Theo bà Hương Hiếu (Đạo Sử, Quyển I, tr.38), vì ông
Bản muốn xin lập đàn cơ, Đức Cao Đài trả lời như vậy, ngụ ý ơn Trời cho ai thì
mới được hưởng.
14 - Ông LÊ VĂN GIẢNG
(1883-1932)
Đêm giao thừa năm Bính-Dần
(dl: 12-02-1926)
Đức Chí Tôn cũng giáng cơ cho ông một bài tứ tuyệt.
Khi đoàn người Môn đệ Đức Chí-Tôn đến thăm từng nhà của nhau. Mỗi nơi đến đều có thiết đàn thỉnh Đức Chí-Tôn giáng dạy và mỗi người được một bài thi.
Khi đoàn người Môn đệ Đức Chí-Tôn đến thăm từng nhà của nhau. Mỗi nơi đến đều có thiết đàn thỉnh Đức Chí-Tôn giáng dạy và mỗi người được một bài thi.
Bài thi cho ông Lê văn Giảng:
Trần tục là nơi chỗ biển
buồn,
Nghe nơi Đại Đạo ráng nghe
luôn.
Ở trong nhà sẵn Thầy đưa
khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy
tuôn.
(Đức Chí-Tôn)
1 - Phần đời: Thư ký hãng Hippolito:
Lê Văn Giảng sinh năm 1883, người gốc Phong Thới, Vũng Liêm (Vĩnh long).
Con thứ 7 của ông Lê văn Thoại và Bà Võ thị Lương. Ông lập gia đình với Bà Huỳnh
Thị Chính (1886-1973). Ông Bà có 7 người con: Lê văn Như, Lê thị Ba, (mất sớm),
Lê văn
Năm, Lê văn
Sáu, Lê văn Triệu, Lê văn Sạc.
Ngày họp mặt khai tịch Đạo, ông Bà cùng vài người con đồng tham dự. Năm
1926, ông Lê văn Giảng làm thư ký hãng Hippolito (chuyên bán và sửa xe hơi, đường
Espagne).
2 - Phần Đạo: Thượng Giáo Sư:
Ông nhập môn vào Đạo Cao-Đài một thời gian ngắn thì ông nghỉ việc, chuyên
lo hành Đạo. Để lo việc mưu sinh cho gia đình ông lập một nhà máy xay lúa nơi
quê nhà. Tại Sài-Gòn, ông cư ngụ số 85 La Grandière (nay là Lý Tự Trọng) và
công quả tại Thánh Thất Cầu Kho
Ngày 14-5-Bính Dần ông thọ phong Lễ sanh.
Ngày 23-6-1926 ông được thăng lên Giáo Hữu, rồi thăng lên Giáo Sư phái Thượng.
Ông có nhiều công trong việc xướng lễ buổi đầu.
Khoảng năm 1930, cơ Đạo qua nhiều thử thách, sức khoẻ không tốt, ông Lê văn
Giảng trở về Vũng Liêm, hành Đạo tại Ngọc Hoàng Điện (là Thánh Thất do Bà Hương
Thanh lập ra, sau này là Thánh Thất Vũng Liêm)
Trong "Tờ khai tịch đạo" 28 người đứng tên xin khai đạo, ông Lê
Văn Giảng, thơ ký kế toán, Sài Gòn, đứng hàng thứ 14. Rất tiếc, khi cơ đạo chuyển
về chùa mới thuộc đất Long Thành, ông bỏ dở không tiếp tục hành Đạo. Dù vậy, Đức
Chí Tôn vẫn hộ trì ông "Ách nạn chi chi cũng chảy tuôn". Mới hay, đường
Đạo gập gềnh khó tới, kẻ thiếu đức tin vô đối thường bỏ dở giữa đường. Ô hô !
biết bao người tu như vậy.
Năm 1932, thì ông rời bỏ Toà Thánh và qua Minh Chơn Lý. Ông Lê văn Giảng liễu
Đạo tại quê nhà ngày 16-3 Nhâm Thân (1932) an táng tại Quán An Nhơn, Trung Tín
Vũng Liêm.
15 - Ông HUỲNH-VĂN GIỎI
(1880-1954)
Thông-phán Sở Tân Đáo
Sài-gòn
Ông Huỳnh văn Giỏi con của ông bà Huỳnh văn Ngôn và nguyễn Thị Được, người
gốc Giồng Luông, Thạnh Phú, Bến Tre. Ông có vợ là bà Phạm Thị Thêu (1881-1953)
Ông bà có 8 người con (6 trai, 2 gái). Thuở nhỏ ông theo Nho học ở Bến Tre, tiếp
đến lên Sài gòn học Ecole Normale d’Instituteurs. Ra trường ông làm việc tại sở
Tân Đáo. Thời gian này ông cư ngụ gần bên nhà của ông Cao Quỳnh Cư (đường
Bourdais nay là đường Calmette) nên biết Đạo sớm.
Ngày 14-5-Bính Dần thọ phong Lễ Sanh, đến 23-8-Bính Dần ông được thăng lên
Giáo-Hữu tại nhà ông Nguyễn văn Tường.
Lúc hưu trí ông rời Toà Thánh, trở về Bến Tre hành đạo tại Thánh Thất An Hội.
Ông qui vị ngày 20-7-Giáp Ngọ (1954) an táng trên đất của gia đình phía sau nhà
(103D Nguyễn văn Tư, thị xã Bến Tre)
16 - Ông NGUYỄN-VĂN-TƯỜNG (1887-1939)
Thông-phán Sở Tuần cảnh
Sai-Gòn
Thánh danh Thượng Tường
Thanh
Ông Nguyễn văn Tường sinh năm 1887 tại Xã Lương Hoà Lạc, Mỹ-Tho. Con của Cụ
Nguyễn văn Tịnh và bà Võ thị Quyên (1867-1934). Cha mất trước khi Ngài chào đời một tháng.
Không bao lâu, người mẹ được đưa lên sống với người Cậu thứ tư (đang là công chức),
Ông được người Cậu làm giám hộ lo cho đi học. Lúc trưởng thành, ông Tường vào
ngành Cảnh sát, làm Thông ngôn tại bót Chaigneau (đường Yersin, quận I). Từ khi
đi học đến đi làm ông đều lấy theo họ Võ của mẹ và Cậu, nhưng vẫn dùng họ Nguyễn
trong việc tế tự (Các con Ngài cũng vậy).
Ngài Nguyễn văn Tường lập gia đình với bà Đặng thị Kề (1888-1943). Ông bà
có hai người con là Nguyễn văn Trị (1910-1984) và Nguyễn thị Phẩm (1912-1947).
Thời gian đầu gia đình Ngài còn tạm trú tại Sở làm (bót Chaigneau). Đến khoảng
năm 1921, Ngài mới mua được mảnh đất trong hẽm đường Galliéni (nay là Trần Hưng
Đạo) làm nhà riêng.
Ngài Nguyễn văn Tường nhập môn vào Đạo Cao Đài ngày 14-5-Bính Dần, thọ
Thiên phong Lễ Sanh phái Thượng. Đến 26-10-Bính Dần, thăng phẩm Giáo Hữu. Ngài
tổ chức họp Khai Tịch Đạo ngày 23-8-Bính Dần chính tại nhà Ngài. Cả gia đình
năm người đều có mặt. Từ đó về sau nơi
đây đều tổ chức lễ kỹ niệm Khai Tịch Đạo.
Ngày Lễ kỹ niệm Ngài Thượng Trung Nhựt nhắc lại:
“Đấng Chí-Tôn giáng kêu Tôi, dạy phải
lo cho Môn Đệ của Thầy tối 23-8 tựu tại nhà Đạo hữu Tường đây. Tôi vâng mạng,
cho chư Đạo hữu hay lời Thánh truyền. Tới bữa 23 tháng 8 năm Bính Dần, là ngày
29 Septembre 1926, chư Đạo hữu tựu tại đây. Đấng Chí-Tôn giáng dạy Tôi phải biên tên hết nam nữ lưỡng phái đặng
đứng TỜ KHAI ĐẠO cho Chánh phủ. Khi ấy đã có mặt nơi đàn hết thảy 247 vị Đạo hữu.
Ấy là sự tích ngày kỹ niệm hôm nay
Ngài Nguyễn văn Tường vẫn thường xuyên hành Đạo tại Thánh Thất Cầu Kho,
tách rời khỏi Toà Thánh Tây Ninh bởi qua nhiều cuộc biến chuyển. Ngài qui lúc
18 giờ ngày 26-9-Kỷ Mão (dl: 7-11-1939) an táng nơi Gò Xoài (Trường Thọ- Xã Phước
Long Thủ Đức)
17 - Ông CAO-QUỲNH-CƯ
(1887-1929)
Thánh danh Thượng phẩm
Cao-Quỳnh-Cư
Đêm giao thừa năm Bính Dần (dl: 12-02-1926) đoàn người Môn đệ của Đức Chí-Tôn đến thăm từng
nhà của nhau. Mỗi nơi đến có thiết đàn thỉnh Đức Chí-Tôn.
Bài thơ Đức Chí-Tôn cho Ông Cao Quỳnh
Cư:
Sắp út thương hơn cũng thế
thường,
Cái yêu cái dại mới là thương,
Thương không nghiêm trị là
thương dối
Dối dạ vì chưng yếu dạ
thương.
Cư, Tắc, Sang! Trong năm mới này Thầy trông mong ba con rõ thấu đạo đức hơn
nữa, gắng chí nghe!
KHỔ TÂM HÀNH ÐẠO CỦA ÐỨC THƯỢNG PHẨM
“Kể từ Rằm tháng 10 Bính Dần (1926)
tới Rằm tháng Giêng Ðinh Mão (1927) là đúng kỳ hứa trả chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén)
là ba tháng, nhưng tới tháng hai năm Ðinh Mão, đã quá hạn kỳ một tháng mà Hội
Thánh chưa trả chùa lại được, vì chưa kiếm được đất để mua, còn ông Hoà Thượng
Giác Hải thì cứ đòi chùa lại hoài. Vì sự đòi chùa ấy nên Ðức Lý Giáo Tông giáng
dạy quí ông Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài đi kiếm đất mua đặng dời chùa.
Ðức Lý dạy: “Mai này chư Hiền Hữu lên đường trên gọi là ường dây thép (là
đường từ Mít Một chạy tới cửa Hòa Viện bây giờ) nhắm địa thế dài theo cho tới
ngã ba Ao Hồ, coi Hiền Hữu có thấy đặng chăng cho biết. Lão đã nói rằng mỗi sự
chi chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết".
Qua ngày sau, quí ông đi tìm đất. Ông Thái Thơ Thanh cho mượn một chiếc xe,
Bà Nữ Ðầu Sư Lâm Hương Thanh cho mượn một chiếc.
Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng ngồi trên hai chiếc xe hơi, có Ðức Hộ Pháp,
Ðức Thượng Phẩm, Anh Thượng Trung Nhựt, Anh Thái Thơ Thanh, Anh Thượng Tương
Thanh, Anh Ngọc Trang Thanh.
Khi xe chạy tới Cửa số hai, hồi trước còn rừng rậm cạnh góc ngã ba có cây vừng,
Ðức Cao Thượng Phẩm ngó thấy nơi cây vừng có tấm bảng treo đề tên Cao Văn Ðiện.
Ông nầy là bạn học của Ðức Thượng Phẩm hồi thuở nhỏ.
Trong lúc bối rối kiếm đất không được, bất ngờ thấy tên bạn mình đứng tên
trên miếng đất nầy nên Ðức Cao Thượng Phẩm nói với Hội Thánh rằng: Ðể tôi đi
tìm ông Cao Văn Ðiện nhờ bạn tôi điềm chỉ giùm chủ đất nầy. Ông chủ đất nầy là
ông Kiểm lâm người Pháp tên Aspar. Tối lại quí ông cầu Ðức Lý về dạy coi Hội
Thánh đi kiếm đất như vậy có trúng không. Ðức Lý giáng dạy như vầy:
"Lão khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa ! Tưởng chư Hiền Hữu không thấy nữa.
Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Ðịa. Sâu hơn ba trăm thước như con
sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa sáu nguồn làm như 6 con Rồng đoanh
nhau. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay miếng đất
đó đặng ba đầu; một đầu ra Giếng Mạch Ao Hồ; hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia.
Người Lang Sa chỉ đòi có hai mươi lăm ngàn đồng".
Khi phá đám rừng nầy thì Ðàn Thổ (*1) xuống cả ngàn người để phá rừng, làm
cho ông Chánh Tham Biện người Pháp nghi-ngờ mời Ðức Cao Thượng Phẩm ra Tòa Bố.
Ông hỏi Thượng-Phẩm chớ làm cái gì mà đông đảo như vậy. Ðức Thượng-Phẩm trả lời
rằng: Tôi mua miếng đất đó đặng trồng cao su. Ông Tham Biện hỏi trồng mấy mẫu ?
Ðức Thượng Phẩm trả lời: Tôi trồng hết sở đất tôi mua, phá tới đâu tôi trồng tới
đó, nên ngày nay trong Nội Ô có cây cao su là do nơi đó.
Khổ tâm hơn hết là Ðức Thượng-Phẩm bị người Pháp cật vấn đủ điều cho đến đỗi
tới giờ cúng cũng không vô Chánh Ðiện cúng được, buộc phải rào song ly ngăn lại.
Trong Chánh Ðiện chỉ có một mình ông Lễ Sanh Thượng Xường Thanh cúng mà thôi,
còn ở ngoài thì vài ba ông thợ mộc quì trên dăm bào lạy vô Bửu Ðiện; vì lúc nầy
Chánh Phủ Pháp nghi ngờ bắt Ðạo và bó buộc không cho tụ họp đông, như vậy mà
ông Tham Biện người Pháp còn mời Ðức Thượng Phẩm ra Tòa Bố ngày một.”
GIAI ÐOẠN DI CỐT PHẬT TỔ
Cốt Phật Tổ vì nặng quá, bởi con ngựa Kiền Trắc của Ðức Phật Tổ cỡi lớn và
dài nên Ðức Thượng Phẩm phải kết hai chiếc xe bò lại để thỉnh cốt Phật lên.
Trong lúc sửa soạn thỉnh cốt Phật thì
ông Chánh Tham Biện người Pháp
cho một toán lính mặc đồ thâm (đen) núp dưới đường mương, ngoài chong súng lên
đặng bắn Ðức Thượng Phẩm.Tới chừng thấy rõ là thỉnh cốt Phật mới rút lui. Hội
Thánh từ từ di cốt Phật về đất mới mua.
Ðức Thượng Phẩm đứng trên xe bò vịn Ðức Phật Tổ, thấy nghiêng bên nào thì
hô lên để sửa lại ngay; đi từ 6 giờ chiều tới 2 giờ khuya mới đến Thánh Ðịa
(ngay cửa Hòa Viện bây giờ). Trước cửa Hòa Viện có cây vên vên, đến đây di cốt
Phật Tổ vào không được vì bị một cái đường mương lớn quá; Ðức Thượng Phẩm phải
lập kế kiếm ván đặng lót xe vô mới được. Khi xe qua đường mương rồi thì tạm để
cốt Phật Tổ nơi đây, vì Ðức Thượng Phẩm mệt đuối, nhào xuống đống lá khô trong
rừng nằm nghỉ; tất cả Chức Sắc cũng nằm xuống đó nghỉ theo.
Xin nhắc lại khi mua đất nầy thì chưa tạo được cái nhà nào hết, chỉ có cái
nhà bò của ông Aspar bán đất để lại (dãy nhà chỗ chợ Từ Bi, gần nhà Ðức Quyền
Giáo Tông bây giờ) nhờ đó mà tạm dùng nhà bò nầy để làm trù phòng cho công quả
ăn phá rừng, nên khi Ðức Cao Thượng Phẩm thỉnh cốt Phật về tới đây mệt lả thì
Bà Chánh Phối Sư Hương Hiếu đã chuẩn bị nấu cháo sẵn rồi. Nữ phái khiêng cháo
và nước qua cụm rừng để ăn cho đỡ dạ.
Nền Phật Tổ đã được Ðức Thượng Phẩm an vị giữa hai cụm rừng gần cây ba
nhánh.
Lúc bấy giờ, Ðạo phải trải qua nhiều lối chông gai, nhiều đường khổ hạnh,
nhưng người chủ trương việc Ðạo nhứt là ông Cao Quỳnh Cư đem hết dạ nhiệt
thành, hết bầu tâm huyết mà sắp đặt trật tự bên trong và chống trả với phản động
lực bên ngoài (thời Pháp thuộc).
Ðức Cao Thượng Phẩm vâng lịnh Ðức Chí Tôn phá rừng xong, xây cất Tòa Thánh
tạm, Hậu Ðiện, Ðông Lang, Tây Lang, Trường Học, Trù Phòng (đều bằng tranh) và
đào giếng (mà hiện giờ còn di tích mấy cái giếng gần Tòa Nội Chánh đó).
Thảm thay! Trời
đương thanh,
Biển đương lặng,
Gió đương êm.
Bỗng đâu đất bằng sóng dậy, nước lã khuấy nên hồ đem đến
gieo ác cảm cho Ðức Thượng Phẩm, làm cho Ðức Ngài phải về Thảo Xá Hiền Cung. Ðức Ngài quá buồn,
vì vâng lịnh Ðức Chí Tôn về Tây Ninh mở Ðạo, Ngài phải bỏ sở làm chưa hưu trí, con còn đang du học tại
Paris (Pháp). Nhớ lại lúc bỏ sở làm thì anh em bạn nói :
- Thầy Tư, sao Thầy quá tin dị
đoan; con còn đang học bên Pháp mà Thầy
đi như vậy thì việc học của con phải dở dang sao ? Nhưng Ngài nhứt quyết nghe lời Ðức Chí Tôn dạy mà
thôi, nên Ngài thu xếp gia đình, bỏ sở làm về Tây Ninh lo Ðạo, chịu biết bao
nhiêu cảnh gian nguy vì xưa đến đây đầy những bụi
cây, thú dữ phải ăn vác nằm sương mới tạo thành Tòa Thánh tạm và xây cất đủ mọi nơi thành khoảnh thì lại bị thiên hạ đuổi đi
!
Ðức Ngài về Thảo Xá, vì buồn rầu, vì xấu hổ với anh em
bạn, mặt mũi nào trở về sở làm được nữa, thế nên Ngài thất chí, ước nguyện của Ngài không thành.
Vì khi ra đi Ngài quyết chí đem thân này làm con tế vật cho Ðức Chí Tôn sai
khiến, nhưng cơ đời rất nên cay nghiệt, xảy đến nhiều nỗi tang thương cho gia
đình Ngài. Ðức Ngài quá đau khổ có làm một bài thi tự thán như vầy:
THI
Công trình gầy dựng Thất
Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập
rình.
Tà mị phàm rung rinh chất
Thánh,
Mùa màng sâu phá hoại hồn
kinh.
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai
vãng,
Nay Bửu Ðình hiu quạnh lụy
nhìn.
Thương Ðạo mến Thầy xin sớm
liệu,
Cộng tâm chung trí chớ
làm thinh.
THẤT NƯƠNG
Cho Ðức Thượng Phẩm một bài thi như dưới đây:
Nghĩ giận mà ra bắt nực cười,
Nhờ ai an vị lại an nơi.
Trăm năm chưa giữ bền thân
sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời.
Phẩm Phật ngôi Tiên ai dẫn
nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan
dời.
Nhắn lời nói với phường
đen bạc,
Ðến cửa Thiêng liêng ngó mặt
Trời.
Ðức Chí Tôn dạy Phép Tuyệt Thực trị bệnh cho Ðức Cao Thượng Phẩm.
Năm Mậu Thìn (1928) Ðức Chí Tôn dạy Phép tuyệt thực trị bệnh cho Ðức Cao
Thượng Phẩm.
Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm
THẦY
Các con, Hiếu ! Con ra kêu Nhiều.
Cư! Con có hiểu chưa con? Cư con giải bày Thánh ngôn trước phải, nếu con
không rét thì có yếu như vậy đâu. Ừ, con rán nhịn cơm chừng ba bốn bữa nữa đặng
Thầy dùng Huyền-diệu-pháp mà trị bịnh cho con thiệt mạnh, lần nầy từ đây mới dứt
bịnh (1) miễn đừng ăn món chi nó phạt tỳ thôi.
Thầy dạy nối phép tuyệt thực.
Cơ khí của châu thân, nhờ tỳ bổ vật
chất thực, còn phổi bổ huyền vi
thực, hễ tỳ hưởng nhiều vật chất thực thì còn ít phần cho phổi hưởng huyền vi vật
thực, thì phần tinh ba của vật chất mà châu thân hưởng đặng gìn giữ sự sống đều
định có phân tách.
Ít cũng không đặng, trong hình vật chất thực có tinh ba đặng bao nhiêu, còn
lại bao nhiêu huyền vi vật thực cho đủ số đặng hưởng của châu thân con người có
chất Thánh gìn giữ thường ngày bền vững
đặng.
Thầy trước khi ngưng phận sự, thì Thầy dạy phổi phải thọ vật thực hình chất.
Thầy lại ngưng không cho nó hao mòn nữa, nên ngày nào tuyệt thực thì ngũ tạng lục
phủ giữ nguyên mỡ thịt nó. Hễ buổi tuyệt thực mà xác thân ốm phải chịu ốm, thì
như mập cũng tự nhiên mập; ấy là đổi cơ thể hình chất tức là phàm chất ra Thánh
chất.”
(Trích Đạo Sử của Bà Hương Hiếu. Q.I
năm 1928)
Ấy là Ðức Cao Thượng Phẩm đau bao tử, Thầy dùng Huyền-diệu-pháp đặng trị bịnh
cho Ngài. Mới thấy cái thâm tình của ông Cha Trời để hết lòng mà lo cho những
người con chí hiếu. Thầy lại còn dặn dò:
THẦY
Các con, Thơ, con dìu dắt em Cư của con xuống nhà con đặng dưỡng bịnh, tìm
chánh y, phục dược cho nó, chẳng đặng rước danh y khác sắc da với các con nghe.
Bịnh nó là tâm bịnh, nhờ các con lai vãng, khuyên lơn nhiều hơn là nhờ
phương chước, nhọc cũng rán làm trọn theo nhơn tình cho được trọn niềm Ðạo Hữu
với nhau. Thầy phú thác việc ấy cho con phải gắng dạ, Hiệp Thiên Ðài các con phải
trải qua một lối buồn nữa, nhưng gắng tưởng Thầy và thương yêu nhau thì qua khỏi
lối khó khăn đặng, nên nhớ nghe.!
Trung! Trang! Hồn Ðạo chưa qui tựu, xác Ðạo còn phân vân khá lấy đức tánh
mà điều đình việc Ðạo trong lúc nầy. Ngưng sự phổ độ lại mà chờ cho Lễ Nhạc bàn
tính sắp đặt cho yên. Thầy cũng phải khổ tâm mà chịu
Phải chăng đây là lời Thầy đã tiên tri giờ phút qui Thiên của Đức Cao-Thượng-phẩm
rằng:“Hiệp Thiên Ðài các con phải trải qua một lối buồn nữa…”
Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm
THẦY
Các con, Cười ... Cư! Con có sợ không con, cười. Phải con có bệnh vậy đặng trừ bớt thử của chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị cho mỗi đứa.
Than ôi! Trong phần đông của các con nếu đặng mảy mún hồng phước như con vậy
thì Thầy chưa phải thương tâm đổ lụy, chúng nó có hiểu thấu đâu.
Nhiều đứa đã bị Thái Bạch dĩ sổ bôi tên nơi chốn Thiên-Thơ mà Thầy không
phương chi giải cứu cho đặng; phải chi Thầy không sợ mất phép công bình thưởng
phạt thiêng liêng dầu cho chúng nó phải chết đi nữa Thầy cũng mừng thầm, song
chẳng đặng vậy, con coi cái bịnh con đó, nó ra giá quí báu cho con dường nào.!
Thầy thấy con bịnh phổi và bao tử, nên cho Huyền diệu-pháp cho con khỏi ăn
đôi lúc cho thiệt mạnh. Hai cơ khí ấy vốn là hình chất nên khó lấy Huyền-diệu
mà trị nó theo lẽ thường. Thầy buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng huờn
nguyên, con hiểu.?
Ðọc lại con Hiếu.
Cư, Tắc ! Hai con muốn Thầy giải phép tiếp dưỡng Huyền-diệu ấy thế nào
chăng?
Cười ... giải nghĩa biết chăng?
Không ăn mà sống ... hỏi ? Con ngu lắm há,
nghe!
Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng, mà không khí ấy chứa đầy vật
chất tiếp dưỡng "Matières Nutritives" của xác trần, vì nhờ nó biến
hóa chúng sanh đặng. Thầy nói chúng sanh là nói toàn cả vật loại hữu sanh:
nghĩa là vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, vật loại hữu sanh, thú cầm hữu
sanh, nhơn kiếp hữu sanh, hiểu à.? Vật chất phải tiêu, mà khí phách vẫn còn, tỷ
như đá núi có thể xay tiêu ra bột làm ciment mà khí phách đá cũng còn giữ tánh
cứng của nó; trộn nước cho đóng khối lại thì nó trở lại huờn đá như thường mà
cái mùi đá cũng giữ mùi đá. Thảo mộc dầu phải chặt rả ra thì khí phách cũng vậy.
Con tưởng xác chôn rồi trong xác ấy cho huờn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng
không khí chăng?
Ðọc con Hiếu.
Không khí "Air respiratoire" chứa đầy khí phách tiếp dưỡng mà
nuôi nấng lại chúng sanh, nếu các con thấy đặng thì chẳng khác nào ly nước lạnh
mà đổ đường vào trong đó có màu lợn cợn. Sự nuôi nấng chúng sanh thì chẳng chi
hơn là nước đường, tuy vân không thấy đường mà uống rõ ràng có ra mùi ngọt.
Ðọc con Hiếu.
“Cái khí con hớp hằng ngày ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy, Thầy chỉ có sửa
cơ khí phàm các con, nhứt là bao tử cho nó có Huyền-diệu-pháp mà tiếp cho đặng
cái khí phách mà làm vật thực nuôi nấng lấy mình; vì vậy nhiều đứa phàm xác vẫn
còn mà đắc Ðạo tại thế, tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào.
Ðọc con Hiếu.
“Coi rồi kiếm hiểu, nói lại cho Thầy
nghe rồi Thầy mới dạy nữa.”
TÌNH TRẠNG ÐỨC CAO THƯỢNG
PHẨM
Ðức Cao Thượng Phẩm từ ngày về Thảo Xá Hiền Cung xem Ngài hình thể hao mòn,
sức yếu
thân gầy, sắc diện âu sầu buồn bã.
Sự nhận thức có lẽ Ngài thọ bịnh thất chí, vì hành Ðạo không được y theo sở
nguyện trong nền Ðạo buổi sơ khai lo truyền giáo phổ độ nhơn sanh, mà Ngài lại
an ổn tại tư gia, nên Ngài bực tức, vì Ðạo vì Thầy mà bị họ ngăn trở bước đường hành Ðạo.
Thiết tưởng những người có đủ đức tin nơi Chí Tôn thì dầu có sản nghiệp triệu
phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được, huống chi Ðức Thượng Phẩm là
Môn Ðệ trọn lòng tin tưởng nơi Ðức Chí-Tôn và Ðức Phật-Mẫu ngay từ buổi đầu
tiên..
Khi Ðức Chí Tôn giáng trần khai Ðạo, giáng huyền
diệu Cơ Bút thâu Môn Ðệ dạy thờ Thiên-Nhãn trước hết cũng tại nhà của Ngài,
nên lòng thành kính Ðạo thật là đầy đủ. Các Ðấng Thiêng liêng giáng cơ dạy Ðạo,
thì Ðức Thượng Phẩm cùng Ðức Hộ Pháp phò loan, hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều
hơn hết.
Ðức Thượng Phẩm là người cương quyết thi hành trọn Ðạo phế Ðời, thu xếp gia
đình nghỉ làm việc Cò Mi, không màng danh lợi, trọn tin theo lời Thánh giáo của
Chí Tôn về ở chùa Gò Kén thường xuyên hành Ðạo. Khi dời về Tòa-Thánh thì Ngài
cũng trọn tâm lo xây dựng cơ nghiệp Ðạo.
Ðến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc lòng lui về tư gia, thì
dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh, lương y
khó phương điều trị cho lành mạnh. Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài, Cửu Trùng Ðài lo cuộc
lễ tiếp rước Ðức Thượng Phẩm về Tòa Thánh và tạo lập Tịnh Thất cho Thượng Phẩm
nhập tịnh. Cả Chức Sắc Hội Thánh đồng tâm tuân lịnh Ðức Chí Tôn tức cấp lo tạo
Tịnh Thất tại nơi cụm rừng (chỗ Báo Ân Từ hiện nay).
Ngày 15 tháng 10 năm Mậu-Thìn (1928):
Bảy giờ sáng một đoàn xe hơi Chức Sắc Ðại Thiên Phong Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài
đến Thảo Xá Hiền Cung rước Ðức Thượng Phẩm, thì Ngài cũng vui lòng lên xe về
Tòa Thánh nhập Tịnh Thất. Hội Thánh có chọn Chức Sắc phụng sự mọi việc thường
thức cho Ngài.
Ðức Thượng Phẩm nhập Tịnh Thất một thời gian, bịnh tình cũng chưa thuyên giảm,
hằng ngày kém ăn thiếu ngủ, Thánh Thể xem đã gầy mòn.
Ngày 26 tháng Chạp năm Mậu-Thìn (1928)
Ngài tỏ với người bạn thân là Bà Giáo Sư Hương Hiếu lo sắp đặt 6 giờ chiều
trở về Thảo-Xá, Ngài
không cho Chức Sắc hay trước.
6 giờ chiều, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa lót nệm để Ngài nằm,
đi theo xe hộ vệ chỉ có người bạn thân của Ngài và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh,
đưa Ngài về Thảo Xá.
7 giờ rưỡi, tới nơi đỡ vào phòng nghỉ ngơi, xem được khỏe như lúc mới lên
xe. Từ đây, ở yên nơi Thảo Xá.
Ngày 01-03-Kỷ Tỵ (dl: 10-04-1929) Ðức Thượng Phẩm Ðăng Tiên.
ÐỨC THƯỢNG PHẨM ÐĂNG TIÊN
Ngày 01 tháng 03 Kỷ Tỵ
(1929)
11 giờ trưa, Ðức Thượng Phẩm cho mời Ðức Hộ Pháp cùng ông Bảo Văn Pháp
Quân, bà Giáo Sư Hương Hiếu, Giáo Hữu Thượng Trí Thanh, Giáo Hữu Thượng Kỳ
Thanh, Lễ Sanh Thượng Nguơn Thanh.
Ðức Thượng Phẩm nhìn Ðức Hộ Pháp trối rằng: “Nay Qua về chầu Ðức Chí Tôn,
em ở lại hiệp với Chức Sắc chung lo nền Ðạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.
Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như còn.”
Nói rồi tuôn hai hàng nước mắt, kế day qua nói với bạn thân của Ngài căn dặn
để trọn tâm lo tròn phận sự; nói dứt lời thì Ngài xuất linh hồn êm ái, gương mặt
cũng như người đương ngủ. Có một điều phi thường là lời trối Ngài nói có hàng,
có chấm, cũng như lúc mạnh khỏe. Cả Chức Sắc có mặt đều cảm động ngùi ngùi
thương tiếc.
Khi Ngài dứt hơi thì đỡ ngồi dậy thúc xác ngồi kiết tường, trước mặt lập
bàn hương án chưng bông hoa trà quả. Ðức Hộ Pháp ra kiểu cho thợ mộc đóng Liên
Ðài hình Bát Quái; thời Tý 12 giờ đại liệm, rồi thành phục tế lễ theo nghi tiết.
Hội Thánh thông tri cho toàn Ðạo các tỉnh đều hay đặng hành lễ cầu nguyện cho Ðức
Thượng Phẩm được tiêu diêu nơi miền Tiên cảnh.
Quàn tại Thảo Xá ba ngày, Chức Sắc và Ðạo Hữu nam nữ điếu tế rất đông. Chức
Sắc Hiệp Thiên Ðài cầu Cơ Bút, Ðức Thượng Phẩm giáng Cơ tỏ vẻ vui mừng, được về
bái mạng Ðức Chí Tôn cùng Phật Mẫu nơi Bạch Ngọc Kinh và Diêu Trì Cung, đều ban
ơn công nghiệp buổi khai Ðạo tròn sứ mạng, Ngài tiếp cho một bài thi tứ tuyệt:
THI
CAO thanh miệng thế mặc chê khen,
THƯỢNG trí màng chi tiếng thấp hèn.
PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường
quen.
Ngài tỏ vẻ vui mừng nay đã thoát khỏi biển trần, về cảnh Thiêng Liêng Hằng
Sống.
Thợ hồ lo xây Tháp cho Ngài, có gắn cẩm thạch mạ chữ vàng nơi Bửu Tháp Bát
Giác; sau lưng có khắc bài kỹ niệm để tỏ dấu cảm hoài và roi truyền hậu thế.
Sau đấy, Ðức Cao Thượng Phẩm có giáng cho hai bài thi khi di Liên Ðài ra Bửu
Tháp:
Xủ áo trần hoàn đã rảnh
tay,
Thung dung nhờ núp bóng
Cao Ðài.
Rừng tòng nhựt rọi khi
mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh
say.
Phi thị mặc đời nơi
quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách
Thiên Thai.
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh
chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một
ngày.
* * *
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn
tràng,
Cõi Thiên mừng đặng dứt
giây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá
vàng.
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt
nguyệt,
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang
san.
Bốn mươi hai tuổi sanh
chưa phỉ,
Ðể mắt xanh coi nước khải
hoàn.
(Cao Thượng Phẩm)
Thầy đã nói rõ rằng:
Thượng Phẩm phải về Thầy trước
Tòa Thánh Tây Ninh, Le 16 Avril 1929
Ngày 7 tháng 3 Kỷ
Tỵ (giờ Tý)
THẦY
Các con, Mỹ Ngọc!
Kêu mấy anh con, kêu Nữ phái vì chúng nó vái ở dưới tội nghiệp.
Thầy đã nói rõ rằng: Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con nhưng mà hại
thay ! Vì biếng nhác các con không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.
Tắc! Con có nhớ Thầy nói với các
con rằng: Ðạo vốn vô vi, nếu Thượng
Phẩm không trở lại Thiêng Liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa
Thiên giùm đó con, lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh thay mặt
cho Thầy nơi thế nầy về phần Ðời còn phần Ðạo cũng có đôi đứa con mới đặng cho,
cười.... Con đừng phiền mà trách mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng: Chúng nó
giết Thượng Phẩm nghe, vì Thiên cơ đã định các con biết chi mà hờn trách lẫn
nhau.
Thơ! Con phải xây cái Tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải
day mặt về Ðông, giống như ngó vào Ðiện mà hầu Thầy vậy. Song, ba từng phải lợp
ngói như nóc chùa của Ðường Nhơn vậy nghe.
Ðừng làm như cái Tháp của Bảo Ðạo, vì hai đứa phẩm vị khác nhau, chung
quanh Bát Quái, phải làm như hình có cột tại chính giữa Tháp (1) phải có lỗ cho
nhựt quang giọi tới Liên Ðài.
Các con sẽ bị Thái Bạch quở phạt liệu lấy mà sửa mình, phải tùy theo lịnh dạy
của nó, đặng nó giảm nộ chút ít nghe.” Thầy
thăng.
Lòng Đại Từ Phụ thương con:
“Cười.... Thầy tưởng khi các con còn cứng lòng hơn nữa chớ... Cười....
Các con chỉ biết rằng có xác thịt trần của các con đó là hữu hình, biết có
mình các con mà thôi, chớ còn Lão già nầy thì chẳng cần chi kể đến há?
Nầy, Thầy nói cho các con biết rằng: Chẳng giờ phút nào mà mắt Thầy không
chăm nom gìn giữ các con, Thầy đợi xem cho rõ coi cách các con lập vị mình dường
nào. Thầy lại nghĩ mà cười thầm hoài. Mỗi phen Thầy thử thách các con thì các
con rối rắm, Thầy chẳng biết tới chừng nào các con mới đoạt đặng Thánh
đức của Thầy dành để cho các con.
Trước mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, Thầy lấy
làm hổ thẹn, oan gia là oan gia lắm hử!”…
[Rằm tháng 3 năm Mậu Thìn (4-5-1928 )]
… “Chí Tôn
không đến là có ý cho chư Ðạo Hữu điều đình thử coi có làm kham phận sự cùng chăng?
Trước khác, nay thì khác, đã mang Thiên mạng nơi mình phải so quyền liệu sức mà
hành chánh, cả chúng sanh đương lao nhao lố nhố trông cậy nơi chư Hiền Hữu, phải
làm sao cho xứng phận thì làm.
Thiếp xin khuyên một điều là khi minh thệ Chức Sắc đừng
lòng tư vị; những vị chẳng có minh thệ khá tỷ như Chức Sắc
Hàm mà thôi, chẳng nên giao Pháp Chánh của Ðạo ấy là cơ thể để trừ tuyệt sự rối loạn của
Ðạo. Thiếp xin nên nghe lời Thiếp.” (Quan Âm Như Lai)
Tiểu Sử Ngài Cao Quỳnh Cư:
Thiết nghĩ khi muốn viết Tiểu sử của các Đấng Tiền khai Đại Đạo như Đức Cao
Thượng-Phẩm đây, khả năng chúng tôi không làm sao tỏ hết tấc lòng ái mộ với một
Đấng dày công với Đạo, cũng không làm sao diễn hết sự đau thương với những vị
Bát Tiên đã xuống thế như các Ngài. Nhưng chán ngán nỗi “Đạo khai Tà khởi” mà
cái tà nó dai dẳng, dày dặn như lớp bụi trần ai không bao giờ lau sạch. Nó hiển
hiện như những đống rác bên đường trong cái thời mạt pháp này. Điển hình là
hình ảnh Đức Cao Thượng P hẩm, những nỗi chán chường của cuộc đời đã đưa Ngài về
nhanh nơi cõi tịnh mà chẳng chút lưu luyến cảnh trần ai gió bụi này.
Thế nên những bài Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp và của Ngài Tiếp pháp mới diễn
hết những nét chân dung của Đức Ngài hầu làm ngọn hải đăng soi giữa đêm trường
cho người muốn vượt trùng dương mênh mông, mênh mông. Xin hãy nhìn ngọn đèn trời
luôn soi tỏ lối đi cho hậu thế: Ðức Hộ-pháp thuyết trong lễ kỷ niệm Ðức Cao Thượng
Phẩm, ngày 1- 3-Canh Ngọ (1930)
Mỗi một năm
ngày Vía của Ðức Cao Thượng Phẩm, Bần Ðạo lấy làm vui thấy con cái của
Chí Tôn Nam Nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt là cái mừng của Bần Ðạo hơn hết
là ngày Vía của Ngài, cả con cái của Chí Tôn còn gìn giữ và thương yêu ấy như
buổi sanh tiền kia vậy.
Sự thật, từ cổ chí kim, Bần Ðạo tưởng không có nền Tôn Giáo nào mà được hưởng
một đặc ân thiêng liêng của Ðức Chí Tôn như nền Ðạo Cao Ðài; Bần Ðạo đoán lại
những sứ mạng thiêng liêng của Ngài, những đặc sứ sai đến thế nầy đặng thay thế
hình ảnh của Ngài hầu chia đau sớt khổ cùng con cái khổ não của Ngài như thế nầy.
Chúng ta có thể nói, các Ðấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt
là Huỳnh tộc của chúng ta tưởng cả thảy con cái Ðức Chí Tôn đều biết danh giá của
Bát Tiên là thế nào ? Ngộ nghĩnh thay ! Ðức Chí Tôn làm thế nào mà chư vị Ðại
Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng đến đặng tạo dựng cái nền Tôn Giáo của
Ngài. Ðức Hớn Chung Ly tức nhiên là nguơn linh của Ðức Cao Thượng Phẩm đó vậy.
Nên giờ phút nầy Bần Ðạo nhớ đến có mảy may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm
trong tay tạo Ðạo không còn nữa, thành thử không có cây Cơ thứ nhì. Nói thật
ra, cái cơ phong Thánh, cơ lập Thánh, cơ Truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày
giờ nầy thảng có cơ phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Ðạo nâng loan có
Ngài trợ lực, chớ cây cơ phong Thánh hiển nhiên giờ phút nầy không còn tồn tại,
cái tiếc của Bần Ðạo hay chăng là điều đó”.
Tuy hành Đạo ngắn ngủi có 4 năm nhưng công nghiệp Đức Ngài đáng nêu vào Đạo
sử, người sau noi dấu:
1 - Nhà Đức Ngài là nơi phát tích xây bàn vào đêm 25-12-1925 Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế phán rằng:
"Nhà này (nhà Ngài) sẽ đầy ơn Ta, giờ ngày gần đến đợi lịnh. Ta sẽ làm
cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa".
Lễ Hội Yến đầu tiên, lập đàn ở tại
nhà Đức Ngài.
2 - Đức Ngài phế thân hành Đạo trước nhứt và vững niềm tin hơn cả. Chính Đức
Hộ Pháp đã thố lộ trong bài thuyết Đạo đêm 17-8-Quí Tỵ như vầy:
"Bần Đạo không có đức tin gì hết, nghe nói Tiên giáng đi theo nghe thi
chơi".
Đức Thượng Sanh ít đi hầu đàn vì không tin. Một hôm xây bàn, Ngài Cao Quỳnh
Diêu thưa với chơn linh cụ
Cao Hoài Ân (thân sinh Ngài Cao Hoài Sang) rằng: "Anh đề thi mà khuyên
dạy nó (ông Diêu là chú ông Sang) và lấy vận voi, mòi, còi, roi, thoi của bài Tứ
Thứ qui Tào mà họa lại". Chơn linh cụ Ân cho thi:
THI
Thuyền khơi gió ngược khá
nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy
mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm
nở,
Rừng tòng buổi trước một
cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn
cánh,
Ngựa ruỗi đường hòa khá nhọc
roi.
Nín nẵm chờ qua cơn bỉ cực
Thìn lòng chứng có lượn
đôi thoi.
3 - Kiểu mẫu áo mão đầu tiên làm tại nhà Đức Ngài do bà Nữ Đầu sư Hương Hiếu
(bạn đời của Ngài cắt may).
4 - Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung cũng nhập môn theo Đạo tại nhà Ngài
vào 11-1-1926.
5 - Đức Chí Tôn mượn đôi tay của Ngài chấp nhang để trục thần của Ngài Phạm
Công Tắc ra để chơn linh Hộ Pháp nhập vào đêm 13-5-Bính Dần tại nhà Ngài Lê Văn
Trung.
6 - Cất Tòa Thánh (tạm) đầu tiên bằng tranh, di cốt Phật Tổ và an vị nơi Đại
Đồng Xã.
7 - Bàn tay Đức Ngài đã dựng các cơ chế Đạo, Đức Ngài qui là cơ Phong Thánh
đã gãy.
"Cái cơ Phong Thánh, cơ lập Thánh, cơ truyền giáo Ngài đã đem theo,
nên ngày giờ này, thảng có cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng
loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn.
Cái tiếc của Bần Đạo có hay chăng là ở điều đó". (Đức Hộ Pháp ngày 1-3-Canh Ngọ, 1930).
Đức Hộ Pháp đọc trong buổi chung qui của Đức Cao Thựong Phẩm đã nói lên
lòng thương tiếc ấy:
THI
Thượng Phẩm ôi, hỡi anh
ôi!
Chưa xong trách nhiệm vội
về Trời
Bốn năm công quả vun nền Đạo
Mấy đoạn chông gai chịu nước
đời
Ngọn bút Thần cơ Trời nỡ
đoạn
Nắm xương Thánh chất lấp
chôn vùi
Mực hòa huyết lệ đề câu điếu,
Thượng Phẩm ôi, hỡi anh
ôi!.
8 - Trong Bát Tiên, có một vị cầm Long Tu Phiến (quạt) đó là Hớn Chung Ly
nguơn linh của Đức Cao Thượng Phẩm. Đức Hộ Pháp giải thích:
"Nguyên căn của Hớn Võ Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập quốc
gia. Kỳ Hạ nguơn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly
tái thế lập thành Quốc Đạo nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn".
Đến năm 1945 Đức Ngài có giáng cho một bài thơ :
Đường mây sẵn lối gặp may
duyên,
Nặng gánh xa thơ sửa mối
giềng
Anh tuấn đất gìn nung khí
phách,
Uy linh trời giữ tạc đài
liên.
Hồn về nước cũ đời nương
thế
Hạc lại tùng xưa đức lập
quyền.
Đảnh Việt chờ qua cơn bão
tố
Muôn năm tỏ rạng mối chơn
truyền.
18 - Ông PHẠM
CÔNG TẮC
(1890-1959)
Thánh danh Hộ Pháp Phạm
Công Tắc
LỄ KỶ NIỆM ÐĂNG TIÊN
CỦA ÐỨC HỘ PHÁP
Đức Thượng Sanh tuyên đọc Diễn-văn ngày 10 tháng 4 Bính-Ngọ (dl: 29-5-1966)
Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện.
Kính Trung Tá Tỉnh Trưởng Tây Ninh và Quý Quan Khách, Chư Chức Việc và Ðạo
Hữu Lưỡng Phái, Hôm nay là ngày Lễ kỹ niệm đăng Tiên của Ðức Hộ
Pháp Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ Tòa-Thánh Tây-Ninh. Trước hết tôi để lời cám ơn
toàn thể Chức sắc, Chức việc và Ðạo Hữu lưỡng phái đã sẵn lòng đến dự đông đảo
làm cho cuộc lễ tăng thêm phần long trọng.
Ðây là một dịp để Hội Thánh nhắc lại công nghiệp vĩ đại của Ðức Ngài trong
nền Ðại-Ðạo và cũng là một dịp để cho các cơ quan Ðạo tỏ lời cảm tưởng đối với
một Đấng vĩ nhân đã phí một kiếp sanh, đã dạy dỗ và dìu dắt con em trong Ðạo
trên bước đường giải khổ.
Tiểu sử của Ðức Hộ Pháp và sự hy sinh cao cả của Ðức Ngài trong lúc bình
thường cũng như trong hồi tai biến của nền Ðạo, chúng tôi đã có dịp nói qua nhiều
lần và toàn thể Chức sắc, Ðạo hữu đều rõ biết.
Những lời cảm khái của Chức sắc trong các cơ quan Ðạo vừa mới bày tỏ, chứa
đầy sự thương tiếc, bộc lộ xiết bao nỗi tri ân nồng hậu đối với một Ðấng vĩ
nhân mà cuộc đời phải trải qua biết bao sóng gió nguy nan, đòi phen thất thổ ly
hương, lắm lúc ôm sầu nuốt hận cũng vì chủ nghĩa thương đời. Sự thương tiếc và
sự tri ân đó thật
chánh đáng.
Những ai đã từng mang vào mình bộ Thiên phục, đã từng được dự vào hàng Chức
sắc Thiên phong, được nói ra những lời đạo-đức thuần túy, ra đối với mặt Ðời được
người người kính nễ, thì cũng đều
nhìn nhận là đã nhờ
nơi tay của Ðức Hộ Pháp đỡ nâng lập vị.
- Không có Ðức Hộ Pháp thì không có Ðạo CAO ÐÀI ra đời.
- Không có Ðức Hộ Pháp thì nơi đây vẫn còn là những đám rừng rậm sầm uất.
Ðành rằng tìm ra mối Ðạo là do nơi ba vị Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh.
Nhưng nếu không có Ðức Hộ Pháp là người có sứ mạng đặc biệt về mặt Bí pháp và
có sẵn kiên tâm trì chí thì ÐẠO CAO ÐÀI cũng không thể lập thành.
Ðấng Chí Tôn đã cho ra đời nhà thông minh xuất chúng đó hầu sáng tạo cho đất
nước Việt-Nam một nền Chánh giáo để nâng cao tinh thần của giòng giống Lạc Hồng
ngang hàng với các nước trên mặt địa cầu về phương diện tín ngưỡng.
Ðiều đáng chú ý là Ðức Hộ-Pháp được Ðấng Chí Tôn ban cho một ân huệ đặc biệt
chưa từng có trong các lịch sử Ðạo Giáo trên toàn cầu. Vì từ xưa những bậc vĩ
nhân tạo nên sự nghiệp đồ sộ về tinh thần, nhưng sự nghiệp đó chỉ lưu lại cho đời
sau thừa hưởng mà thôi. Ðức Hộ Pháp lại may mắn hơn. Ðức Ngài đã thành công mỹ
mãn và dân tộc Việt Nam được hưởng liền sự nghiệp của Ðức Ngài trong khi Ðức
Ngài còn tại thế.
Chí hướng làm nên của Ðức Ngài, công phu xây dựng của Ðức Ngài, toàn thể Chức
sắc và Ðạo hữu ghi nhớ ơn là một điều quí nhất.
Nhưng chẳng phải tỏ sự biết ơn bằng lời nói
suông là đủ, phải biết quí mến, giữ gìn sự nghiệp của Ðức Ngài để lại,
phải góp công bồi bổ xây dựng thêm cho nó được càng ngày càng thêm vẻ vang tốt
đẹp hơn. Phải thận trọng trong cử chỉ cũng như trong việc làm và tự mình coi Ðức
Ngài như còn tại thế vậy. Vì tuy Ðức Ngài về Thiêng Liêng vị, nhưng vẫn dùng
Huyền diệu Cơ bút đến hội hiệp với chúng ta, khi thì để lời giáo hóa, khi thì
an ủi vỗ về và lẽ tất nhiên là Ðức Ngài hằng dòm ngó đến sự nghiệp của Ðức Ngài
lưu lại nơi vùng Thánh địa, nơi mà Ðức ngài đã chan rưới biết bao nhiêu giọt mồ
hôi, chịu biết bao nhiêu khổ tâm mới tạo thành được như ngày nay.
Chúng ta chẳng những phải giữ gìn và tô điểm thêm sự nghiệp hữu hình của Ðức
Ngài, chúng ta còn phải quý trọng cái danh giá của Ðạo, vì Ðức Ngài khi sanh tiền
đã phải trải bước từ ÂU sang Á, đem hết tâm trí đặng làm cho danh giá ÐẠO CAO
ÐÀI được nêu cao tột bực. Trong các nước văn minh tiên tiến, nơi nào Ðức Ngài
có để chân đến thì những bậc thượng lưu trí thức sau khi nghe Ngài thuyết pháp
đều để lòng sùng bái Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ Ðộ, nhiều người đã xin nhập môn, xin Ðức
Ngài đến nhà khai Đàn thượng Tượng và tôn trọng Ðức Ngài như một Ðấng Cứu Thế.
Ngày nay mặc dầu Ðức Ngài đã khuất bóng nhưng cái danh giá của Ðạo Cao Ðài
vẫn còn được nguyên vẹn y như lúc Ðức Ngài còn tại thế.
Chúng ta phải chung sức nhau mười như một, một như mười để bảo tồn cái danh
giá quí báu đó và làm thế nào cho nó được càng ngày càng thêm cao vọi, thì
chúng ta mới thật là trung thành và thật biết ơn Ðức Ngài vậy.
Nếu vì một lẽ nào, vì một tham vọng hoặc vì tranh giành quyền lợi, người Chức
sắc hay Tín hữu có manh tâm làm cho nền Ðạo phải mang tai tiếng, danh giá Ðạo bị
tổn thương thì chính đó là hành động cố ý xô ngã công phu gầy dựng của Ðức
Ngài. Cái tội đó Ðức Ngài và các Ðấng Thiêng Liêng không thể dung thứ được.
Biết tôn thờ Ðức Ngài, biết ghi nhớ ơn của Ðức Ngài, chúng ta phải noi theo
gương sáng của Ðức Ngài, cái gương nhẫn nại và vị tha, luôn luôn
quên mình, sẵn sàng hy sinh để bảo thủ chơn truyền và giữ trọn hiếu trung đối với
Ðức Chí Tôn Ðại Từ Phụ.
Ngoài ra, chúng ta phải biết thương nhau, giúp đỡ đùm bọc lẫn nhau, đừng vì
một lẽ nào mà chia rẽ ganh ghét nhau. Hầu làm cho vui lòng Ðức Ngài là một bậc
tiền bối đã phí một kiếp sanh cho đến hơi thở cuối cùng để thực hành chủ nghĩa
Từ- bi Bác- ái và để phụng
sự cho nhân sanh và cho Ðạo.
Ðược vậy thì cuộc Lễ long trọng hôm nay mới có ý nghĩa thực tế. Mong Thay! Kính Thay!
(CAO THƯỢNG SANH)
* Phần đời: Thư ký Sở Thương Chánh
* Phần đạo: Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
I - PHẦN ĐỜI:
1- Thuở thiếu thời
Vào tiết Đoan Ngọ [5-5-Canh Dần (dl: 21-06-1890)] bên bờ sông Vàm Cỏ Tây,
thuộc làng Bình-lập, tại Tỉnh Tân-an
(nay là Long-an), một chơn linh giáng lâm trong gia đình ông Phạm Công Thiện, một
công chức. Đó là Phạm Công Tắc..
Ông Phạm Công Thiện kết hôn với bà La Thị Đường, sanh được 8 người con mà
Ngài Phạm Công Tắc là người con thứ tám. Song thân Ngài trước ở làng An Hòa, quận
Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh. Vì là công chức, ông Phạm Công Thiện về sau được đổi
đến Long An. Thuở thiếu thời Ngài Phạm Công Tắc là một thiếu niên khỏe mạnh, tư
chất thông minh đĩnh ngộ. Có điều lạ, thỉnh thoảng Ngài ngủ thiếp đi như người
chết,
Phong trào Đông Du (1904-1907) do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm Minh chủ và hai
nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng để nâng cao dân trí,
bằng cách gởi các thanh niên du học ngoại quốc nhất là Nhật Bản. Tại Sài Gòn
phong trào Đông Du do hai ông Gilbert Chiếu (tức Trần Chánh Chiếu) và Dương Khắc
Ninh lãnh đạo. Các ông thành lập các kinh thương hội như "Minh Tân công
nghệ" và khách sạn "Nam Trung" làm nơi lưu trú hội họp cho đảng
viên. Ngài Phạm Công Tắc dù đang theo học năm thứ hai trường Chasseloup-Laubat
cũng lén bỏ học đến họp với anh em.
Hai ông Gilbert Chiếu và Dương Khắc Ninh tập hợp các đảng viên chia nhiều
nhóm để xuất dương. Ba nhóm đã sang tới Nhật, Ngài được ghi tên vào nhóm thứ
tư. Lòng Ngài như mở hội.. nhưng thời cuộc, buộc lòng Ngài phải nghỉ học về
làng An Hòa (Tây Ninh) tạm tránh sự dòm ngó của mật thám Pháp. Khi tình hình êm
dịu, Ngài lại lăn mình vào trường tranh đấu. Lần này Ngài hoạt động cẩn thận
hơn, rồi tham gia viết báo như: Công luận, La Cloche fêlée (Chuông rè) của Nguyễn
An Ninh, La voielibre … Tiếng nói tự do), Nông cổ Mín-đàm, Lục Tỉnh Tân văn (Tờ
Lục Tỉnh Tân văn của ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút). Ngài cộng
tác thường xuyên với tờ này vì là đồng chí. Hơn nữa, ông Chiếu ngấm ngầm làm cơ
quan tuyên truyền chống Pháp và kích động lòng yêu nước của nhân dân rất đắc lực.
Các bài "Thượng bất chánh, hạ tắc loạn" (đăng ngày 12-12-1907), bài
"Dân tộc đoàn kết và thời đàm" (đăng ngày 23-1-1908) là những lời thẳng
thắng cảnh cáo nhà cầm quyền Pháp. Khi ông Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản, Ngài
lại về quê.
Vì ảnh hưởng cách mạng và các Tiên Vương, về sau, Ngài lập Báo Quốc Từ, bôn
ba sang Nhật rước tro Cường Để, về Sài Gòn rước linh vị Thành Thái và Duy Tân
đem thờ nơi Báo Quốc Từ (gần chợ Long Hoa). Ngoài ra cơ quan thông tin Cao Đài
sưu tầm và phổ biến các hình ảnh Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học
..
2 - Thời trưởng thành:
Năm 1910, vì hoàn cảnh thanh bạch, Ngài vào làm thơ ký Sở Thương chánh (Sài
Gòn). Năm sau lên hai mươi mốt tuổi, Ngài vâng lệnh mẫu thân thành lập gia đình
với bà Nguyễn Thị Nhiều, hạ sanh được ba người con, hiện còn hai cô Phạm Hồ Cầm
và Phạm Tần Tranh. Bà Hương Nhiều (tức Nguyễn Thị Nhiều) đắc vị Chánh Phối sư,
chưởng quản Nữ phái Phước Thiện và cô Hương Tranh thọ phong Giáo sư (chức sắc
trong Cao Đài giáo)
Đời sống công chức không làm cho Ngài thích thú, còn nếp sống gia đình đều
đều buồn chán không trói buộc được Ngài. Ngài đem ra mê lý tưởng hướng Đạo,
"làm những việc thiện hằng ngày để giúp đỡ những kẻ cô đơn xung quanh.
Đang làm công chức Sở Thương Chánh, đồng tiền chẳng được dồi dào chi lắm, vậy
mà Ngài dám vay nợ đặng giải phóng một đoàn nhi nữ ra khỏi chốn thanh lâu,
(Theo tiểu sử Hộ Pháp Phạm-Công-Tắc ấn hành 1954).
Người Pháp thấy Ngài có hành động khác thường, họ liệt Ngài vào hàng có tâm
huyết nên họ tìm cách đổi Ngài đi Cái Nhum (Hậu Giang) sau đó đổi ra Qui Nhơn
(Trung phần), sau cùng lại đổi về Sài Gòn, để rồi những ngày sẽ tới, Ngài hiến
trọn cuộc đời cho Đạo Pháp.
3 - Ngộ Đạo:
Vào năm Ất-Sửu (1925) để tìm hiểu huyền vi và bí mật Thiêng liêng, Đức Ngài
cùng quý ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu họp nhau "XÂY BÀN". Trong các chơn linh
giáng xuống cho thi phú, có một vị không chịu xưng tên mà chỉ cho ba chữ AĂÂ,
II - PHẦN ĐẠO-
1- Thọ Thiên Phong: Mãi đến
đêm 24-12-1925,
Ông AĂÂ mới cho biết chính Ngài
là Đấng Thượng
Đế đến lập Đạo tại Nam Phương để giải thoát chúng sanh, tá danh là “Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.
Vào ngày 14-3-Bính Dần (dl: 25-4-1926) tại nhà Ngài Đầu sư Thượng Trung Nhựt,
Ngài thọ Thiên ân Hộ Pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, đắc vị Thiên phong trước
hết. Đức Ngài là người nắm cơ mầu nhiệm của Đạo, nắm luật của đời, xét xử chư
Chức sắc Thiên phong và Tín đồ, giữ dạ vô tư, tạo lập bí pháp đưa các đẳng chơn
hồn vào Bát Quái Đài để hiệp cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
2 - Hành Đạo Kim Biên
(Kampuchia):
Khai Đạo ngày 14-10-Bính Dần tại Thánh Thất Từ Lâm, xảy ra việc tà quái
ngoài ý muốn, nhưng người theo Đạo mỗi ngày một đông, người Pháp dòm ngó, hăm
he các Chức Sắc và lập hồ sơ đen các người theo Đạo, Ngài nói:
"Riêng phần Bần Đạo là công chức, khi vâng lịnh Đức Chí Tôn đến chùa
Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ 6 tháng đến chừng trở lại làm việc, người
ta đổi Bần Đạo lên Kim Biên. Nơi đó Bần Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo. Riêng
phần mấy anh lớn trong hàng phủ, huyện bị người ta dọa nạt đủ điều. Cả toàn con
cái Đức Chí Tôn buổi nọ, còn lại có ba người. Ba người ấy là Đức Quyền Giáo
Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo. Chúng tôi nhứt tâm nhứt trí quyết làm cho
Đạo thành, cho vừa lòng Đức Chí Tôn" (ngày 13-10- Giáp Ngọ- 1954).
Nhờ làm việc tại Kampuchia mà Đức Ngài độ được Ngài Tiếp Đạo Cao-Đức-Trọng,
bấy giờ làm việc Phòng Chưởng Khế. Tại đây (1927) và anh em vua Cao Miên là Sisowark qua trung
gian Tổng Trưởng Sơn Điệp. Trong Hoàng Cung hiện nay vẫn còn thờ Thiên Nhãn.
3 - Xây dựng Tòa Thánh:
Công nghiệp lớn lao của Đức Ngài là xây dựng Tòa
Thánh. Đặt viên gạch đầu tiên năm 1933, qua năm 1936 mới khởi công xây cất
và đến năm 1941 công cuộc kiến trúc bên ngoài vừa hoàn thành. Nhưng chưa kịp
trang hoàng thì Đức Ngài bị lưu đày. Năm 1946, Đức Ngài trở về nước tiếp tục sửa
sang. Năm 1954 thì hoàn tất và lễ Khánh thành được tổ chức vào đầu tháng giêng
năm Ất Mùi (1955). Đây là một công trình kiến trúc tân kỳ vĩ đại, khiến cho người
ngoại quốc thầm kính phục một khối óc vĩ nhân vượt hạn.
4 - Chưởng Quản Nhị Hữu
Hình Đài:
Sau khi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên (dl:19-11-1934),
vào ngày lễ Đại Tường (dl: 8-11-1935), một Đại Hội Đồng gồm Hội Thánh và Hội
Nhơn Sanh đồng bầu cử Đức Ngài cầm quyền thống nhất Chính Trị Đạo cho đến ngày
có Đầu sư Chánh Vị.
Từ đó Đức Ngài Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng
Đài hết lòng xây dựng nghiệp Đạo và đem phương sách hay cho nhơn sanh.
5 - Thời Pháp nạn:
Ngày 23-7-Canh Thìn (1940), lính mật thám Pháp vào châu vi Thánh Địa xét giấy
tờ, đóng cửa Báo Ân Từ.
Ngày 25-5-Tân Tỵ (1941), Chánh phủ Pháp ra lịnh cấm công nhân tạo tác Tòa
Thánh. Ngày 4-6 năm đó, vào 8 giờ sáng, mật thám bắt Đức Ngài. Ba ngày sau họ
vào Tòa Thánh đuổi hết mọi người về nguyên quán. Chúng xung công tất cả Văn
Phòng và chiếm đóng trọn chu vi. Chúng đày Đức Ngài sang Mã Đảo (Madagascar)
trên chiếc tàu Compiège vào ngày 27-7-1941 cùng năm vị Chức Sắc. Trong chuyến
tàu này, ngoài Đức Ngài còn có các nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế
Sang
… Khi đến Mã Đảo, Ngài và chư Chức Sắc bị giam đến ngày 24-11-1944, mới được
ra ngoài làm lụng.
Năm 1945, phe Đồng minh
thắng, De Gaulle
giải phóng nước Pháp, Đức Ngài được đưa về Việt Nam ngày 1-10-1946, tính
lại thời kỳ đồ lưu hải ngoại là 5 năm, 2 tháng, 3 ngày.
6 - Việc thành lập Quân Đội
Cao Đài:
Khi Đức Ngài trở về Tòa Thánh thì Quân Đội Cao Đài đã lập từ năm 1945 với
danh Nội Ứng Nghĩa Binh. Vì hoàn cảnh đất nước và đạo sự lúc bấy giờ, Đức Ngài
phải để quân đội thành hình và xuất quân: 8-1-Âm-lịch (1947):
Ngài nói: "Quân đội các con thành lập đặng do toàn thể trụ cả năng lực
trên nền tảng Nghĩa Nhân, đạo đức. Ngọn cờ Cứu khổ của các con xuất hiện nơi
nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải đặng các con bảo vệ, cứu khổ phò nguy mà làm
rạng danh anh tuấn của non sông chủng tộc"
(Huấn dụ của Đức Hộ Pháp - xuân Giáp
Ngọ 1954). Bản tuyên ngôn tại Phnom-Pênh, ngày 30-4-1956 Đức Ngài viết:
"Khi Đức Bảo Đạo về nước, chính Bần Đạo đã giao trọn quyền sử dụng
Quân Đội Cao Đài cho Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ Quân lực Quốc gia. Khi
Đức Ngài đi Pháp mới tạm giao quân lực ấy lại cho Bần Đạo. Trong lúc vắng mặt,
Đức Ngài đã ra lịnh cho hai Chính Phủ Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp
pháp quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài. Nhưng sự thi hành ấy kéo dài cho tới ngày
Chánh Phủ Ngô Đình Diệm thọ phong toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần Đạo buộc
phải nhắc nhở và cầu cho Chánh Phủ Ngô Đình Diệm quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài
một cách hợp pháp. Bần Đạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với
quân lực, mà chỉ dùng phương pháp đạo đức đặng đem hòa bình hạnh phúc lại cho
giống nòi mà thôi".
7 - Chấn chỉnh các cơ quan
Đạo:
Đức Ngài lo chấn chỉnh nội bộ từ Cửu
Trùng Đài, có đủ ba sắc phái (Đạo
Nghị Định số 5), hiến thân hành Đạo, cơ quan Phước Thiện thành Hội Thánh Phước
Thiện có Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng liêng. Với toàn Đạo thì Đức Ngài cho phá rừng
lập chợ Long Hoa, một hình thức kiến trúc theo Bát Quái, phố xá rộng rãi, đường
thênh thang, dự trù cho hàng trăm năm sau. Công việc đang tiến hành thì một biến
động xảy đến cho Đức Ngài, niềm đau chung cho toàn Đạo.
8 - Trên đất khách:
"Vào đầu tháng 8 năm Ất Mùi (1955), vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài,
khi được Quốc gia hóa, ra lệnh thành lập Ban Thanh Trừng, bắt nhiều đạo hữu
giam cầm. Một số thiếu nữ trong Đạo cũng bị câu lưu mấy tháng và bị ép buộc phải
khai nhiều điều khiếm nhã cho Đức Ngài.
"Còn chính Đức Ngài cũng bị cầm lỏng tại Hộ Pháp Đường chung quanh có
quân đội võ trang canh phòng, từ 20-8-Ất-Mùi (1955) đến 5 tháng 1 Bính Thân
(1956). Vì quá đau buồn cho cảnh đồng đạo tương tàn, Đức Hộ Pháp buộc lòng cùng
nhiều Chức Sắc tùy tùng rời khỏi Thánh Địa lúc 3 giờ khuya ngày ấy nhắm thủ đô
Miên quốc trực chỉ".(Thượng Sanh,Đại Đạo nguyệt san số 5/64)
Việc ra đi được Đức Ngài tuyên ngôn như sau:
"Bần đạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần
Đạo, hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thống nhứt hoàng đồ và chủng tộc là
phương pháp Hòa Bình và Chung Sống".
9 - Trở về ngôi xưa cảnh
cũ:
Dù sống trên đất Chùa Pháp an toàn, nhưng lúc nào Đức Ngài cũng hướng về
quê hương. Mặt khác Đức Chí Tôn có lẽ định đem Đức Ngài giúp ích cho Đạo nhiều
hơn.
Thế nên, ngọa bịnh không bao lâu, Đức Ngài cỗi xác trần nhằm 10-4-Kỷ Hợi
(dl: 17-5-1959), thọ 70 tuổi.
Lấy tánh đức Hộ Pháp mà lập Đạo:
Thánh Ngôn thuở khai Đạo, Đấng CHÍ TÔN có lần hỏi Đức Hộ Pháp: "Tắc!
Thầy lấy tánh đức con mà lập Đạo, được
chăng ?".
Xem vậy, tính đức của Đức Ngài thật quan trọng tác dụng trong nền Tân Tôn
Giáo này.
Đức Ngài giáng trần có hai tính đức: Một là nhân tính, hai là Thánh
tính."
- Nhân tính là tính làm người ở thế gian mang thi phàm.
- Thánh tính là tính thiên định, chơn linh khi lâm phàm. Nhân tính của Đức
Ngài phảng phất nhiều hương vị hiền triết của Thánh Gandhi, Socrate, Ki Tô, Khổng
Tử, Nostra Damus …Bởi Đức Ngài đã nghiên cứu về đời sống của các bậc siêu nhiên
vũ trụ này.
- Hy sinh thân thế và chịu đựng tù đày mưu tìm hạnh phúc nhân sanh: đức
tính của Đức Ngài phảng phất tư chất của Thánh Gandhi (1869-1946). Thánh ra đời
thì nước Ấn-độ dưới sự đô hộ của người Anh. Ngài theo học trường Anh đỗ Tiến sĩ
Luật khoa nhưng chống lại sự áp bức của người Anh. Đến thế chiến thứ I
(1914-1918) trước lời hứa hẹn của chính phủ Anh, Gandhi hô hào đồng bào đầu
quân giúp chính quốc. Khi chiến tranh kết liễu, Anh quên lời hứa. Gandhi đứng
ra lãnh đạo phong trào quốc gia Ấn, đề ra chính sách bất bạo động, bất hợp tác,
năm 1919, Anh ban bố hiến chương Ấn-Độ (India Act), dân Ấn bất mãn theo Gandhi
chống Anh. Gandhi bị hạ nhục từ tháng 3-1922 tới tháng 2-1924. Cuối cùng Gandhi
bị bọn quá khích ám sát chết và đất nước vẫn còn chia Ấn - Hồi.
Đức HỘ PHÁP cũng hạ sanh lúc thời Pháp thuộc và chống Pháp. Đến thế chiến
thứ hai (1939-1945) theo lời hứa của chánh phủ Pháp, Đức Ngài kêu gọi toàn Đạo
đầu quân giúp Pháp và cũng bị Pháp cầm tù ở Mã Đảo (1941-1946) trên năm năm.
Gandhi nói: "Tất cả những nhà Tôn giáo mà tôi gặp đều là những chính
trị gia trá hình. Tuy nhiên, tôi là người mang lớp áo chính trị, nhưng là một
nhà Tôn giáo".
Nhờ lòng tin vào tôn giáo ông hoạt động chính trị.
- Đức HỘ PHÁP hành động tích cực, quả quyết. Đề xướng một việc nhất định phải
đi đến kết quả tốt và nhất định vận dụng mọi kế hoạch để thực hiện cho kỳ được,
tìm việc chứ không đợi việc.
- Một tôn giáo có hai chánh pháp: thể pháp và bí pháp. Thể pháp là hình thể
bề ngoài, còn Bí pháp là huyền nhiệm thiêng liêng bên trong. Thiếu một trong
hai phép đó thì không là Tôn giáo. Vào năm 1948, Đức Ngài đã giảng về Bí pháp của
Đạo, được các ký tốc viên ghi chép và in thành tập.
Ngoài ra Pháp Chánh Truyền, cũng do nơi cặp cơ Hộ Pháp và Thượng Phẩm viết
ra, Ngài được lịnh Ơn Trên chú giải. Bí pháp Đại Đạo.
- Chịu nỗi thống khổ và oan nghiệt như Đức Ki Tô bị quỉ Satan khai chiến ba
lần:
. Lần nhất Satan vấn nạn: "Nếu ông là con Thiên Chúa hãy truyền những
hòn đá này trở thành bánh đi". Ngài đáp rằng: "Người ta không sống bằng
bánh, nhưng bằng mọi lời, bởi miệng Thiên Chúa phán ra".
. Satan mở chiến dịch thứ hai: "Nếu ông là con Thiên Chúa hãy gieo
mình xuống". Chúa Ki-Tô đáp:
"Ngươi chớ thử Chúa là Thiên
Chúa ngươi",
. Lần thứ ba nó đem Ngài lên một núi rất cao, cho xem tất cả các nước trên
thế gian với những vinh quang trần thế và bảo Ngài rằng: "tất cả những
vinh quang phú quí đó ta sẽ cho Ông, nếu ông quỳ xuống lạy ta". Đức Jésus
đáp:"Hỡi Satan hãy cút đi vì có lời chép rằng: ngươi sẽ thờ phượng chính
Chúa là Thiên Chúa của ngươi".
Kết quả là ác quỉ bỏ Ngài và Thiên Thần hiện ra hầu hạ Ngài. Đức Ki Tô chỉ
chịu đựng và truyền Đạo trong ba năm, còn Đức HỘ PHÁP phải chịu 35 năm
Đức Hộ-Pháp nói: "Khi vâng lệnh
Đức CHÍ TÔN đến Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ sáu tháng (vì công chức).
Đến chừng trở lại làm việc, người ta không cho Bần Đạo ở Nam Việt nữa, đổi Bần
Đạo lên Kim Biên. Nơi đó, Bần Đạo vừa làm việc, vừa mở Đạo mục đích làm thế nào
cho Đạo chóng thành tựu.
"Từ khi lập Đạo chịu khổ hạnh truân chuyên, chịu nhục nhã, chịu mọi điều
thống khổ".
- Điều này quá hẳn nhiên, vì "ngày nay Thầy đã khai Đạo nơi Đông Dương
là cực đông của Á Châu, mà lại khai nơi xứ Nam Kỳ là xứ thuộc địa, dân tộc yếu
hèn, ngu xuẩn. Ấy là do nơi thiên cơ tiền định cả muôn năm, lại để thưởng cái
lòng tín ngưỡng của người Nam từ thử ".
Đức Hộ Pháp còn coi các thợ hồ là con của Thượng Đế. Trong một lời phê năm
Tân Sửu, Đức Ngài viết:
"Qua đã biết trước thế nào trong mấy em cũng có đứa ngồi ngục. Gấm bị
trước vì Phối Thánh Thoại muốn cho nó trả quả đối với Thánh lúc ở phàm. Đáng kiếp,
Gấm đã đụng đầu xe lửa, cũng như mẹ con Út Giáp đụng đầu xe lửa Màng (cũng Phối
Thánh) buổi trước vậy. Mấy em ráng cẩn thận coi chừng đừng ăn hiếp mấy ông
Thánh ẩn thân bất ngờ, phải ngồi cửa Phong Đô mà khóc đa nghe".
- Ngoài cái khẩu khí của một chơn linh lâm phàm, Ngài còn am tường thủ thuật
nói trước công chúng và phương pháp của
Socrate" là đặt câu hỏi làm thế nào cho khách bàng quang chỉ có thể đáp
“có” mà thôi. Chính vì vậy, đến ngày nay, chưa thấy ai phản đối hành động của Đức
Ngài.
- Đức Hộ Pháp tỏ cho ta thấy rõ đức tính công bình, chính trực; hai đức
tính này ảnh hưởng nơi Nho giáo, cách hành xử đối với các tông đồ của Đức Khổng
Phu Tử.
Thế mà, Ngài vẫn băn khoăn trước lúc lìa trần:
Trót đã ba năm ở xứ người
Đem thân đổi lấy phút vui
tuơi
Ngờ đâu vạn sự do thiên
định.
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi,
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống
chỏi,
Buồn nhìn cội đạo luống
chơi vơi,
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời”
19 – Ông CAO HOÀI SANG (1900 - 1971)
Thánh danh Thượng Sanh Cao-Hoài-Sang
Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl. 12-02-1926)
Thi cho Thanh Thủy (Cao Hoài Sang)
Bước đời chìm nổi bấy nhiêu niên,
Tâm chí ghe phen dập lửa
phiền.
Ấm lạnh dốc tròn gương phấn đại,
Vui buồn chưa vẹn nỗi hàn
huyên.
Lòng trần nung nấu trăm
mùi khổ,
Biển ái đầy vơi một chiếc
thuyền.
Nín nẵm chờ ngày tiền quả
sạch,
Trau giồi đạo hạnh hưởng
ân Thiên.
(Diêu Trì Nương Nương –dl: 3-7-1927)
* Phần đời: Tham tá Thương Chánh.Thơ-ký Sở Hoả-xa
SàiGòn
* Phần đạo: Thượng Sanh Chưởng Quản Chi Thế
1 - PHẦN ĐỜI:
Đức Thượng Sanh thế danh là Cao Hoài Sang, sinh ngày 11-9-1901 tại xã Thái
Bình, tỉnh Tây Ninh.Thân sinh là cụ Cao Hoài Ân, Thẩm Phán đầu tiên tại Miền
Nam và thân mẫu là Bà Hồ Hương Lự (Nữ Đầu Sư Hàm-phong). Đức Ngài là con út
trong gia đình có ba anh em. Anh cả là Ngài Cao Đức Trọng (Tiếp Đạo HTĐ) và chị
là Giáo Sư Cao-Hương Cường Giám đốc Cô nhi-viện Tây Ninh.
Sau khi thi đỗ bằng Thành chung, Đức Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh
(tức Quan thuế Sài gòn) cho đến chức Tham Tá Thương Chánh rồi hồi hưu.
Trong thời gian làm công chức, Ngài còn là một Nhạc sĩ của trường Quốc Gia
Âm Nhạc, được khen tặng là công chức
thanh liêm, dù ngành thuế có nhiều cám dỗ.
Ngài có chín người con, năm trai, bốn gái.
2 - PHẦN ĐẠO:
Đau lòng vì nền Đạo bị phân chia (1937-1940):
Từ năm 1931, khởi đầu là ông Nguyễn Văn Ca tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về
lập Chi phái ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho) rồi ông Nguyễn Ngọc Tương và
Lê bá Trang về Bến-Tre lập Ban Chỉnh Đạo.
Ngày 10-11-1937 Ngài Thượng Sanh đứng đầu danh sách ra tờ Kỉnh Cáo như sau
:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
KỈNH CÁO
“Hiện thời, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Đô đã sai biệt với Chơn Truyền, bất đồng tín
ngưỡng, mất trật tự tôn ti, kém tinh thần liên lạc. Điều ấy dù không giải rõ tưởng
chư Đạo hữu cũng chán biết.
“Đem chúng sanh trở về Chánh giáo, nối chặt dây thân ái đặng cùng chung một
tín ngưỡng chơn chánh, một tôn chỉ bác ái từ bi, ấy là trách nhiệm hiện thời của
Chức sắc Hiệp Thiên Đài do theo mạng lịnh Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm
ngày 22 ...1937
"Không thái quá mà cũng không bất cập, Chức sắc Hiệp Thiên Đài sẽ cẩn
thận từ ly, từ bước một trong việc hành đạo, nguyện đem hết dạ vô tư chí thành
liêm khiết đặng bảo thủ Chơn Truyền và nêu cao danh thể Chí Tôn nơi cõi Việt…”.
Điều kiên quyết là nhờ vào Đức Thượng Phẩm và Đức Hộ Pháp buổi ban đầu: phải
nhìn nhận đầu công của hai ông này vào bực nhứt, trước hết và trên hết: Đức Chí
Tôn mượn tay và thần lực của hai ông mà lập thành Đại Đạo. Nếu không có bàn tay
xây dựng của hai ông thì:
- Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
- Đâu có chức sắc Thiên phong nam nữ
- Đâu có Hội Thánh và các cơ quan trong Đạo
- Đâu có Pháp Chánh Truyền và Tân luật.
- Đâu có đại nghiệp hiện giờ cho nhân sanh thừa hưởng"
(Trương Hiến-Pháp, Đạo sử Cơ Bút
-Tây Ninh 1969)
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Ngài rất lo âu khi nhận nhiệm vụ lịch sử của nhân
sanh và Hội Thánh Cao Đài giao phó, nhưng nếu sợ trở ngại, sợ trích điểm thì
làm sao bảo vệ được Đạo, làm thế nào để có nền Đạo ngày hôm nay. Đó là việc Đại
hội 3 ngày 8,9,10 tháng 11 năm 1935 đã đồng thanh tín nhiệm Đức Ngài cầm quyền
thống nhất Chánh trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư Chánh vị.
"Đại hội đồng bỏ thăm tín nhiệm Đức Hộ Pháp và xin đem hết tâm trí
giúp Ngài đưa cả chúng sanh đi trên con đường Thánh đức của Đức Chí Tôn
Trong khi Pháp Chánh Truyền của Đạo
Cao Đài đưa ra một loại siêu dân chủ, nghĩa là một loại dân chủ chưa có trong
xã hội loài người. Ngoài ba quyền: Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp như chế độ của
Phương Tây, nền Hành Chánh Đạo, trên hết "có Giáo Tông một vị lãnh đạo Tôn
giáo, dưới có ba vị Chưởng Pháp có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi
hành" (Pháp Chánh Truyền).
Mọi việc chi chi đều phải có ba ấn của ba vị mới được thi hành, ba vị này
giữ vai trò của Viện Bảo Hiến.
Dưới ba vị Chưởng Pháp là ba vị Đầu Sư, có Đầu Sư Đường,, không làm việc
chung ở Giáo Tông Đường.
(PCT) “Kẻ nào nắm cả trọn phần hữu hình và phần thiêng liêng thì là độc chiếm
quyền chính trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chính trị và luật lệ vào tay
thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế" .
Năm 1928, Đức Cao Thượng Phẩm bị nạn, Ngài về Tòa Thánh viếng thăm và chia
buồn, an ủi, Đức Cao Thượng Phẩm cám cảnh nảy ra lời tự thán:
THI
Công trình gầy dựng Thất
Tây Ninh
Bằng địa sóng xao khiến rập
rình
Tà mị phàm rung rinh chất
Thánh
Mùa màng sâu phá hoại hồn
kinh
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai
vãng
Nay Bửu đình hiu quạnh lụy
nhìn
Thương Đạo mến Thầy xin sớm
liệu
Cộng tâm chung trí chớ làm
thinh.
(Cao Thượng Phẩm)
Thông cảm được nỗi oan khiên của Đức Ngài, Đức Cao Thượng Sanh đã họa bài
thi trên như vầy:
HỌA VĂN
Dập dìu nào buổi Thất Tây
Ninh,
Hiu quạnh hôm nay gió rập
rình
Trước ngõ lơ thơ vài Đạo hữu
Sau hiên meo mốc mấy pho
kinh
Rừng xơ vẻ thắm chim không
đỗ
Cảnh lợt màu tươi khách biếng
nhìn
Xây dựng là ai, ai phá hoại?
Sụt sùi để bước khó làm thinh.
Năm 1946, Đức Phạm
Hộ Pháp được chính phủ Pháp trả tự do từ Madagascar về Việt-Nam rồi về Tây
Ninh. Ngày 4-8-Bính Tuất, Đức Thượng Sanh về Tòa Thánh đến thăm Đức Hộ Pháp, có
làm bài thơ cảm tác:
CẢM TÁC
Nhành lá rừng tòng đã điểm
tươi,
Còn non còn nước lại còn
người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp Bạn vầy khi khóc lộn
cười.
Nguồn Đạo xưa trông, đôi cảnh
nghịch
Thuyền từ nay lướt một dòng
xuôi.
Trời Nam thử điểm trang
tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.
Đức Cao Thượng Sanh ở lại dự lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, Bà Bát Nương giáng
cơ cho Đức Hộ Pháp bài thi:
THI
Đào Nguyên lại trổ trái
hai lần
Ai ngỡ Việt Thường đã thấy
lân.
Cung Đẩu vít xa gươm xích quỉ,
Thiên cung mở rộng cửa Hà
Ngân.
Xuân thu định vững ngôi
lương-tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã
tắc,
Mở đường quốc thể định
phong vân.
HỌA VẬN
Dựng gầy xã tắc bấy nhiêu
lần,
Mong mỏi vùng Nam đặng thấy lân.
Đảnh Việt Trời cho gìn
cảnh trí
Thuyền Nam Đạo vững lướt dòng
ngân.
Đài hoa tạc để gương
anh kiệt,
Thiên khiển dành riêng
đám tội thần.
Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,
Làm trai tua vẹn chí thanh
vân.
CAO THƯỢNG SANH
Đây coi như bản di ngôn
dài của Đức Thượng Sanh, nói lên tâm huyết về lập trường cố hữu của Ngài là phi
chính trị, thuần đạo đức. Đâu ai ngờ buổi tiệc tân niên này là buổi họp mặt cuối
cùng của Ngài với Chức sắc, công thợ và tín đồ.
3 - Hội Thánh báo tang:
Ngày 27-3-Tân Hợi (dl: 22-4-1971) Hội Thánh báo tang:
“Hội Thánh lấy làm cảm xúc thông tri cho toàn thể Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ trong
toàn quốc hay tin buồn: Đức Thượng Sanh Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài vừa qui
Thiên hồi 17 giờ ngày 26-3-Tân Hợi, liên Đài quàn tại Giáo Tông Đường Tòa
Thánh. Lễ tang sẽ cử hành trong 9 ngày theo chương trình ấn định kể từ ngày
27-3-Tân Hợi cho đến ngày 6-4-Tân Hợi (30 tháng 4 năm 1971)
sẽ nhập Bửu Tháp. Đây là tang chung cho Hội Thánh và toàn Đạo. Để tỏ lòng
tri-ân ái-kính vô biên, nồng nàn mến tiếc Đức Thượng Sanh, một bậc tiền bối đại
ân nhân đã dày công khai sáng nền Đại Đạo, để tạo hạnh phúc cho nhơn sanh,
trong buổi Tam kỳ Phổ Độ.
Hội Thánh quyết định cho tất cả Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu cùng các văn
phòng của Đạo tại địa phương cũng như tại Tòa Thánh phải treo Đạo Kỳ rũ. Toàn Đạo
nên chay lạt tịnh tâm "Di Lạc Chơn Kinh" suốt trong những ngày Thánh
lễ để cầu nguyện Ơn trên, Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng
ban hồng ân cho Chơn linh Đức Ngài được cao thăng Thiên vị.
HỘI THÁNH
Sau khi đài phát thanh Sài gòn phát tin “Cáo phó” nêu trên loan khắp miền
Nam, ở các Châu Tộc Đạo, Chức sắc, Đạo hữu lần lượt về Tòa Thánh Tây Ninh thọ
tang Đức Cao Thượng Sanh. Ai không về được thì tổ chức thọ tang tại chỗ, từ miền
Trung đến miền Nam đều tổ chức thọ tang trọng thể. Chính quyền địa phương đến
điếu tang. Đặc biệt nhất là tại Tỉnh Thừa thiên, phái đoàn của Bà Từ Cung đã đến
làm lễ nơi Thánh Thất sở tại.
4 - Công nghiệp của Đức
Thượng Sanh:
Dưới đây là bản tuyên dương công nghiệp của Hội
Thánh Hiệp Thiên Đài
"Nhơn cuộc lễ này, tôi (Trương Hiến Pháp) xin tuyên dương công nghiệp
của Đức Cao Thượng
Sanh về cả hai phương diện Đạo lẫn
Đời.
Về mặt đời: Nói đến ông, ai ai trong giới công chức và đồng bào tại thủ đô
đều hiểu rõ thanh danh của ông là một công chức đúng mực thanh liêm (3).
Là nhà chí sĩ thương dân yêu nước, ông thường giao du với hai ông Cao Quỳnh
Cư và Phạm Công Tắc. Cả ba ông là nhạc sĩ lừng danh trong giới âm nhạc tại Thủ
đô Sàigòn. Hai ông Cư và Sang được coi như các bậc Thầy. Sau khi ông Cư đăng
Tiên, ông Sang được coi như bậc "hậu tổ". Ban Âm Nhạc Đạo Cao Đài đã
nhờ Ngài chấn chỉnh rành mạch thêm…Mất Đức Ngài, giới Âm nhạc trong toàn quốc
nói chung và trong Đạo Cao Đài nói riêng, đã mất một Nhạc sư cự phách. Đáng tiếc
thay!
Về mặt Đạo:
Ngày rằm tháng 3 năm Bính Dần ông Cao Hoài Sang đắc phong Thượng Sanh một
lượt với Đức Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm. Từ đây về mặt hữu hình Chưởng quản
tối cao của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài không còn nữa.
Những tưởng Đức Ngài đến với sứ mạng Thiêng liêng để hoàn thành cơ nghiêp Đạo,
thì chắc Ngài phải được sống lâu với bổn
Đạo để tồn tại với Đại nghiệp Đạo đến cùng. Nào ngờ đâu, ta muốn vậy mà Trời
đâu cho vậy
Đã đành rằng chúng ta phải thương tiếc một Đấng Lãnh tụ anh minh như Đức
Thượng Sanh. Thương tiếc bao nhiêu thì phải noi gương của Đức Ngài bấy nhiêu để
gặt hái được một phần công quả hữu ích cho Đạo, cho chúng sanh nhờ ! Đó là sự đền
đáp công ơn với bậc tiền bối đã dày công xây dựng, lưu lại một sự nghiệp vĩ đại
cho chúng ta thừa hưởng. Vậy chúng ta hãy đứng lên và đồng tâm hiệp lực tiếp tục
xây đắp nền Đạo cao thêm mãi để khỏi phụ ơn của tiền nhân chúng ta …"
5 - Đức Cao Thượng Sanh
giáng cơ:
Một hôm sau ngày qui Thiên, Đức Cao Thượng Sanh giáng cơ tại Cung Đạo, Đền
Thánh lúc 20 giờ đêm 27 tháng 3 năm Tân Hợi.
THƯỢNG SANH
Chào mừng chư Chức sắc Thiên phong,
Chư Đạo hữu nam nữ.
Bần Đạo lấy làm vui sướng được thoát nơi phiền lụy cái kiếp sanh con người,
chỉ có giải thoát là quý hơn hết.
Hôm nay, Bần Đạo đến để thỏa mãn sự yêu cầu của quý vị, Bần Đạo không có gì
hơn là bài thi đã cho lúc Bần Đạo tái thủ phận sự, nhưng xin sửa hai câu đầu
như vầy:
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,
Nguyện đem thi thố tấm
trung kiên.
Kỳ dư đều để y như cũ. Bần Đạo còn rất
nhiều Đạo sự, không tiện ở lâu, xin kiếu.”
Thăng.
Bài thơ mà Đức Ngài làm vào tháng 7-1970 hai câu đầu như thế này:
Hội Thánh mời giao nắm Đạo quyền,
Mười ba năm một dạ trung kiên
Như vậy là Đức Ngài biết mình chỉ giúp Đạo hơn 13 năm thôi. Bài thài để
dâng hiến lễ Ngài hàng năm là :
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền
Nguyện đem thi thố tấm
trung kiên
Độ đời quyết lánh vòng
danh lợi,
Trau chí tìm noi bậc Thánh
hiền.
Từ ái làm nền an thổ
võ,
Đức ân dụng phép tạo
nhơn duyên,
Những mong huệ trạch
trên nhuần gội,
Sứ mạng làm xong giữ trọn
nguyền.
20 – Bảo Pháp Chơn Quân
NGUYỄN TRUNG HẬU
(1892-1961)
Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl. 12-02-1926)
THẦY cho ông Nguyễn Trung Hậu tự Thuần Ðức
Thuần phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
Ðức hóa thường lao mạc vị danh.
Hậu thế lưu truyền gia pháp quí,
Giáo dân bất lậu, tán thời manh.
Thi
Ðã có căn phần dựa cảnh
Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang
hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi,
Ðêm tối lần ra gặp ánh
đèn.
(Ðức Chí Tôn - 24-6-1926)
Sinh: 5-3-Nhâm-Thìn (dl: 1-4-1892)
Qui: 7-9-Tân-Sửu
(dl: 16-10-1961) lúc 16g50. Thọ 70 tuổi tại nhà riêng ở Gia-Định
Bảo-Pháp 保 法
(Fr:
Conservateur Juridique)
Bảo-pháp là vị
Thời quân thuộc chi Pháp, đặng đồng quyền cùng Hộ-Pháp khi đặng lịnh Người sai
đi hành chánh, song mỗi vị có mỗi phận-sự riêng, quyền hành riêng.
“Bảo-pháp thì
gìn-giữ sự bí-mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ đoán xét và định án chiếu y luật Đạo
rồi dâng lên cho Hộ pháp đặng Người phân xử.
“Bảo-Pháp là người Đầu-phòng-văn của Hộ Pháp”
Thầy buộc cả chi
Pháp phải thề giữ da vô tư mà hành chánh” (PCT)
Trách nhiệm của
Bảo-Pháp là bảo-tồn luật pháp, bảo hộ không cho ai được phạm đến những điều lệ
nào đã thành mặt luật” (Hiến-pháp Nhâm-Dần 1932)
Bài Thài hiến lễ:
Đối với nền Đại-Đạo
rất đặc biệt là các bậc Chức-sắc cao cấp khi qui Thiên, liền giáng đàn cho một
bài thi làm “Bài thài” hiến lễ riêng cho các Ngài:
Nhà Phật hôm nay giữ Đạo mầu,
Phiền ba nghĩ lại có vui đâu.
Tẻ đường phi thị noi đườg tịnh.
Tìm cửa Từ-bi lánh cửa Hầu.
Xác thịt trải qua miền gió bụi.
Nắm xương chờ gởi bóng tang du.
Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn…
Giọt nước nhành Dương gợi
tấm sầu.
(Bảo-Pháp Nguyễn trung Hậu)
I - THÂN-THẾ VÀ SỰ-NGHIỆP
I - Phần Đời:
Ông tên Nguyễn-văn-Hậu bút hiệu Thuần Đức, tức Nguyễn-Trung-Hậu sinh:
5-3-Nhâm-Thìn (dl: 01-04-1892) tại xã Bình hòa, tỉnh Gia-Định (nay là quận
Bình-Thạnh).
Thân sinh ông là Nguyễn-Phục-Lễ, tức Nguyễn Văn Nhiêu, bút hiệu Tiết Văn,
Đông y sĩ, làm bốn khóa Hội đồng địa hạt Tỉnh Gia Định.
Thân-mẫu là Bà Lê-Thị-Cơ người gốc Bình Định.
Ông Hậu theo Tây học, nhưng cũng biết Hán-học, lại thông minh, là thi nhân
trong văn giới Việt-Nam, tốt nghiệp trường sư phạm Gia-Định (École Normale de
Gia Định) tháng 2-1911. Khi ra trường Người được bổ làm Giáo-viên tại một trường
ở đường Taberd, trước gọi là trường “sở cọp”.Sau bị bãi bỏ mới về dạy tại trường
Tiểu học đường Richaud, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu.
Năm 1919 làm Thơ-ký cho ông Giám đốc các trường Tiểu học Sàigòn.
Năm 1922 Giám đốc trường tư thục Internat primaire de Dakao tại đường D'Ariès,
kế đổi là Tư thục Huỳnh Khương-Ninh.
Những năm sau, Người có làm Giáo sư Pháp-văn Trường Hưng-Việt, trường Nguyễn
Anh Bổn (trường Nguyễn Phan Long cũ),
trường Nguyễn Du …
Năm 1930-1931, Người vừa viết báo cho Đuốc Nhà Nam, Hoàn Cầu Tân Văn của ông
Nguyễn Háo Vĩnh, vừa làm chủ bút tờ tạp chí Pháp văn La Revue Caodaiste và năm
1932 làm chủ bút nguyệt san Đại Đồng của Liên hòa Tổng Hội do ông Nguyễn Phan Long lãnh đạo.
Đến năm 1934, vì bệnh hoạn liên miên, nhờ ông Cai tổng Trương Vinh Quy và
ông Phán Của giúp đỡ từ Cầu Kho (Saigon) về nương ngụ tại số 186/42 đường Ngô
Tùng Châu (nay là 101/71, đường Nguyễn Văn Đậu, quận Bình Thạnh) cho tới ngày
qui vị, thọ 70 tuổi.
Ông phối-ngẫu với Bà Diệp Thị Nguy
(thường gọi là Diệp Thị Quy con của ông Diệp Văn Chỉ và bà Dương Thị Kiển). Các
con hầu hết theo nghiệp Đạo.
2 - PHẦN ÐẠO
Đầu tháng giêng năm 1926, Người nghe tin quí ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh
Cư, Cao Hoài Sang cầu cơ Tiên giáng cho thi hay. Người đến nhà ông Cư xem và được
Thánh huấn của Đức Chí Tôn đến với tá danh AĂÂ:
THUẦN văn chất ĐỨC tài
cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng
vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn
kiệt,
Đến hồi búa Việtt giục cờ
Mao.
Vì điểm đúng bút hiệu Thuần Đức, nên Người đã có niềm tin. Một hôm khác,
Người bạch cùng Đấng AĂÂ rằng:
“Tôi còn nhớ hai câu đối thuở nay
chưa ai đối được, nên xin đem ra nhờ Ngài đối chơi cho vui.
Đức AĂÂ đáp:
“Bần Đạo xin hầu đối, nhưng nếu đối
ra không chững, quí vị chớ cười mà niệm tình Bần-đạo mà chấn chỉnh lại
cho".
Câu đối của Thuần Đức ra:
- "Ngồi yên ngựa đừng bò con nghé"
Đức AĂÂ đối lại:
- "Cỡi lưng trâu chớ khỉ thằng tê"
- Thuần Đức ra: "Ngựa chạy mang lạc”
- Đức AĂÂ đối lại: "Cò bay le bè"
Tất cả những người có mặt đều hết sức phục tài Đức AĂÂ. Cũng vì đó Thuần-Đức
nhập môn theo Đạo Cao-Đài từ đêm 14 rạng 15-3-Bính Dần(25 rạng 26-4-1926) thọ
Thiên phong Tiên Đạo phò cơ Đạo sĩ, cùng với Trương-Hữu Đức
Đến năm 1926 vì làm ăn sa sút, ngày 23-6-1926 (14-5 Bính Dần) Người có cầu
hỏi Đức Chí-Tôn coi nên tiếp tục hay để cho sụp đổ, thì Thầy dạy:
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo Nhơn Nghĩa miễn
vuông tròn.
Thầy đâu nỡ để môn đồ cực,
Mối đạo giữ cho ngàn thưở
còn.
Đến ngày 21-7-Bính Dần (dl: 04-08-1926)
Người tự thấy không thể đứng vững được nữa với cái trường “Internat de
Dakao” nên cùng với ông Đốc-học Đoàn-Văn Bản thỉnh giáo Thầy một lần nữa ( mỗi
người thỉnh việc riêng của mình)
Thầy giáng cho ông Thuần-Đức:
Cái khiếu thông minh con ở
đâu ?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc
sầu.
Theo lời dạy của Đức Chí-Tôn, Người giao trường lại cho ông Huỳnh Khương
Ninh rồi gia nhập phong trào Tôn giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Ngài với ông
Trương Hữu Đức lãnh đi phổ độ trong các tỉnh Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho,
Định Tường, Bến Tre.
Trước có đàn: 16-11-1925 có vị Quí Cao là một Thi sĩ đã quá vãng, bạn thơ
xưa kia, có giáng đàn cho thi:
Thương nhau nhớ lúc hứng
thơ hòa,
Sanh tịch đôi đàng phải
cách xa.
Chén rượu đồng tâm nghiêng
ngửa đổ,
Biệt ly này trách bấy Trời
già.
(Quí Cao)
Thuần-Đức họa lại:
Đêm khuya tịch-mịch gió
thu hòa,
Chạnh nghĩa kim bằng dạ
xót xa.
Đạo-lý những mong vầy một
cửa.
Ngờ đâu rời-rã buổi chưa
già.
(Thuần-Đức)
Ông Nguyễn-Trung-Hậu vốn là một nhà thơ lỗi-lạc, ký-giả có bút hiệu Thuần-Đức, giờ đây gặp được
cơ huyền diệu. Đức Chí-Tôn dùng Cơ Bút để giáo-hóa, làm tăng lòng hứng khởi, do
vậy mà bấy giờ Ngài sáng tác nhiều hơn và xướng họa thi văn với đủ các giới, từ
hữu hình đến vô hình.Ngày 15-12-1925,Ông Thuần-Đức bài thơ xướng:
THI
Mấy năm rồi cũng phủi tay
không.
Đường thế chiêm-bao một giấc
nồng.
Nặng nghiệp phong-trần buồn
với phận
Lo bề trung hiếu thẹn cho
lòng.
Trời cao chưa phỉ tình mây bạc.
Đất túng càng khinh chốn
chậu lồng.
Chờ gặp cố nhân lòng
dám hỏi:
Hỏi ra mới biết vận
cùng thông.?
Hầu như các bậc Thiên mạng đến cảnh
trần đều ngao ngán cảnh trần, chớ không phải chán đời mà tìm cách lánh đời. Chính cũng vì động cơ chán ngán ấy
thúc đẩy mà quyết ra tay cứu đời, quyết làm theo lời Thầy dạy-dỗ để sẵn-sàng
“Tu mà cứu thế dễ như không”! Ông Quí-Cao giáng đàn họa:
THI
Một tiếng U-minh gióng cửa
Không.
Phồn-hoa giựt tỉnh giấc
đương nồng,
Ngồi thuyền Bát-Nhã qua
tình biển.
Mượn nước nhành Dương rưới
lửa lòng
Cuộc thế lạnh-lùng làn gió
lọt
Đường đời ngán-ngẫm bụi trần
hồng,
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên
Đạo.
Oan trái phủi rồi phép Phật
thông.
(Quí-Cao)
Đầu tháng tư Đinh-Dậu (tháng 5 năm 1957) Ngài cùng với Đức Thượng Sanh và
quí vị Thời Quân về Tòa Thánh tái thủ phận sự. Ngày 15-4-Đinh Dậu
(dl:14-5-1957). Ngài được Hội Thánh cử làm Giám đốc Hạnh Đường dạy lớp bồi dưỡng
Giáo-Hữu và Lễ-Sanh, đúng theo chơn truyền của Đạo. Trong thời gian này Ngài
tái lập Ðạo Đức Văn Đàn, mà trước đây do Ngài Cao Tiếp Đạo bút hiệu Huyền
Quang, Chánh Đức, đứng ra thành lập vào năm 1950 và chỉ hoạt động được hai năm.
Ngài dạy về niêm luật Đường thi được nhiều người hưởng ứng nên sau ngày cải
táng Ngài về đất dành riêng cho Thập Nhị Thời Quân thì quí thi gia trong Đạo Đức
Văn Đàn có xuất bản tập “Hoài niệm THUẦN ĐỨC Tiên sinh” (năm 1974, Giáp Dần). Tập
Hoài Niệm này được Ngài Hiến pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ghi “Lời hoài cảm”.
Vì tuổi già sức yếu (bị huyết áp cao) ngày 24 tháng 12 năm 1958 (Rằm tháng
11 năm Mậu Tuất) Ngài trở về Gia Định dưỡng bịnh. Trong cuộc chính biến ngày
11-11-1960, do nhóm người tổ chức đã tự ý để tên Ngài vào bản tuyên ngôn nên
sau đó Ngài bị nhà cầm quyền Sàigòn cũ tạm giữ một tháng năm ngày từ ngày
18-11-1960 đến 22-12-1960. Trong thời gian bị tạm
giam, Ngài có làm 12 bài thi. Trong bài cảm thuật có 2 câu:
Ai biết ta chăng ta tự biết,
Riêng hiềm có miệng cũng
như câm.
Từ đó Ngài sống thanh đạm tại gia-đình, với các con, an hưởng tuổi già.
Ngài cũng thường làm thơ tự thuật, tả cảnh, tả tình gói niềm tâm sự trong các vần
thơ và cũng trong thời gian này Ngài thường xướng họa thơ với các thi sĩ lão
thành trong Nam Phong Thi Xã.
Năm 1961: Ngài qui Thiên sau một cơn bạo bịnh tại tư gia. Thời gian bịnh
kéo dài đúng một trăm ngày, Ngài thoát xác qui thiên tại Gia-định vào lúc 16 giờ
50 ngày 7 tháng 9 năm Tân Sửu (dl: 16-10-1961). Tang lễ được Hội Thánh cử hành
theo lễ Đạo trong 5 ngày và tạm an táng tại nghĩa trang gia đình tại Cây Quéo.
3 - Sự nghiệp văn chương:
Ngoài việc viết báo, Ông Thuần Đức có dịch đăng báo một số ít tiểu thuyết từ
Pháp văn ra Việt văn. Nhưng sự nghiệp thi phú của Người là nổi bật hơn hết.
Người bước vào làng thơ năm 19 tuổi (1911)
với bài tự thuật có hai câu chuyển kết :
Cạn trần chưa biết ai là bạn,
Liều với xuân xanh bút một
ngòi.
Bài thơ cuối của Người đề ngày 30-6-1961, đúng 108 ngày trước ngày Người về
chầu Chí-Tôn, là “Thôn chiều buồn” trong
đó có cặp trạng báo trước tâm sự người sắp
ra đi:
Khoanh tay đứng ngóng thuyền
xa bến,
Đứt ruột ngồi nghe nhạn gọi
đàn.
4 - Tiểu-sử của Bảo-Pháp Nguyễn-Trung-Hậu
Do Ngài Hiến-Pháp Chưởng-quản Hiệp-Thiên-Đài tuyên đọc trong dịp Lễ Di táng
Liên-đài Ngài Bảo-Pháp về đất Thập Nhị Thời-quân (Ao Hồ) ngày 7 tháng 9 năm
Giáp-Dần (dl: 21-10-1974)
…Ngài tên thật là Nguyễn-Trung-Hậu tự Thuần-Đức tức Nguyễn-Trung-Hậu, sanh
năm 1892 tại Bình-Hòa-xã, tỉnh Gia Định, con của cụ Nguyễn-Phục-Lễ và Bà Lê thị
Cơ (vị hôn thê của Ngài là Diệp thị Qui). Ngài có 8 người con; 5 trai, 3 gái đều
là người học thức và noi theo chí cả của Ngài và chung lo phục vụ Đạo.
Thuở thiếu thời, Ngài theo Tây học và cũng biết một ít Hán học, nhưng Ngài rất thông minh, sáng
suốt, học ít biết nhiều và nổi tiếng là một thi nhân trong văn-giới miền Nam,
tánh của Ngài rất cương trực, thẳng thắn, không chịu khuất phục trước bạo lực.
Ngài tốt nghiệp trường Sư-phạm, nên được bổ làm Công chức, sau xin nghỉ việc
về nhà lập Tư thục Internat de Dakao, kế đó đổi lại Trung học Huỳnh-Khương-Ninh.
Nhưng qua một thời gian rồi giao lại cho Ông Ninh. Ngài vẫn tiếp tục dạy học ở
các trường Trung-học Huỳnh-Công-Phát, Nguyễn-Du, Nguyễn-Anh-Bổn, đồng thời cộng
tác với báo Đuốc nhà Nam, thời Ông Nguyễn Phan Long làm chủ nhiệm, nhất là với
tạp chí La Revue Caodaiste và về sau Ngài mở lớp dạy Pháp-văn tại tư gia, cơ sở
này hiện nay được con cái tiếp tục quán xuyến và đổi danh thành trường Trung-học
Thuần Đức. Với một Thiên tài, học ít biết nhiều, đặc biệt là về văn Nho, Ngài học
ít nhưng rất lỗi-lạc, người Tàu phải kính phục.
Tôi còn nhớ lúc nọ, Đức LÝ Đại Tiên
giáng cơ khen tặng và ý nói rằng “Ai muốn xin liễn thì hãy xin nơi Hậu”. Bằng cớ
là đôi liễn nơi thuyền Bát-Nhã là của Ngài cho rất hay mà ai ai cũng đều công
nhận.
“Vạn sự viết vô, nhục thể
thổ sanh hoàn tại thổ,
“Thiên niên tự hữu linh hồn
thiên tứ phản hồi Thiên”
Khi Ngài về tư gia nghỉ ngơi để bồi dưỡng lại sức khỏe, nhưng thiên số định
kỳ, vào năm 1961, sau cơn bạo bịnh Ngài đăng Tiên, tại nhà riêng ở Gia-Định vào
lúc 16g50 ngày 7 tháng 9 năm Tân-Sửu, hưởng
thọ được 70 tuổi…
Hiến-Pháp Chưởng-quản Hiệp-Thiên-Đài.
Trương-Hữu-Đức
(13 năm sau Ngài Bảo-Pháp qui Thiên,
vào giữa năm Giáp Dần (1974) Ngài ứng mộng cho gia đình và các con yêu cầu Hội-Thánh
xin cải táng hài cốt của Ngài về Thánh-địa trong năm 1974. Được Hội-Thánh chấp
thuận. Ban Nhà thuyền Trung ương do ông Giáo-sư Thái-Hồ Thanh hướng dẫn Đạo tỳ
đến phần mộ, đem quan tài ra)
5 - Lễ truy điệu và nhập Bửu tháp của
Cố Bảo-Pháp Chơn Quân
Theo lời yêu cầu của gia đình Ngài Cố Bảo-Pháp Chơn Quân Hiệp-Thiên-Đài
Nguyễn Trung Hậu đã được Hội-Thánh chấp thuận. Hài cốt của Ngài đã được truy điệu
và nhập Bửu tháp tại Tòa-Thánh (Ngã ba Ao Hồ)
Hội-Thánh Cung Thỉnh bửu ảnh vào Hiệp-Thiên Đài Đền Thánh. Hội-Thánh cầu
nguyện Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng ban ân cho Ngài được cao thăng
Thiên vị. Sau đó được di đến Bửu tháp (ngã ba Ao Hồ).
21 - ÔNG TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(1890-1976)
Thánh danh: Hiến pháp
Trương Hữu Đức
- Phần đời : Thư ký Sở Hỏa xa
- Phần đạo : Hiến Pháp Hiệp Thiên
Đài
I - PHẦN ĐỜI:
Ngài Hiến Pháp tên thật là Trương Hữu Đức sanh ngày 2-2-Canh Dần (1890) tại
Hiệp Hòa, (Chợ Lớn) con ông Trương Văn Tựu
(Thiên Phong Giáo sư phái Ngọc) và bà Lê Thị Nhụy. Ngài làm việc tại Sở Hỏa Xa
Sài gòn, sau bị buộc
sang làm thông dịch viên cho Sở Mật Thám Nam Kỳ. Đến năm 1952, Ngài về nghỉ hưu
ở Hiệp Hòa.
II - PHẦN ĐẠO:
Năm 1925, Ngài sang nhà ông Cao Quỳnh Cư quan sát các ông Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Cư xây bàn. Ngài hoài nghi nên về tập làm thử thì
vong linh người anh nhập bàn cho hai vị thuốc trị lành bệnh hậu của Ngài trên
20 năm qua. Ngài bắt chước Đức Hộ Pháp chấp bút chỉ được một lần duy nhất:
Minh Đức mừng nay đã gặp
Thầy
Chẳng còn ao ước cái không
hay
Mừng câu Âu, Á càng thêm mặt,
Mừng Nậu côn đồ đã chịu
chay.
Ngày khai đạo: 15-10-Bính Dần: Ngài đắc phong Hiến Pháp, hợp cùng Bảo Pháp
là cặp cơ truyền Đạo. Lắm lúc phải đi suốt đêm, có đêm Ngài phải lên tận chùa
Gò Kén để chấp cơ cho nhơn sanh nhập môn cầu đạo.
Ngài cũng nhờ Ơn trên bố hóa mà trị được các bệnh phù thủng, dịch tả, cảm,
rất huyền diệu; trị bệnh bằng nhân diện chỉ xảy ra trong giai đoạn đầu mà thôi
và chấm dứt huyền diệu đó vào năm 1927 khi có lệnh ngưng Cơ Bút.
Năm 1955, khi quốc-gia-hóa quân đội Cao Đài, Ngài mới trở về Tòa Thánh làm
việc. Năm 1956 Ngài cùng Ngài Bảo Thế thay mặt Hội Thánh ký thỏa ước Bính thân,
cam kết Đạo không làm chính trị. Mặc dù Ngài không nhận đại diện cho phong trào
Hòa bình Chung Sống nhưng vẫn bị Chánh Quyền cấm trú hai năm tại Sài-gòn.
Năm 1962 Ngài về Tòa Thánh nhận chức vụ Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Trưởng
Ban Kiểm Duyệt, Ban Đạo Sử, rồi Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, sau đó lên thực
thụ. Thời Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài, Ngài tiếp tục xây dựng cơ sở Đạo, phò cơ
với Ngài Khai Đạo phong ba vị Bảo Quân và ba vị Phối Sư. Vì tuổi già sức yếu,
Ngài qui Tiên năm 1976, hưởng thọ 86 tuổi.
1 - Sự ngộ nhận danh-từ của người Pháp về
“ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ”
Khi còn làm việc ở Sở Mật Thám Nam Kỳ Ngài đã cứu Đạo ra khỏi sự hiểu lầm trầm
trọng. Vốn là Đức Cao Thượng Phẩm ban hành bản "Cáo phó
chúng sanh", ngoài bìa có đề: ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ mà không có chữ Hán
nên Nha Tổng Giám đốc Sở Mật Thám Hà Nội dịch là "Đạo lớn cứu vớt ba kỳ".
Ngài phải dịch là "Đạo lớn mở lần thứ ba". Nền Đại-Đạo đã phải chịu một
phen khảo-đảo nặng nề là người Pháp hiểu lầm danh-từ: “Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ” 大 道 三 期 普 渡
Với thời điểm khai Đạo là năm Ất-Sửu, qua năm Bính-Dần (khoảng 1925-1926).
Việt-Nam đang thời kỳ Pháp-thuộc nên mọi việc đều chịu sự kiểm-soát của ngoại
bang là người Pháp. Đạo Cao-Đài xuất hiện trong thời buổi khuynh-nguy đó.
Sau khi Ông Cao-Quỳnh-Cư (tức Thượng Phẩm) có ra một bản “Phổ-cáo
chúng-sanh” để truyền-bá Đạo Cao Đài, trên bìa Bản Phổ-cáo ấy có đề tựa: “Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ.” Lần đầu, Bản phổ-cáo ấy không có kèm theo chữ Hán, nhưng lần sau Ông Cư có ghi thêm mấy
chữ Hán: Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ 大 道 三 期 普 渡
Để tượng-trưng Tam-giáo Qui nguyên, ngoài bìa Bản Phổ-cáo có vẽ hình ba vị Giáo-chủ là Đức Thích-Ca, Đức
Lão-Tử, Đức Khổng-Tử.
Bản Phổ-cáo chúng-sanh in lần đầu được gởi ra Nha Tổng-Giám-đốc Mật-thám
Hà-Nội để dịch ra Pháp văn, nhưng người Thông-dịch-viên ngoài ấy lại dịch câu tựa:
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ là một nền Đạo lớn mục đích để cứu-vớt ba kỳ. Lúc đó nhà
cầm quyền Pháp để ý theo-dõi hành-vi của Đạo Cao-Đài rất gắt, nên Hà-nội gởi
bài dịch văn ấy vào Nam hỏi Ông Chánh-án Sở Mật-Thám Nadau: Có phải Đạo Cao-Đài
làm Chánh-trị không? Để giải tán! Nhằm lúc ấy, Ông Nadau tin dùng ĐỨC (tức là ông Trương-Hữu-Đức, sau đắc phong là
Hiến-Pháp Hiệp Thiên-Đài) nên Ông mới hỏi bài dịch ấy có đúng không?
Đức trả lời: - Không đúng!
Vì nguyên-văn câu ấy có nghĩa là: Đại-Đạo mở lần thứ ba để độ-rỗi, chớ
không phải cứu vớt ba kỳ (vì bấy giờ ba kỳ trong Liên-bang Pháp là Nam, Trung,
Bắc của Việt Nam đang bị Pháp đô hộ). Để trưng bằng-cớ cụ-thể, Đức đem tài-liệu
về Bản Phổ-cáo trao cho Ông Nadau xem, vì ông
Nadau cũng biết chữ Hán.
Ông liền gởi phúc-trình ra Hà-Nội giải thích rõ việc ấy. Nhờ đó mà Đạo khỏi
bị giải-tán và người Đạo cũng đỡ khổ. Đó là một bằng chứng “Đức cứu Đạo”.
Lúc nọ ông Đức được Chánh-Sở Mật Thám Nam kỳ là ông Nadau mời đến để giao
cho chức-vụ Thông dịch viên sở ấy. Trước khi nhận lời, Đức có cầu Cơ thỉnh-giáo
cùng Đức Chí-Tôn, vì lúc bình-thường Đức không thích giúp việc cho Sở ấy, là sở
không có cảm-tình đối với dân chúng. Đức Chí-Tôn lại dạy Đức nên qua đó giúp việc
cho sở ấy vì sẽ có cơ-hội “Cứu Đạo”.
Quả thật, đây là cơ-hội “Đức cứu Đạo” đã đến như lời Đức Chí-Tôn dạy.
22 – Ông HUỲNH-TRUNG-TUẤT
(1873-1947)
Nghiệp Chủ Chợ Đủi Sài-Gòn
Ông Huỳnh Trung Tuất có vợ là bà Nguyễn thị Hoà (1873-1947) ông bà có BA
người con là: Huỳnh văn Sơn (thọ phong
Giáo Hữu ngày 17-9-Bính Dần). Huỳnh văn Cao và Huỳnh văn Vạn.
Ông là người gốc ở Rạch Kiến, Cần Giuộc, theo Nho học. Ông Huỳnh Trung Tuất
có chủ trương kháng Pháp, điển hình là việc tham gia phá khám lớn, giải cứu
Phan Xích Long (1916). Ông làm Hộ Trưởng và có nhà vùng Chợ Đũi, nên thường được gọi là ông Hộ Tuất. Ông
nhập môn tháng 2 năm Bính Dần, thọ phong Lễ Sanh ngày 23-8-Bính Dần. Ông cũng
tách khỏi Toà Thánh.
Về sau ông lập Thánh Tịnh Ngọc Tuyền tại tư gia (sau là Thánh Thất Chợ Đũi)
hẽm 306 Nguyễn thị Minh Khai. Quận 3 ngày nay. Thánh Thất hiện nay cũng không
còn. Ông Huỳnh Trung Tuất qui vị ngày 28-12-1947, an táng tại thổ mộ gia đình
vùng Ông Tạ (Hoà hưng).
23 - Ông NGUYỄN-VĂN-CHỨC
(1873-1956)
Cai Tổng Chợ-Lớn
Ông Nguyễn văn Chức có người vợ là Bà Trần thị Trầm (1871-1947). Năm 1926,
ông đang làm Cai Tổng Phước điền Trung, được Ngài Nguyễn Ngọc Tương chủ Quận Cần
Giuộc khuyến khích nên đã nhập môn vào cửa Đạo Cao-Đài.
Ông đã xây dựng nhiều công trình phúc lợi cho dân địa phương như đắp đường,
làm cầu (Cầu Thầy Cai..)
Ông Nguyễn văn Chức qui vị ngày 24-4-1956. Mộ phần ông bà hiện ở Ấp Thuận Bắc,
xã Thuận Thành, Cần Giuộc.
24 – Ông Lại văn Hành
(1878-1939)
Hương Cả Chợ-lớn
Ông nhập môn vào Đạo Cao-Đài ngày 29-8-Bính Dần tại Đàn Tân Kim, lúc ấy ông
đang làm Hương Cả.
Ông có vợ là bà Trần thị Chốt (1885-1968).
Năm 1930, ông có hiến một mẫu đất tại ấp xóm Cống (Bến Lức) để xây dựng nên
Thánh Thất Long Phú Sau rồi ông cũng rời Toà Thánh Tây-Ninh hiệp vào Chi phái Bến
Tre (nay thuộc ban Chỉnh Đạo)
Ông Lại văn Hành qui vị vào năm 1939, an táng tại Thánh Thất Long Phú.
25 - Ông NGUYỄN-VĂN-TRÒ (1886-1949)
Giáo-viên Sài-gòn
Ông là con thứ 9 của ông Nguyễn văn Lừa (1846-1914) và bà Nguyễn thị Lộc
(1847-1942) ông có vợ là Bà Dương thị Ngại (1885-1965). Nhị vị có một gái là bà
Nguyễn Như Ý.
Ông Học Ecole
Normale d’Instituteurs.
Năm 1926, ông
Nguyễn văn Trò làm Giáo viên ở Sài gòn. Ông nhập môn vào Đạo Cao Đài. Sau đó
ông rời Tây Ninh và theo phái Bến Tre. Ông có hiến đất nhà xây dựng nên Thánh
Thất Tân-Hương (nay thuộc ban Chỉnh-Đạo).
Khoảng 1940, Thánh Thất Tân-Hương bị thiêu huỷ, nhờ các vật dụng dỡ từ Thánh Thất
Cầu Kho nên bổn Đạo tạm dựng lại được phần nào, đến nay đã ổn định khang trang
.
Ông Nguyễn văn Trò qui vị ngày 25-7-Kỷ Sửu (1949). Mộ phần ông đặt tại
Thánh Thất Tân Hương, tỉnh Long An.
26 - Ông NGUYỄN-VĂN-HƯƠNG
Giáo viên Đa-Kao
* * *
27 - Ông
VÕ-VĂN-KINH
(1880-1946)
Giáo Tập Cần-giuộc.
Người làng Thanh Hà, xã Tân Kim, Cần Giuộc. Từ nhỏ,
ông sống với mẹ là bà Lê Thị Liên. Ông lập gia đình với bà Lê thị Ngưu. Ông bà có bốn người con: người đầu mất sớm, kế đến là bà Võ thị Cúc (An), ông Võ văn Nhàn và bà Võ thị Thủ (Thạnh).
Ông Võ văn Kỉnh dạy Quốc ngữ tại trường Qui Đức cho đến
khi về hưu. Ông dạy thêm chữ Nho tại nhà. Trước lúc nhập môn vào Đạo Cao Đài (dl: 5-3-1926 ), ông Giáo Kỉnh có thời gian khoảng ba năm tu học với Hoà Thượng Nhứt Thiện trên đỉnh núi Bà Đen.
Sau khi nhập môn, ông Võ văn Kỉnh tích cực hành Đạo, được thọ phong Lễ Sanh
ngày 17-5-Bính-Dần (1926), nhưng sau đó thì ông rời bỏ Toà Thánh và qua chi
Phái Bến Tre, tức là Ban Chỉnh Đạo.
Ông Võ văn Kỉnh qua đời vào ngày 15-12-Bính Tuất (1946), an táng tại đất
nhà làng Thanh Hà. Khoảng năm 1980, gia đình đã bốc mộ lưu tro tại chùa Huê
Nghiêm (An Dưỡng Địa) Phú Lâm.
28- PHẠM-VĂN-TỈ
(1887-1949)
Giáo-tập Cần giuộc
Theo Đạo-sử của Bà Hương Hiếu thì nguyên ông Phạm-văn-Tỷ là Giáo tập ở Quận
Cần-giuộc. Ông được Ơn Trên thâu nhận vào Đạo ngày 20-3-1926 tại đàn Tân Kim,
vì Ông thường đến hầu Đàn nơi Đàn Tân-kim (Quận Cần-Giuộc). Đàn này lập tại nhà
Ông Nguyễn-văn-Lai (nguyên Hội-Viên Hội Đồng Quản Hạt).
Phò loan: Ông Ca-Minh Chương (Nguyên là Lão-sư Minh-Sư và ông Phạm văn
Tươi.
Hầu đàn gồm có các ông Nguyễn-Ngọc Tương chủ Quận Cần-giuộc, Lê-văn-Lịch trụ
trì chùa Vĩnh Nguyên, Phạm-văn-Tiếp, Phạm văn Tỷ, Phạm văn Nhơn, Võ-văn Kinh.
Ông Phạm-văn-Tỷ được thọ phong phẩm Lễ-Sanh ngày 17 tháng 5 năm Bính-Dần
(1926).
Trong gia đình ông thứ sáu, người em ruột thứ chín là ông Phạm văn Tươi,
cùng theo Đạo Cao-Đài, sau này là Hiến Đạo, một trong Thập Nhị Thời Quân của
Toà Thánh Tây Ninh.
CHƯƠNG III
THIÊN PHONG CHỨC SẮC
Thầy dạy: “Các con, phần nhiều chư Môn Ðệ ham muốn phong tịch, nhưng chưa
hiểu phong tịch là gì? Thầy để lời cho các con biết rằng: Nhiều Thánh, Tiên, Phật,
xuống phàm nếu căn quả tiền khiên không mấy trọng hệ, nghĩa là kiếp trần duyên
không chi phải nhơ bợn nhiều, thì dầu không Thiên Phong hễ gắng tâm thiện niệm
thì địa vị cũng đạt hồi đặng. Thiên Phong là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật, lìa
trần phải lắm dày công cùng sanh chúng mới trông mong hồi cựu phẩm đặng. Các
con nên nhớ Thầy lấy từ bi phong tịch, nhưng các Chức Sắc nếu vì áo mão hơn vì
đạo đức thì tội chất bằng hai.”
A - Đây là Thiên phong Chức Sắc
Từ năm Ất Sửu (1925) đến năm Kỷ Tỵ (1929)
Chưởng Pháp:
- Tương (Minh Sư) Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo Sĩ, "Chưởng
Pháp phái Thượng". Ngày 24-07-Bính Dần.
- Như Nhãn (Huề Thượng Giác Hải)- Quan Pháp Truyền Sư
Thích Ðạo Chuyển Luật Linh Diệu Ðạo Sĩ, "Chưởng Pháp phái Thái"
- Thụ (Minh Sư ở chùa Vĩnh Nguyên Tự)
Nho Tông Chưởng Giáo Tuyến Ðạo Thuyền Sư Ðại Ðức Ðại Hòa Ðạo Sĩ,
"Chưởng Pháp phái Ngọc" Ngày 10-9-Bính Dần.
* Ðầu Sư:
- Lê Văn Trung- Thượng Trung Nhựt-
Rằm-3- Bính Dần.
- Lê Văn Lịch Ngọc Lịch Nguyệt- Rằm tháng 3 Bính Dần
- Thiện Minh- Thái Minh Tinh- Ngày
13-10-Bính Dần.
* Phối Sư (Phái Ngọc)
Lê Bá Trang- Ngọc Trang Thanh- Mùng 3-7 Bính Dần.
Phối Sư (Phái Thượng)
Tương (Phủ)- Thượng Tương Thanh-
17-05-Bính Dần.
Hóa- Thượng Hóa Thanh- Ngày 19-08-Bính Dần
Phối Sư (Phái Thái)
Nguyễn Ngọc Thơ- Thái Thơ Thanh-
02-07-Bính Dần.
* Nữ Phái:
- Lâm Thị Thanh- Nữ Giáo Sư, Thiên
Ân là Hương Thanh
- Ca Thị Thế- Phó Giáo Sư, lấy Thiên
Ân là Hương Thế.
- Ðường Thị- Ðã thọ Thiên sắc, cứ giữ
địa vị mình.
- Ðạo Minh: "Cô Sáu"- Nữ Giáo Sư- Mùng 4-11-Bính Dần
(Chùa Hạnh Thông Tây).
* Giáo Sư (Phái Ngọc)
Kinh Ngọc Kinh Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Vân Ngọc Vân Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Ðạt Ngọc Ðạt Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Mùi Ngọc Mùi Thanh Mùng 8 tháng 6 Bính Dần.
Thông Ngọc Thông Thanh Ngày
28-09-Bính Dần.
* Giáo Sư (Phái Thượng)
Kỳ Thượng Kỳ Thanh Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Ðạo Giáo Sư ( 15-3-Bính Dần).
Kim Thượng Kim Thanh Ngày 17 tháng 5 Bính Dần.
Chức Thượng Chức Thanh Ngày 19 tháng 8 Bính Dần.
Hành Thượng Hành Thanh Ngày 29 tháng 8 Bính Dần.
Vinh Thượng Vinh Thanh Ngày 09 -09 Bính Dần.
Ðịnh Thượng Ðịnh Thanh Ngày 28 tháng 9 Bính Dần.
Hoài Thượng Hoài Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Hoài Thượng Hoài Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Hoài Thượng Hoài Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Lai Thượng Lai Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Son Thượng Châu Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Búp Thượng Búp Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Viễn Thượng Viễn Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Tín Thượng Tín Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Nhơn Thượng Nhơn Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần.
Rút một đoạn Thánh giáo ngày Rằm tháng 10 Bính Dần (Vendredi Novembre
1926):
- Các con cứ lấy tên mình mà lót giữa và để chữ Thượng trước, duy có Son
tên chữ Nôm, Thầy sửa lại là Châu
Giáo Sư (Phái Thái)
Nhung Thái Nhung Thanh Rằm tháng 7 Bính Dần
Luật Thái Luật Thanh 22 tháng 7 Bính Dần
Bính Thái Bính Thanh 07 tháng 8 Bính Dần.
* Giáo Hữu (Phái Thượng)
Giỏi Thượng Giỏi Thanh 23-8-Bính Dần.
Bản Thượng Bản Thanh (Tiên Ðạo Công
Thần Thuyết Ðạo Sư, Rằm tháng 3 Bính Dần).
25-8-Bính Dần
Giảng Thượng Giảng Thanh 25 tháng
chạp Bính Dần
Phạm Văn Thấp Thượng Thấp Thanh 17-09-Bính Dần.
Huỳnh Văn Sơn Thượng Sơn Thanh
17-09-Bính Dần.
Lê Văn Cúc Thượng Cúc Thanh 17-09-Bính Dần.
Nguyễn Văn Phương Thượng Phương Thanh 17-09-Bính Dần.
Võ Văn Kinh Thượng Kinh Thanh 17-09-Bính Dần.
Bùi Văn Thiên Thượng Thiên
Thanh 17-09-Bính Dần.
Nguyễn Văn Cúc Thượng Cúc Thanh 17-09-Bính Dần.
Nhơn Thượng Nhơn Thanh 27-09-Bính Dần.
Nghi Thượng Nghi Thanh 27-09-Bính Dần (Rạch Giá).
Lân Thượng Lân Thanh 02 tháng 09 Bính Dần (Vũng Liêm)
Bích Thượng Bích Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần (Cần Thơ).
Huỳnh Văn Tuất Thượng Tuất Thanh Rằm tháng 10 Bính Dần (SàiGòn).
Trịnh Văn Kỳ Thượng Kỳ Thanh 21-10-Bính Dần (Tây Ninh).
Sâm Thượng Sâm Thanh 26-10-Bính Dần
(Chợ Lớn).
Tu Thượng Tu Thanh 26-10-Bính Dần (SàiGòn).
Ty Thượng Ty Thanh 26-10-Bính Dần (Cần
Giuộc).
Tiếp Thượng Tiếp Thanh 26-10-Bính Dần (Cần Giuộc).
Tường Thượng Tường Thanh 26-10-Bính Dần (SàiGòn).
Bùi Văn Dứa Thượng Dứa Thanh
28-10-Bính Dần(Tây Ninh).
Kiệt Thượng Kiệt Thanh 30-10-Bính Dần.
* Lễ Sanh:
Bản 14-05-Bính Dần
Giảng 14-05-Bính Dần
Tường 14-05-Bính Dần
Giỏi 14-05-Bính Dần
Nhơn 17-05-Bính Dần.
Kinh 17-05-Bính Dần.
Tỵ 17-05-Bính Dần.
Tiếp
17-05-Bính Dần.
Tuất
23-08-Bính Dần.
Nguyễn Văn Trò 25-08-Bính Dần
Hương 25-08-Bính Dần
Của
26-10-Bính Dần
Học 26-10-Bính Dần
Huỳnh Văn Ðáng 26-10-Bính Dần
Qui
26-10-Bính Dần
Ðờn 26-10-Bính
Dần
Thuận 26-10-Bính Dần
Phi
26-10-Bính Dần
Bảo 26-10-Bính
Dần
Trần Văn Xương 26-10-Bính Dần
Trần Văn Uông 26-10-Bính Dần
Tạ (Trần Văn Tạ) 26-10-Bính Dần
Hoằng
Mắc Mục Thanh Phụ Ðạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân
26-10-Bính Dần
Phò Loan:
Ðức, Hậu Tiên Ðạo
Phò Cơ Ðạo Sĩ
Nghĩa, Tràng Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ
Tươi, Chương Tiên Ðạo Phò
Cơ Ðạo Sĩ
Kim, Ðãi Tiên Ðạo
Phò Cơ Ðạo Sĩ
Mai, Nguyên Tiên Ðạo Phò
Cơ Ðạo Sĩ
Mạnh, Phước Tiên Ðạo Phò
Cơ Ðạo Sĩ
Cao Hoài Sang
Thượng Sanh.
Phạm Công Tắc Hộ Pháp
(Hộ Giá Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)
Cao Quỳnh Cư Thượng Phẩm
(Tá Cơ Tiên Hạc Ðạo Sĩ, ngày 15-03-Bính Dần)
Trong tập nầy chưa biên tên những vị đi tình nguyện phổ cáo Trung Kỳ và Bắc
Kỳ.
Mắc Mục Thanh - Phụ Ðạo Chưởng Nghiêm Pháp Quân 26-10-Bính
Dần
Mắc, con nghe: (Nguyễn Văn Mắc)
Chánh tà con đủ thấy con
đường,
Biết ý rằng Thầy để dạ
thương.
Làm lụng công trình ra sức
trẻ,
Giữ gìn cho vẹn đạo tào
khương.
Thầy biết lòng con, con hiểu dạ Thầy, gắng công hành Ðạo nghe.
Mắc! Mời Mắc, Ái nữ nghe.
Vợ Tư Mắc: Thầy dạy:
Nắm chặt trăm năm một chữ
đồng,
Hễ chồng thì của vợ thì
công.
Trợ nguy tế hiểm con ra sức,
Ðạo đức chung lo trọn tấc
lòng.
Thầy cám Ái nữ. Mắc ! Vợ con nó lại bị khiếm huyết mà biến nhiều bịnh; mùa nầy
chẳng nên uống thuốc Tàu, Thầy dặn con tuân theo toa Thầy mà cho nó uống
Bilinne
B - Thánh danh CAO-ĐÀI
“Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao-Đài Tiên ông Đại Bồ Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo
Nam phương”.
Có nghĩa là: Xưa gọi Đấng “Ngọc Hoàng Thượng Ðế” là tiếng gọi chung, nay buổi
Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Ðấng “Cao Ðài Tiên Ông Ðại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát” Ngài đến dạy
Đạo tại miền Nam nước Việt Nam của chúng ta.
Danh xưng này có ý nghĩa là Qui Tam Giáo gọi là Tam Giáo Qui nguyên:
- Cao-Đài là tượng-trưng cho Nho-Giáo.
- Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật Giáo.
Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản
Càn Khôn vũ trụ là một mà ba, mà ba cũng như một là vậy.
Thầy dạy:
“Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà
hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát
là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình
vào phẩm tối-cao
tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng
là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho Thầy là nhỏ. Cười..!.
“Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa
con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải
khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói
buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi,
đâu đến nhọc công Thầy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét