
Dắt-dìu nhau kẻ trước người sau;
Tìm nơi hứng giọt mưa dàu,
Để cơn khao-khát khoe màu phù dung.

Đờn nhắn khách năm cung nhặt trổi,
Vẹt mây đen gió thổi chiều hôm;
Quang-âm ngày tháng dập-dồn,
Ngừa khi trễ bước hoàng-hôn trở đường.

Đường muôn dặm khách đơn thân,
Mượn bóng trăng làu bước vẹn chân.
Khóa kín song thu trau hạnh đức,
Chờ khi Đạo trọn đến non Thần.

Non Thần tiếng hạc chầu vang đảnh,
Chờ rước người ngay chánh tìm đường;
Mơ-màng chưa tỉnh Huỳnh-lương,
Sóng xao biển khổ nên thương khách trần.
                                                                                  Lục-Nương Diêu-Trì-Cung.

Nghe qua bài văn Động-Đình nầy, mấy Ông khen tặng chẳng cùng. Đây là điệu thơ Tiên, chỉ có Đức Lý xử dụng lối thơ này một cách tuyệt diệu, sau truyền lại cho các Tiên Nương, nhưng chỉ lấy một phần thể điệu ấy.

Xong mấy bài đó, mấy vị khác tiếp vào, đề mấy bài văn Nho như vầy, ý tứ thật cao-kỳ và ẩn nghĩa cao thâm:
Mỹ-Ngọc! Nghe Lão:
THI
Hoành thượng đơn khai chí bách thiền,
Hựu tu chưởng hiệp khởi tranh liên.
Mật đài khánh nhựt khinh hành định,
Cửu tái quang minh đắc cọng niên.
                                               Mật sự khá kiếm hiểu.

Liên-Huê-Tiên
Diệu thành tâm khởi đức khai truyền,
Đạo thức thời âm tận ký niên.
Thiên mạng lưu hành vô tự đoạt,
Tôn hồi cẩm vị khải huyền nhiên.
                                                           Tri thức. Thăng

Phổ hóa hoài tâm hạ tác thành,
Hiền khai trực thượng độ nhơn sanh.
Bồ-đoàn linh diệu cơ huyền mạng,
Tác ái diệt tàng cẩm đắc ninh.
Gắng thiện niệm, rõ cơ Trời.

Một ngày nọ bên Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang và Ông Cao-Quỳnh Diêu lại tiếp một vị Tiên-Nương nơi Diêu-Trì-Cung, giáng vào bàn xưng là “Thanh-Tâm Tài Nữ” cho một bài văn điệu “Liên-Phong”.

Thanh Tâm Tài-Nữ là người có một kiếp ở Việt-Nam. Bà tắm biển ở Vũng-Tàu bị chết trôi. Sau đầu sanh qua nước Anh làm Nữ-hoàng Anh. Trước khi đi Bà có từ giã Đức Hộ-Pháp và nhiều vị Thời-Quân.
THI
Mượn nguồn đạo-đức khỏa màu trần,
Luyến thế ngày qua khó kịp xuân.
Bến khổ trương buồm thuyền đợi khách,
Non Tiên trở cánh hạc chờ xuân.

Xuân mờ mệt bao nhiêu cảnh ủ,
Cụm rừng tòng lá xủ, tranh sầu.
Biết bao mấy nỗi tang dâu,
Bóng trăng kia đã đứng đầu tuổi xanh.

Xanh vàng ngọn cỏ trải mồ oan,
Oan trái trả vay khách nhộn-nhàng.
Nhàn cảnh mấy ai tìm đến chốn,
Chốn bi-ai luống nhọc-nhằn than.

Than rằng:
Cõi phù sanh nháy mắt,
Trăm năm đâu biết chắc rủi may.
Đua tranh sánh của so tài,
Của tài phủi sạch đường dài thoát qua.
Gắng lo xa .......
Đến giai đoạn này thì mấy vị con cháu của Ngài Cao Quỳnh Diêu là Cao Huệ Chương và Nguyễn Tải Thân là những người đã theo các Ngài suốt trong những đàn Cơ trước đây, thấy việc Xây bàn được huyền diệu như vậy nên cũng bắt chước làm theo.

Ông Huệ-Chương nói:
“Tôi thấy mấy ổng như vậy, tôi bắt chước. Một bữa chúa nhựt kia, ông thân tôi đi khỏi, tôi với em tôi là Nguyễn Tải Thân khiên bàn ra, lối chín giờ ban mai, hai đứa ngồi, cũng úp bốn bàn tay lên bàn, tịnh trí, giây lâu có em tôi nhập về bàn xưng là “Cao-Quỳnh-Lượng”.

Anh em mừng rỡ nhau, nói nói cười cười, tôi ngụ ý muốn thử coi chơn giả thế nào, tuy tôi đã theo mấy ổng lâu rồi, nhưng đức tin chưa trọn; bèn nói với em tôi rằng:

“Thầy (Ngài Bảo-Văn) và chú Tư (Đức Thượng-Phẩm) mình, khi ông nội sanh ra, đều có đặt hiệu Mỹ Ngọc, Bội-Ngọc là vì nội biết chữ Nho. Tới phiên Thầy mình sanh ra, phần thì Thầy học tinh những chữ Tây không, làm cho cả hai đứa không có chi hết (dốt quá). Em có thế nào, kiếm cho qua một danh-hiệu chăng?”
(Ngài Bảo-Văn Pháp-Quân hiệu là Mỹ-Ngọc)

Em tôi liền dở bàn gõ, tôi tiếp sấp hai chữ “Ngươn Ngọc”. Tôi lại cậy em tôi cắt nghĩa cho tôi rõ, thoảng như có người hỏi đến thì tôi nói cho thông (cũng sợ người ta chê dốt nữa!). Em tôi liền giải rằng:
“Đời nhà Ngươn có báu Ngọc vô giá”

“Điển-tự: Vua Ngươn khải ca nhiều trận, chư Hầu khiếp vía, Bắc-vương kiên oai, cống sứ cho Trung-Quốc một hột Ngọc-Điệp, trong đời ít có. Khi đem phơi ngọc ấy ngoài nắng, tất nhiên chiếu nhiều màu, thiên ám địa hôn; người khát nước, ngậm vào miệng, dường như ngậm búng nước lã, mà hết khát. Còn nhiều điều quí nữa, song kể không hết. Bởi cớ đó, nên có câu “Ngươn-Chiêu-Đế hữu bửu ngọc”, nay trích trong câu văn ấy, mà lấy hiệu Ngươn Ngọc 元玉.

Đặng cái hiệu và lời giải ấy, khi ông thân tôi về, tôi thuật lại cho ổng nghe, ổng cắt nghĩa rành lại, tôi mới hiểu rõ rằng, cả dòng họ Cao-Quỳnh, danh-hiệu đều do nơi bộ Ngọc Chừng ấy, tôi mới có chút đức tin là do nơi đó. Lại cũng vì những thi, phú, lối, sau nữa ...

Còn một số bài, theo điệu văn Liên-Phong mà Ông Bảo-Văn cùng Với Ngài Cao Hoài Sang, tiếp của chư Tiên như vầy:
THI
Rảnh nợ thế rừng thung vui thú,
Chiều hứng nghe vượn hú chim chiền.
Một ngày thong-thả là Tiên,
Suối trong rửa sạch não phiền trần gian.

Vòng cương-tỏa buộc ràng danh-lợi,
Chốn hí-trường lui tới lăng-xăng.
Phép quan luật nước thúc dằn,
Đỉnh chung rốt cuộc mơ-màng chiêm bao.

Đâu là thấp đâu cao phẩm thế,
Nhục vinh kia ai để trọn đời.
Cõi trần kiếp sống mấy hơi,
Phủi tay chút đã châu rơi ngọc trầm.

Hỡi ai là khách tri-âm ....
H.M.

Liệu mà day trở bước thang xuân,
Một dặm đường qua Đạo một gần.
Sóng dậy tang thương hồng chích cánh,
Trời điều thưởng phạt họa đồng cân.

Cân thiêng-liêng chất đồng tội phước,
Gặp thời tua vẹn tước trọng nhân.
Dịp may dễ có mấy lần,
Dò đường đến chốn non Thần mới hay.

Hay biết Đời sao, Đạo lại sao?
Hay gần cửa Thánh bước lần vào.
Hay tìm nẻo chánh, tà xa lánh,
Hay tập thanh-cao, chí mới cao.

Cao khôn vói, thấp nào để bước,
Khó mà lần đến được mới mầu.
Chỉ mành rối khá lo âu,
Liệu chơn thoát khỏi vực sâu sau nầy.
                                               Thanh-Tâm Tài-Nữ hiến.

NHÀN du bạch dạ tuyến phong đình,
ÂM tảng diệt kỳ chiếu đẩu tinh.
CHƠN tịch quyền khai thiên vị đắc,
NHƠN bang hữu cọng liệt trân đình.

Rèm gió đêm tràng bóng rạng thinh,
Nghêu-ngao non Túy thú riêng mình.
Thu về hứng cảnh đôi bầu cúc,
Hạ đến vui sen mấy tiệc quỳnh.
Nhàn dạo vẩn-vơ theo Nhựt-Nguyệt,
Rảnh ngồi chẩm-rãi tụng Huỳnh-Đình.
Tranh đua giũ sạch lằn phi-thị,
Gặp buổi giang-hồ với chúng-sinh.
                                                           Nhàn-Âm Đạo-Trưởng

10-4- Kỷ Hợi, lúc 22g45 ( 1959 )
Đức Hộ-Pháp giáng cơ:

Ba năm xa cách đã chờ may,
Vạn sự do Thiên khéo sắp bài.
Chí muốn cao bay trong một kiếp,
Giờ đây nhờ cậy sức anh tài.
Đã đành danh phận còn xa thẳm,
Nhưng đấng mày râu chẳng mảy may.
Một kiếp vì đời tua gắng trả,
Cho rồi nợ thế khỏi ai hoài.
                                               Đức Hộ-Pháp

Đàn cơ đêm 15-10- Giáp Thìn ( 1964 )
Tại Hiệp-Thiên-Đài, lúc 23 g
Phò Loan : Hiến Pháp & Thượng-Sanh
Đức Hộ-Pháp giáng Cơ cho bài Thi Khoán thủ:
“Hộ-Pháp Phạm Công Tắc giáng mừng Đàn”

HỘ quyền cực lạc định tà chơn,
PHÁP ấn nêu cao sáng Đạo huờn.
PHẠM tử Di Đà ra phép mật,
CÔNG môn kim khuyết định thần ngươn.
TẮC quyền di lập xong đàn tịnh,
GÍANG thế khai cơ độ vĩ nhơn.
MỪNG sắp nên hình cho vạn chủng,
ĐÀN cao vui hưởng phép thường chơn.
                                               ( Đạo đức vuông tròn trọng nghĩa nhơn.)

7 - Bài học HÒA-HIỆP THƯƠNG-YÊU:
Qua một số bài thơ dạy Đạo trên, các Đấng đã dày công giáng điển xướng họa với ba bậc tiền bối là Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh, đó là nói lên chữ HÒA.

Dưới đây là bài thơ Liên ngâm, nói lên chữ HIỆP.
Khởi đầu: Lục-Nương Diêu-Trì-Cung giáng, xướng trước hai câu, còn lại thì mỗi vị tiếp theo, mỗi người hai câu cho đến trọn bài, mỗi bài có cả thảy tám câu. Đó là Thể thơ Đường luật, Thất ngôn Bát cú. Lối thơ này phải tuân theo một qui luật nghiêm khắc lắm: Niêm, Luật, Vận, Đối câu, đối ý đủ việc…

Ngoài thể thơ, điệu thơ ra, các Đấng còn ngụ một ý nghĩa cao xa. Trước đây là giữa người Tiên và kẻ tục HÒA thơ với nhau (Họa thơ hay Hòa thơ cũng cùng một nghĩa).

Bây giờ thì Lục-Nương đến dùng lối Liên ngâm, tức là HIỆP tư tưởng của tất cả mà hoàn thành một bài thơ.

Trước đây Thầy đã dạy cho chữ HÒA, bây giờ đây Thầy dạy chữ HIỆP là ý của Thiêng liêng muốn dạy cho nhân-loại hai chữ HÒA-HIỆP để sống trong cộng đồng YÊU-THƯƠNG để thực thi những điều ký trong Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa-ước có trong tượng Tam Thánh đó vậy.

Bài thơ thứ nhất:
Lục-Nương: Trót đã đa mang cái nợ đời,
Gánh đời nặng lắm khách đời ơi!
Cao Quỳnh Cư: Oằn vai Thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.
            Phạm Công Tắc: Thương hải tang điền xem lắm lúc,
Công danh phú quý nhắm trò chơi.
            Cao Hoài Sang: Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.

Bài thơ thứ hai:
            Lục-Nương: Ở thế sao chê tiếng thế buồn,
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong.
            Cao Quỳnh Cư: Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
            Phạm Công Tắc: Chiếc bách dập dồn dòng Bích Thủy,
Phồn hoa mờ mệt giấc Huỳnh Lương.
            Cao Hoài Sang: Bờ dương chừ đặng phong trần rảnh,
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương.
Hai bài thơ Liên ngâm là chỉ cho Âm Dương hòa hiệp, giữa Đạo và Đời lúc nào cũng tương đắc cùng nhau.

Cái hay của văn chương Việt-Nam thật là uyển chuyển, linh động, nhẹ nhàng mà thanh thoát. Chư Tiên đã khéo chuyển mạch thơ đi vào cõi du-dương, mơ màng của Đạo-pháp, để rồi tất cả nhập vào Thiên Thai cảnh giới, như đã giũ sạch Thất Tình. Nhờ Thất-Nương Diêu-Trì-Cung đến trước để mở đường vẹt lối chông gai “Thất-Nương khêu đuốc Đạo đầu” để tỉnh giấc Huỳnh lương cho nhân sanh. Tạo một dấu Ấn “HÒA”.

Khi đường Đạo đã êm chân, bấy giờ mới đến vai trò của “Lục-Nương phất phướng truy hồn” tạo cơ “HIỆP”. Con số 6 chính là Tam âm tam Dương tạo nên càn khôn vũ-trụ đó vậy.

Qua lối thượng tuần tháng tám, Đức Hộ-Pháp và Đức Thượng-Phẩm tiếp đặng mấy lời của cô Vương-Thị Lễ dạy về Diêu-Trì-Cung:
“Trên có Cửu-Thiên Nương-Nương cai quản.
“Dưới có chín vị Tiên-Nương.

“Cô Vương Thị Lễ đây đứng về Thất-Nương, cô Hớn Liên Bạch là Bát-Nương, còn bảy vị Tiên Nương khác mỗi mỗi đều có trách nhiệm riêng cả”.

Đức Thượng-Phẩm nghe đặng lời ấy rất mừng lòng, bèn xin Tiên Nương chiếu cố đến các Ngài, dạy cách nào cầu lịnh Kim-Mẫu đến đặng. Khi ấy, Thất-Nương bèn mách mấy vị phải trai-giới ba ngày và tìm cho đặng Ngọc Cơ cầu lịnh Bà mới đặng. Các Ngài, không hiểu Ngọc-Cơ là chi, Đức Thượng-Phẩm xin Tiên Nương chỉ dạy. Cô bèn vẽ hình Ngọc Cơ, rồi giải nghĩa và dẫn rõ căn cội buổi xưa, lấy hình trạng của ngôi sao Bắc-Đẩu mà tạo thành. Lại dạy cách phò Ngọc-Cơ cho Các Ngài và dặn mỗi người phải có sẵn một bài thi. Đức Thượng-Phẩm, Đức Hộ-Pháp và Đức Thượng-Sanh vâng lời trai giới ba ngày và tìm mượn đặng Ngọc-Cơ y theo lời dạy.

Qua đến ngày thứ ba là buổi hẹn, lại nhằm tiết Trung-thu, đúng đêm 14, rạng ngày rằm tháng tám. Ngoài trời thì trăng thanh gió mát; trong nhà Đức Thượng-Phẩm lại trưng bày trang hoàng, xem vào có vẻ tinh-khiết lắm.

Đúng giờ Tý, thảy đều đủ mặt. Đức Thượng-Phẩm đã sắp đặt dọn bàn dài, rải bông lá chung quanh, phía trong bàn ngay chính giữa, để một bộ đồ trà, còn vị trí của chín vị Tiên Nương mỗi người một cái tách, sắp vòng theo bàn, hàng giữa đặt những trái cây tươi tốt, ngó vào rất lịch xinh, tựa hình như đãi tiệc, vì chung quanh có chín cái ghế mây. Buổi cúng nầy gọi là: “Phó Yến Diêu-Trì” đến ngày nay hãy còn giữ nguyên thức lệ ấy..

Chính đây là Hội-Yến Diêu-Trì-Cung hằng năm vào ngày rằm tháng tám âm lịch tại Tòa-Thánh Tây-Ninh.

Đức Thượng-Phẩm đốt hương đèn lên, cả thảy đều quì lạy khấn vái, rồi đem Ngọc-Cơ ra mà cầu. Thật quả có lịnh Cửu-Thiên Nương-Nương đến và đủ chín vị Tiên Nương, mỗi vị đều giáng cơ chào mừng. Khi ấy, Thất-Nương xin ba Ông đờn, rồi mỗi người ngâm bài thi của mình làm, đặng hiến lễ, còn lịnh Bà và Cửu Nương an vị mà nghe. Chừng nhập tiệc, Thất-Nương lại mời ba Ông ngồi chung vào bàn Yến. Các Ngài ngại thất lễ, nhưng khó chối từ, mới đem ghế thêm, sắp sau lưng chín cái ghế nọ, xá rồi ngồi xuống.
Sự kính cẩn của các Ngài cũng làm cho người chung quanh thán phục về một Đức tin cao độ.

Cách chừng nửa giờ, Đức Thượng-Phẩm lại tái cầu. Lịnh Nương-Nương và chín vị Tiên-Nương để lời cảm tạ lại nói rằng:
“Từ đây đã có Ngọc-Cơ rồi, thì tiện cho Diêu-Trì-Cung và Cửu Vị Tiên Nương đến mà dạy việc”.

Đêm nay thức cho đến 3 giờ khuya mới nghỉ.
Kể từ ngày ấy, bên kia thì Đức Thượng-Phẩm hiệp với Đức Hộ-Pháp, thường hay cầu Ngọc-Cơ mà học hỏi. Còn bên này thì Ngài Bảo-Văn và Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang vẫn còn Xây bàn. Cả hai bên hằng đêm đều có chư Tiên đến dạy văn chương thi phú nhiều điều, như là điệu Động-Đình, Liên Phong, điệu thơ này ít khi nghe thấy, mà nhứt là Đức Thượng-Phẩm hay có tánh hiếu kỳ tìm hỏi nhiều điển-tích cao xa và nhiều điều khoa-học huyền bí. Thiết tưởng, nếu không phải là bậc Tiên-Thánh thì dầu bậc cao học nào, trong thế gian nầy, cũng chưa hề thấu đặng.

Đấng Đại Tiên đến AĂÂ đến thường để dạy đạo-lý, ấy là đàn Cơ bên Đức Thượng-Phẩm.

CHƯƠNG III

A - DIỆT HÌNH TÀ PHÁP CƯỜNG KHAI ĐẠI-ĐỒNG

1 - Ba vị Tướng-soái của Đức Chí-Tôn:
Đây chính là ba vị Tướng-soái của Thầy đã chọn lựa sẵn cho xuống trước, ngày nay Thầy đến lập nền chơn giáo chỉ qui-tựu lại mà thôi, nên tất cả đều có đầy đủ để giao cho sứ-mạng xây cơ chuyển thế, khai Đạo cứu Đời.

Đức Hộ-Pháp có nói rằng: “Dùng lương sanh để cứu vớt quần-sanh”.

Những ngày đầu, Đấng AĂÂ gọi ba vị này là “Tam vị Đạo-hữu”, một từ thân-mật là các ông:
- Cao Quỳnh Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM, tuổi Mậu-Tý (1888)
- Cao Hoài Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH, tuổi Tân-Sửu (1901)
- Phạm Công Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi Canh-Dần (1890)

Thầy đã ân-cần nhắc-nhở:
“CƯ, TẮC, SANG, ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm-tối trong buổi ban sơ. Thầy lại khiến ba đứa phải liên-hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Đạo cho đến cùng”.

Đức Chí-Tôn giáng Cơ cũng nói rõ về phần yếu trọng của ba Ngài nữa:
“CƯ, TẮC, SANG, con ơi! Lập Đạo thành đặng chăng tại nơi ba con. Con đã nghe quyền-hành của yêu quỉ Thầy cho lớn đến bực nào? Chẳng phải là cơ thử Thánh, Tiên, Phật mà thôi, lại còn là Công-bình thiêng liêng của Tạo hóa. Nếu hai đầu cân chẳng song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Tự nơi các con làm thế nào cho bên Thánh-Đức nặng hơn tà-mưu thì làm mới ra công quả. Các con chớ ngại, ngày nay Đạo đã khai tức là Tà khởi. Vậy các con phải làm hết lòng, hết sức mà gìn-giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn giữ-gìn cả Môn đệ Thầy nữa.

“Nội nơi Nam-phương này, như có mặt cho Tà thần yêu-quái sợ thì duy có ba con. Vậy ráng giữ-gìn cho thanh-khiết. Thầy nói thật cho các con hiểu trước rằng: Cả Môn-Đệ Thầy đã lựa chọn, lọc-lừa, còn lại lối nửa phần. Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám-dỗ, đi bao nhiêu thì mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên cơ phải vậy, thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức-tin của Môn-đệ Thầy lên cao hằng ngày, ấy là công-quả đầu hết.” (ĐCT Giáp-Dần 1926)

Bởi vì, trên tinh-thần một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp, thì Tôn-giáo ấy phải có đủ Tam-bửu: TINH, KHÍ, THẦN.
- Về Thần: thì khi lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của Đạo-giáo.

- Về Khí: thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể của Diêu-Trì-Cung làm Khí (ấy là Lục-Nương, Thất-Nương, Bát-Nương).
- Về Tinh: thì hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Pháp, Đạo, Thế, tượng-trưng là: Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp, Thượng-Sanh (là ba ông Cư, Tắc, Sang)

Ấy vậy:
“Chúng ta xét thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh-phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn-giáo Đức Chí-Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô-đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.”

Thử hỏi, các Tôn-giáo từ xưa thì sao?
- Đạo Phật: có 4 người theo Ngài, nhưng không phải bốn người ấy theo làm Môn-đệ, mà theo đặng coi Phật có đoạt Pháp đặng chăng?

Sau cùng chỉ có hai người trọng-yếu hơn hết, rồi đến ngày cuối-cùng còn có một người đoạt đặng Phật-giáo mà thôi.
- Đạo Tiên: Đức Lão-Tử có một người Môn-đệ và một đứa ở là Từ-Giáp biết Đạo của Ngài. Duy có ông Doãn-Hỉ theo Đức Lão-Tử, đoạt pháp, truyền-giáo mà Đạo Tiên còn tồn-tại đến ngày nay.
- Đạo Khổng-Phu-Tử tuy vẫn nói có Tam thập-lục Thánh, Thất-thập nhị Hiền, mà cả thảy Môn-Đệ của Đức Khổng-Tử chưa chắc người nào đoạt đặng. Duy có một người là Thầy Sâm mà thôi. Bằng cớ là buổi chung-qui Ngài kêu Sâm mà nói: Đạo Ta chỉ có một ngươi biết mà thôi “Sâm, ngô Đạo nhứt vi quán chi.”
- Đức Chúa Jésus có nửa người Môn-Đệ thôi, bởi ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi ăn năn, khóc-lóc với Bà Maria mà xưng tội mình.
- Mahomet: Có một người Môn-đệ là phụ nữ mà Đạo Hồi đã thành vậy.

Chúng ta suy đoán thấy chỉ có Thương yêu: duy có một người thương hoặc nửa người thương mà các vị Giáo chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt điạ-cầu này.”
2 - Những vấn đề yếu trọng trong nền Đạo:
* Hộ-Pháp Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài

Ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934)
Đức Quyền Giáo-Tông qui Thiên có di chúc giao quyền Giáo-Tông Hữu hình tại thế cho Đức Hộ-Pháp. Lúc đó có rất nhiều sự kiện rối ren xảy ra trong nền Đạo, bên trong nội bộ của Đạo thì chia rẻ trầm-trọng, bên ngoài thì nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách áp đảo.

Hội Thánh gấp rút triệu tập Hội-Nhơn-Sanh và Hội Thánh để tìm phương củng-cố nền Đạo.

Ngày 17-10 Ất-Hợi (dl 12-11-1935) Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh thỉnh Đức Ngài kiêm nhiệm Chưởng quản Cửu-Trùng-Đài. Thiên-trách nầy đã được Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm Giáo-Tông Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ chấp thuận, có cho bài thơ khoán thủ như sau:
THI
HỘ giá Chí-Tôn trước đến giờ,
PHÁP luân thường chuyển máy Thiên-cơ.
CHƯỞNG quyền Cực-lạc phân ngôi vị,
QUẢN suất càn-khôn định cõi bờ.
NHỊ kiếp Tây-Âu cầm máy tạo,
HỮU duyên Đông-Á nắm Thiên-thơ.
HÌNH hài Thánh-thể chừ nên tướng,
ĐÀI trọng hồng-ân gắng cậy nhờ.
                                                           Nhứt Trấn Oai Nghiêm

Ngày 6-11Giáp-Tuất (dl 12-12-1934), Hội Nhơn Sanh và Hội-Thánh yêu cầu Đức Hộ-Pháp nắm quyền Chưởng quản Cửu-Trùng-Đài cho đến ngày có đủ 3 vị Đầu Sư để sớm chỉnh đốn nền Đạo.

Kể từ ngày ấy, Đức Hộ-Pháp nắm quyền Thống nhứt, Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài tức là Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài. Nhờ quyền thống nhứt và rộng rãi nầy, Đức Hộ-Pháp lèo lái con thuyền Đạo từ từ qua khỏi cơn sóng gió và phát triển thêm lên vượt bực.

Việc Đức Hộ-Pháp nắm quyền Chưởng quản Nhị Hữu hình Đài là do các Đấng nơi Ngọc-Hư-Cung ở cõi thiêng liêng quyết định. Hội-Thánh và Hội-Nhơn-Sanh nơi cõi trần là để hợp-thức-hóa quyết định chuyển pháp của Ngọc-Hư-Cung mà thôi.

* Lục-Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ nói về việc chuyển Pháp như sau:
LỤC NƯƠNG DTC (TNHT. II. 87)
Em chào mấy anh. Em đương ở Ngự Quan Cung, Bát-Nương đến cho hay rằng mấy Anh đương ngưỡng nghĩa, nên vội vã đến hầu.

Khi mơi nầy, Em đặng tin lành: Ngọc Hư Cung lo chuyển pháp. Cả Thiên Thơ hủy phá, sửa cải Pháp Chơn truyền. Chư Thần Thánh Tiên Phật vui mừng chẳng xiết, Diêu Trì Từ Mẫu đẹp dạ không cùng, nhưng vì cái mừng ấy mà làm cho Người đổ lụy, ngâm bài thi nầy:
THI
Vú Mẹ chưa lìa đám trẻ con,
Độ sanh chưa rõ phận vuông tròn.
Quyền cao Ngự Mã là vinh bấy!
Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ còn?.
Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo,
Vẻ tươi bợn thế nét dò đon.
Thà xưa ví bẵng nay gìn vậy,
Lòng Mẹ ngại ngùng, con hỡi con!
                                                                       Diêu Trì Từ Mẫu

Nhị Ca ôi ! Bài thi làm cho cả Cung Diêu Trì đều đổ lụy. Mấy anh nên lấy nó làm phép hằng tâm thì bước vinh diệu thiêng liêng không lạc nẻo”

Lưu ý:
- Ngự Mã: tức là Ngự Mã Thiên Quân, quyền hành của Đức Hộ-Pháp trong buổi Tam-kỳ Phổ độ này.
- Hiệp Thiên: Hiệp-Thiên-Đài, Hộ-Pháp Chưởng quản.
- Nhị Ca: Lục-Nương cũng gọi Đức Hộ-Pháp là Nhị Ca, gọi theo Thất-Nương Diêu-Trì-Cung.

Trong Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển, phần Thi Văn, có một bài thi khác, các Đấng cho biết Thiên thơ sửa đổi, bởi vì các Chức sắc lãnh đạo CỬU-TRÙNG-ĐÀI không có phương cách trị an trong cửa Đạo, nên phải chuyển qua cho HIỆP-THIÊN-ĐÀI cầm quyền điều khiển nền Đạo.
THI
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu-Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp-Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.
                                                                                  TNHT. II. 124

Ngày 18-10 Ất-Hợi (dl 13-11-1935) Đức Lý Giáo-Tông có giáng cơ tại Hộ-Pháp-Đường nói chuyện với Đức Hộ-Pháp, xin dẫn chứng:
- Cười ! Lão chẳng nói rõ, Hiền Hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Đạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu danh vô thực như vậy có phải ?

May thay ! Thiên thơ do một mặt chẳng chi dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương cầm quyền trị thế.

Hộ-Pháp bạch:
- Thiên thơ đã đổi, Đệ-tử xin giao quyền hành của Quyền Giáo-Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên thơ vững chặt.
- Cười ! Lão e cho:
. Một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại;
. Hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay thì Hộ-Pháp có thế nào điều hành Hội-Thánh cho đặng. Ấy vậy, cứ để y.
Nghe thi nầy và kiếm hiểu: (TNHT. II. 97 )
THI
Bát nhã từ đây vững lái thuyền,
Tuông pha khổ hải độ nhơn duyên.
Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,
Rạch nước trừ oan đủ diệu huyền.
Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,
Nâng an lòng bản cậy Thần-Tiên.
Phong ba mấy độ đà qua khỏi,
Ném thử Gián Ma đóng Cửu tuyền.
                                                                       Đức Lý Giáo-Tông

Một bài Thánh giáo khác của Đức Lý Giáo-Tông nói thêm về việc: Tại sao Đức Lý Giáo-Tông giao quyền Giáo-Tông Hữu hình cho Đức Phạm Hộ-Pháp nắm giữ:

Phò loan : Hộ-Pháp Tiếp-Đạo.
Tòa-Thánh, 1-12 Quí-Tỵ (dl 5-1-1954).
* LÝ GIÁO-TÔNG
- Hiền Hữu có nghĩ tại sao Lão phải dâng quyền Giáo-Tông cho Hiền Hữu đặng trọn quyền Chí-Tôn Hữu hình tại thế chăng?
Hộ-Pháp bạch:
- Xin Ngài dạy rõ.
- Thì cũng do lòng Từ-bi vô tận của Đại Từ Phụ. Người sợ oai của Lão khi cầm quyền thiêng liêng mối Đạo quá chấp nê phàm tánh, không dung thứ tội tình cho con cái của Người, nên giao cho Hiền Hữu là bạn đồng sanh, biết đau đớn, biết khổ cực với mảnh thi phàm, mà rộng dung cho họ. Cười!. . .

Quyền Chí-Tôn trong tay Hiền-Hữu thì cứ tự dụng đặng định vị cho Thánh-Thể của Người. Lão chẳng nên can thiệp vào đó.

Nầy Hiền Hữu, Lão nói thử, Hiền Hữu nghĩ coi có lẽ nào Lão cầm cơ thăng vị cho những người như : Kiên, Chấn, Thạch, Dược?

Cười! Hiền Hữu tự mình định liệu lấy, nếu cần, phò loan nơi Giáo-Tông-Đường, Lão sẽ đến bàn luận. Lão xin kiếu. THĂNG.

* Lập Phạm Môn và Cơ-Quan Phước-Thiện:
Khởi đầu, Đức Lý Giáo-Tông lập Minh-Thiện-Đàn tại nhà Ông Đinh-Công-Trứ ở làng Phú-Mỹ quận Châu Thành, tỉnh Mỹ-Tho ngày 15-7 Mậu-Thìn (dl 29-8-1928).

Sau đó:
Ngày 25-2 Kỷ-Tỵ (dl 4-4-1929), Đức Lý Giáo-Tông giao Minh-Thiện-Đàn cho Đức Hộ-Pháp để Ngài thành lập Phạm Môn, theo tinh thần của 4 Câu thi của Đức Chí-Tôn ban cho:
THI
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sanh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.
                                                                                  Đức Chí-Tôn

Các cơ sở Lương điền Công nghệ của Phạm Môn được chánh thức khai mở vào cuối năm Canh Ngọ (1930) tại Tâm Lạch, xã Trường Hòa (Tây-Ninh).

Đầu tháng Giêng năm Giáp-Tuất (1934), sau khi ăn Tết xong, Đức Hộ-Pháp ra lịnh triệu tập khẩn cấp tất cả các công quả Phạm-Môn khỏe mạnh về giữ Tòa-Thánh, chống lại lực lượng của Chi-phái kéo về dùng bạo lực đánh chiếm Tòa-Thánh.

Ngày 20-Giêng Giáp-Tuất (dl 5-3-1934) lực lượng Chi-phái kéo về Tòa-Thánh rất đông, bị các công quả Phạm-Môn chận ngay tại các cổng vào Nội Ô, kiên quyết không cho vào Nội-Ô chiếm Tòa-Thánh, khiến âm mưu của họ bị hoàn toàn thất bại.

Sau đó, nhà cầm quyền Pháp tìm cách bắt bớ các công quả Phạm Môn, và buộc Hội Thánh đóng cửa các cơ sở của Phạm Môn.

Năm Mậu Dần (1938), Đức Hộ-Pháp chuyển Phạm Môn thành Cơ Quan Phước Thiện, trực thuộc Chi Đạo Hiệp-Thiên-Đài, dưới quyền đặc biệt của Đức Hộ-Pháp, do Đạo-Nghị-Định số 48/PT ngày 19-10 Mậu-Dần (dl 10-12-1938) của Đức Lý Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp đồng ký tên, qui định 12 phẩm cấp Chức sắc Phước-Thiện gọi là Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng

* Đức Hộ-Pháp cho thơ tức ban quyền-hành:
Năm 1960, Đức Hộ-Pháp giáng cơ tại Giáo-Tông-Đường, có khen Ngài Bảo-Thế bằng bài thơ khoán-thủ : Bảo Thế Cứu Nước:
THI
BẢO trọng vạn linh hiệp Chí Linh,
THẾ nguy chuyển loạn lập hòa bình.
CỨU đời mở đạo kinh luân sẵn,
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.
                                                                       Đức Hộ-Pháp

Ngày 6-2 Ất-Tỵ (dl 8-3-1965) Đức Hộ-Pháp cũng có giáng cho Ngài Bảo-Thế bài thi khoán thủ:

Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài Thừa mạng:
THI
QUYỀN uy nhờ bởi giữ Chơn truyền,
CHƯỞNG đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.
QUẢN quán chúng sanh tu cội phúc,
HIỆP hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.
THIÊN môn mở rộng nguyên nhân đến,
ĐÀI nội tuyển thăng Thánh đức lên.
THỪA thế chuyển nguy an Thánh địa,
MẠNG Trời đâu để quỉ hành quyền.
                                                                                  Đức Hộ-Pháp

* Thơ của Bà Lâm-Hương-Thanh:
Sau đây, xin ghi lại một bài giáng cơ của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh tại Hộ-Pháp Đường, đêm 1-1-1946. Phò loan: Khai Đạo và Sĩ Tải Lợi.

"Chào Trí Thanh, cùng mấy em:
THI
LÂM tuyền đã ẩn mấy thu sang,
HƯƠNG đượm nhuần trăng đã lố màn.
THANH Thủy châu về huờn kiếm báu,
Đề danh đến buổi đất nhà an.
                                                           Lâm Hương Thanh
Khai Đạo bạch: ... ... ....

Bà đáp:
- Đây hết buổi phong ba, đến hồi an tịnh. Vậy mà không sao. Mình muốn cho yên, trước phải loạn, sau mới yên được. Muốn nước đang đục lóng trong thì phải quậy trộn cho dữ mới lóng bùn được.

Đạo có khảo mới cao. Chức sắc bị khảo mà chịu nỗi mới có giá trị. Học trò chịu khảo thí mới lãnh cấp bằng. Nếu từ chối thì rớt. Thế thường học nhiều đậu ít. Còn nơi đây là Trường Công Quả, vậy vị nào muốn xứng đáng Môn-đệ của Đức Chí-Tôn thì chẳng bao giờ ngần ngại các việc công quả, cho chung Thánh Thể Đức Chí-Tôn, cũng do nơi mấy em đào tạo về mặt ngoại-giao.

Vậy có câu:
Ái nhơn, nhơn hành ái chi,
Bất ái nhơn, nhơn hành bất ái chi.
Kỉnh nhơn, nhơn hành kỉnh chi,
Bất kỉnh nhơn, nhơn hành bất kỉnh chi.

Có cảm mới có ứng. Nên hiểu lọc lừa đi cho khéo, đồ cho trúng thời đắc chí sở nguyện.

Tâm vững, cầm lèo lái chạy qua bỉ ngạn. Tuy sóng to gió lớn, lượn sóng xuôi sẽ chạy, miễn rằng ngó phía trước thuyền, tránh cho lẹ những đồ vật ngăn cản.
Sĩ Tải Lợi bạch: ... ... ....

Bà đáp:
- Sợ không quen sóng gió, buồn mửa. Nếu có mửa thì uống nước chanh. Mình ăn phủ bì chúng nó mà.
- Em Thái Khý Thanh, nhờ mới để bộ râu nên vuốt râu thả mồi câu chúng nó. Nó mảng nghĩ nhìn bộ râu, quên cả sự nghiệp, đành chịu phọt phe.

Ước mong sao mấy vị trong đám cầm cờ chỉ nẻo Cửu-Trùng đồng phun râu, chúng nó mới kinh-hãi.
Qua mừng và khen tặng Chú Khách nầy làm gương cho kẻ Việt.
THI
Nam Hải Prasey ấy vẫn gần,
Hai đàng buổi trước lại đồng thân.
Nhớ nhau khuyên nhủ đôi lời tặng,
Cùng bạn khi xưa lúc ở trần.
                                                           THĂNG
* Bát-Nương:
THI
Đảnh vân để lối định phong cương,
Nước Việt ngày sau sẽ phú cường.
Đạo đức treo giềng noi vạn quốc,
Tinh thần để lối dẫn Đài Chương .
Diệt tà định được hồn Hồng Lạc,
Tôn chánh tạo nên cảnh thái bường.
Liệt quốc sau cơn nguy đại chiến,
Hướng về Việt quốc lãnh niềm thương.
                                                           Bát-Nương

* Đức Lý Giáo-Tông giáng ban cho Hộ-Pháp một bài thi:
THI
Đức tin một khối tượng nên hình,
Đã hiệp vạn linh với Chí Linh.
Nêu phướn từ bi tiêu loạn lạc,
Soi gương bác ái lập Hoà Bình.
Chiêu an tả đạo trừ tà khí,
Độ tận chúng sanh chiếu cứu tinh.
Mở mắt thiên lương dìu chủng tộc,
Nghĩa nhân âu đổi lấy nhơn tình.
                                                                                  Đức Lý Giáo-Tông

3 - Đức Chi-Tôn đến với danh AĂÂ
Nhớ lại một đêm kia, thình lình có một Đấng giáng đàn với một Thần-điển phi thường và tự xưng là AĂÂ và dùng lời lẽ văn chương để dạy Đạo. Về sau, các Ngài mới hiểu ra là Đấng AĂÂ chính là Đức Cao-Đài Thương-Đế, là Đức Chí-Tôn Đại-Từ-Phụ. Đức Ngài nói rằng:
“Ta phải hạ mình là một Chơn linh thường, để cảm hóa các con”.

AĂÂ là một giả danh của Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, khi giáng điển xuống các buổi Xây bàn để tiếp xúc và cảm hóa các Môn-đồ đầu tiên của Ngài, trong khoảng thời-gian từ hạ tuần tháng 7 năm 1925 đến ngày Noel 25-12-1925 (Ất Sửu).

AĂÂ là ba nguyên âm đầu tiên của vần quốc ngữ Việt-Nam, tượng trưng Tam Thiên Vị, là khởi đầu của Càn-Khôn Vũ-Trụ. Đó là Thượng-Đế Ba Ngôi:
- A là ngôi Thái Cực, ngôi Phật, là Chí-Tôn.
- Ă là ngôi Âm, ngôi Pháp, là ngôi Phật-Mẫu.
- Â là ngôi ba, ngôi Tăng, là toàn thể vạn linh.

Ba ngôi đó gọi là Tam ngôi Nhứt thể: Phật .Pháp. Tăng. Ba ngôi này ở tại trung tâm của Càn khôn, chiếm ba từng Trời: thứ nhứt, thứ nhì và thứ ba trong Tam thập lục Thiên (36 từng Trời).

* Quyền hành của ba ngôi: Phật. Pháp. Tăng:
- Phật cầm quyền-năng của Chơn-linh.
- Pháp cầm quyền năng của khí thể tức là cơ sản xuất hữu hình, cầm quyền sự sống của vạn loại vì khí thể là chất sanh vạn vật.
- Tăng cầm quyền năng nuôi sống thể hài

Do đó, mà quyền năng mỗi ngôi cũng phân biệt:
* Ngôi thứ nhứt lo về sự tấn triển của Chơn-linh, dạy dỗ các Chơn linh cho cao thượng để hiệp về cơ qui nhứt.
* Ngôi thứ nhì lo về sự giáo-hóa các Chơn Thần, lo về cơ sản xuất và nuôi nấng vạn linh.
* Ngôi thứ ba lo về cơ cai trị vật loại cùng là đùm bọc sự sống để đem trở lại cơ qui nhứt, làm thế nào cho điểm linh-quang không bị mờ ám trong cái xác hình.
- Ngôi thứ nhứt ấy là giáo-hóa.
- Ngôi thứ hai ấy là dưỡng-dục.
- Ngôi thứ ba ấy là cai-trị.

Mỗi một sanh vật ở càn-khôn vũ-trụ này đều chịu trong định-luật ấy, không một vật chi qua khỏi hết.
- Luật tăng tiến thuộc Phật.
- Luật sanh sống thuộc Pháp.
- Luật quản-trị thuộc Tăng.

Các nhà khảo cứu và Thần-linh-học (nhứt là Thông thiên học) cho biết rằng:

Các vị: Brahma Phật, Shiva Phật, Krishna Phật, là ba ngôi của Đức Thượng-Đế được gọi là Tam vị Nhứt Thể với bảng tóm lược như dưới đây:

* Veda gọi Ngài là:
- Brahma (Thần sáng tạo)
- Shiva (Thần hủy diệt)
- Krishna (Thần bảo tồn)

* Cơ Đốc giáo gọi Ngài là:
- Đức Chúa Cha (Dieu le Père)
- Đức Chúa Con (Dieu le Fils)
- Đức Chúa Thánh-Thần (Dieu le Saint Esprit)

* Phật-giáo gọi Ngài là :
- A-Di-Đà-Phật (Amitabha)
- Quan-Thế-Âm (Avaloki.Teshvara)
- Đại Thế Chí (Manjushiva)

* Nho-giáo gọi Ngàì là:
- Ngôi Thái cực
- Ngôi Lưỡng-Nghi,
- Ngôi Tứ-Tượng.

* Thông-Thiên-Học gọi Ngài là:
- Đệ nhứt Thượng-Đế (Premier Logos)
- Đệ nhị Thượng-Đế (Deuxième Logos)
- Đệ Tam Thượng-Đế (Troisième Logos)

Kết luận về Tam Thế Chí-Tôn:
- Đấng Chơn linh Tam Thế Chí-Tôn, nhơn loại đều biết tánh danh đó: Nhứt Thế BRAHMA-Phật, tức nhiên là Tạo Hóa.
- Nhị Thế SHIVA-Phật tức nhiên là Tấn-Hóa.
- Tam Thế CHRISTNA-Phật tức nhiên Bảo-Tồn, Đấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái tuất thương sanh.

Nay, Đức Cao-Đài Thượng-Đế đến với dân-tộc Việt-Nam mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, Ngài nói rõ ba ngôi vị ấy chính là Một, là hiện thân của Ngài

Ấy là Đại-Từ-Phụ, Đức ngài xác nhận rằng:
“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới thì Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và Ngôi của Thầy là Thái-cực.

“Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến ra Bát-quái, Bát-quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới.
“Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: Vật-chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm gọị là chúng sanh”

Một vũ-trụ hay một chơn-linh dù cao-trọng, dù hèn thấp cũng có nơi mình ba định-luật ấy để dung-hòa lẫn nhau mới tạo ra cái sống của vũ-trụ càn-khôn

4 - Đức AĂÂ thể hiện sự thâm tình và bao dung:
Đấng AĂÂ đến với nhóm Xây bàn lần đầu tiên vào hạ tuần tháng 7 năm 1925 (Ất Sửu). Ba Ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang thỉnh bàn ra tính Xây bàn để cầu Cô Đoàn Ngọc Quế giáng dạy làm thi. Ba Ông vừa đặt tay lên bàn thì có một vị giáng vào.

Cô Đoàn Ngọc Quế dạy ba ông muốn cầu chư Thiên thì ngày đó ba anh phải ăn chay cầu mới được. (Ba ông vâng lịnh Cô Đoàn, ngày cầu thỉnh Tiên ba ông ăn chay)
1 - Ngày 25-8 Ất-Sửu (dl 18-10-1925) Có ông Thổ địa Tài thần giáng bàn cho thi, trong đó có hai câu này nhờ Đức AĂÂ giải nghĩa giùm:
Người trước nghĩ thương cơn tuyết nhuộm,
Lũ sau buồn chạnh nỗi sương pha.
Đức AĂÂ giải nghĩa (Ông giải nghĩa cao kỳ lắm):

Có câu: Mã bì tuyết thể
Nghĩa là da ngựa tuyết thân, là trang tài tướng chinh chiến một mình, chính là da ngựa bọc thân, tuyết sương đắp thể. Tỏ rõ đời ly loạn, có câu: “Gối vác nằm sương” chỉ tấm thân chịu nhọc nhằn cực khổ. Câu thi trên mà sửa lại như vầy thì nhằm điển văn hơn:

Đức AĂÂ sửa hai câu văn của Thổ Địa tài thần:
Thân trẻ phải cơn sương gối ướt,
Thương già gặp buổi tuyết thân pha.

Tuyết thân pha nghĩa là hoà lộn, chịu lạnh lùng đến đỗi thân với tuyết cũng lạnh như nhau.

2/- Ngày 26-10 Ất-Sửu (dl 12-11-1925), hai nhà báo tên là Lê Thế Vĩnh và Phạm Minh Kiên đến nhà Ông Cư hầu đàn để xem sự Xây bàn huyền diệu thế nào. Ông Cư xin với Ông AĂÂ cho mỗi vị khách một bài thi. Đấng AĂÂ liền đáp.

Để Bần-đạo cho chung hai người một bài:
THI
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang.
Nước nhà ví biết thân là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.
                                                           Đấng AĂÂ
Ai nấy đều khen chỉ có bốn câu thi mà gồm đủ bộ vận của hai nhà báo.

3/ - Ngày qua tháng lại tới ngày (dl 13-1-1925). Ngày này lập bàn hương án chưng những hoa thơm, xông trầm trọn ngày (nhà không tiếp khách nào hết. Nhà ở số 134 đường Bourdais, Sai-gòn, nay là đường Calmette). Ba ông vọng bàn cầu khẩn thắp hương thơm từ 10 giờ đêm tới giờ Tý, xông trầm hương, thành tâm cầu nguyện, lối năm phút thì có Lục-Nương Diêu-Trì-Cung giáng

Mừng ba Anh hiểu Đạo:
Lục-Nương
Mừng nay đường Đạo đã êm chơn,
Vàng ngọc công khánh chẳng dám hơn.
Rượu cúc bàn-Đào chở hội ẩm,
Thuốc Tiên lò Tạo giữ sanh tồn.
Bồng-lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh Đảo nghiêng tai Thánh khải đờn,
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục phẩm chi sờn.
                                                           Lục-Nương

4/ - Năm 1925, Ông Nguyễn Trung Hậu nghe đồn Ông Tắc, Ông Cư, Ông Sang xây bàn có Tiên giáng cho thi hay lắm. Buổi nọ, Ông Hậu đến nhà Ông Cư, ý muốn thử xem thiệt giả.

Ông Hậu vào hầu đàn. Đức AĂÂ giáng, gõ bàn cho Ông Hậu bài thi sau đây:
THI
THUẦN văn chất ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Đến hồi búa Việt giục cờ Mao.
                                                           AĂÂ

Không ai biết cái bút hiệu của Ông Hậu là Thuần Đức, mà Đức AĂÂ nói lên đúng tên làm cho Ông Hậu bái phục và bắt đầu có đức tin.

Ông Cư xin Đức AĂÂ giải nghĩa bốn chữ: Cờ Mao búa Việt. Đức AĂÂ giải:
“Cờ Mao búa Việt” là vật binh quyền của Hiên Viên Huỳnh-Đế ban cho các Trấn Chư Hầu đặng quyền chinh phạt. Ngũ Đế mà hai nhà Thương, Châu còn dùng.
Đáng phạt thì phát cờ Mao,
Đáng giết thì ban búa Việt.

Cờ Mao màu hồng, trên lá cờ có đề bốn chữ: Mao trừ loạn tặc. Búa Việt, trên lưỡi búa có khắc bốn chữ: Việt sát phản thần (Theo Đạo Sử I của Nữ Đầu Sư Hương Hiếu)

5/- Một hôm, Ông Nguyễn Trung Hậu bạch cùng Đấng AĂÂ rằng: Tôi còn nhớ hai câu đối thuở nay chưa ai đối được, xin đem ra cho Ngài đối chơi.

- Đấng AĂÂ bèn đáp: Bần Đạo xin hầu đối, nhưng nếu đối ra không chửng, quí vị chớ cười và niệm tình Bần Đạo mà chỉnh lại cho.
- Câu đối ông Hậu ra:
Ngồi trên NGỰA đừng BÒ con NGHÉ.

Ông AĂÂ đối lại:
Cỡi lưng TRÂU chớ KHỈ thằng TÊ
- Câu đối ông Hậu ra: NGỰA chạy MANG lạc
Ông AĂÂ đối lại: CÒ bay LE bè

Ghi nhận: Mỗi câu trên đều ngụ hai ý và đối rất chỉnh:
- Nghĩa 1 đều là có ý dạy bảo, khuyên răn, dặn dò.
- Nghĩa 2 là chơi chữ: Câu “ngồi trên NGỰA đừng BÒ con NGHÉ” có đến ba con vật: ngựa, bò, nghé.

Câu đối lại: “cỡi lưng TRÂU chớ KHỈ thằng TÊ” cũng đủ ba con vật: Trâu, Khỉ, Tê (tê giác).
Câu đối thứ nhì cũng vậy: NGỰA chạy MANG lạc
Tức nhiên nói rằng: Con ngựa thì chạy, con mang (hay Mễn) thì lạc.
Câu đối lại: CÒ bay LE bè, thì rằng Con cò thì bay, con le le thì đi lè bè.

Từ đây Ông Hậu mới hết sức phục tài Đức AĂÂ và hết lòng tin tưởng có người vô hình và sau đó Ông Hậu nhập môn vào Đạo.

Không bao lâu sau, người đến hầu đàn tại nhà Ông Cư càng ngày càng đông, trong ấy có Ông Trương Hữu Đức làm việc tại Sở Hỏa Xa và thi sĩ Bồng Dinh, tục kêu là Ông giáo Sỏi, làm việc tại Dinh Hiệp Lý Sài Gòn.

6/ - Hôm ấy, ông Bồng-Dinh bạch cùng Đấng AĂÂ:
Trong Truyện Kiều có câu:
“Sửa sang níp Tử xe Châu,
“Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa”

Chẳng hay: Níp Tử xe Châu là gì? Xin Ngài chỉ giáo.

Đấng AĂÂ đáp:
Níp Tử là cái rương của Đức Khổng Tử.
Xe Châu là cái xe của Vua Châu Võ Vương ngồi đi phạt Trụ. Cái rương của Khổng Tử dùng đựng sách vở, tức là văn chương của người văn sĩ thác rồi thời biết bao nhiêu học thức văn chương cũng theo xác thịt mà chôn vào quan cữu, nên Nguyễn Du mới dùng hai chữ Níp Tử để gọi cái quan tài của bậc văn chương tài tử, đây là nàng Đạm Tiên.

Vua Châu Võ Vương ngồi long xa đi phạt Trụ, tức là gồm thâu giang sơn nhà Trụ vào đấy. Con người ở đời làm được bao nhiêu sự nghiệp, khi thác rồi cũng phủi tay không, thì chẳng khác nào bao nhiêu sự nghiệp tự mình gây dựng trong buổi sanh tiền, khi nhắm mắt rồi, thảy đều thâu vào trong linh xa vậy. Cho nên, Nguyễn Du dùng hai chữ Xe Châu để gọi cái linh xa của kẻ tài tình bạc mạng.

Kể từ đó, ba Ông thường cầu Đấng AĂÂ về để học hỏi về thi văn. Đức AĂÂ thường giáng cho thi:
THI
Người hứng trăng thanh kẻ bụi vùi,
Âm Dương cách trở chẳng cùng vui.
Hạc mây đã khỏi lâm trần cấu,
Cõi tục thương người xúc dạ Tôi.
                                                           Đức AĂÂ

Ngày 16-12-1925 Đức AĂÂ giáng cho thi:
THI
Cứ níu theo phan Đức Thượng-Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bành an.
Nguyệt hoa căn cội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành Dương hưởng Đạo nhàn.
                                                                       Đức AĂÂ (20-12-1925)

Mừng thay gặp-gỡ Đạo Cao-Đài!
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

***

Có cơ có thế có tinh thần,
Từ đấy Thần Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên.

Ngày 27-11-1925. Ông Quí-Cao có giáng cho thi tiếp:
Tử sanh đã định tự thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
Bắc nguỵ quan văn tâm mộ hữu,
Giang Đông khán thụ luỵ triêm y.

* Thất-Nương (Giải nghĩa hai câu chót) nghĩa là:
Khi Như Hoành ở Bắc Nguỵ đi thuyết chiến bên Giang Đông gặp Bạch-Hàm thì tâm đầu ý hiệp, kết làm anh em. Khi Như Hoành về Nguỵ thì anh em khó phân tay.

Như Hoành than rằng: “Bắc Nguỵ văn thiên thụ”
Bạch-Hàm than rằng: “Giang Đông nhất mộ vân”

Nghĩa là: Ngó Bắc Nguỵ nghe ngàn cây đưa tiếng bạn.
Nhìn Giang Đông thấy khóm mây vẽ hình anh.
Thất-Nương còn giải nghĩa câu:
“Phụng hàm đơn chiếu đề dương bạn”
Là phụng ngậm tờ chiếu về bờ Dương, Dương là đại thọ.
Đạo-đức chơn kinh có câu: “Dương vô trần nhiễm, đạo giả như Dương”.
Kinh Phật có câu: “Dương thuỷ năng huỷ tam đồ khổ chi tội”.
Dương bạn: là bờ Dương, là nền đạo-đức.

Thất-Nương giải tiếp:
“Trải bao thỏ lặn ác tà”.
Ngôn Đường Thi có câu: “Nhạ phi đông hải chí Tây sơn nhứt nhựt trường” nghĩa là Con chim ác bay về biển Đông tới núi Tây thì giáp một ngày. Mượn điển văn ấy mà chỉ một ngày: Mặt trời sớm mai mọc tại hướng đông, chiều lặn về hướng Tây. Khuất bóng ác tức khuất bóng mặt trời thì qua một ngày.

“Vừng ô” Không có điển văn. Tuy nhiên Thi văn có câu “Ô thước qui sơn” tức 1à quạ bay về núi.

Đã biết rằng hễ chiều thì biết bao nhiêu loài chim bay về núi, song lấy tích quạ mà chỉ rằng chiều tối thì phải hơn, vì quạ thì “Đen lông đen cánh bộ giò cũng đen”.

Chữ Hán thì chỉ các loài chim đều gọi là Điểu (11 nét) Chim quạ cũng là loài Điểu, nhưng chỉ có con mắt có màu trắng, dễ nhận ra ban ngày, còn khi chiều xuống, đêm tối dần nên hình dáng cùng màu lông của Quạ lẫn trong màn đêm, còn lại màu đen tuyền mà thôi. Thánh nhân viết chữ Ô (10 nét)

* Thi Sĩ Bồng-Dinh là người rất ham thi văn của Đức AĂÂ, ông này thuộc rất nhiều thơ của Đức Ông, có xướng một đề thi:
THI
Dã tràng ai dễ xét công đâu?
Bãi biển thường xe cát lấp đầu.
Xúc cát trải bao cơn sóng lượn,
Nhăn mày cười bỡn khúc sông sâu.
Biết không nên việc nơi Trời nước,
Nào có nao lòng cuộc bể dâu,
Nhiều ít có danh trên võ trụ,
Kẻo mà thẹn với mấy bầy trâu.

Lão Bồng ( 15-12-1925)
* Lục-Nương. Hoạ:
Công Dã tràng công cán để đâu?
Muốn ngăn sóng cả khoả ngang đầu
Đất vò nên lọn xây thành lỡ
Nước dập tuông bờ lỡ giạu dâu.
Đấp biển vì lo bờ biển lỡ,
Moi sông bởi muốn ngọn sông sâu.
Nên hư trối mặc đời phi thị,
Lam lụ buồn cười bấy lũ trâu.

* Thầy đến cho thi. Bài thi này Thầy cho ông Phạm Công Tắc, nhưng ông không mấy bằng lòng cho là “Dị hợm” vì Thầy cho thi ai nấy cũng tốt, duy có riêng Ngài thì bài thi khó hiểu quá:
THI
Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.

Ông Cư thấy bài thi có ý nghĩa rất lạ, liền hỏi vị giáng cơ tên gì, thì vị ấy gõ bàn xưng là AĂÂ.

Ông Cư hỏi Ông AĂÂ bao nhiêu tuổi? Ông AĂÂ gõ bàn trả lời, đếm hoài tới mấy trăm, mấy ngàn cái mà bàn vẫn tiếp gõ. Ông Cư nói chắc Ông nầy ở trển lớn lắm, nên không dám hỏi nữa.

Kể từ đó, Đấng AĂÂ thường nhập bàn giảng dạy ba Ông nhiều điều rất thâm thúy. Những điều nào quá khó khăn mà không ai giải thích nỗi thì cầu Ông AĂÂ về, Ngài giải thích rất minh bạch khiến mọi người đều kính phục.

Bài thơ giản dị như trên mà kỳ thật Đức Chí-Tôn đã ban quyền cho Ông Phạm Công Tắc với một quyền uy tối thượng trong cửa Đạo Cao-Đài, là Hộ-Pháp Chưởng-quản Nhị Hữu hình đài, là Giáo-Chủ về mặt hữu hình, Đức Chí-Tôn là Giáo-Chủ vô vi.Về mặt huyền linh Đức Ngài nắm hai Bát-quái của Đại-Đạo
(Xin đọc thêm Dịch-Lý Cao-Đài rõ về Bát-quái)

Đức AĂÂ (họa Bồng Dinh)
Nhớ tình nhả ngọc với gieo vàng,
Bồng đảo trần gian cách trở đàng.
U hiển không từ nhơn nghĩa cũ,
Gặp nhau xin phó bóng thiều quang.

(6-12-1925)
Nước trí non nhân hứng Đạo thoàn,
Một bầu nhựt nguyệt nỗi mênh mang.
Đờn tòng réo rắt gieo hơi oán,
Nhạc suối ro re trỗi khúc xang.
Chim nước chào người bay rộn rực,
Cây che tiếp khách bước an nhàn.
Dừng chơn ngó lại miền nhơn sự,
Thương kẻ lo đời chẳng rảnh rang.

(7-12-1925)
Vịnh Mai
Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết não,
Thi không mai tuyết thế không xuân.

(14-12-1925)
Cũng đồng địa vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết giành trong sạch mai giành hương.

(14-12-1925)
Nhơn vô tùng thế tắc tùng thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
Mạc hối tiền trình căn dĩ định,
Tự nhiên dĩ hậu phản như tiền.

(14-12-1925)
Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao-Đài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.

B - Tìm Đại Ngọc Cơ Cầu Diêu-Trì-Cung:
1 - Duyên khởi:
“Qua thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), quí Ngài tiếp đặng mấy lời tiết lộ của Thất-Nương về Diêu-Trì-Cung: Trên hết có Cửu Thiên Nương Nương chưởng quản, dưới có chín vị Tiên cô mà Thất-Nương đứng thứ bảy, cô Hớn Liên Bạch là Bát-Nương.

Ngài Cao Quỳnh Cư được Thất-Nương dạy cho cách cầu Đấng Cửu Thiên Nương Nương phải trai giới:
Quí Ngài không hiểu Ngọc-cơ là chi, nhờ Cô chỉ dạy. Thất-Nương tả hình của Ngọc cơ, rồi dẫn giải rõ căn cội, lấy hình chùm sao Bắc đẩu tạo thành, lại dạy cách phò Ngọc cơ, rồi biểu quí Ngài mỗi người làm sẵn một bài thi mừng Đấng Cửu Thiên Nương Nương và sẽ cầu Nương Nương vào đêm Trung Thu.

Dịp may lúc bấy giờ có Ông Phán Phan văn Tý, làm việc ở Sở Trường Tiền vốn là bạn học cũ của Ngài Cư và ở gần nhà Ngài Cư tại đường Bourdais Sài Gòn. Ông Phán Tý qua lại chơi nhà Ngài Cư, thấy quí Ngài Cư, Tắc, Sang Xây bàn cầu Tiên, được một bài văn thì lâu quá, nhưng ông chưa dám nói, mãi đến khi Ngài Cư qua nhà nói muốn cầu bằng Ngọc cơ nhưng chưa có, ông Phán Tý liền cho biết ông đang có một cây Ngọc cơ, để ông lấy cho mượn. Ông Phán Tý liền đi đến ông Âu Kích ở chùa Minh Lý đường Douamont đòi lại Ngọc cơ mà ông đã cho ông Âu Kích mượn từ lâu để thỉnh kinh.

Ông Âu Kích nói:
- Hiện giờ tôi chấp bút được rồi, ít khi dùng đến Ngọc cơ, xin gởi Ngọc cơ trả lại ông.

Ông Phán Tý liền đem Ngọc Cơ về cho Ngài Cư mượn.
Nguyên cây Ngọc cơ nầy, ông Phán Tý thỉnh ở chùa Hội Khánh ở Thủ Dầu Một. Ông Trần Hiển Vinh tu ở chùa Hội Khánh thuộc Chi Minh-Thiện trong Ngũ Chi Minh-Đạo, có tạo ra 12 cây Ngọc cơ. Ông thân sinh của Trần Hiển Vinh là một pháp sư rất sành việc cầu cơ thỉnh Tiên. Ông Phán Tý vốn tánh hiếu kỳ, mới xin thỉnh một cây Ngọc cơ về nhà, để ngày nay có cho Ngài Cư mượn dùng.

Đúng đêm 14 tháng 8 âm-lịch năm Ất Sửu (1925), tại nhà Ngài Cư, Ngài dọn dẹp và trang hoàng nhà cửa tinh khiết, đặt một cái bàn dài giữa nhà, rải hoa xung quanh, đặt 9 cái ghế mây quanh bàn, ở đầu bàn đặt một cái ghế to hơn, trước mỗi cái ghế đặt một tách trà, một ly rượu, một cái chén và đũa, trên bàn chưng trái cây và bình hoa tươi tốt, có đốt trầm để xông hương khử trược trong nhà.

Đúng giờ Tý, Ngài Cư đốt nhang đèn lên, cả thảy ba Ngài Cư, Tắc, Sang đều quì lạy khấn vái, rồi đem Ngọc cơ ra cầu. Đây là lần đầu tiên cầu bằng Ngọc cơ. Quả có Đấng Cửu Thiên Nương Nương giáng cơ và sau đó lần lượt 9 vị Tiên Nương đều có giáng chào mừng quí Ngài.

Khi ấy Thất-Nương yêu cầu ba Ngài đờn và ngâm bài thi của mình đặng hiến lễ Nương Nương, còn Lịnh Bà và Cửu Tiên an vị ngồi nghe.

Chừng nhập tiệc, Thất-Nương mời ba Ngài ngồi chung vào bàn cho vui. Ba Ngài sợ thất lễ, không dám ngồi nhưng Thất-Nương ép buộc nên vâng theo, đặt thêm ba cái ghế phía sau 9 cái ghế của Chín Cô, xá một xá rồi ngồi xuống.

Bà Hương Hiếu, hiền nội của Ngài Cư, gắp đồ ăn chay đặt vào chén, rót rượu và nước trà đãi Lịnh Bà và Chín Cô, đãi người vô hình mà làm y như là đãi người sống vậy.

Nửa giờ sau, chừng như xong tiệc, hai Ngài Cư và Tắc phò Ngọc cơ trở lại. Lịnh Nương-Nương và Chín Cô giáng cơ viết lời cảm tạ, mỗi vị cho một bài thi để kỷ-niệm và hứa rằng, từ đây có Ngọc cơ rồi thì rất tiện cho Diêu-Trì-Cung đến dạy việc.

Đó là buổi phò Ngọc cơ đầu tiên và làm lễ gọi là Lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, 134 Bourdais Sài-gòn.

Từ đó về sau, quí Ngài dùng Ngọc cơ để cầu Đức Chí-Tôn và các Đấng thiêng liêng giảng dạy Đạo lý và chính nơi đây là nguồn gốc của Cơ Bút của Đạo Cao-Đài.

Như vậy, Cơ Bút của Đạo Cao-Đài bắt nguồn từ cây Ngọc cơ của chi Minh Thiện, mà cây Ngọc cơ nầy chế tạo theo cách thức của Đạo Minh Sư từ bên Tàu truyền sang nước ta.

Đạo Minh Sư bên Tàu đã biết cách phò cơ thỉnh Tiên, nhưng việc cầu cơ thuở đó còn rất khó khăn. Việc cầu cơ phải được thực hiện trên núi hoặc trong các ngôi chùa rất thanh tịnh và vắng vẻ. Ngọc cơ được treo lên thế nào để đầu cơ chạm nhẹ trên mặt cát khỏa bằng chứa trong thau. Khi có Tiên giáng thì cơ chuyển động và đầu cơ viết lên mặt cát một hoặc là hai ba chữ Hán. Phải cầu nhiều đêm như vậy mới được trọn một bài kinh hay một bài văn.

Như vậy, việc Phò cơ trong Đạo Cao-Đài có nguồn gốc sâu xa từ cách cầu cơ thỉnh Tiên của Đạo Minh Sư bên Tàu truyền sang nước ta. Nhưng đến khi Đạo Cao-Đài sử dụng Cơ bút thì có chút ít biến cải tiến bộ hơn, là thay vì đầu cơ viết chữ trên mâm cát thì đầu cơ viết ra chữ bóng trên mặt bàn và viết chữ quốc ngữ nên dễ nhìn và dễ đọc hơn. Việc viết chữ bóng không để lại dấu vết trên mặt bàn nên cơ viết rất nhanh, tạo thành một bài văn cũng nhanh lẹ.

Còn việc Xây bàn lúc đầu có nguồn gốc từ Thần Linh Học của nước Pháp truyền sang nước ta. Thần Linh Học Pháp gọi Xây Bàn là: La Table tournante hay La Table frappante”.
(Trích Cao-Đài Tự Điển- Nguyễn Văn Hồng)

Nhờ chơi Xây bàn mà ba ông CƯ, TẮC, SANG, học hỏi đạo-lý, trau-giồi trí-thức cho tới ngày Đức AĂÂ xưng chính danh là Đức Chí-Tôn dạy ba ông Vọng Thiên bàn ngoài sân, quì giữa trời mà cầu Đạo (nhằm ngày mùng 1 tháng 11 Ất Sửu, dương-lịch 16-12-1925). Đó là ba vị Đệ-tử mà Đức Chí-Tôn thâu nhập-môn trước nhứt trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa-Thánh Tây-Ninh.

Sau đó, Đức Chí-Tôn thâu-phục chư vị Thời-quân Hiệp-Thiên-Đài, vị Đầu-sư Thượng Trung Nhựt và các vị Đại-Thiên-phong Cửu-Trùng-Đài...

Do lịnh Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, ba vị Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp, hiệp với chư vị: Bảo-Văn Pháp-Quân, Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai-Pháp, Tiếp-Pháp, chia nhau đi khắp các tỉnh Nam-phần để phò loan thâu người cầu Đạo nhập-môn”  (ĐHP22-12 Đinh-Mùi 1958)

Duyên thơ giữa các vị ngày một khắn-khít hơn, nhờ đó mà Diêu-Trì-Cung đến với ba Ông để xướng hoạ thi văn làm nhịp cầu nối liền Tiên tục. Trong số ấy phải kể đến ba vị Tiên-nương có trách-nhiệm trực tiếp là: Thất-Nương, Lục-Nương, Bát-Nương.

Riêng phần ở trần-giới thì đây là cơ hội tốt để các bậc lương-sanh lần-lượt đến để cứu vớt quần-sanh. Thế nên về sau trong Hội-Thánh có đầy-đủ Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài cũng khởi từ đây.

Một điều mầu nhiệm đã đi vào cơ vận chuyển của Trời đất là Đức Chí-Tôn thâu nhận ba vị Đệ tử đầu tiên có tuổi là Tý, Sửu, Dần, ứng hợp với luật tuần hườn của vũ trụ là:Thiên khai ư Tý. Địa tịch ư Sửu. Nhơn sanh ư Dần. đó chứng tỏ là Tam Dương khai thái, biểu tượng bằng quẻ Càn Còn ba vì Tiên Nương: Thất-Nương, Bát-Nương, Lục-Nương biểu tượng bằng ba ngôi Âm, tượng bằng quẻ Khôn Càn Khôn là cánh cửa để đi vào Đạo Dịch hầu mới nhìn thấy được toàn bộ tướng diện của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, mà Tòa-Thánh Tây-Ninh đã chứa đầy Bí-pháp.

Thế nên Đức Chí-Tôn mới nói: “Chi chi cũng tại Tây-Ninh đây mà thôi”. Và “Nơi nào Thầy ngự thì nơi ấy là Thánh Địa”.

Do đó Tòa-Thánh Tây-Ninh là Thánh Địa của Việt-Nam, mà Việt-Nam là Thánh-Địa đối với toàn Thế giới.

Từ trước tới giờ trên Thế giới này chỉ có ba Tòa-Thánh mà thôi:
1/ - Tòa -Thánh Tibet ở Tây Tạng.
2/ - Tòa -Thánh La-Mã ở phương Tây.
3/ - Tòa -Thánh Tây-Ninh ở miền Nam Việt-Nam.

2 - Diêu-Trì-Cung đến cho thi văn:
Lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung lần đầu tiên được tổ chức tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư ở địa chỉ 134 đường Bourdais Sài-gòn ngày 15-8 Ất-Sửu (dl 2-10-1925).

Sau khi Đức Phật-Mẫu giáng cơ để lời cảm tạ 3 vị là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang thì Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên-Nương viết ra 10 bài thi, mỗi vị viết một bài kỷ-niệm buổi Hội-Yến Diêu-Trì-Cung lần đầu tiên ấy.

Mười bài thi nầy về sau được dùng làm 10 bài Thài hiến lễ Đức Phật-Mẫu và Cửu vị Tiên-Nương mỗi khi tổ chức Lễ Hội-Yến Diêu-Trì-Cung vào ngày rằm tháng tám.

            Bài Thài hiến lễ Đức Phật-Mẫu:
CỬU kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,
THIÊN Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.
HUYỀN hư tác thế Thần Tiên Nữ,
NỮ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.
                                                           Diêu Trì Kim Mẫu

            1/ - Bài Thài hiến lễ Nhứt Nương
            HOÀNG-THIỀU-HOA
            (Bửu-pháp Đàn Tỳ-bà)
HOA thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết đông về.
Non sông trải cánh Tiên Hòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.

Nhứt Nương có bửu pháp là Đờn Tỳ bà, có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển nơi từng Trời thứ 1 trong Cửu Trùng Thiên, xem xét các Nguyên nhân đang còn sống nơi cõi trần hay đã qui vị, vì mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển tượng trưng một Nguyên nhân

2/. Bài Thài hiến lễ Nhị Nương
(Bửu pháp là cái Lư hương)
CẨM tú văn chương hà khách đạo?
Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh Tiên còn mến cõi trần anh thư.

Nhị Nương có bửu pháp là cái Lư hương, có nhiệm vụ cai quản Vườn Đào Tiên của Đức Phật-Mẫu, đón tiếp các chơn hồn của những người qui liễu lên từng Trời thứ 2 của Cửu Trùng Thiên trong kỳ làm Tuần Nhị Cửu, mở tiệc Trường Sanh thết đãi, rồi đưa các chơn hồn đến Ngân Kiều, để cỡi Kim quang bay lên chầu Ngọc Hư Cung.

3/ . Bài Thài hiến lễ Tam Nương
(Bửu pháp là Quạt: Long Tu phiến),
TUYẾN đức năng thành Đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắt lẻo con thuyền,
Chở che khách tục Cửu tuyền ngăn sông.

Tam Nương có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhã trên biển khổ nơi cõi thiêng liêng để rước những người đắc đạo từ bến mê qua bờ giác, đi vào cõi Thiêng liêng Hằng sống và che chở Chơn linh của các khách trần không cho xuống cõi Địa ngục.

Tam Nương có bửu pháp là Quạt Long Tu, có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Thanh Thiên, là từng Trời thứ 3 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần Tam Cửu, để đưa chơn hồn đến diện kiến 7 vị Tiên (Chính là Trúc Lâm Thất Hiền vào thời nhà Tấn tu thành Tiên), vào Cung Như Ý bái kiến Đức Thái Thượng Lão Quân, học sách Trường Xuân do Hội Thánh Minh giao cho.

Ngoài ra, Tam Nương còn có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhã để độ sanh, như đã nói ở trên.

4/ . Bài Thài hiến lễ Tứ Nương
 (Bửu pháp là Kim Bảng)
GẤM lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa.
Đợi trông nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.

Tứ Nương: Tiền kiếp của Tứ Nương tên Lê-thị-Gấm. Mới lên 9 tuổi, Gấm đã chết. Nàng lại sinh vào nhà họ Lê, trong gia đình ông Lê-Doãn-Nghi. Ông Nghi có hai người vợ. Bà kế thất cùng ông sinh ra hai người con: một trai là Lê-Doãn Luân, một gái là Lê-Thị-Điểm. Trong một giấc mộng Ông Lê Doãn-Nghi nằm mộng thấy có vị Thần đến ban cho họ Đoàn. Từ đó về sau ông đổi ra họ Đoàn. Vì thế Bà Lê Thị Điểm bấy giờ là Đoàn thị Điểm. Cả hai anh em Bà đều có tài văn chương xuất chúng. Bà là một thi văn nổi tiếng của Việt-Nam. Dịch phẩm Chinh Phụ Ngâm của Bà được dịch ra nhiều thứ tiếng. Về thơ Nôm: Bà có giáng ban cho thi phẩm “Nữ Trung Tùng Phận” 1401 câu, là một tuyệt tác trong nền Đại-Đạo.

Bà khuyến khích nữ phái trau giồi trí thức, không thể là kẻ giàu có mà dốt nát, phải là người có trí thức, kén chọn kẻ có văn tài lỗi lạc mới tương xứng.

Tứ Nương có bửu pháp là Kim Bảng (Bảng vàng để ghi tên những người thi đậu Trạng Nguyên, Tiến Sĩ), nên Tứ Nương có nhiệm vụ tuyển chọn người đủ tài đủ đức cho thi đậu để ra giúp nước.
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét