thể hiện được tinh thần của:
Tam Hội Lập Quyền
Thấy ra thời kỳ mới mẻ mà Đức Chí-Tôn cũng
sắp đặt cho có đủ “Tam Hội Lập Quyền”. Ấy là:
[ngày
23-8-Bính-Dần (dl: 29-9-1926) ]
- Thứ hai là Đại Hội Hội-Thánh, tức nhiên 28 vị
đã ký tên vào TỜ KHAI ĐẠO với chánh phủ Pháp.
[ngày 01-9-Bính Dần (dl: 7-10-1926) ]
- Thứ ba là Thượng Hội, tức nhiên quyền
Thiêng liêng tối thượng, ban đầu do Đức Chí Tôn chỉnh sửa TỜ KHAI ĐẠOvà phán
định ngày nạp cho chính phủ là Ông Le Fol.
[Ngày 16-8-Bính Dần (Thứ tư, 22-9-1926) ]
LỜI
NÓI ĐẦU
Đức Quyền Giáo-Tông Lê văn
Trung nhận lãnh sứ mạng nơi Đức Thượng-Đế qui tựu số Chức sắc và toàn thể Tín
đồ hiện có trong thời buổi này là 247 người họp tại nhà của ông Nguyễn văn
Tường để thảo luận và được sự đồng ý ký tên, xong lập TỜ KHAI ĐẠO đại diện là
28 vị, để trình lên quan Toàn quyền Pháp là ông Le Fol.
Nhân kỷ-niệm hai năm ngày
làm Tờ Khai Ðạo với Chánh phủ thuộc-địa Pháp, ngày 23 tháng 8 năm Mậu Thìn (6
Octobre 1928). Đây là ngày Khai sinh Đại-Đạo với toàn thể chúng sanh, với quốc
dân đồng bào, nó có một ý nghĩa hết sức to lớn. Chính vì vậy, dù đã lập Toà
Thánh ở Tây-Ninh; Ngài Thượng Trung Nhựt hằng năm vẫn về nhà ông Nguyễn Văn
Tường để làm Lễ Kỷ-niệm.
Chính Đức Quyền Giáo-Tông
đã có bài Diễn văn thuyết về Kỷ-niệm ngày Khai Đạo ấy.
Ngài Thượng Trung Nhựt
nói:
"Tôi rất hân hạnh vì
ngày nay được thay mặt Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng thổ lộ ít lời, nhắc tích ngày
kỷ niệm hôm nay…
Khi cầu Cơ, Đấng Chí Tôn
giáng kêu Tôi dạy: phải cho Môn đệ của Thầy tới tối 23 tháng 8 tựu tại nhà Đạo
hữu Tường đây. Tôi không biết rõ Thánh ý, điều tôi vâng mạng, cho chư Đạo hữu
hay lời Thánh truyền tối 23-8 Bính-Dần tựu tại đây rồi cầu Đấng Chí Tôn giáng
dạy, Tôi phải biên tên hết các nam nữ lưỡng phái đặng đứng TỜ KHAI ĐẠO với
Chính phủ. Khi ấy có mặt tại đàn hết thảy là 247 vị Đạo hữu (1). Tôi có nạp tên
mấy vị ấy tại chính phủ, khi Tôi dâng TỜ KHAI ĐẠO là ngày 6-10-1926. Tôi bạch
với Đấng Chí Tôn rằng Tôi không có thì giờ đủ mà đệ Tờ Khai Đạo cho ông
Thái-Lão Trần Đạo Quang ký tên. Đấng Chí Tôn giáng dạy tôi cứ việc đem tên Trần
Đạo Quang vô Tờ Khai Đạo. Đấng Chí Tôn có phán rằng “Con cứ đem tên nó vô Tờ
Khai Đạo, Đạo-Quang nó không chối cải đâu mà con phòng ngại”.
Từ ngày ấy, Anh Trần Đạo
Quang hết lòng sốt sắng vì Đạo nên Đấng Chí Tôn phong cho chức Chưởng Pháp
trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Ấy là sự tích ngày kỷ niệm hôm nay. Nhìn mặt nhau
đây, chúng ta thấy chúng ta phản lão hoàn đồng. Chúng ta trẻ lại hai tuổi vì
chúng ta trở lại công việc hai năm về trước. Đó là ngày vui, ngày quí báu của
chúng ta. Biết vui, biết quí báu chừng nào thì phải nhớ về cái ân huệ của Đấng
Chí Tôn ban thưởng cho chúng ta chừng ấy. Muốn đền ơn qúi trọng ấy, phải làm
sao ?- Phải hết lòng vì Đạo, vì tín ngưỡng Đấng Chí Tôn và chư Phật, chư Tiên,
vì đức háo sanh, vì cuộc tuần hoàn mà gieo mối Đạo Trời Tam-Kỳ Phổ-Độ ngõ hầu
độ rỗi sanh linh khỏi trả vay nơi trầm luân khổ ải này…
Đấng Chí Tôn vì quá thương
nhân loại nên cho chúng ta được hưởng cái công KHAI ĐẠO, cái công vẹt ngút mây
xanh, làm chỗ sáng sủa bạch minh cho bước đường sau này, cũng theo dấu ấy mà
tầm đến nơi yên tĩnh, làm cho khắp cả nhân sanh đều được hưởng…Theo Thánh ý,
Đấng Chí Tôn muốn cho chúng ta kết chặt nhân sanh nơi cõi NAM này đặng cùng
nhau chung hiệp, tìm con đường HOÀ BÌNH, lần ra khỏi khốn khổ lao lung ở cõi
trần này. Ngày nào ĐẠO chưa HOÀ, chưa đồng nhứt tâm thì đèn thiêng liêng chưa
đủ tỏ mà soi mấy chục triệu dân sanh nơi đây. Ngày nay chúng ta thành tâm làm
lễ kỷ-niệm nầy, Tôi tưởng cũng nên thành tâm mà chọn một người bàn hội cho đủ
đạo đức. Bàn hội ấy đi dạy dỗ khuyên lơn Đạo hữu từ lớn tới nhỏ phải trau giồi
hạnh đức. Bàn hội (tức Bàn Trị Sự) ấy lo cho đạo hữu Thánh Thất Cầu Kho đây.
Mỗi tuần phải ra công xem xét bất bình trong Họ (Đạo), phải lo phương cứu chữa
cho được yên tĩnh. Mỗi tuần phải có tờ phúc cho ông Đầu Họ. Tôi sẽ truyền cho
mỗi Họ đều sắp đặt như vậy. Ấy là phương châm chế ngự cho trong Đạo hoà bình.”
Thật ra, “Tập Kỷ yếu 28 vị
Tiền Khai Đại-Đạo” này tôi đã viết ra trước đây trên mười năm, từ khi tôi đến
Thánh Thất Nam Thành. Công việc trước tiên là tìm những hình ảnh của 28 vị Tiền
bối thờ nơi Thiên Phong Đường. Chỉ có nơi đây là có tên 28 vị khắc trên tấm đá
cẩm thạch và thờ mà thôi. Nhưng khi ấy tôi sưu tầm chưa đủ tài liệu và hình
ảnh. Đến giờ này tôi mới có thêm được ít tài liệu bổ sung cho tập sách nhỏ bé
này hầu được trình bày cùng quí đồng Đạo bốn phương những tên tuổi và công
trạng của các vị Tiền khai Đại-Đạo.
Tuy nhiên, Tôi cũng xin
lỗi các Ngài vì không đủ tài liệu để tra cứu nên còn nhiều hạn chế. Như một Bạn
đã nói với tôi rằng có nhiều vị công trạng không bút mực nào tả hết. Bên cạnh
có những vị không tìm đâu ra được tài liệu để ghi chép.Sự chênh lệch này xin
các Ngài hiểu cho.
Cám ơn những tác giả làm
ra sách mà tôi được dịp khảo cứu cùng một số thân hữu đã tìm tài liệu và hình
ảnh về 247 chữ ký. Đây là sự thành công của quí Thầy, Bạn. Riêng tôi chỉ là hệ
thống hóa. Chân thành cám ơn sâu sắc.
Xin gởi tặng quí đồng Đạo
những tài liệu về “Tập Kỷ Yếu 28 vị Tiền Khai Đại-Đạo” hay là TỜ KHAI ĐẠO, gọi
là món quà thân thương nhất trong mùa Hội-Yến Diêu Trì-Cung năm Nhâm Thìn
(2012).
Nữ Soạn giả NGUYÊN-THỦY
CHƯƠNG
I
NHỮNG
BƯỚC KHỞI ĐẦU
Sự khởi nguyên của một nền
Đại-Đạo như ngày nay là do từ bước dẫn dắt của Đức Thượng Đế trong buổi đầu:
Thầy bảo hai vị Đầu sư Trung và Lịch
phải:
HỘI CHƯ THÁNH MÀ KHAI ĐẠO
Ðêm nay, ngày nầy
(23-8-Bính Dần), hai Ngài Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt họp Ðại hội
Chức sắc và Tín đồ tại nhà Ông Nguyễn văn Tuờng để dự thảo TỜ KHAI ÐẠO gởi lên
nhà cầm quyền Pháp. Số người dự họp lên tới 247 vị.
(Hằng năm, vào ngày
23-8-nầy, Thánh Thất Nam Thành Sài-gòn đều có làm Lễ Kỷ-niệm ngày LẬP TỜ KHAI
ÐẠO).
Ngày Thứ tư, 22-9-1926
(âl: 16-8-Bính Dần)
Thầy dạy: “Cầm cả quyền
hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng, nhưng mà
phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy. Ấy cũng là cơ mầu nhiệm cho các
con có thế lập công quả.
TRUNG, LỊCH, hai con phải
hội chư Thánh mà xin Khai Ðạo. Phải làm đơn mà dâng cho Thầy xem xét sửa trước
nghe!”
Trên đây là lời dạy của
Đức Chí-Tôn bảo “Hội chư Thánh mà xin Khai Ðạo”: Chư Thánh là các Chức sắc đứng vào hàng Thánh Thể, tức là các Chức phẩm
từ Giáo Hữu hay tương đương trở lên. (Lúc ấy Thầy chỉ nói thế thôi chứ thật ra
chưa có một chức sắc nào cả !)
Ðức Chí Tôn dạy hai Ngài
Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt, họp các Chức sắc lại mà lập TỜ
KHAI ÐẠO dâng lên nhà cầm quyền Pháp lúc bấy giờ. Tờ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn
dặn phải dâng lên Ðức Chí Tôn xem xét trước, để chính Ðức Ngài chỉnh sửa lại.
Vâng lịnh, hai Ngài Ðầu Sư mời các Chức sắc và Tín đồ họp Ðại hội vào lúc 8 giờ
tối ngày 23-8-Bính Dần (dl: 29-9-1926) tại nhà Ông Nguyễn Văn Tường ở hẻm 237
bis đường Galliéni (nay là đường Trần Hưng Ðạo) Sài-gòn..
Ba Ngài: Thượng Trung
Nhựt, Ngọc Lịch Nguyệt và Cao Quỳnh Cư điều khiển buổi Đại hội và được sự chấp
thuận dự thảo Tờ Khai Ðạo do Ban chủ tọa thảo ra. Sau đêm đó, quí Ngài thiết
lập Đàn Cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, dâng Tờ Khai Ðạo lên Ðức Chí Tôn duyệt
xét. Ðức Chí Tôn giáng phê: "Mấy con không nói một điều gì đến Thầy hết,
nhưng thôi kệ cứ gởi đi."
Sau, Ðức Chí Tôn dặn Ngài
Thượng Trung Nhựt: "Thầy dặn con: Trung, nội Thứ Năm tuần tới phải đến LE
FOL mà khai cho kịp, nghe!"
Ðúng ngày thứ Năm tuần
sau, là ngày 7-10-1926 (âl: 01-9-Bính Dần), Ngài Thượng Trung Nhựt lên Soái phủ
Nam Kỳ nạp Tờ Khai Ðạo cho Thống Ðốc Le Fol, được Ông Le Fol vui vẻ tiếp nhận
và khen rằng “Vì chữ thiện mà khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng”.
Thế là kể từ ngày này:
07-10-1926, Ðạo Cao Ðài công khai hoạt động, truyền đạo trong các giới dân
chúng, để sau đó chuẩn bị thiết lập Ðại Lễ Khai Ðạo tại Thánh Thất tạm đặt tại
Chùa Từ Lâm, Gò Kén, Tây Ninh.
Ngày 13-10-1926 (âl:
07-9-Bính Dần), Ngài Cao Quỳnh Cư soạn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh, được sự đồng ý
của Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, dâng lên cho Ðức Chí Tôn duyệt, rồi in ra phổ
biến các giới đồng bào biết: ngày nay trên đất nước Việt Nam xuất hiện một nền
Tân Tôn giáo là Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ do Ðấng Thượng Ðế mở ra và làm chủ. Riêng
về Ông Nguyễn Văn Tường, đã cho mượn nhà làm nơi họp Ðại hội lập Tờ Khai Ðạo:
Lúc đó Ông Nguyễn Văn Tường (1887-1939) làm Thông Ngôn cho Sở Tuần Cảnh, nhận
thấy sự huyền diệu của Ðức Chí Tôn nên Ông nhập môn theo Ðạo luôn, sau được Ðức
Chí Tôn phong Giáo-Hữu phái Thượng, Thánh danh Thượng Tường Thanh. Nhà của Ông
Tường ở trên một phần đất rộng khoảng 1500 m2 nên đủ chỗ cho quí Ngài Thượng Trung Nhựt và Ngọc
Lịch Nguyệt tổ chức Ðại hội gồm 247 vị hiện diện, lập Tờ Khai Ðạo. Ông Nguyễn
Văn Tường thường xuyên hành đạo tại Thánh Thất Cầu Kho, mất ngày 26-9-Kỷ Mão
(dl: 07-11-1939) (Tài liệu của Huệ Nhẫn)
&
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ
ÐỘ
PHỔ CÁO CHÚNG SANH
(Năm Bính Dần -
1926)
“Ngày 07 Septembre 1926
nhằm ngày mồng một tháng 9 năm Bính Dần, có Môn đệ Thiên Phong của Ðức Cao Ðài
là Cựu Hội Ðồng Thượng Nghị Viện Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt
vâng lịnh Thánh Ngôn đến Khai Ðạo nơi chánh phủ. Trong Tờ Khai Ðạo ấy có ký tên
247 chư Môn đệ phần nhiều đều là Chức Sắc, Viên Quan và có Nữ phái, nhiều người
danh dự. Quan Nguyên Soái Nam kỳ hoan nghinh và khen rằng vì chữ THIỆN mà
khuyến dân, ấy là chủ nghĩa cao thượng. Chúng tôi xin phô đôi lời thành thật
thô sơ, chư Hòa Thượng, chư Lão Thành, chư Sơn, chư Chức Sắc trong Tam Giáo và
chư Thiện nam, Tín nữ xin lưu ý. Chầy kíp đây chúng tôi sẽ có dịp hiệp mặt mà
luận Ðạo kỹ thêm nữa”. (Lời này đặt ở trang cuối của Tờ Phổ cáo chúng
sanh)
&
Đức Cao-Đài dạy về việc Khai Đạo
ngày 16-8-Bính Dần
(Thứ Tư: 22-9-1926)
“Các con xin Chánh-phủ Lang-sa đặng Khai Đạo,
thì cực chẳng bằng Thầy đã ép lòng mà chịu vậy cho tùng nơi Thiên cơ.Thầy rất
đau lòng mà phải chịu vậy chớ biết sao!
Đàn cùng ngày, khi tái cầu
Đức Cao-Đài dạy hai vị Đầu-Sư: Thượng-Trung-Nhựt và Ngọc-Lịch-Nguyệt, phải hội
họp các Môn-Đệ khác để lo Khai Đạo, phải dâng văn bản lên để Đức Cao-Đài duyệt
xét.
Đúng một tuần sau (ngày
23-8-Bính-Dần, nhằm Thứ Tư: 29-9-1926). Các Môn Đệ họp tại nhà ông Nguyễn
văn-Tường (đường Galliénie, nay là đường Trần-Hưng Đạo) trong một đêm mưa to
gió lớn kéo dài khoảng ba tiếng đồng-hồ, làm ngập đường sá, giao-thông bị bế
tắc. Có lẽ nhờ điều-kiện thời tiết trợ giúp, cuộc họp mới không bị Mật-thám
Pháp quấy rầy, do đó được hanh thông.
Hai vị Thượng và Ngọc
Đầu-sư chịu trách nhiệm tổ chức cuộc họp. Kết-quả cụ thể là mọi người đồng-ý ký
tên vào TỜ KHAI ĐẠO do Ông Lê-Văn-Trung dự thảo bằng tiếng Pháp. Bản dự thảo
sau đó được dâng lên Đức Cao Đài duyệt, có chỉnh sửa vài chữ và được Ngài chấp
thuận.
Văn kiện chính thức của
bổn Đạo gởi cho Thống đốc Nam-Kỳ Le Fol ghi ngày 07-10-1926.
Nguyên văn bằng tiếng Pháp
như sau:
DÉCLARATION OFFICIELLE ADRESSÉE PAR LES
FONDATEURS DU CAODAISME À M. LE FOL, GOUVERNEUR DE LA COCHINCHINE.
Saigon, le 7 Octobre 1926.
Monsieur le Gouverneur,
Les soussignés, ont l'honneur de venir
respectueu-
sement vous faire connaïtre ce qui suit:
Il existait en Indochine Trois Religions
(Bouddhisme, Taoisme, Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieusement
ces trois doctrines et vivaient heureux en suivant strictement les beaux
préceptes dictés par les Créateurs de ces religions.
On était, pendant cet ancien temps, tellement
insoucieux qu'on pouvait dormir sans fermer les portes et qu'on dédaignait même
de ramasser les objets tombés dans la rue “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di”, tel
est l'adage inscrit dans nos annales.
Hélas! Ce beau temps n'existe plus pour les
raisons suivantes:
1 . Les pratiquants de ces religions ont
cherché à se diviser, tandis que le but de toutes les religions est le même:
Faire le bien et éviter le mal, adorer pieusement le Créateur.
2 . Ils ont dénaturé complètement la
signification de ces saintes et précieuses doctrines.
3 . La course au confort, à l'honneur,
l'ambition des gens, sont aussi des causes principales des divergences
d'opinions actuelles. Les Annamites de nos jours ont complètement abandonné les
bonnes moeurs et traditions de l'ancien temps.
Ecoeurés de cet état de choses, un groupe
d'Annamites, fervents traditionalistes et religieux, ont étudié la refonte de
toutes ces religions, pour n'en former qu'une seule et unique appelée CAODAISME
ou ĐẠI ĐẠO.
Le nom "Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ--Độ", qui signifie la
Troisième Amnistie Générale, est donné par l'Esprit Suprême qui est venu aider
les soussignés à fonder
cette
Nouvelle Religion.
L'Esprit Suprême est venu sous le nom de
“Ngọc Hoàng Thượng-Đế” dit CAO ĐÀI ou
"Le très Haut, Dieu Tout Puissant”. .
Par l'intermédiaire de
médiums écrivants, Ngọc Hoàng Thượng Đế transmet au soussignés des
enseignements divins ayant pour but de concentrer et d'enseigner les beaux
préceptes de ces Trois Anciennes Religions.
La Nouvelle Doctrine
enseignera aux peuples:
1 . La haute morale de Confucius.
2 . Les vertus dictées dans les religions bouddhique
et taoique.
Ces vertus consistant à
faire le bien et éviter le mal, aimer l'humanité, pratiquer la concorde, éviter
totalement la dissention et la guerre.
Les soussignés ont
l'honneur de vous soumettre:
1 . Quelques extraits du recueil des "Saintes
Paroles" de Ngọc Hoàng Thượng Đế, paroles estimées plus précieuses que
tout ce qui existe ici-bas.
2 . La traduction de quelques passages du livre de
prières que Ngọc Hoàng Thượng Đế nous a enseignées.
Le but poursuivi par les
soussignés est de ramener les peuples à l'ancien temps de paix et de concorde.
On sera ainsi dirigé vers une époque nouvelle tellement heureuse qu'il est
difficile de la décrire.
Au nom de très nombreux
Annamites qui ont entièrement approuvé ces études et dont la liste est
ci-jointe, les soussignés ont l'honneur de venir respectueusement vous déclarer
qu'ils vont propager à l'humanité entière cette Sainte Doctrine.
Persuadés d'avance de
cette Nouvelle Religion apportera à nous tous la paix et la concorde, les
soussignés vous prient de recevoir officiellement leur déclaration.
Les soussignés vous prient
d'agréer, Monsieur le Gouverneur, l'assurance de leurs sentiments respectueux
et dévoués.
Ont signé:
Mme LÂM NGỌC THANH
M. LÊ VĂN TRUNG…
Bài dịch Việt văn:
TỜ KHAI ĐẠO
Sài-Gòn, ngày 07 Octobre 1926?
Kính cùng Quan Thống-Đốc Nam-kỳ Sài Gòn.
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây kính cho Quan lớn rõ:
Vốn từ trước tại cõi Đông Pháp có ba nền Tôn-giáo là:
Thích-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo. Tiên-nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Đạo ấy,
lại nhờ do theo Tôn-chỉ quí-báu của các Chưởng giáo truyền lại mới được an-cư
lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di” nghĩa là con
người thuở ấy an-nhàn cho đến đỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài
đường thấy của rơi không ai thèm lượm. Nhưng buồn thay cho đời Thái bình phải
mất vì mấy duyên-cớ sau nầy:
1 - Những người hành-đạo đều phân chia ra nhiều phe,
nhiều phái mà kích-bác lẫn nhau, chớ Tôn-chỉ của Tam-giáo đều như một là làm
lành lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo-hóa.
2 - Lại canh-cải mối Chánh-truyền của các Đạo ấy làm
cho thất Chơn-truyền.
3 - Những dư-luận phản-đối nhau về Tôn-giáo, mà ta
thấy hằng ngày cũng tại bả vinh-hoa và lòng tham-lam của nhân-loại mà ra, nên
chi người An-nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.
Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An-Nam, vì căn-bổn, vì
Tôn giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam giáo lại làm một: QUI NGUYÊN PHỤC NHỨT,
gọi là ĐẠO CAO ĐÀI hay là ĐẠI-ĐẠO.
May-mắn thay cho chúng-sanh, “Thiên tùng nhơn nguyện”,
Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hằng giáng đàn dạy Đạo và Hiệp Tam giáo lập Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ tại cõi Nam này. Tam-kỳ Phổ-Độ nghĩa là Đại-ân-xá lần thứ ba,
những lời của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng Cơ dạy chúng tôi, đều cốt để
truyền-bá Tôn-chỉ Tam giáo.
Đạo Cao-Đài dạy cho biết:
1 - Luân-lý cao-thượng của Đức Khổng-Phu-Tử.
2 - Đạo-đức của Phật-giáo và Tiên-giáo là làm lành
lánh dữ, thương-yêu nhơn-loại cư-xử thuận hoà mà lánh cuộc ly-loạn, giặc-giã.
Chúng tôi gởi theo đây cho Quan lớn nghiệm xét:
* Một bổn sao lục Thánh-ngôn của Đức Ngọc Hoàng
Thượng-Đế.
* Một bổn phiên-dịch Thánh-Kinh.
Chủ-ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn-loại được
cộng hưởng cuộc Hoà-Bình như buổi trước. Được như vậy chúng sanh sẽ thấy đặng
thời-kỳ mới-mẻ cực-kỳ hạnh-phúc không thể nào tả ra đặng. Chúng tôi thay mặt cho nhiều người An-Nam mà
đã nhìn-nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào Tờ Đạo tịch ghim theo đây,
đến khai cho Quan lớn biết rằng: Kể từ ngày nay chúng tôi đi Phổ-thông Đại-Đạo
khắp cả hoàn cầu. Chúng tôi xin Quan
lớn công-nhận TỜ KHAI ĐẠO của chúng tôi:
KÝ TÊN
1 - Bà Lâm-Ngọc-Thanh Nghiệp-chủ Vũng-liêm
2 - Ông Lê-văn-Trung Cựu Thượng-Nghị-Viên thọ Ngũ Đẳng
Bửu-tinh (Chợ-lớn)
3 - Lê-văn Lịch Thầy tu làng Long-an, Chợ-lớn
4 - Trần-Đạo-Quang Thầy tu, làng Hạnh-Thông-Tây
5 - Nguyễn-Ngọc-Tương
Tri-phủ chủ Quận Cần-giuộc.
6 - Nguyễn-Ngọc-Thơ Nghiệp-chủ Sài-gòn.
7 - Lê-Bá-Trang
Đốc-phủ-sứ Chợ-lớn.
8 - Vương-Quan-Kỳ Tri-phủ Sở Thuế thân Sài-gòn
9 - Nguyễn-văn-Kinh.Thầy tu, Bình-lý-thôn Gia-định.
10 - Ngô Tường-Vân Thông phán sở tạo tác Sài Gòn
11 - Nguyễn-văn-Đạt
Nghiệp-chủ Sài-gòn
12 - Ngô-văn-Kim, Điền-chủ, Đại-Hương-cả, Cần-giuộc.
13 - Đoàn-văn-Bản,
Đốc-học trường Cầu-Kho
14 - Lê-văn-Giảng,Thơ-ký kế toán hãng Ippolito
Sài-gòn
15 - Huỳnh-văn-Giỏi, Thông-phán Sở tân-đáo Sài-gòn
16 - Nguyễn-văn Tường, Thông-ngôn Sở tuần cảnh Sàigòn
17 - Cao-Quỳnh-Cư, Thơ-ký Sở hoả-xa Sài-gòn.
18 - Phạm-Công-Tắc, Thơ-ký Sở Thương-Chánh Sài-gòn
19 - Cao-Hoài-sang, Thơ-ký Sở Hoả-xa Sài-Gòn.
20 - Nguyễn-Trung-Hậu, Đốc học Trường Tư-thục Đakao
21 - Trương-Hữu-Đức, Thơ-ký Sở hoả-xa Sài-gòn
22 - Huỳnh-Trung-Tuất, Nghiệp-chủ Chợ đủi Sài-Gòn
23 - Nguyễn-văn Chức, Cai-tổng Chợ-lớn.
24 - Lại-văn-Hành, Hương Cả Chợ-lớn.
25 - Nguyễn-văn-Trò, Giáo-viên Sài-Gòn.
26 - Nguyễn-văn-Hương, Giáo-viên Đa-kao.
27 - Võ-văn-Kỉnh, Giáo-tập Cần-giuộc.
28 - Phạm-văn-Tỷ, Giáo-Tập Cần-giuộc.
Ngài Lê Văn Trung viết Bố cáo:
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
BỐ CÁO CÙNG CHƯ ÐẠO HỮU
Nay là buổi Thiên Ðịa tuần
huờn, hoằng khai Ðại Ðạo, Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế, vì thương nhân loại, rộng
mở Ðạo Trời, để dìu dắt sanh linh vào đường đạo đức, hầu hưởng phước về sau.
Trót một năm trường, chúng ta đã chẳng nài khó nhọc, ra công Phổ độ khắp nơi,
mong sao cả dân chúng cải ác tùng lương mà chung hưởng ngày Nghiêu tháng Thuấn.
Nay Ðại Ðạo lập thành, Tân Luật đã ban ra, chúng ta cứ do theo đó mà hành đạo.
Về phần Thiên Ðạo, phải
hết lòng thành kính Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật,
phải gắng trau giồi đức hạnh, dưỡng tánh tu tâm mà hồi minh khử ám. Còn về phần
Nhơn Ðạo, ta phải tuân theo phép nước, giữ phận thần dân, làm lành lánh dữ, mỗi
mỗi phải do Luật pháp mà cư xử, sưu lo thuế đóng, kính trọng quan viên, giúp
nạn kẻ khó.
Xin nhớ mấy câu trong Kinh
Sám Hối đây cho lắm:
“Chớ làm con giặc tôi loàn,
“Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà”.
Trong Ðạo Hữu mới nhập
môn, có một ít người chưa rõ Tôn chỉ tối cao tối trọng của ÐẠO TRỜI buông lời
đồn huyễn rằng: Vô Ðạo rồi thì tùng LUẬT ÐẠO mà thôi, khỏi chịu dưới quyền QUỐC
PHÁP. Lời đồn huyễn ấy rất trái lẽ, tuy tu hành mặc dầu, chớ không ra khỏi luật
pháp Chánh Phủ đặng. Làm đến bực Hòa Thượng mà có tội cũng chẳng khỏi bị xử
theo luật hình mà được. Về phần tin tưởng tự do, Tôi cũng nên tỏ cho chư Ðạo
hữu hay rằng: Không ai đặng phép ngăn cản chúng ta trong việc phụng thờ TRỜI
PHẬT. Ta tin tưởng Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ, ta sùng bái Ngài, không một ai
phạm đến quyền tự do ấy của ta được. Chớ nghe đồn huyễn rằng Chánh Phủ bắt Ðạo
mà sợ, rồi dẹp Thiên Bàn, cuốn THÁNH TƯỢNG, ấy là một điều đại tội cùng TRỜI PHẬT
đó. Chánh Phủ Ðại Pháp rất công, ai làm lành được bề êm tịnh, ai làm dữ bị tội
tù, chúng ta tu là lo làm lành, mà đã lo làm lành thì bị tội nỗi gì ?
Nếu Chánh Phủ muốn ngăn
cấm điều chi thì chạy tờ Châu Tri, dán Yết Thị khắp nơi cho nhơn dân rõ biết,
đâu đó phân minh, đường đường chánh chánh. Còn nếu không có Châu Tri cùng Yết
Thị thì xin chư Ðạo Hữu chớ vội tin mà lầm mưu kẻ nghịch Ðạo. Trong chư Ðạo Hữu
thảng như có ai bị cường quyền áp chế về việc phụng thờ THƯỢNG ÐẾ, xin mau mau
gởi thơ cho Tôi. Tôi sẽ dụng hết công tâm kêu nài cùng Chánh Phủ để làm cho kẻ
ấy biết trọng quyền tin tưởng tự do của chúng ta.
Nay kính,
LÊ VĂN TRUNG
Thiên ân: THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Bài Diễn văn của Thượng Ðầu Sư
VỀ LỄ KỶ NIỆM KHAI ÐẠO
Tòa Thánh, ngày 14 tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1929)
Chư Ðạo Hữu lưỡng phái,
Trung Nguơn vừa mãn, Hạ
Nguơn vừa qua. Hôm Trung Nguơn tôi đã có nhắc ngày Ðấng CHÍ TÔN hoằng khai
Ðại-Ðạo Tam-Kỳ gieo truyền Chánh Giáo là ngày 15 tháng 10, giờ Tý năm Bính Dần
(dl: 19-11-1926).
Chúng ta biết noi gương
hiền triết, cổ nhơn, vầy cùng nhau phủi bụi phồn hoa, đặng tùng theo Tam Giáo
là kể từ ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần, nên lấy ngày Lễ Hạ Nguơn đây làm lễ
kỷ-niệm ngày Ðấng CHÍ TÔN hạ trần tại vùng Nam ta đặng hoằng khai Chánh Giáo để
gieo truyền hậu thế. Xuân qua, hè lại, thu mãn, đông tàn, cuộc tuần hoàn kim
cổ, cổ kim, nhơn sanh chung hưởng Thiên ân biết bao. Hại thay! Ít người hiểu
riêng rằng có Thiên lực trợ thế, nên ngày nay cõi dinh hoàn đặng tấn hóa nguy
nga, văn minh đồ sộ; hiềm một nỗi nữa là tánh phàm lòng tham không đáy, nên
đường đời sanh trăm mối tơ vò, ách nạn không xiết kể.
Từ Hiên Viên Huỳnh Ðế chí
dĩ Hạ Nguơn, biết bao nhiêu cuộc tuần hoàn thạnh suy bĩ thới. Xem lắm nghiệp bá
đồ vương dựng nền Võ trụ mà rốt cuộc lòng tham tràn nhẫy, tánh bạo ngược lẫy
lừng, làm cho nhơn sanh đồ thán. Ðấng Chí Tôn (Hóa công) đòi phen đổ lụy phải
lập cuộc tang thương trừng trị, vì câu “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”. Xét
cho kỹ Tần Thỉ Hoàng tìm thuốc trường sanh lòng muốn giữ chặt ngôi muôn thuở;
ngăn Hồ Lỗ, lập Vạn Lý Trường Thành công sanh mồ hôi giọt nhỏ. Cảnh Ðế Thiên Ðế
Thích to tát biết bao, vạn quốc nhận vào cơ xảo tuyệt thế. Gian hùng mưu sâu
quyệt kế ai bằng Lữ Bất Vi mà rốt cuộc rồi Vi cũng vô vi. Hào kiệt sức năng cử
đảnh, ít sánh Sở Bá Vương sau cũng dâng thủ cấp cho Ô-Giang Ðình Trưởng. Nào
Vạn Lý Trường Thành, Ðế Thiên Ðế Thích bền chặt cổ kim ít có, mà cũng hóa ra
cuộc thành xiêu vách ngã, cỏ loáng rêu phong; Lữ Bất Vi cùng Sở Bá Vương lịch
sử ngàn năm đều nêu danh ác.
Người trong vòng Trời Ðất
chẳng nên cãi quá lòng Trời, vì Tạo Hóa rất công, lòng Trời vô tận. Tôi xin nhắc lại lời Thánh Giáo của một vị
Langsa hồi thế kỷ 18è Siècle, Malherbe a dit: "Vouloir ce que Dieu veut
c'est la seule science qui nous mettre en repos”.
Theo ý Trời muốn là phương châm hay, làm cho
chúng ta êm tịnh. Lời ông hiền triết nầy cũng như lời Thánh trong sách Nho
"Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Một kiếp con người tựa như
giấc Huỳnh lương, thì giờ ngắn ngủi, phải tùy theo phận sự trả nợ cho Ðấng Hóa
Công, phải tùng chánh lý, từ côn trùng thảo mộc tới bực nhơn sanh các tư kỳ
phận, bởi có câu “Nhứt toán họa phước lập phân”. Hại thay cuộc chen lấn ở cõi
trần thường giục lẫn người thây phàm hay tự bạo tự kiêu, ít suy, ít nghĩ; còn
nơi vinh hoa phú quý thường ngăn cản đường tu, cân đai lòe loẹt hay buộc chặt
xác phàm.
Bởi vậy bốn năm dư chuông
Thánh truy hồn, thuyền Bát Nhã đổ bến mê tân chờ rước khách trần, hầu tế độ kẻ
vô phần không phước, phần nhiều vì mắt thịt với trí phàm xa không thấu đáo
Ðại-Ðạo Tam-Kỳ mà chưa trọn hiểu, tánh vẫn còn mờ hồ kết thêm tội lỗi, vào
đường tu mà chưa cổi tánh phàm, còn tranh tranh lấn lấn chức quyền mọn trong
Ðạo. Ít người khắc kỷ tu thân, vùi lấp cho chúng sanh mà còn lấn người trong
nền Ðạo, mến chỗ cao sang quyền thế như hồi trần thế. Ðã lánh chốn phồn hoa đem
gót ngọc dựa cửa Thiền, phải rán ngăn ngừa tục lự, mắt ngơ tai điếc, diệt tận
phàm tâm trau giồi hạnh đức, cầu khẩn Ðức Từ Bi rưới giọt nhành dương, giục tắt
lửa lòng, hằng ngày lo tụng kinh cầu sám chuộc tội tiền khiên nên danh hiền
triết. Mong thay! Mong thay!
THƯỢNG TRUNG NHỰT
Qua bài Thánh giáo đề ngày
16-8-Bính Dần
(dương lịch Thứ tư:
22-9-1926)
THẦY có lời dạy: Các con,
“Trung, con biết rằng Thầy thương yêu nhơn
loại là dường nào chưa ? Những điều ngăn trở đều do nơi tiền khiên của cả chúng
sanh. Ðã vào trọn một thân mình nơi ô trược thì Thầy đây cũng khó mà rửa với
một gáo nước cho đặng trong sạch. Nhơn loại đã thâm nhiễm vào tình luyến ái tà
mị trên mười ngàn năm, thì thế nào cổi Thánh đức trong một lúc chẳng tới một năm
cho trọn lành đặng.
Rất đỗi Thầy là bực Chí
Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý Thầy thay! Một đàng trì, một
đàng kéo, thảm thay các con chịu ở giữa. Thầy dạy các con một điều là biết
tranh đấu cùng Thầy. Hễ nó tấn thì mình chống, cân sức cho bằng hay là trổi hơn
mới đắc thắng. Các con chịu nỗi thì Ðạo thành, còn các con ngã thì Ðạo suy.
Liệu lấy! Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu
diệt nó đặng, nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy. Ấy cũng
là cơ mầu nhiệm cho các con có thế lập công quả.
Trung, Lịch, hai con phải
hội chư Thánh mà xin Khai Ðạo. Phải làm đơn mà dâng cho Thầy xem xét sửa trước
nghe”!
Chính ngày này 23-8-Bính
Dần (Thứ tư: 29-9-1926)
Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ
viết CAO ÐÀI Giáo Đạo Nam phương giáng dạy rằng:
“Thầy dạy chư Môn đệ một lần cho mà hiểu và
nhớ hằng ngày. Nhiều đứa đi truyền đạo mà trong lòng kính sợ kẻ thọ giáo. Thầy
hỏi: Phải nghịch chơn lý chăng?
- Phải, các con há!
Kẻ dốt mà dạy người dốt
thì cả hai dầu nói tới tận thế cũng còn dốt.
Lại thấy kẻ dốt ấy kích
bác, trở lại chịu thiệt rằng: Ðạo mình là lầm lạc. Người truyền
đạo dường ấy có sai chánh lý
chăng?
- Phải, các con há !
Chẳng khác nào ngồi nhà
thấy kẻ mắc mưa ướt mình, nhảy ra che cho ướt, lại khen rằng mát thì muội lắm
đó. Vậy Thầy lại thấy một bọn Môn đồ, khi đến nói Đạo với kẻ nào thì thẹn
thuồng ái ngại. Phải nghịch chánh lý chăng?
- Phải, thiếu tư cách đã
đành !.
Mình vì chữ thiện mà dạy
người thì giá trị mình đã cao thượng rồi, mà còn thẹn nỗi gì! Chẳng khác nào
một đứa bé bị chửi, sợ nhục, lại rán chửi lại cho bằng, té ra bị nhục hơn nín
đặng nghe luôn nữa. Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị
người chê, rồi về còn biếm nhẻ nữa. Phải nghịch chánh lý chăng?
- Trong phần đông các con, nhiều kẻ ấy.
Thầy khuyên các con nhớ
hoài rằng: Thầy của các con là Ông Thầy Trời, nên biết một Ổng mà thôi, thì đủ,
nghe à !
Ngôi vị Bạch Ngọc Kinh
chẳng ưa chứa kẻ hung hăng, mà lạ một điều là kẻ hung hăng đạo đức thường phá
cửa lún đặng vào, địa vị phần nhiều đoạt bởi kẻ ấy.
Các con hiền mà dữ, các
con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà các con
hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần
ngôi Tiên, Phật đó.”
Danh sách 28 vị tiền khai Đại Đạo:
Thật ra danh sách 28 vị
Tiền Khai Đại-Đạo đứng tên vào TỜ KHAI ĐẠO đã nêu trên, ấy không phải là một
việc ngẫu nhiên, mà đây chính là hình ảnh của 28 vì sao gọi là Nhị Thập Bát Tú
đó vậy.
NHỊ THẬP BÁT TÚ
Phần suy luận:
Trong vấn đề Đạo pháp
không một điều gì xảy ra mà không có nguyên cớ. Đây là vấn đề yếu thiết ấy. Vì
sao buổi ban đầu chỉ có 28 vị ký tên vào TỜ KHAI ĐẠO mà không phải là con số
khác. Nếu thật sự các Ngài không cố tình chọn con số huyền vi bí mật này thì sự
bí mật huyền vi của Thiêng liêng đã dành sẵn cho mối Đạo Trời. Vả lại, trong 28
vị tiền khai Đại Đạo duy chỉ có một Bà Lâm Ngọc Thanh là Nữ lại đứng đầu. Nếu
nữ là Âm, mà thời cuộc bấy giờ đen tối cũng là thời Âm. Toán học cho biết rằng
Âm gặp Âm sẽ thành Dương ấy là cơ Phục nguyên vậy. Chính đây là ảnh hưởng của
Nhị Thập Bát Tú.
Đó là Tinh của Sao Chổi
Huỳnh-hoặc. Thuỷ kích tuỳ theo tuế kể mà rời chỗ, như Gia lâm
28 Sao thì nảy sanh các tai biến
lành dữ.
* Đông phương 7 Sao (ứng
Mộc):
Giác, Cang, Đê, Phòng,
Tâm, Vĩ, Cơ.
* Bắc phương 7 Sao (ứng
Thuỷ làm Thuỷ kích)
Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích
* Tây Phương 7 Sao (ứng
Kim làm Thuỷ kích)
Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất,
Tuy, Sâm.
* Nam phương 7 sao (ứng
Hoả làm Thuỷ kích)
Tỉnh, Quỉ, Liễu, Tinh,
Trương, Dực, Chẩn.
Tác động của Tinh tú:
“Vạn vật trong vũ trụ dù ở
cõi vô hình hay hữu hình đều được sắp hạng và phân loại theo quy mô của số 7.
Tất cả mọi hình thức sinh hoạt trong dãy hành tinh hiện tại đều thuộc một trong
7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 49 nhóm. Toàn thể Thái dương hệ của chúng ta
đều là sự biểu lộ của Thượng Đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của Ngài.
Ngoài ra có 7 vị tinh quân (logo) mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này
chỉ là những trung tâm thần lực, những con đường vận hà để thần lực Thượng Đế
ban rải ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí (đối chiếu
với xác thân, Chơn Thần, Chơn linh) tương ứng với ba cõi: Hạ giới,
Trung giới và
Thượng giới.
Thượng Đế cũng thế:
- Tất cả vật chất trong Hạ
giới hợp với thể xác của Ngài.
- Tất cả vật chất cõi
Trung giới hợp thành thể Trí của Ngài .
- Tấtcả vật chất cõi
thượng giới hợp thành Vía của Ngài.
Tóm lại: tất cả đều là
thành phần của Thượng Đế từ hạt bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật
chất cấu tạo nên chúng ta đều là một phần của Thượng Đế xuyên qua 7 cung – khi
qua đây nó bị thay đổi ít nhiều, tuỳ ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể
phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung nào tuỳ số lượng nguyên tử cấu tạo xuất
phát từ cung liên hệ.” (trích Hành trình về phương Đông của Nguyên Phong dịch)
Xem thế thì 28 = 4 x 7.
Con số 7 đối với Đạo Cao
Đài là một con số huyền nhiệm vô cùng. Đầu tiên Thất Nương (7) cũng đến trước
tiên “Thất Nương khêu đuốc Đạo đầu”. Bởi vì con người là có đủ Thất tình. Tu để biến Thất tình thành thất
bửu..
Điều đáng lưu ý là:
Tờ Khai Ðạo nầy, Ðức Chí Tôn dặn phải dâng lên
Ðức Ngài xem xét trước, để Ðức Chí Tôn chỉnh sửa
lại. Dầu chưa có Thượng hội –một trong ba Hội lập quyền-
Hai Ngài Ðầu Sư vâng lịnh:
mời các Chức sắc và Tín đồ họp Ðại hội vào lúc 8 giờ tối ngày 23-8-Bính Dần
(dl: 29-9-1926) tại nhà Ông Nguyễn Văn Tường.
* Đây xem như là Đại Hội
Nhơn Sanh:
Buổi chiều tối hôm đó,
trời đổ mưa to gió lớn, làm ngập đường sá, xe cộ chạy không được, nhờ vậy mà số
mật thám Pháp không để ý và ngăn trở buổi Ðại hội nầy. Có tất cả 247 vị Chức
sắc và tín đồ tham dự cuộc hội. Ba Ngài: Thượng Trung Nhựt, Ngọc Lịch Nguyệt và
Cao Quỳnh Cư điều khiển đại hội. Ðại hội chấp thuận dự
thảo
Tờ Khai Ðạo do Ban chủ tọa
thảo ra.
Tờ Khai Ðạo tiếp theo đây
chỉ có 28 vị Tiền khai Đại-Đạo ký tên mà thôi, các vị này sau cũng đứng vào
hàng Chức Sắc- Thánh Thể của Đức Chí Tôn.
* Đây chính là Đại Hội
Hội-Thánh.
Sau đêm đó, quí Ngài thiết
lập đàn cơ tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, dâng Tờ Khai Ðạo lên Ðức Chí Tôn duyệt.
Tại sao phải lập đàn Cơ tại nhà của Đức Thượng Phẩm ? Vì chính Ngài là đứng đầu
Chi Đạo.
Ðức Chí Tôn giáng phê:
"Mấy con không nói một điều gì đến Thầy hết, nhưng thôi kệ cứ gởi
đi."
Sau đó, Ðức Chí Tôn dặn
Ngài Thượng Trung Nhựt: "Thầy dặn con, Trung, nội thứ năm tuần tới phải
đến Le Fol mà khai cho kịp, nghe!"
Ðúng ngày thứ năm tuần
sau, là ngày 7-10-1926 (âl: 1-9-Bính Dần), Ngài Thượng Trung Nhựt lên Soái phủ Nam
Kỳ nạp Tờ Khai Ðạo cho Thống Ðốc Le Fol.
* Quyền tối cao Thầy quyết
định chính là Thượng Hội
Thế là kể từ ngày
7-10-1926, Ðạo Cao Ðài công khai hoạt động, truyền đạo trong dân chúng đủ các
giới, để sau đó chuẩn bị thiết lập Ðại Lễ Khai Ðạo tại Thánh Thất tạm đặt tại
Chùa Từ Lâm, Gò Kén, Tây Ninh.
Ngày 13-10-1926 (âl:
7-9-Bính Dần), Ngài Cao Quỳnh Cư soạn Tờ Phổ Cáo Chúng Sanh, được sự đồng ý của
Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt, dâng lên cho Ðức Chí Tôn duyệt, rồi in ra phổ
biến các giới đồng bào biết, nay, Việt-Nam xuất hiện nền Tân Tôn giáo là Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ do Ðấng Thượng Ðế mở ra và làm chủ.
Riêng về Ông Nguyễn Văn
Tường, đã cho mượn nhà làm nơi họp Ðại hội lập Tờ Khai Ðạo: Lúc đó Ông Nguyễn
Văn Tường (1887-1939) làm Thông Ngôn cho Sở Tuần Cảnh, nhận thấy sự huyền diệu
của Ðức Chí Tôn nên Ông nhập môn theo Ðạo, sau được Ðức Chí Tôn phong Giáo Hữu
phái Thượng, Thánh danh Thượng Tường Thanh. Nhà Ông Tường ở trên một phần đất
rộng khoảng 1500 m2 nên đủ chỗ cho
quí Ngài Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt tổ chức Ðại hội gồm 247 vị hiện
diện, lập Tờ Khai Ðạo. Ông Nguyễn Văn Tường thường xuyên hành đạo tại Thánh
Thất Cầu Kho, mất vào ngày 26-9- Kỷ Mão
(dl: 7-11-1939). (Tài liệu của Huệ Nhẫn)
CHƯƠNG II
TIỂU SỬ 28 VỊ TIỀN
KHAI ĐẠI-ĐẠO
(Ghi theo thứ tự
trong danh sách)
I – Bà Lâm Ngọc Thanh
(1874-1937)
Thánh danh: Nữ Đầu
Sư LÂM HƯƠNG-THANH
A - Bà Lâm Ngọc Thanh Nghiệp Chủ Vũng Liêm.
1 - Phần Đời:
Thế danh là Lâm Ngọc
Thanh, sanh năm Giáp Tuất (1874) tại làng Trung Tín, quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh
Long. Thân mẫu Bà là Trần thị Sanh. Không rõ tên ông thân sanh. Bà Lâm Ngọc
Thanh là vợ của một người Pháp tên
Monnier, gọi là Ông Huyện Huỳnh-Ngọc-Xây, nên Bà thường được người ta gọi là Bà
Huyện Xây, là một nghiệp chủ rất giàu có tại Vũng Liêm. Ông và Bà có một người
con gái tên là Huỳnh Thị Hồ. Ông Huyện
Xây qui, Bà tái giá với Ông Huyện Hàm Nguyễn-Ngọc-Thơ, một nghiệp chủ ở
Tân-Định Sài-Gòn. Hai Ông Bà đều hâm mộ Phật giáo, nên đều qui y theo Phật, thọ
giáo với Hòa Thượng Như Nhãn, trụ trì Chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn.
Bà Lâm-Ngọc-Thanh rất sùng
kính Đức Phật Thích Ca, nên gần bên biệt thự của Bà ở Vũng Liêm có lập một ngôi
chùa Phật để gia đình Bà cùng với dân chúng xung quanh và các tá điền của Bà có
nơi chiêm bái.
2 - Thời-kỳ gặp Đạo Cao-Đài:
Bà Lâm Ngọc Thanh là
nghiệp chủ ở Vũng-Liêm. vừa giàu về vật chất lại giàu về tinh-thần, đã cống
hiến một sự-nghiệp, một tài sản lớn lao cho nghiệp Đạo
Bà sớm sùng mộ Đạo Phật.
Có Đức-Tin trọn vẹn Đầu năm Bính-Dần (1926) Ông Phạm Tấn Đãi ở Rạch kiến, huyện
Bến Lức, tỉnh Long-an. Ông thường chấp bút học Đạo được lịnh Đức Chí-Tôn dạy:
“Đãi, Con hiệp cùng Trung
để độ Thơ” (1)
Ông Phạm-Tấn-Đãi ra
Sài-gòn gặp ông Thơ và trao Thánh giáo cho xem. Ông xem xong nói:“Tôi muốn làm
sao hai ông cầu-nguyện cho tôi chấp bút được mới linh!”
Chấp bút, thông công với
các Đấng Thiêng-liêng được kết quả và xin tìm biết việc nơi quê nhà ở Vũng liêm
để độ Bà Lâm-Ngọc-Thanh và xin độ luôn ông Thầy là Hoà Thượng Như Nhãn. Tất cả
đều được mãn nguyện.
3 - Thời-kỳ hành Đạo:
Bà Lâm-Ngọc-Thanh được Đức
Chí-Tôn độ vào Đạo Cao-Đài. Bà hiến dâng một phần sản nghiệp vĩ đại. Bà in kinh
phát không, may cho Đạo phục. Riêng Ông Như Nhãn bằng lòng hiến ngôi Từ Lâm Tự
ở Gò Kén Tây Ninh cho Đạo Cao Đài dùng làm Thánh Thất tạm, tổ chức Lễ Khai Đạo.
Khi cất ngôi chùa nầy, Ông Bà Thơ đã đóng góp một số tiền lớn, giờ này tiếp-tục tu bổ và tạo tác thêm
Vào đêm 14 rạng ngày rằm
tháng 10 năm Bính-Dần (dl: 18-11-1926) là ngày Đại Lễ Khai Đạo tại Thánh Thất
tạm Từ-Lâm-Tự. Bà Lâm-Ngọc-Thanh thọ Thiên Ân Nữ Giáo-Sư,Thánh-danh là
Lâm-Hương-Thanh. (TNHT.II./13)
Trong kỳ Phong Thánh
Nữ-phái lần thứ I ngày 14 tháng giêng năm Đinh Mão (dl: 15-2-1927), Đức Chí Tôn
thăng phẩm cho Bà lên hàng Nữ Phối Sư, cầm đầu Nữ phái và phong người con gái
của Bà, Cô Huỳnh thị Hồ, vào phẩm Nữ Giáo Sư, Thánh danh Huỳnh Hương-Hồ.
Ông Bà xuất tiền riêng ra
mua thêm một miếng đất rừng nữa, từ ngã ba Ao Hồ vào giáp đất đã mua cất Tòa
Thánh để tạo cảnh Cực Lạc Thế giới, gọi là Cực Lạc Cảnh.
Ngày mùng 9-3-Kỷ Tỵ (dl:
16-4-1929) Bà Lâm Hương-Thanh được thăng phẩm Nữ Chánh-Phối-Sư, Chưởng quản
Hội-Thánh Nữ phái.
Năm Đinh Sửu (1937) Đức Hộ
Pháp cùng Hội Thánh đi Nam Vang lo Đạo sự, giao cho Bà ở nhà lo ngoại giao với
nhà cầm quyền Pháp ở những nơi nào Đạo bị làm khó dễ. Bà đi hầu Tòa, rồi trở
về, kế đó lâm trọng bịnh. Bà qui Thiên vào ngày mùng 8 tháng 4 năm Đinh Sửu
(dl: 17-5-1937) đúng vào ngày Lễ Thánh đản của Đức Phật Thích Ca, tại quê nhà ở
Vũng Liêm, hưởng thọ 64 tuổi. Đức Hộ Pháp lúc đó đang hành đạo ở Nam Vang, được
tin điện, cấp tốc trở về để cùng Hội Thánh lo Lễ Đạo táng cho Bà.
Một điều huyền diệu là khi
Bà Lâm Hương Thanh qui Tiên vẫn giáng cơ cho biết Bà sẽ lo tiếp, Bà nói: Để Bà
lo việc đó cho và yêu cầu Hội Thánh cử người đến xin nơi chánh phủ, kỳ sau thì
được dễ dàng. Quả đúng y như vậy. Sau khi Bà qui Thiên được 17 ngày, đến ngày 25-4.
Đinh Sửu (dl: 3-6-1937),
Bà được Đức Chí-Tôn ân tứ lên phẩm Nữ Đầu Sư, vì Bà là người có đại công với
Đạo trong buổi sơ khai và là người Chị Cả của Nữ phái, dìu dẫn cả đoàn em Nữ
phái. Phẩm này là được Truy thăng.
Về sau, Hội Thánh đem hài
cốt của Bà ở Vũng Liêm về Tòa Thánh, đặt vào Bửu tháp Nữ Đầu Sư, xây ở phía Tây
Lang Tòa Thánh và tượng của Bà được tạc ở mặt tiền Đền Thánh, phía bên Nữ phái,
trên Lôi Âm Cổ Đài, để nhơn sanh chiêm ngưỡng một bậc Nữ Chức sắc đại công của
Đạo.
4 - Lời Bà Tự thuật:
a/- Lập Thánh Thất: “Nhắc
lại đoạn đầu khi Tôi Nhập môn rồi, khiến lòng Tôi suy-nghĩ cuộc đời không thấy
ích gì cho phần linh hồn, nên Tôi không còn luyến tiếc sản nghiệp của Tôi nữa,
nếu còn say mê vật-chất hữu hình này thì biết chừng nào mới trở về quê xưa cho
được, nên Tôi đem mình quì trước Thiên bàn nguyện rằng: Hiến thân này cho
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tùng Hội-Thánh Tây-Ninh, ngõ hầu dìu dắt nhơn sanh vào
đường đạo-đức. Riêng về Phật-tự, thì khi Tôi chưa gặp Đạo Cao Đài Tôi có lập
một kiểng Chùa tại Vũng-Liêm, sau này Tôi hiến cho Đại-Đạo rồi, Tôi hiểu rõ
rằng Cao-Đài là Phật giáo chấn hưng đó vậy, nên Tôi sửa Chùa Phật lại làm ngôi
Tiểu Thánh-Thất Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đặng tiện cho việc phổ độ kẻ đồng huyện,
đồng lân. Nào kẻ gần, người xa trong thôn quê sằng dã, nào là Tá điền của Tôi
đồng lòng đến Nhập môn, cầu Đạo mỗi ngày đến 15, 20 người. hễ có em nào thiếu
thốn gì thì Tôi ủng hộ mỗi người một bộ Đạo-phục và một cuốn Kinh Lễ đặng học
thuộc Kinh để Cúng Tứ thời, Tôi dạy thờ, dạy lạy đâu đó đều được xong.
b/ - Khai Đàn: Tôi hiệp
với Chức sắc và Cô Ngọc Hồ cùng Nguyễn Thị-Hương đi khai đàn Thượng Tượng, rồi
Tôi giảng Đạo và đọc Thánh-ngôn cho chư vị mới Nhập môn nghe cho hiểu Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ là Chấn hưng Phật Đạo. Bởi vì Tôi biết phần đông thì nhơn sanh
còn tín-ngưỡng Đạo Phật, Tôi phải giải nghĩa cho thiện tín nghe rõ rồi họ vô
Nhập môn (tôi úp bộ hết tại Vũng Liêm). Đức tin nhơn sanh nơi đây càng ngày
càng tăng tiến rất đông, Tôi bèn lập Bàn-trị-sự
phân công cho phái Nữ có phận sự để làm Đạo. Ngày lụn tháng qua đủ công
nghiệp, Tôi dạy làm lai lịch dâng lên Hội-thánh xin cầu phong.
c/ - Về việc Chùa Gò-kén:
Nhờ Thiêng-liêng dùng huyền diệu, trước khi Tôi chưa nhập môn, khiến cho Tôi
qui y Phật giáo, Thầy Tôi là ông Hoà-Thượng chùa Giác Hải. Tôi và ông Huyện Thơ
cúng một số tiền to để xây dựng chùa Từ-Lâm-Tự. Mỗi năm hai Tôi xuống Chùa
Gò-kén thường lắm. Nơi đây là hồi chưa mở Đạo, nhờ cớ ấy được gieo cảm tình
Thấy trò nghĩa nặng như phụ tử tình thâm, nên vâng lịnh Đức Chí Tôn họp với
Chức sắc Đại Thiên phong Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng, Tôi chung lưng đâu cật với
Hội-Thánh khai mở Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ tại tỉnh Tây-Ninh, vì thế mà hai Tôi
mượn Chùa Gò-kén dễ-dàng. Thầy Tôi thuận cho mượn, thành thử thiêng liêng đã
sắp đặt trước nên tôi mới có sẵn một ngôi Từ Lâm-Tự đặng đúng ngày giờ của
Chí-Tôn khai Đạo. Vì Chí-Tôn tiền định trước mười ngàn năm
Thầy có cho
thi:
Từ đây nòi giống chẳng chia ba.
Thầy hiệp các con lại một nhà,
Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc,
Chủ quyền chơn Đạo một mình TA
Nhờ bài thơ của Đức
Chí-Tôn trên đây, Tôi chung lo với Anh Cả Thượng Đầu-sư Thượng Trung Nhựt cùng
Đức Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh mà đi phổ độ cùng Lục tỉnh. Việc phổ độ
miền Hậu-giang lối tháng 9 năm Bính Dần đặng cho kịp ngày 14 tháng 10 năm Bính
Dần mở Đạo tại Từ-Lâm-Tự (Gò-kén Tây-Ninh). Ông Huyện Thơ và Tôi xuất tiền nhà
ra lên cốt chư Phật, đủ Ngũ Chi, Tam Trấn, Tam giáo tức là Đức Phật Tổ, Đức Lão
Tử và Đức Khổng-Tử. Mở Đạo tại chùa Từ-Lâm ba tháng thì ông Hoà Thượng chùa
Giác-Hải đòi chùa lại, thì hai Tôi (Huyện Thơ) cho Hội-Thánh mượn số tiền
24.000 đồng (hai mươi bốn ngàn đồng) mua đất đặng dời chùa, thỉnh cốt chư Phật
về bên đất mới mua (mua đất của ông Kiểm lâm người Pháp). Bởi vì lúc mới phôi
thai Hội Thánh chưa có tiền nên mượn của hai Tôi. Mua đất xong rồi Tôi lên
xuống thường, không ở luôn nơi đây được vì lo xã giao với Chánh phủ Pháp đặng
để cậy nhờ họ.
Buổi ban sơ khai Đạo (thời
Pháp thuộc) Đạo gặp biết bao cảnh gay-go thống khổ cũng vì việc Đạo Đời chưa
tương đắc. Chánh phủ Pháp để dạ nghi nan, hăm doạ đủ điều: nào là bắt Đạo-hữu
hăm xẻ nhượng, nào là đóng cửa Thánh-Thất ở miền Hậu-giang. Anh Thượng Đầu-sư
cho Tôi hay, khi đó Tôi liền tìm kế gần-gũi với Chánh-phủ xin mở cửa
Thánh-Thất. Tôi làm đơn xin ngay với chánh phủ Pháp, Tôi đứng bảo lãnh trách
nhiệm, Tôi hứa và Tôi nhìn-nhận Đạo Cao-Đài là chánh tông chấn hưng Phật giáo,
Tôi nói trước mặt Chánh phủ Pháp rằng: Tất cả Đạo Cao-Đài là bậc chơn tu, không
biết làm sái luật chánh phủ, thật là người tu-hành đạo-đức, cả thảy đều có lòng
bác-ái, không sát sanh hại vật, chỉ biết tu, ăn chay làm lành mà thôi, thì
chánh phủ Pháp cho mở cửa Thánh-Thất
được yên ổn mà sự cúng kiến cũng được đông đảo tự do. Tôi đã nói chắc-chắn
trước mặt chánh phủ như vậy Tôi với Anh Thượng Đầu-sư phải thường đi xuống miền
Hậu giang để lời khuyến nhủ chư Đạo-hữu tu hành cho chính-chắn và ăn chay làm
lành như Tôi đã hứa trên.
d/ - Nhắc việc cất
Tổ-Đình:
Khi trả chùa Gò Kén lại
cho Hoà-Thượng Như Nhãn rồi, Hội-Thánh dọn về đất mới mua, ngày nay là Thánh
Địa. Dời chùa thỉnh cốt Phật cũng là khó-khăn hết mức. Chính phủ cứ theo rình
mò, làm khổ sở cho Đức Cao Thượng-Phẩm, vì cớ mà bổn Đạo quá sợ, ít ai dám tụ
họp đông. Khách lai rai, có ít người đến Cúng thôi. Cũng vì cớ mà eo-hẹp tài
chánh,nên phát một ngôi chùa tạm lợp bằng tranh, đốn cây trong rừng làm cột,
tranh thì vô rừng cắt khỏi tốn tiền, cắt dây cổ rùa đem về làm lạt. Tuy là chùa
tranh, cây gỗ mặc dầu cũng chịu đựng được mười năm dư. Lúc này Đức Cao
Thượng-Phẩm đã qui Tiên, năm 1929.
Khởi đầu đúc nền Toà-Thánh
ngày mùng 1 tháng 11 năm Bính-Tý (1936). Còn Đức Hộ-Pháp thì Ngài xuống Vũng-Liêm
thương lượng với Tôi rằng: Chùa lợp tranh hư dột, mối ăn, cây hư hết, nên Đức
Hộ-Pháp tính cất chùa cho chắc, làm bằng xi-măng, sắt cho được vĩnh-viễn (Hoạ
đồ Đức Lý đã vẽ sẵn, coi theo hoạ đồ của Đức Lý mà cất).
Việc mua đất Cực-Lạc:
Đất Cực-Lạc, hai Tôi đứng
mua đất này, sau Ông Huyện để là Đất Cực-Lạc vô vi cảnh giới (ngày nay thành ra
Nghĩa địa). Về việc xã-giao, Đời, họ trọng vật chất hơn nên Tôi tìm phương
gần-gũi với thượng khách, nói đạo đức cho đời họ hiểu biết rồi mới độ được.
e/ - Nhắc lại hồi Tôi mới
gặp Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ nhằm ngày mùng 5 tháng 6 năm Bính-Dần (Mardi 15
Juillet 1926) Thầy giáng Cơ kêu hai Tôi quì trước Thiên bàn, Thầy ban ơn cho
hai Tôi, Thầy làm phép Hôn-phối đầu tiên hết (Phò loan có Thượng Phẩm, Hộ-Pháp)
Thầy cho 4 câu thi cùng dạy Đạo tại nhà ông Nguyễn-Ngọc-Thơ ở Tân Định (ngày 5-6 Bính Dần):
Thầy:
“Thơ, con với vợ con quì ngay giữa, nắm tay nhau
Thiên ân thử nhựt tứ thành hôn,
Mãn thế bất ly thể dữ hồn.
Đạo-đức nhất tâm tu đáo cáo.
Chủ trung thị Ngã chí Thiên Tôn
Dạy con hiểu à!”
(Thủ bút của Ngài Thơ viết
ra Hán văn theo lịnh Thầy)
g/ - Tượng Bà tạc trước
mặt tiền Đền Thánh bên lầu trống, tức là Lôi Âm Cổ Đài. Còn bên lầu chuông thì
tạc tượng của Đức Quyền Giáo- Tông
Lê Văn Trung đối xứng nhau. Khi Đức Hộ Pháp Trấn
Thần vào ngày 6 tháng giêng Đinh-Hợi (dl: 27-1- 1947) đến hai bức tượng này,
Ngài giải thích rằng:
“Nhị vị ngự thường xuyên trước Đền Thánh để
tiếp rước nhơn sanh tiến bước vào đường Chánh giáo, năng lo dìu dắt con cái
Chí-Tôn mỗi khi vào Cầu nguyện và chiêm bái Đức Chí Tôn”..
5 - Bài thài hiến Lễ cho Bà Lâm Hương-Thanh:
Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương
Thanh giáng Cơ cho bài thi để làm Bài Thài tế điện:
Đầy giỏ Hoa Lam chất ái tình,
Y theo mặt luật
của khuôn linh.
Thử căn linh thể nơi phàm tục,
Mới hưởng hồng ân chốn Ngọc đình.
Nam Hải là bờ ao Thất Bửu,
Tây Ninh nền tổ quán Tam Thanh.
Thuyền từ trở lái lìa sông Lệ,
Nhớ bạn chơn
mây gởi tấc thành.
B - Bà Nữ Đầu Sư Hương
Thanh giáng Cơ:
Tại Hộ Pháp Đường, đêm
1-1-1946.
Phò loan: Khai Đạo và Sĩ
Tải Lợi.
“Chào Trí Thanh, cùng mấy em:
LÂM tuyền đã ẩn
mấy thu sang,
HƯƠNG đượm
nhuần trăng đã lố màn.
THANH thủy châu về huờn kiếm báu,
ĐỀ danh đến
buổi đất nhà an”.
Khai Đạo bạch:… ..
- Đây hết buổi phong ba,
đến hồi an tịnh. Vậy mà không sao. Mình muốn cho yên, trước phải loạn, sau mới
yên được. Muốn nước đang đục lóng trong thì phải quậy trộn cho dữ mới lóng bùn
được. Đạo có khảo mới cao. Chức sắc bị khảo mà chịu nỗi mới có giá trị. Học trò
chịu khảo thí mới lãnh cấp bằng. Nếu từ chối thì rớt. Thế thường học nhiều đậu
ít. Còn nơi đây là Trường Công Quả, vậy vị nào muốn xứng đáng Môn-đệ của Đức
Chí Tôn thì chẳng bao giờ ngần ngại các việc công quả, cho chung Thánh-Thể Đức
Chí-Tôn, cũng do nơi mấy em đào tạo về mặt ngoại giao. Vậy có câu:
Ái nhơn, nhơn hành ái chi,
Bất ái nhơn, nhơn hành bất ái chi.
Kỉnh nhơn, nhơn hành kỉnh chi,
Bất kỉnh nhơn, nhơn hành bất kỉnh chi.
Có cảm mới có ứng. Nên hiểu lọc lừa
đi cho khéo, đồ cho trúng thời đắc chí sở nguyện. Tâm vững, cầm lèo lái chạy
qua bỉ ngạn. Tuy sóng to gió lớn, lượn sóng xuôi sẽ chạy, miễn rằng ngó phía
trước thuyền, tránh cho lẹ những đồ vật ngăn cản.
Sĩ Tải Lợi bạch:…
- Sợ không quen sóng gió,
buồn mửa. Nếu có mửa thì uống nước chanh.
Mình ăn phủ bì chúng nó mà.
- Em Thái Khý Thanh, nhờ
mới để bộ râu, nên vuốt râu thả mồi câu chúng nó. Nó mảng nghĩ nhìn bộ râu,
quên cả sự nghiệp, đành chịu phọt-phe. Ước mong sao mấy vị trong đám cầm cờ chỉ
nẻo Cửu Trùng đồng phun râu, chúng nó mới kinh hãi. Qua mừng và khen tặng Chú
Khách nầy làm gương cho kẻ Việt.
Nam Hải Prasey ấy vẫn gần,
Hai đàng buổi trước lại đồng thân.
Nhớ nhau khuyên nhủ đôi lời tặng,
Cùng bạn khi xưa lúc ở trần.
C - Đức Hộ-Pháp Thuyết Đạo
nhắc về công nghiệp của Bà Nữ Đầu-Sư Lâm-Hương-Thanh
1 - Lòng tôn sùng Phật của
Bà Hương Thanh:
“Đêm nay là Vía Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni mà
cũng là ngày Vía Chị Cả của chúng ta là Bà Nữ Đầu Sư Lâm-Hương-Thanh.
Chẳng biết ngẫu nhiên hay
là tiền định mà Bà Nữ Đầu-Sư qui liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích-Ca. Theo Bần
Đạo hiểu biết, tưởng những người ái mộ Đạo Phật nồng nàn hơn hết, chúng ta có
thế nói rằng: Bà Nữ Đầu Sư cũng là người đứng đầu sổ của thiên hạ vậy. Trước ngày
Đức Chí Tôn mở Đạo, Bà Đầu-Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng Bà
thuật lại với Bần-Đạo: Từ bé, Bà chỉ để tâm ham mộ Đạo Phật. Không biết có
quyền năng lạ-lùng của Đức Chí-Tôn tiền định hay chăng? Mỗi khi niệm câu chú
của Phật để tồn tại, thì Đức Chí-Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam thiên
Đại Thiên Thế giái. Đức Chí Tôn là Phật vị, nên Bà đã thương lắm, thương một
cách nồng nàn. Khi Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao Đài, tức nhiên Phật giáo Chấn hưng đó
vậy. Chị Nữ Đầu Sư vẫn thương yêu Đức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân, Đức Chí-Tôn
đến kêu Người phải về cùng Thầy mà sự thật ra tâm Đạo của Chị từ bé tới lớn chỉ
theo chơn Đức Phật Thích-Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy
không chi là lạ”.
2 - Bà Lâm Hương Thanh hiểu rõ Triết Lý về Luật
Nhân quả của Đức Phật Thích Ca:
“Ngài đã đoạt Đạo đặng rồi, tức nhiên Chị hiểu
cái huyền vi bí mật của kiếp sanh con người, Ngài tầm ra căn nguyên bí yếu hơn
hết là Luật Nhơn-Quả pháp định (Loi Karmique) Cái Luật Nhơn Quả của Ngài nó
trúng trong chơn lý lạ thường, thử ta chối con người không có quả kiếp chi hết
cũng như thuyết duy vật đã nói: con người đã sinh ra ở mặt thế nầy là tình cờ
mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái thuyết ấy quả nhiên là chơn lý thì
ta thử hỏi vậy chớ duyên cớ nào kẻ sanh ra vừa khỏi lòng Mẹ đã nằm trên đống
vàng hay là ngự trên ngai vàng. Còn những kẻ sanh ra đã bị tật nguyền, đui mù,
ngu dại, nếu không có định luật thiên nhiên công bình vô đối của Đại Từ Phụ tức
nhiên của Đức Chí Tôn thì lẽ bất công ấy chúng ta phải giải nghĩa ra thế nào mà
chớ ? Cái triết lý bí yếu ấy, Đức Thích Ca đã tìm đặng tức là Nhơn Quả của ta.
“Nhơn” 因 nghĩa là ta đã có làm điều chi thì “quả” 果 của nó trả lụng lại. Cái Luật Nhơn Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta. Có
nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn vợ con đông đúc, cả mọi điều gì muốn thi thố
ra đều thất bại, mà cái thất bại ấy chẳng phải dở, cái miệng thường những kẻ ấy
trong cơn đau khổ nói số kiếp của tôi nó thế nào, tội tình gì mà làm cho tôi
như thế đó, là kẻ bên Đạo Phật. Các Tôn giáo khác không cần luận, ta thấy họ đã
quyết định cái quả kiếp là gì, Phật đã nói: Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định
số phận của ta đương kiếp sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước,
bây giờ cái triết lý ấy biểu ta muốn cho nên kiếp tới thì kiếp nầy ta chẳng nên
gây nhơn quả nhiều hay nặng nề, vì cớ cho nên những bổn Đạo cùng những người
tín ngưỡng theo triết lý của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng
cớ không may, hoặc về tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về
nghèo giàu, bất kỳ quả kiếp của con người ta thường nương lấy đó mà sống, làm
cho cái khổ của con người đã sanh ra chịu khổ rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng
thêm khổ nữa”.
Khi quá sức chịu của trí não người phải làm sao? - Hễ khi nào bị khổ não quá chừng thì tìm
phương pháp an ủi, bởi cớ cho nên nhà Phật là nhà hay an ủi tâm hồn của những kẻ
đau khổ hơn hết đặng tự giác lấy mình, hiểu cái quả kiếp mà mình đã đào tạo, vì
tại mình vi chủ tạo thành nó ra, bây giờ tìm phương giải nó đi, tức nhiên tránh
kiếp tới, nếu ta đã biết kiếp nầy không may để ta trả nó mà thôi, ta đừng gây
thêm quả kiếp nữa.”…
3 - Lòng mộ Đạo Phật của
gia đình Bà Lâm Hương Thanh
Đức Hộ Pháp tiếp:”Ngày Vía của Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu Sư trùng ngày
với nhau. Nếu như chúng ta tin về đạo đức, chúng ta nói rằng có thể tin về mê
tín, thì Bần-Đạo nói rằng: Không có ai thương yêu Đức Phật Thích-Ca trong kiếp
sống của mình hơn là Bà Nữ Đầu-Sư. Trong một đời của Bà, Bần Đạo tưởng thiệt là
một người giữ Đạo, Bà chỉ giữ Đạo của Đức Phật Thích-Ca mà thôi. Khi Đức Chí
Tôn đến mở Đạo, Bà theo chân của Đức Chí Tôn đã đành, không ai dại khờ gì khi
người đã có tâm Đạo mà còn mơ hồ e-lệ sự chọn lựa của mình, nhưng Đức Chí Tôn
là khác, mà kính trọng thờ phượng Đức Thích-Ca đối với Bà Nữ Đầu-Sư là khác, huống
chi trọn cái gia đình từ Mẹ dĩ chí Bà đều thờ phượng một cách rất tôn-nghiêm,
dám chắc phần nhiều không có ai thờ phượng được như cả gia-tộc của Bà đã thờ
phượng Đức Thích-Ca.
Luận tới đây Tôi nghĩ ngày này đáng lẽ nếu nói rằng nước Việt-Nam chủng tộc
ta có thể thờ Đức Phật Thích-Ca nhiều hơn hết, nhưng đến Đại Lễ này nếu không
tưởng niệm đến Đức Thích-Ca đi nữa là cũng còn đoái đến tình của Bà Nữ Đầu-Sư,
mà dòm lại Phái Nữ trong Đại Lễ thấy lơ-thơ, có phải vô tình chăng ? Hay là Đạo
của Phật Thích-Ca và công nghiệp của Bà Nữ Đầu-Sư bị có cơn mưa rồi lạnh ngắt,
đã lạnh trước rồi bị trận mưa nữa nó lạnh luôn ? Bần-Đạo xin nói thật, Đức Phật
Thích Ca, dầu sự trị thế của Ngài đã hết, chúng ta chỉ nói là hết thôi. Hai
ngàn năm trăm năm (2.500) lập Đạo trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống kia, Môn-đệ của
Ngài nhiều lắm, các người đừng tưởng Ông già ăn mày ấy không đủ quyền năng mà
các người khi dễ. Nội cái Bình Bát-Vu của Ông đựng cả chơn hồn trong Càn Khôn
Vũ Trụ, Ông ăn mày tại thế này vậy mà ngôi vị Cực Lạc Thế Giới của Ông các người
xin một phẩm Liên Hoa Ông có thể cho; là một người không nên khi dễ, không nên
nguội lạnh với người đó, bởi vì Môn đệ của Ngài trên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống
nhiều lắm. Bà Nữ Đầu-Sư hồi còn tại thế này cũng vậy, hay về cõi Thiêng-Liêng
cũng vậy thương Em lắm, thương phái nữ lắm, Bà binh vực bảo trọng từ khi mới mở
Đạo, biết bao phen Đức Lý-Giáo-Tông đã phẫn nộ, chính mình Bần Đạo cũng không
thế binh vực được mà còn có thể ghét nữa mà chớ. Duy có một mình Chị binh vực bảo
trọng phái nữ còn tồn tại đến ngày nay, bằng không thì bị phế rồi, bị Đức Lý phế
rồi đó. Bần-Đạo nói thật mấy chị. Ôi! Không phải kiếp sanh dễ gì ngộ Đạo, Bần-Đạo
đã chán biết khó khăn kiếp sống của mình tại thế bao giờ cũng vậy, nó làm cho
mình nặng nề khổ não về tinh thần, nhưng chúng ta đem lên mặt cân thiêng liêng,
chúng ta lấy trí khôn ngoan để suy đoán cho cùng, chúng ta phải lấy trí khôn
ngoan công chánh mà phán đoán, phần nào xác là xác, phần nào hồn là hồn, cái
xác thịt nó không phải ở đây cho đến lúc tận thế đa nghe ! Kiếp sống tại thế
gian này của mấy người không mấy lát, cao trọng cần yếu hay chăng là phần hồn,
đừng sa xuống Địa Ngục, đừng xuống đó là hơn hết. Xuống cửa đó rồi khó giải
thoát lắm, khó giải thoát lắm đa nghe ! Còn phần xác thì xác, hồn là hồn, mình
lấy cái trí não của mình, lấy cái trung dung của mình làm sao cho Đạo có công
chánh, hòa bình, xác cũng vậy, hồn cũng vậy. Chỉnh cầm cân giữ mực thước làm
sao cho xác thế nào, thì phần hồn kia cũng vậy, đừng trọng bên này, phụ bên
kia, là khôn ngoan hơn hết. Còn một cái trọng yếu hơn nữa là phải nhớ luôn luôn
phụng sự Đức Chí-Tôn, công nghiệp ấy không bao giờ mất, bởi Ông già đó chẳng chịu
thiếu nợ ai hết, trái lại nếu chúng ta có phương thế lập vị chúng ta rồi mà
chúng ta còn dư thừa công nghiệp đối với Ngài. Nhớ lại trong Cửu Huyền Thất Tổ
của ta chưa chắc họ đều siêu thoát đặng, để chút của cải ấy đặng độ họ, tội
nghiệp biết đâu trong Cửu Huyền Thất Tổ của mỗi đứa ta lại không có người ở dưới
Phong Đô, rán tiện tặn chút đỉnh cho có của cải Thiêng Liêng cho họ hưởng mới
khỏi uổng kiếp sanh của mình. Đấng đó không biết thiếu nợ ai hết và đã nói chẳng
hề khi nào sai lời. Đã ngộ Đạo, đã biết Đạo, đã theo chân Đức Chí-Tôn mà không
biết tự mình tìm phương giải thoát, dầu chúng ta không mong mỏi cứu độ Cửu Huyền
Thất Tổ đi nữa, cũng mong mỏi tự giải thoát cho mình là trọng yếu hơn hết, biết
Đạo mà nguội lạnh tốt hơn hết đừng có ở trong cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong
cửa Đạo, ngồi nữa thêm tội không ích gì. Thử chúng ta để dấu hỏi chúng ta tu
đây trông mong cái gì?
Đừng như kẻ mờ hồ kia mà Đức Chí-Tôn đã để:
Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng
Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói
chẹt lườn.
Co cẳng muốn vào rồi lại
thụt,
Biểu thương sao đặng buộc
người thương?
4 - Bà Nữ Đầu Sư Chơn linh
Long Nữ.
Long Nữ là ai ?
“Ngày nay là Lễ của Đức Phật Thích Ca và là ngày Lễ của Chị chúng ta, chúng
ta nên để tâm cầu nguyện Chơn linh của Ngài và của Bà, tức nhiên là Long Nữ, cả
thảy chúng ta đều biết cái bí mật ấy. Thật ra, là người đòi của Phật Quan Âm Bồ
Tát đó vậy. Bần Đạo hiểu về cái thuyết bí mật của Đức Quan Âm Bồ Tát lãnh trách
nhiệm trọng yếu, vâng lịnh Đức Di Lạc Vương Phật, chưởng quản điều khiển Bát
Nhã Thuyền. Vì cớ cho nên Đức Quan Âm Bồ Tát không thể giáng trần được, chính
mình Long Nữ là người hầu của Bà, tình nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn
linh, các Cung các Điện và Hộ Pháp, đặng mở nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn, hầu
tận độ vạn linh đoạt cơ giải thoát. Nguơn linh của Long-Nữ đã theo hầu Đức Quan
Âm Bồ-Tát mấy kiếp đã đến trần thì căn Phật của Người vẫn thế”.
5 - Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương
Thanh được
thờ nơi Nữ Đầu Sư Đường
“Hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng ta, cầm
cây Linh bút của Ngài tạo nền Chơn giáo. Ông đến với một thân già nghèo của
Ông, chính mình Ông khai rằng: Ông là một Ông già nghèo, Ổng nói “Tròi trọi
mình không mới thiệt bần”. Ông đến cho ta một danh thể là lập Hội-Thánh cho con
cái của Ổng, nhưng Ông còn cỡi được con Bạch hạc ở trên mây trắng, còn Thánh-Thể
của Ông ở ngoài mưa nắng cũng không được nữa, nó khó lắm đó vậy. Tình trạng rất
khó khăn, Ổng đến với một thân nghèo để tạo dựng Thánh Thể cho con cái Ổng. Mà
ôi thôi! Đám Thánh-Thể của Ổng nó cũng nghèo nữa, nhưng mà cái nghèo đó chúng
ta có một năng lực cao thượng vô giá không thể tưởng tượng được. Có lẽ cả thảy đều
ngó thấy buổi phôi thai, là khi Đền Thánh mới tạo, con cái của Ngài phải chịu
biết bao nhiêu khổ hạnh, ăn thì bữa đói bữa no đặng tạo dựng Đền Thánh, đến bây
giờ thành tướng làm cho Vạn quốc ngó thấy, trông vào đều khen ngợi, đó là khối
muối của sắp nhỏ trở nên hình đó, do sự nhẫn-nại nhọc nhằn của sắp nhỏ mà nên đại
nghiệp ngày nay đó vậy. May thay! Đám con chí hiếu của Ngài trước sao sau vậy,
liều mảnh thân phàm nầy làm con tế vật cho Đạo. Cả thảy Hội-Thánh tưởng lại coi
tạo dựng một dinh thự Nữ Đầu Sư-Đường như vậy chỉ có 250.000$ (hai trăm năm chục
ngàn đồng bạc chẵn) có tay thợ nào dám làm không? Tôi dám chắc không dám. Bởi
vì giọt mồ hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô trong này bằng ba lần như vậy, đó
chỉ có nhờ thiên hạ cho mớ vật liệu hòa với giọt mồ hôi đám sắp nhỏ mà nên hình
tượng đó vậy.
Các Con, các Em để ý coi Ông già đó, Ổng không chịu thiếu nợ ai hết, công
nghiệp của mấy Em, Ông trả nơi thế nầy không đặng thì về cửa Thiêng Liêng Hằng
Sống Ổng cũng trả cho được Ổng mới nghe. Các con đã ngó thấy, những đứa con hiếu
hạnh của Ông giờ phút nầy có biết định phận của nó thế nào đối với Thánh Thể. Mấy
đứa trong Quân Đội bây giờ là ai ? Là đám công thợ buổi trước tạo dựng nghiệp Đạo
rồi nó còn hy sinh xương máu bảo vệ đại nghiệp cho con cái của Ngài nữa, đương
đầu với những trở lực oai quyền, hiện giờ nó nuôi lại Em nó, chia từ miếng cơm
manh áo cho mặc. Cả đại nghiệp nầy là nhờ đám con chí hiếu của Ngài tạo dựng
nên, chớ Tôi không làm gì được hết, chỉ có là đốc thúc vô cho chúng nó làm chớ
thân nầy ôm viên gạch cũng không nỗi. Bần-Đạo chỉ mong có một điều là toàn thể
con cái của Ngài Nam Nữ mỗi ngày đều tưởng tượng đến công khó nhọc Anh Em nó,
khó nhọc của đồng bào toàn thể nước nhà, nòi giống đã tạo dựng nên nghiệp ấy, lấy
cả sự nghiệp nầy làm môi giới, giữ đạo đức làm bùa hằng tâm, thương yêu với
nhau, giữ nghĩa với nhau cho đến bảy trăm ngàn năm (Thất ức niên) theo lời của
Đức Chí-Tôn đã định, dầu Bần-Đạo còn ở đây hay về cõi Hư-Linh. Cung ấy an lạc
đi nữa, cũng nhớ đến đại nghiệp con cái của Ngài và Bần-Đạo dám đại ngôn với
Ngài rằng: Con cái của Ngài giữ tâm chí hiếu với Ngài và đối với Phật Mẫu cũng
vậy”.
6 - Công lao và tài sản của
Bà Lâm Hương Thanh
“Nhắc lại hai mươi mấy năm trước,
hai mươi sáu năm chúng ta hội hiệp với nhau thế nào, ngày hôm nay kẻ còn người
mất, dầu ai có gan sắt đá cũng phải não nề. Luật thiên nhiên định vậy, duy có một
điều hạnh phúc cho kiếp sống của chúng ta chỉ về Thiêng liêng thấy cả toàn thể
em út đã nối chí đặng giữ nghiệp Đạo, nếu có hưởng đặng mảy may hạnh phúc chăng
chỉ có bao nhiêu đấy thôi.
Ôi! Biết bao nhiêu khổ não, truân chuyên thương Em, mà điều chẳng qua liễu
Đạo của Chị, cái chết của Chị trong đầu óc Em biết sao mà nói, tưởng tượng quả
quyết rằng vì Chị bị cường quyền khảo quá thế, một người đa tình đa cảm như Chị
chúng đã khảo duợt với một phương pháp ấy không thế nào sống đặng. Đương khi bịnh
chúng dắt đi hầu Tòa, dẫn ra dẫn vô đến nỗi khi trong Tòa ra rồi Chị nói rằng:
Không có chết giấc tại đó mà thôi, về tới nhà bịnh làm cho tới chết, mà chết phải
chăng cái việc nghi ngờ của Em không phải là mờ hồ, thì Em dám lộng ngôn nói rằng
Chị đã tử vì Đạo là không quá lời!. Em đã làm Hộ-Pháp chỉ ân hận một điều: Chị
giàu sang tưởng nơi mặt thế này, người nào có thể nói với thiên hạ rằng: trong
kiếp sanh tôi giàu sang, nào ruộng đất, lầu đài ngọc ngà châu báu, không có món
gì mà Chị không có, chỉ tiếc một điều là của cải ấy không để nơi nào nó phải để.
Nếu giờ phút này Bần-Đạo nói: Người Chị của ta có ân hận chăng là chỉ có bao
nhiêu đó mà thôi !.
Bần-Đạo nhớ lại khi khởi cất Đền-Thánh thì đã ba phen thâu của tín-đồ, thâu
của nhơn sanh, đặng cất Tòa Thánh cất không nỗi. Tới ngày khởi cất, ngày Bần-Đạo
nhất định cất, có 13 ngàn đồng buổi đó không phải dễ, mở trong tủ ra chỉ còn
1$46 (một đồng bốn cắc sáu). Cất Toà Thánh trong lúc thời thế nguy ngập, người
ta bất-tín nhiệm chạy tiền không ra, không biết làm thế nào khởi đương ra cho mạnh
mẽ đặng thâu tín nhiệm thiên hạ lại. Túng tiền, Bần-Đạo phải đến tại Vũng-Liêm,
tưởng đâu Chị có dư-dả mới đến, con người như thế này không đến nước túng thiếu
quá lẽ. Xuống tới dưới, tới chừng khi hỏi Chị đặng mượn số tiền về khởi công cất
Tòa Thánh, Chị dắt đi xuống chỉ mấy kho lúa đầy nhóc hết, mà lúa 0$20 (hai cắc)
một giạ, hồi đời đương khuẩn bách từ Á tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu có
thể với giá bây giờ dầu 10 triệu trả cũng được. Một giạ có 0$20 tiền Chị đó Em
!.
Ôi ! Lúa có 0$20 có chết được không, Qua nói thiệt với Em trong mình Qua
không còn gì hết. Ngồi suy nghĩ một hồi, vô mở tủ sắt lấy ra một hòm sắt lớn đầy
vàng hết, từ Bà Cụ dĩ chí gia đình đều để đồ kỹ-niệm trong ấy, hột xoàn nhiều
hơn hết, đem hòm ấy đưa cho Em đi cầm, thời buổi khuẩn-bách này ngoài 90 ngàn tới
100 ngàn đặng khởi công cất Tòa Thánh thì được rồi, nhưng một ngày kia tới chừng
trả rồi mới làm sao; lấy cầm thì được tới chừng chuộc thì tiền đâu, biết chuộc
đặng hay không? Nói như vậy rồi cười với nhau mà thôi !. Chị nói trên có huyền
linh của Đức Chí-Tôn dưới có cả đức-tin con cái của Ngài, Nam cũng thế, Nữ cũng
thế, đâu Em về cất bướng coi, không cần lấy đồ này, cứ tin Đức Chí-Tôn, Em làm
lúng cái coi được hay không. Bần-Đạo về với hai bàn tay trắng làm đến thành…”.
7 - Nơi cửa Thiêng Liêng
không phải giàu mà lập nghiệp được, còn nghèo mà không đâu !
“Từ ngày Khai Đạo năm Bính-Dần cho đến
ngày hôm nay…Một người Chị hồi đó đã chịu cả khó nhọc cùng toàn thể Thánh Thể Đức
Chí Tôn tạo cho nên nghiệp Đạo, ngày giờ qui liễu của Chị, Chị chưa ngó thấy
cái tướng diện cơ nghiệp của Đạo sẽ thành hình như thế nào. Bần Đạo tưởng, nếu
giờ phút chót của Chị, Chị còn có một điều ân hận, khi xuất hồn ra khỏi xác, có
thể Chị để dấu hỏi (?) chẳng biết tương lai của Đạo nó sẽ ra thế nào ? Chẳng biết
mấy Em của tôi có đủ cương quyết, đủ nghị lực, đủ tài đức đặng tạo cho thành tướng
hay chăng ? Đó là một điều Chị lo ngại hơn hết. Bần-Đạo nhớ lại lời của Đức
Chí-Tôn đã có nói trước rằng: “Nếu Đạo không thành thì chính mình Thầy sẽ đến”.
Tôi tưởng chẳng phải một mình Chị mà thôi, mà cả mấy Anh đã qua đời, dĩ
vãng rồi, giờ chót họ còn một điều ái ngại trọng hệ hơn hết là đây…”.
02 - Ông Lê-Văn-Trung
(1876 - 1934)
Thánh danh QUYỀN GIÁO
TÔNG LÊ VĂN TRUNG
Ðêm 30 tháng chạp Ất Sửu
(dl: 12-02-1926 )
THẦY cho ông Lê Văn
Trung thi:
Ðã thấy ven mây lố mặt
dương,
Cùng nhau xúm xích dẫn lên
đường.
Ðạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sao ra vạn dặm trường.
(Thăng)
A - Phần Đời: Thượng Nghị Viện
I - Tiểu sử Ðức Quyền Giáo
Tông (Diệp Văn Kỳ viết)
Ông LÊ VĂN TRUNG, người hạt Chợ-lớn, con ông Lê-văn-Thanh và bà Văn Thị
Xuân, sanh tại làng Phước Lâm, tổng Phước Ðiền Trung, trong năm 1875, sanh ra
được vài tháng, thì ông thân của Ngài tạ thế. Tuy là sớm phải gặp cảnh mồ côi
cha, song cũng nhờ nghĩa phương của một bà Từ mẫu nên việc học vấn của ông cũng
tuần tự theo trình độ trí thức mà thăng tiến.
Năm 18 tuổi, nhằm ngày 14 Juillet 1893, thì ông đã được bổ vào ngạch thơ ký
Chánh phủ Nam Kỳ. Sau lại từ chức, ra tranh cử Hội đồng Quản Hạt quận nhì (Gia
Ðịnh, Chợlớn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Cap-St-Jacques) Ông thường nhắc việc
nầy mà nói: Cái ma lực buộc người hay có xa vọng về chánh trị nó mạnh lạ thường.
Tranh cử lúc đó còn phải tốn tiền hơn bây giờ xấp trăm, xấp ngàn. Vậy mà tiền
không, thế lực nỏ có, thì tranh cử cái gì, mà Tôi cũng xin thôi việc quan đặng
ra tranh cử ?".
"Người ta
là con vật chánh trị!" Văn sĩ xưa nào đã nói như vậy ! Ông đắc cử Nghị viên Quản Hạt lần I năm 1906. Thế thường Hội Ðồng
Quản Hạt là cái máy ghi chép “đít-cua” thì đáng lẽ ông cũng theo thường “quì
quì, dạ dạ” để xin "mày đai" Huyện hàm, khẩn đất mà thủ lợi. Thế mà
không, sau khi đắc cử, Hội Ðồng mới nhóm một kỳ đầu tiên, thì đã gặp ngay bản dự
thảo thuộc về “Lục hạng điền” của ông Outrey, quyền Thống Ðốc Nam Kỳ, trình xin
Hội Ðồng phải thảo luận và thừa nhận. Ông và ông Diệp Văn Cương, Hội Ðồng Bến
Tre, đứng ra cầm đầu cho tất cả sáu ông Quản Hạt An-Nam phản kháng lại bản dự
thảo của Chánh phủ. Song, số Nghị-Viên
An-Nam
lúc bấy giờ chỉ bằng phân nửa số Nghị Viên Lang-sa, thì dầu cho có phản
kháng kịch liệt thế nào, cứu cánh rồi cũng chẳng có kết quả. Tình thế chính trị
như vậy mặc dầu, ông cùng các người đồng chí cũng chẳng chịu thua Hội Ðồng
Quản Hạt, với mười mấy lá thăm Langsa, vừa thừa nhận khoản thuế “Lục hạng
điền” thì bên nầy, tất cả sáu ông Hội Ðồng Quản Hạt An Nam đều gởi đơn từ chức.
Ðối với thái độ ấy, có lẽ ngày nay chúng ta chẳng lấy chi làm lạ. Song, nếu
chúng ta thử tưởng tượng lại cái hoàn cảnh chánh trị cách 30 năm nay, thì dám
làm như thế, dám phản kháng Chánh phủ một cách công nhiên như họ đã làm, thật
là một việc đáng khen và không phải là không có chi nguy hiểm cho những người
xướng xuất. Từ chức xong, tất cả sáu ông đều ra ứng cử lại và thảy đều được tái
đắc cử. Trừ duy ông Hội Ðồng Hoài, bị ông Bùi Quang Chiêu a-phụ với ông Outrey
xúi người bà con là ông Bùi Thế Khâm ra phá nên thất cử.
Hội Ðồng Quản Hạt mà được trở nên một Nghị trường có nhiều ít thanh thế một
đôi vẻ chánh trị có lẽ cũng là nhờ vụ “Lục hạng điền” làm nước bước đầu tiên.
Trong bước đầu tiên ấy, ông Lê Văn Trung lại là một người hướng đạo rất khẳng
khái. Thế lực chánh trị của ông từ đó về
sau mỗi ngày càng lớn thêm. Ðối với cử tri, bây giờ tức là các Hương chức, ông
là một người đã bảo thủ quyền lợi của nông dân điền chủ; đối với Chánh phủ, thì
ông là một người trong những người mà các nhà đương đạo khó khinh thường. Nhờ
thế lực ấy, nên trong năm 1911 ông mới hiệp sức với một vài nhà trí thức, quyền
bính Sàigòn, Chợ-lớn mà khởi xướng được một vài việc rất mới mẻ có quan hệ mật
thiết, ảnh hưởng lớn ở xã hội Việt Nam
ngày nay.
Chú thích: (1) An-Nam là chỉ người Việt Nam .
Phân biệt người Pháp gọi là Lang-sa tức là Francais)
2 - Tôi muốn nói về việc lập Nữ Học Ðường:
Ðương giữa buổi mà sự giáo dục của con trai, đàn ông, hãy còn phôi thai, cậu
nào đậu được bằng cấp Thành chung là đã tự Thánh, tự Thần, xách đi cùng Lục tỉnh
đặng kiếm vợ giàu; đương giữa buổi mà những anh chàng du học đem về được cái bằng
cấp Tú tài, thì đã hô lớn lên một cách rất vinh diệu, tự đắc rằng mình quên hết
tiếng An Nam; đương giữa buổi mà khắp cả cha mẹ trong nước đều công nhận rằng:
Cho con gái có nhiều ít học thức là một mối hại lớn cho gia đình, cho xã hội;
đương giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng Nữ học, xin lập trường Nữ học để dạy
bên gái bằng như bên trai, có phải là một việc quá bạo gan chăng ? Những người
đề xướng có phải là những bực tiên kiến chăng ?
Bạo gan thật, tiên kiến thật, vì Chánh phủ lúc bấy giờ, như tuồng cũng cho
việc ấy là một việc chưa hợp thời, lại trái với phong tục cũ kỹ của An-nam, nên
chi tuy là không ngăn cấm, song cũng chẳng chịu xuất công nho ra làm chi phí,
mà chỉ để cho những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên, góp của công chúng, cất
lên được mấy tòa nhà đồ sộ mà chúng ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye;
tòa nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhơn tài trong nữ giới. Vậy mà nếu ai
chịu khó lật cuốn sổ lạc quyên năm nọ ra xem, thì sẽ thấy ở dưới mấy lời tuyên
bố có tên của ông Lê Văn Trung là người khởi xướng đứng kế phương danh bà cụ Tổng
Ðốc Ðỗ-Hữu. Trong một cái phạm vi chánh trị eo hẹp, dưới chế độ chẳng phải
khinh thường mà đã làm được những việc tôi vừa nhắc lại trên đây, thời tuy nó
chưa phải là những sự nghiệp của anh hùng, vĩ nhơn, song thế cũng đủ gọi rằng
khỏi mang tiếng “quì quì, dạ dạ” là cái danh hiệu của phần đông trong mấy ông Hội
Ðồng, từ xưa đến nay, ở xứ này. Ðó là sự
nghiệp.
Còn công danh, nếu lấy theo nghĩa hẹp của nó và theo thế tình, thì ông Lê
Văn Trung, Hội Ðồng Quản Hạt, Nghị viên Thượng Nghị Viện, thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, sanh tiền cũng đã từng có đủ công
danh.
Nhưng, than ôi! Dầu cho những điều đó mà có thể gọi là công danh, sự nghiệp
đi nữa, đối với người đã lấy lòng tín ngưỡng làm phương châm cho sự hành vi, lấy
đức bác ái, phổ độ làm mục đích cho cái đời sống, thì công danh, sự nghiệp cũng
chẳng nên nhắc lại làm chi. Vả, trước khi đem thân phàm tục để nhờ “Con Mắt huyền
diệu của Thầy” soi thấu, thì Ông Lê Văn Trung cũng đã lãnh đạm với công danh sự
nghiệp ấy. Ba bốn tháng trước khi nhập Ðạo, Ông Lê Văn Trung đã gởi đơn đề ngày
6 Octobre 1925 cho Quan Thống Ðốc Nam Kỳ mà xin từ chức Nghị Viên Thượng Nghị
Viện.
“Mãi đến ngày mồng năm tháng Chạp năm Ất Sửu (28 Janvier 1926) ở Saigon, Ðức
THƯỢNG ÐẾ giáng cơ dạy hai ông Cư và Tắc, đem cơ vô nhà ông Trung (Chợlớn, Quai
Testard) cho “Ngài” dạy việc. Hai ông này lấy làm bợ ngợ, vì thuở nay chưa hề
quen biết ông Trung"
- Ông Lê-văn-Trung ngộ Đạo:
Tôn chỉ “Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt” Đạo Cao Đài từng giai đoạn
bành trướng nền Tân Tôn giáo:
Từ 1920-1926 giai đoạn này cầu cơ thỉnh Tiên để học hỏi về vô hình, các đồng
tử được phong là Đạo sĩ hoặc Tiên đồng. Thời kỳ này, Đạo thu hút nhân tài
lãnh-đạo Cao Đài về sau. Ông Lê Văn Trung cũng trong trường hợp những người
thích nghe tiên tri, lời Thánh mà ngộ Đạo. Ngày 5-12-Ất Sửu (dl: 18-1-1926) Đức
Chí-Tôn giáng cơ dạy hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem Cơ đến nhà ông
Lê Văn Trung (ở Quai Testard) độ ông ấy.
Đức Hộ Pháp kể lại rằng:
“Buổi nọ Ông Lê-Văn-Trung đang làm Thượng Nghị Viện. Hội-đồng Thượng Nghị-Viện
chẳng khác bây giờ là một vị Tổng-Thống đời Pháp-thuộc. Chức Nghị Viện lớn lắm
! Ông là người Nam làm đến bực đó thôi; mà nghe ra Ông là người quá sức đời,
Tôi và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, ý định không làm
điều đó đặng. Khi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục
đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà thú
thật với Ngài rằng chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà Anh phò loan cho Đức
Chí Tôn dạy Đạo. Ông biết Đấng đó hơn
chúng tôi (là nhờ Đàn Chợ Gạo đã nói ở trên). Lo sắp đặt bàn ghế sửa soạn buổi
phò loan rồi ông nhập môn. Trong nhà có một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ
tuổi. Hai cha con kiếm được cái Cơ, vái cầu Cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngủ, ông
thì thức. Cơ chạy hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết
với nhau thôi. Từ đó ông mới tin Đức Chí Tôn”.[(ĐHP 13-10-Giáp Ngọ (1954) ]
Trong đàn cơ Đức Chí Tôn phán dạy:
Ngài đã phân rằng: Ngài đã sai Lý-Bạch dìu dắt ông Trung nơi đàn Chợ-gạo đã
lâu rồi. Đến ngày 21-1-1926, Đức Chí Tôn lại dạy rằng:
“TRUNG, nhứt tâm nghe con. Sống cũng
nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy
sự sáng mắt của con mà suy lấy”.
Thầy cho thi:
Một Trời, một Đất, một nhà
riêng.
Dạy-dỗ nhơn-sanh đặng dạ
hiền,
Cầm mối Thiên-Thơ lo cứu
chúng.
Đạo người vẹn-vẻ mới thành
Tiên (AĂÂ)
Ghi chú: Giấy Căn Cước của ông thời 1876,
trong Bằng cấp Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại là 1875. Ông tuổi Tý, 1875 đúng hơn.
Từ đó cho đến lúc qua đời, ông Lê Văn Trung được sáng mắt lại. Con nuôi tên
Thạnh khỏi dẫn dắt nữa. Sau đó ông Ca Bảo Đạo cũng được Đức Chí Tôn cho sáng mắt.
Ông Trung cũng nhận được nhiều bài thi kế tiếp:
Mặt Nhựt hồi mô thấy xẻ
hai ?
Có thương mới biết Đấng
Cao Đài
Cũng con cũng cái đồng Môn
đệ,
Bụng muốn phân chia hỏi bởi
ai ?
Chuyện trên đây tôi do ở cuốn sách "Ðại Ðạo Căn Nguyên" của Ðạo
Cao Ðài mà chép ra và chỉ để ghi lấy ngày nhập Ðạo cho tiện sự chia đời của ông
làm hai đoạn:
- Ðoạn trước, ở thế gian: từ ngày 14 Juillet 1893, ông được bổ ra làm Thơ
ký, cho đến 6 Octobre 1925 là ngày ông từ chức Nghị viên Thượng Nghị Viện.
- Ðoạn sau, thuộc về đời hành đạo: đời tu niệm của Ông, từ 28 Janvier 1926
cho đến 19 Novembre 1934.
Bước đường ở ngoài thế gian trong khoản 32 năm được hanh thông chừng nào,
thì 9 năm trong Ðạo lại càng mắc phải nhiều khổ hạnh chừng nấy. Sau khi nhập Ðạo
chưa đầy một năm, Ông với các Ðạo hữu đi thuyết đạo khắp cùng Lục Tỉnh và nội
trong mấy tháng mà số người theo Ðạo Cao Ðài tính hơn một triệu, thì ông cùng
Bà Lâm Hương Thanh, Chánh Phối Sư, với 247 người Ðạo hữu đứng vào một lá đơn
trình với Chánh phủ xin phép KHAI ÐẠO..
3 - Lá đơn ấy đề ngày 29 Septembre 1926: nó là tấm Giấy Khai Sanh của Ðạo vậy.
Lúc bấy giờ, Ðàn cầu cơ đã có khắp cả mọi nơi: Cầu Kho, Chợ-lớn, Tân Kim, Lộc
Giang, Tân Ðịnh, Thủ Ðức…mỗi chỗ đều có người chủ trương riêng. Vì Ðạo Cao Ðài
là do ở Cơ Bút phát sanh; điều đó ai cũng biết. Tuy nhiên,
chí kinh dinh kiến tạo của Ông ở ngoài đời Ông vẫn đem nó theo để đạt một mục
đích khác. Vì Ông nóng lòng về sự lo cho nền Ðạo được thống nhứt, nên trong năm
đó, ngày 19 Novembre, đêm 14 rạng Rằm tháng mười năm Bính Dần, thì làm lễ Khánh
Thành Thánh-Thất ở Từ Lâm Tự và lễ chánh thức Khai Ðạo. Tính từng ngày một thì
cộng là 8 năm, không thiếu không dư một bữa:
- 19 Novembre
1926 khai Đạo
- 19 Novembre
1934 ông mất.
Trong điều đó có
chi huyền diệu chăng ?
Huyền diệu hay
không, tôi tưởng ai là Tín đồ Cao Ðài, thời cũng phải lấy ngày đó làm một ngày
kỷ niệm rất quí hóa, kỷ niệm lễ chánh thức KHAI ÐẠO, kỷ niệm húy nhựt của Ông
Quyền Giáo Tông và kỷ niệm cho nhớ rằng hành đạo là một việc khó, Cơ Bút thường hay có những điều lưu tệ. Vì chánh ngay đêm đó, có hai Tín đồ
nam và nữ tự xưng là Tề Thiên Ðại Thánh và Quan Âm Bố Tát nhảy lên làm cho công
chúng thất vọng. Và cũng vì việc rắc rối ấy mà làm cho ai nấy đều ngã lòng, thối
chí, thành thử nổi lên một cuộc công kích rất kịch liệt do những người hoặc vì
thiển kiến, hoặc vì tư lợi mà sanh ra.
Có một điều lạ chẳng ai ngờ, là cái hiệu quả của cuộc công kích ấy chỉ làm
cho số Tín đồ Cao Ðài mỗi ngày mỗi đông thêm.
Cách đó chẳng bao lâu, Thánh Thất Cao Ðài lại phải dời về nơi sở rừng 140 mẫu,
tọa lạc tại làng Long Thành Tây Ninh cho
đến bây giờ. Trong khoảng thời gian từ ngày lập Ðạo cho đến lúc dời Thánh Thất
về làng Long Thành, ông Lê Văn Trung đã trải biết bao nhiêu công khó mới gầy dựng
nên được cơ sở vững chắc như ngày nay. Song Ông thường hay nói với tất cả mọi
người:
- Công khó ấy đều nhờ ở lòng tín ngưỡng thành kính của anh em, chị em trong
Ðạo. Công của tôi chẳng
bao giờ lớn hơn công của một “Tiểu Giáo Nhi” nào !
Tuy nhiên, trong lúc vừa dời Tòa Thánh về làng Long Thành Tây Ninh, thì các
Chức Sắc, các Giáo Hữu, các Tín đồ đều đã rõ thấu công lao của Ông đối với nền
Ðạo, nên ai nấy đều vui mừng về việc ông được tôn lên Quyền Giáo Tông nhằm ngày
mồng 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930). Vả lúc ấy, là lúc Ðạo đương trải qua thời
kỳ toàn thạnh mà chủ quyền lại được thống nhứt về trong tay của một người nhiều
kinh lịch, đủ nghị lực như ông LÊ VĂN TRUNG thì ai cũng tưởng nền Ðạo từ đó về
sau sẽ được vững chải hơn.
Ai ngờ hai chữ “GÍAO TÔNG” lại thành ra cái cớ để khiến những tay cầm quyền
Ðạo đương thời họ đã làm cho nảy sanh chẳng biết bao nhiêu việc chia lìa, oán
khích. Chẳng những là ở trong Ðạo thì họ đã buộc tội, viết tờ Châu Tri để thống
mạ, mà ngoài đời, thì họ lại còn xúi giục Tín đồ lầm lạc đem những việc phi lý,
vô bằng cớ đến Tòa mà kiện và vu cáo với các nhà đương quyền rằng để cho Ông Lê
Văn Trung cầm quyền Ðạo tức Cao Ðài là dung dưỡng cho một ổ cách mạng, họ đã
làm cho đến nỗi lúc bấy giờ chẳng có ngày nào mà Ông Lê Văn Trung chẳng bị ông
Thẩm-án nầy đòi hay là Tòa kia đem ra xử. Còn những Chức Sắc nào trong Ðạo mà
ái mộ Ông Giáo Tông, thì họ lại kiếm phương nầy thế khác mà làm cho bị tù bị tội.
Ðương giữa buổi nguy nan như thế, Ông Lê Văn Trung vẫn cứ điềm tĩnh, ngồi lo sắp
đặt công việc bên Nữ phái trong Ðạo, mong sao cho Nam, Nữ được bình quyền mà
nói rằng: “Ðiều ấy là một cái xa vọng của tôi đã có từ khi đương còn ở ngoài đời,
cho đến ngày nhập Ðạo. Lúc trước tôi đã giúp bà cụ Tổng Ðốc Ðỗ Hữu lập trường Nữ
Học, bây giờ tôi hiệp sức với Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh tổ chức các Nữ
Viện, cũng đồng một ý nghĩa. Tôi chỉ ước ao sao cho Nam-Nữ bất bình đẳng ở
ngoài đời chẳng còn trong Ðạo nữa”.
Có nhiều người thấy Ông điềm nhiên như vậy, thì tức mà hỏi: Ngài không dùng
phương pháp chi để đối phó với mấy kẻ tiểu nhơn kia sao?
- Sao mà lại được kêu những kẻ ấy là tiểu nhơn ? Nếu may mà mình phải, thời
tự nhiên một ngày kia người ta sẽ biết quấy, lo ngại chi sự ấy. Song, than ôi !
Lời nói đó chỉ là đúng với lý tưởng của người lương thiện, tu hành. Chớ thật tế
ở đời nầy có đâu được như thế !.
Sau khi đối với Ðạo, Ðạo biết Ông vô tội; đối với Tòa, Tòa biết Ông vô tội;
cái danh hành Ðạo của Ông được trắng như tuyết.
Ông Lê Văn Trung, nguyên Thượng Nghị Viện thưởng thọ Bắc Ðẩu Bửu Tinh, Quyền
GIÁO TÔNG CAO ÐÀI, lại do hai cái án “tuần cảnh” phạt hai tên đánh xe bò của
Tòa Thánh về tội không thắp đèn và bò thiếu dây buộc ách mà phải bị bắt vô chịu
tù ở khám đường Tây Ninh. Ngày Ông vô khám nhằm lễ Khai hạ, mồng bảy
Tết năm
Giáp Tuất (1934) trước Vía Trời vài ba bữa.
Tôi còn nhớ khi sơn-đầm đem hai bổn sao lục của hai cái án nói trên đây vô
Giáo Tông Ðường đặng bắt Ông ra Tòa Bố Tây-Ninh, thì ông chậm rãi, khăn áo chỉnh
tề, mang Bắc Ðẩu Bửu Tinh và huy hiệu Giáo Tông vào rồi đi theo sai-nha không
nói một tiếng chi khác hơn là dặn các Giáo Hữu, các Tín đồ hãy yên lặng mà lo việc
cúng Vía.
Mấy ngày Ông ngồi trong khám, ngoài Tòa Thánh từ các Chức Sắc cho đến Tín đồ
họ đều nhịn đói chờ Ông. Mãn hạn ba ngày, Ông về Tòa Thánh, Chức Sắc, Tín đồ
người khóc, kẻ ôm tay Ông hun, Ông xem cũng như tuồng có ý cảm động nhiều hơn
trong những dịp khác.
Làm Lễ Vía Trời vừa xong thì
Ông liền viết một
bức thơ gởi cho Chánh phủ mà xin trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh lại. Thơ ấy có nhiều câu
ý vị sâu xa. Song tôi không muốn thuật ra đây, vì sau khi Quan Toàn Quyền ROBIN
qua trấn nhậm, Ông đã có vào diện yết Ngài và hai đàng cũng đã điều đình công
việc “Tự do tín ngưỡng” của Ðạo, thì nhắc lại chuyện cũ sợ e có hại đến hòa khí
của Ông đã đào tạo ra. Tôi chỉ muốn thêm rằng trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh là một “việc
làm” sau hết của cái đời sống của ông và nhắc lại lời của ông đã cắt nghĩa “việc
làm” ấy:
- “Ðừng tưởng tôi trả Bắc Ðẩu Bửu Tinh mà còn có ý chi phiền Chánh phủ,
trách những nhà đương quyền lúc bấy giờ. Danh giá thể thống của Viện Bửu Tinh
buộc tôi phải làm như vậy. Tôi mà nói đây chẳng phải vì nghi sợ điều chi mà chỉ
vì ước ao ai nấy đều hiểu rằng tôn chỉ, mục đích của Ðạo chúng tôi là Hòa bình,
thân ái khắp cả chúng sanh “nhứt thị đồng nhơn” thì chúng tôi đâu được phép phiền
trách hờn giận. Huống chi, theo thiển kiến của tôi đối với vấn đề thực dân, thì
dầu cho lúc ban sơ nó là “việc làm do ở cường quyền” song dần dần bên cai trị
và bên bị cai trị cùng nhau tiếp xúc, rồi biết rõ nhau mà yêu nhau, thì chúng
ta lại có thể hy vọng rằng cái “việc làm do ở cường quyền” kia sẽ
thành ra một mối dây
đoàn thể, thân thiện của dân tộc
nầy đối với dân tộc khác”.
Ðã nói đến thân thế sự nghiệp của Ông LÊ VĂN TRUNG tất nhiên là phải bàn đến
ÐẠO CAO ÐÀI. Vì ông là một người sáng lập, lại là một ông Giáo Chủ. Ðạo Cao
Ðài, thì ông là công Thủ, Ðạo Cao Ðài mà quấy, thì ông lại là tội Khôi. Song
tôi còn nhớ Chương Thái Viêm, nhà Bác học
Tàu mỗi khi thảo luận đến các vấn đề Tôn giáo đều nói:
- “Thiên trung điểu tích, họa giả giai nan” nghĩa là dấu chơn của con chim
bay trên không, thợ vẽ nào
cũng phải chịu là khó. Thật thế, người ta mà muốn tìm ra cội rễ của
Tôn-giáo thời chẳng khác nào chú thợ vẽ muốn vẽ dấu chơn của chim bay trên
không.
Huống chi, ÐẠO CAO ÐÀI mới phát hiện ra ở xứ nầy chưa đầy chín năm, bao
nhiêu những lý thuyết hình thức của ÐẠO hiện đương còn ở thời kỳ phôi thai và
do Cơ Bút mà có, thì chẳng thế chi nghị luận cho được xác đáng. Người tín ngưỡng
do sự thần bí mà tín ngưỡng đã đành; chí như những kẻ công kích mà cũng đem sự
thần bí ra đặng công kích thì thật là lạ. Song dầu chi đi nữa, tôi cũng nhớ rằng
cái “biết” của loài người ngày nay chưa có thể chi giải quyết được những chỗ
khuyết nghi ấy và ở trong khoản vài chục trương giấy viết ra cho kịp ngày Điếu
tang, thì tôi đâu dám đem một vấn đề trọng đại như vấn đề Tôn giáo mà nghị luận.
Tuy nhiên, trước khi ngừng bút, tôi còn muốn đứng về phương diện xã hội mà Ông
Lê Văn Trung sanh tiền thường gọi là Nhơn Ðạo, mà kết luận:
Sự hành động của Ðạo Cao Ðài, từ khi sáng lập đến nay, không phải là mỗi mỗi
đều được tận thiện tận mỹ. Ở trong đời, có chi là tận thiện tận mỹ? - Song nếu
xét ra cho thật công bình, thì Ðạo Cao Ðài chưa hề làm điều chi có hại đến nhân
quần xã hội. Trái lại, Ðạo Cao Ðài đã nhờ truyền bá giỏi, tổ chức hay mà gây
nên tình thân ái, đoàn thể trong một triệu mấy dân Nam Kỳ là một việc đáng làm
cho ai cũng nên kính phục. Ðó là tôi chưa nói đến cái đức tin rất mạnh mẽ của
Tín đồ. Tôi chưa nói, là vì trước khi tôi muốn nhắc cho các Thiên Phong Chức Sắc
trong Ðạo có trách nhậm kế chí của Ông Giáo Tông, đều nhớ rằng: Ðức tin là một
con dao hai lưỡi. Nếu dùng nó phải, thì chẳng chi lợi bằng, nếu dùng nó quấy,
thì chẳng hại nào hơn. Và chỗ đó là tội là công của Ông Lê Văn Trung vậy.
DIỆP VĂN KỲ (Viết tại Saigon ngày 28 Novembre 1934)
II - Sứ mạng Cao-Đài-giáo nay phải làm gì?
“Thầy dặn rằng: Thầy đến chẳng phải
lập một nền Đạo mới mà đến đặng nhắc các con rằng: Ngày tận tuyệt đã hầu gần,
Quỉ Vương sắp đến, Thánh ngôn các Đạo đã khai từ thuở tạo thiên không đủ kềm
thúc nhơn sanh đặng trọn lành. Đời càng ngày càng trở nên hung bạo, nhơn loại
giết lẫn nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh chướng biến sanh, thiên tai rắp đến. Ấy
là các điều Thầy đã nói tiên tri rằng: Ngày tận thế đã đến!”
Thầy đã tạo thành đủ cả Pháp luật.
Thầy đến chỉ độ kẻ vô Đạo chớ không phải sửa Đạo. Các con hiểu à!”
(23-11 Bính Dần – 1926)
- Thọ Thiên Ân Đầu
Sư Thượng Trung Nhựt:
Vào 30 Tết (Thứ
Sáu: 12-02-1926), theo lịnh Đức Chí Tôn các Môn-đệ đầu tiên đi thăm và chúc Tết
gia đình các Đạo-hữu. Đêm đó, phò loan là hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Mỗi ông đều được Đức Chí Tôn cho một bài Tứ tuyệt mà
bài của ông Lê Văn Trung là một lời tiên tri về cơ Phổ độ sẽ phát triển :
Đã thấy ven mây lố mặt
Dương,
Cùng nhau xúm xít dẫn lên
đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gũi sau ra vạn dặm trường.
Đây là ý muốn của Ông Ngô văn Chiêu xin Đức Chí Tôn điểm danh các vị Môn đệ
đầu tiên. Thầy liền giáng, là chiều theo ý muốn của Người. Cơ liền gõ:
Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn
Hoài sanh
Bản Đạo khai Sang, Qúi, Giảng thành
Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa
cảnh
Huờn, Minh, Mân đáo thủ
đài danh.
Mười hai tên nhưng 13 Đệ tử, vì hai ông Võ Văn Sang và Cao Hoài Sang điểm
chung một tên. Huờn, Minh, Mân là ba người khách của ông Vương Quan Kỳ đến hầu
đàn.
* Đàn Phố Hàng Dừa (chợ Thái Bình) lập tại nhà ông Cao Quỳnh Cư không đủ
cung ứng cho cơ Đạo ngày càng phát triển nên mở thêm các Đàn khác ở nhiều nơi.
* Đàn Cầu Kho.
* Đàn Lộc Giang tại chùa Phước Long (Chợ Lớn)
* Đàn Tân Định tại nhà ông Nguyễn Ngọc Thơ,
* Đàn Thủ Đức
* Đàn Tân Kiêm (Cần Giuộc).
Theo chính quyền Pháp, ở Nam Kỳ đã xuất hiện hai mươi mốt địa điểm là nơi lập
đàn của Đạo Cao Đài (Gouvernement Général de I' Indochine, Contribution à
I'Histoire des Mouverment Politique de I' Indochine Francaise, VII- Le Caodaisme - Hà nội 1934,
trang 81).
Việc lập Đàn Cơ phổ độ lúc đầu đem lại nhiều kết quả tốt. Nhiều người có địa
vị và giàu sang theo Đạo như Đốc phủ Lê Bá Trang, Tri phủ Nguyễn Ngọc Tường, Lê
Văn Hoá, Ông Bà Huyện Nguyễn-Ngọc-Thơ và Lâm Thị Thanh. Các bậc chân tu như
Lê-Văn-Lịch, Trần Đạo Quang, Nguyễn-Văn-Kinh, Hoà Thượng Như Nhãn, Yết Ma Luật,
Yết-Ma Nhung ...
Người nhập môn ngày càng đông, các ông Trung, Kỳ, Bản lập đàn giảng đạo,
ông Cao Quỳnh Diêu lo việc Lễ Nhạc, Bà Mỹ Ngọc lập Đồng nhi, Bà Nguyễn-Thị-Hiếu
may áo mão cho kịp kỳ Thiên-phong.
Để chuẩn bị Thiên-phong tại nhà ông Lê Văn Trung, Đức Cao-Đài dạy ông Trung
sắp đặt bốn cái ghế để tạm thay một Ngai Rồng (Giáo Tông) và ba Ngai Lân (3 vị
Đầu Sư).
Bàn thờ Ngũ Lôi đặt phía trước Thiên Bàn, có bài vị
“Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn” và lá bùa Kim Quang Tiên. Đối
diện với Thiên Bàn lập bàn Vi Hộ-Pháp (Vi-Đà Hộ-Pháp, một trong Tứ Thiên Vương,
viết bằng chữ V. Hai bàn thờ này cho Đạo hữu (Đạo hữu là bạn đạo. Chức sắc và
Tín đồ mới là cấp bực người theo Đạo) lập thệ khi được phong Chức sắc hay khi mới
nhập môn.
Đêm 13-3-Bính Dần (dl: 24-4-1926), Đức Chí Tôn dạy vì sao phải lập các phẩm
Chức sắc như vầy:
"Thầy nhứt định chính mình Thầy đến mà độ rỗi các con, chẳng chịu giao
Thánh giáo cho tay phàm. Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể có lớn nhỏ đặng dễ bề
cho các con dìu dắt lẫn nhau. Anh trước em sau mà đến nơi Bồng Đảo".
Tuy vậy, Đức Chí Tôn nhấn mạnh:
“Chẳng một ai dưới thế này còn đặng
phép nói rằng thế quyền của Thầy mà trị phần hồn cho nhân loại”.
Ngày 14-3 (dl: 25-4), Đức Chí Tôn dạy cách hành lễ Thiên phong, về sau coi
đó mà noi theo.
Trước bàn Ngũ Lôi, hai tay chấp trên trán, cúi xuống lá bùa Kim Quang Tiên
và thề.
Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Trung và thực hiện cuộc Thiên phong tại
đây, vào ngày: 14-3-Bính Dần, (Chúa nhựt: 25-4-1926). Phò loan: Cư - Tắc.
Thầy dạy: “Biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước mặt Ngũ Lôi, hai
tay chấp trên đầu, quì
ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:
"Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự
Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt, Thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước bửu pháp Ngũ Lôi rằng
làm trọn Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là Môn đệ của Cao Ðài Ngọc
Ðế, nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành Tả đạo,
như ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."
Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy, điều câu sau thì
như vầy: "Như ngày sau phạm Thiên điều, thề có Hộ Pháp đọa tam đồ bất
năng thoát tục."
ĐỌA TAM ĐỒ BẤT NĂNG THOÁT TỤC
E: To be pumished three tours of metempsychosis, without going out from
world
F: Être puni à trois tours de métempsycose, sans pouvoir sortir de monde
Ðọa Tam đồ bất năng thoát tục là Ðọa đày ba vòng luân hồi không thể thoát
khỏi cõi trần, tức là bị luân hồi từ phẩm kim thạch cho đến phẩm nhơn loại, rồi
trở lại kim thạch, luân hồi ba vòng như vậy thì mới xong hình phạt.
Câu thề “Tận đoạ tam đồ bất
năng thoát tục” để thấy sự nhiệm mầu của Đạo pháp: Chơn
linh nào bị “Tận đoạ Tam đồ” thì bị ngăn cản, không hiệp được với Chơn thần (tức
đệ Nhị xác thân) phải chuyển kiếp trở lại từ Kim thạch cho tới con người, như
thế ba vòng. Nói cách khác: là ai phạm thệ thì bị đoạ xuống cấp chót là vật chất
rồi tiến lên thảo mộc, thú cầm mới tới nhơn phẩm. Đây là một vòng. Mỗi vòng tiến
hoá như thế gọi là “Đồ” (nghiã là con đường) khoảng ngàn (1.000) năm. Ba vòng cộng
lại là ba ngàn năm (3.000 năm)
“Bất năng thoát tục” là lẩn quẩn
trong cõi đoạ đày, không trở về với Đức Chí-Tôn được. Tại sao vậy ? Bởi vì
trong ba ngàn năm “Tam đồ” Chơn linh lỗi thệ phải trả quả nghiệp, không rảnh
rang lập công mà về Thiên Đàng.
Thể hiện lời thề này là sau khi tốt nghiệp
Luật sự Pháp Chánh Hiệp-Thiên Đài, các Tân khoa phải thề
trước Cung Đạo Bát-Quái Đài, câu này:
“Chúng tôi là Luật sự Pháp Chánh thề
luôn luôn trung thành với Đạo và giữ dạ vô tư hành sự, nếu phạm lời Minh Thệ
này sẽ bị các Đấng Thiêng liêng hành pháp “Tận đoạ Tam đồ bất năng thoát tục”.
Như thế, chìa khóa "Đại ân xá, tận độ chúng sanh" được mở ra, nếu
ta biết ăn năn và tu luyện kiếp sanh trở nên tốt đẹp.
Đến thời Tý, ngày 15-3-Bính Dần (dl: 26-4-1926) Đức Chí Tôn ân phong:
- Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung)
- Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt (Lê Văn Lịch)
- Thượng Sanh Cao Hoài Sang
- Thượng Phẩm, Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ Cao Quỳnh Cư.
- Hộ Pháp Hộ giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ Phạm Công Tắc.
- Tiên Hạc phò cơ Đạo Sĩ : Trương Hữu Đức và Nguyễn Trung Hậu.
- Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư:
Vương Quan Kỳ.
- Tiên Đạo Công Thần Thuyết Đạo Sư : Đoàn Văn Bản.
Từ Xây bàn đến đây chưa tròn một năm mà cơ chế Hội Thánh đã manh nha hình
thành hai Đài: Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Đó là niềm vui lớn cho nhân
sanh, nhưng là nỗi lo cho chính quyền bảo hộ. Vì thế, Ngài Lê Văn Trung phải sắp
xếp mọi thủ tục để khai Tịch Đạo hầu
tránh mọi khó khăn sau này.
Khai tịch Đạo với chính quyền Pháp:
Tập trung nhiều người mà không có giấp phép hội họp là nỗi lo lớn của Ngài
Lê Văn Trung. Các Đàn cơ đâu thể nào tránh khỏi sự theo dõi của Mật thám Pháp.
Ông phủ Chiêu, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang biết Luật pháp chính quyền đô hộ
hơn ai hết. Dù được điểm đạo là Môn đệ của Đức Cao Đài, các Ông vẫn lánh xa các
cuộc tụ tập đông đảo. Trong tập Le Caodaisme, Thanh tra Lalaurette đã nhắc đến
các văn kiện lập qui thời đó về Tín ngưỡng dân gian:
- Điều 144 Hình luật, Quyển 6, Đoạn 6 bắt nạn nhân phải chịu xử giảo.
- Nghị định ngày 22-4-1873 cho phép truy nã những Tín đồ. Đô đốc La Font
cho mật thám trà trộn theo dõi các nơi đáng nghi ngờ. (Lalaurette et Vilmont,
Le Caodaisme,Sàigòn 1933, tr.91).
- Pháp cho Thông dịch viên Nguyễn Văn Tường, cảnh sát Trần Văn Tạ, quản
Báo, trà trộn để theo dõi Đạo nhưng rốt lại các người này lại theo Đạo và thọ
Thiên ân.
1 - ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG ĐĂNG TIÊN
Người Đệ tử Đức Cao Đài đầu tiên là Ngài Ngô Văn Chiêu. Trong đàn cơ
14-10-1926, Đức Chí Tôn dự kiến phong cho Ngài làm Giáo Tông nên dạy rằng :
"Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu, biểu nó sắm liền một bộ
Thiên phục màu trắng, có các quẻ của Bát Quái y theo Thầy vẽ, thêu bằng chữ
vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy".
Vốn là "Chiêu minh linh giác"
(ngộ đạo thấy
rõ),
Ngài biết Đức Cao Đài thử lòng đệ tử vì áo Giáo Tông chỉ vẽ là áo Tiểu phục
dành cho Ngài Lê Văn Trung sau này. Đến khi ban hành Pháp Chánh Truyền, toàn đạo
mới biết:
"Bộ Đại phục Giáo Tông thì toàn trắng, có thêu bông sen vàng từ trên tới
dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba cổ pháp là Long Tu phiến, Thư Hùng kiếm và
Phất Chủ. Đầu đội mão vàng năm từng Bát Quái".
Đức Hộ Pháp đã thuyết Đạo (1948) rằng:
"Mỗi vị tín đồ đều có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp, không lấy được là
lỗi ở mấy em, chẳng lẽ Đạo chỉ có một người cầm đầu mà người đó chết thì diệt
tiêu nền Đạo".
Nhưng phải lên ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp thế nào cho phù hợp với luật lệ Đạo.
Khi Ngài Ngô không tới thọ phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung, mãi đến ngày
29-10-1926 Đức Chí Tôn mới giao “quyền thưởng phạt đã vào tay Lý Thái Bạch".
Sau đó Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc phàm trần nhanh chóng nên
"ban quyền cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Quyền
Giáo Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có Lão".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét