AĂÂ:
Ba con thương Thầy lắm há?
Con thấy đặng sự hạ mình của
AĂÂ như thế nào chưa? Con có thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa?
Người quyền thế lớn nhứt
như vậy có thể hạ mình bằng AĂÂ chăng? AĂÂ là Thầy.
Cao Quỳnh Cư bạch:
Thấy nhơn sanh chưa rõ sự
huyền diệu của Thầy, họ nó phạm thượng, ba con binh vực Thầy, ba con cải với họ.
Thầy biết. Cười!...
Sự nhỏ-nhẹ của Thất-Nương
đó, con bằng mảy mún gì chưa? Học hỏi sự nhỏ-nhẹ ấy.
Sự cao-kỳ của Lục-Nương,
con có đặng mảy-mún gì chưa? Học sự cao kỳ ấy.
Sự nhân đức của Nhứt
Nương, con có chút đỉnh gì chưa? Phải học nhân đức của Nhứt Nương.
Tình nghĩa yêu mến của con
có bằng Bát-Nương không? Phải học.
Phải học tình nhân ái,
trung tín, cứu giúp của ba con có đặng như Cửu Thiên Nương Nương chăng? Phải học
gương.
Sự kính nhường ba con có bằng
Cửu Nương chăng? Phải học.
(Bài Cơ này luận thành hình
một Bát-quái Đồ thiên: Xem thêm Dịch-Lý Cao-Đài quyển I có giải rõ)
Mercredi 2 Février 1927
(30-12-Bính Dần).
NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ VIẾT
CAO-ĐÀI GIÁO-ĐẠO NAM-PHƯƠNG
Các con! Mừng các con ...
Trung, Cư, Tắc, mấy con có
nhớ đêm nay năm rồi thế nào, còn nay ra thế nào chăng?
Trịnh Thị Ái Nữ, Hiếu, hai
con đã thấy Thầy giữ lời hứa thế nào chưa?
Thầy lập Đạo năm rồi ngày
nầy thì Môn Đệ của Thầy chỉ có mười hai đứa, mà bốn đứa vào nơi tay chúa Quỉ,
chỉ còn lại tám. Trong tám đứa thì lại còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành
Đạo.
Thầy hỏi, nếu chẳng phải
quyền hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa
phương chi mà độ hơn bốn muôn sanh linh nhờ tay có sáu đứa Môn Đệ trong một năm
cho đặng bao giờ.
Thầy vui mừng, Thầy khen tặng
hết bốn muôn Môn Đệ của Thầy.
Thơ, con đã ngoan Đạo, mà
sự ngoan Đạo của con đó còn độ lắm kẻ, Thầy khen con.
Bính, Thầy thưởng công con
cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến con. Thầy cám ơn lòng đạo đức
con, sanh linh còn chờ công con mà thoát qua khổ hải.
Bản, Thầy thăng chức Giáo
Sư. Trò, Thầy cho lên Giáo Hữu.
Nhiều đứa khác nữa, ngày
mùng chín Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.
Thầy ban ơn hết trọn cả
các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy. Thầy dở Cơ lên cho các con đều chun
ngang qua cho Thầy ban phép lành...
Thầy cầu cho các con đặng
ngoan Đạo như Thơ vậy; sửa mình cho nên chí Thánh vì Đạo năm nay sẽ rõ thấu khắp
cả hoàn cầu. Môn Đệ tăng thêm hằng hà sa số. Phận sự các con lại còn nặng nề hơn
nữa, nhưng các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ biết thương Thầy thì ắt thương Đạo,
mà hễ thương Đạo thì ắt thương hết Chúng Sanh. Các con biết Thầy là trọng, thì
biết trọng Đạo, mà hễ trọng Đạo thì cũng phải trọng cả hết Chúng Sanh. Trong
tháng Giêng này Thái Bạch sẽ hội Nữ phái đặng lập cho hoàn toàn. Thầy trông
công các con lắm đó.
Thầy ban ơn cho các con một
lần nữa.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
Chư Môn Đệ bình thân,
Trung, con kêu hai người
Thông ngôn Thổ vào, để một đứa trước chùa, một đứa trong Điện, Thầy nói thì nói
lại nghe.
Kêu Gồng... Cựu Mẹ Sóc...
Không phải, Gồng! Con thông ngôn lại nghe.
Đứng dậy con. Thầy mừng lũ
con yêu dấu Thầy. Căn đày của các con hầu mãn. Thầy đến lập một nền chánh Đạo nầy
tại cõi Đông Dương là cốt làm cho kẻ bị hiếp đáp đặng mạnh mẽ, kẻ hiền lương
làm Thầy kẻ hung bạo, ấy là lẽ công bình Thiêng liêng Tạo Hóa.
Hết phạt tới thưởng là thường
lệ.
Các con thoát đặng khỏi
nơi u ám là bởi đạo đức. Các con sẽ đặng trọng kỉnh cũng bởi đạo đức. Thầy bồi
đắp một sự ghét bỏ các con gần trên một trăm thế kỷ. Vậy các con phải chung hiệp
cùng nhau. Nam-Thổ chẳng còn phân chia nòi giống nghe à!
Thầy ban ơn cho hết thảy các con.
Thầy dặn tái cầu cho Thầy
dạy người Nam.
I - ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG ĐẠI-ĐẠO
TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
Thầy đã ban Quyền
Giáo-Tông, tức là Anh Cả của toàn thể nhơn sanh, cho Đức Lý Đại-Tiên Thái Bạch
Kim-Tinh. Nghĩa là Giáo-Tông và Hộ-Pháp hiệp một là Quyền CHÍ-TÔN tại thế.
Ban cho thi cũng là tiên tri
cho vận mạng của nhân loại trong thời buổi này:
* Mardi 11 Janvier 1927 (08-12-Bính Dần).
THÁI BẠCH
Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy:
Lão viết chậm, Thượng-Phẩm Hiền Hữu dặn Sĩ Tải phải viết cho cẩn thận. Lịch rán đọc cho tử tế,
bằng chẳng Lão đuổi ra ngoài ... Nghe à.
Điệu văn Động Đình của Lão
dạy chư Tiên, chư Phật, sau có truyền cho Bạch Vân Đạo Sĩ gọi là Trạng Trình,
song người học đặng có một điệu truyền thế gọi là điệu Bạch Vân. Lão lấy đề
"Ngụ Đời" nghe.
Ngụ Đời của Đức Lý
Đời hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Đạo truyền.
Nhẫng lo trọng tước cao quyền,
Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành lá rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.
Sắc
Tài
Tửu
Khí
Lưng vơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm Thần huệ dứt lần trái oan.
Vụ chữ nhàn....
Giải nghĩa: Thầy là cội,
chúng sanh là lá.... Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà dứt oan trái đặng
tu tâm dưỡng tánh, hầu vụ chữ nhàn.
Thượng-Phẩm! Hiền Hữu nhớ
đã đặng một điệu văn Động Đình rồi, chừng nào đến điệu Bạch Vân, Lão sẽ nói....
#
2:
Mến giang san
Phế bua quan
Ngừa trị loạn
Xem qua như chốn hí tràng,
Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung.
Chẳng ai nắm kiếm Thư Hùng,
Thành nghiêng khôn đỡ vạc rùng khôn nâng.
Sĩ dân,
Soái Tướng,
Quân Thần,
Chính chuyên thay! Phận phàm nhân,
Đỡ nương chẳng biết dựa gần người binh.
Nghe thấy bắt động tình.
Chú giải: Rùng là sung sướng.
Thư Hùng Kiếm của Trương Tử Phòng dâng cho Hàn Tín. Cái phận phàm nhơn chịu lắm
nỗi chinh chuyên.
Hộ-Pháp Hiền Hữu ngâm hai
bài trước, Thượng-Phẩm Hiền Hữu hãy đề hai bài số 1 và số 2 Lão còn kết.
Chú giải: Chinh chuyên:
chinh là nghiêng; chuyên là chở. Chở nghiêng nghĩa là chở nặng nề.
Thần Huệ Kiếm: Huệ trí dĩ
vi kiếm tác Đạo giả: Lấy huệ trí làm gươm mà hành Đạo...
# 3:
Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
Nền giao cỏ loáng sân chầu sương phong,
Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công,
Vua chẳng phải giòng,
Về Đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm?
# 4:
Cũng xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,
Cũng văn, cũng pháp, cũng phong, cũng tục Nam,
Cũng xã tắc, cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Bát Quái:
Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi.
Ấy cũng gọi đời ...
Lão dặn Thượng-Phẩm phải
biên số, là vì điệu văn Động Đình chẳng phải mỗi điệu vậy là dứt, Lão còn kết
thêm nữa.
Tỷ như:
Bài số một, gọi là điệu
Thái Cực.
Bài thứ nhì, gọi là điệu
Lưỡng Nghi.
Bài thứ ba, gọi là điệu Tứ
Tượng.
Bài Lão nói là điệu Bát
Quái.
Vậy Lão làm tiếp rồi sẽ chỉ....
Bài số 4: .... Hộ-Pháp giải
nghĩa:
Vậy thì gọi là Điệu Thái Cực
là sao?
Lão chỉ cho Thượng-Phẩm:
- Đọc bài số 1, khi nhập đề
như vậy, thì là không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là nhập Hư Vô.
Thái Cực là vì đó một tiếng. Nhập lại Hư Vô. Bài số 2 ba tiếng là Tam Giáo. Sĩ dân
hai tiếng ấy là Lưỡng Nghi. Bài số 3: Ngũ ngôn ấy là Ngũ Chi. Bốn chữ là Tứ Tượng Bài số 4: Chín chữ là Cửu Lưu đó. Tám chữ ...
ấy là Bát Quái.
Lão sẽ tiếp điệu Biến Hóa
Vô Cùng rồi mới kết cho toàn điệu.
Chư Đạo Hữu lấy điệu văn ấy
làm ra mỗi người một bài cho Lão sửa. Phải tùy theo từ chữ, từ giọng, vậy mới
trúng niêm luật; bài của Lão chỉ dùng làm kiểu đó thôi...
* Lão dạy văn. Chư Nhu ngồi
kiết tường. Thượng-Phẩm Hiền Hữu có điệu biến hóa số 1. Bốn bài kia rồi, bây giờ
lấy lại số 1 Lão tiếp nữa.
Số 1: Trên là Tứ Thời, giữa
Tam Tài gọi điệu văn Tam Tài.
Nhơn vật khác vời,
Vị chữ kim thời,
Phong dời tục đổi,
Điền viên đất nổi lên vàng,
Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.
Tròn năm luống phận cần cù,
Không nuôi thê tử không bù thân sanh.
Nhỏ tùng đinh,
Lớn tùng binh,
Già nằm canh.
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan núc mỡ dành làng ăn.
Thân trâu phải chịu nhọc nhằn,
Đòn roi lão mục, tiếng dằn thằng chăn.
Phải tùy phương nắng, dõi dắn day dù.
Hộ-Pháp, Hiền Hữu ngâm hết.
Hay! Nhưng Hiền Hữu nhớ
thuộc lòng mỗi bài Lão cho nghe... Lão tiếp.
Số 2: Trên là Bát tuyết,
giữa là Ngũ hành, gọi là điệu văn Ngũ Hành.
Một thổ võ xưa kia nên tuấn tú,
Bị tay phàm làm xấu nét phong quang.
Ôi! Thương thay cho cẩm tú giang san,
Đầy sông ngui ngút khói thuyền,
Đầu non súng giữ, cuối triền gươm đoanh.
Công dân đắp lũy bồi thành,
Tay mình lại cột lấy mình thảm thay.
Nỗi lương tháng bổng ngày,
Nỗi tiền hỏi bạc vay,
Nỗi trả thuế đóng bài.
Thợ hay đầy đủ đức tài,
Giũa đêm chẳng đủ, bào ngày không kham.
Miệng ăn quá sức tay làm,
Thê nhi thiếu kém thân phàm chẳng no.
Cũng trò.
Số 3: Trên là Lưỡng Khí,
giữa là Cửu Thiên.
Lợi bỏ,
Không lo,
Cướp to,
Giựt nhỏ.
Trường thương lấp ló ít người,
Nơi tay dị chủng như Trời nắng mưa.
Quốc dân ăn thãi uống thừa,
Khôn ngăn bán lận khó ngừa buôn gian.
Cửa Sàigòn tính bán áp chế nội hàng,
Gạo bắp chở ngoại bang
giành phần xuất cảng.
Dùng mưu phản gián Nam Bang,
Đoạt thâu cho sạch vàng ngàn bạc muôn.
Nọc ăn máu nước thúi ruồng,
Khô khan lạc khí hao mòn hồn tinh.
Tính toán vốn lời mình, đừng chịu làm thinh e lỗ vốn.
Ngụ đời Số 4: Trên là Thập
Nhị Thời. Giữa là Thập Điện Diêm Cung. Gọi là điệu văn Thập Điện.
Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn, cũng lũ dại học
khôn,
Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn, cũng lũ ngu ăn hỗn.
Mua phẩm hàm tước hộ cầu tôn, tiền ngàn không sợ tốn.
Cửa công huyện mãn nha còn,
Dạ thưa lưỡi mỏi, cúi lòn lưng cong.
Lằn xanh ưa hửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ mến vòng tôi con.
Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,
Rủi phải cơn thốn thiếu, chịu người níu kẻ đòi.
Đã quen tiếng buộc lời lơi,
Gian làm ra phải lỗi dời thành ngay.
Dày công đếm số mề đay,
Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.
Có chi ham ....
Hộ-Pháp, Hiền Hữu ngâm mấy
bài trước cho Lão chỉ tên bốn bài chót.
Thượng-Phẩm Hiền Hữu có đề
số 1:
No 1 - Trên là "Tứ Thời"
giữa là "Tam Tài", gọi điệu văn Tam Tài.
No 2 - Bài nhì, trên là
Bát Tuyết giữa là Ngũ Hành, gọi điệu văn Ngũ Hành.
No 3 - Bài ba, trên là
"Lưỡng Khí" giữa là Cửu Thiên.
No 4 - Bài tư, trên là
"Thập Nhị Thời" giữa là Thập Điện Diêm Cung, gọi là điệu văn Thập Điện.
Chỉ rõ ràng Bát Quái, Bát Quái đã biến đủ nhứt âm, nhứt dương.
Lão tiếp thêm cho đủ 12 điệu
văn, gọi là "Thập Nhị Khai Thiên" Động Đình Hồ....
Ngụ đời Số 5:
Nguồn nước cấm
Thủy lợi thâu
Chiếc thuyền câu
Ra thủ phạm
Nghề xưa hạ bạc đã nhàm
Nay dân đói khó ra làm không no
Lúc giăng lưới khi đóng nò
Mảng lo tàu chặn, nhẫn dò bè trôi.
Cá chê mồi
Bởi quen muối,
Không tránh lưới
Nào khi nguyệt giỡn sóng cười
Thú hay mặt nước chơn trời ngửa nghiêng
Kinh luân đứt nối khó truyền
Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư Công.
Song cũng vẫn một lòng
Thượng-Phẩm, Lão tiếp 5 tiếng.
Điệu văn "Thập Nhị Khai Thiên Động Đình Hồ".
Ngụ đời số 6:
Thân đói khô như nhộng,
Hỏi ăn chi đặng sống.
Rằng hớp khí thanh không.
Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.
Cây ăn lưỡi búa đã mòn,
Rừng cao hết củi nồi còn không cơm.
Lão Lục ngó lườm lườm,
Chú Săn đơm khẩu súng.
Non xanh vắng gót anh hùng,
Bỏ cơn Võ Kiết lánh vòng Văn Vương.
Thành Thang buông mặt lưới trương,
Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu.
Nạn củi quế gạo châu, Thiên sầu Địa thảm ...
CHƯƠNG IV
1 - Huyền diệu của Cơ bút
Ngài Tiếp-Pháp là một
trong những Đệ-tử đầu tiên phò cơ chấp bút, Ngài có nhận-định về vấn-đề Cơ bút:
“Đến đây, chúng tôi mới hiểu
rằng phong trào Phò cơ, Chấp bút, xây bàn trước kia là tiên triệu (signes
précurseurs) cho một nền Tân-Tôn-Giáo xuất hiện tại xứ Việt-Nam.
Sánh với các Tôn-giáo xưa
thì Đạo Cao-Đài phát huy với một cách phi thường làm cho thế nhân khó nhận thức.
Vả lại, các Tôn-giáo thời
xưa đều do một Đấng Đại hùng Đại-lực xả thân cầu Đạo, cho đến khi đắc thành
Chánh quả đem sở đắc của mình mà dạy đời; nhơn đó, người đời tôn Đấng ấy là
Giáo-Chủ của mình. Vậy Đạo tự nhiên mầu nhiệm nương chỗ hữu hình của vị Giáo-chủ
mà biểu dương Chơn lý. Người thế, nhơn theo cái hệ thống “Từ hữu vi đến vô vi” ấy
mà quan sát, nhận thức đạo mầu thì dễ-dàng hơn.
Nay thì ngược lại, nền Đại-Đạo
lại do Đấng Giáo chủ Thiêng Liêng và dùng Huyền diệu Tiên-gia để lập Đạo, truyền
giáo. Vậy Đạo tự nhiên nhiệm-mầu lại theo vô vi mà chuyển biến ra hữu hình. Cái
hệ thống “Siêu ý thức'” này làm cho người thế gian khó nhận chơn. Đó là nguyên
nhân ngờ vực của người đời, khi Đại-Đạo mới xuất thế.
Chúng tôi có theo học với
Cơ bút từ buổi đầu, cho nên ngoài Đức-tin truyền thống, chúng tôi còn tin tưởng
rằng:
Khi cầu Cơ thì có một Đấng
Thiêng-liêng giáng điển, huy động Ngọc Cơ viết ra chữ. Vậy đủ chứng minh rằng:
Trong cõi Hư-linh có các Đấng vô hình và như vậy thì nơi người ta cũng có
Linh-hồn. Mà hễ trong cõi Hư linh có Thần-linh thì trong người ta có linh-hồn tức
nhiên phải có một Đấng Cao cả hơn hết sanh hóa các Chơn linh ấy.
Chỗ nầy Bà-La-Môn-giáo nói
rằng: Một Đại Chơn Hồn sanh hóa các Tiểu chơn hồn khác, tức Thượng-Đế sanh hóa
muôn loài vạn vật.
Chúng tôi sùng bái Đức Thượng-Đế,
bài Thánh ngôn dưới đây cũng minh xác điều ấy.
Thánh Ngôn :
“Thầy đã nói với các con rằng:
Khi chưa có chi trong Càn Khôn Thế giới thì Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và
Ngôi của Thầy là Thái-Cực.
Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng-Nghi,
Lưỡng-Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ tượng biến Bát Quái; Bát Quái biến hóa vô cùng
mới lập ra Càn Khôn Thế Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là Vật
chất, Thảo mộc, Côn trùng, Thú cầm gọi là Chúng sanh.
Các con đủ hiểu rằng:
Chi chi hữu sanh cũng do bởi
Chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống, vì vậy mà
lòng háo sanh của Thầy không cùng tận.
Cái sống của cả chúng sanh
Thầy phân phát khắp Càn Khôn thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội
nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến
hoá ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho
biến hoá.
Mỗi mạng sống đều hữu căn
hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hoá sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước,
nếu ai giết mạng sống đều chịu quả báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy
chẳng phải là Tiên, Phật bị đoạ luân hồi mà ra đến đỗi ấy.
Cái mạng sống là Thầy, mà
giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy.” (TNII/62)
Vậy Đức Thái-Cực
Thánh-Hoàng là một nguồn sống tràn ngập cả Vũ trụ. Muôn loài vạn vật đều bẩm thọ
một phần sống của cái nguồn vô biên bao la đó. Đạo học truyền thống của
Nhơn-sanh xưng tụng Đức Ngài với nhiều danh hiệu: Brahma, Đức Chúa Trời, Thái
Thượng Đạo Tổ, A-Di-Đà-Phật và còn nhiều nữa chúng tôi không biết hết. Mặc dầu,
chúng tôi không trông thấy hình dung Đức Ngài, nhưng chúng tôi tin tưởng quả
quyết rằng Đức Ngài là Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát tức là Đức Thầy của chúng ta vậy.
Bằng ấy vấn đề đủ thấy Cơ
bút có huyền diệu thật.
Quả như lời xác nhận vào
năm 1956 rằng:
“ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ do
Đức Cao-Đài Thượng-Đế dùng Huyền-diệu Cơ bút khai sáng tại nước Việt-Nam từ năm
Bính-Dần (1926) đến nay đã 30 năm, độ dân được một số thiện-nam tín-nữ hơn hai
triệu người, Tổ Đình thờ Đức Chí-Tôn và Đền thờ Đức Phật-Mẫu lập thành tại
Thánh-địa Tây-Ninh. Hội-Thánh hành-đạo dưới quyền Đức Tiên-Trưởng Lý Thái-Bạch
kiêm Giáo-Tông về mặt vô-vi, còn về mặt hữu-vi thì dưới quyền Đức Quyền Giáo-Tông
Thượng Trung Nhựt, nay đã qui thiên. Hiện giờ Đức Hộ-Pháp chấp-chưởng quyền tối
cao trong cửa Đạo cho tới ngày có Giáo-Tông hữu-hình chánh-vị”.
2 - Những cặp Cơ do
Chí-Tôn chọn lựa:
Việc Cơ Bút trong nền Đạo
lúc bấy giờ cũng vậy, đó là một sự huyền-vi, mầu nhiệm, đặc biêt không thể dùng
một quyền lực nào hay một sự thúc đẩy của một ai mà được, chỉ do một sự ứng hợp
với huyền linh mà thôi.
Đức Chí-Tôn khai Đạo buổi
ban đầu đặc biệt chọn 4 cặp Cơ:
1/ - Đức Hộ-Pháp Phạm Công
Tắc với Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh Cư: cặp Cơ phong Thánh.
2/ - Bảo-Pháp Nguyễn Trung
Hậu với Hiến Pháp Trương Hữu Đức: cặp Cơ về Chơn pháp.
3/ - Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa với Tiếp Pháp Trương văn Tràng: cặp Cơ về Bí-pháp.
4/ - Đức Thượng-Sanh Cao
Hoài Sang với Bảo-Văn Pháp quân Cao Quỳnh Diêu: cặp Cơ Phổ Độ.
Còn các vị Hiến-Đạo, Khai
Đạo, Tiếp Đạo, Tiếp Thế tuỳ trường hợp sẽ nâng loan cho Cơ truyền giáo.
Thảng như hai vị đều là
chi Thế cầm Cơ không lên, bằng Cơ có lên viết chữ cũng không được. Như trường hợp
Bà Đoàn-Thị-Điểm giáng Cơ viết quyển “Nữ Trung Tùng Phận” với 1401 câu mà phải
qua hai giai đoạn:
- Phần Thế đạo thì khoản
900 câu đầu là do Đức Hộ-Pháp nâng loan với Ngài Tiếp Thế. Lại khiến Ngài Tiếp
Thế có việc phải đi.
- Phần Thiên Đạo còn lại
do Đức Hộ-Pháp cùng phò-loan với Cao Tiếp Đạo từ Sai-gòn mới về Tòa-Thánh.
Như vậy là Thi-phẩm Nữ
Trung Tùng Phận của Bà Đoàn giáng Cơ đã đủ ba chi: Pháp, Đạo, Thế phò loan, chứng
tỏ rằng thi phẩm này đủ Tinh, Khí, Thần hợp nhứt.
Đức Lý Thái-Bạch là
Giáo-Tông của nền Đại-Đạo. Ngài rất ân cần nhắc nhở về việc cơ Bút:
“Lão dặn thêm một lần này là: Không phải cả thảy
mấy Em phò loan mà đặng Huyền diệu hết. Như kể ra thì có ba cặp mà thôi, còn
các cặp khác phải cẩn thận cho lắm, vì Thần chúng nó không đủ trọn mà cầm tánh
mạng nhơn sanh hay là Tà ma quỉ mị xung nhập, nghe à!"
Tuy có bốn nhưng chỉ có Ba
cặp Cơ được chọn lựa:
- Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm
Công Tắc: cặp Cơ phong Thánh.
- Ông Nguyễn-Trung-Hậu và
Trương-Hữu-Đức: cặp Cơ Chơn pháp.
- Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
với Tiếp Pháp Trương văn Tràng: cặp Cơ về Bí-pháp.
3 - Nhiệm vụ của Đức Hộ-Pháp
và “cơ Đạo Pháp”:
“Điều cần biết là khi đến lập giáo, trước tiên
Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh Truyền tức Hiến-Pháp của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ rồi mới
tạo Hội-Thánh lưỡng đài, nhứt thiết đều do Cơ phong Thánh”.
Cơ phong Thánh của Hiệp-Thiên-Đài
do Đức Hộ-Pháp và Đức Cao Thượng-Phẩm phò loan là “Cơ Đạo Pháp” trong khi đó
cũng có nhiều cặp Cơ Phổ độ, dạy Đạo của chư vị Thập-Nhị Thời-Quân.
Nhưng:
“Đức Hộ-Pháp là một chơn linh siêu việt mới đủ
năng lực xây dựng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, tạo tác Tổ Đình đồ sộ với nhiều sự
nghiệp bất hủ không còn ai phủ nhận được.
Về việc Cơ bút trong Đạo,
người đáng kể là bậc Sư Tổ”
Đây là lời nhận định của
Ngài Hiến Pháp:
“Vì chỉ có Đức Ngài mới là người thay mặt cho
Chí-Tôn làm Giáo chủ hữu hình nắm Cơ Đạo này mà thôi."
Đến cuối tháng 6 năm
Đinh-Mão (1927) cơ Phổ-độ bị ngưng, chỉ còn Cơ dạy Đạo. Năm 1929, khi Đức Cao
Thượng-Phẩm qui thiên thì gãy Cơ phong Thánh.
Mặc dầu Cơ phong Thánh
không còn đủ về mặt hữu hình, nhưng được tồn tại trong thập niên 1930- 1940 và
từ 1947-1955 khi Ngài Cao Tiếp-Đạo từ Kiêm-Biên về phò loan với Đức Hộ-Pháp, nhờ
điển Đức Cao Thượng-Phẩm trợ lực. Do đó nhận thấy rằng từ trước đến sau Cơ
Phong Thánh tiền định chỉ có Đức Hộ-Pháp và Đức Cao Thượng-Phẩm mà thôi.
Khi Đức Hộ-Pháp lưu vong
nơi Miên-quốc, nhân nghe tin Chi phái sắp sửa về Tòa-Thánh, Đức Ngài có gởi
Thánh Thơ số 12/HTĐ ngày 20-2 Mậu-Tuất (8-4-1958) cho các anh chị em trong
Chính sách hoà-bình chung sống tại quốc nội như sau:
“Toàn Đạo có lẽ còn nhớ
cây Cơ Phong Thánh của Hiệp-Thiên-Đài là cây Cơ Đạo Pháp hiệp một:
Đạo thì có Thượng-Phẩm.
Pháp thì có Hộ-Pháp.
Khi lập giáo vừa xong và
tuyển phong Hội-Thánh rồi là cây Cơ phong Thánh ấy đã gãy khi Thượng-Phẩm đã
qui vị. Còn cây Cơ Thế là cây Cơ Phổ-độ thì chúng ta không hiểu vì lẽ gì mà Đức
Chí-Tôn đã cấm hẳn. Cơ Bút chỉ để dạy Đạo mà thôi, do nơi Thập-Nhị Thời-Quân phò
loan chớ không ai khác hết, nên về Cơ Bút Bần-Đạo chỉ công nhận Cơ Bút Thập-Nhị
Thời-Quân chớ chưa đặng lịnh phải công nhận cơ nào khác nữa. Nghĩa là: ngoài ra
Cơ Thập-Nhị Thời-Quân giáo Đạo thì không còn Cơ Phổ Tế và cơ phong Thánh nữa…Phải
chăng vì lẽ ấy mà khi lập giáo vừa xong thì Thượng-Phẩm đã qui vị và cơ Phổ Tế
của chi Thế đã cấm hẳn, chỉ còn Cơ giáo Đạo của Thập-Nhị Thời-Quân. Như thế mà
Đạo không tránh khỏi nạn của Quỉ quyền nhập nội như buổi khai Đạo tại Từ Lâm-Tự
lúc trước, ấy là điều Đức Chí-Tôn đã tiên tri cho biết trước đó vậy.”
Một lần nữa, trong Thánh
thơ số 26/bis/HTĐ/vp ngày 28-12 Mậu-Tuất (1958)
Đức Hộ-Pháp có dạy:
“Qua nói thật cho các Em biết, Cơ Bút của Đức
Chí-Tôn đến lập Đạo nó có niêm luật vô hình của nó mà cả thảy con cái Đức
Chí-Tôn không dễ gì hiểu thấu.
Qua nói: khi Đức Chí-Tôn đến
lập Đạo tức là phải lập Hội-Thánh thì Cơ phong Thánh đã tiền định là Thượng-Phẩm
và Hộ-Pháp phò loan, còn Thượng-Sanh phò Cơ Phổ độ. Nhưng khi lập Đạo rồi thì
cây Cơ Phổ Độ bị cấm. Mấy Em thấy đó thì biết rằng “Phò loan” chẳng phải ai
cũng phò được.”
Như đã biết thời gian từ
khởi khai Đại-Đạo đến khi có lịnh cấm Cơ Bút thì chỉ được có Ba cặp Cơ được chọn
lựa mà quan trọng nhứt là hai ông: Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm.
4 - Sự yếu trọng là Thượng-Phẩm
nắm chi Đạo:
Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh
Cư và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc là cặp Cơ phong Thánh, mà Đức Thượng-Phẩm nắm
chi Đạo. Do đó sự yếu trọng của Đức Ngài được Ngài Hiến Pháp tuyên dương vào
ngày 01-3 Quí Mão (1963) nhân Lễ vía Đức Cao Thượng-Phẩm:
“Toàn thể Đạo Cao-Đài đều rõ biết mối Đạo nầy
do nơi nào mà xuất hiện?.
Nguyên buổi ban sơ vào năm
Ất-Sửu (1925) ông Cao Quỳnh Cư (tức Thượng-Phẩm) đang làm một công chức của
Chánh-Phủ Pháp thường tới lui chơi với ông Cao Hoài Sang (tức là Thượng-Sanh)
và ông Phạm Công Tắc (tức là Hộ-Pháp) hai ông sau nầy cũng là công-chức. Trong
năm ấy tại Thủ đô Sài-Gòn, việc Xây bàn rất thạnh hành.
Ông Cao Quỳnh Cư cũng vì sự
háo kỳ, đề nghị cùng hai ông Bạn kia Xây bàn mời các vong-linh về hỏi việc và
làm thi chơi. Ban đầu các vong-linh về làm thi họa vận, làm cho mấy ông thích
chí, vì có nhiều bài thi xuất sắc và cảm kích lạ thường. Lần lần mấy ông được
tiếp xúc với mấy vị cao nhân, rồi đến lượt Đức Chí-Tôn giáng dưới danh hiệu AĂÂ
cố ý dìu độ mấy ông, nhứt là ông Cao Quỳnh Cư, vì cuộc Xây bàn tổ chức tại nhà
ông nầy.
Theo lời Đức Hộ-Pháp, Đức
Cao Thượng-Phẩm là chơn-linh Hớn Chung Ly, một vị Đại-Tiên trong Bát-Tiên, lãnh
sứ mạng của Chí-Tôn đến tạo dựng nền Tôn-Giáo tại thế nầy. Người cùng Đức Hộ-Pháp
hợp thành cặp cơ Phong Thánh lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật để làm Hiến-Chương
cho nền Quốc-Đạo.
Chúng ta phải nhìn nhận đầu
công khai Đạo của Đức Cao Thượng-Phẩm, vì nếu thiếu bàn tay xây dựng của Người
để Chấp Cơ cùng Đức Hộ-Pháp thì:
- Đâu có Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
- Đâu có Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ.
- Đâu có Hội Thánh và các Cơ Quan trong Đạo.
- Đâu có Pháp-Chánh-Truyền
và Tân-Luật.
- Đâu có Đại nghiệp hiện
giờ cho Nhơn sanh thừa hưởng.
Đức Cao Thượng-Phẩm có
tánh cao-thượng và cương-quyết, nên khi nhận chân được mối Đạo Trời thì Người
nghe theo tiếng gọi Thiêng-Liêng, phế đời hành Đạo liền, mặc dù lúc đó ông đang
là một vị công chức.
Tuy Đạo khai ngày 14 tháng
10 Bính Dần (1926) mà thực sự Đức Cao Thượng-Phẩm đã ngộ Đạo từ năm Ất Sửu
(1925) vì các Đấng đã mượn bàn tay Người mà mở Đạo bằng cách Xây bàn từ năm ấy.
Đức Cao Thượng-Phẩm về
hành Đạo tại chùa Gò-Kén hơn ba tháng, từ 14-10 Bính-Dần (1926) đến 20-2 Đinh-Mão
(23-3-1927) thì dời chùa về đất mới mua tại Tòa-Thánh hiện thời.
Lúc mới dời về đây, Chức-sắc
chưa có mấy người thì việc phá rừng dọn đất, tạo tác và kiến trúc Đền-Thánh tạm,
cùng các cơ sở khác đều do một tay Đức Cao Thượng-Phẩm chỉ huy xây dựng.
Sau 4 năm tận tụy với Đạo,
Người bị một cơn khảo đảo rất lớn, làm cho hết sức buồn tủi, nếu không vì Thầy
vì Đạo, thì có thể trở ra mặt thế mà chớ!.
Đối với người hiểu Đạo,
thì việc khảo-đảo thử thách là việc thường không chi lạ; các vì Giáo-Chủ xưa
kia cũng không tránh khỏi sự thử thách. Hễ bị khảo nhiều thì công đức càng cao,
nên ngày nay Đức Cao Thượng-Phẩm được toàn Đạo kính mến xưng tụng công đức và
được hưởng ân huệ Đức Chí-Tôn rước về Thiêng-Liêng-vị để đem các Chơn hồn vào cửa
Thiên như lời Thánh-giáo của Đức Chí-Tôn ngày 7-3 năm Kỷ Tỵ (1929) dạy rằng:
"Các con vốn là kẻ dẫn
đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế nầy về phần đời, còn phần Đạo
nơi cõi Thiêng Liêng cũng phải có đôi đứa con mới đặng cho".
Đó là bằng chứng cụ thể
cho chúng ta thấy rằng: Nếu chúng ta hết lòng vì Đạo, thì phần thưởng Thiêng
Liêng không mất, ấy là công bình Thiên Đạo vậy”.
Đức Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp
là cặp Cơ phong Thánh. Đức Thượng-Phẩm qui Thiên là thiếu tay rường cột. Ngài đã
nặng trách nhiệm về hữu hình mà phần Thiêng liêng không thể thiếu. Vì vậy lời
Thầy như báo trước sự ra đi của Đức Thương-phẩm.
Nay nhân ngày kỷ-niệm Vía
Đức Cao Thượng-Phẩm ngày 1 tháng 3 năm Canh Ngọ (1930) Đức Hộ-Pháp buồn cho cơ
Thánh thiếu tay phò loan huyền-diệu.
Ngài nói:
“Ngộ-nghĩnh thay! Đức Chí-Tôn làm thế nào mà
chư vị Đại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng đến đặng tạo dựng cái nền
Tôn-Giáo của Ngài. Đức Hớn Chung-Ly tức nhiên cái ngươn linh của Đức Cao Thượng-Phẩm
đó vậy.
Nên giờ phút nầy Bần-Đạo
nhớ đến có mảy may ân hận cơ huyền-diệu của Ngài cầm trong tay tạo Đạo không còn
nữa, thành thử không có cây cơ thứ nhì.
Nói thật ra, cái cơ phong
Thánh, cơ lập Thánh, cơ truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ nầy thảng có
cơ phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp-Đạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ
cây cơ phong Thánh hiển-nhiên giờ phút nầy không còn tồn tại, cái tiếc của Bần-Đạo
hay chăng là điều đó”.
Quả thật, từ ngày khởi
khai Đại-Đạo đến giờ thì ai ai cũng đều nhận thấy rằng tất cả những gì thuộc Đạo
Cao-Đài đều thành hình do CƠ BÚT. Trước khi tìm hiểu về phương pháp Cầu Cơ chấp
bút, ta nên biết:
5 - Muốn thấu đáo diệu
tánh Bút Cơ cần phải gia công tra cứu:
Ngài Hiến-Pháp và Bảo-Pháp
là cặp cơ Chơn pháp của nền Đại-Đạo. Đây Ngài Hiến-Pháp nói:
“Theo kinh nghiệm từ cổ
chí kim, những gì do con người tạo ra, phần nhiều vì thiếu đạo-đức mà thất bại,
cho nên đạo lý, nhơn luân nên hư cũng do bản tâm đạo đức hay vô đạo của con người
mà ra. Theo thế thường hễ có bạo ngược bất nhân thì dùng pháp luật mà chế ngự.
Phương pháp ấy tuy cũng có phần hữu hiệu, nhưng chưa được chu đáo vì có nhiều tội
ác mà pháp luật không truy cứu được bởi sự khuất lấp, hoặc vì những tội ác chưa
thành yếu tố, nhưng sự nguy hại không phải nhỏ đối với nhân quần, xã hội.
Vì vậy mà những nhà đạo đức
lấy làm thắc mắc, cố tìm phương pháp để thực hành đạo đức trong nhơn gian. Những
vị Giáo chủ ra đời cũng vì lẽ đó. Các Đấng ấy đưa ra mỗi người một thuyết khác
nhau, nhưng kỳ trung cũng đều là một lý thuyết cứu độ nhơn sanh bằng cách thực
hành đạo đức, vì hễ đạo đức được truyền bá khắp nhơn gian thì những tội ác bạo
ngược phải hết, hoặc giảm bớt lần lần.
Mỗi vị Giáo chủ đều chủ
trương thờ một Đấng Chí-Tôn, Chủ tể Càn khôn vạn vật, đủ quyền năng thưởng phạt
về mặt hữu hình, cốt yếu để cho nhơn loại biết kinh sợ mà sửa mình, tránh xa tội
ác và làm việc lành. Thậm chí có người lập luận rằng: Nếu thật không có Thượng-Đế,
ta cũng phải tạo ra một Đấng Thượng-Đế cho đời tôn sùng để lập một vị Minh chủ
tôn nghiêm, làm cho tà gian khiếp sợ, dục vọng tiêu tan, hầu cải thiện đời sống
của nhơn sanh.
Vậy, Đạo Cao-Đài ra đời rất
là thích hợp.
Sự thật Đạo Cao-Đài phát
sanh do sự “Xây bàn” trước, sau mới dùng đến cơ Bút để lập thành mối Đạo và
truyền bá cho nhơn sanh, lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân-Luật để làm Hiến chế cho
nền Đại-Đạo. Chức-sắc và đạo hữu chỉ do đó mà thi hành thì khỏi sai đường lạc lối.
Tôn chỉ và giáo lý của Đạo
đã có Hiến chế nêu rõ, lại còn do nhiều bài Thánh giáo kèm thêm.
Ba nhà chí sĩ được Đức
Chí-Tôn chọn lựa, được nhận xét về cá tánh của mỗi người trong ba ông, vì có
liên hệ đến Cơ Bút.
- Thứ nhất là Đức Thượng-Phẩm
Cao Quỳnh Cư
- Thứ nhì là Đức Hộ-Pháp
Phạm Công Tắc
- Thứ ba là Đức Thượng-Sanh
Cao Hoài Sang.
Luận về tâm lý, trong ba
ông, mỗi người đều có đặc tính, mà ta cần biểu dương để xưng tụng công đức.
Nhận xét về Cơ bút thì
trong năm khai Đạo, thấy có nhiều cặp phò Cơ đắc phong chánh thức trong hàng Thập-Nhị
Thời-Quân. Nhưng sau lại chỉ còn có ba cặp được lịnh đi phổ độ và truyền Đạo mà
thôi.
Nếu có người hỏi: Cơ Bút
là tối trọng, mà nay Đạo Cao-Đài nói rằng Thượng-Đế giáng Cơ dạy Đạo mà lấy chi
làm chắc? Không biết chừng Thánh Thần hoặc ma quỉ nhập Cơ, rồi mạo danh Thượng-Đế,
chớ bực Chí-Tôn đâu khứng giáng chốn phàm trần nầy là nơi âm khí nặng nề ô trược!
Phải! Cơ Bút là việc tối
trọng, cho nên muốn thấu đáo diệu tánh Bút Cơ cần phải gia công tra cứu, nhứt
là năng hầu đàn, phải dò Thánh Ngôn từ đầu chí cuối rồi nghĩ suy, xét nét đến
cùng. Tôi cũng nên phân cho biết rằng nhiều bài Thánh ngôn giáng Cơ đều dạy Đạo
lý sâu xa huyền bí, ngoài Thượng-Đế thì không vị Thần, Thánh, Tiên, Phật nào
dám lậu ra cho nhơn sanh biết được. Cơ bút là tối trọng, nếu không hiểu Đạo và
ít năng hầu đàn thì không thể nào phân biệt giả chơn cho được. Điệu Bút Cơ như
Âm nhạc, kẻ thuở nay không thông thạo, không thế nghe đờn mà biết dở hay. Tuy
cũng nghe như mọi người, mà điệu cao thâm, giọng phù trầm, không phải nhà nghề
không bao giờ thấu được. Điệu Cơ Bút như vàng như ngọc, chưa dùng đến chưa biết
thử ra sao! Sách có câu: “Vị thường thức kim, yên năng thí kim”.
Thánh Thần Tiên Phật là bậc
quả cao, đức trọng, lẽ đâu dám coi luật trời làm nhẹ mà mạo danh Ngài? Dẫu có
giáng Cơ dạy Đạo thì cũng thọ mạng nơi Ngài, có vậy thì cũng xưng danh thiệt mà
thôi, hà tất phải giả danh cho phạm đến Thiên điều? Còn nếu sợ rằng ma quỉ nhập
Cơ rồi mạo danh Thượng-Đế thì lại càng sai lầm hơn nữa. Ma quỉ vẫn thuộc âm thần,
trọng trược, lành ghét dữ ưa. Lẽ đâu chịu nhọc giáng Cơ dạy Đạo mà dìu dắt
chúng sanh vào đường ngay nẻo phải, há không trái ngay sở thích của họ đi
chăng? Mà nếu dạy Đạo thì ma quỉ biết chi mà dạy? Nói cùng mà nghe, bất luận vị
khuất mặt nào, nếu giáng Cơ dạy điều đạo đức rồi thiên hạ nghe theo cho đời được
thái bình dân gian an lạc, thì chúng ta cũng nên sùng bái vì khuất mặt ấy. Cái
chánh, cái tà cũng dễ cho chúng ta phân biệt. Kìa như Đạo Gia-Tô, Đạo Lão, Đạo
Thích, đều là Chánh giáo nên mới có muôn vạn người Tín-ngưỡng. Đạo Cao-Đài có
hơn một năm mà đã có mấy muôn người sùng bái, đó là một bằng cớ hiển nhiên chứng
chắc là Chánh đạo. Lại nữa, về Thiên-Đạo thì chỉ có Ngọc-Hoàng Thượng-Đế lập ra
mà thôi, không phải Ngài thì không ai lập được, mà lập được thì tức là Ngài vậy.
Nếu lại nói rằng có lẽ đâu
Thượng-Đế khứng xuống chốn phàm trần ô trược? Đâu phải rằng Thượng-Đế như người
phàm vậy, nên muốn giáng Cơ nơi đâu phải đích thân đến đó.Thượng-Đế vẫn biến
hoá vô cùng, muốn giáng Cơ nơi đâu Ngài chỉ dùng điển quang truyền tín mà thôi,
có đâu xuống phàm mà phòng lo âm khí nặng nề ô trược.”
(Nguyễn Trung Hậu- Luận Đạo Vấn Đáp / 98)
6 - Thầy dùng Lương sanh để
cứu vớt quần sanh:
“Những Lương-sanh ấy phải thế nào hội-hiệp lại
nhau làm một mà làm ra một xác thân phàm của Thầy thì Thầy mới có hình thể
trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy, hầu tránh cho khỏi phải hạ trần như mấy kỳ trước vậy.
Thầy mới dùng Huyền-diệu Cơ
Bút dạy-dỗ mỗi người đặng tỏ ra rõ-ràng có quả nhiên Thầy trước mắt, để Đức-tin
vào lòng mỗi Lương-sanh ấy rằng Thầy thật là Chí-Tôn, Chúa-Tể Càn-Khôn thế giới,
cầm Cân công-bình Thiêng-liêng thưởng phạt, quyết đoán rằng chính mình Thầy đủ quyền
bảo hộ con cái của Thầy, dầu đương sanh tiền hay buổi chung qui cũng có Thầy
trước mắt, công thưởng tội trừng, tu thì thành, dữ thì đọa, chỉ rõ Niết-Bàn Địa-ngục
đôi đàng, đặng dẫn bước đường đời không lầm lạc. Hứa rằng: lập ngôi nơi Bạch-Ngọc-Kinh,
khai đường vào Cực-Lạc Thế-Giới và đóng chặt cửa Phong-Đô đặng độ tận chúng
sanh, vớt 92 ức Nguyên nhân trở về cựu vị”.
Hội-Thánh ba Đài:
Ngày nay Đức Chí-Tôn giáng
trần lập Đạo. Ông Thầy của chúng ta là ông Thầy Trời, giáng trần bằng Huyền Diệu
thiêng liêng Cơ Bút. Ngài không có hình thể mà làm cho chúng ta biết, không có
tiếng nói mà chúng ta nghe: Hội đủ Tinh – Khí – Thần hiệp nhứt:
Bởi hình thể của Ngài là Hội-Thánh
làm Thánh Thể cho Ngài, tức nhiên ba Đài:
- Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
tượng trưng xác thân.
- Hội Thánh Hiệp-Thiên-Đài
tượng trưng trí não.
- Bát-Quái-Đài tượng trưng
linh hồn
Trong cửa Đạo Cao-Đài Đức
Chí-Tôn mở Đạo chỉ dụng Cơ bút mà lập thành từ Thể-pháp cho đến Bí-pháp, tức
nhiên Đức Ngài chỉ dùng ngọn Linh bút mà khai thông tất cả mọi vấn đề như:
- Đức Chí-Tôn dùng Huyền
diệu Cơ Bút giáng điển linh quang tiếp xúc với nhân loại ký Đệ Tam Thiên nhơn
Hoà ước mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để dìu-dẫn nhơn sanh lập đời Minh Đức, Tân
dân, huynh đệ Đại-Đồng, Hoà bình thế giới, xây hạnh phúc cho nhân loại với hai
điều kiện là BÁC ÁI và CÔNG BÌNH để bước qua Thượng ngươn Tứ chuyển.
- Thời kỳ các Đấng thiêng
liêng còn ở cõi vô hình thì dùng Huyền diệu Cơ bút thay thế cho Đức Chí-Tôn
giáng dạy và dìu dẫn nhơn sanh. Các Chơn linh khác giáng trần thay thế hình ảnh
Đức Chí-Tôn lập thành Hội Thánh tức là Thánh Thể để phổ độ chúng sanh, gieo
truyền Chánh giáo nên gọi là thời-kỳ các Đấng Thánh Thần (Règne du Saint
Esprit).
- Ngày nay Đức Chí-Tôn đã
đến, đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế này đặng chỉnh đốn đạo-đức tinh
thần từ thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ Bút. Ngài đến không có quyền nào
ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem bí mật huyền vi tạo đoan
giáo hoá con cái của Ngài.
- Ngày nay Đức Chí-Tôn đã
đến, Ngài không giáng thân như các lần trước, mà giáng linh bằng Huyền Diệu Cơ
Bút. Vì lẽ đó Ngài phải lập Hội-Thánh để làm Thánh Thể của Ngài.
Tức nhiên những cơ quan
này đủ khả năng để giáo hoá nhơn sanh đồng thời cũng để bảo thủ chơn truyền của
nền Đại-Đạo.
Một lần nữa Đức Hộ-Pháp xác
nhận:
“Nếu Tôi không lầm Cơ Bút đã cho Tôi biết các
Bạn Hiệp-Thiên-Đài do nơi đâu sản xuất? – Do để giữ quyền Thiêng-liêng nên mới
có 12 vị Thời-Quân, Thập nhị Địa chi tức là cảnh Thiêng liêng vô hình của chúng
ta”.
“Ngày nay từ Âu sang Á làn
sóng văn minh tràn ngập khắp nơi, vật chất lấn át tinh thần, khiến cho nền luân
lý cổ truyền cõi Á-Đông phải luân lạc bởi Hạ ngươn hầu mãn nên Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng
Thượng-Đế dùng Huyền diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ với Tôn chỉ Qui
nguyên Tam giáo Phục Nhứt Ngũ chi.
- Lấy Nho-Tông Chuyển thế
- Lấy sự Thương-yêu làm
phương-pháp thực hành Chánh Đạo. Đức Chí-Tôn quyết cứu vớt những kẻ hữu căn
thoát vòng khổ hải, tránh đoạ luân hồi hầu vui hưởng môt hạnh phúc vĩnh cữu.
7 - Đức Hộ-Pháp giải về sự
chơn giả của Cơ Bút
“Chư Đạo hữu đã may duyên gần đặng hình bóng của
Chí-Tôn, cậy Bút Thánh Cơ thần giáo hoá, dùng ngọn Cơ Bút làm phương thân mật,
lại cũng là một máy linh nhiệm-mầu, trí lự của con người chẳng dễ chi cạn hiểu:
Ma ma, Phật Phật, quỉ quỉ,
Trời Trời, lẽ chánh lý tà khó bề quyết định. Nhiều kẻ gọi là Ma, chúng ta cho
là Phật, chúng cho rằng quỉ, mình gọi là Trời. Hỏi cho đến tận nơi thì chưa có
một người trưng bằng cớ.
Chí-Tôn lại nhiều phen để
lời căn dặn rằng: chúng ta phải để tâm dè-dặt, cẩn thận giữ đức tin, lấy trí lực
tinh thần biệt phân chơn giả. Thầy lại nói rõ rằng phải có một phần của kẻ phò
loan, Thầy mới gầy trọn phương mầu Cơ Bút:
Phải Chí-Tôn hay là đồng?
Phải Phật hay là đồng?
Phải quỉ hay là đồng?
Phải ma hay là đồng?
Hư hư, thiệt thiệt, giả giả,
chơn chơn, không phương phân biệt, vì phần nhiều chư Đạo hữu chưa hiểu thấu
chơn truyền cùng diệu pháp khó bề truyền dạy, thế nào thử đặng cơ Bút, tránh
sao khỏi những điều giả trá.
Rất đỗi là ngày khai Đạo
quỉ còn dám nhập đàn, huống lựa là Cơ Bút luyện nghinh ngang mà không làm đường
dẫn quỉ.
Vì cớ mà Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài
và Hộ-Pháp là những vị Thầy đến cậy phò loan đặng cho người lập Đạo đã chịu lắm
nhục nhã hàm oan cũng vì Cơ Bút.
Ấy vậy, cái đức tin của
anh em ở nơi Cơ Bút cũng chưa đủ giá trị cùng đời, nên Hộ-Pháp dặn một lời xin
gắng lấy cái quảng đại của Trời mà độ chúng.”
(ĐHP:13-7 Nhâm Thân-1932)
Đền-Thánh Tòa-Thánh
Tây-Ninh là nơi chứa đầy Bí-pháp
CHƯƠNG V
1 - Xây bàn:
“Hầu như buổi ấy nhiều bậc
thức giả vì hâm mộ thi phú mà họ theo đuổi phép Thông Thần-Lực (Médiumnité) đến
mức vi diệu. Chung cuộc, họ trở nên những đồng tử đặc sắc giúp Chí-Tôn lập Đạo,
truyền giáo. Sau nữa, họ được phong vào hàng Chức Sắc Đại Thiên Phong nơi Hiệp-Thiên-Đài.
Đầu tiên là phương pháp
Xây bàn:
Dưới đây là chiếc bàn nhỏ
bốn chưn: Kê hai chưn kia cao hơn chừng ba phân tây. Chiếc bàn trở nên gập ghình,
có thể dở lên đặt xuống dễ-dàng. Phải có ít nữa là hai người ngồi đối diện và để
úp bàn tay trên mặt bàn. Trong chừng 10 hoặc 15 phút, chiếc bàn bắt đầu chuyển
động. Đó là triệu chứng có một Đấng Thiêng-Liêng giáng điển, chiếc bàn bắt đầu
dở lên đặt xuống.
Có đặt ra một khẩu ước giữa
Đấng vô hình và Đồng Tử: Nhịp một cái là A, hai cái là Ă, ba cái là Â, bốn cái
là B… và cứ thế mà tiếp-diễn đến hết 24 chữ cái. Trong khi chiếc bàn nhịp, hễ
ngừng chỗ nào thì người ngồi ngoài biên chữ ấy, chung qui, nhiều chữ góp lại
thành một danh từ, nhiều danh-từ ghép thành bài thi, tứ tuyệt hay tản văn.
Công việc nào cũng trước
khó, sau dần quen mới được dễ-dàng hơn.
Thời-kỳ Xây bàn chỉ phổ biến
ở thời gian đầu tiên, tức là thời tiền khai Đại-Đạo đến ngày khai Đạo chính thức
là tháng 10 Bính-Dần (1926) là bắt đầu Cầu Cơ rồi.
Xử dụng Đại Ngọc Cơ phải
có hai vị đồng tử cầm hai bên miệng giỏ, giỏ nối liền với một thanh gỗ dài, đầu
cần bằng cây dương liễu hay cây Dâu chạm chim loan, thế nên Cầu cơ gọi là Phò
loan, người hầu cơ gọi là nâng loan. Trong giây phút thì có Đấng Thiêng Liêng
giáng điển huy động và viết ra chữ. Có cây cọ bằng cây mây, dùng viết chữ xuống
mặt bàn cơ. Người đứng ngoài có thể đọc chữ được.
■ Cơ bút là dụng cụ dùng để
thông công với các Đấng thiêng liêng. Cây cơ gồm một cái giỏ đan bằng tre hay
mây, có phủ một lớp giấy và bên ngoài bọc vải vàng, một cái cán dài bằng gỗ
xuyên qua miệng giỏ, đầu cán có chạm hình đầu chim loan, dưới cổ chim loan gắn
một cọng mây dùng làm bút viết chữ trên mặt bàn.
Cơ để cầu chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật thì gọi là Ngọc cơ, hay Tiểu Ngọc cơ.
Cơ để cầu Đức Chí-Tôn hay
Đức Phật-Mẫu thì phải làm cỡ lớn hơn và gọi là Đại Ngọc cơ.
■ Danh từ Cơ Bút còn có
nghĩa là: Phò cơ và Chấp bút.
Phò cơ là cầu một Đấng
thiêng liêng giáng điển xuống làm Ngọc cơ chuyển động viết ra chữ, tạo thành một
bài văn hay bài thi dạy Đạo. Hai vị phò cơ được gọi là đồng tử, ngồi hai bên giỏ
cơ, mỗi người dùng hai bàn tay cầm miệng giỏ cơ, nâng lên. Khi Đấng Thiêng
liêng giáng điển xuống làm tay đồng tử đẩy Ngọc cơ quay tròn, cây bút bằng mây ở
đầu cán cơ chạm mặt bàn, viết ra chữ bóng. Độc giả nhìn theo nét chữ bóng mà đọc
cho vị điển ký chép vào giấy.
Còn chấp bút thì chỉ có một
đồng tử ngồi trước bàn viết, tay cầm sẵn cây bút. Khi Đấng Thiêng liêng giáng
thì cánh tay cầm bút của đồng tử chuyển động và viết ra chữ trên mảnh giấy trắng.
TNHT: Thầy dạy: Kẻ phò cơ
chấp bút cũng như tướng soái của Thầy để truyền Đạo cho thiên hạ. Các con đừng
tưởng việc bút cơ là việc tầm thường.
Trong Cơ bút, đồng tử được
gọi là Phò cơ hay Phò loan (vì đầu Ngọc cơ có hình chim loan), đồng tử đóng vai
trò rất quan trọng. Đồng tử phải là người có đặc khiếu xuất chơn thần ra khỏi
thể xác, để lên hầu các Đấng Tiên, Phật nghe dạy bảo bằng sự chuyển di tư tưởng
từ các Đấng qua đồng tử, rồi nhờ linh điển của các Đấng giáng vào đồng tử, hiệp
với nhơn điển của đồng tử, làm cánh tay đồng tử chuyển động, đẩy Ngọc cơ quay
tròn rồi viết ra chữ bóng trên mặt bàn.
■ Đồng mê (đồng tử mê) thì
chơn thần của đồng tử xuất trọn vẹn khỏi thể xác, tiếp được rõ ràng tư tưởng của
các Đấng và các Đấng xuống điển giúp chơn thần đồng tử điều khiển hai cánh tay
viết ra chữ, tạo thành bài văn hay bài thi tuyệt diệu, ý nghĩa cao siêu, nhưng
sau khi mãn đàn cầu cơ, chơn thần của đồng tử rất mệt mỏi. Trường hợp nầy bài
văn hoàn toàn do các Đấng điều động viết ra.
■ Đồng tỉnh thì chơn thần
xuất ra khỏi xác, tiếp luồng tư tưởng của các Đấng, rồi chơn thần đồng tử tự điều
khiển cánh tay viết ra tư tưởng ấy. Trường hợp nầy, tư tưởng là của các Đấng,
nhưng chơn thần của đồng tử tạo thành câu văn diễn đạt tư tưởng ấy và viết ra,
nên bài văn không trọn vẹn trăm phần trăm là của các Đấng, nhưng sau khi xong
đàn cơ thì chơn thần của đồng tử không mệt và nhờ vậy đồng tử có thể phò cơ
liên tiếp nhiều đàn cơ trong một đêm.
Trường hợp đồng tỉnh, Đức
Chí-Tôn hay các Đấng thiêng liêng lựa chọn đồng tử rất cẩn thận vì chơn thần của
đồng tử viết thành văn, tư tưởng của các Đấng. Chỉ người nào có chơn thần trong
sáng, đạo tâm vững vàng, tư tưởng trong sạch thì mới được chọn làm đồng tỉnh, mới
viết ra đúng tư tưởng của các Đấng thiêng liêng.
Để sự chuyển di tư tưởng
được hoàn hảo, các Đấng dùng lối Giáng tâm hay Giáng thủ tùy theo đặc khiếu của
đồng tử.
■ Giáng tâm là chuyển di tư
tưởng của các Đấng thẳng vào tâm của đồng tử, nên đồng tử tuy chưa viết ra mà
thần trí biết trước những lời sắp viết ra.
■ Giáng thủ là các Đấng
giáng điển vào tay của đồng tử và điều khiển cánh tay viết ra, đồng tử không biết
chi hết.
Lập Đạo Cao-Đài, Đức
Chí-Tôn dùng đồng tỉnh mới tiện cơ Phổ Độ.
Thầy dạy: "Hồi trước
còn ngu xuẩn, kẻ phò cơ không đủ tinh thần như mấy con, vậy nên mỗi khi cầu cơ
lấy làm khó nhọc lắm mới được một vài lời của người khuất mặt: như đồng thật mê
thì ra thi hay, song rồi đàn thì thần của nó phải si. Nếu dùng đồng mê thì Đạo
biết bao giờ phổ thông đặng." (TNHT)
4 - Phán đoán sự Giả Thiệt
của cơ bút:
Thánh giáo của Đức Chí-Tôn
có dạy về ba cách ứng hiện của cơ bút. Nay muốn phán đoán để phân biệt sự giả
hay thiệt của cơ bút, nên căn cứ bài Thánh giáo sau đây của Đức Chí-Tôn dạy làm
tiêu chuẩn cho chơn lý.
“Đồng tử có nhiều hạng,
song trong nhiều hạng đó, nên phân biệt trước hết là cái Giả và cái Thiệt.
Lấy về phương diện vô hình
thì các con không thể rõ đâu là Ma hay là Phật, nhưng theo phương diện hữu hình
thì các con có thể rõ đặng, vì nhờ cái lý tự nhiên ở trong sự giao thiệp Thần
Tiên nầy.
Đạo phải hồi rời rã là vì
người học Đạo chưa biết dụng đồng tử, cứ tưởng huyền diệu là Tiên Phật, còn
không huyền diệu là Ma Quỉ. Điều đó rất mê tín, các con nên tránh xa.
Cái huyền diệu nơi cõi vô
hình là: Trả lời theo sớ, đáp đúng lời nguyện thầm. Việc ấy, chẳng những Tiên
Phật có mà thôi, Quỉ Ma còn huyền diệu hơn nữa. Nhiều huyền diệu để mà chi? Để
mà hoặc chúng mê nhơn, lợi dụng.
Phần nhiều các con lại tưởng
lầm rằng: Cơ huyền diệu là Tiên là Phật, nên chi các đứa ấy hễ nghe Cơ bút nào
huyền diệu như đã nói trên thì nó cứ tin mà lầm lũi thực hành, đó là điều mê
tín.
Thầy bảo các con chẳng nên
bắt chước. Các con hãy tìm cái chơn lý ở trong mỗi sự hành động của Thần linh
thì các con mới biết chắc Thiệt hay Giả.
Trong sự tập cơ, luyện
bút, thì Tiên Phật không hơn Ma Quỉ cái huyền diệu mà chỉ hơn chúng nó cái chơn
lý tự nhiên mà thôi. Bởi vậy cho nên Thầy thường nhắc các con nhớ rằng: Sau khi
học hỏi nơi đàn Tiên, các con cần trình diện với Lương tâm và Trí phán xét cho
kỹ.
Chẳng phải nghe nói lời
Tiên Phật mà sợ, không phán xét, vì càng có danh hiệu cao chừng nào thì cái Giả
danh càng cao chừng nấy. Mọi việc đều có Chánh có Tà. Các con là Thầy mà Thầy
là các con, nhưng chỉ khác với chúng con là ngôi chánh trị của Thầy ở nơi cõi Hư
Vô mà thôi.
Vả chăng, người tu là miếng
mồi ngon mà lũ Quỉ là đám người chực sẵn vậy. Người chực sẵn bao giờ thấy mồi
ngon mà bỏ đâu, nhưng con mồi nào khỏi đặng cũng nhờ cái hay riêng của nó.
Ví dụ con thỏ, cái hay của
nó là sức chạy, nếu nó cụt mất một cẳng thì sẽ không còn hay nữa. Các con cũng
vậy, cái hay của các con là trí khôn, để phân biệt sự chơn giả cho khỏi lầm lạc,
nếu các con để mất trí khôn thì mất cái hay đó không sai. Hễ mất cái hay thì có
ngày sa vào bẫy rập của lũ Quỉ Vương.
Mắt phàm, nếu các con có
thấy huyền diệu là thấy Giả mà thôi, cũng như vật án trước mắt, vật ấy dời đổi
tùy cơ thể, tùy theo ngày giờ, nên tu phải gỡ vật ấy rồi mới được đắc huệ tâm,
huệ nhãn. Cái đó mới là thiệt."
5 - Phân biệt Tà Chánh
trong cơ bút.
Một chơn linh giáng xưng Đại
Tiên.
Chúng ta nên tin chăng?
Tai phàm mắt tục dễ gì phân biệt giả chơn, nhưng biết chắc chánh danh không mấy
cần yếu, là vì chúng ta chỉ căn cứ ở bài giáng cơ mà định giá trị chơn linh ấy.
Nếu chơn linh chỉ dạy những việc tầm thường hoặc trái chơn lý, tất nhiên chúng
ta đâu tin là bực Đại Tiên.
Trái lại, nếu giáng cho Đạo
lý cao siêu, có tính cách Tiên gia, tuy không bằng chứng cụ thể, song chúng ta
có thể thừa nhận chơn linh ấy không phải giả danh.
Giả danh chăng là các chơn
linh hạ đẳng (Tà Thần Tinh Quái) giáng cơ, mượn danh lớn lao đặng dễ gạt kẻ hầu
đàn nhẹ tánh. Sự nầy thường xảy ra, đến đỗi Cơ bút dạy những việc hoang đường
nhảm nhí mà vẫn có người tin, mặc dầu Đức Chí-Tôn có để lời ngừa trước:
“Buổi Bạch Ngọc Kinh và
Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Độ, Quỉ vương đã phá khuấy chơn đạo, đến danh Ta
nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi. Nó lại biết Ta đến với cơ mầu nhiệm
nầy, nên mượn Tam thập lục Động giả làm Tam thập lục Thiên. Các tên Thần, Thánh,
Tiên, Phật đều bị mạo nhận mà lập nên Tả đạo.”
“Những nguyên tắc sau đây,
ai thành thật do theo thì có thể khỏi sai lầm, hay ít ra cũng đỡ:
1 - Cần phải đủ trí thông
minh phán đoán và không nên có thành kiến mới có thể nhận rõ chơn giá trị của
bài giáng cơ.
2 - Thần Tiên bao giờ cũng
dạy những việc chánh lý, đạo đức, từ bi, tuyệt nhiên không dạy việc mờ hồ, huyễn
hoặc.
3 - Thần Tiên chẳng khi
nào khoe khoang và miệt thị ai. Lời giảng dạy bao giờ cũng thấm đậm bác ái và
khí vị thanh cao.
Trái lại, bài cơ bút nào
có vẻ sân si, khoát nạt, có giọng bông lơn cao ngạo, bài ấy dầu phủ một lớp văn
chương tuyệt diệu đi nữa, quyết không phải của Thần Tiên.
4 - Chẳng nên chú trọng ở
văn chương mà nên chú trọng ở lý và ý. Về văn chương, một bài của Thần Tiên
giáng cơ có khi khuyết điểm là tại chỗ sơ sót của chơn thần đồng tử, vì Thần
Tiên chỉ truyền tư tưởng cho chơn thần đồng tử diễn ra văn chương, chớ không
dùng ngôn ngữ như người phàm.
5 - Thần Tiên không thích
khen ai, tặng ai. Nếu cần khuyến lệ người có công hành đạo, Thần Tiên vẫn dè dặt
từng chút, thế nào cho người được khuyến lệ khỏi áy náy nếu có tính khiêm cung,
hoặc không tăng vẻ tự đắc nếu có tính kiêu căng.
6 - Thần Tiên dạy bảo
chúng ta điều chi không bao giờ tỏ vẻ hăm he sai khiến, chỉ để chúng ta tự do suy
liệu, nghe không tùy ý. Nếu thấy chúng ta chẳng biết phục thiện và chẳng nghe lời
khuyên bảo thì Thần Tiên không giáng nữa. Chừng đó, tha hồ cho Tà Quái xen vào,
mạo danh giả vị, dối gạt đủ điều.
7 - Thần Tiên chỉ dìu dẫn
chúng ta trên đường đạo đức chớ không giúp về tư danh tư lợi.
8 - Khi Thần Tiên cho biết
trước việc chi, thì việc ấy sớm muộn gì cũng phải xảy ra, vì Thần Tiên không
bao giờ hý ngôn.
9 - Thần Tiên không phải
giáng để thỏa mãn tánh háo kỳ của người phàm tục, hoặc yêu cầu ai tin. Cầu hỏi
những điều vô vị, hoặc muốn Thần Tiên làm việc chi linh nghiệm cho mình thấy chắc
mới chịu tin, đó là không biết mảy may gì về diệu tánh bút cơ.” (Trích Cao-Đài
Tự Điển)
6 - Bí-mật về Huyền diệu của
Cơ bút:
Đức Hộ-Pháp Thuyết về Huyền
diệu Cơ bút
Đền-Thánh, đêm 30-04 năm
Tân Mão (1951)
“Đêm nay Bần Đạo thuyết về
Huyền diệu Cơ Bút. Cả Thánh Thể Đức Chí-Tôn, cả con cái của người Nam, Nữ cũng
vậy đã biết về Huyền diệu cơ bút, nó là vấn đề chúng ta không thể gì lấy trí
khôn, tưởng tượng của chúng ta mà định cái chơn giả của nó đặng.
Tại sao? Trong cái Huyền-diệu
Thiêng-liêng ấy nó gồm cả Bí-mật huyền-vi của cơ thể tạo đoan hữu hình và vô vi
của Càn Khôn Vũ Trụ, chúng ta thử nghĩ các bậc chơn tu đắc pháp họ chỉ tìm đặng
hiểu Vô-vi-cảnh, đặng lập Giáo là khó khăn thể nào, từ thử đến giờ biết bao
nhiêu kẻ tu mà tính lại coi được bao nhiêu người đắc Pháp đắc Đạo? Tìm thấu đáo
cho đặng cái Bí-mật huyền vi vô định của Càn Khôn Vũ Trụ nó lại khó khăn quá lẽ,
chẳng hề khi nào chúng ta lấy trí khôn định quyết đặng, định nó chỉ có chúng ta
tìm hiểu lấy trí thức mình, đặng định cái chơn tướng của vạn vật hữu hình, tức
nhiên chúng ta chỉ học phương pháp cách vật trí tri. Chúng ta đã thấy cái trở lực
biết bao nhiêu khó khăn huống chi các việc trong Cơ Bút thống hiệp cả sự khó-khăn
của Huyền-Vi-Cảnh với Hữu hình Cảnh nữa, nó khó lắm nếu luận điều ấy Bần Đạo phải
ngồi viết không biết bao nhiêu sách mới có thể tả ra mảy may được, lên tại giảng
đài nầy 15 phút hay nửa giờ thuyết về Cơ Bút chẳng khác nào chúng ta cầm ly nước
đổ xuống biển.
Ấy vậy, Bần-Đạo chỉ lấy
cái đại cương của nó, nói cho Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn cả con cái của Ngài
Nam Nữ thấu đáo mảy may chút ít, đặng khỏi bị Cơ Bút làm cho Đức-tin tàn phá
tiêu diệt mà chớ.
Bần-Đạo buộc mới đây phải
lập Thánh-Lịnh định khuôn luật của Cơ Bút có nhiều lẽ Bần-Đạo khoan dung.
Khoan-dung ấy làm cho phiền lòng Đức Lý, cho nên Đức Lý trách Bần-Đạo cầm quyền
Hộ-Pháp trong tay điều trị, điều ấy mà không định luật của nó để rối loạn Cơ
Bút, nên Bần-Đạo lập Thánh Lịnh đó, cùng chẳng đã mới lập Thánh Lịnh, vì từ trước
đến giờ Bần-Đạo để cho Cơ Bút tự do, Bần-Đạo nói thật tại giảng đài này, Bần-Đạo
thấu đáo được Thánh-ý Đức Chí-Tôn, Ổng lấy cái giả đặng lập cái thiệt, chớ
hành-tàng của cơ đời họ đều không làm đặng. Lấy cái giả đặng lập cái thiệt chỉ
có tay ông Trời làm được mà thôi chớ không có ai làm đặng hết. Chính mình Đại Từ
Phụ hồi mới ban sơ đến đề 4 câu thi như vầy:
Phong Thần đừng tưởng chuyện mơ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô.
Mượn thế đặng toan phương giác thế,
Cũng như nương viết của chàng Hồ.
Lấy cái giả của đời, Ngài
tạo cái thiệt của Ngài duy có Ông Trời làm được mà thôi. Cái giả mà Ngài làm được.
Chính Bần-Đạo có thí nghiệm. Bần-Đạo có người Bạn thiết ở ngoài đời, thi giỏi
văn hay, Bạn đồng-chí với nhau biết tài lực nhau, người ấy nghĩ rằng cả Cơ Bút
trong cửa Đạo xuất hiện ra do đầu óc của Cao Thượng-Phẩm và Bần Đạo, người ấy
cho rằng văn Cao Thượng-Phẩm cũng hay, chính mình Bần-Đạo thì cũng giỏi, người ấy
cho rằng cả Thánh-Giáo ấy do Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo xuất hiện.
Bần-Đạo thấy cái nghi ấy
bây giờ muốn độ người, Bần-Đạo phải làm thế nào? Muốn thử giả thiệt đặng biết
ông Trời là ai, Bạn làm ơn cầm cây viết đây, Bạn là nhà văn muốn viết chi thì
viết, còn Bần-Đạo sẽ dâng sớ với Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo làm một bài thi tứ tuyệt
cầu xin với Đức Chí-Tôn cho biết sự chơn giả các quyền năng của Ngài đặng độ Bạn.
Người Bạn ấy cầm cây viết, viết ra 4 câu thi tứ tuyệt, chừng viết rồi Bần-Đạo
đưa 4 câu thi Bần Đạo đã làm để trong bao thơ, chừng xé ra coi họa đúng với 4
câu thi của Bạn Bần-Đạo hỏi. Bần-Đạo chỉ đầu óc phàm, trí khôn của ta là khí cụ
của Đấng Chí-Linh kia cho Bạn ngó thấy.
Đấng Chí-Linh kia lấy cái
giả của Bạn làm cái thiệt đó vậy. Người Bạn ấy tỉnh giấc lại, tự mình theo Đạo,
sự thật vậy.
Ôi! Huyền diệu cơ bút
chúng ta không thể gì tả cho được, trong Càn Khôn Vũ Trụ có hai ông chủ: ông chủ
vô hình của Càn Khôn Vũ Trụ là ông chủ vô hình trên cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống,
ấy là Đấng Tạo Đoan, là Đấng Chí Linh, là Đấng Đại Từ Phụ.
Ông chủ thứ nhì là người tối
linh trong vạn vật. Tối linh trong vạn vật cốt yếu của Đức Chí-Tôn sanh ra loài
người đặng lấy quyền của Ngài cầm quyền vạn linh hữu hình cũng là cầm quyền vạn
linh vô hình của Ngài đó vậy. Bởi vậy Tiên Nho chúng ta nhìn nhận Thiên Thượng,
Thiên Hạ. Thiên Thượng là Đức Chí-Tôn, Thiên Hạ là loài người.
Muốn đặng thấu đáo Càn
Khôn Vũ Trụ tinh thông trong vạn vật, Đức Chí-Tôn dùng Cơ Bút Ngài nói rằng: Một
phần của con và một phần của Thầy hiệp nhứt mới thấu đáo Càn Khôn Vũ Trụ tinh
thông vạn vật. Hai người chủ quyền ấy, một người về hữu hình, một người về vô hình
hiệp lại với nhau làm chủ cơ thể Càn Khôn Vũ Trụ có lạ chi ? Lạ chăng là Cây Cơ
của chúng ta đưa lên hợp lực hai quyền năng ấy, trong đó có Cây Cơ đưa lên là lấy
hai cái sống của hai ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt, đặng phục lịnh quyền
hành Thiêng liêng Đức Chí-Tôn xử dụng mà thôi, thì nó là cây viết Thiêng liêng
của Đức Chí-Tôn đó vậy.
Khéo, chúng ta phải khéo,
cảnh vô tri Hữu Tử Thiên lại cũng có Vô Tử Thiên, chừng nào vô hàng phẩm đứng địa
vị Vô Tử Thiên, tánh chất của họ cao siêu không còn phàm chất của họ. Các Đấng
Thiêng Liêng còn ở trong Hữu Tử Thiên họ cũng như ta vậy, cũng có quân tử tiểu
nhơn, cũng cá nhân cá tánh như ta vậy. Các Đấng ấy thế nào ta thế đó, có nhiều
hàng phẩm ta không luận cùng, cũng có kẻ thì thân với ta, mà cũng có kẻ thù nghịch
đáo để với chúng ta, không thể gì chúng ta hòa giải họ đặng. Chúng ta đã ngó thấy
Đạo Pháp nếu có Phật thì có Ma, có Trời thì có Quỉ, chúng ta chịu hai cửa, một
là cửa thua hai là cửa ăn.
Các Chơn Linh, từ bậc Hữu
Tử Thiên trở xuống biết bao nhiêu mà nói. Họ không đáng gì là Thầy ta mà họ mơ
vọng dạy ta, biểu ta làm học trò họ, đám Chơn linh đó nhứt là ở trong Đại Hải
Chúng, đệ nhứt nguy hiểm hơn hết là Kim Quang Sứ tự là Quỉ-Vương, nếu chúng ta
đã tu rủi lầm nghe người thì làm đầy tớ cho người, làm môn sanh của người. Có một
điều Bần-Đạo thấy hiển nhiên trước mắt, khi Đạo mới mở, Thánh-Thể Đức Chí-Tôn còn
Thương yêu hòa ái với nhau, chưa đến đỗi chia rẽ, chưa đến nỗi thù địch, kế người
đến, Kim Quan Sứ đến cầm cây Cơ viết câu này:
- Chín phẩm Thần tiên nể mặt
ta.
Ông Giáo Sư B... ở
Kiêm-Biên nói: "Ông nào đây chắc lớn lắm", bước ra quì xuống lạy. Cơ
viết luôn:
- Thích Ca dầu trọng khó
giao hòa,
Kế ông C.. bước ra quì xuống
lạy nữa. Cơ viết tiếp:
- Lấy chơn thay giả tô
thiên vị,
- Thắng bại, phàm tâm liệu
thế à ?
Tới chừng ký tên Kim Quan
Sứ mới biết là Quỉ vương, là Tà Giáo. Hai người này đã theo nó, bằng cớ hiển
nhiên các Bạn ngó thấy các Bạn của ta đã lầm cái thiệt ra cái giả. Nếu không giải
quyết được cái hư thiệt chúng ta phải theo Tà Giáo mà chớ. Duy có Đức Chí-Tôn lấy
cái giả làm cái chơn được”.
* Có bản chép khác:
Cửu phẩm Thần Tiên nễ mặt ta.
Thích Ca dầu trọng khó giao hòa,
Cửa Kinh Bạch-Ngọc năng lui tới.
Đường Đạo Tây phương thử chánh tà.
7 - Đạo Cao-Đài có Thể-pháp
và Bí-pháp:
Nay là thời-kỳ Hạ ngươn
Tam chuyển bước qua Thượng ngươn Tứ chuyển, Đức Chí-Tôn mở cho mối Đạo Trời là
cơ Đại Ân xá cho nhân lọai. Cơ Đại Ân xá này được thực hiện ở mọi nơi, mọi chỗ
và bằng nhiều phương thức khác nhau.
“Đức Chí-Tôn để cả hai triết-lý
cho nhơn-loại biết sự thật. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn đến: Ngài đến đặng giải
một triết lý, một công-lý hiện hữu tại mặt thế gian này: Sự chơn thật.
Ngài đã giải sự chơn thật.
Phải hiểu Thể-pháp, biết
Thể-pháp rồi mới thấu đến Bí-pháp. Khó lắm! Phải để tinh-thần tìm hiểu cho lắm!
Khó lắm! phải rán học cho lắm mới có thể đoạt đặng!
Điều rất khó-khăn là phải
viết sách." (ĐHP 5-4 Kỷ-Sửu)
Vì :
“Có Thể-pháp thì có
Bí-pháp!
Các vị Giáo-chủ cũng phải
tùng theo khuôn luật đó, một nền Tôn giáo có:
- Thể-pháp là cơ-quan giải
khổ cho chúng sanh, tức nhiên phải có:
- Bí-pháp đặng làm cơ-quan
giải thoát cho chúng sanh. Hễ độ phần xác tức nhiên phải độ phần hồn cho toàn vẹn.
Một nền Tôn giáo đã xuất hiện tại thế gian này dầu Thể-pháp cao siêu bao nhiêu
đi nữa, nếu không có Bí-pháp làm tướng diện căn bản thì nền Tôn giáo ấy chỉ là
Bàng môn tả đạo mà thôi” (ĐHP: 9-4 Kỷ Sửu 1949)
Lại nữa:
“Bí-pháp chơn truyền của Đức Chí-Tôn ấy là một
thuyết pháp trọng yếu khó-khăn hơn hết.
Các nền Tôn-giáo đương
nhiên bây giờ nếu gọi là thất chơn truyền, thì thất chơn truyền do đâu?
- Do tại Bí-pháp không
đúng lương tri lương năng của loài người, lương tri lương năng của mỗi người
đương thời buổi này đã đạt đến mức cao thượng, trọng hệ là những triết-lý đơn
sơ buổi nọ của các nền Tôn giáo để tại mặt thế này, hồi buổi Thượng cổ không cầm
được quyền năng cùng tâm lý của nhân loại trong khuôn-khổ đạo-đức tinh-thần nữa.
Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến,
đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế này đặng chỉnh đốn đạo đức tinh thần từ
thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ bút. Ngài đến không có quyền nào ngăn cản,
Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem Cơ bí-mật huyền vi tạo đoan
giáo-hóa con cái của Ngài”
Sở dĩ Đức Chí-Tôn mở Đạo
Cao-Đài vì lý do Tam giáo thất chơn truyền. Thầy có giải rõ:
8 - Phật-đạo chánh truyền
gần thay đổi:
Thầy dạy:
“Từ trước Ta giáng sanh lập
Phật-Giáo gần sáu ngàn năm thì Phật-đạo chánh truyền gần thay đổi. TA hằng nghe
chúng sanh nói Phật giả vô ngôn. Nay nhứt định lấy Huyền-diệu mà giáo-đạo, chớ
không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật-Giáo lại cho hoàn toàn.
Dường nầy, từ đây chư
chúng sanh chẳng tu bị đọa A-Tỳ, thì hết lời nói rằng “Phật-Tông vô giáo”, mà
chối tội nữa.
Ta nói cho chúng sanh biết
rằng: Gặp Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy mà không tu, thì không còn trông mong siêu rỗi.”
(TNI/20)
Chính Đức Phật Thích-Ca
ngày nay nói là Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát cũng giáng dạy rằng:
“Vốn từ Lục-Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho
nên tu hữu công mà thành thì bất thành; Chánh Pháp bị nơi Thần-Tú làm cho ra mất
Chánh Giáo, lập riêng pháp-luật buộc mối Đạo-Thiền.
Ta vì luật lịnh Thiên mạng
đã ra, cho nên cam để vậy, làm cho Phật-Tông thất chánh có gần ba ngàn năm nay.
Vì Tam-Kỳ Phổ-độ, Thiên-địa hoằng khai; nơi “Tây phương Cực-lạc” và “Ngọc-Hư-Cung”
mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật-Tông Nguyên-Lý đã cho hiểu
trước đến buổi hôm nay rồi; tại Tăng Đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.
Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh
hành Đạo... Ôi! Thương thay! Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy
mà TA rất đau lòng.
Ta đến chẳng phải cứu mình
chư Tăng mà thôi; vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải đọa hồng
trần, TA đương lo cứu vớt.
Chư tăng, chư chúng-sanh hữu
căn, hữu kiếp, đặng gặp kỳ Phổ-độ nầy là lần chót; phải rán sức tu hành, đừng
mơ mộng hoài trong giả luật. Chư-Sơn đắc Đạo cùng chăng là do nơi mình hành Đạo.
Phép hành Đạo Phật Giáo, dường như ra sái hết, tương tự như gần biến “Tả Đạo
Bàn-Môn”. Kỳ truyền đã thất. Chư-Sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào; cứ
ôm luật Thần-Tú thì đương mong mỏi về Tây- Phương mà cửa Tây-Phương vẫn cứ bị
đóng, thì cơ thành chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy. Ta đã đến với huyền
diệu nầy, thì từ đây Ta cũng cho Chư Tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi; ngày
sau thì đừng đổ tội rằng vì thất học mà thất kỳ truyền, Chư-Tăng từ đây chẳng đặng
nói Phật giả vô ngôn nữa." (Ngày 5-4 Bính-Dần (Dl 5-6-1926)
Như vậy thì ngày nay là thời-kỳ
Qui nguyên Tam giáo Phục nhứt ngũ chi, nên Thầy cũng cho biết rõ:
Nhiên Đăng Cổ Phật là Thầy.
Thích-Ca
Mâu-ni là Thầy.
Thái
Thượng Nguơn Thỉ là Thầy.
Nay nói là Đấng Cao-Đài.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển ghi rõ:
Nhiên-Đăng Cổ-Phật thị ngã
Thích-Ca Mâu-Ni, thị ngã,
Thái-Thượng Ngươn-Thỉ thị ngã,
Kim viết Cao-Đài
Lời Đức Thích-Ca giáng nói
như vậy chúng ta có dám phủ nhận không? Có nên tin không? Còn nay thì thế nào?
Thầy đã quyết định:
“Vốn từ trước Thầy lập ra
Ngũ chi Đại-Đạo là:
- Nhơn-đạo
- Thần-đạo
- Thánh-đạo
- Tiên-đạo
- Phật-đạo
Tuỳ theo phong hoá cuả
nhân loại mà gầy Chánh Giáo, là vì khi trước Càn-vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt,
thì nhơn-loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn-loại đã
hiệp đồng. Càn-Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn-loại nghịch
lẫn nhau: nên Thầy mới nhứt định Qui nguyên phục nhứt. Lại nữa, trước Thầy lại
giao Chánh-Giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-Giáo mà làm ra cuộc
Phàm-Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân-loại phải
sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A-Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình
Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc
phải lập Chánh Thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước
em sau mà đến nơi Bồng Đảo.
Vì vậy Thầy mới lập ra có
một phẩm Giáo-Tông nghiã là anh cả ba phẩm Đầu-Sư, nghiã là Giáo-Hữu. Chẳng đặng
một ai duới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của
nhơn-loại. Ai có đức hạnh lớn thì mới ngồi đặng địa vị thầy ban thưởng. Còn cả
Môn-đệ ai cũng như ai, không đặng gây phe, lập đảng; những kẻ nào phạm tội thì
Thầy trục xuất ra ngoài, cho khỏi đều rối loạn." ( 24 Avril 1926)
Xem thế thì bất cứ một việc
thay đổi nào cũng có duyên cớ.
9 - Đức Hộ-Pháp là người nắm
Pháp Đại-Đạo:
Đức Hộ-Pháp nói:
“Cái duyên ngộ Đạo của
chúng tôi lúc đó chưa có quyền-năng thiêng-liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi
muốn tìm hiểu huyền-vi bí-mật thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn đã tạo ra càn-khôn
Vũ-trụ. Sách vở để lại cũng nhiều, nhưng thật ra lý-thuyết ấy làm cho chúng tôi
chưa quyết định về tín-ngưỡng cách nào mà đức-tin đã có thật vậy.
“Khi Đức Chí-Tôn đến với
chúng tôi, Đức Chí-Tôn mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ chớ không phải mở Đạo Cao-Đài.
Tới chừng Ngài biểu chúng
tôi cầm một cây Cơ và một ngọn bút đi các nơi thâu Môn-Đệ. Trọng-yếu của Ngài
là thâu mấy vị Tông-đồ có sứ-mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này làm môi-giới
độ Đạo sau này. Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò loan đặng Ngài dùng quyền năng
kêu gọi mấy vị Tông đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập-Nhị Thời-Quân hiển
hiện ra, trong số các vị Thời-Quân ấy có Cao Tiếp Đạo ở tại Kiêm biên chớ không
phải ở Sài-gòn.
Đi thâu Thập-Nhị Thời-Quân
rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng; Có một
người thờ Ngài rồi là ông Ngô văn Chiêu, tức nhiên Đức Chí-Tôn muốn thâu ông
này làm Giáo-Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ lùng suy nghĩ không ra nguyên cớ
là Đức Chí-Tôn biểu Bà Nữ Chánh Phối sư Hương Hiếu may sắc phục Giáo-Tông cho
Người, kỳ hẹn trong mười ngày, Người sẽ được tôn làm Giáo-Tông, trong thời gian
mười ngày, chỉ có mười ngày mà thôi. Chúng tôi không hiểu nguyên cớ nào Ông Ngô
văn Chiêu không hưởng được địa vị ấy.…Từ khi Đức Chí-Tôn đến độ Đức Quyền
Giáo-Tông rồi mới xuất hiện ra Hội-Thánh…Đó là do nơi Đức Quyền Giáo-Tông mới
xuất hiện ra Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài đó vậy. Ngài luôn luôn đi các nơi để phổ độ
chúng sanh nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí-Tôn sai hết chúng tôi, tức Thập-Nhị
Thời-Quân đi phò loan cùng hết, không có chỗ nào không có Cơ Bút: Người thì xuống
miền Tây, người đi miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn đệ xong, Thầy dạy chúng tôi
về Tây-Ninh mở Đạo.” (ĐHP: 13-10 Giáp Ngọ -1954)
10 - Đức Hộ-Pháp thọ nạn
cũng tiếp được Cơ Bút.
1/ - Đức Hộ-Pháp bằng lòng
thọ nạn cho dân tộc:
Ký giả Nam Đình là một nhà
báo chuyên về luật pháp ở Sài Gòn, có bà con kêu Đức Hộ-Pháp bằng chú, lên
Tòa-Thánh cho Đức Hộ-Pháp hay là Pháp sắp bắt Đức Hộ-Pháp. Ông này hứa sẽ đem
xe đưa Đức Hộ-Pháp qua Xiêm lánh nạn, vì thời đó nhiều nhà cách mạng Việt-Nam
cũng qua Xiêm lánh nạn. Đức Hộ-Pháp trả lời:
- Đức Chí-Tôn giao con cái
của Ngài cho ta, ta cứ ở Tòa-Thánh, tụi nó có muốn bắt thì bắt.
Một tuần lễ sau vào buổi
sáng ngày 4-5-1941, Đức Hộ-Pháp sửa soạn sẵn, mặc áo dài trắng có chiếc nón Đạo,
cùng cây gậy với một túi xách quần áo sẵn sàng, chừng một tiếng đồng hồ sau, xe
mật thám Catinat của nhà cầm quyền Pháp vào Hộ-Pháp-Đường đưa giấy mời Đức Hộ-Pháp,
Đức Hộ-Pháp trả lời:
- “Tôi đã sửa soạn xong”.
Rồi ra đi.
Người Pháp đày Đức Hộ-Pháp
đi Sơn-La, sau lại bắt thêm một số Chức-sắc. Cùng đày đi Madagascar với Đức Hộ-Pháp
có năm vị; còn mấy vị khác đày đi Sơn-La, Lao Bảo, Bà Rá, Côn Đảo, khám lớn Sài
Gòn.
Pháp đóng cửa Tòa-Thánh và
các Thánh Thất địa phương, biến Nội-Ô Tòa-Thánh thành khu quân sự, cấm không
cho người Đạo vào.
2/ - Tinh thần của một vị
Giáo-Chủ thọ nạn cho dân-tộc:
Xưa Vua Văn-Vương bị giam ở
Dữu Lý chịu bảy năm ngồi ngục làm nên bộ Kinh Dịch truyền lại cho đời. Nay Đức
Hộ-Pháp Giáo-chủ Đạo Cao-Đài thọ nạn để giải ách nô lệ cho dân tộc Việt-Nam vào
ngày 25-6 Tân-Tỵ (1941)
Vua Văn-Vương bị giam ở Dữu-Lý
rồi gây dựng sự nghiệp nhà Châu buổi nọ.
Đức Hộ-Pháp Ngài tâm sự rằng:
“Thọ lãnh thiên mạng với chơn lý chánh đáng là
một Giáo-chủ hướng dẫn con cái Đức Chí-Tôn với một tinh thần đạo-đức trong phạm
vi đạo giáo mà thôi.
Lấy một thiên tài, phận sự
một công dân tạo hạnh phúc cho giống nòi Việt-Nam, gây dựng lập trường vững chắc
và mới mẻ, chờ tiếp rước bậc hiền nhân, chí sĩ do giọt máu con Hồng cháu Lạc tức
là dòng dõi của tiền đồ lưu lại, thành lập quốc gia công bình, chơn chánh, vị
tha, không ham danh, chẳng màng lợi, mới có thể thuần túy được”.
Nhưng, nợ trả vay xương
máu chưa dứt sớm được là bởi số kiếp của dân tộc Việt-Nam, ách tương tàn cốt nhục
vốn mãi kéo dài, khiến cho Pháp sớm đưa Đức Ngài về Tổ đình Tây-Ninh vào ngày
22 tháng 8 năm Bính-Tuất (1946) tức là 5 năm 2 tháng.
Sau khi bị lưu đày nơi Hải
đảo Madagascar Ngài than rằng:
“Còn thiếu 1 năm 10 tháng mới may ra giải khổ,
chấm dứt được, lẽ dĩ nhiên luật công bình tạo hóa, ta dầu muốn cũng không hề sửa
cải được”.
3/ - Thời gian bị đày Hộ-Pháp
vẫn tiếp điển được:
Khi đến Mã Đảo (Madagascar)
Ngài và chư Chức Sắc bị giam đến ngày 24-11-1944 mới được ra ngoài làm lụng.
Trong những năm tháng bị
lưu đày khổ sở, Đức Hộ-Pháp luôn luôn được các Đấng Thiêng-liêng che chở, thoát
khỏi được nhiều tai nạn hiểm nghèo, mà người Pháp muốn dùng cách đó để gián-tiếp
giết chết Đức Hộ-Pháp.
Trong khi bị đi đày, Đức
Ngài ra ngồi trên bãi biển, tay cầm một que nhỏ và tay kia khỏa cát cho bằng,
thì liền có một Đấng giáng bút để an ủi và báo tin cho biết tình hình chuyển biến
của thế giới và Việt-Nam, đồng-thời cũng có tiên tri như bài thi sau đây của
Linh Sơn Thần Nữ núi Bà Đen vâng lịnh Thất-Nương đến thăm Đức Hộ-Pháp. Đó là một
hình-thức mà Ngài đã chấp bút:
THI
I - Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám khảo Thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt bổn trừ
II - Nô xi Lao (1), tiếng đặt buồn cười,
Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi.
Lượng thảm bủa ghềnh tình ột-ạt,
Gió sầu xao đảnh ái tơi bời.
Yêu phu, điểu gọi thương cành tím,
Giọng ngạn, quyên khêu gợi buổi mơi.
Tổ quốc đon đường bao dặm thẳng,
Đưa xa thăm thẳm một phương trời.
Nosy-Lava một đảo nhỏ ở về
phía Tây Bắc Madagascar
Trong thời gian đó các Đấng
giáng cho Ngài bài thơ:
THI
Quá hải đòi phen đến viếng nhau,
Ngặt không Cơ Bút để lời giao.
An nhàn đợi thuở triều binh đến,
Chuyển thế gặp hồi phải múa đao.
Cõi Á đã gầy thành chủng quốc,
Phương Âu đã diệt tận Nô Lao.
Lửa hương đất Việt dầu nhen nhúm,
Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu.
Như vậy hình thức Cơ bút
là một sự cảm ứng với huyền diệu Thiêng-liêng, cho nên dù bất cứ nơi nào, miễn
có tâm thành là tiếp nhận được, nhưng việc này chỉ dành cho bậc Thiên mạng mới
không ngại tà quái xung nhập.
4/ - Buồn cho thế thái
nhân tình:
Đức Hộ-Pháp kể lại rằng:
“Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc đến làm cho
giọt lệ Bần Đạo đã chảy không ngừng, chẳng phải riêng Bần Đạo, mất một người ân
trọng nghĩa thâm, mà là toàn cả Đạo: Nam, Nữ thấy đều mất một người bạn yêu mến
Thiêng Liêng đó vậy.
Lúc Chánh quyền Pháp đày
ra Hải đảo Madagascar. Trong đó nhiều vị Chức Sắc Đại Thiên Phong cũng chung chịu
ảnh hưởng.
Bần Đạo chỉ thấy một Đức
Ngài (Khai pháp Trần Duy-Nghĩa) và em Thánh Hiển hết lòng phụng sự giúp đỡ Bần-Đạo,
còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt Bần-Đạo đáo để. Anh Trọng già
rồi chẳng nói chi, nhứt là Ông Thái Phấn và Gấm, dựa quyền lợi theo thuyết Cộng
Sản Nga Xô, dùng sức mạnh trở lại hành phạt khổ khắc Bần-Đạo mà chưa vừa lòng,
họ còn xúi giục Chánh quyền đày Bần-Đạo lên chỗ nguồn cao nước độc đặng giết một
cách gián tiếp cho vừa lòng, nếu chẳng phải quyền năng Thiêng Liêng giúp sức
thì không thế trở về Tổ Đình, Thánh Địa đất nước Việt-Nam tới ngày nay.
Tội nghiệp thay! Em Thánh
Hiển với Đức Ngài Khai-Pháp thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đánh đuổi mà
tìm kế đi theo nuôi dưỡng Bần-Đạo cho được, Thánh Hiển vì đi theo Bần-Đạo bị uống
nước độc, mà bỏ mình nơi rừng sâu nước thẳm, chỉ còn Bần-Đạo và Đức Ngài
(Khai-Pháp) ôm lấy Bần-Đạo mà khóc, chỉ van vái có một điều là cầu xin Đức
Chí-Tôn, Đức Phật-Mẫu đem xác về gởi đất Thánh Địa lúc cởi xác mà thôi, thật quả
nhiên lời nguyện không sai.”
11 - Đức Ngô-Minh-Chiêu là
Môn-đệ trước tiên của nền Đại-Đạo bị Thầy quở:
Khuya 14 rạng 15 tháng 3
Bính Dần).
(11 giờ 30 đêm 25 rạng 26 Avril )
CAO-ĐÀI
Hỉ chư Nhu,
Kim triêu dĩ đáo Thiên Trung Quang,
Am hiểu thế tình tánh đức nan.
Chỉ đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.
Rán hiểu.
Đức, Hậu: Phong vi Tiên Đạo Phò Cơ Đạo Sĩ.
Phong Cư: Tá Cơ Tiên Hạc Đạo
Sĩ.
Phong Tắc: Hộ Giá Tiên Đồng
Tá Cơ Đạo Sĩ.
Trung, Lịch: Đã thọ sắc, cứ
tước vị mà theo lịnh sắc mạng Ta.
Kỳ: Phong vi Tiên Sắc Lang
Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư.
Bản: Phong vi Tiên Đạo
Công Thần Thuyết Đạo Sư.
Trung: Xin phẩm vị để như
cũ và xin đừng cho chư Môn Đệ lạy.
Ta nhận lời trước, còn điều
sau phải tuân. Chư Môn đệ đồng quì lạy Thầy “xin thứ tội cho Ông Chiêu”.
Thầy
CHIÊU, thiếu đức thiếu
tài.
Trung, con sợ ai?
Ta không vị ai.
Ta biết hơn ngươi.
Ta há không biết thương
sao?
Ấy cũng vì thiếu đức.
Nó đã biết Ta.
Cư tuân lời Thầy đã truyền
mà thi hành.
Ngày 26 Avril 1926.
CAO-ĐÀI
Chiêu, ngươi chẳng kiên lịnh
Ta, ai kiên? Ta chờ ngươi.
Chiêu, ngươi chẳng thừa lịnh
Ta, ai thừa lịnh? Ta đã nói người làm đầu Tam Giáo, đã bao phen Ta lập Đạo sẵn
cho, ngươi chê há.
Ta đã sở định, ngươi dám cải.
Chuyên quyền từ đấy bỏ tuồng xưa,
Nghe nịnh, nghe khen thói cũng chừa.
Sám
hối Ta cho tu ít tháng,
Tài
hay tài múa chớ đua lừa.
Lý-do Ông Ngô-Văn Chiêu không nhận phẩm
Giáo-Tông
(Trước nhứt tôi thành kính
xin các Đấng thứ lỗi cho. Việc phổ biến này tôi hết sức dè-dặt. Vì chính bản
thân tôi khi học Đạo cũng lắm phen tìm tòi. Trước đây các bậc Tiền bối khi soạn
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển thì cắt xén những dòng này đi, vì ngại mất lòng nhau. Nhưng
sự thật nếu không phô bày thì bóng tối vẫn còn chìm khuất).
Đàn Cơ ngày 25-06 Bính-Dần
(dl 03-8-1926) tại nhà Ngài Nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định (ghi lại từ trong Thánh
Ngôn Sưu Tập bài số 30. Trang 60)
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết
Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
Chư Môn Đệ nghe dạy:
Vốn từ trước trong Thiên
Thơ Tam-Kỳ Phổ-Độ này, nền Chánh-giáo phải có: Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam Thập Lục
Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên Đồ Đệ. Chưởng-quản thâu Tam giáo hiệp nhứt.
Chiêu thật là Nhứt Phật
đó!
Vậy trước ngày định lập
Thiên phong đặng tôn chức GIÁO-TÔNG cho nó, thì Chúa Quỉ sai Tam Thập Lục Động
Địa giái kêu nài với TA rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng TA.
TA có cải lẽ, Quan-Thánh
và Quan-Âm giúp lời. TA nhứt định phong chức GIÁO-TÔNG cho nó.
Chúa Quỉ xin lịnh TA mà khảo
nó, mà phải để cho Tam Thập Lục động hành xác nó, TA không nỡ, nên cho khảo mà
không cho hành xác.
Rủi thay! Đau-đớn thay! Buổi
khảo nó phải bị Tà quái ép chế nên phải mất ngôi, song TA vẫn còn Thương yêu chẳng
nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy! TA phải dùng quyền
CHÍ-TÔN mà tha thứ, song buộc nó phải Tịnh Thất.
TA vừa muốn tha nó, lại bị
Tam Thập lục động khảo nữa thì mới liệu sao? TA phải giáng Cơ biểu nó.
Con Thơ, Con phải tuân lịnh.
Thầy đã dạy khi Thầy giáng Cơ mà thôi, còn mọi sự khác thì đừng nghe đến!.
Kẻ bị tù còn rỗi ai đặng?
Chư Môn-Đệ khá nghe lịnh dạy.
Từ đây ai còn phạm đến thì Thầy buộc trục xuất cho khỏi rối loạn nền Đạo của Thầy.
Thầy thăng.
B - PHỔ-ĐỘ LỤC TỈNH
Khai Đạo xong rồi, việc phổ
độ Lục Tỉnh, kể từ tháng 9 năm Bính-Dần chia ra như vầy:
- Mấy ông Lê Văn Trung,
Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Đạo Quang, lo phổ độ trong mấy tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh,
Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá. Ông Cao
Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc phò loan.
- Mấy ông Lê Văn Lịch,
Nguyễn Ngọc Tương, Yết Ma Luật lo phổ độ trong mấy hạt: Chợ Lớn, Gò Công, Tân
An, Mỹ Tho, Bến Tre. Ông Nguyễn Trung Hậu và ông Trương Hữu Đức phò loan.
- Mấy ông Lê Bá Trang, Vương
Quan Kỳ, Yết Ma Nhung lo phổ độ trong mấy hạt: Tây-Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Định,
Biên Hòa, Bà Rịa, Sa Đéc. Ông Cao Quỳnh Diêu và ông Cao Hoài Sang phò loan.
Ông Nguyễn Văn Tương và
ông Nguyễn Văn Kinh là người rõ thông đạo lý, lại đi khắp nơi giảng Đạo để độ rỗi
người quen.
Kết quả cuộc phổ thông nầy
rất nên long trọng, chỉ có một tháng mấy mà kể ra có mấy vạn người nhập môn cầu
Đạo.
Mùng 10 tháng 10 là ngày tạm
ngưng việc phổ độ, để lo sắp đặt lễ Khánh Thành Thánh Thất ở Từ Lâm Tự (Gò Kén,
Tây-Ninh).
1 - Sự tích cảnh Chùa Từ
Lâm Gò Kén:
Cảnh chùa nầy vốn của Hòa
Thượng Như Nhãn, ở chùa Giác Hải (Chợ Gạo) quyên tiền trong Bổn Đạo của ông mà
lập ra.
Tháng 7 năm Bính-Dần (Aout
1926), ông tình nguyện dâng chùa ấy cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để làm Thánh-Thất.
Khi ấy chùa cất mới vừa xong, nhưng chưa sơn phết, chưa tráng xi măng và chung
quanh chùa vẫn còn bụi cây sầm uất.
Ông Nguyễn Ngọc Thơ phải
ra tiền lo việc ấy cho hoàn tất, lại còn dựng cốt Phật Thích Ca và khai thác
các việc khác như là: Đốn cây, trồng kiển, đắp đường cho xe hơi vô tận chùa và
cất Tịnh Thất...
2 - Ngày khai ĐẠO tại
Thánh Thất
Đêm 14 rạng mặt Rằm tháng
10 năm Bính-Dần (18 Novembre 1926) là đêm làm Lễ Khánh Thành Thánh Thất Từ Lâm
Tự.
Ông Lê Văn Trung thay mặt
cho Bổn Đạo mời đủ các Chức Sắc, Viên quan Lang Sa và An Nam đến dự lễ ấy. Chư
Bổn Đạo và Chư Thiện Nam Tín Nữ hiện diện kể đến hằng muôn. Hội Thánh tiếp đãi
khách một cách ân cần trọng hậu. Ngoài cúng phẩm ra thì không thâu tiền bạc gì
cả. Sau cuộc lễ thì có biến do tà quái xung nhập.
Dời Thánh Thất về làng Long Thành Tây-Ninh
THƯỢNG TRUNG NHỰT nói:
“Vì cuộc biến nọ, vì trường công kích kia mà Hòa
Thượng Như Nhãn ngã lòng và Bổn Đạo của ông đã cúng tiền cất Từ-Lâm-Tự cũng vì
đó mà buộc ông đòi Chùa lại.
Hội Thánh buộc phải giao
Chùa lại cho ông Như Nhãn đoạn mới mua một sở rừng 140 mẫu giá 25 ngàn tọa lạc ở
làng Long-Thành. Khai phá được chừng 10 mẫu rồi mới cất Tòa-Thánh tạm mà an bày
nơi đó kể từ tháng 2 năm Đinh-Mão.
Lúc bấy giờ, Đạo phải trải
qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh, nhưng người chủ trương việc Đạo,
nhứt là ông Cao Quỳnh Cư đem hết dạ nhiệt thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt
trật tự bên trong và chống trả với phản động lực bên ngoài (đời Pháp thuộc).
Đến đây, tôi xin ngừng
bút, tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ cho quý độc giả rõ biết sơ lược về gốc tích Đại-Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ.
Đầu-Sư THƯỢNG TRUNG NHỰT
Sài Gòn, Dimanche 24
Octobre 1926.
(Ngày 18-09-Bính Dần)
Cholon, 17 Juin 1927.
THẦY, Các con
Trung, con đi Sađéc với mấy em. Thầy đã nói con
thay mặt cho Thầy và vỗ về các Đạo Hữu nơi ấy. Thầy chẳng nỡ để cho Quỉ-Vương
hành, nên có ý định Thiên Phong cho các Chức Sắc và con phải hiệp với Nương mà định khuyên chúng nó lo đạo đức và mựa cầu danh mà sau ăn năn rất
muộn.
Xuống đó không phải cầu Thầy,
chỉ nói Đạo và khuyên nhủ chư Đạo Hữu là đủ. Cấm nhặt Cơ Bút, chúng nó có tự
chuyên thì để Lý Thái Bạch trọn quyền định đoạt.
Khi về tiện đường ghé Thuộc
Nhiêu, nơi Thánh Thất của Thầy đã chọn trước, nói cách hành Đạo và tư cầu cho
Thầy dạy. Sau nữa ghé Cà Mau, Thánh ngôn để dạy trước và tư cầu nghe con.
Trung bạch.... Đặng con.
Trung bạch.... Thầy sẽ dạy mấy chỗ Đạo đặng thạnh hành, con khỏi đi nữa, nhứt
là cần đi đến Nghĩa và Tương cho Thầy dạy hai đứa nó. Con cũng nên lo việc
Thánh Thất và lên xuống chớ nên để Đạo Hữu trông con.
Hoạch, trao nước cho anh
con dâng lên, trao chai nước khác Thầy trấn bùa đặng gởi cho Hộ đặng để vọng
nơi Thánh Tượng. Mỗi lần cúng lấy đứng lên niệm ba lần: “Nam Mô Ngọc-Hoàng Thượng-Đế
Từ Bi Cứu Khổ” rồi để dành đặng cứu bịnh những kẻ hữu căn. Nó đặng phép lấy
bông mà làm theo lời Thầy đã dặn. Nơi đây Thầy để lời cho các con phải biết
thương Đạo Hữu, việc chi lỗi để cho Thầy biết và cứ tuân theo lời Thầy dặn.
Hành sự cho tròn là đủ, chớ
nên chấp lẫn nhau mà mất niềm đồng Đạo chẳng tốt. Nhiều đứa cũng lắm cầu danh
vì mối Đạo, chúng nó phải truất phần công quả về sau. Lý Bạch hằng phàn nàn về
đức từ bi của Thầy…”
CHƯƠNG VI
1 . Thầy dạy về Thủ Cơ và Chấp bút
Thánh ngôn: Ngày 3 Janvier
1926 Thầy dạy về việc Thủ Cơ hay là Chấp bút phải trải qua nhiều giai đoạn:
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết
Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo-Đạo Nam-Phương
Thủ cơ - Chấp bút
“Thủ cơ hay là chấp bút phải
để cho Thần, Tâm, tịnh mới xuất Chơn-Thần ra khỏi phách, đặng đến hầu Thầy nghe
dạy:
Khi chấp thủ thì tay tuân
theo Chơn-Thần nói lại mà viết ra, mường-tượng như con đặt để, con hiểu đặng vậy.
CHƠN-THẦN là gì?
Là nhị xác thân (périspit)
là xác thân thiêng-liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng,
bị xác phàm kéo níu.
Cái Chơn-Thần ấy của các
Thánh, Tiên, Phật là huyền diệu vô cùng, bất tiêu, bất diệt. Bậc chơn tu khi còn
xác phàm nơi mình, như đắc đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du thiên
ngoại. Cái Chơn-Thần ấy mới đặng phép đến trước mặt thầy.
Như chấp cơ mà mê, thì Chơn-Thần
ra trọn vẹn khỏi xác. Thầy mới dạy nó viết chữ chi đó, nó đồ theo; Thầy nói tên
chữ, xác nó cầm cơ viết ra ngoài, nói tên chữ trật, nó nghe đặng không chịu: Thầy
buộc viết lại và rầy kẻ đọc trật ấy.
Còn chấp bút, khi Thầy đến
thì làm cho Thần con bất định một lát, cho Thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay
con tuân theo mà viết, ấy là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt mới
thấu đáo Càn-Khôn, tinh thông vạn vật đặng.
Trước khi thủ cơ hay là chấp
bút, thì phải thay y phục cho sạch sẽ, trang hoàng tắm gội cho tinh khiết; rồi
mới đặng đến trước Bửu-Điện mà hành sự, chẳng nên thiếu sót mà thất lễ. Nếu chấp
Cơ phải để ý thanh bạch không đặng tưởng đến việc phàm. Tay chấp cơ cũng phải
xông hương khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh-tấn mà xuất
ngoại xác đến hầu dạy việc. Phải có một chơn-linh tinh tấn mới mầu nhiệm huyền
diệu; phải trường trai mới đặng linh-hồn tinh tấn; phải tập-tành chí Thánh,
Tiên, Phật mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh.
Kẻ phò cơ chấp bút cũng
như Tướng-Soái của Thầy để truyền Đạo cho thiên hạ. Các con đừng tưởng việc bút
cơ là việc tầm thường. Còn việc truyền thần lấy điển quang, thì ai ai cũng có
điển trong mình, nó tiếp điển ngoài rồi thần của nó viết ra, có khi trúng, có
khi trật.
Vậy khi nào chấp cơ phải đợi
lịnh Thầy rồi sẽ thi hành."
Ngoài ra Thầy còn nhắc nhở
thêm rằng:
“Hồi trước, còn ngu xuẩn,
kẻ phò cơ không đủ tinh thần như mấy con, vậy nên mỗi khi cầu Cơ, lấy làm khó
nhọc lắm.
Kẻ phò Cơ chấp bút cũng
như Tướng soái của Thầy để truyền Đạo cho thiên hạ. Nếu không phải là sứ mạng,
nghĩa là người nào không phải là mạng lịnh của Trời, thì không khi nào Trời
trao cả Bí-pháp cho tay phàm mà cầm đặng xử dụng.
Nếu chấp Cơ thì phải để ý
thanh bạch không đặng tưởng đến việc phàm.
Trung, Con ơi! Thầy đã chẳng
có xác phàm mà dìu dắt các con, chỉ nhờ ngọn Cơ Bút hèn hạ này mà dạy-dỗ các
con.
Cơ bút là một cơ quan Huyền-linh-pháp
nên vẫn là hư hư thiệt thiệt vì bất kỳ mọi sự chi mà có tánh phàm của con người
hùn vốn vào đó đều giả nhiều thiệt ít.
Chơn Thần cũng vậy, nếu nó
không hạp về việc Cơ Bút, mình vì ham mộ mà ép nó, bất đắc dĩ nó phải vâng
theo, thế thì làm sao cho có huyền diệu được?
- Thầy hằng nói cho các
con biết, việc Cơ Bút là việc tối trọng. Nếu không có Chơn linh quí trọng thì
thường có Tà quái xung nhập mà khuấy rối làm cho thất nhơn tâm”.
Đức Chí-Tôn “Khi Ngài đến
cầm cây linh bút đặng mở chơn truyền của Ngài, những kẻ phàm tâm kia lấy làm lạ-lùng
không có thể tưởng tượng đặng và không thể tin đặng.”
Đức Hộ-Pháp dặn rằng:
- Mấy con nên biết rằng: Nền
Đạo của Chí-Tôn là chung cho sự Tín-ngưỡng toàn nhân loại trên mặt Địa-cầu này
chớ chẳng riêng nước Việt-Nam hay mấy con”
- Các việc trong Cơ bút thống
hiệp cả sứ khó-khăn của Huyền-vi-cảnh với Hữu-hình-cảnh nữa. Vậy nên việc cơ
bút lấy làm tối trọng, dùng đến phải quan trọng. Nếu Cơ Bút viết ra câu văn xằng-xiệu
và dạy điều trái đạo lý, tốt hơn kẻ phò cơ nên dẹp đi cho khỏi điều quan hệ về
sau.
- Nhơn buổi văn minh, nhơn
loại thông đồng Càn khôn dĩ tận thức cho nên dùng Huyền diệu Cơ Bút giáng Cơ
khai Đại-Đạo, chủ nghĩa là độ 92 ức nguyên-nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa
hồng trần nên gọi là cơ quan Cứu thế.
“Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn
đến: Trước hết Ngài mở ra Cơ Bút dạy bằng Thánh giáo.
Nhưng khi chưa đến thì đã
có Đức Phật-Mẫu đến với chúng ta lập thành khuôn khổ một mực: dầu cho cơ quan
nào “Dĩ tiểu vi đại” cũng vậy. Bà Mẹ phàm chúng ta sản xuất nuôi dưỡng chúng ta
thế nào thì Phật-Mẫu cũng thế ấy” (15-8 Mậu-Tý – 1948)
2 - Buổi Đại-Đạo này là Cơ
tận độ:
Thầy dạy:
“Phần các con truyền Đạo kỳ
Phổ-độ nầy cũng lắm nặng nề; bao nhiêu Nam tức bao nhiêu Nữ; Nam biết thành
Tiên Phật, chớ Nữ lại không sao? Thầy đã nói Bạch-Ngọc Kinh có cả Nam và Nữ, mà
phần nhiều Nữ lấn quyền thế hơn Nam nhiều.” (Ngày 8-6 Bính-Dần. 17-7-1926)
Thánh ngôn có lời rằng:
“…Đã thọ mạng nơi thầy,
con đi đâu Thầy theo đó; Lời Đạo-Đức trong miệng con nói ra, ấy là lời của Thầy
bố-hóa tâm trí con đặng đi truyền Đạo; tùy cơ mà dạy kẻ; một mình con đâu đủ sức
mà phục người. Chẳng luận là Nam hay Nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết Đạo Lý
con phải độ, biểu chúng nó đến nghe Thầy dạy, mới có thế nó tu-hành đặng. Trước,
con không nên buộc chúng nó lắm.
Thầy nói một lần từ đây nhớ
lấy: dầu cho đá, sắt, cây cỏ mà nghe đến Thánh-Ngôn nơi Thầy mà con nói ra,
cũng hoan nghinh, huống lựa là người, con nhớ và an lòng." (Ngày 20
Février 1926)
“Ngày nay Đức Chí-Tôn đến,
Ngài không giáng thân như các lần trước, mà giáng linh bằng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT. Vì
lẽ đó Ngài phải lập Hội-Thánh để làm Thánh Thể cho Ngài.”
Thầy dạy:
"Thầy lại nhắc cho
các con hay rằng: Trong Thập-Nhị Thời-Quân, đâu đó đều có sắp đặt, nếu không phải
mấy đứa phò-loan của Thầy đã định thì các Thánh-ngôn do nơi khác mà ra đều là
không phải lời của Thầy nói. Con phải đề phòng cẩn thận, nghe à!
Thầy hằng nói cho các con
biết, việc CƠ BÚT là việc tối trọng, nếu không có Chơn-linh quí trọng thì thường
có Tà quái xung nhập mà khuấy rối làm cho thất nhơn tâm, lại còn một điều đáng
quan phòng nữa là trong mấy đứa phò-loan cũng có đứa không dè-dặt, tưởng CƠ BÚT
là việc khinh thường làm thế nào cũng đặng, rồi muốn lấy đó mà cầu hỏi những điều
vô vi, nên cũng có nhiều khi vì đó mà sanh biến trong Đạo.
Thầy nói cho các con hiểu
bậc Chơn Thánh mà phải đọa trần nếu không đủ tánh chất để dìu-dẫn nhơn sanh thì
cũng chưa xứng đáng cầm bút cho Thầy truyền Đạo. Các con nghe à!”
3 - Cơ bút dùng không đúng
thì cũng có hại:
Nhiều người thấy Đạo
Cao-Đài dùng Cơ Bút nói là Tu Tiên. Vì Cơ Bút do nơi Đạo Tiên mà ra chớ kỳ
trung Đạo Trời nay do Đức Thượng-Đế Cao-Đài sáng lập gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
dùng Huyền Diệu Cơ bút của Tiên gia. Tuy nhiên: Việc CƠ BÚT cũng có những trở
ngại, nếu không xử dụng đúng mức thì cũng có hại.
Đức Lý dạy rằng:
“Nếu Lão nói ra e cho chư
Hiền hữu phải kinh khủng sợ-sệt nên dặn rằng:
“Đạo vốn nơi CƠ BÚT mà
phát thành. Vậy Lão khuyên cẩn thận cho lắm. Đời với Đạo chẳng đồng, tuy biết
có Đời mới có Đạo, có Đạo mới nên Đời, nhưng Đời Đạo hằng nghịch lẫn. Vậy Lão tỉ
thí như trong bọn của chư Hiền-hữu muốn toan phản loạn, nắm Cơ viết đùa ra hay
là quỉ nhập, viết ra rằng: Thầy xúi giục chư Hiền-hữu làm giặc, thì Đạo phải thế
nào?
Trả lời:…?
Cười! Nếu nói dễ-dàng dường
ấy thì luận đến làm gì!…Như Lão chẳng vì lời Thầy dặn bảo thì Lão đã cấm Cơ Bút
rồi. Vậy Đạo chưa thành, Lão kỳ cho tới cuối tháng sáu năm tới thì cấm tuyệt Cơ
Bút. Còn nay dạy Đạo thì CƯ, TẮC phò. Đại đàn: Đức, Hậu, Mỹ Ngọc và Sang phò.
Còn kỳ dư dùng khai Tiểu đàn mà thôi, nghe à!” ( Đàn 17-12 Bính-Dần (Dl
15-1-1927)
Đức Lý, Ngài nói tiếp:
“Việc Cơ bút Hiền-hữu tuy
chưa rõ thấu Huyền diệu cho trọn mặc dầu, chớ kỳ trung cũng đã hiểu biết chút đỉnh,
chẳng phải ai cầm Cơ mà đều đặng huyền diệu hết.
Lão giải nghĩa: Có ba phẩm
Đồng-tử phò loan:
- Một là : Giáng tâm
- Hai là: Mê.
- Ba là: Giáng thủ.
Tây phương gọi là Intuitif, Semi
Intuitif et Automatique. Thầy đã cho Hiền-hữu chấp Cơ một đôi khi quả có huyền
diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân Hiền hữu nó lại choán lấy Thiên ý mà dịch
trật. Vì vậy mà Hiền-hữu phải nhiều phen thất chí”.
Ngay “Sau khi hành lễ Vọng
nhựt tại Báo-ân-từ trong năm Bính-Dần (1926) Đức Chí-Tôn xuống trần khai Đạo phổ
hóa chúng sanh làm lành lánh dữ, tức là Cơ-quan cứu thế.
Khi mà Đạo đã truyền-bá khắp
các Tỉnh rồi, qua đến ngày 15-6 Đinh-Mão (1927) Đức Lý Giáo-Tông cấm Cơ bút,
thì chư vị Chức sắc Đại Thiên-phong không hiểu tại sao, nhứt là Đức Quyền
Giáo-Tông có lòng sở mộ về Cơ bút, đã trải qua một thời gian vắng nghe lời
Thánh giáo, nên Đức Ngài định cầu Diêu-Trì Kim-Mẫu và Cửu vị Tiên-Nương đặng học
hỏi về vấn-đề đạo đức”.
Đức Hộ-Pháp cũng có nói:
“Chí-Tôn đã dạy rằng: phải
tùy phong hóa của các sắc dân sanh mà truyền giáo, thì người cũng tùy nhơn đạo
lập chơn truyền, bởi ta tham trọng thế lớn quyền, Thầy mới tạo ngôi Tiên vị Phật.
Đại-Từ-Phụ một hôm kia
than cùng Bần Đạo rằng: Thầy không phương nào đến cùng các con hơn là Cơ bút.
Thầy còn trụ tinh ba chơn-truyền của Ngũ chi Đại-Đạo mà làm cho chúng sanh hiểu
Đạo đặng dễ dàng, nên phải dụng Cơ Bút đặng giáo-hóa.
Hễ mọi điều chi có hữu ích
thì hữu hại. Sau này Thầy e-ngại cho Cơ bút sẽ hại cho nhơn sanh mê tín dị
đoan, cũng bởi vì ưa ham phẩm vị. Nào là thành Tiên, hiển Phật, nào là xưng
Thánh, hô Thần, xúi giục tánh ham gần mộng mị.
Lời tiên tri này ngày nay
kết quả”.
Bởi:
“Đức Chí-Tôn không tái kiếp
làm người. Ngài đến cả con cái của Ngài với một huyền diệu Cơ bút, thành thử
Ngài không nói mà chúng ta nghe, Ngài không hình mà chúng ta thấy” (30-3 Ất-Mùi)
Đạo Cao-Đài đang sử dụng
Cơ Bút là sự Huyền diệu. Cái tối ưu của Cơ bút đã cho thấy rõ là:
- Việc kiến trúc Tòa-Thánh
cũng do Cơ Bút.
- Lập thành Luật pháp Đại-Đạo
cũng là Cơ Bút
- Hệ thống tổ chức, lập
thành Hội-thánh ba Đài, nghi thức cúng kiến…nghĩa là tất cả đều do Cơ Bút chỉ vẽ.
Nhưng bất cứ điều gì khi
cái lợi càng cao thì sự hại càng to. Cơ bút đây cũng vậy, nó cũng rất có hại nếu
khi người ta lợi dụng mà làm ra giả mạo. Trước mắt đã cho thấy vì một số chức-sắc
tiền bối không chịu nghe lời Thầy mà cầu cơ chấp bút riêng, sự cầu riêng tư như
vậy điển lực của người vọng động theo cái tâm hám vọng, bất chánh nên bị dẫn dắt
bởi tà quái. Kết quả chi phái ra đời, tức là chống lại với Tòa-Thánh Tây-Ninh,
lập riêng pháp luật, bày đủ thứ như một hàng giả. Mãi đến ngày nay vẫn còn là một
điều họa hại cho nhơn sanh hứng chịu. Do đâu? Do vì không hiểu được chơn lý tuyệt
vời của Đức Thượng-Đế đến ban cho. Điều này Chí-Tôn đã chỉ rõ hằng ngày người
Tín hữu tụng đọc “Cửu Thập nhị tào chi mê muội”. Mê muội chính là đây, là không
tầm hiểu cho thấu chơn lý chánh truyền. Cái hại ấy như thế nào?
- Trước nhứt là phân phe
chia phái, bất đồng chánh kiến. Cùng là thờ Trời mà kẻ thì theo Tòa-Thánh, người
thì Hậu-giang, kẻ lại Minh Chơn-lý. Thật ra các bậc tiền bối thì chúng ta không
bàn, nhưng là Đạo-hữu chúng ta hãy nhận định kỹ: Đạo thì mênh-mông và không hình
sắc thì không có gì gọi là “Chỉnh Đạo” Duy nên chỉnh ở con người mà thôi!
- Kết quả tu có công mà
thành thì bất thành. Nếu thực sự cần nhiều phe phái như vậy thì tốt hơn Đức
Chí-Tôn giữ nguyên Tam giáo Ngũ chi như từ trước đến giờ có phải khỏi mất công
Thầy dìu dẫn hay không? Cũng là tiện bề cho Thầy khỏi phải giáng phàm lập Đạo.
- Nhưng Chí-Tôn không phải
là không có cách trừ cái nạn chia phe phân phái, nhưng nếu nhân sanh biết tìm nẻo
chánh mà học Đạo, tìm Đạo chánh mà tu, Tìm lý đạo siêu mầu mà học hỏi để không
uổng một kiếp sanh gặp Đạo Thầy mà đường tu bị nghẽn lối! Điều ấy nghĩ thật vô
phước hơn là người chưa biết Đạo!
Nhưng Thầy cũng đã dạy:
(TNII/48)
… “Các con đã từng nghe lời
Thầy khuyên nhủ về chuyện ngừa Cơ bút, thế mà một phần chẳng chịu sửa cải đường
ngay cho khỏi lâm vào nẻo Tà-mị đã vi-lịnh Thầy mà dìu-dắt các con lạc bước. Thầy
cũng đại lụy mà ngó xem một phần Môn-đệ xứng đáng của Thầy phải sa vào vực thẵm.
Các con nên ghi nhớ mà coi chừng đường lối sau này.
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét