Huyền Diệu Cơ Bút - 3 / 5 (Nữ Soạn-giả Nguyên Thủy)

Tứ Nương tiếp dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Huỳnh Thiên, là từng thứ 4 trong Cửu Trùng Thiên. Nơi đây, Chơn hồn được vào Cung Tuyệt Khổ bái kiến Đức Huyền Thiên Quân, được roi thần của Lôi Công trừ hết các trược khí còn bám vào Chơn thần, đi vào Lầu Bát Quái, lãnh Kim Câu đi lên chờ ở cửa Thiên môn (Cửa Trời).
5 / . Bài Thài hiến lễ Ngũ Nương
 (Bửu pháp là xe Như Ý)
LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.

Ngũ Nương Diêu-Trì-Cung có bửu pháp là xe Như Ý, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng Trời Xích Thiên, là từng Trời thứ 5 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần Ngũ Cửu, đưa chơn hồn đến Minh Cảnh Đài để xem rõ ràng trở lại tất cả những việc làm thiện ác vừa qua của chơn hồn nơi cõi trần, rồi hướng dẫn chơn hồn đến trước quyển Kinh Vô Tự để cho chơn hồn thấy được quả duyên của mình. Xong, đưa chơn hồn lên xe Như Ý, có các vị Oai Thần tiễn chân đi lên.

6/ . Bài Thài hiến lễ Lục-Nương
 (Bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu)
HUỆ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu Diêu phất phướn cõi tòng đưa Tiên.

Lục-Nương có bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu (Phướn Truy Hồn) tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời Kim Thiên, là từng thứ 6 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn vào Cung Vạn Pháp xem cho biết rõ cựu nghiệp của mình, vào Cung Lập Khuyết xem ngôi vị cũ, đến Lãnh Kim Sa bái kiến Phật, được chim Khổng Tước chở lên Đài Huệ Hương, để mùi thơm của Đài nầy khử hết trược khí, đặng chơn thần thơm tho đi lên cõi Niết Bàn.

7/ . Bài Thài hiến lễ Thất-Nương
 (Bửu pháp là Hoa sen)
LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.

Thất-Nương có bửu pháp là Hoa sen, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời Hạo-Nhiên-Thiên là từng thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn đến Cung Chưởng Pháp bái kiến Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, được Phật Dà Lam dẫn đường đi đến cõi Tây Qui, rồi đứng trên bông sen thần (Liên Thần) để bông sen đưa lên cõi Niết Bàn.

Thất-Nương còn lãnh nhiệm vụ đến cõi Âm Quang để giáo hóa các Nữ hồn tội lỗi, khiến họ thức tỉnh mà cầu nguyện Đức Chí-Tôn ân xá tội tình, được đầu kiếp lập công chuộc tội.

8/ . Bài Thài hiến lễ Bát-Nương
 (Bửu pháp là Giỏ Hoa lam)
HỒ Hớn Hoa Sen Trắng nở ngày,
Càng gần hơi đẹp lại càng say.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật Đài thêm hoa.

Bát-Nương có bửu pháp là Giỏ Hoa lam, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng Trời Phi Tưởng Thiên, là từng Trời thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, vào Cung Tận Thức bái kiến Đức Từ Hàng Bồ Tát, chơn hồn được con Kim Mao Hẩu đưa đến tận Tịch San, rồi đi lên cõi Niết Bàn. Chơn hồn còn được các Đấng dùng nước Cam Lồ rửa sạch nỗi ai bi của kiếp người.

Bát-Nương rất thường giáng cơ dạy Đạo, cho rất nhiều thi văn hay tuyệt. Bà có nhiệm vụ yếu trọng trong Cơ Đạo.ngày nay.

9/ - Bài Thài hiến lễ Cửu Nương
(Bửu pháp là Ống Tiêu)
KHIẾT sạch duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi cũ còn lời.
Chính chuyên buồn chẳng trọn đời
Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.

Bạc Liêu: Tỉnh Bạc Liêu, quê hương của Cô Cao thị Khiết. Cô mất năm 25 tuổi, mộ của Cô được làm bằng đá xanh rất chắc chắn và hùng vĩ, trong phần đất tư của dòng họ Cao Triều dành làm nghĩa trang cho dòng họ. Vị trí ngôi mộ nầy nằm cách Thị xã Bạc Liêu chừng 2 Km đi về hướng Vĩnh Châu. Dân quanh vùng gọi là mộ Cô Tiên.

Cửu Nương có bửu pháp là Ống Tiêu, có nhiệm vụ độ dẫn các chơn hồn đến từng Trời Tạo Hóa Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên, vào Diêu-Trì-Cung bái kiến Đức Phật-Mẫu, được ban thưởng cho trái Đào Tiên và uống Tiên tửu, được học tập nghi lễ của Thiên Triều để chuẩn bị đi lên Ngọc Hư Cung khi có sắc lệnh kêu, để các Đấng trong Ngọc Hư Cung định phận: Thăng hay đọa.

Kinh Tán tụng Công Đức Diêu-Trì-Kim-Mẫu có lời khen nhất là ba vị Tiên Nương này:
Đắc truyền khai mối Tam-Kỳ,
Dưới tay cậy có Diêu-Trì Cửu Nương,
Chín Cô đã sẵn lòng thương,
Mê tân độ chúng buồm trương thoát vòng.
LỤC- NƯƠNG phất phướn truy hồn,
Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.
BÁT-NƯƠNG thật Đấng Chí-linh,
Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu.
THẤT-NƯƠNG khêu đuốc Đạo đầu,
Nhờ Người gợi ánh nhiệm mầu huyền-vi.

Bài Kinh: Phật-Mẫu Chơn-Kinh, do Bát-Nương giáng cơ ban cho tại Báo-Ân-Đường Kiêm-Biên ở thủ đô Nam-Vang, nước Cao Miên, do Đức Phạm Hộ-Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo phò loan tại đó.

Trong thời Phổ-độ này, quyền hành của Diêu-Trì-Cung vô cùng yếu trọng. Mỗi vị có có công việc phổ độ riêng, hầu như chia nhau cùng khắp.

Sau đây xin ghi lại một Bài thi của Bát-Nương giáng dạy Nữ phái :
THI
Trau giồi cho xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
Thanh sử từng nêu gương Nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn Nam nhi.
Lọc lừa chớ để đen pha trắng,
Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt,
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.
                                                           Bát-Nương

Ba bài thài của Ba vị Tướng soái của Chí-Tôn:
Như trước đây chúng ta đã biết trong Bàn “Hội-Yến Diêu-Trì-Cung” có cả ba vị: Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm và Thượng-Sanh cùng ngồi dự. Ngày sau dầu các Ngài đã qui Tiên hết. Đến ngày Đại Lễ Hội-Yến có thài 10 bài để hiến Lễ Diêu-Trì-Cung thì cũng tiếp theo là thài ba bài thài của Ba vị Tướng soái của Chí-Tôn nữa. Ba bài này cũng do từ khi các Ngài vừa qui Tiên liền giáng Cơ cho các Bài thài này để cúng tế mỗi lần cúng vía Đức Ngài.

Bài thài Hiến lễ Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư:
THI
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn trường,
Cõi Thiên mừng đặng dứt dây oan.
Nợ trần đã phủi, lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng.
Cổi tấm chơn thành, lòa nhựt nguyệt,
Phơi gan chí sĩ, nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

Bài thài hiến lễ Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc:
THI
Trót đã ba năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm Chơn Pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.

Bài thài Hiến lễ Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang:
THI
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.
Độ đời quyết lánh vòng danh lợi,
Trau chí tìm roi bậc Thánh Hiền.
Từ ái làm nền an thổ võ,
Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên.
Những mong huệ trạch Trên nhuần gội,
Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.

3 - Diêu-Trì-Cung đến dạy Đạo:
BÀ THIÊN HẬU (Cho ông Cao Quỳnh Cư)
THI
Hỏi số từ thân sẽ thế nào?
Tám mươi gần mãn số Thiên Tào.
Cháu con sum hội yên thân lão,
Sung túc dài dòng dõi họ Cao.

(22-12-1925)
HOA NHẤT NƯƠNG
Em cám ơn hai anh, em xin hai anh hãy gắng công học Đạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc Đạo.

Coi bửu vị làm trọng, đừng ham luyến hồng trần mà phải đọa. Đôi lời thành thật, xin hai anh thương tình gìn giữ, mắc hầu, em không thể nán lại lâu, em xin kiếu, lâu lâu em sẽ nói rõ. (14-1-1926).
THƠ CỦA LỤC NƯƠNG
Chanh ranh vạn thế ở trong vòng,
Giành giựt lẫn nhau miếng đỉnh chung.
Khanh Tể sao bằng tên Đạo Sĩ,
Hết đời ai giữ chức làm Ông.
Từ khi hiệp mặt buổi Trung Thu,
Cảm tình nhìn biết đứa em ngu.
Một chung háo nghĩa bằng vàng nén,
Phòng sau hội ngộ chỉ đường tu.

                                   (23-12-1925)
Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E chư huynh trưởng trách em thầm.
Tuy xa cách mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hòa đọc lại ngâm.

(23-12-1925)
Vui nhơn vui Đạo lại vui thiền,
Vui một bước đường một bước yên.
Vui bóng Cao-Đài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế tải ngăn nhơn sự,
Vui một màu Thiên đóng Cửu tuyền.
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.

(Noel 1925)
THƠ CỦA THẤT NƯƠNG
Đã cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách mặt mà lòng chẳng lãng xao.
Đàng Đạo càng đi càng vững bước,
Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

(22-12-1925)
Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Đạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
Một bước một đi đường một tới,
Lòng thành xin trọng thấu Cao-Đài.

(22-12-1925)
Người vô tình kẻ bạc tình,
Ba anh chẳng nghĩ nghĩa đồng thinh.
Đặng chim trách kẻ toan quên ná,
Buồn bực cho đây vẫn một mình.

(13-1-1926)
Thử lòng tri kỷ đó mà thôi,
Tương ngộ có hơn bảy tháng trời.
Yêu mến một lòng đây rõ biết,
Thỉ chung đâu để hổ cùng lời.

Ba ông: Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang hỏi Thất-Nương: - Anh trách sao em không nói thật AĂÂ là ông Trời, em thấy ba anh cũng như mù em cứ gạt hoài!

Thất-Nương: - Trời là Trời, em là em. Em rõ biết nhưng không dám lậu, nay ba anh đặng vậy em mừng.
THƠ CỦA BÁT-NƯƠNG
Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

(23-12-1925)
BÁT-NƯƠNG
Em mừng hai anh và Đại Tỷ (Nguyễn Thị Hiếu). Em buồn cho Thanh Thủy không đến.
Nỗi phận vô duyên phận chẳng đành,
Trách ai mộ thói yến cùng anh.
Nương mây đợi mỏi lòng tình ái,
Mượn ngọc trông ngơ tấm liệt trinh.
Vuốt dạ riêng đau người một cảnh,
Dằn thương cố nhớ buổi chung tình.
Nhắn mưa gởi gió bâng khuâng để,
Một tấm tơ duyên đứt đoạn gìn.

(14-1-1926)
C - Ý-NGHĨA LỄ HỘI-YẾN DIÊU-TRÌ-CUNG:
Trích bài Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp
Tại Đền-Thánh, ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Sửu
Do kỷ-niệm Vọng Thiên Cầu Đạo Ngày 27-10 Ất Sửu
Thể Theo Thánh Lệnh Của Đức Phật-Mẫu

LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ KIM MẪU
“Hôm nay là ngày kỷ-niệm Bí-pháp: Bí-pháp Hội-Yến Diêu-Trì, Đức Chí-Tôn đã lập trong nền Chơn Giáo của Ngài. Bần-Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho toàn cả con cái Đức Chí-Tôn hiểu rõ cái huyền-vi bí-mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ quan đạt Đạo chúng ta tại mặt thế gian nầy. Hơn nữa Bần-Đạo có phương tiện tỏ ra một đức tin dị thường của một Đấng yêu ái, một Đấng tạo Càn Khôn Võ-Trụ, Đấng tự hữu hằng hữu, Đấng quyền năng vô tận vô biên, cốt để cho con cái của Ngài thấu đáo cái thâm tình của Ngài đối với ta và ta đối với Ngài dường nào.

Đạt đặng đức tin phi thường ấy, năm Ất-Sửu tức nhiên năm 1925 Đức Chí-Tôn đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình BẠN mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút này Bần-Đạo không dám nói, Ngài đến cũng làm bạn Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp. Tháng 6 năm ấy Ngài dùng CƠ BÚT HUYỀN DIỆU của Ngài, Ngài dạy Vọng Thiên Cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể tưởng tượng đây là một cử chỉ) ai cũng lấy làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải để một dấu hỏi, hỏi tại sao buổi ấy Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp có một đức tin vững vàng nghe theo lời Ngài Vọng Thiên Bàn Cầu Đạo. Điều mà chúng ta không thể tưởng tượng, đây là một cử chỉ chung chớ không phải cá nhân Thượng-Phẩm hay Hộ-Pháp mà lời giáo-huấn của Ngài cốt yếu để cho toàn thể nhân loại nơi mặt địa cầu này nhứt hơn hết là nòi giống Việt-Nam chúng ta.

Bần-Đạo nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh-Phối-Sư Hương-Hiếu là người bạn Cao Thượng-Phẩm, và Bần-Đạo buổi ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một tình cảm đáo để, một đức tin vững-vàng làm sao đâu? Không thể sợ đặng, không còn biết vị kỷ nhục-nhã chi hết, giữa khoảng đường nơi Châu-Thành Sài-Gòn thiên hạ tấp nập, mà Đức Chí-Tôn buộc phải quì ngoài đường dựa bên lề ấy, quì đặng cầu-nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay! Ngài thử thách cho đến nước, thảng như mình quì đó mà thiên hạ không hiểu mình quì làm gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng có thể quì, còn làm mà người biết thì nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng sợ Đức Chí-Tôn phải rán mà làm.

Ngoài ra có ông bạn ai cũng đều biết là nhà thi sĩ danh tiếng, Bần-Đạo dám chắc nội trong Nam Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nỗi danh thi-sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không biết chứng cớ gì mà người mê thi phú của Đức Chí-Tôn quá chừng quá đỗi, đến nước người thuộc lòng thi phú của Đức Chí-Tôn, rồi người họa lại với Đức Chí-Tôn, người làm như mê-man vậy. Bần-Đạo thì nhột nhạt duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi hành quyền giáo hóa của Đức Chí-Tôn, còn người thi sĩ Bồng-Dinh họa theo đó mà ngâm, thiên hạ thấy tấn tuồng dị hợm tụ lại đông lắm. Trước để một cái bàn Vọng Thiên Cầu Đạo ngay chính giữa coi dị hợm lắm, Bần-Đạo mới gát hai tay lên cho đỡ mắc cở vừa gát lên thì cái bàn quây gõ nói chuyện.

Các Đấng Thiêng Liêng đến không biết bao nhiêu, đến các vị Giáo-Chủ cũng xuống giảng dạy chúng ta và làm nhiều kiểu lạ lắm; cũng lúc nầy Đức Chí-Tôn đã giáo hóa khá lâu các Đấng Thiêng-Liêng cũng đến cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp, tuy mới mà đủ đầu óc có một đức tin vững-vàng, đức tin ấy có thể nói rằng: Tuy buổi ban sơ mà dường như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi, nên Đức Chí-Tôn mới ra lịnh biểu làm một cái tiệc.

Ngài dạy sắp đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình, đãi 10 người: Đức Phật-Mẫu và Cửu Vị Tiên-Nương. Phần hữu hình có ba người: Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu vâng mạng lịnh tạo thành một tiệc, trên bàn thờ Phật-Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế cũng như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muổng, dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đãi người hữu hình vậy; duy có ba người xác thịt là Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp. Bần Đạo mới hỏi tiệc này là tiệc gì? Ngài nói là Hội-Yến Diêu Trì. Bần Đạo nghe nói vậy thì hay vậy, chớ không biết giá trị Hội-Yến là gì cả. Nghĩ chắc cũng có ảnh hưởng gì cần yếu đến tương lai của Đạo mà vâng lịnh thôi, chớ không hiểu nghĩa lý cho cùng cạn gì hết.

Ba người sống đồng ngồi ăn, còn Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương-Hiếu gắp đồ ăn để vào chén cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức Phật-Mẫu cũng như người sống kia vậy.

Bần-Đạo còn nhớ một chuyện lạ lùng, lúc đó lấy làm kỳ quái không hiểu gì hết, giờ biết Đạo mới hiểu Đức Chí-Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần-Đạo. Bây giờ Bần Đạo không dám nói lại, Ngài đến làm BẠN cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp.

Chừng Hội-Yến Diêu-Trì rồi, các Đấng Thiêng Liêng và các vị Giáo-Chủ ra từ giã (thăng) kế Đức Chí-Tôn đến nhập cơ.

Thượng-Phẩm và Bần-Đạo tọc mạch hỏi:
- Khi nãy Diêu-Trì-Cung đến có Ngài đến ở đó không?

Đức Chí-Tôn trả lời:
- Có chớ, Ta ở đây từ khi ban sơ đến giờ.
- Ngài có thấy Diêu-Trì-Cung đến không?
- Có chớ, Chính mình ta tiếp đãi!

Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Diêu-Trì-Cung ngó thấy Ngài không?
- Không ngó thấy.

Cao Thượng-Phẩm hỏi: - Sao vậy?
Ngài trả lời: - Ngài dùng phép ẩn thân.

Bần Đạo tọc mạch hỏi tiếp:
- Như đứa em của tôi là Thất-Nương Diêu Trì có thể đạt Đạo chăng?
- Đạt đặng chớ.

Cao Thượng-Phẩm hỏi: - Phải làm sao?

Ngài nói:
- Phải tu, bằng không tu thì chẳng đạt đặng.

Bần Đạo hỏi:
- Tu chừng bao lâu mới đạt đặng?
Cái đó Ngài làm thinh.

Bần Đạo hỏi:
- Một năm? Năm năm? Một ngàn năm? Mười ngàn năm? Một trăm ngàn năm?
Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi nữa, không biết chừng nào mới đạt đặng, nghe vậy hay vậy. Các vị Nữ phái rán nhớ, Diêu-Trì-Cung, Bần Đạo có giải nghĩa Hội-Yến Diêu-Trì là gì rồi đó.

Toàn Thánh Thể Đức Chí-Tôn là con cái của Ngài rán để ý cho lắm: Từ khi Đạo bị bế Ngọc-Hư-Cung bác luật, Cực-Lạc Thế-Giới thì đóng cửa nên chúng sanh toàn cả Càn Khôn Vũ Trụ có tu mà thành thì rất ít, bởi phương pháp khó khăn lắm, muốn đạt pháp thì không phải dễ.

Cổ pháp định cho Chơn hồn về nơi Diêu-Trì-Cung, hưởng được Hội-Yến Bàn Đào tức nhiên hưởng được Hội-Yến Diêu Trì, ăn được quả đào Tiên, uống được Tiên tửu mới nhập vô cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi! Từ thử đến giờ có ai đặng hưởng nếu có đặng hưởng cũng một phần rất ít.

Giờ phút này Đức Chí-Tôn quyết định tận độ con cái của Ngài, thay vì Bí-pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi Kim-Bàn Phật-Mẫu đặng hưởng đặc ân thiêng liêng của Đức Chí-Tôn.

Đức Chí-Tôn buộc Phật-Mẫu phải đến tại thế gian nầy để Bí-pháp Hội-Yến Diêu-Trì tại cửa Đạo nầy cho con cái của Ngài giải thoát, ấy là một Bí-pháp Thiêng Liêng duy có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.

Hôm nay là ngày Phật-Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.

Hôm nay là ngày lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo, xin toàn cả con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần Đạo cũng để ý đến lễ của Ngài hơn hết; từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chưa có ai hưởng được thời kỳ nầy. Ngài đến tại mặt địa cầu 68 nầy đặng tận độ con cái của Ngài.

Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên vô tận của Ngài, chúng ta phải chiêm nghiệm lễ nầy để làm mật niệm cám ơn Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu, ấy là Bí-pháp của chúng ta đó vậy."

Nhận xét về Lý Dịch:
Qua những lời Đức Thượng-Phẩm và Đức Hộ-Pháp cầu hỏi cho thấy rằng hai chi Đạo và Pháp đóng một vai trò rất là trọng-hệ, nên khiến cho Đức Thượng-Sanh và Ngài Bảo-Văn lập một đàn riêng (Thượng-Sanh nắm chi Thế) về sau hai vị này là cặp “Cơ Phổ-Độ”, còn Đức Thượng-Phẩm và Đức Hộ-Pháp là cặp “Cơ Đạo Pháp” (Thượng-Phẩm nắm chi Đạo, Hộ-Pháp nắm chi Pháp). Ấy là hiệp đủ Âm Dương, nhưng cả ba hiệp lại là Tam Tài, có thêm Ngài Bảo-Văn ấy là Tứ tượng. Khi đến con số Tứ tượng thì việc đạo-pháp mới biến hóa ra nhiều thêm.
(Xem lại trang 37 về những sự việc liên quan)

Nhưng ngay buổi đầu là có 7 người và Thất-Nương đến dạy trước nhất. Số 7 đây tượng trưng cho con người có thất tình. Nhờ Đạo mở người biết tu-hành nên biến Thất tình thành thất bửu. Cũng như trong Đền-Thánh, thì phía trong là bảy Ngai của Cửu-Trùng-Đài, ngoài là hình ảnh Thất Đầu-xà mà Hộ-Pháp đang ngự. Người Tín hữu dự cúng ngồi ở khoảng giữa (người có sẵn Thất tình) để dâng Thần cho Chí-Tôn, tức nhiên Cúng Tứ thời là luyện Tam bửu hay là luyện TINH KHÍ THẦN. Mà các Tôn giáo khác gọi là Thiền đó vậy. Như vậy Đền-Thánh không phải là một Thiền Đường sao? Tiếng gọi tuy khác nhưng ý nghĩa vẫn một mà thôi.

Thời gian sau người dự còn 6, tức là tam Âm tam Dương, là Càn Khôn định vị.

Đến nay, thì:
Trong buổi Tiệc Yến này có 9 Đấng Tiên-Nương vô hình và 3 người hữu hình, cộng chung là (9+3)=12

Số 9. Phải đợi đến 9 là cơ huyền-diệu nhiệm-mầu, huyền-diệu hơn hết là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện, tận mỹ, toàn năng, toàn tri.

Nó là 1+8 tức là cơ vận-hành trong trạng thái tĩnh được lý Thái-cực thúc đẩy thêm cho nên năng-tri sáng suốt

Nó cũng là 3+6. 3 và 6 là hai lý nhiệm-mầu và đều ở trong trạng-thái động.

Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay 3 bình phương là cấp bực tam ngôi biến-hóa, vận-hành suốt thông trời đất. Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.

Số 12 là số đặc-biệt tức là 9+3. 9 là cơ vận chuyển, 3 là ba ngôi. Lấy 3 ngôi hiệp vào cơ vận chuyển tức là cơ qui nhứt, nắm cả các pháp trong tay, mà người nắm pháp ấy là chủ-tể càn-khôn vũ trụ, nên Thầy có nói số 12 là số riêng của Thầy là vậy.

Thầy cũng dạy rồi:
“Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, chúa cả Càn-Khôn Thế-Giái, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.

Do vậy mà câu niệm danh Thầy có 12 chữ: “Nam mô Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” tức là thời kỳ tận độ này, câu niệm này gấp đôi thời kỳ Phật độ: chỉ niệm có 6 chữ mà thôi “Nam-mô A-Di-Đà-Phật”.

Tây-Ninh là Tỉnh thứ 12 của Thời Pháp thuộc tới bây giờ, hoàn toàn không đổi dầu qua bao sự biến thiên, nhưng Tây-Ninh vẫn là Tây-Ninh, mới ứng hợp với lời tiên tri của Thầy “Chi chi cũng tại Tây-Ninh mà thôi”.

Thầy nắm quyền chữ “Đạo” có 12 nét.
Toàn bộ chu vi Đền-Thánh có 12 cửa.
Nếu cộng lại là 1+2 = 3 tức là ba ngôi đầu tiên.

Nếu tính theo hàng là 1 và 2 là lý Thái cực đứng trước luật âm dương thì thấy rõ quyền năng Chưởng-quản trong đó. Vì thế Thầy nói chi chi cũng có luật định, không vật chi ngoài quyền sở định của tạo-hóa hết.

Nếu tính luôn số người trong buổi tiệc được kể ra thì có Đức Phật-Mẫu vô hình, Đức Chí-Tôn thì ẩn danh, Bà Hương-Hiếu là người đứng ra thết đãi, cộng chung 15 người. Số 15 là con số nằm trong Bát-Quái Đồ thiên gọi là Ma-phương-số, con số này tạo thành chữ ĐIỀN
(Xem Dịch-Lý Cao-Đài quyển I cùng Soạn giả).

Chính chỗ này mà Thánh nhân nói đến thời Tam Hoàng là :Phục-Hi, Thần Nông, Hoàng-Đế.

Nếu ta hiểu rằng Phục-Hi là người đầu tiên sáng chế ra Đạo Dịch, tức là người làm sống lại niềm hy-vọng trong cuộc đời không được sao? Hôm nay Đức Cao-Đài đem Bát-Quái soi rọi vào tâm tư tất cả mọi người là chân lý đạo mầu đó. Còn Thần Nông là vị Thần dạy dân làm ruộng. Ruộng tức là Điền, nhưng ruộng có hai thứ:
- Ruộng đồng làm ra thóc lúa nuôi sống xác thân.
- Ruộng Tâm nuôi sống linh hồn (gọi là Tâm Điền) tức là tâm của Bát-Quái Hậu-Thiên và cũng là Bát-Quái Cao-Đài đó vậy.

Bài Kinh ăn cơm cũng nói rõ:
Công Thần Nông hóa dân buổi trước,
Dạy khôn ngoan học chước canh Điền.
Nhớ Ơn bảo mạng Huyền Thiên,
Con mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh.

Nếu chỉ có “ăn cơm” thôi thì làm sao “đoạt quyền vĩnh sanh” cho được? Phải khai Bát-Quái mới hiểu được lý nhiệm mầu của Đạo-pháp là bao la chứ ! Ngũ cốc đây chính là Tâm của Bát-quái là Ngũ-Trung. Đây dùng chữ “Ngũ Cốc” cũng không lệch nhau vậy.

Nếu cộng 1+5 = 6 tức là Thái-cực (Chí-Tôn) đứng trước Ngũ hành (Phật-Mẫu). Sự vận chuyển Âm Dương làm cho sanh biến vạn linh. Kinh Phật-Mẫu dạy:

Kể từ hỗn độn sơ khai,
Chí-Tôn hạ chỉ trước Đài Linh-Tiêu.
LƯỠNG NGHI phân Khí Hư-vô,
Diêu-Trì Kim-Mẫu nung lò hóa sanh.

Bởi Âm Dương là lò Tạo hóa, mà con người phối hợp nhau thì tế bào tinh trùng của người cũng như con vật đều có con số giống nhau. Một tế bào tinh trùng thì có một điện tử Dương hợp với 9 điện tử Âm.

Ngày 27-10-Ất Sửu (1925) Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng dạy ba Ông Vọng Thiên Cầu Đạo vào ngày mùng 1-11 Ất Sửu (dl 16-12-1925).

Thế nên ngày Vọng Thiên cầu Đạo ba ông phải cầm 9 cây nhang quì ngoài đường cầu xin Đạo vào ngày 1 tháng 11 năm Ất-Sửu, tức là ba con số 1 là cơ đắc nhứt đó vậy. Với ý-nghĩa là:
- Thiên đắc nhứt linh.
- Địa đắc nhứt minh,
- Nhơn đắc nhứt thành.

Sở dĩ Đức Chí-Tôn dùng phép ẩn thân, ấy là ngày mà “Cái trứng tinh thần của Đại-Đạo thành hình” để rồi:
Càn Khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.
Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp,
Lập Tam tài định kiếp hòa căn.
                                                           Kinh Phật-Mẫu

“Hôm nay là ngày Phật-Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát chúng sanh, tận độ toàn vạn linh sanh chúng. Ngài để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.”

Sự giải thoát này chỉ duy người tu học phải tìm hiểu nguyên lý của đạo mầu có trong đất trời và vạn vật đó vậy.

D - Cuộc đời của Thập-Nhị Thời-Quân Và Bài Thài hiến lễ
Thập-Nhị Thời-Quân tức là Thập-Nhị Thánh-Tông-Đồ của Chúa, xưa kia theo hầu Chúa, thì nay đến dưới thời Đạo Cao-Đài cũng chỉ giữ phận hầu Thầy mà thôi. Thập-Nhị Thời-Quân có tình mật thiết với Diêu-Trì-Cung.

Đối với nền Đại-Đạo rất đặc biệt là các bậc Chức-sắc cao cấp khi qui Thiên, liền giáng đàn cho một bài thi làm “Bài thài hiến lễ” riêng cho các Ngài:

1 - Bốn vị Thời-Quân thuộc Chi PHÁP:
BẢO-PHÁP CHƠN-QUÂN
Nguyễn Trung Hậu (1892-1961)
Đạo hiệu: Thuần-Đức
Ngày sinh: năm Nhâm Thìn (1892)
Qui tại Gia định lúc 16 giờ ngày 7-9 Tân-Sửu (1961)
Quê quán: Xã Bình-Hòa, Tỉnh Gia Định
Chơn linh: Xích-Tinh-Tử
Bài thài hiến lễ
Nhà Phật hôm nay giữ Đạo mầu,
Phiền ba nghĩ lại có vui đâu.
Tẻ đường phi thị noi đườg tịnh,
Tìm cửa Từ-bi lánh cửa Hầu.
Xác thịt trải qua miền gió bụi,
Nắm xương chờ gởi bóng tang du.
Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn…
Giọt nước nhành Dương gợi tấm sầu.
                                                           Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu

Bài thài này còn nghi vấn, vì khi Ngài qui Tiên, an táng tại nhà.(*) Sau 13 năm hơn, Ngài báo mộng cho gia-đình xin Hội-Thánh đem hài cốt Ngài về Tây-Ninh cải táng. Hội Thánh làm theo sự yêu cầu. Cử đủ ban bộ về quê cải táng. Đặc biệt nhứt là khi táng nơi quê nhà thì đặt trong hàng nằm. Nhưng khi cải táng làm Lễ theo hàng Thời-Quân phải đặt trong Liên-Đài Bát-Giác của Hội-Thánh đem xuống. Thì lạ thay! Xác thịt Ngài hoàn-toàn như mới tắt hơi và những người Đạo-Tỳ tắm rửa lại bằng rượu thì “Gân xương còn nghe rôm-rốp” và dựng Thánh-hài của Ngài ngồi trong thế kiết-dà đặt vào Liên-Đài theo nghi thức Đạo táng với sự đưa rước bằng “Long-mã” hết sức trọng thể!

(Qua lời kể của Phó Trưởng-ban Nhà Thuyền Trung ương tên là Rùm. Kẻ viết bài này được anh đưa tới nhà Thuyền Trung ương xem hình, đồng thời cũng được đọc Thông-Tin Đại-Đạo, mới biết được sự việc này liền đến tìm Anh mà hỏi. Sự thật 100%).

Đối với Ngài Khai Pháp Nguyễn-Trung-Hậu ngoài những bài thơ được Đức Chí-Tôn giáng ban cho thuở tiền khai Đại-Đạo, ông lại còn diễm phúc, Đức Chí-Tôn giáng trả lời theo nhu cầu nữa.

Huyền diệu từ thuở ban đầu mới đủ đức tin:
Năm 1926 vì làm ăn sa sút, ngày 23-6-1926 (14-5 Bính Dần) Người có cầu hỏi Đức Chí-Tôn coi nên tiếp tục hay để cho sụp đổ, thì Thầy dạy :
THI
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo nhơn nghĩa miễn vuông tròn.
Thầy đâu nỡ để Môn đồ cực,
Mối đạo giữ cho ngàn thưở còn.
                                                                                  Đức Chí-Tôn

Đến ngày 21-7 Bính-Dần (04-08-1926) Người tự thấy không thể đứng vững được nữa với cái trường “Internat de Dakao” nên cùng với ông Đốc-học Đoàn-Văn-Bản thỉnh giáo Thầy một lần nữa (mỗi người thỉnh giáo việc riêng của mình) thì Thầy giáng cho mỗi người một bài thi, trong đó có bài thi cho ông Hậu. Tuy nhiên không phải mỗi việc nào cũng hỏi, dầu Thầy trả lời nhưng cũng có ý trách phiền..
THI
Cái khiếu thông minh con ở đâu?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc sầu.
                                                                       Đức Chí-Tôn

Chỉ có hai Chơn-Quân: HẬU, ĐỨC có tên trong số 12 vị Môn-Đệ đầu tiên của Đức-Chí-Tôn được chỉ định:
THI
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu Đức Tắc Cư thiên địa cảnh,
Quờn Minh, Mân đáo thủ đài danh.
                                                                       Đức Chí-Tôn

Trong 12 tên được điểm danh nhưng thực tế có 13 vị, vì có hai người trùng tên Sang và sau cùng thì Ông Chiêu tách riêng lập ra phái Chiếu-Minh nên rốt lại thì cũng đủ 12 người.

Vào khuya mồng một Tết năm Bính-Dần (dl 13-12-1926) khoảng giờ Tý, Ngài tái cầu thì Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng dạy rằng:
“Đức, Hậu tập Cơ sau theo mấy Anh mà độ người, nghe!”

Năm Bính-Dần (24-9-1926) Đức Chí-Tôn cho thi, điểm đúng tên: Nguyễn Trung Hậu bút hiệu Thuần-Đức một bài thi khoán thủ như vầy:
THI
THUẦN phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
ĐỨC hóa thường lao mạc dị danh.
HẬU thế lưu-truyền gia pháp quí,
GIÁO dân bất lậu tán thời manh.

Bài thi kế tiếp:
Đã có căn phần dựa cảnh Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi.
Đêm tối lần ra gặp ánh đèn.
                                                           Đức Chí-Tôn

Ngày 12-1 Đinh Mão (dl 13-2-1927) Ngài thọ Thiên phong BẢO-PHÁP.
Nguyên Đức Chí-Tôn có cho biết tiền thân của Ngài Bảo-Pháp là Xích-Tinh-Tử và của Ngài Hiến-Pháp là Từ Hàng Đạo Nhơn.

Ngày 3-7 Đinh Mão (31-7-1927) may được Quỉ Cốc Đại Tiên giáng đàn, hai Ngài mới xin cho mỗi người một bài thi kỷ-niệm.

Bài thi của Ngài Bảo-Pháp như sau :
THI
Đỏ đỏ một vừng ấy Hỏa tinh
Nhà Châu tên tuổi đã rành rành.
Tam Kỳ tái thế an thiên hạ,
Hậu nhựt thành công hậu hứng tình.
                                                           Quỉ Cốc Đại Tiên

Theo Châu tri ngày 7-3 Quí Dậu (1-4-1933) Ngài giữ Quyền Chưởng Pháp Cửu-Trùng-Đài.

Năm 1934, Ngài về dưỡng bịnh tại Gia Định (Cây Quéo).
Ngài hợp với Hiến-Pháp thành một cặp Cơ chánh thức phò loan cho Đức Chí-Tôn truyền Đạo các nơi: Cầu kho, Gò kén, Chợ-lớn, Gò công, Tân an, Mỹ-tho, Bến tre.

Lúc sanh tiền, thú vui của Ngài là làm thơ và cờ tướng.
(*) Nghi ngờ là vì khi an táng tại nhà thì không có cầu Cơ, nên Ngài không thể giáng mà cho bài thài được.

HIẾN-PHÁP CHƠN-QUÂN
Trương Hữu Đức (1890-1976)
Đạo Hiệu; Thân Dân
Sanh ngày: 2-2 Canh-Dần (1890)
Ngày Qui: 20 giờ 15 ngày 15-12 Ất-Mão (dl 15-01-1976)
Chơn-linh: Từ-Hàng Đạo Nhơn.
Quê quán: Cầu An Thượng, Hiệp-Hòa, Chợ-Lớn.

Ngài Hiến-pháp là một trong những Tướng-Soái của Chí-Tôn, lúc qui thiên Ngài cũng giáng đàn cho một bài Thi để thài hiến lễ.
Bài thài hiến lễ:
Hữu-Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn mong ước cái không hay.
Mừng nay gặp Đạo lòng mong muốn,
Chí quyêt cùng nhau để hiệp vầy.
                                                           Hiến-Pháp Chơn Quân

Cùng một lúc với Ngài Khai Pháp, Ngài Hiến-Pháp cũng được Quỉ cốc Đại Tiên giáng cơ cho biết nguyên linh của Ngài là Từ-Hàng Đạo Nhơn. Theo sự yêu cầu, Đại Tiên có cho một bài thơ:
THI
Thập Nhị Tiên gia nhứt tánh TỪ,
HÀNG phong Vương mãn thọ hàn thư.
Trung niên thế cuộc tao vân mộng,
Quản thị Càn Khôn thủ Phật thư.
                                                                       Quỉ Cốc Đại Tiên

Chính Ngài Trương Hiến-Pháp có biệt tài về làm liễn đối được Đức Lý Đại Tiên khen tặng là :Ai muốn xin liễn hãy tìm Đức. Chính hai câu liễn trên Thuyền Bác-Nhã do Ngài viết ra:
- Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh hoàn tại Thổ.
- Thiên niên tự hữu linh hồn thiên tứ phản hồi Thiên.

Trong khi Ngài nhập môn vào Đạo Cao-Đài ngày 9-01 Bính-Dần (dl 21-02-1926) Qua bữa sau, lúc đúng Ngọ, trong khi thanh tịnh, Ngài bắt chước Đức Hộ-Pháp ngồi chấp bút một mình và cầu nguyện xin thi, có vị Minh-Nghĩa Tiên Ông giáng bút cho bài thi như sau:
THI
Minh Đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn mong ước cái không hay.
Mừng cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng nậu côn đồ đã chịu chay!
                                               Minh-Nghĩa Tiên Ông

Ông Hữu Đức chỉ chấp bút được một ấy thôi.

KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN
Trần Duy Nghĩa (1888-1954)
Nguyên linh: Thánh Saint PIERE
Ngày sinh: 17-8 Mậu-Tý (dl 11-9-1888)
Qui lúc 3 giờ sáng ngày 22-01 Giáp-Ngọ (dl 24-2-1954)
Bài Thài hiến Lễ:
Đã chán công danh dưới phép người,
Đem thân cửa Phạm để nên nơi.
Lóng chuông Bạch-Ngọc hồi hồn tục,
Nghe trống Lôi-Âm tỉnh mộng đời.
Nắm pháp Thiêng-Liêng dìu Thánh vị,
Cầm Cân Công-lý giữ ngôi Trời.
Dầu chưa trọn nghĩa Thiên-Thơ định,
Giác ngộ vui theo cũng kịp thời.
                                                                       Khai-Pháp Chơn-quân

Đức Hộ-Pháp nhắc lại buổi đầu Đức Chí-Tôn dạy “đi tìm Pháp”. Nhưng rốt lại đi tìm đúng Ông Trần Duy Nghĩa sau phong cho là KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN.

“Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí-Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nỗi sự nghiệp của Chí-Tôn đã giao phó.

Ngài nói rằng:
“Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt-Nam trên bốn ngàn năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí-Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt-Nam sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ quốc và giống nòi dân tộc Việt-Nam sẽ cỗi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành.”

Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để không bao giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.

Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không bao giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung…

Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí-Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột.

Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì Quân Đội Cao-Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau làm đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt-Nam ta nữa mà chớ.

Tiền kiếp của Ngài là Thánh SAINT PIERE, tức là một trong 12 Thánh Tông-Đồ của Thiên-Chúa-giáo, ngày nay các vị Thánh ấy cũng trở lại trong hàng Thập-Nhị Thánh, tức là Thập-Nhị Thời-Quân trong cửa Hiệp-Thiên-Đài cũng giữ phận sự hầu Thầy mà thôi”.

Một hôm Ông Bà Đốc Phủ Chi, là người theo Đạo Công-giáo có đến nhà Ngài Cư, mục đích muốn thử xem vấn đề chơn giả của Cơ Bút, nên ông Bà có đề nghị:

“Xin cho chúng tôi để thử trên bàn Cơ hai vật này là Ảnh tượng CHÚA và Cây Thánh giá. Nếu Đức Cao-Đài là Thượng-Đế thật thì mới giáng Cơ được, bằng Quỉ Vương thấy hai vật báu này tự nhiên phải tránh”.

Ông Cư bằng lòng cho thử. Đoạn Ông Đốc Phủ cùng ngồi với Ngài Tắc để quan sát. Trước hết Thánh Pierre giáng Cơ cho 4 câu thi để trả lời cho Ông Bà Đốc Phủ Chi, vào ngày 17-11 Ất-Sửu (dl 01-91-1926)

Thánh giáng cho biết:
SAINT PIERE
Thiên đàng giữ cửa góc Trời Tây,
Truyền Đạo cho dân biết mặt Thầy.
Cứu chuộc đã gần đôi ngàn tuổi,
Cao-Đài phú thác dắt dìu bây.
                                               (31 Decembre 1925)

Ngày 11-01 Bính Dần (dl 23-2-1926) Đức Chí-Tôn có giáng cho KHAI-PHÁP CHƠN-QUÂN:
THI
Đạo Tâm rỡ rỡ sáng như ngày,
Hiệp cũng may mà gặp cũng may.
Đã mộ trong lòng thân cũng mộ,
Một lòng mộ Đạo chớ đơn sai.
                                                                       Đức Chí-Tôn

TIẾP-PHÁP CHƠN-QUÂN
Trương Văn Tràng (1893-1963)
Ngày sinh: 25-10 Quí-Tỵ (1893)
Qui lúc 5 giờ chiều ngày 15-01 Ất Tỵ (1965)
Quê quán: Bình Thạnh (Biên-Hòa)

Bài Thài hiến Lễ:
TIẾP điển Trời ban độ chúng sanh,
PHÁP luân thường chuyển rạng Thiên-Đình
CHƠN như đắc vị nhàn Tiên cảnh,
QUÂN Thánh Thần minh kiến Đạo thành.
                                                                       Tiếp-Pháp Chơn Quân

Ngài Khai-Pháp Trần Duy Nghĩa và Tiếp-pháp Trương Văn Tràng là một cặp Cơ Phổ-Độ từ buổi khai Đạo. Khi Ngài Tiếp-Pháp lâm trọng bịnh thì Hội-Thánh cầu Cơ thỉnh ý cách trị liệu. Ngài Khai-Pháp dầu đã Qui Thiên, nhưng lúc nào cũng quan tâm đến bạn đồng môn còn tại thế. Ngài Khai-Pháp giáng Cơ dạy Hội-Thánh xuống nhà thương Crall rước Ông về Tòa-Thánh cầu nguyện và dùng thuốc Nam. Lời dạy ấy nhằm ngày 4-01-1964. Sau 7 ngày, làm đúng như lời dạy, bịnh tình Ngài Tiếp-Pháp khỏi hẳn.

Sau khi bình phục Ngài Tiếp-Pháp có làm mấy bài thi để tỏ lòng biết ơn tất cả đã lo cho Ngài:
THI
1 - Đường đời khúc-khuỷu biết đâu lường,
Trên có Huỳnh-Nương hết dạ thương.
Khai-Pháp Chơn Quân huyền diệu lý,
Quần Tiên rưới phước hộ Thiên-lương.

2 - Trời chiều bảng-lảng bóng thiều-quang,
Tiếng trống thu không giục khách nhàn.
Đoái lại chúng sanh thiên vạn ức,
Vẫn còn bận bịu với thời gian.
                                               Tiếp-Pháp Trương Văn Tràng


2 - Bốn vị Thời-Quân thuộc chi Đạo:
BẢO-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Ca Minh Chương (1850-1928)
Ngày sanh: năm Canh-Tuất (1850)
Ngày qui: 19-10 Mậu Thìn (dl 30-11-1928)

Bài Thài hiến Lễ:
Từ đây vui thú chốn nhơn gian,
Thủy tú sơn tinh thích chí nhàn.
Ví bởi lục căn lòng chẳng bợn,
Cho nên mới nhập đặng Tiên bang.
                                                                       Bảo-Đạo Chơn Quân

Thời chưa khai Đại-Đạo: Ngày 21-02 Bính-Dần (dl 3-4-1926) Đức Chí-Tôn có giáng Cơ cho:
THI
Thế thượng hề vô bá tuế nhân,
Thất tuần dĩ định vấn Thời-Quân.
Ưu tư mạc vọng thường vô lộ,
Nghiệp trái tùy căn định số phần
                                                           Đức Chí-Tôn

Sự thương đau của Ngài Bảo-Đạo Ca-Minh-Chương là khi biết Đạo thì tuổi đã cao, vừa Nhập môn năm 1926 thì năm 1928 đã qui Thiên. Việc lập công chưa có là bao mà phải giã biệt cõi đời.

Điều thứ nữa là Gia cảnh quá tang thương. Cũng là do Thiên ý của Chí-Tôn, nên nhồi quả ba kiếp làm một.

Hãy nghe qua bài Điếu-văn của Đức Hộ-Pháp tả cái cảnh tình ấy:
Hỡi ơi!
Vợ già yếu, gái thì ngây dại,
Nối lửa hương ngó lại vắng người.
Theo linh-xa một gái chơi-vơi.
Phò giá triệu, bóng người không kẻ dậy.
Kìa thân tộc một nhà còn đấy
Sao Anh không ngồi dậy nói đôi điều?
Để đau thương cho kẻ mến yêu,
Nhìn nếp tử chín chiều ruột héo…
                                               Đức Hộ-Pháp

Sự ra đi của Ngài Bảo-Đạo Ca-Minh-Chương làm cho Thầy là Đức Chí-Tôn Đại Từ-Phụ cũng thương tâm đổ lụy.

Phò loan: Hộ-Pháp và Bảo-Pháp
Ngày 19-10 Mậu-Thìn (30-11-1928)
Thầy,
Đại lụy! Cái thảm trạng chia lìa may ra có thể làm cho các con đau đớn mà biết thương yêu nhau chăng?

Thảm! Từ thử chỉ có một mình Bảo-Đạo là niên cao kỷ trưởng hơn các con hết mà buộc Thầy phải đem về, thì tưởng các con đã biết mình côi cút về đường Đời, không ai đủ trí thức hoàn toàn mà binh vực các con nữa, thì mới biết lập mình cho có đủ khôn ngoan, tài tình, đạo đức thì địa vị các con mới trở nên cao đặng.

Thầy đòi phen phải buộc lấy hình phạt mà làm ra phần thưởng, các con đã hiểu Đạo đặng chút ít, Thầy tưởng chẳng cần phải cạn lời. Thầy khuyên các con lấy CHƯƠNG làm dây thân ái mà buộc với nhau mới đặng hòa nhã nơi Hiệp-Thiên-Đài…

Đức Chí-Tôn có giáng cho bài thơ để an-ủi gia đình Ngài Ca-Minh Chương:
THI
Thấy con gia cảnh tợ tơ cuồn
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã-dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng,
Khiến nên Mai đảnh khơi màu trắng.
Cho đến Tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.
                                                           Đức Chí-Tôn

HIẾN-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Phạm Văn Tươi (1896-1976)
Hiệu: Lạc Nhân
Ngày sinh: năm Bính-Thân (1896)
Ngày qui: lúc 23 giờ đêm 8-4 Bính-Thìn (dl: 6-5-1976) tại Tư gia số 21 đường Lý-Nam-Đế Quận 5 Chợ-lớn (nhằm ngày Đản sinh Đức Phật Thích-Ca).

Không có Bài Thài hiến Lễ
Ngài di-chúc an táng tại quê nhà xã Qui-Đức, Quận Cần-Giuộc, Long-an. Thế nên không có bài Thài hiến Lễ cho Ngài.

Lúc ấy, năm 1976 (sau ngày 30-4-1975) tình hình Đạo-sự có nhiều khó-khăn nên Hội-Thánh cũng chiều theo ý của Ngài.

Ngày trước Đức Chí-Tôn có ban Thi cho Ông Phạm-văn-Tươi:
THI
Một nhà ân đức hưởng ân Thiên,
Mối Đạo từ đây đắc sở truyền.
Giáo hóa dày công giồi đức hạnh,
Cháu con sau hưởng phước liền liền.
                                               Đức Chí-Tôn
                                                                       15-1 Bính-Dần (27-2-1926)

KHAI-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Phạm Tấn Đãi (1901-1976)
Hiệu: Trí-Thanh
Ngày sinh: 28-7 Tân-Sửu (dl 10-9-1901)
Ngày qui: 19-2- Bính-Thìn (dl: 21-3-1976)
Quê-quán: Làng mỹ-Lệ, quận Cần đước, Chợ-lớn.

Ngài Khai-Đạo Phạm-Tấn-Đãi đăng Tiên lúc 9 giờ 10 đêm 19-2 Bính-Thìn, ngay đêm sau Ngài giáng Cơ tại Giáo-Tông-Đường cho Bài thài để Hiến lễ cho Ngài.

Bài Thài hiến Lễ:
KHAI mở Đạo Trời độ chúng sanh,
ĐẠO mầu giải thoát giống dân lành
CHƠN truyền cố vẹn Đạo nhà vững,
QUÂN quản dân quyền dứt chiến tranh.
                                                                       Khai-Đạo Chơn-Quân

Bước đầu vào Đạo: Vào ngày thứ Bảy: 19-12-1925 (nhằm ngày âm-lịch 4-11 Ất-Sửu) Người được ông Phủ Tương mời đến dinh, dự lễ khai đàn, có nhiều công viên chức đến dự.

Đêm ấy, Đức Chí-Tôn giáng dạy cho mỗi người một bài thi Tứ tuyệt. Riêng ông được bài thi như sau;
THI
Dằn lòng len-lỏi hãy Qui-y,
Nay gặp TA đây đã đến kỳ.
Oanh-liệt hồng trần e phải khổ,
Tầm dường đạo-đức lánh đường nguy.
                                                                                  Đức Chí-Tôn

Đúng một tuần sau: Thứ Bảy 26-12-1925 (nhằm ngày 11-11 Ất-Sửu, các vị ấy đến tư gia của Người để khai đàn và Đức Chí-Tôn thâu nhận Ngài nhập-môn và cho Thi:
THI
Nên gầy đạo-đức đặng hồi nguyên,
Un đúc trẻ thơ sửa tánh hiền.
Nương bút Thiên-cơ lo độ chúng,
Dìu người gắng bước đến rừng Thiền.
                                               Đức Chí-Tôn

TIẾP-ĐẠO CHƠN-QUÂN
Cao Đức Trọng (1897-1985)
Đạo Hiệu: Chánh Đức
Ngày sinh: 20-4 Đinh-Dậu (1897)
Ngày Qui: 23-5 Mậu-Tuất (1958)
Đạo hiệu: Có hai: Chánh-Đức và Huyền Hạo Đạo-nhơn
Đức Tiêu-Diêu Đạo-sĩ giáng tặng cho Đạo hiệu này:
“CHÁNH khí tà gian khủng.
“ĐỨC trọng quỉ thần kinh.”

Ngày 3-6 Mậu-Tuất (dl 19-7-1958) Ngài Cao-Tiếp Đạo có giáng Cơ :

Chào Anh Bảo-Pháp, Thượng-Sanh và mấy em,
Bần-Đạo để lời cám ơn toàn Bạn Hiệp-Thiên-Đài, toàn cả Chức-sắc Cửu-Trùng-Đài và toàn Đạo Nam Nữ đã lo-lắng cho Bần-Đạo, khi Bần-Đạo về với Đại-từ-phụ. Đó là nghĩa thịt xương.
Vậy Bần-Đạo có mấy lời.

Bài Thài hiến Lễ:
Cỗi xác phàm vui lại cảnh Thiên,
Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
Trường Đời dầu chẳng tròn Nhân-Nghĩa,
Nợ Đạo rồi xong gát bút nghiên.
Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh Túy,
Chơn mây ngẩn chạnh Bạn rừng Thiền.
Từ đây dạo khắp trời non nước,
Nâng giúp quần sanh hưởng huệ duyên.
                                                           Tiếp-Đạo Chơn-Quân

Bần-Đạo được nhờ Phật-Mẫu và Cửu Vị Tiên-Nương giao cho phận sự Thiêng-liêng Phổ-độ khắp miền Á-Châu, nhưng dầu sao Bần-Đạo cũng hiệp với mấy Đấng Thiêng liêng tiền bối của Đạo trông nom và trợ giúp mấy Bạn Hiệp-Thiên-Đài làm tròn nhiệm vụ.

Bần-Đạo xin khuyên Em Thượng-Sanh khuyên giải Bà Thân mẫu của chúng ta. Anh đã hưởng trọn Thiên ân của Đức Chí-Tôn. Đó là một điều vui chớ chẳng phải việc buồn. Bần Đạo kính chào cả mấy Bạn. Thăng.

(Đặc biệt trong gia-đình của Ngài đều giữ phẩm tước yếu trọng cửa Đạo Cao-Đài. Bà Mẹ là Đầu-sư Hồ Hương Lự qui thiên sau các người con.
Ngài Cao-Đức Trọng phẩm Tiếp-Đạo Chơn Quân là Anh thứ hai
Người Chị thứ ba là Cao Hương Cường, phẩm Giáo-Sư (Cửu-Trùng-Đài).
Ngài Cao Hoài Sang, phẩm Thượng-Sanh là thứ tư trong gia đình. Cả hai Ông cùng đứng vào Cơ quan Hiệp-Thiên-Đài.

Một lỗi-lầm chịu phạt:
Trong thời gian hành Đạo, không biết tâm ý của Ngài Cao Đức Trọng có lầm lỗi gì mà Ngài có giáng Cơ xin lỗi và từ giã Mẹ để đi đầu thai:
Phò-loan: Thượng-Sanh và Bảo-Văn Pháp-Quân.

CAO ĐỨC TRỌNG
Từ giã đêm 01 rạng 02 tháng 03 năm Canh-Tý (1960)

Thưa Mẹ,
Con cúi đầu lạy Mẹ, Qua mừng hai Em và Quí hữu. Mời quí hữu xuất ngoại để có tỏ việc riêng.

Thưa Mẹ,
Hôm nay con đến đây với thâm tình mẫu-tử, hầu tỏ nỗi niềm tâm sự, mặc dầu vô hình khác cảnh, nhưng Ơn cúc dục sanh thành nghĩa nặng đeo mang, lòng bác ái của Mẹ vô hạn. Bởi công đức lớn và tâm trung của Mẹ đối với Ngọc Hư-Cung và các Đấng đều ghi. Hơn nữa đối với Thiên quân trọn nghĩa chung thủy nên quyền Thiêng-liêng ân tứ cho con được trở về thăm, tỏ nỗi tâm sự khổ đau bởi vì lòng thương vô hạn: Mẹ hằng cầu khẩn vái van mà động lên lòng các Đấng.

Khi con còn tại thế, vì mang xác phàm không gìn tròn sứ mạng nên có sự lỗi-lầm! Bên ngoài thế tục còn qua được, nhưng về tâm sự nơi lòng người khó tránh lẽ công bình, luật Thiên-điều nhặc nhiệm.

Sự oan nghiệt tâm phàm của con rủi một chút mà linh hồn con phạm Thiên Điều. May nhờ công tu-luyện và tâm trung vì Đạo nên an-ủi đó chút!

Khi lãnh lịnh Ngọc-Hư-Cung xuống thế, có bổn phận phải giúp Ngự-Mã-Quân mà ngược lại không tròn Nghĩa, vì nặng mang phàm tục lôi cuốn, quên hẳn Thiêng-liêng cao trọng…Ôi! Phàm tục! Vì mi mà làm Ta lầm-lạc, chẳng hiểu đặng rằng Ngự-Mã là mạng lịnh của Khí Hư-vô thay thân Chí-Tôn tạo đời cải dữ ra hiền.

Mẹ ơi! Một lời nói sai với Ngự-Mã cũng bị đọa, huống chi sửa cải chơn truyền tội trọng dường nào! Sự lỗi lầm của con nay việc đem Em về tước quyền Thiên-Quân nên gánh lấy tội-lỗi. Tưởng lúc lâm chung đày đọa xác thân vậy thôi. Nào dè, linh hồn chịu án Thiên-Điều! May nhờ ơn Đức Ngự-Mã đầy lòng Từ-bi Bác-ái vị tha đến thức tỉnh và an-ủi con. Nhứt là Đức Ngài không nói đưa Giáng-Ma-xử. Hai nữa nhờ Đức Thượng-Phẩm và Lục-Nương dìu độ.

Đức Ngự-Mã, Ngài cầu xin với Ngọc-Hư cho khỏi bị tiêu diệt linh hồn để tái kiếp đền lại những lỗi-lầm mà nợ tình của hàng vạn linh-hồn cùng Thánh-Thể Chí-Tôn mà con đã gây ra.

Rồi đây không biết đến nơi nào với một kiếp sanh để đền nợ. Nếu chẳng may vương mang sự lỗi-lầm thì con chưa cỗi xác tục đây, phải đợi mãn kiếp sanh mới và thọ lịnh hoặc tội đày hoặc tái kiếp. Từ đây tình cốt nhục cũng như Mẫu-tử biết ngày nào hội ngộ trùng phùng đền ơn tái tạo?

Con quì lạy Mẹ an tâm.
Những di tích chi của Thiên quân, phải cố giữ đừng sửa đổi mà phạm Thiên-Điều như Qua đã làm.
Con cúi đầu lạy Mẹ và chào hai Em! Thăng
Ngày 10-10 Canh-Dần (dl19-11-1954) Đức Quyền Giáo-Tông giáng Đàn nói chuyện với Ngài Cao Tiếp-Đạo về cơ Đạo, Đức Ngài có cho Thi:
THI
Lưỡi liềm chi dễ sánh Kim câu,
Gây sự bởi ai tạo buổi đầu.
Đông hải mênh mông còn phải cạn,
Tây Hồ chật hẹp độ bao sâu?
Tài ba Động Bích bao nhiêu sức,
Quyền phép Côn-Lôn sẵn mấy bầu.
Quyết đoán cuộc cờ ai thắng bại,
Chỉn xem Tiên Phật hướng về đâu?
                                                           Đức Quyền Giáo-Tông

3 - Bốn vị Thời-Quân thuộc chi THẾ:
BẢO-THẾ CHƠN-QUÂN
Lê Thiện Phước (1895-1975)
Ngày sanh: năm Ất-Mùi (dl 4-6-1895)
Qui: lúc 6giờ 30 sáng ngày 17-3 Ất-Mão (dl 28-4-1975)

Bài thài hiến lễ:
BẢO trọng Vạn linh hiệp Chí-linh,
THẾ nguy chuyển loạn lập Hòa-bình.
CỨU Đời mở Đạo kinh-luân sẵn,
NƯỚC Việt trông chờ sách cứu tinh.

Bài thi này được Đức Hộ-Pháp khen tặng, Đức Ngài giáng ban cho thi 15 năm trước Ngài Bảo-Thế Qui Thiên. Khi qui Thiên Hội-Thánh dùng bài thi này Tế điện, hiến lễ cho Ngài.

Ngài ngọa bịnh nằm cũng khá lâu, nhưng khi vừa lúc 30-4-1975 thì Ngài Qui. Bảo-Thế là giữ Đời. Đời đã không giữ được thì Ngài cũng ra đi thôi. Ngài ra đi giữa sự thay đổi đất trời như vậy thì cũng khó mà lập Đàn Cơ được!

Phải chăng Đức Hộ-Pháp đã chuẩn bị trước cho Ngài Bảo-Thế và cũng giải quyết được sự khó khăn cho Hội-Thánh chăng?
Việc này Ngài Chơn Cực Lão-sư cũng đã tiên-tri rồi

Đức Ngài giáng Cơ nói:
Ê! Hoạch, nhà Toa (Toi) có nuôi con mèo mun phải không? Nghe thi:
THI
Mèo mun ngồi tựa gốc mùn meo,
Trèo đái trên cây bẻ trái đèo.
Lách trật khỏi nhào vỡ lật trách,
Leo ra chủ rượt chạy la reo.
                                               Chơn-Cực Lão-Sư

Chính bài thi tiên tri này cũng thú vị lắm. Đoán đúng vào tình trạng đất nước Việt-Nam lúc bấy giờ .Như vậy thì đừng trách sao rằng Thiêng liêng không nói trước, chẳng qua là nói bằng những vần thơ “Huyền bí “ mà thôi.

Đàn đêm 6-2- Ất Tỵ ( 8-3-1965)
Tại Giáo-Tông-Đường lúc 20 g30p

Đức Hộ-Pháp ban thi cho Ngài Bảo-Thế Lê Thiện Phước:
THI
Quyền uy nhờ bởi giữ chơn truyền,
Chưởng đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.
Quản quán chúng sanh tu cội phúc,
Hiệp hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.
Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,
Đài nội tuyển thăng thánh đức lên.
Thừa thế chuyển nguy an thánh địa,
Mạng trời đâu để quỉ hành quyền.
                                                           Đức Hộ-Pháp

HIẾN-THẾ CHƠN-QUÂN
Nguyễn Văn Mạnh (1894-1970)
Sinh ngày: năm Giáp-Ngọ (dl 19-12-1894)
Qui thiên: 15-1-Canh-Tuất (dl 15-1-1970)
Quê-quán: Tân Niên-Trung. Tỉnh gò-Công

Bài Thài Hiến Lễ:
HIẾN mình cho Đạo buổi sơ khai
THẾ cuộc càng xây dạ chẳng nài,
CHƠN chánh quyết tâm lo lập Đức.
QUÂN Thần vẹn nghĩa cảm bi-ai.
                                               Hiến-Thế Chơn-Quân

Thuở mới khai Đại-Đạo, vào ngày rằm tháng 3 Bính-Dần, cùng một lượt có các Ông được Đức Chí-Tôn phong vào các Phẩm này để phò cơ:
- Ông Phạm Công Tắc là “Hộ giá Tiên Đồng giá cơ Đạo-Sĩ.”
- Ông Cao Quỳnh Cư là “Tá cơ tiên hạc Đạo-sĩ”.
- Các vị: Đức, Hậu, Nghĩa, Tràng, Tươi, Chương, Kim, Đãi, Mai, Nguyên, Phước, Mạnh đồng được Chí-Tôn ban cho là “Tiên Đạo phò Cơ Đạo-Sĩ”.

Sau tất cả các vị này đều được phong vào Thập-Nhị Thời-Quân. Duy chỉ có hai vị này không đến là Mai và Nguyên, do đó Đức Chí-Tôn thay thế người khác vào là Vĩnh và Trọng.

KHAI-THẾ CHƠN-QUÂN
Thái Văn Thâu (1899-1981)
Ngày sinh: năm Kỷ Hợi (1899)
Qui Thiên: Lúc 5giờ 30 chiều ngày 2-6 Tân-Dậu (dl 3-7-1981)
Ngài Khai-Thế Thái-Văn-Thâu bị bịnh tâm thần kéo dài. Sau cùng qui tại Tư gia Xã Qui-Đức (Cần-giuộc).

Không có bài thài hiến lễ.
Ngài là người cùng quê nhà với Ngài Hiến-Đạo Phạm-văn-Tươi. Thời trẻ hai người là bạn với nhau.

Đầu năm Bính-Dần (1926 ) một đàn Cơ ở Tân-Kim (Cần giuộc) tại nhà ông Hội-đồng địa hạt Nguyễn văn-Lai, ông Đốc Phủ Nguyễn văn Tương (Chủ Quận Cần giuộc) và ông Lê-văn-Lịch (Vĩnh nguyên tự) chứng đàn.

Hai ông Ca Minh Chương và Phạm Văn Tươi phò loan. Ngài Thái Văn Thâu có đến hầu đàn và được Đức Chí-Tôn thâu làm Môn-Đệ.

Khi Đức Chí-Tôn lập Pháp Hiệp-Thiên-Đài ngày 12-01 Đinh-Mão (dl 13-2-1927) Ngài Thái-Văn-Thâu đắc phong KHAI THẾ HIỆP-THIÊN-ĐÀI.

Ông cũng làm việc đắc lực trong Hội-Thánh, nhưng vào năm 1941, Đức Hộ-Pháp cùng với 5 vị Chức-sắc bị nhà cầm quyền Pháp bắt lưu đày sang Madagascar (Phi Châu), lính Pháp vào chiếm đóng Tòa-Thánh. Ông lui về quê nhà ở xã Qui Đức an dưỡng, thì cơn bịnh tâm thần kéo dài, bất thường.

Ông Qui tại tư gia lúc 5 giờ 30 chiều ngày 2-6 Tân Dậu (dl 3-7-1981) Hưởng thọ 83 tuổi. Đại diện Hội-Thánh và Ban Cai-quản Thánh Thất Cần giuộc tổ chưc lễ an táng tại quê nhà.

Ngài Khai-Thế Thái-Văn-Thâu là vị Thời-Quân đăng tiên sau cùng trong số 12 vị Chơn-Quân. Gặp lúc hoàn cảnh đất nước đổi thay, Đạo quyền nghiêng ngửa, Hội-Thánh và các cơ quan Hành-Chánh-Đạo bị giải thể, không thể di Thánh hài của Ngài về an táng nơi Thánh Địa được, đành phải an táng theo nghi thường tại quê nhà của Ông tại Xã Qui Đức (Cần-giuộc).

TIẾP-THẾ CHƠN-QUÂN
  Thế Vĩnh (1903- ?)
Ngày sinh: Năm Đinh-mão (1903)
Ngày qui không có, vì ngài Tiếp Thế bị đối phương bắt đang trên đường hành Đạo năm 1945 rồi mất tích luôn, nên không biết ngày qui thiên là ngày nào!

Không có Bài Thài hiến Lễ:
Phần Đạo:
Trong năm 1925 nghe tin nhà ông Cao Quỳnh Cư cầu cơ thỉnh được Tiên về cho thi hay lắm. Vì là nhà báo, ông muốn làm một thiên phóng sự đặc biệt về Cơ Bút. Một hôm, Ngài cùng ông Phạm Minh Kiên đến viếng ông Cư, đang lúc có Đấng AĂÂ giáng. Ông Cư xin cho hai ông mỗi người một bài thi để kỷ-niệm. Đấng AĂÂ gõ cơ đáp:
- Để Bần Đạo cho chung hai người một bài thi mà thôi.
THI
Một viết một thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh lang
Đạo đời ví biết đời là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang.

Bài thi chỉ có 4 câu mà gồm đủ hình trạng tâm sự của hai nhà báo. Nhờ đó mà Ngài mới chịu theo Đạo.

Khi Khai Đạo ở Gò Kén ngày 15-10 năm Bính Dần. (dl 19-11-1926) Hai ông Mai và Nguyên vì không đến hầu đàn phong Thánh tại chùa Gò Kén nên sau đó hai ông khác đến thế vào và đắc phong trong hàng Thập-Nhị Thời-Quân: Hai ông ấy là Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh và Tiếp Đạo Cao Đức Trọng (theo Đạo Sử Cơ bút của Ngài Trương Hiến Pháp).

Sau đó thì Ngài nghỉ viết báo, về Tây-Ninh làm việc nơi Văn phòng Đức Quyền Giáo-Tông. Khi xảy ra Hội Vạn linh (?) do ông Nguyễn Phan Long làm Nghị trưởng thì Ngài đại diện cho Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp. Năm 1934 Ngài được đi hành đạo Bắc Việt.

Trong tình trạng xáo trộn của đất nước năm 1945, Ngài bị đối phương lừa gạt đưa Ngài từ Sài gòn lên Đà Lạt rồi mất tích luôn.

E - Thầy bắt đầu dạy Đạo
Tháng 12 năm Ất Sửu (dl 02-1926) Đức Chí-Tôn dạy Đạo. Ngài giáng Cơ nói:
 “Nếu muốn cho TA để tận-tâm truyền đạo-lý, thì hết thảy đều phải kỉnh TA làm “Thầy” mới tiện bề đối đãi nhau.”

Mùng 9 tháng 11 năm Ất Sửu (24/12/1925): Nhân Lễ Chúa Giáng sinh, các ông hội họp tại nhà ông Cao Quỳnh Cư và cầu cơ. Thất-Nương giáng cho biết Đức Thượng-Đế sắp khai đạo cứu đời và còn dạy quý ông nên nhân dịp nầy cầu nguyện xin với Đức Cao-Đài Thượng-Đế ban ơn cho nhơn loại. Quý ông liền thực hành theo và mỗi người đều để hết tâm thành cầu nguyện. Lễ xong, quý ông cầu cơ có Đức Cao-Đài Thượng-Đế giáng dạy đạo và xác nhận ngày nầy chính là ngày mà Người đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây. Kế tiếp Đấng AĂÂ, Lý Thái Bạch, Đỗ Mục Tiên và Lục-Nương giáng cho thi.... (Thông Tin xuân Quí Sửu 1973, trang 37)
Qua các đêm sau, các Ngài cũng lập hương-án, đủ Lễ nghi mà cầu Đức Thầy đến.

Đức AĂÂ giáng vào cơ mà chỉ dạy:
 “Từ buổi Hồng-Mông, nhứt khí Hư-vô phân Lưỡng Nghi, sanh Tứ-Tượng, chia Bát-Quái, rồi mới biến hóa Nhựt, Nguyệt, Tinh-tú và 72 Địa-cầu, mà tạo thành Càn Khôn Thế-Giái”.

Ngài lại giải rằng:
"Lúc khí Hư-vô sanh Lưỡng-Nghi: Dương-khí thăng lên, biến ra Ngài; Âm-khí hạ xuống, biến ra Kim-Mẫu Nương-Nương".

Đấng Huyền Khung Cao-Thượng-Đế đã tá phàm nhiều lần rồi mà dìu Đạo nơi Á-Đông, lại giáng-sanh khai Thánh Giáo miền Thái-Tây nữa. Nay vì đã rốt cuộc tuần huờn thì giờ đã cùng tận trong buổi Hạ-Ngươn nên Đức Ngài đến hoằng-khai Đại-Đạo, chuyển các Tôn Giáo lại thành một mối duy nhứt gọi là “Tam giáo Qui nguyên Ngũ Chi phục Nhứt” hầu dìu-dẫn nhân sanh, tức là mở cơ tận độ chúng sanh qui nguyên vị.

Trước mặt ba vị:
Cao Quỳnh Cư. Phạm Công Tắc. Cao Hoài Sang.

Ngài hỏi rằng:
 “Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng?”.

Ba Ông bạch rằng:
 “Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo lý chi, duy nhờ Đức Chí-Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết chưa đặng trong muôn một, e cho chẳng xứng đáng mà lãnh trách-nhậm lớn lao ấy”.

Đức Ngài nói rằng:
 “Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi.”

Khấn vái xong rồi thì vào nhà phò loan, Đức Chí-Tôn giáng dạy như vầy:

“Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo Thiên lập Địa, Thầy sanh loài người ra, nhằm ngày Dần “Nhân sanh ư Dần”. Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, còn Thầy thì Tá-danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.”

Rồi cứ diễn tiến như vậy mà Thầy đến dạy:
THẦY
Một cuộc phồn hoa biếc sắc xưa,
Niên cao trở gót thảm khi vừa.
Công danh đã đủ còn mơ ước,
Một cuộc tang thương đã thấy chưa?
Gia đình oằn oại gánh đôi vai,
Thế cuộc nên hư cũng một tay.
Chưa mãn xuân mai đơm lá bích,
Ngày xuân đừng ỷ phận còn dài.

Chưa biết buổi đua chen, mà đã gặp nhiều khi thất nguyện. ( 01-02-1926)
THẦY
Cư, Tắc: Hai con ham cười, Thầy sẽ cho cười một phen cho đã, lập chí cho nghiêm, phòng sau mới dạy người, nghe hai con!

Trung xin phép cho Cư, Tắc vô cùng Thầy xin độ Tương, Kiêm. (Nghĩa là qua tháng 2-1926 mà anh Phủ Tương chưa nhập môn, nên Anh Cả xin cho hai ông Cư, Tắc độ Tương là cớ ấy).

THẦY
“Mừng thay” chớ! (Mỗi lần Thầy giáng thì đọc bài “Mừng thay”, nay ba ông quên đọc Thầy nhắc).
THI
Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Đạo đời tua biết đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.

Nghĩa là sắp nhỏ của con dạy, sau cũng nên người ở đời, ấy là đời nếu biết trọng đời thì gắng dạy nó nên hiền.
Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng hiền.
Nhận xét: Thầy xem việc nhơn luân là hệ trọng, nên rất chú ý từ những việc thật tế vi, hầu như không một điều gì mà Thầy không dạy

Đêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl. 12-02-1926)
THẦY cho ông Cao Quỳnh Cư
Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu cái dại mới là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

Cư, Tắc, Sang! Trong năm mới này Thầy trông mong ba con rõ thấu đạo đức hơn nữa, gắng chí nghe!

            THẦY cho thi Quan Phủ Vương Quang Kỳ:
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề Đạo dữ tân.
Vô lao công quả tu đương tác,
Niên quá niên hề Đạo tối tân.

            THẦY cho ông Lê Văn Giảng:
Trần tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe nơi Đại-Đạo rán nghe luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy tuôn.

THẦY cho ông Nguyễn Trung Hậu tự Thuần Đức
THI
THUẦN phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
ĐỨC hóa thường lao mạc vị danh.
HẬU thế lưu truyền gia pháp quí,
GÍAO dân bất lậu, tán thời manh.

THI
Đã có căn phần dựa cảnh Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi,
Đêm tối lần ra gặp ánh đèn.

            Đức Chí-Tôn (24-6-1926)
Thi cho Thanh Thủy (Cao Hoài Sang)
Bước đời chìm nổi bấy nhiêu niên,
Tâm chí ghe phen dập lửa phiền.
Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn huyên.
Lòng trần nung nấu trăm mùi khổ,
Biển ái đầy vơi một chiếc thuyền.
Nín nẩm chờ ngày tiền quả sạch,
Trau giồi đạo hạnh hưởng ân Thiên.

            Diêu Trì Nương Nương (3-7-1927)
            THẦY cho thi ông Đoàn Văn Bản
Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.

            THẦY cho thi ông Lê Văn Trung:
Đã thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm xích dẫn lên đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sao ra vạn dặm trường.
                                                                                                          Thăng

Ngày 13-02-1926 ( âl. 01-01-Bính Dần) giờ Tý: Đức Chí-Tôn giáng dạy về cơ Phổ hóa.
Khuya mùng 1 Tết năm Bính Dần (13-2-1926), giờ Tý, tái cầu Đức Thượng-Đế giáng dạy rằng:
Đức, Hậu tập cơ sau theo mấy anh mà độ người nghe và tuân theo.
Ấy là lời Thánh giáo và ngày kỷ niệm khai Đạo Cao-Đài về cơ Phổ hóa, ngày mùng 1 Tết năm Bính Dần giờ Tý vậy (13-2-1926).

Qua đến ngày mùng 9 tháng Giêng (21-2-1926), nhằm ngày Vía Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Quan Phủ Vương Quang Kỳ có thiết Đàn riêng tại nhà ông số 80 đường Lagrandière (bây giờ là đường Gia Long). Đêm ấy có mời Chư Nhu và mấy vị Đạo Hữu hầu Đàn, Thượng-Đế giáng cơ dạy như vầy:
Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắt đến cùng Ta.

Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Đạo Thầy.

Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gỗ nghe. Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn. Ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.

Khi ấy, Quan Phủ Ngô Văn Chiêu xin Thượng-Đế lấy tên mấy người đệ tử mà cho một bài thi kỷ niệm.
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hườn Minh Mân đáo thủ đài danh.
Thượng-Đế lại phán: "Hườn, Minh, Mân sau sẽ rõ..."
Nguyên 12 chữ lớn trong ba câu trên là tên của 12 vị Môn Đệ trước hết của Thượng-Đế. Có hai tên Sang, Thầy điểm chung một tên.
Còn ba chữ lớn câu chót là tên ba vị Hầu Đàn.

Thế rồi, ngày 1-1 Đinh-Mão (dl 1-2- 1927)
Thầy giáng cơ có để lời than:
“Trung, Cư, Tắc, mấy con nhớ đêm nay năm rồi thế nào không? Còn nay ra thế nào chăng?

…Thầy lập Đạo năm rồi ngày này, thì Môn-đệ của Thầy chỉ có 12 đứa, mà bốn đứa đã vào tay Chúa Quỉ, chỉ còn lại 8. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. Thầy hỏi nếu chẳng phải quyền-hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa có phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh, nhờ tay có 6 đứa Môn-đệ trong một năm cho đặng bao giờ.
Thầy vui mừng, Thầy khen tặng hết cả bốn muôn Môn-đệ của Thầy ..”

Luận Giải: 12 Môn-đệ có tên trong bài thi kể ra sau đây:
1 - CHIÊU: Ngô Văn Chiêu.
2 - KỲ: Vương Quan Kỳ, đắc phong Thượng Giáo Sư.
3 - TRUNG: Lê Văn Trung, đắc phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, sau thăng Quyền Giáo-Tông.
4 - HOÀI: Nguyễn Văn Hoài, tức là ông Phán Hoài.
5 - BẢN: Đoàn Văn Bản, đắc phong Thượng Giáo Sư.
6 - SANG: Cao Hoài Sang, đắc phong Thượng-Sanh.
7 - SANG: Võ văn Sang (Hai người điểm chung một tên)
8 - QUÍ: Lý Trọng Quí.
9 - GIẢNG: Lê Văn Giảng, đắc phong Thượng Giáo Hữu.
10 - HẬU: Nguyễn Trung Hậu, đắc phong Bảo Pháp.
11 - ĐỨC: Trương Hữu Đức, đắc phong Hiến Pháp.
12 - TẮC: Phạm Công Tắc, đắc phong Hộ-Pháp.
13 - CƯ: Cao Quỳnh Cư, đắc phong Thượng-Phẩm.

Ngài Ngô Văn Chiêu tách khỏi nhóm Phổ độ của quí Ngài Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc để chuyên bề tu đơn, sau đó Ngài Ngô Văn Chiêu về Cần Thơ lập Chi phái Chiếu Minh.

Hai Ông Nguyễn Văn Hoài và Lý Trọng Quí theo Ngài Ngô Văn Chiêu tu trong phái Chiếu Minh, sau Ông Lý Trọng Quí (cũng có tên là Hồ Vinh Quí) lại tách riêng lập Chiếu Minh Đàn Cần Thơ, có ra cuốn Kinh Tam Nguơn Giác Thế vào năm Tân Mùi (1931).

Ông Vương Quan Kỳ tách khỏi Tòa-Thánh Tây-Ninh vào năm 1930, lập Chi phái Cầu Kho ở Sài Gòn.

Trong đàn Cơ tại Phạm-Nghiệp ngày 20-9 Quí-Dậu (dl 7-11-1933) xin trích một đọan nói về Ngài Ngô Văn Chiêu:

Hộ-Pháp bạch Thầy: Dạ thưa thầy, con không biết tại sao khắp nơi đều có Cơ Bút mà mỗi lần đều xưng danh Thầy, không lẽ Thầy lại đến với Cơ bút ấy?

(Ý nói về Cơ Bút của những người đã tách khỏi Tòa-Thánh ra mà lập Chi phái. Cầu Cơ có các Đấng giáng)

Thầy đã nói rằng: Duy có cái Ngôi của Thầy chúng nó không dám dựa, chớ danh Đạo Thầy nó có phép dùng, nên dặn rằng: Đừng nghe Cao-Đài nơi này, Cao-Đài nơi khác mà tin cho ra thất thệ. Đến đỗi hồn ma thằng Chiêu, chúng nó còn lợi dụng, lừa gạt các con thay! Thì còn danh ai mà nó từ bỏ?

Cười! Tắc, Con tối trí quá!
Giải-nghĩa:
Câu 1: CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh
Bốn vị: Chiêu, Kỳ, Trung, Hoài có phận sự độ dẫn nhơn sanh. Ngoài ra còn có nghĩa là Kỳ ba phổ-độ này, độ cả thai nhi còn trong bụng mẹ.

Câu 2: BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành:
Nền Đạo do Đức Chí-Tôn mở ra vốn được quí trọng là phải giảng-giải cho mọi người cùng biết, tức nhiên phải Phổ độ.

Câu 3: HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên Địa cảnh:
Bốn vị: Hậu, Đức, Tắc, Cư chính được sản xuất từ nơi Thiên Địa cảnh, nghĩa là Người được Đức Chí-Tôn chọn lựa trước, là những lương sanh đến để cứu vớt quần sanh

Câu 4: HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh
Ba vị: Huờn, Minh, Mân đến giữ cái đài của Ta. Tên của ba vị hầu đàn

Về con số thì tất cả là 12 vị Đệ-Tử đầu tiên có mặt trong hôm ấy. Số 12 là con số của Thầy, Thầy có nói:
 “Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay.Số 12 là số riêng của Thầy”

Nhưng nếu cộng với ba tên hầu đàn nữa thành ra số 15. Chính là con số Ma-phương của Phật-Mẫu, nằm ở giữa Bát-Quái Đồ Thiên, nó xếp thành chữ ĐIỀN

Nếu nói rằng kể tên cả hai người tên Sang là số 13 rồi cộng thêm ba vị hầu đàn sẽ có số 16. Con số này bằng hai lần 8, tức là biểu thị bằng hai Bát-Quái mà Đạo Cao-Đài đang xử dụng. Ấy là:
- Bát-Quái Đồ Thiên tượng cho Thể-pháp Thiên Đạo
- Bát-quái Hư vô tượng cho Bí-pháp Thiên Đạo.
 (Xem thêm Dịch Lý Cao-Đài có giải rõ)

Xét kỹ lại thì trong cửa Đạo ngày nay còn có 6 vị thường được nhắc đến qua các công trình lo cho Đạo pháp, như Hiệp-Thiên-Đài có ba:
1 - Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư chưởng-quản chi ĐẠO.
2 - Thượng-Sanh Cao Hoài Sang Chưởng-quản Chi THẾ.
3 - Hộ-Pháp Phạm Công Tắc Chưởng-quản chi PHÁP. Nhưng Đức Hộ-Pháp, Ngài còn là GIÁO-CHỦ của nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ về phần hữu hình nữa.
4 - Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung chưởng quản Cửu-Trùng-Đài. Nếu Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là Quyền CHÍ-TÔN tại thế.
5 - Bảo-pháp Nguyễn Trung Hậu là Thời-Quân Hiệp-Thiên-Đài, thuộc chi Pháp.
6 - Hiến-pháp Trương Hữu Đức là Thời-Quân Hiệp-Thiên-Đài, thuộc chi Pháp.

Như vậy thì Cơ Đạo bấy giờ cũng đủ Tam Âm Tam Dương, ứng với hai quẻ CÀN KHÔN, nghĩa là nắm máy Âm Dương cũng đủ quyền hành để “Quản suất Càn Khôn định cõi bờ” được vậy.

F- Đức Thượng-Phẩm bị khảo nặng nề:
Đức Thượng-Phẩm đã phế đời hành Đạo.
Vừa qua phải trả lại ngôi Từ-Lâm-Tự, vì Hòa Thượng Như-Nhãn đã phản ngôn nên toàn Đạo rất gian nan dời cốt Tượng Phật-Tổ về đất mới mua và cùng công quả bứng gốc phá chồi lập nên một ngôi Thánh Thất tạm. Vừa yên ổn thì vì sự ganh tỵ mà nhóm người này làm khổ Đức Thượng-Phẩm, đuổi Ngài ra khỏi nơi đây.

“Đức Ngài về Thảo Xá, vì buồn rầu, vì xấu hổ với anh em bạn, mặt mũi nào trở về sở làm được nữa, thế nên Ngài thất chí ước nguyện của Ngài không thành.

“Vì khi ra đi Ngài quyết chí đem thân này làm con tế vật cho Đức Chí-Tôn sai khiến, nhưng cơ đời rất nên cay nghiệt, xảy đến nhiều nỗi tang thương cho gia đình Ngài. Đức Ngài quá đau khổ có làm một bài thi tự thán như vầy:
Thi
Công trình gầy dựng Thất Tây-Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình.
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.
Xưa Tòa-Thánh dập dìu lai vãng,
Nay Bửu Đình hiu quạnh lụy nhìn.
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu,
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

THẤT NƯƠNG Giáng cho Đức Thượng-Phẩm một bài thi:
Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,
Nhờ ai an vị lại an nơi.
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời.
Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời.
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Đến cửa Thiêng liêng ngó mặt Trời.

Ngày 15-03 Mậu-Thìn (Dl 04-05-1928)
Đức Chí-Tôn dạy “Thầy phán lịnh cho Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài phải hiệp nghe à”.
Phò loan: Hộ-Pháp - Thượng-Phẩm
Rằm tháng 3 năm Mậu Thìn (4-5-1928)
THẦY
Các con! Cười.... Thầy tưởng khi các con còn cứng lòng hơn nữa chớ... Cười....

“Các con chỉ biết rằng có xác thịt trần của các con đó là hữu hình, biết có mình các con mà thôi, chớ còn Lão già nầy thì chẳng cần chi kể đến há?

Nầy, Thầy nói cho các con biết rằng: Chẳng giờ phút nào mà mắt Thầy không chăm nom gìn giữ các con, Thầy đợi xem cho rõ coi cách các con lập vị mình dường nào. Thầy lại nghĩ mà cười thầm hoài. Mỗi phen Thầy thử thách các con thì các con rối rắm, Thầy chẳng biết tới chừng nào các con mới đoạt đặng Thánh đức của Thầy dành để cho các con. Trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Thầy lấy làm hổ thẹn, oan gia là oan gia lắm hử!

Từ ngày các con nghịch lẫn nhau thì chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chẳng còn ở cùng các con nữa, các con biết à?

Trung! Ngày mai nầy chạy tờ cho cả mấy em con biết rằng: Thầy phán lịnh cho Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài phải hiệp nghe à.

Tắc! Con phải ký tên tờ Châu Tri với Anh con nghe à!
Cư! Con phải sửa soạn mình hầu chịu một phen khảo hạch nữa, rán lấy gương ấy mà răn nghe.
Hai con Trung, Cư phải hiệp ý đặng lo Đạo, Thầy dặn một phen nữa, chi chi các con cũng nhớ khi các con ở nơi lòng Thầy.
Hậu! Cho cả Chức Sắc Hiệp-Thiên-Đài hay mạng lịnh Thầy.
Thầy Thăng.

Chính Đức Thượng-Đế đã phải than:
THI
Cao-Đài tá thế đến phàm-gian,
Bạch-Ngọc Hùynh-Kim cũng chẳng màng.
Chìu lụy đòi phen xem quá tục.
Nghĩ không đổ lụy phải cười khan.

Cười khan mà khóc bởi thương bây.
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy.
Biết phận già không chờ chống gậy.
Nương theo con dại mới ra vầy.

G - Bát Tiên giáng cơ:
Như lúc sau, có mấy vị trong Bát Tiên, đến dìu-dắt mấy Ông, có ban cho những vần thơ tuyệt bút như vầy:
1 - Thơ của Đức Lý Ngưng Dương

Đại hỉ chư Đạo-hữu:
THI
Trời đất riêng tay giữ một bầu,
Ngàn mây dậm gió gót chơn thâu.
Rừng tòng thong-thả nhàn ra dạo,
Đền ngọc thung-dung rảnh đến chầu.
Thoát tục sớm dìu nên bảy bạn,
Dẫn phàm nay rảo khắp năm châu.
Thế trần mừng gặp Tam-Kỳ độ,
Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.
                                                                       Lý Ngưng Dương

2- Chư Đạo-hữu may mắn thay, gặp đường Chánh giáo, chớ dần-dà, trễ công thiếu quả, mà chẳng đến thang Thiêng-liêng kịp thì hội vị. Lão mong ngày Đạo khải hoàn, chư Đạo-hữu nên gắng sức. Đường cũng chẳng bao xa, miễn hiệp đồng nhứt tâm vì sanh chúng, sau còn ngày gặp-gỡ. Thăng.
THI
Rảo khắp non sông dậm trải qua,
Bì gương nhựt nguyệt tác không già.
Biển trần nay gặp kỳ dìu chúng,
Muôn dặm đèn soi đã có ta.
                                                           Hớn Chung Ly

3 - Chư Đạo-hữu, Đức Chí-Tôn dìu bước, cả Tiên Phật dẫn đàng, há chẳng sớm lánh phồn hoa, đặng dồi-dào gương độ chúng. Huống chi, chư Đạo-hữu đã có quả nơi mình, lại chẳng vì mạng lịnh Đức Từ-Bi, mà chịu ít lâu khổ hạnh, hầu mong buổi đoạt phẩm-vị Thiêng-liêng sao?

Ước mong ngày hội ngộ, trông mong buổi tạc thù, rượu Thánh ra non dòm thế, cờ Thần dựa đảnh luận đời. May thay! Vui thay! Chư Đạo-hữu nên gắng sức! Thăng.
THI
Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong ao,
Đền ngọc từng khi để bước vào.
Rảnh hứng trăm hoa khoe Đảnh Ngự,
Nhàn vầy mấy bạn dự Bàn-Đào.
Độ đời rảo gót non sông lướt,
Cứu thế dìu nhân đạo-đức trau.
Chờ buổi tuần huờn Thiên Địa trở,
Nương gươm Thần huệ một vừng cao.
                                                           Lữ Đồng Tân

4 - Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp kỳ Phổ-độ, khá biết cải thế thì. Đạo khả trọng, đức năng trau.
Đời dời đổi,
Đạo chờ người.
Khách tục nương thuyền độ,
Non Tiên tiếng khánh đưa,
Gắng nhọc thế lọc-lừa, tìm đường ngay thẳng-rẳng.
Nguồn rửa bợn nhiều đường cay đắng,
Bước nâu sòng dặm lắm gay go.
Liệu sao khỏi trễ con đò,
Mới thoát vòng khổ hải.
Gắng sức vì sanh mạng,
Lao tâm chớ sợ bởi căn xưa.
Đường quanh co, bước khá ngừa;
Nẻo hiểm trở, chơn nên lánh.
                                                           Hậu tái ngộ. Thăng

THI
Từng vào non Thánh lại đền vàng,
Mãn quả sớm nhờ sắc ngọc ban.
Lần hạc tu tâm thìn nét Đạo,
Biển trần độ chúng vững con thoàn.
Cuộc cờ chung hứng nơi rừng thắm,
Bầu rượu riêng vui với cội tàng.
Gặp lúc dìu đời qua bến tục,
Để công phải nhọc đến phàm gian.
                                                                       Lâm Thể Hòa

5 - Hỉ chư Đạo-hữu, Đạo gặp lối quanh co, khá biết ngừa vực thẵm, gắng sức cho tròn trách-nhậm lớn lao của Đấng Chí-Tôn phú thác.
Chư Đạo-hữu khá biết. Thăng

THI
TRƯƠNG kỳ bạch động mộ Tiên gia,
QỦA diệu thâu trì tác trí kha.
LÃO dược độ sanh tiên tự khởi,
Hiến trần tu thức trực ninh tà.
                                                           Trương Quả Lão

Ách nước nạn dân, số Trời đọa thế. Vòng vay trả, mối buộc ràng; nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi vì đâu nông nỗi.

H - Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế thật sự đến với nhân-loại
 “Mãi đến đêm Noel (24-12-1925) Thất-Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ truyền cho ba Ông phải chỉnh đàn cho nghiêm hầu tiếp giá. Nghe vậy, mấy Ông Cư, Tắc, Sang nửa mừng nửa sợ, lật đật sắm đủ hương, đăng, hoa, trà, tửu, quả, chỉnh đàn cho có nghi tiết, đoạn hai Ông Cư và Tắc mới ngồi chấp cơ.

Cơ giáng như vầy:
 “Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ Tát Ma-Ha-Tát giáo đạo Nam phương
THI
Muôn kiếp có Ta nắm CHỦ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Đêm nay phải vui mừng là vì là ngày Ta đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây. Ta rất vui lòng mà đặng thấy Đệ-tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.
(Cúng tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư 134 Bourdais, Sài Gòn)

Đức Cao-Đài lại phán rằng:
“Bấy lâu Thầy vẫn tá danh AĂÂ là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy khai Đạo.

“Các con thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa? Các con nên bắt chước trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức."
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét