Tiểu Sử 28 Vị Tiền Khai Đại Đạo - 2 / 4 (Nữ Soạn giả Nguyên-Thủy)

Đây phải thấy rõ không ai phủ nhận rằng Thầy đã ban quyền Giáo Tông cho Ông Ngô văn Chiêu trong 10 ngày, nhưng ông Chiêu không được vinh-hạnh hưởng phẩm ấy vì bị quỉ khảo nên ông bị rớt ngôi Ngôi Tông.

Tuy nhiên con số 3 chỉ ngôi Giáo Tông vẫn tròn đầy:
- Đức Lý là Giáo Tông vô vi, thuộc về Thần
- Đức Quyền Giáo Tông, trung gian giữa vô và hữu là Khí.
- Ngài Ngô văn Chiêu có công kêu gọi thuộc về Tinh.

Tinh-  Khí-  Thần đã hiệp thành Tam Bửu vậy.
Kết luận: Trong thời Tịch đạo Thanh Hương, nơi cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này, ngòai ba vị Giáo Tông kể trên thì không một ai được xứng danh là Giáo Tông cả.

2 . Châu tri báo tang của Hội Thánh:
Đức Quyền Giáo Tông bị chói nước mang bịnh sốt rét rừng phải nằm nhà thương. Chẳng ngờ bịnh trở nặng, nóng nhiều, uống thuốc vô ói ra hết, không ăn, rồi qui Tiên. Toà Thánh báo tin như sau:
 “Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ rất đau đớn mà cho chư Hiền huynh, Hiền tỷ hay tin buồn: Đức Quyền Giáo Tông đã qui Tiên tại Giáo-Tông-Đường ngày 13-10-Giáp Tuất (19-11-1934) hồi 3 giờ chiều hưởng thọ 59 tuổi.
Lễ tống chung định ngày 26-10-Giáp Tuất đúng 9 giờ sớm mai”.

03 - Ông Lê-văn-Lịch (1890-1947)
Thánh danh Ngọc Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt

Thánh ngôn Thầy dạy:
Ngọc Ðàn Vĩnh Nguyên Tự  (Cần Giuộc)
Thứ bảy ngày 17-7-1926  (âl 8-6-Bính Dần)

Thầy,
 “Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ. Ðại hỉ! Ðại hỉ!
Ngọc Ðầu Sư khả tu truyền pháp, thuyết đạo.
Kẻ nào trai giới đặng 10 ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng.
Chư môn đệ phải trai giới. Vì tại sao?

Chẳng phải Thầy còn buộc theo Cựu luật, song luật ấy rất nên quí báu, không giữ chẳng hề thành Tiên Phật đặng. Thầy cắt nghĩa: Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân: Một phàm gọi là Corporel, còn một thiêng liêng gọi là Spirituel, mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi nó là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng có thể không thấy đặng.

Cái xác vô hình huyền diệu thiêng liêng ấy do nơi Tinh- Khí- Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí. Khi nơi xác phàm xuất ra thì lấy hình ảnh xác phàm như khuôn in rập. Còn khi đắc đạo mà có Tinh, Khí, không có Thần thì không thế nhập mà hằng sống đặng. Còn có Thần không có Tinh, Khí thì khó huờn đặng Nhị xác thân.

Vậy ba món báu ấy phải hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí, ra khỏi ngoài Càn khôn đặng.

Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật, mới xuất Thánh, Tiên, Phật đặng.
Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn thần tinh khiết.
Nếu như các con còn ăn mặn, luyện đạo rủi có ấn chứng thì làm sao mà giải tán cho đặng.

Như rủi bị huờn, thì đến khi đắc Đạo, cái trược khí ấy vẫn còn, mà trược khí thì lại là vật chất tiếp điển (bon conducteur d'électricité) thì chưa ra khỏi lằn không khí đã bị sét đánh tiêu diệt.

Còn như biết khôn thì ẩn núp  tại  thế    làm  một bậc Nhân Tiên thì kiếp đọa trần cũng còn chưa mãn.
Vì vậy, Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện đạo.”

Ông Lê văn Lịch là Thầy Tu làng Long-An Chợ Lớn.  Ngọc Lịch Nguyệt là Thánh danh của  Ngài    Văn Lịch,  Đức Chí Tôn phong Ngài làm  Đầu    phái  Ngọc.

Ngài Ngọc Lịch Nguyệt, hiệu là Thạch Ẩn Tử, sanh ngày mùng 1 tháng 9 năm Canh Dần (dl: 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn.

Thân sinh của Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng, tu theo Đạo Minh Sư đến bực Thái Lão Sư, hiệu Lê Đạo Long, là người sáng lập ngôi chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc. Cụ Tiểng tu đắc đạo, sau khi qui liễu, đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn. Cụ có lời di chúc:

"Lập Vĩnh Nguyên Tự để sau nầy có Thập Nhị Khai Thiên đến mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ."
Thân mẫu của Ngài Lê Văn Lịch là Cụ Bà Trần Thị Đắc, hiền nội của Ngài là Bà Trần Thị Khá, con gái của Ngài Trần Văn Thụ (Ngọc Chưởng Pháp). Ngài Lê Văn Lịch có người con gái là Cô Lê Ngọc Trang, Đạo hiệu Bạch Tuyết.

Ngài Lê Văn Lịch thọ nhận từ phụ thân bí thuật huyền môn của Đạo Lão (Tiên giáo) và Y thuật. Sau khi nhập môn vào Đạo Cao Đài, Ngài không dùng bí thuật huyền môn nữa, chỉ truyền lại cho con gái Lê Ngọc Trang về Y học cổ truyền.

Đầu năm Bính Dần 1926, quí Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc được lịnh Cơ Bút dạy xuống Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu Cơ, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn (Cụ Lê Văn Tiểng, đạo hiệu Lê Đạo Long, thân sinh của Ngài Lịch) giáng cơ dạy Ngài Lịch, lúc bấy giờ đã tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quí Ngài CƯ

TẮC để mở Đạo Cao Đài.
Trong thời gian nầy, Ngài Đốc phủ Nguyễn Ngọc Tương đang làm Chủ quận Cần Giuộc đã gia nhập Đạo Cao Đài, nên cũng khuyên Ngài Lê Văn Lịch nhập môn vào Đạo Cao-Đài.

Đêm 12-3-Bính Dần (dl: 23-4-1926), Ngài Lê Văn Lịch được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong Ngọc Đầu Sư, Thánh danh Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tại nhà Ngài Lê Văn Trung (Chợ Lớn).

Trong TNHT, Đức Chí Tôn có giáng cơ dạy Ngài Ngọc Lịch Nguyệt như sau: TNHT. I.14:
"Cao Đài. Lịch! Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
Tam Kỳ Phổ Độ là gì ? - Là phổ độ lần thứ ba.
Sao gọi là phổ độ? Phổ độ nghĩa là gì?

- Phổ là bày ra, độ là cứu chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Chúng sanh là gì ?

- Chúng sanh là toàn cả nhơn loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người, như ý phàm các con tính rối.

Muốn trọn hai chữ Phổ độ, phải làm thế nào? Thầy hỏi?-  Phải bày bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng năm nầy về theo Trung đi truyền đạo. Nghe và tuân theo...
Phải mặc y phục như Trung, mà màu hồng."
TNHT. I. 22:

"Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Nhữ tri hồ?

Hữu Ngã đồ Thái Đầu Sư tại thử, nhĩ vô thức luyện đạo, Ngã phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.

Tam thập tứ vị chúng sơn bất tri Chơn lý luyện thành. Ngã vi Chủ khảo giáo hóa. Khả tuân Ngã mạng.
Nhữ đẳng tu thọ pháp, tu thọ pháp. Khâm tai!".

Diễn nôm:
Thích Ca Như Lai là Thầy (TA), muốn cứu chúng sanh, tá danh Cao Đài Đại Bồ Tát. Con biết không?

Có học trò của Thầy là Thái Đầu Sư tại  đây,    không biết luyện đạo. Thầy phái Ngọc Đầu Sư chỉ giáo thọ bửu  pháp.
34 vị tăng không biết Chơn lý luyện thành. Thầy là Chủ khảo giáo hóa. Khá tuân lịnh Thầy.
Các con tu thọ pháp, tu thọ pháp. Kính vậy thay!

Quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH:
Những ngày đầu Khai Đạo, Ngài Ngọc Lịch Nguyệt đóng vai trò quan trọng không kém Ngài Thượng Trung Nhựt.

Ngài được lịnh Đức Chí Tôn sưu tập ba bài Kinh Tam giáo trong Kinh Tam Thánh Đại  Động để  làm  Kinh

của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ. Ngài cùng với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt phụng soạn và ban hành quyển "TỨ THỜI NHỰT TỤNG KINH", trong đó các bài Kinh Nhựt Tụng của Đạo Cao Đài được viết bằng chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, cùng là giải thích ý nghĩa tổng quát của mỗi câu kinh, có phần phụ thêm giải về Nghi tiết phụng thờ của Đạo Cao Đài, in và ban hành vào năm Mậu Thìn (1928).

Khi hai Ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang rút khỏi Toà Thánh Tây Ninh lập Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre, thì Ngài Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Tòa Thánh, trở về Vĩnh Nguyên Tự tu hành.

Năm 1943, trong công cuộc nhà cầm quyền Pháp khủng bố Đạo Cao Đài, Ngài bị họ bắt đày đi Côn Đảo, đến năm 1945, Ngài mới được trả tự do trở về.

Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc chiến chống Pháp xâm lược của phong trào Việt Minh, Ngài qui tại Chợ Lớn ngày 2-9-Đinh Hợi (dl: 15-10-1947) thọ 58 tuổi. Mộ của Ngài đặt tại phần đất phía sau Vĩnh Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ Ngài là Cụ Lê Văn Tiểng. Ngài Ngọc Lịch Nguyệt thỉnh thoảng có giáng cơ tại đàn cơ ở Vĩnh Nguyên Tự. Ngày 7-1-Ất Tỵ (1965),
THI
NGỌC  chiếu khai xuân đã vẹn tròn,
LỊCH  trình quí giá đáng vàng son.
NGUYỆT  lai sẽ rõ cơ mầu nhiệm,
MỪNG  thấy đệ huynh chí chẳng mòn.
Hỡi chư Hiền Đệ, Hiền Muội!

THI
Bần Đạo thấy khắp trong huynh đệ,
Gối đã dùn, chẳng nệ mỏi xương.
Bạc màu tóc đã điểm sương,
Mà không nệ nhọc trên đường quả công.

Thiệt quí giá phúc hồng hiếm có,
Bước dặm trường đi đó đi đây.
Phổ thông giáo lý Đạo Thầy,
Thiêng liêng nương đó giải bày thiệt hơn.

Dầu nóng bức chẳng sờn cực nhọc,
Dẫu ngày đêm lăn lóc phụng hành.
Hiệp hòa lớn nhỏ em anh,
Rày đây mai đó chẳng canh cải lời.

Bần Đạo thấy nghĩ thôi quá tiếc!
Mảnh thân phàm bị diệt tiêu tan.
Lấy đâu làm một con thoàn,
Để cùng huynh đệ một đàng thi đua.

Còn ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương cõi đời giả, tạo cái Chân.
Có nhiều phương tiện xa gần,
Để mà khuyến thiện dìu nhân trở về.

Như Bần Đạo lỡ bề thoát tục,
Cõi vô hình mấy lúc tiếc thương.
Tùng chung Tiên Phật một đường,
Muốn dìu sanh chúng phải nương cơ huyền.

Vì lẽ đó lời khuyên hơn thiệt,
Để đệ huynh nghiệm biết gần xa.
Ráng mà khắc kỷ xông pha,
Ráng mà giữ tánh để ra giúp đời.

Đừng bê trễ than ôi uổng bấy!
Đời mỏi mòn chẳng phải còn xa.
Trước tiên gìn giữ chữ Hòa,
Tuy rằng số ít mà ra muôn phần.

Đến Chùa, Thất, rửa lần tội lỗi,
Nghe kệ kinh tắm gội linh hồn.
Mau chân mà tiến bước dồn,
Quả đầy công đủ bảo tồn nguyên căn.

THI
Căn lành gìn giữ chớ buông lơi,
Dù mấy năm qua cũng một đời.
Mải miết mặc, ăn cùng chỗ ở,
Hơi tàn vạn sự thảy buông trôi.

Ðêm 22 rạng 23-4-1926 (âl 11/ 12-3-Bính Dần
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Giáo Đạo Nam phương
I . Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên phong:
 “Các con vui không?
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở.

Vậy thì ba con (Trung, Cư, Tắc) cứ sắp đặt thế nầy: Trung nghe! Con dời bài vị của Lý Bạch để dưới tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên tran thờ, rồi để lên một cái ghế lớn đặng làm ngôi Giáo Tông, ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư. Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết. Con đem Thiên phục Giáo Tông để nơi ghế ở trên, còn bộ Thượng Thanh thì để giữa, bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả, con phải viết một miếng giấy để chữ "Thái" cho lớn mà dán lên chỗ dựa.

Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy:
CỬU THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH PHỔ HÓA THIÊN TÔN" lại vẽ thêm một lá bùa "KIM QUANG TIÊN" để thòng ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng. Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Ðầu Sư quì mà thề.
Con lại để thêm một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.

II . Cư! Nghe dặn. Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó), biểu nó lựa một bộ quần áo Tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón. Cười....

Ðáng lẽ nó phải sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không biểu. Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt ngay vô ngôi Giáo Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt lại. Lịch! Con viết một lá phù "GIÁNG MA XỬ"  đưa nó  cầm.
Các con phải thanh tịnh, kể từ ngày nay diệt tận phàm tâm, chớ nhơ một điểm thì ngày ấy thề mới đặng.

Cư! Khi đem ba bộ Thiên phục đến vọng trên ba cái ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần, đặng Thầy trấn Thần trong ba bộ Thiên phục và ba ngai ấy, rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quì trước bửu ngai của nó, đặng Thầy vẽ phù vào mình.

Khi hai vị Ðầu Sư vái rồi, phải đến trước Bửu điện Thầy mà làm lễ (12 lạy) và trước ngôi Giáo Tông (9 lạy), rồi biểu Giảng xướng lên: "Phục vị", thì hai người leo lên ngồi. Cả thảy môn đệ phân làm ba ban, đều quì xuống.

Biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất Chơn thần của nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức, xông hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.

Rồi biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề.

Tới phiên các Môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà thề rằng:
"Tên gì? . . . Họ gì? . . . Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục." (36 chữ)

Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị vị Ðầu Sư.
Bài Thánh Ngôn trên được chia làm hai phần: I và II.
- Phần I có trong ÐS.I.108 và Phần II có trong ÐS.I.112.
* Phần I: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, vào đêm 22 rạng 23-4-1926, Phò loan: Cư - Tắc, hầu đàn có mặt hai Ngài Trung và Lịch. Ðức Chí Tôn dạy hai Ngài Trung và Lịch sắp đặt cuộc Thiên phong nơi nhà Ngài Trung ở đường "Quai Testard", Chợ Lớn.

* Phần II: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Trung và thực hiện cuộc Thiên phong tại đây, vào ngày Chúa nhựt 25-4-1926 (âl: 14-3-Bính Dần), Phò loan: Cư - Tắc.

Trong ngày nầy, Ðức Chí Tôn trục xuất Chơn thần của Ngài Phạm Công Tắc để Chơn thần của Vi Hộ Pháp nơi cõi thiêng liêng nhập vào, mượn xác Phạm Công Tắc chứng thệ cho nhị vị Ðầu Sư và các môn đệ Ðức Chí Tôn.

Xong rồi, Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho hai vị Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.

Sau, Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho các môn đệ. Ðức Chí Tôn nói: "Bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả để chữ Thái." Nếu tả hữu nầy là bên hữu và bên tả của Ðức Chí Tôn.

Thơ, con đã ngoan đạo, mà sự ngoan đạo của con đó còn độ lắm kẻ. Thầy khen con!.

Bính, Thầy thưởng công con, cho lên chức Phối Sư. Thầy cám cảnh lòng yêu mến của con, Thầy cám ơn lòng đạo đức của con. Sanh linh còn nhờ công con mà thoát qua khổ hải.
Bản, Thầy thăng chức Giáo Sư.
Trò, Thầy cho lên chức Giáo Hữu.
Nhiều đứa khác nữa, ngày mùng 9, Thầy biểu đòi về cho Thái Bạch phong thưởng.
Thầy ban ơn trọn cả các con, dầu không có mặt tại đây cũng vậy.

Thầy giở cơ lên, các con đều chun ngang qua cho Thầy ban Phép Lành.
Thầy cầu cho các con đặng ngoan đạo như Thơ vậy, sửa mình cho nên Chí Thánh, vì Ðạo năm nay sẽ rõ thấu hoàn cầu, môn đệ tăng thêm hằng hà sa số, phận sự các con lại càng nặng nề hơn nữa, nhưng các con nhớ biết thương Thầy, mà hễ thương Thầy thì ắt thương Ðạo, mà hễ thương Ðạo thì thương hết chúng sanh. Các con biết Thầy là trọng thì biết trọng Ðạo, mà hễ trọng Ðạo thì cũng phải trọng cả chúng sanh.

Trong tháng Giêng nầy, Thái Bạch sẽ hội Nữ phái đặng lập cho hoàn toàn. Thầy trông công các con lắm đó.
Thầy ban ơn cho các con một lần nữa. Thầy thăng”.

2 - ĐẦU SƯ NGỌC LỊCH NGUYỆT
Ngày 28-02-Bính Dần (dl: 10-04-1926)
Đức Chí Tôn khai đàn cho ông Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt:
Đức Cao-Đài dạy: Trung, sau khi cho chư Nhu cầu Đạo rồi, phải khai đàn cho Lịch nội ngày nay. (sau khi khai đàn tại Vĩnh Nguyên Tự xong, chư vị lập đàn Cơ, Đức Chí-Tôn giáng ban cho Ngài Lê-văn-Lịch 4 câu thi):
Đầu Sư phái Ngọc hiệp quần Nho,
Tam Giáo Qui Nguyên dẫn ngã đồ,
Vạn tải vô tư đương hội ngộ,
Đạo thành chí khởi lập Da-Tô.

Ngày 14-07-Bính Dần (dl: 21-08-1926) Thầy dạy về trường hợp Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. Bài này có in trong Thánh Ng ôn Hiệp Tuyển, xin trích ra một đoạn:

“…Nhưng có điều là Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ nên tu nhiều mà thành ít. Vì vậy các con coi thử lại, từ 2000 năm nay bên Á-Đông này đã đặng bao nhiêu Tiên Phật. Các con duy biết có một mình Huệ Mạng Kim Tiên mà thôi”.
 (Phần bổ sung) “Các con nghĩ sự tu hành khổ hạnh dường nào. Đời mạt kiếp này dữ nhiều lành  ít.  Nếu  Thầy không chuyển Pháp lại thì chưa ai tu đặng trọn Đạo nên Thầy lựa Ngọc Đầu Sư trong hạng thiếu  niên  mới    đủ công phổ độ.

Trong phần nhiều các con chưa vừa lòng cho Lịch ngồi địa vị ấy cho nên có điều cản trở trong sự truyền đạo. Thầy cũng nhìn như vậy, song vì tiền kiếp của Lịch và nhơn đức của Tiểng nên Thầy mới phú thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó. Các con đều có Chức sắc lớn,  nhỏ; đều thọ Thiên phong nơi Thầy. Cứ giữ phẩm vị các con nhưng có một điều yếu thiết là cầu các con lập nhiều công quả nơi trường Thầy sáng tạo cho khỏi phế hủy nửa chừng. Các con khá gìn luật lệ cho tới ngày Thầy lập thành Tân Luật. Thành cùng chẳng thành cũng do nơi Thầy. Đương lúc đầu Thầy khai Đạo thì Luật pháp rẻ rúng đặng dụ kẻ biếng  nhác. Các con đừng phế phận”

04 - ÔNG TRẦN-ĐẠO-QUANG
(1870-1946)
Thầy Tu làng Hạnh-Thông-Tây

Thánh danh Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang.
Ngài Trần Ðạo Quang, thế danh là Trần Văn Quang (có tài liệu chép là Trần Thanh Nhàn) sanh ngày 10-11-Canh Ngọ (dl: 31-12-1870) tại Ban Dầy, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.

Ngài là con trai duy nhứt của ông Trần Chí Hiếu và bà Dương Mỹ Hậu. Hai ông bà làm nghề nông và tu theo đạo Minh Sư, tông Phổ Tế. Ngài có lòng mộ đạo từ nhỏ: năm 12 tuổi, Ngài noi theo cha mẹ, phát tâm tu theo Minh Sư. Ngài chí quyết tu hành. Năm 16 tuổi, Ngài bắt đầu ăn chay trường.21 tuổi, Ngài  xuất gia  tu  hành,  bắt  đầu  tu  Nhứt 

Thừa: Nhứt bộ rồi Nhị bộ và Tam bộ, sau tiến lên tu Nhị Thừa qua bốn bậc: Thiên Ân, Chứng Ân, Dẫn Ân, Bảo Ân, rồi Ngài tiếp tục tu lên Tam Thừa, qua hai bậc:

Ðảnh Hàng: lấy đạo hiệu Trần Vận Quang.
Thập Ðịa là Thái Lão Sư: lấy đạo hiệu là Trần Ðạo Quang. Thái Lão-Sư Trần Ðạo Cửu nhận làm thầy đứng ra khai thị cho Ngài. Việc tu tiến dần lên đến bậc cuối Thái Lão Sư, đạo hiệu phẩm này là Trần Đạo Quang (năm Ngài 45 tuổi). Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang, được sự tín nhiệm của 12 vị Lão Sư Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam, nên Ngài về trụ trì chùa Linh Quang Tự là Tổ đình của Tông Phổ Tế. Sau đó chuẩn bị nhận Tổ Ấn Tông Phổ Tế từ Tổ Sư Trần Đạo Khánh (Trung Hoa). Người dự định phong cho Ngài Trần Ðạo Quang làm “Việt Nam Ðệ Nhứt Tổ” của Tông Phổ Tế đạo Minh Sư ở Việt Nam. (Tài liệu của Huệ Nhẫn)

Khoảng đầu năm Bính Dần, quí Ngài Lê văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Vương Quan Kỳ, Nguyển văn Kinh…đến Linh Quang Tự (Gò Vấp) là nơi Ngài Trần Đạo Quang đang trụ trì, xin lập Đàn cơ theo lịnh Đức Cao-Đài. Tuy đột ngột nhưng do hiểu đạo lý và tự tin, Thái Lão Sư chấp thuận. Đêm ấy, Đức Cao-Đài đã chuyển tâm được Thái Lão Sư Trần Đạo Quang chịu qui hiệp Cao Đài. Nhiều tín đồ tông Phổ tế Minh Sư lúc ấy theo gương Ngài, trong số đó đặc biệt có chư vị  Nguyễn văn Tương (sau đắc phong Thượng Chưởng Pháp), Nguyễn văn Kinh, Bà Lê Thị Ngân (Đạo Minh), Bà Nguyễn  thị  Quyền ( con g ái  Ngài

Nguyễn văn Tương)..
Ngài Trần Đạo Quang thọ Thiên ân Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày 12-12-Bính Dần  (dl: 15-01-1927), sau đó Ngài thọ phong chính thức là Ngọc Chưởng Pháp…

Ngài Trần Đạo Quang khi được Đức Chí-Tôn dạy chuyển về Cao-Đài đang là Thái Lão Sư trụ trì Linh Quang Tự tại Hạnh Thông Tây. Một số Đệ tử lúc ấy cũng theo Ngài qui hiệp .

Thời gian tách ra lập Chi Phái:
Sau cùng rồi Ngài cũng tách rời Toà Thánh bởi Ông Thái Ca Thanh lôi kéo được một số Chức sắc hiệp tác với ông buổi đầu như: Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang.

Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đăng Tiên tại làng Hữu Ðạo quận Cai Lậy thì khoảng hơn một tháng sau, Ðức Chí Tôn phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Quyền Thượng Chưởng Pháp ngày  12-12-Bính  Dần (dl: 15-1-1927). (Theo Ðạo Sử của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu Q.II/ trang 172 và 192)

Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên ngày 14-5-Ðinh Mão, thì sau đó ít lâu, Ðức Chí Tôn ân phong Ngài Trần Ðạo Quang làm Ngọc Chưởng Pháp chánh vị.

Trong cơ Ðạo phân chia Chi phái, năm 1931 Phối Sư Thái Ca Thanh rút khỏi Toà-Thánh Tây-Ninh về Mỹ Tho lập phái Minh Chơn Lý, Ngài Ngọc Chưởng Pháp hợp tác với Minh Chơn Lý, sau đó thấy ông Ca và ông Phùng sửa đổi hết cách thờ phượng, nên Ngài rút khỏi Minh Chơn Lý, xuống Bạc Liêu hợp với ông Cao Triều Phát mở ra phái Minh Chơn Ðạo năm 1935.

Năm 1937, Ngài Trần Đạo Quang ra hành đạo ở Ðà Nẵng. Lúc đi ra Trung, Ngài không có giấy thuế thân, nên Ngài lấy giấy thuế thân của người trong làng tên là Hà Văn Thuần để xin làm căn cước thì mới được phép ra Trung. Thế nên khi hành đạo ở Ðà Nẵng, Ngài lấy tên là Hà Văn Thuần. Ngài ủng hộ bổn đạo nơi đây xây dựng được Thánh-Thất Trung-Thành, để làm cơ sở hoạt động của Cơ Quan Truyền Giáo Trung Việt.

Ngày 17-2-Bính Tuất (dl: 20-3-1946), Ngài Trần Ðạo Quang qui Thiên tại chùa Linh Quang Tự ở Gò Vấp, Gia Ðịnh, hưởng thọ 77 tuổi.

Thi hài của Ngài được an táng tại nghĩa trang Minh
Sư gần Linh Quang Tự. Sau nầy, do nhu cầu mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt, Linh Quang Tự và nghĩa trang đều bị giải tỏa, bổn đạo cải táng Ngài về phần đất ở phía sau Thánh Tịnh Minh Kiến Ðài vào ngày 15-8-Kỷ Mùi (1956) thuộc xã Thông Tây Hội, cũng thuộc quận Gò Vấp.

Phái nầy do ba Ngài:
1 - Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang,
2 - Cao Triều Phát, và
3 - Nguyễn Ngọc Thiệu.

Tách khỏi phái Minh Chơn Lý (vì thấy hai ông Ca và Phùng biến cải theo Tà đạo), qui tụ về Giá Rai tỉnh Bạc Liêu, lập ra phái Minh Chơn Ðạo vào năm 1935. Lúc đầu trụ sở đặt tại Chùa Minh Sư của Ngài Trần Ðạo Quang tại Giá Rai, sau mới lập Tòa Thánh Ngọc Minh ở Giồng Bướm Giá Rai, cũng gọi là Tòa Thánh Hậu Giang. Gần Tòa Thánh nầy có Ngũ Hành Tòa để làm Hiệp-Thiên-Ðài. Phái nầy hoạt động khá mạnh, lên tới tỉnh Vĩnh Long.

Phái Minh Chơn Ðạo giữ đúng theo Tân Luật, Pháp
Chánh Truyền và lễ nghi của Ðạo buổi sơ khai. Phái nầy không luyện đạo, mặc dầu Ngài Trần Ðạo Quang, trước khi gia nhập Ðạo Cao Ðài, Ngài là Thái Lão Sư cầm đầu Chi Minh Sư ở Việt-Nam. Ngài Trần Ðạo Quang được phong chức Chưởng quản Vô Vi Chưởng quản Cửu-Trùng Ðài, Ngài Cao Triều Phát chức Thái Chưởng Pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, Ngài Nguyễn Ngọc Thiệu chức Ðầu Sư Ngọc Thiệu Nhựt. Sau nầy, Ngài Cao Triều Phát lại tách ra, ông Nguyễn Văn Kiện tự Huân được phong chức Hộ Pháp Thiên Ấn Tinh Quân, chưởng quản Hiệp Thiên Ðài. Cơ bút của phái Minh Chơn Ðạo phong gần đủ các phẩm Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Đài, như: Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, 9 vị Thời Quân, 2 vị Chưởng Pháp, 7 vị Ðầu Sư, 3 Chánh Phối Sư (không có phẩm Giáo Tông, bên Cửu Trùng Đài thì chức Chưởng quản Vô Vi là cao nhứt). Sau cuộc đảo chánh của Nhựt Bổn, quân đội Pháp trở lại dùng phi cơ dội bom, trúng Tòa Thánh Ngọc Minh tan tành. Ngài Cao Triều Phát hợp tác với Việt Minh để bảo vệ tín đồ. Sau Hiệp Ðịnh Genève 1954, Ngài Cao Triều Phát tập kết ra Bắc và qui liễu tại đó trong năm sau.

05 - ÔNG NGUYỄN-NGOC-TƯƠNG
(1881-1951)
Tri phủ chủ Quận Cần-Giuộc

1 - Phần đời: Ông Nguyễn Ngọc Tương sanh ngày 26-5-Tân Tỵ (dl: 22-6-1881) tại làng An Hội, tỉnh Bến Tre, thuở nhỏ học tại Collège Mỹ Tho, rồi lên Sài Gòn học ở Lycée Chasseloup Laubat, đậu bằng Thành Chung năm 1902, xin làm Thơ ký phòng Thượng Thơ. Làm nơi đây được một  năm thì xin về làm Thơ ký nơi Tòa Bố tỉnh Bến Tre suốt 17 năm liền.

Năm 1919, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Châu Thành Cần Thơ, rồi Chủ Quận Hòn Chông (Hà Tiên), đến năm 1924 thì đổi về làm Chủ Quận Cần Giuộc, qua năm 1927 đổi ra làm Chủ Quận Xuyên Mộc (Bà Rịa).

2 - Phần Đạo: Ngày 19 tháng Chạp năm Ất-Sửu (dl: 1-2-1926) Quí Ngài Lê văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc bạch xin Thầy xuống Cần Giuộc độ Ngài Nguyễn Ngọc Tương, lúc ấy đang làm Chủ Quận. Do trước đó, trong thời gian công vụ tại Hòn Chông Hà Tiên (1920-1924), Ngài Nguyễn Ngọc Tương có tìm học Đạo Minh Sư, có ăn chay và tập tu thiền, nên con đường nhập môn của Ngài được nhiều thuận lợi. Ngày rằm tháng Giêng Bính Dần (dl: 27-02-1926) tại nhà Ngài (Dinh Quận Cần Giuộc) chư vị lập Đàn Cơ. Thầy giáng rằng:

“Tương, từ đây con trấn nhậm nơi nào thì là hồng phúc của nơi ấy, con nghe!
Con trị ai Thầy cũng trị ai,
Một lòng đạo đức chớ đơn sai.
Năm năm công quả tua bền chí,
Chỉ dẫn nhơn sanh bước lạc loài.

Ông nhập môn theo Ðạo Cao-Ðài vào tháng 2 năm Bính-Dần (1926), thọ phong Thượng Chánh Phối Sư ngày 17-5-Bính Dần (dl: 26-6-1926).

Năm 1930, thăng lên Quyền Ðầu Sư.
Cũng năm này, tuân lời dạy của Đức Chí-Tôn, Ngài
Tương xin từ quan.(lúc ấy Ngài 50 tuổi)  để  trọn  lo  hành
Đạo, ứng với lời Thánh truyền “Năm năm công quả tua bền chí” trước  kia.

3 - Ngài Tương tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh:
Ðầu năm 1934, ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh, rút về làng An Hội lập Ban Chỉnh Ðạo và sau đó biến thành Chi phái Bến Tre.

Ngày 8-1-Ất Hợi (dl: 11-2-1935), Ðại Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu ông Tương làm Giáo Tông phái Bến Tre.

Ngày 7-4-Ất Hợi (dl: 9-5-1935) cử hành Lễ Ðăng điện cho Ngài Tương lên ngôi Giáo Tông ở Thánh Thất  An Hội Bến Tre và từ đó, Thánh Thất An Hội được gọi là Tòa Thánh Bến Tre.

Từ năm 1942 đến 1951, ông Tương thường nhập tịnh trong Tịnh Thất riêng, lúc đó ông thường tự xưng là Lý Giáo Tông.

Ngày 14-4-Tân Mão (dl: 19-5-1951), ông Tương qui thiên, tháp được xây dựng ngay trước Thánh Thất An Hội, Bến Tre

Ngày 18-11-Giáp Tuất (Thứ Hai: 24-12-1934)
Hai ông Tương và Trang về Thánh-Thất An-Hội (Bến Tre) phổ biến châu tri 147 mạ lỵ Đức Quyền Giáo Tông Lê văn Trung và Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc.

Hai ông tự phong chức là:
- Tri phủ Lê Bá Trang là CHƯỞNG PHÁP
- Tri phủ Nguyễn Ngọc Tương làm ĐẦU SƯ của phái Bến Tre.

4 -  Lập Ban Chỉnh Ðạo (Phái Bến Tre):
Nhớ lại vào đầu năm 1934, khi hai ông rút khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, với mục đích chấn chỉnh lại nền Ðạo, qui tụ được 85 Thánh Thất theo về với hai ông. Trong lúc đó, toàn Ðạo Cao Ðài chỉ có 128 Thánh Thất, như vậy số Thánh Thất theo hai ông Tương và Trang cùng với số tín đồ chiếm hết 2/3, Tòa Thánh Tây Ninh chỉ còn lại 1/3. Hai ông cố gắng lôi kéo một số vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài theo về hai ông để cho có đủ hai Ðài: Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài, nhưng không thành công, vì một số vị Thời Quân, tuy có bất mãn Ðức Hộ Pháp nhưng quí vị ấy muốn giải quyết vấn đề theo chiều hướng khác hơn hai ông kia, nên quí vị ấy không hợp tác với hai ông được.

Thế lực của hai ông rất mạnh, lại được chánh quyền Pháp ủng hộ, nên hai ông tổ chức thuê bao gần chục chiếc xe đò đưa rất đông tín đồ của hai ông về Tây-Ninh dự định sẽ dùng sức mạnh chiếm Nội-Ô Toà-Thánh. Hai ông báo cho Ðức Quyền Giáo-Tông biết ngày 20-1-Giáp Tuất (1934) hai ông sẽ kéo lên Tòa Thánh, vì hai ông nghĩ rằng phần thắng nắm chắc trong tay.

Ðức Quyền Giáo Tông liền thông báo cho Ðức Hộ Pháp. Ðức Hộ Pháp tức cấp huy động tất cả khoảng 500 công quả Phạm Môn chia nhau giữ chặc các cửa vào Nội Ô Toà Thánh. Với sức kháng cự quyết liệt mạnh mẽ của 500 công quả Phạm Môn, lực lượng của hai ông Tương và Trang phải chịu thảm bại, rút lui về Sài Gòn.

Cuối năm 1934, Ðức Quyền Giáo Tông đăng Tiên (ngày 13-10-Giáp Tuất, dl: 19-11-1934). Trong khi đó, tại Thánh Thất An Hội Bến Tre, Ngài Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tổ chức Ðại Hội toàn thể Chức sắc và tín đồ thuộc Ban Chỉnh Ðạo để bầu cử chức Giáo-Tông:

- Lần bầu cử thứ nhứt: Ngài Lê Bá Trang lên chức Ngọc Chưởng Pháp;
- Lần bầu cử thứ nhì, Ngài Nguyễn Ngọc Tương lên chức Giáo Tông. Ðó là vào năm 1935 (Ất Hợi).
Năm 1938, Ngài Nguyễn Ngọc Tương cử  hành  một lễ long trọng, tuyên bố nhiệm vụ của Ban Chỉnh Ðạo chấm dứt. Như vậy là Ngài lập thành Chi phái Bến Tre, xây dựng Thánh Thất An-Hội thành Tòa-Thánh Bến-Tre, tổ chức Cửu Viện, thăng thưởng một số Chức sắc cầm quyền Cửu Viện. Thực lực của phái Bến Tre lúc đầu rất đông và rất mạnh, nhưng vì không có chánh nghĩa nên số người theo ông lần lần rút lui, các hoạt động chỉ cầm chừng, dần dần suy tàn, nhất là sau khi Ngài Lê Bá Trang qui vị. Ngài Nguyễn Ngọc Tương thường nhập tịnh theo cách riêng của ông, càng về sau nầy, Ngài tự xem mình như là một phân thân của Ðức Lý Giáo Tông, nên Ngài tự xưng là Lý Giáo Tông. Năm 1951, Ngài Nguyễn Ngọc Tương qui vị.

Sau đó, phái Bến Tre phân ra làm hai nhóm nhỏ độc lập nhau: Một nhóm tại Tòa Thánh Bến Tre, một nhóm tại Thánh Thất Tân-Túc (Bình Chánh) và Thánh Thất Ðô Thành đường Hậu Giang Chợ Lớn. (Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ tiết lộ cho biết: Ngài Nguyễn Ngọc Tương là chơn linh của Ngô Tôn Quyền tái kiếp, Ngài Lê Bá Trang là chơn  linh  Quan Vân Trường thời Tam quốc)

Trong  thời gian này có 5 bức thư khá quan trọng:
Bức thơ số 1
Ông Thượng Tương Thanh gởi cho Thái Ca Thanh Ghi lại mấy ý chánh:
- Tôi thấy rõ là một cuộc khảo do nơi Tam-Trấn để cho Tà Thần mượn tên cám dỗ, trong ba cái bịnh lớn của con người là “Tham, Sân, Si” Nếu bậc cầm đuốc dẫn đường mà không trừ hết, còn một hai cũng phải bị vướng.

Thánh-ngôn Cơ Bút của Hậu-giang từ khi ban sơ đến bây giờ… Có một phần rất ít của Tiên Thánh, còn bao nhiêu đều là Tà mưu chước quỉ của Tà Thần cám dỗ.
…Nếu phăn lại gốc thì Tôi rõ biết, khi ban    lúc  Anh thay mặt cho Tôi ở Toà-Thánh, Anh có bất bình về sự hành động cử chỉ của mấy vị Đại-Thiên-Phong nơi đây đối đãi với Anh.
…Dụ được Anh rồi nó dắt Anh đi lần lần, từ mấy thứ “An Thiên Đại Hội” qua đến lập Toà-Thánh Tam Bình Kiên-giang Thất Sơn, đã nhiều phen tiên tri này nọ đều trôi hết, nay đem Anh trở về lập Toà-Thánh Trung ương Mỹ tho, là chỗ ở của Anh, Tôi xét kỹ thiệt toàn là công cuộc của Cơ cám dỗ Hậu-giang. Do sự bất bình kia mà gầy tạo ra đó ! Anh suy-nghĩ đến thì Anh thấy liền, Cơ ấy lợi dụng cái danh, cái chức của Đạo mà dụ người

 …Sau khi kích bác nhục mạ Tây-Ninh rồi bố cáo mà dán khắp Lục Tỉnh mong Anh và các Chư vị giúp để cho Tà Thần xúi giục mà hăng-hái thọ lãnh gia phong lập riêng một Hội-Thánh Trung-ương tự mình làm chủ, làm cho ai trông vào cũng thấy cái Chủ nghĩa Minh-Chơn-lý của Hậu-giang kết chung lại là một trường háo danh ham chức đó là “Tôi”. Đạo ở nơi nào? Đức ở nơi nào?
  … nên Thầy đã căn dặn: Ngoài Thập Nhị Thời quân của Thầy đã chọn đừng vội tin Thầy có giáng Cơ nơi này nơi nọ, mà phải bị lầm mưu Tà quái cám dỗ.
    …Trong lòng anh thiệt hết giận rồi, thì cái màn bí mật che án sẽ xủ xuống. Anh sẽ thấy tỏ rõ chi cũng có Thầy biết, cũng có chư Phật, Thánh, Tiên hay.

Thiên-phong Chức sắc nào ở Tây-Ninh thiệt có tội thì bị phạt, không khi nào chạy khỏi.
Vì Anh sẽ thấy rõ chữ Nhựt trong Đạo-hiệu Thái Ca-Thanh của Anh. Đó là một cái lắt-léo của Cơ để cho Anh biết mà phân biệt chơn giả đó. Trong lòng Anh thiệt hết giận rồi, tự nhiên Anh cũng sẽ thấy rõ-ràng là không có Thần hay Tiên Thánh nào xúi Anh thêm nghịch, dạy Anh chia lìa, đốc Anh truyền rao nhục mạ Tây-Ninh rồi lại gia phong cho Anh và các vị theo giúp Anh, hối đốc lập dựng Thánh Thất Cầu Vỹ mà làm Toà-Thánh để nhóm Hội-Thánh Tây Ninh, mượn nhà Anh mà làm Hiệp-Thiên Đài, Anh sẽ thấy rõ ràng là cơ cám dỗ nương cái hơi phiền-phức của Anh và chư vị kia mà phát hiện những sự ấy đặng giúp cho mấy Anh Em được thoả tình tư tưởng.
….   Nếu Anh và các Anh theo Anh mà còn dụ-dự, tiếc áo-mão thì cái Minh-Chơn-lý của mấy Anh em sẽ bị nơi áo-mão đó mà mất hết chủ-nghĩa hay, rồi cũng vì áo-mão đó trì nặng phải chìm không phương cứu vớt.

Tây-Ninh 1er Novembre 1932( Thượng Tương Thanh)
Thầy có dạy rồi: Trời không hai mặt, đất chẳng hai vua. Cũng vì chữ “NHỰT” của Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt mà ông Thái Ca Thanh quá ham muốn nên mích lòng với Ngài Đầu Sư xong rồi tách khỏi Toà Thánh Tây Ninh và xưng đạo hiệu là Thái Ca Nhựt, cũng như ông Ngọc Thiệu cũng lấy đạo hiệu là Ngọc Thiệu Nhựt, rồi nảy sanh chi phái. Thực ra chữ NHỰT đây trước nhứt là phải đủ Tam bửu của Trời là NHỰT- NGUYỆT- TINH do Đức Chí Tôn ban cho thì mới có giá trị, chứ nào phải đâu do ham muốn quá mà tự ban cho mình thì có giá trị gì đâu !
Thầy có dạy rồi:
Đạo Thầy nhiều nhánh các con ôi!
Nhánh có trái bông, nhánh cụt còi.

Thiết nghĩ đây là do Thiêng liêng ban thưởng nào phải do ý phàm mà tính rối, rồi mích lòng mà lập ra chi phái này nọ, nọ kia làm cho cơ Đạo phân chia manh mún, thật là của qúi không biết dùng, lại vội phân chia mà tan tành manh mún. Ôi thương thay Đạo Trời cao vòi vọi, mà trí phàm thì quá hạn chế !

06 - NGUYỄN-NGỌC-THƠ
(1873-1950)
Thánh danh Đầu Sư Thái Thơ Thanh
1 - Phần đời:
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, thế danh là Nguyễn Ngọc Thơ, tên thật là Nguyễn Văn Tơ, sanh năm 1873 tại quận Bãi Xàu tỉnh Sóc Trăng, sau lên Sài Gòn lập nghiệp ở Tân Định. Thân sinh là Ông Nguyễn Hưng Học, cháu ruột của Trung Quân Nguyễn Văn Thiền (kêu bằng Chú ruột), vốn dòng trâm anh thế phiệt, trung hưng công thần.

Thuở thiếu thời, Ngài theo Nho học, sau theo Tây học, rất ái mộ Phật giáo, phụng thờ cha mẹ rất hiếu hạnh. Ngài có làm Thơ Ký tại phòng Phiên dịch được ít lâu, sau nghỉ ở nhà, noi theo nghiệp làm thầy hốt thuốc Bắc của ông thân, rồi ra làm thầy hốt thuốc, lại có phụ dịch nhựt trình cho nhựt báo tỉnh.

Sau đó, Ngài bước qua đường buôn bán, mở mang trước nhỏ, sau to, trở nên giàu có, mua được một sở Đại Thương Cuộc tại Sài Gòn. Nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ cử Ngài làm Hội Đồng Thẩm Án tại Tam Tòa Sài Gòn, tất cả trước sau được thưởng 7 Huân chương với 2 tấm Kim Khánh, Kim Tiền.

Chánh thất của Ngài là Bà Bùi Thị Đông, một phụ nữ khôn khéo bề tề gia nội trợ, thuận tùng theo chồng, tạo lập nhà cửa, phố xá tại Tân Định, sự nghiệp càng ngày càng thạnh lợi, bề thế lớn lao.

Về sau, Ngài được ban cho phẩm Hàm Tri Huyện, nên người đời thường gọi Ngài là ông Huyện Thơ.

Ông Nguyễn Liên Phong, trong tập Điếu Cổ Hạ Kim Thi Tập có làm bài thơ khen tặng Ngài Nguyễn Ngọc Thơ:
Làm trai chí khí trước sau bền,
Án viện luận bàn hiển họ tên.
Nề nếp ông thân khuôn những tạc,
Phụng thờ từ mẫu thảo tâm đền.
Dựng nền buôn bán ra đồ sộ,
Cậy sức vợ hiền hiệp giúp nên.
Nẻo lợi thâu vào thành nghiệp cả,
Ơn nhờ che chở hộ hai bên.

Con gái của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ là Nguyễn Thị Hương, có chồng là Trương Văn Tuấn, chủ nhà in Đức Lưu Phương ở Tân Định, sanh người con trai là Bác sĩ Trương Văn Quýnh. Bà Nguyễn Thị Hương cũng theo cha nhập môn vào Đạo Cao Đài, đắc phong phẩm Giáo Hữu ngày 14-Giêng-Đinh Mão (dl: 15-2-1927) đàn cơ Phong Thánh Nữ phái kỳ I.

2 - Phần đạo:
Đầu năm Bính Dần (1926), Ông Phạm Tấn Đãi, nhà ở Rạch Kiến, tỉnh Long An, thường chấp bút để học đạo. Ngày nọ, Ông chấp bút thì được lịnh Đức Chí Tôn dạy: "Con hiệp cùng Trung để đi độ Thơ."

Ông Phạm Tấn Đãi (sau đắc phong Khai  Đạo Hiệp Thiên-Đài) vâng lịnh Đức Chí Tôn lên Sài Gòn, tìm đến nhà Ông Cao Quỳnh Cư để hỏi thăm nhà Ông Trung.
- Bà Cư đáp: Ông Trung có ra đây, vừa mới đi lên nhà Ông Thơ.

Ông Đãi hỏi thăm địa chỉ của Ông Thơ, liền đi lên Tân Định tìm nhà Ông Thơ, thì gặp Ông Trung tại đó.
Ông Đãi liền trình bày Thánh giáo của Đức Chí Tôn dạy cho hai ông xem. Ông Thơ xem xong nói: Tôi muốn làm sao hai ông cầu nguyện thế nào cho tôi chấp bút được thì tôi mới tin.

Ông Trung liền chịu và bảo Ông Thơ phải trai giới ba ngày, đồng thời hai Ông Trung và Đãi cũng ở đó hiệp nhau cầu nguyện. Ông Thơ chấp bút thông công được với các Đấng một cách tốt đẹp, nên Ông bằng lòng theo Đạo. Ông nói với Ông Trung và Ông Đãi làm thế nào để độ cho vợ của Ông là Bà Lâm Ngọc Thanh đang ở Vũng Liêm theo Đạo luôn cho thuận chiều xuôi gió một đường.

Ông cầu nguyện, Ơn Trên cho biết hiện giờ nầy bà Lâm Ngọc Thanh đang làm gì ở Vũng Liêm, cho biết từng chi tiết để ông ghi chép, rồi hôm sau, ông đánh điện kêu bà lên Sài Gòn. Khi bà lên tới Sài Gòn, ông hỏi các hoạt động của bà trong ngày vừa qua thế nào, thì bà nói đúng như Ơn Trên đã mách bảo, không sai một mảy. Thế là hai ông bà đều tin và theo Đạo.

Hai ông bà Thơ bàn tính làm thế nào để độ Thầy mình là Hòa Thượng Như Nhãn theo Đạo luôn. Ông Trung và ông Thơ cậy ông Đãi ra nhà ông Cao Quỳnh Cư để mời ba ông Cư, Tắc, Sang và Đạo hữu đến nhà ông Thơ để lập đàn cầu cơ. Đàn Cơ được kết quả, Đức Chí Tôn thâu phục được Ngài Như Nhãn.

Tại nhà của Ngài Nguyễn Ngọc Thơ ở Tân Định, Đức Chí Tôn cho phép mở một cái Đàn để thâu nhận những người mộ đạo, Ngài Thơ chứng đàn, phò loan là hai Ngài: Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc.

Ngày 2-7-Bính Dần (dl: 9-8-1926), Đức Chí Tôn phong Ngài Thơ làm Phối Sư phái Thái, cầm quyền Thái Chánh Phối Sư, Thánh danh là Thái Thơ Thanh.

Ngày 17-2-Quí Dậu (dl: 12-3-1933), Ngài Thái Thơ Thanh được thăng lên Quyền Thái Đầu Sư.
Ngài Nguyễn Ngọc Thơ đã chấp nối thành vợ chồng với Bà Lâm Ngọc Thanh ở Vũng Liêm, tục gọi là Bà Huyện Xây. Hai Ông Bà đều được Đức Chí Tôn độ theo Đạo và về sau Bà Lâm Ngọc Thanh đắc phong Nữ Đầu Sư, Thánh danh là Hương Thanh.

Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh, nhờ giàu có sẵn và một lòng tin tưởng vào nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn nên đã đem nhiều tiền bạc ra hiến cho Đạo trong buổi sơ khai để xây dựng nền móng cho Đạo, như sau:

-  Khi Hòa Thượng Như Nhãn hiến chùa Từ Lâm Tự tại Gò Kén (Tây Ninh) cho Đạo Cao Đài làm Thánh Thất để tổ chức Lễ Khai Đạo, Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền ra tu bổ, sơn phết, trang trí lại thành một Thánh Thất Cao Đài, làm đường thông ra quốc lộ cho rộng rãi, cất thêm nhà cho bổn đạo ở làm công quả ... Nhờ vậy mới có chỗ rộng rãi tốt đẹp để tổ chức long trọng Đại Lễ Khai Đạo Cao Đài ngày 15-10-Bính Dần (dl: 19-11-1926).

- Qua đầu năm 1927, Hòa Thượng Như Nhãn đổi ý, đòi chùa Từ Lâm lại, không hiến cho Đạo Cao Đài nữa, Đức Lý Giáo Tông dạy Ngài Thái Thơ Thanh hiệp cùng chư Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp-Thiên-Đài đi coi mua 100 mẫu đất rừng tại làng Long Thành với giá 25.000 đồng thuở đó để làm nơi xây dựng Tòa Thánh và các cơ quan Trung ương của Đạo, trả chùa Từ Lâm Tự lại cho Hòa Thượng Như Nhãn. Số tiền 25.000 đồng mua đất do Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh xuất ra cho Hội Thánh mượn..

- Ngài Thái Thơ Thanh xuất tiền in 10.000 tấm Thánh Tượng Thiên Nhãn Ngũ Chi khổ lớn để phát không cho bổn đạo lập Thiên bàn thờ Đức Chí Tôn tại tư gia.

Riêng phần Ngài Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh thì xuất tiền ra khai thác một sở rừng hoang để xây dựng Cực Lạc Cảnh, có ý muốn qui tụ các tăng ni Phật giáo qui hiệp về đây tu hành theo Tân pháp Đạo Cao Đài, nên lập ra nhiều cảnh như: Quan Âm Các, Long Nữ Điện, Tây Vức Trì, đặt tên các con đường là: Phước Đức Cù, Di-Lạc Đạo. Tuy là cảnh tạm nơi cõi trần mà nghe qua như là cảnh Phật nơi cõi Cực Lạc Thế giới..

Sau đây là Sớ Văn phúc trình của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh và Bà Lâm Hương Thanh (lúc cầm quyền Nữ Chánh Phối Sư) dâng lên Hội Thánh và Đức Chí Tôn.

ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
(Đệ lục niên)
Chánh ngoạt,    nhị  nhựt,  Tân  Vị,  Khâm  Thiên Tổng quản Tài Chánh, phụng sắc Chưởng quản tài liệu, Tổng lý Công viện, Lương viện, Hộ viện, Nông viện, Phổ Độ viện.

Quyền Thái Đầu Sư Chủ Tọa Hội Thánh, Quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đệ lục niên, Chánh ngoạt, sơ tam nhựt, Tân Vị, Nữ Chánh Phối Sư Hương Thanh đề bút.

Tượng mảng Đại Đạo hoằng khai Tam Kỳ Phổ Độ lưu truyền thiên vạn cổ, bủa khắp Ngũ Châu, thì nền Chơn đạo phải to tát mới ra cảnh tượng thể thống Đạo cả.

Vì vậy mà hai tôi nong nã  đêm  ngày  lo  mở  mang cuộc Thánh địa, chế ra nền Tây Vức, bởi công trường cực nhọc, trên nhờ sức thiêng liêng Đại Từ Phụ ban bố, mới xui khiến mua thêm được 100 mẫu đất rừng, của tư bổn vợ chồng tôi xuất ra mua, liên tiếp Thánh địa, nối dài ra tới Ngã ba Mít Một (Boulevard d'Anglais), bề mặt tiền trên 2000 mét, giáp ranh Bá Huê Viên, nối liền Động Đình Hồ, 1000 mét Thánh địa nữa, cộng chung là 3000 mét.

Cầu nguyện Đức Chí-Tôn ban ơn ngày sau Hội Thánh mở mang ba phía là Đông, Nam, Bắc, mỗi phía 3000 mét, vuông vức cộng là 12.000 mét vuông, đặng xây vách thành cao lớn giáp bốn phía, dựng nên miền Tây Vức, đề hiệu là THÁI CỰC TOÀN ĐỒ.

Trong chia ra hai cuộc: Phía Chánh Bắc, xây cửa thành lớn, đắp nổi cao chữ "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", lộ ra bốn chữ to tát là "ĐẾ THIÊN THƯỢNG HOÀNG"; còn phía Chánh Nam, cũng tại cửa thành y kiểu ba mặt như nhau, đề hiệu là "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", hiện ra bốn chữ "ĐẾ THÍCH PHẬT TỔ"; phía Chánh Đông, tạo một cuộc Ngũ Quang Môn, nghĩa là Đại Thành Môn, có năm cửa Ngũ Chi Đại  Đạo, hiện ra bốn chữ "THÁI CỰC TOÀN ĐỒ"; còn  Chánh  Tây  Môn   thì cửa thành y kiểu ba phía đề hiệu là Tây Vức Cảnh.

Trong Thái Cực Toàn Đồ chia ra làm hai cuộc: Bên phía Bắc là BẠCH NGỌC KINH, tạo tác Tổ Đình, có Bá Huê Viên, Động Đình Hồ, Đức Thế Tôn ngự mở cảnh thoát trần, Đức Di-Lạc giáng thế khai Long Hoa Hội. Hai bên là Rừng Thiên Nhiên, phía sau lập Cửu Viện, Thiên Phong Đường, Đầu Sư Đường, Chánh Phối Sư Đường, Hộ Pháp Đường, Thái Y Viện, Dưỡng Lão Ấu, Tịnh Thất Sở, và Học Đường, Dưỡng Đường, với các xưởng Bá công kỹ nghệ. Còn các con đường: 1- Như Lai Đồ.  2- Di-Lạc  Đạo. 3-Phước Đức Cù. 4-Oai Linh Tiên. 5- Bình Đặng Đồ.

6 - Sử Quân Tử.  7- Thái Hòa Lộ,.   8- Bình Dương Đạo.
Còn bên phía Nam thì tạo CỰC LẠC VÔ VI CẢNH GIỚI, là đắp con đường chữ Thập lớn dài từ Nam chí Bắc, từ Đông giáp Tây, gọi là TỨ TƯỢNG ĐỒ biến BÁT QUÁI, chính giữa Ngã Tư biến ra Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Giữa trung tim, un đúc một cảnh Nội Điện Đế Thích, giống in như cuộc cổ tích trên chốn Đế Thiên gần nước Xiêm La vậy.

Phía bên hữu Tây Bắc thì tạo Quan Âm Các, phía bên tả Tây Bắc thì dựng Long Nữ Điện. Phía bên hữu Đông Bắc thì cất Tòa Kinh Viện 15 căn lầu ba từng nóc. Phía bên tả Đông Nam thì xây núi Tô Sơn, trên chót núi có đắp tượng Đức Thế Tôn nằm qui Niết Bàn, bề dài 12 thước tây, trên đảnh trung có Thạch động Phổ Đà Sơn, Đức Từ Hàng Đạo Nhơn thành Phật ấy là năm cuộc to lớn.

Còn các cuộc nhỏ khởi tạo trước là: tạo Thất Bửu Tháp, đào Tây Vức Trì, cất Thưởng Liên Đình, tạo Từ Thiền Lâm. Trong cuộc Từ Thiền có 3 con đường cái:

1 - Bát Nhã Đạo   2- Bồ Đề Lộ.  3- Như Ý Cảnh.
Lựa những bậc chơn tu  trường  trai   khổ  hạnh, từ trung thừa sắp lên mới cho vào trong cuộc Từ  Thiền  Lâm nầy, vuông vức 500 công.

Ấy là bên hướng Nam.
Còn bên hướng Bắc thì Thái Bình Địa, cũng 500 công, cất Chợ Từ Bi, Nhà Thương, Nhà Thí, Nhà Mát, Nhà Nghỉ cho bực tín đồ nhập môn theo Hạ thừa sắp lên thì được phép ở. Ước mong ngày sau, Hội-Thánh mở mang cuộc Thánh Địa nầy cho giáp hết núi Điện Bà đặng ra vẻ nền Chơn đạo.
Trân trọng một bài kính cáo, nguyện cầu  Đạo  mạch
hoàn toàn lưu truyền, trăm họ trước sau an nhàn.
Thái Thơ Thanh, Lâm Hương Thanh kỉnh đề.

Chuyển đạt Thiên Đình, ngưỡng vọng Đại Từ Phụ Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chứng chiếu.
Ngu đệ tử phục thủ bá bái.

3 - Vài nét về: CỰC LẠC CẢNH:
Nguyên nhân tạo Cực lạc Cảnh ? -Vào năm Quí Dậu (1933) Đức Hộ Pháp cho công thợ xây dựng Báo Ân Từ. Kể như Đức Ngài chuẩn bị dành khi di dời tạo Tòa Thánh sẽ làm nơi thờ phượng. Trong giai đoạn nầy ông Quyền Thái Đầu Sư chủ tọa Hội Thánh quản lý tạo tác Tổ đình, Thái Thơ Thanh kỉnh bút:

Ông cùng bà Lâm Hương Thanh, Nữ Chánh Phối Sư mua thêm 100 mẫu đất liên tiếp Thánh Địa, có thượng tấu với Đức Chí Tôn và thông tri toàn Đạo. Đông, Tây, Nam, Bắc mỗi phía ba ngàn thước vuông vức, chu vi là 12 ngàn thước đặng xây vách thành cao lớn bốn phía dựng ra miền Tây Vức đề  bốn chữ nổi “THÁI CỰC TÒAN ĐỒ”.

Ông Tạo Bát Bộ Kim Cang có 8 cảnh:
1 - Quan Âm Các     2 - Long Nữ Điện      3 - Tàng Kinh Viện
4 - Phổ Đà Sơn        5 - Kim Cang Động    6 - Bồ Đề Ốc
7 - Tây Vức Trì        8 - Bát Bửu Tịnh Thất.

Phần trong có Lục Thông Cơ sở:
1 - Giảng Đường      2 - Tịnh Đường              3 - Túc Đường
4 - Dưỡng Đường    5 - Thiên Ân Đường        6 - Học Đường.

Còn về lộ:
1 - Như Lai Đồ          2 - Di Lạc Đạo         3 - Phước Đức Cù
4 - Oai Linh Tiên      5 - Bình Đẳng Đồ      6 - Sử Quân Tử
7 - Thái Hòa Lộ        8 - Bình Dương Đạo
9 - Tây Qui Trực Chỉ  10 - Thượng Hòa Lộ.

Bên ngoài phía Đông trong cuộc từ Thoàn Bát Bộ Kim Cang có 3 con lộ:
1 - Bát-Nhã-Lộ       2 - Bồ Đề Lộ        3 - Như Ý Cảnh.

Thế nên đêm 01-07-Tân Mùi (1931) tại Bửu Điện
Tòa Thánh Đức Hộ Pháp với Văn Pháp Phò Loan Đức Lý giáng cơ rầy ông Thái-Thơ-Thanh phải bỏ cả hình tướng Thiền-môn thì mới mong tạo thành Cực Lạc Vô Vi cảnh giới, hiểu à ? Muốn tạo Cực Lạc hỏi Hộ Pháp chỉ cho.

Đến 09-12-Tân Mùi, 12 giờ khuya Hộ Pháp chấp bút. Quan Âm giáng điển cho thi như sau:
Đại kế qui nguyên vĩ đình thì,
Hành tàng cụ Pháp chưởng phong lôi.
Thiền môn nhược bất khai môn nội,
Cửu nhị nguyên nhân bất cố hồi.

Rồi đến 15-12-Tân Mùi (dl: 22-1-1932) tại Phạm Nghiệp: Phò Loan Hộ Pháp- Tiếp Đạo. Hầu bút Sĩ Tải Ngọ. Hầu đàn Đức Quyền Giáo Tông và ông Thái Thơ.

Đức Chưởng Đạo về cơ có câu:
Kẻ vì mị đoái hoài giả tạo,
Kẻ hay tin quái giáo gây trò.
Nguyên nhân lỡ bước ai lo?
Đem đường Cực lạc đưa đò mê tân.

Đức Chưởng Đạo nói khó viết nên thăng nhờ Lục Nương tiếp giáng điển toàn bài  cũng  đề  tài  khuyên  ông

Thái Thơ có những từ như sau:
Phải hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng huờn vong,
Bớt điều hồ mị nhọc lòng phạn hương
Bớt các lễ người đương mê!

Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Thái Thơ Thanh:
TNHT. II. 6: "THƠ, nghe dạy:
Thời kỳ Mạt pháp nầy khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự Hữu hình phải hủy phá tiêu diệt.

Thầy đến chuyển Đạo, lập lại Vô Vi, các con coi thử bên nào Chánh lý: Hữu hình thì bị diệt  đặng,  chớ  Vô Vi chẳng thế nào diệt đặng.

Thơ! Thầy đã khiến con đi Đế Thiên Đế Thích đặng xem cho tạng mặt Hữu hình, nội thế gian nầy ngày nay ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng? Lòng đạo đức của con, Thầy thấy rõ, nhưng thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến, Thầy không muốn cho con hao tài tốn của mà gìn giữ sự giả dối.

Chẳng cần chi con lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết. Con hiểu bổn nguyên Bảo Sanh là bổn nguyên Thánh chất Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho nhơn sanh mà thôi, phần hồn về Thầy."...

Các Đấng thiêng liêng giao cho Lục Nương Diêu Trì Cung giáng cơ trả lời Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh về Tờ Sớ xin làm Cực Lạc Cảnh và Thái Cực Đồ.

Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng mở đầu, sau đó nhượng cơ cho Lục Nương.

NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch,
Cõi trần may nhờ khách đức dày.
Mùi hương sen Phật đã bay,
Từ bên Đông Á phô bày Tây Âu.
Nước hằng sống rửa bầu thế sự,
Khiến nguyên nhân đổi dữ theo lành.
Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,
Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.
Kẻ vì mị đoái hoài giả đạo,
Kẻ hay tin quái giáo gây trò.
Nguyên nhân lỡ bước ai lo,
Đon đường Cực Lạc đưa đò mê tân.
Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho chóng,
Các nguyên nhân trông ngóng bấy lâu.
Biết thân lại đợi ai cầu,

Tái cầu, Lục Nương tiếp:
Cầm gươm thần huệ soi lầu nguyệt quang.
Dục thế tục an nhàn lấy phận,
Cửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan.
Để chân vào cõi Niết Bàn,
Thoát vòng luân chuyển may đàng tầm duyên.
Tu đặng phép nhà Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo lẽ dối đời.
Sa môn chánh pháp đổi dời,
Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.
Khá hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng hoàn vong,
Bớt điều hồ mị nhọc lòng phạn hương.
Bớt những lẽ người đương mê tín,
Nhập Tịnh gia cậy lịnh Thích Ca.
Bớt điều làm sãi bó ma,
Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.
Bớt những lẽ giựt giành bái phước,
Lấy Vu Lan đặng được ấm no,
Bớt kinh bớt xá dâng thơ,
Mã môn con hát giả đò giải khiên.
Bớt cậy Phật lập quyền Địa Ngục,
Bớt đồ mưu lấy phục Di-Đà.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỉ tăng.

Thái Thơ thanh,

Anh khá kiếm lời răn của Phật,
Lấy từ bi dìu dắt sa môn.
Phật tăng như xác không hồn,
Lấy câu cứu khổ làm môn độ đời.
Anh khá mở cho rồi Cực Lạc,
Lập đường tu cho các chư sơn.
Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,
Đường tu cửa Phật may huờn như xưa.
EM nói rõ cho vừa ANH hiểu,
Bác Thiền Lâm, tùng kiểu Tam Kỳ.
Phép mầu hai chữ Từ Bi.
                                                  THĂNG

Đức Chí Tôn giáng cơ tiết lộ cho biết, nguơn linh của Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh là Từ Hàng Bồ Tát, và của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh là Long Nữ, đồ đệ của Đức Quan Âm Bồ Tát và của Ngài Đầu Sư Thái

Nương Tinh là Văn Thù Bồ Tát.
Sau đây xin chép lại bài: Đức Phạm Hộ Pháp xuất vía về Bạch Ngọc Kinh và Cực lạc Thế giới, thấy Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh, Chơn linh của Đức Từ Hàng Bồ Tát giáng trần, vào năm Đinh Mão (1927):

"Lúc mở Đạo ở Nam Vang (Tần quốc), Đức Phạm Hộ Pháp xuất Chơn thần về Thiên đình, qua Bạch Ngọc Kinh và Cực Lạc Thế giới, thấy Cửu phẩm Liên Hoa, nên thuật y câu chuyện lại cho Ngài Thái Thơ Thanh nghe như vầy: Đương lúc mơ màng, Chơn thần liền xuất đi, thấy ngồi trên một cái xe ngựa, day qua thấy cảnh Thất thập nhị Địa, qua đến Tứ Đại Bộ Châu, nhìn thấy Đức Chí Tôn đứng trên Tòa Kim Khuyết, Đức Lý Giáo Tông cũng đứng trên bàn, kế Chức sắc Thiên phong, mấy vị Đạo tâm đứng hầu Ngài….”

Năm 1950, Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh trở về nhà riêng ở Tân Định Sài Gòn để dưỡng bịnh. Ngài bị một bọn cướp ăn mặc giả trang là người thân đến thăm, lọt được vào nhà, chúng ám hại Ngài để cướp bóc tiền của và vàng bạc.

Ngài qui vị ngày  21-7-Canh Dần  (dl: 3-9-1950) hưởng thọ 77 tuổi.
Hội Thánh hay tin, đem Liên đài xuống Sài Gòn để tẫn liệm thi thể rồi rước về Tòa Thánh Tây Ninh làm lễ Đạo táng rất long trọng. Liên đài nhập Bửu tháp, xây tại Đông Lang Tòa Thánh và đem bửu ảnh thờ nơi Báo Ân Từ

Bài thài hiến lễ Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh:
Tu thân giáo hóa chỉnh đời thanh,
Đồng chúc lê dân hưởng phước lành.
Cõi tục cầu an kinh tụng niệm,
Lời truyền nguyện thấu đến cao xanh.
Mưa nhuần gió thuận Nghiêu - Thang tịnh,
Nắng tốt tuyết hòa Thuấn - Võ thanh.
Đồng hưởng đời đời câu thạnh trị,
Tiêu diêu khoái lạc chí hùng anh.

Bài thài nầy về sau được Hội Thánh dùng làm bài thài hiến lễ chung trong Lễ cúng kỹ niệm và tế lễ  các vị Nam Nữ Đầu Sư quá vãng hằng năm.

Ngày mùng 8-4-Nhâm Dần (dl: 5-8-1962), tại Thánh Tịnh Huỳnh Quang Sắc ở Bình Đông, Chợ Lớn, Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh có giáng cơ cho bài thi ngụ ý cho biết Ngài trở về cõi thiêng liêng được đắc phong là Từ Hàng Đạo Nhơn.

THI
TỪ  bi xây dựng lập ban vui,
HÀNG  mặc viết tu bước thẳng xuôi.
ĐẠO  lý sáng soi dìu khách tục,
NHƠN  luân tô điểm tợ hoa tươi.
NGUYỄN  gia gội phước gìn nên một,
NGỌC  quí đượm màu giữ vẹn mười.
THƠ  phú Thần Tiên ngâm hiểu nghĩa,
GÍANG  khuyên ráng học đạo làm người.

Khoán thủ 8 câu thơ trên là: Từ  Hàng  Đạo  Nhơn

Nguyễn Ngọc Thơ giáng.
Tiếp theo, ngày 15-9-Nhâm Dần (dl: 13-10-1962), cũng tại Thánh Tịnh Huỳnh Quang Sắc, Ngài Thái Thơ Thanh giáng cơ ban cho Kinh Nhạc Đạo Hành Ca, giảng giải về Đạo lý:

TỪ   tâm cứu khổ độ quần sanh,
HÀNG  uyển chỉnh tu tạo sống lành.
ĐẠO  lý gieo truyền gầy hạnh lạc,
NHƠN  luân bồi đắp tạc thinh danh.
NGUYỄN  gia phước huệ nêu màu đẹp,
NGỌC  tốt tinh vi rạng sắc thanh.
THƠ  viện sáng soi gìn giác thế,
GIÁNG  phân lẽ phải gắng thi hành.

Đàn nay, Bần đạo thừa vâng sắc lịnh của Đức Chí Tôn giáng tả Kinh NHẠC ĐẠO HÀNH CA quyển nhứt trên đường khai thông chuyển hóa.

TỰA KINH
NHẠC  lòng hòa tấu bản Đường Tu,
ĐẠO  đức sáng soi vẹt ngút mù.
HÀNH  hóa cảm thông khai mạch sống,
CA  ngâm đúng điệu tỉnh phàm phu.

Nhạc Đạo Hành Ca là những điệu sóng đàn lành mạnh hòa nhịp bản ca đạo đức, là những giọng dịu hiền giác hóa khách trần đi trên khúc quanh mê lộ.

- NHẠC ĐẠO hồn quê gọi kêu người lạc lối,
- HÀNH CA lý tưởng khai triển bước quang vinh.

Câu đối:
- Nhạc ĐạoTam Kỳ giác ngộ trần mê khai tâm chuyển hóa,
- Hành Ca nhứt lộ xiển dương chánh pháp bỉnh tánh hồi nguyên

07 - Ông LÊ-BÁ-TRANG (1879-1936)
Thánh danh Ngọc Trang Thanh
Đốc-phủ-Sứ Chợ-lớn

Ông Lê Bá Trang sanh năm 1879 tại làng An Qui, tổng An Trung, tỉnh Sa-đéc. Ông theo Tây học, thi đậu ngạch Tri Huyện, được bổ làm Chủ Quận Thủ Ðức, rồi thi đậu Tri phủ, được bổ làm Chủ Quận Chợ Lớn, được thăng Ðốc Phủ Sứ, làm Chủ Quận Vũng Tàu. Ông nhập môn theo Ðạo Cao Ðài vào tháng 5 năm 1926 (Bính Dần), được Thiên phong Ngọc Chánh Phối Sư vào ngày 3-7-Bính Dần (dl: 10-8-1926).

Năm 1929, Ngài Lê Bá Trang xin từ quan và phế đời về Tòa Thánh Tây Ninh hành Ðạo. Năm 1930, Ngài Lê Bá Trang được thăng lên Quyền Ngọc Ðầu Sư, cùng một lượt với Ngài Nguyễn Ngọc Tương.

Thời kỳ ông Trang lập Chi phái:
Ông Trang cùng với ông Tương rút về Bến Tre lập Ban Chỉnh Ðạo, sau đó biến thành Chi phái Bến Tre. Ông được Ðại Hội Vạn Linh của phái Bến Tre bầu làm Ngọc Chưởng Pháp.

Ông Trang qui liễu tại Bến Tre ngày 30-5-Bính Tý (dl: 17-7-1936), liên đài được đưa về Tòa Thánh Tây Ninh ngày 21-7-1936, được Toà-Thánh nhận cho vào nhập bửu tháp ở phẩm Quyền Ngọc Ðầu Sư.

Đức Hộ-Pháp phán định: Những Chức sắc phế phận, bỏ Toà Thánh ra đi, đã bị Hội Thánh ngưng quyền, nay ăn-năn hối cải, muốn trở về tạ tội xin Hội-Thánh khoan hồng, thì khi ra đi mang phẩm tước gì, nay trở về phải mang phẩm tước đó, chứ không thể xưa là một phẩm Quyền Đầu sư nay quay trở lại với một phẩm Giáo-Tông được ! Với những hình thức cờ quạt lộng tàng, tiền hô hậu ủng như thế này không thể chấp nhận cho vào Toà Thánh được" .

Ðàn cơ tại Phạm Nghiệp ngày 11-6-Bính Tý (dl: 28-7-1936), phò loan: Ðức Hộ Pháp và Cao Tiếp Ðạo, Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ nói về chơn linh của Ngài Lê Bá Trang bị đọa nơi Lạc Hồn Trì, ghi lại như sau:

THƯỢNG TRUNG NHỰT
“Chào mấy em.
 “Thượng Phẩm nói với Qua mấy em đợi.
Ôi! Qua nghĩ lại bắt tức mình, mấy em nghĩ lại mà coi, một kiếp sanh đâu mấy lát, cái giả cuộc trần hoàn tuy xem nháy mắt mà ảnh hưởng nó sâu sắc biết là bao, nào là danh, nào là vị, nào là tước, nào là quyền, nào là vinh, nào là trọng, rốt sự rồi cũng không còn mảy mún giá trị chút gì nơi cõi Hư linh Hằng sống, bất quá như còn vui dự đặng một tiệc ngọt ngon của khách phong trần say sưa một lát mà đòi phen chịu thảm cả đời.

Qua đến viếng TRANG nơi Lạc Hồn Trì, nó nằm mê sảng sốt, đau lòng hết sức, như lời Thất Nương và Bát Nương làm chứng, thì dầu cho Qua có đến gần nó lúc  nầy

cũng không bổ ích chút nào cả, phải đợi cho nó từ từ định tỉnh, may ra có tay Thất Nương giải mộng thì thỉnh thoảng định tỉnh tinh thần. Nếu Qua cượng cầu thì chẳng khác nào hầu chuyện với người điên, chọc thêm loạn tánh.
TÁM, Em nên phò loan đặng Qua truyền tin  TRANG cho Em hiểu. Khi nãy, Qua thấy em có khách nhiều thì phải, thôi Qua đi.” Thăng.

Hộ Pháp Ðường ngày 17-10-Bính Tý (dl: 30-11-1936), phò loan: Ðức Hộ Pháp và Cao Tiếp Ðạo. Ðức Quyền Giáo Tông giáng cơ nói về chơn linh của ông Trang và ông Tương:
THƯỢNG TRUNG NHỰT

… “TRANG khóc quá bây ơi! Vừa hiểu hiểu chớ còn khi tỉnh khi say, nhưng Qua theo bên mình ủng hộ, không sao phòng ngại. Em TÁM làm ơn nói với con Hai cho nó biết, kẻo lo rầu tội nghiệp.

Hộ Pháp bạch: - Biết nó nghe không?
- Em cứ nói giùm. Cha chả ! Va oán Em đánh va hôm nọ lắm. Qua an ủi mà hễ tỉnh thì cằn-rằn hoài. Em nên viết cho va một cái thơ an ủi, cậy Qua đưa giùm  đặng

Qua thừa dịp thức tánh va một chút. Em làm ơn giùm.
….. Ôi! Thây kệ, đừng giận làm gì nữa. Nếu Em thấy va lúc nầy thế nào Em cũng tội nghiệp. Em làm phước làm giùm cái tháp cho va, hễ tỉnh thì hỏi có bao nhiêu đó hơn hết. Ôi! TƯƠNG là cục nợ báo đời của TRANG, do căn kiếp phải vậy, dầu khi chết cũng còn theo báo hại.

Em biết TƯƠNG là ai chăng ?
Ðứa nào nói trúng, Qua thưởng một củ mì !.
- Qua nói nhỏ: NGÔ TÔN QUỜN đó biết không?...

Cái chết của Ông Lê Bá Trang:
Ngày 30-5-Bính Tý (Thứ Sáu: 17-7-1936). Ông Tri phủ Lê Bá Trang, là Ngọc Chưởng Pháp của Ban Chỉnh Đạo (Bến Tre) từ trần. Ban Chỉnh Đạo xin Hội-Thánh Cao-Đài Toà-Thánh Tây Ninh cho ông Trang được an táng nơi nội-ô Toà-Thánh Tây-Ninh. Dù rằng ông Trang đã bị Hội Thánh Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ lập Đạo Nghị định thứ 17 ngưng quyền cả hai Ông: Tương và Trang ngày 26-5-Quí Dậu (Thứ Ba: 18-7-1933) rồi. Nhưng Hội Thánh vẫn rộng quyền ân tứ  như lời cầu xin. Thế là vào ngày 4-6-Bính Tý (Thứ Ba: 21-7-1936) Ban Chỉnh Đạo Bến tre chở liên đài ông Lê Bá Trang về Toà Thánh có cả ông  Nguyễn-Ngọc-Tương mặc phẩm phục Giáo-Tông của  phái  Bến  tre. Đoàn tuỳ tùng là Chức sắc áo mão rực rỡ, rần rần, rộ rộ kéo về Toà-Thánh Tây Ninh. Thực sự đây cũng là một “ý đồ” chiếm Toà  Thánh nữa. Nhưng…

Hội Thánh Cao-Đài Toà Thánh căn cứ vào quyết nghị là: Ban Chỉnh đạo Bến tre đã có Hội-Thánh riêng, giáo điều riêng, giáo lý riêng, Thánh Thất riêng  thì  không          

thể mặc sắc phục này vào Toà Thánh được. Muốn về Toà Thánh thì phải tuân theo Nghị định thứ 8 của Đức Lý Giáo Tông là phải “mặc áo trắng”.

Ban Chỉnh Đạo thì cho rằng: “Bằng khoán đất và tất cả giấy tờ của Đạo đều là của ông Tương đứng tên thay mặt ngày xưa cùng với Bà Nữ Đầu sư Lâm Hương Thanh”  Thì hôm nay đây ông Tương trở về với vị thế một chủ nhà.

Bức thư số 2
Ông Ngọc-Trang-Thanh gởi các Họ Đạo đề cao cảnh giác Thái-Ca-Thanh.

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
(Đệ thất niên)
Toà-Thánh Tây-Ninh, le 3 Novembre 1932.
(Mùng 6 tháng 10 năm Nhâm Thân)

Ngọc Chánh Phối-sư kiêm Chủ-trưởng Chức-Sắc Nam-phái.
Gởi cho chư vị Đầu họ Tỉnh và Quận Đạo.
Chú thích: TRANG: Ông Lê Bá Trang. Ðức Quyền Giáo Tông gọi Ðức Hộ Pháp là Em TÁM

Hiền Hữu, Xin Hiền-Hữu đọc bức thơ sao lục dưới đây của Thượng Tương-Thanh Chánh Phối-sư, gởi khuyên Ông Thái-Ca-Thanh ở Mỹ-Tho hồi tâm đặng trở lại đường Chánh-giáo. Các ý-kiến tỏ ra trong thơ ấy đều hạp với ý-kiến của Tôi nên khuyên Hiền Hữu đọc lại cho rõ, hiểu cho chắc rằng những việc của ông Thái-Ca-Thanh hồi giờ gánh sự rắc-rối cho nền Đạo đều do chuyện hờn giận riêng mà làm cho vừa lòng, nên không nhằm Thánh ý.  Nếu Đạo-hữu nào còn mê-tín theo Người nữa thì sau rồi dầu có ăn-năn cũng muộn và trễ bước đường công  quả.  Xin Hiền Hữu truyền lại cho chư Đạo hữu Nam Nữ rõ biết mà tránh việc lầm lạc ấy, hầu đi cho cùng bước Đạo mà về Thầy. (Ký tên - Ngọc Trang Thanh)

08 - Ông VƯƠNG-QUAN-KỲ (1880 - 1939)
Tri phủ sở thuế thân Sài-gòn
Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl: 12-02-1926)

THẦY cho thi Quan Phủ Vương Quan Kỳ:
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề Ðạo dữ tân.
Vô lao công quả tu đương tác,
Niên quá niên hề Ðạo tối tân.
(Đức Cao Đài)

1 - Phần đời: Tri phủ Sở thuế thân:
Ông Vương Quan Kỳ, tự Mỹ lương, người tỉnh Chợ Lớn. Sanh ngày 29-5-1880 (khai sanh ngày 4-7-1880 tại Chợ-Lớn) Ngài là cháu nội của Thống Chế Vương Quan Hạc. Ông ngoại là nhà Nho yêu nước, là Tuần Phủ Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), đậu cử nhân, làm quan hai triều Minh Mạng và Tự Đức, rồi từ quan khi nhà Nguyễn ký Hòa ước 1862 với Pháp.

Song thân ông Kỳ là Vương Quan Để (1842-1887) và Bà Huỳnh Thị Bảy (1851-1935). Thuở nhỏ Ông học trường Collège de Mỹ Tho (từ 1894) sau lên  Sài-gòn  học

trường Lycée Chasseloup Laubat (1896) đậu Diplôme. Năm 1898, Ngài đậu ngạch Thư ký sở Hành chánh Nam Kỳ và bắt đầu đi làm việc ngày 18-5-1898 tại Direction de L’Agriculture et du Commerce, cùng làm việc với ông Chiêu ở Dinh Thống Đốc Nam Kỳ, ngạch Tri phủ.

Ngài Vương Quan Kỳ nhập Pháp tịch ngày 16-3-1912 lấy tên là Guillaume.

Ngày 1-2-1906, Ngài Vương Quan-Kỳ phối ngẫu với Bà Huỳnh Ngọc Phan (1878-1949) người tỉnh Sa-đéc. Bà là con của ông Huỳnh Long Huấn và Bà Trần thị Kim. Ông Bà có được hai người con gái: Bà Vương Thanh Chi (Sophie 1908-1980) và Bà Vương Xuân Hà (Anna 1911-1983). Năm 1913 với người thiếp tên là Lê Thị Được, Ngài có một con trai tên là Vương Quan Sen (1915-1985).

Anh trai thứ hai (khác mẹ) của  ngài  Vương  Quan  Kỳ 
Chú thích: Điều đáng lưu ý là:
- Bức thư của ông Tương khuyên ông Ca đề ngày 1-11-1933
- Văn thư của ông Trang gởi cho các Họ Đạo đề cao cảnh giác Ông Ca đề ngày 3-11-1933. Ngay lúc này, Nhị vị Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang-Thanh cả  hai   phẩm  Chánh Phối-sư,    Chức  sắc đương quyền.

- Ngày 17-1-Đinh-Dậu (1933) cách nhau trên 10 ngày, hai Vị Tương và Trang được Đức Quyền Giáo-Tông và Hộ pháp đồng ký tên thăng phẩm Quyền Đầu-sư, kế đó không lâu hai vị này bất đồng ý-kiến với Đức Quyền Giáo Tông mà tách ra Chi-phái Bến Tre (Ban Chỉnh Đạo)

ông Vương Quan Trân, còn gọi là Vương Thế Trân (1863-1927) phối ngẫu với Bà Đỗ thị Sang (1866-1931) Bà là con gái lớn của Tổng Đốc Phương, có hai người con là Vương Thị Lễ (1900-1918) và Vương Hiếu Nghĩa (1905-1985)

Cô Vương Thị Lễ sanh ngày 8 tháng giêng năm Canh Tý (1900) học trường Sainte Enfance (thuộc nhà dòng Saint Paul de Chartres) đến Brevet Élémentaire (Trung học pháp). Cô Vương Thị Lễ qui Thiên ngày 25-10-Mậu Ngọ (dl: 28-11-1918) năm ấy Cô 19 tuổi.

2 - Phần Đạo: Giáo sư của Tòa-Thánh Tây-Ninh
Đêm giao thừa năm Bính Dần (dl: 12-02-1926) đoàn  người Môn đệ Đức Chí-Tôn đến thăm từng nhà của nhau. Mỗi nơi đến đều có thiết đàn thỉnh Đức Chí-Tôn giáng dạy và mỗi người được một bài thi.

Bài thơ Đức Chí-Tôn cho Ông Vương-Quan-Kỳ:
Nhựt nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề đạo dữ tân.
Vô lao công quả  tu đương tác,
Niên quá niên hề Đạo tối tân.

Ông thọ phong Giáo-Sư ngày 26-4-1926. Ông là Chú của cô Vương Thị Lễ. Cô đến với Tam Kỳ Phổ Độ trong buổi đầu tiên, tá danh là Đoàn Ngọc Quế tức Thất Nương Diêu-Trì-Cung hướng dẫn các ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư và Cao-Hoài-Sang học Đạo buổi đầu.

Ngày 15-3-Bính-Dần ông Vương Quan-Kỳ được phong chức Tiên đắc Lang quân nhậm Thuyết đạo Giáo sư. Rồi ông được Thiên-phong Giáo-sư phái Thượng, tức là Thượng-Kỳ Thanh ngày 14-5-Bính Dần. Đến rằm tháng 10-Bính Dần (dl: 19-11-1926) lại xảy ra việc thử thách: Cô Vương Thanh Chi là ái nữ Ngài Vương Quan Kỳ bị “nhập xác” tạo nên chuyện biến trong ngày Lễ khai Đạo này tại Thánh Thất Gò-Kén. Có lẽ vì vậy thêm một lý do nữa khiến Ngài Vương Quan Kỳ chán nản và lơi dần việc Đạo sự mới ra đến nỗi.

Nhưng đến ngày 14-11-Bính-Dần (dl:18-12-1926) thì Đức Lý giáng dạy:
 “Thượng-Kỳ-Thanh bị sụt chức làm Giáo Hữu. Như không tuân lịnh xuất ngoại”.

Đến ngày 18-11-Bính Dần (dl: 22-12-1926)
Đức Lý dạy:
 “Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu viết thơ cho mấy Thánh-Thất lục tỉnh nói Thượng-Kỳ Thanh bị trục xuất ra khỏi hàng Môn-đệ chẳng quyền-hành truyền Đạo nữa. Như nó chẳng tin nghe lời bị phạt Tả đạo bàng môn thì chịu, nghe à! Đã lập pháp mà nó muốn làm chi thì làm như buổi trước vậy hoài, thì bị phạm Thiên-điều tránh sao cho khỏi tội. Hộ-Pháp Hiền-hữu khá an lòng.   

Qua ngày 28-11-Bính Dần (dl: 1-1-1927) thì:
Đức Lý giáng dạy:
 “Thượng-Trung-Nhựt, Hiền-hữu từ đây coi Thượng Kỳ-Thanh như một Môn-Đệ vậy thôi, chứ chức Giáo-Hữu cũng cất luôn nữa. Thầy để lời xin tha mà pháp-luật đã phạm tha sao cho được”.

Vào năm 1930, Giáo-Sư Thượng Kỳ-Thanh tức là Vương-Quan-Kỳ, không tuân lịnh Toà Thánh Tây-Ninh áp dụng nghi lễ mới, nên tách ra lập phái, lập tại Thánh-Thất Cầu-Kho.

“Qua sự giới thiệu của chơn linh Cô Vương Thị Lễ Ngài Vương Quan Kỳ quen biết và cùng hành Đạo với nhóm của ba Ngài Cư, Tắc, Sang từ 17-11-1925 (ngày này do chính Ngài ghi lại trong sổ).

Trước đó, vào năm 1924 Ngài làm việc chung phòng Thương Mại tại Dinh Thống Đốc với Ngài Ngô văn Chiêu, là bạn đồng song. Nhưng từ khi Ngài Ngô văn Chiêu tách riêng lập phái Chiếu Minh thì Ngài Vương Quan Kỳ buồn bã và lơi đi chuyện Đạo sự nơi chốn Tổ Đình, tức toà Thánh Tây Ninh. Vì lẽ đó mà Đức Lý trục xuất chăng ?

Ngài Vương Quan Kỳ qui Thiên ngày 18-10-Kỷ Mão (1939) an táng tại Tân-Sơn-Nhì. Hôm tang lễ, các Ngài: Nguyễn Ngọc Thơ, Đoàn văn Bản có đọc bài Ai điếu đưa tiễn. Hiện tro phần của Ngài lưu tại Thánh Thất Bình Hoà (Gia Định)

Trong “Con đường Thiêng liêng hằng sống” Đức  Hộ Pháp nói về ông Vương Quan Kỳ  như sau:

“Bần-Đạo may duyên đặng  thấy  hình  trạng  ấy, chúng ta không thể gì định hành-tàng người này hay, người kia dở, người này nên, người kia hư, nhiều điều ta ngó thấy trong cảnh này khác hẳn với khuôn luật vô hình, chúng ta chẳng thể nào đoán trước được. Bần-Đạo thấy người Bạn nhờ ơn Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn, ơn riêng ban cho người Bạn ấy. Người ấy có Người chí thân là một Đấng cầm quyền trọng hệ trên Hư-Linh tức là Diêu Trì-CungThất-Nương. Bần-Đạo nói rõ, Người ấy là Vương Quan-Kỳ chú ruột của Thất-Nương vậy. Người mở Đạo mà chẳng biết Đạo là gì hết. Đi theo một tư-tưởng của nền Chánh-giáo do Đức Chí-Tôn, định quyết tư-tưởng của Người ấy và cả hành-tàng, nếu chúng ta thấy ta sẽ lên án là Tả-Đạo Bàng-Môn chắc hẳn vậy.

Lạ thay! Khi Bần-Đạo quay lại dòm thấy nhiều Bạn rơi xuống Bích-Hải khóc lóc, còn người đó bận Thiên Phục giống hình đội mão Giáo-Sư, lại áo tốt vắt vai, mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần đi ngật-ngờ, ngật ngưỡng cười một mình không biết cười cái gì, đi ngang qua Bát Quái-Đài như không vậy.

Ấy các bạn đủ biết, dầu hành tàng của người bề hữu-vi thấy trái hẳn nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn mà trọn tâm tín-ngưỡng Ngài, ta đoán không đặng, người thọ Thiên-Phục áo mão dầu không thế gì mặc vô được, duy cầm nơi tay đi ngang vô Bát-Quái-Đài không quyền-lực nào ngăn cản được. Chúng ta nên lấy bài học ấy đặng để trong tâm, đừng phê-bình công kích. Thoảng ta có phận sự dạy-dỗ để dìu-dắt cả các phần-tử Thánh-Thể của Đức Chí Tôn và chúng ta có được quyền lấy oai-nghiêm của mình tìm phương thế nào dạy-dỗ đặng hiểu biết về phần hình thể và phần hồn của toàn con cái Đức Chí-Tôn, ngoài ra không có quyền gì công kích, tự kiêu, mình bất quá là một phần-tử trong Thánh-Thể Ngài mà thôi; không đặng quá tự-tôn tự-trọng, cửa Thiêng-Liêng, chúng ta có những linh hồn, thoảng may duyên tạo nhiều linh hồn nữa, tức nhiên ta có đủ quyền năng, dìu dắt con cái của Đức Chí-Tôn trở về trong đường lối khai phá của Người, ấy là phận sự của chúng ta đó. (Đêm 08 tháng 9 năm Mậu-Tý (10-10-1948)
Đó là nguơn linh của Hàn Tương Tử thích phóng túng tiêu dao.

09 – Ông  NGUYỄN-VĂN-KINH (1890-1945)
Thầy Tu Bình-lý-thôn Gia-Định
Nguyễn văn Kinh thọ Thiên phong Giáo sư

Ông Nguyễn văn Kinh là con trai thứ ba của ông Nguyễn văn Khá và Bà Thái thị Ban. Ông sanh năm 1890 ở Bình Lý Thôn, Gia Ðịnh, học trò của Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Tu theo Minh sư từ lúc 13 tuổi, giỏi chữ Nho, ông cũng thường hốt thuốc trị bịnh tại nhà (làng  Bình Lý, nay là ấp 6A, Bình lý, xã Bình Mỹ - Củ Chi)

Khoảng năm 1920, ông có lập một am nhỏ tại Hữu Đạo, Cai lậy, để học Đạo với Ngài Nguyễn Đạo Tương  được Đức Cao-Đài ân phong vào ngày 08-06-Bính Dần, hàng phẩm Giáo sư phái Ngọc. Ông có soạn hai quyển Giáo lý là: Giảng Đạo yếu ngôn, Hội lý xiển chơn luận…được Toà Thánh ấn hành năm 1928. Đến nay còn được lưu truyền

Ngày 3-3-Ất Dậu (1945) Ông Nguyễn văn Kinh thọ lịnh đi giảng Đạo miền Trung. Xuống tàu tại bến Nhà Rồng, nhằm một đợt bắn phá của máy bay Đồng Minh chống Nhựt, ông bị thương, đưa về đến Bịnh viện Chợ Rẫy thì qui vị. Ông được an táng tại Ngã ba Đồn (nay thuộc ấp 5, xã Đông Thạnh, Hốc môn).

Năm 1980, cải táng hài cốt về Tây Ninh.
Phải chăng Thầy biết trước ông Kinh tuy là Chức sắc được ân phong nhưng đức tin không vững, Thầy mới để lời khuyên như sau. Nhưng rốt rồi ông cũng tách ra theo Chi Phái

Thánh Giáo Đức Chí-Tôn ban cho ông Kinh:
Thầy dạy: ngày 26-5-Bính Dần (dl: 5-7-1926):
CAO ÐÀI:  Đức CAO ÐÀI giáng cơ dạy như vầy:

“K... nghe Thầy dạy con. Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc đạo phải có công quả. Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng, tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Thầy nói cho con nghe.  K... ôi! Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ.

K... con ôi! Cửa Bạch Ngọc Kinh ít kẻ, chớ chốn A Tỳ vốn nhiều người. Con liệu mà hành đạo. Thầy thương con chừng nào, ngày sau con càng ăn năn tiếc chừng nấy. Thầy đã hiểu lòng con ăn năn sám hối, nên Thầy đã tha tội trước cho con rồi. Phận sự con rất lớn, tại Ngọc Ðàn con sẽ thọ lịnh”.

Chúa nhựt, 25-7-1926 (âl 16-6-Bính Dần)
… “Thầy dặn các con, như đàn nội chẳng nghiêm, Thầy không giáng, ba con nhớ nghe !
Tr..., L..., K..., T... nghe: Bốn con đã mang nơi mình mỗi đứa một trách nhậm chẳng phải nhỏ.

Thử nghĩ, lập một nước còn dễ hơn dạy một người dữ đặng hiền, huống chi trong Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, các con phải độ rỗi cả nhơn loại khắp cả Năm Châu, thì trách nhậm ấy lớn lao là bực nào. Cái hạnh và cái đức của các con, nó phải phù hạp với cái trách nhậm mới đặng. Các con là đèn và gương soi của nhơn loại, phải tập mình cho xứng đáng. Các con có đặng hạnh phúc ấy là do học đặng mảy mún nơi Thầy, mà Thầy dạy các con chẳng nghe, Thầy sai các con chẳng tuân.

Tu thân còn chưa xong thì thế nào mong mỏi thành Tiên, Phật đặng?”
Trong Thánh Ngôn chép tay của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, trang 53, có chép bài Thánh Ngôn nầy, nhưng phần cuối có thêm một đọan, xin chép bổ sung ra:

 "Tu thân chưa xong thì thế nào mong mỏi trị quốc và  bình thiên hạ đặng. Các con ôi! Dưới thế nầy, biết bao nhiêu là Môn đệ của Thầy mà sao Thầy buộc mình lựa cho đặng: Trung, Lịch, Minh, Kinh, Tương. Các con chưa biết sự quí trọng ấy, mà đến ngày biết lại ăn năn đã muộn. Các con phải gẫm những Thánh ngôn của Thầy cho lắm và liệu lấy mà xét mình.

10 - Ông NGÔ-TƯỜNG-VÂN
Thông-phán Sở tạo tác Sài-gòn


11 - Ông NGUYỄN-VĂN-ĐẠT (1881-1942)
Nghiệp chủ Sai-Gòn

Tên thật của ông là Trần Phát Đạt, con của ông Trần Đăng Khoa và Bà Võ thị Phú. Người anh thứ ba của ông là Trần Hiển Vinh, nơi Thanh An Tự.

Khoảng năm 30 tuổi, để tránh né một vấn đề pháp lý, ông đổi sang họ Nguyễn trong khi bốn người con: hai trai hai gái của ông còn giữ họ Trần.

Ông Đạt làm việc tại Sở Thương Chánh đến khoảng năm 1930, ông về quản lý vườn cao su Phú hưng của gia đình, nhưng vẫn thường xuyên hành Đạo tại Thánh Thất Cầu Kho, Minh Tân, tức nhiên ông là người của Chi phái Cầu Kho.
Ông Đạt qui vị vào năm 1942, an táng tại đất nhà (Bình Dương)

12 –  Ông NGÔ-VĂN-KIM  (1868-1940)
Điền chủ. Đại-hương cả.  Cần-giuộc
Kim: Giáo Sư Thượng Kim Thanh (Ngô Văn Kim).

Ngày 02-02-1926 tại Cần Giuộc, Thầy ban cho ông Ngô văn Kim lời dạy:
Một cây, một núi, một phong quang,
Hồng luyện mây xanh vẽ nét nhàn,
Hậu thú lâm tuyền chê thế tục,
Chừng mô phong nguyệt một bầu mang.

Đêm 01-7-Bính  Dần,  Đàn  tại  Vĩnh  Nguyên  Tự
Thầy giáng vào 12 giờ khuya trong lúc tái cầu như vầy:
 “Trong Tam Kỳ Phổ Độ và Qui Tam giáo này:
- Phật thì có Quan Âm.
- Tiên thì có Lý Thái Bạch.
- Thánh thì có Quan Thánh Đế Quân khai Đạo Vậy con lập cho đủ ba Trấn chứng Đàn. Con phải lập bàn Ngũ Lôi như Thầy dạy lúc trước, phải có bùa Kim Quang Tiên, còn con viết bùa Giáng Ma Xử để bàn Vọng Hộ Pháp, rồi Cư chấp bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến. Rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ-Pháp với Tắc và Sang, còn mấy đứa phò loan đứng vòng theo đó.

Con biểu Tương, Kim, Thơ thề y như buổi trước.
Chư môn đệ thề như buổi Thiên phong. Con phải nhớ dặn chúng nó tịnh tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn”.

Như vậy, thêm một số vị được ân ban gồm quí Ngài: Nguyễn Ngọc Tương, Nguyễn Ngọc Thơ, Lê Bá Trang, Ngô văn Kim…Vì buổi hầu Đàn đêm ấy  tại Vĩnh Nguyên Tự  không  hiện  diện  đủ  mặt  chư  vị  tuân  theo.

Thánh lịnh .
Riêng về ông Ngô văn Kim (1868-1940) người Xã Trường Bình, Cần Giuộc. Vợ của Ngô văn Kim là Bà Chung Thị Tạo (1868-1925). Ông được Đức Cao-Đài thâu nhận vào Đạo Cao-Đài ngày 2-2-1926 tại Cần Giuộc. Ngày Lễ  Thiên phong lần thứ nhì ngày 3-7-Bính Dần, ông Ngô văn Kim được Thiên phong vào phẩm Giáo sư phái

Thượng  (Thượng Kim Thanh).
Trong bài văn đọc vào hôm rước Xá lợi Ngài Hiến Thế Nguyễn văn Mạnh (1894-1970) về Toà Thánh ngày 19-04-1977, Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa có ghi rõ:

“Ngày rằm tháng 3 Bính Dần, cùng một lượt với Ông Phạm Công Tắc được Đức Chí-Tôn phong là Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ, Ông Cao Quỳnh Cư là Tá cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ, chư vị: Đức, Hậu, Nghĩa, Tràng, Tươi, Chương, Kim, Đãi, Mai, Nguyên, Phước, Mạnh đồng được Đức Chí-Tôn phong là Tiên Đạo phò cơ Đạo sĩ.”

Mười hai vị này sẽ thọ phong và sau trở thành Thập Nhị Thời Quân. Tuy nhiên vào ngày lập pháp Hiệp-Thiên Đài ngày 12-01-Đinh Mão (1927) thì ba vị Kim, Mai, Nguyên vắng mặt. Về sau Đức Chí-Tôn ban cho ba vị khác là  Cao-Đức Trọng, Lê Thế Vĩnh và Thái văn Thâu.
Riêng về Ngô văn Kim không biết rõ về ông.  



Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu (dl: 12-02-1926)
   THẦY cho thi ông Ðoàn Văn Bản:
Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.

1 - Phần đời : Đốc học trường Cầu Kho:
Ông Đoàn Văn Bản, tự là Văn Long, người làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa. Xuất thân từ một gia đình trung lưu, cha mẹ mất sớm, Ngài sống với người chú họ.

Trước năm 1914, Ngài được cấp học bổng vào Ecole Normale Primaire d’Instituteur  (Sư phạm Gia Định) (tức  nhiên  học  trường  Tiểu  học  Biên  Hòa  rồi  nội  trú trường Sư phạm “Sơ Tiểu” tại Gia Định).

Sau khi tốt nghiệp Ngài được phái làm giáo viên nhiều nơi. Năm 1925, sau cùng về trường Tiểu học Cầu Kho (nay là trường Trần Hưng Đạo, đường Trần Hưng Đạo) làm Đốc Học (Hiệu Trưởng), nên còn gọi là Đốc Bản. Ông chỉ có một con gái là Đoàn Thị Quới.

2 - Phần đạo : Giáo Sư
Vì không có con trai nối hậu, ông Bản vẫn thường ưu phiền. Khi ông đã vào Đạo Cao Đài, đêm 30 Tết Ất Sửu (Thứ Sáu: 12-2-1926) trong một Đàn cơ tại nhà ông vào trước giờ giao thừa, Đức Cao Đài an ủi bài thơ trên

Gia đình ông Đoàn-Văn-Bản ngụ ở khoảng góc đường Nguyễn Tấn Nghiệm (nay là Phát Diệm) rất gần trường Cầu Kho. Nhà này sau trở thành Thánh Thất Cầu Kho (nay không còn).

Tư gia của Ông khá rộng, ở cạnh trường, số nhà 42 Général Leman (nay là đường Cao Bá Nhạ), được Ðạo mượn dùng làm Thánh Thất thờ Ðức Chí Tôn, lập đàn cầu cơ, thâu nhận Môn đệ. Phò loan tại đây là hai Ngài: Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Ðức..

Ông Bản đến phố Hàng Dừa vào ngày mùng 1 tháng Chạp Ất Sửu (Thứ Năm: 14-1-1926), Đức Cao Đài dạy ông như sau:
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn bực rồi sau mới có mừng.
 Home       1]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét