Vậy các Thiên-mạng phải cố tâm trì chí, đứng trọn
trong khuôn-khổ Đạo thì mới được dễ-dàng để bước qua những trở-ngại trên phận-sự
mà thành-công một cách mỹ mãn.
Các em cứ đặt trọn đức-tin nơi Đạo rồi thì mọi việc như ý.
Trong buổi tiền khai Đại-Đạo (1925) Đức Lê-văn Duyệt cũng đã gieo niềm tin qua
bài thi:
THI
Nước nhà ta có tiếng
anh-phong,
Vẻ đẹp trời Đông sắc Lạc-Hồng.
Nam-hải trổ nhiều tay
Thánh-Đức,
Giao-châu sanh lắm mặt
anh-hùng.
Tinh-trung lửa thét thành
Bình-Định,
Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng-đông.
Văn-hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng
công.
Lê-văn-Duyệt
Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ tuần-huờn châu nhi
phục thủy, Tôn-chỉ lấy Tam giáo qui nguyên Ngũ chi Phục nhứt để đưa nhân-loại đến
Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ-trụ thì:
- Thiên khai ư Tý, trời khai vào hội Tý.
- Địa tịch ư Sửu, đất thành hình ở hội Sửu.
- Nhơn sanh ư Dần, có nhơn-loại vào hội Dần.
Thế nên buổi Khai-Đạo này Đức Chí-Tôn phái ba tướng soái đến trong cửa Hiệp-Thiên-Đài
đứng đầu ba chi Pháp, Đạo, Thế, thì:
- Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư chưởng-quản chi Đạo, tuổi Mậu-Tý (1888). Qui
thiên ngày 1 tháng 3 năm Quí-Tỵ (1929).
- Đức Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang chưởng-quản chi Thế, tuổi Tân-Sửu (1901).
Qui thiên ngày 26 tháng 3 năm Tân-Hợi (1971).
- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc Chưởng-quản chi Pháp, tuổi Canh-Dần (1890). Qui
thiên ngày 10 tháng 4 năm Kỷ-hợi (1959). Ngoài ra Đức Ngài còn là Giáo-chủ của
nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này về mặt hữu hình nữa”.
“Đạo thành do ba người” chính là ba vị Tướng-soái của Chí-Tôn đó vậy.
(Xin đọc riêng đề tài: “Đạo thành do ba người” Cùng một Soạn giả)
CHƯƠNG III
CUỘC ĐỜI CỦA THẬP NHỊ THỜI
QUÂN
Ðạo phục của Thập Nhị Thời
Quân:
Pháp-Chánh-Truyền Chú giải:
“Ðạo Phục của Thập Nhị Thời Quân có hai bộ, một bộ Ðại Phục và một bộ Tiểu
Phục.
Bộ Ðại Phục toàn bằng hàng trắng, cổ trịt viền chỉ Kim Tuyến bạc. Ðầu đội
mão quạ cũng bằng hàng trắng, lưng nịt dây lịnh sắc theo chi mình mà thả mối,
chơn đi giầy vô ưu màu trắng.
Bộ Tiểu Phục cũng toàn hàng trắng. Lưng nịt dây lịnh sắc y như Ðại Phục. Ðầu
đội mão cũng như Tiểu Phục của Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm và Thượng-Sanh, tùy theo
chi mình mà để Cổ Pháp, chơn đi giầy vô ưu màu trắng.
Khi Hành Chánh thì mặc bộ Tiểu Phục, còn Ðại Phục thì khi Ðại Lễ. Còn nhiều
vị Chơn-Quân khác hoặc đã đến rồi hoặc chưa đến, mà Ðạo Phục còn để tạm hay là
Thầy chưa quyết định, sau sẽ giải rõ.”
“Y theo Thánh Giáo ngày 13 Mars 1931 của Lục Nương Diêu-Trì-cung dạy về Mão
của Thập Nhị Thời Quân thì cái vòng tròn úp lên đầu đội là "Thế Nhựt Hình"
còn hình bán nguyệt của mão là "Thế Nguyệt Tượng".
Vậy thì gọi là Nhựt Nguyệt Mạo.”
01 Tiếp-Pháp
Tiếp-Pháp 接法
Fr: Législateur
Juridique
TRƯƠNG VĂN TRÀNG
(1893-1965)
- Ngày sinh: 25-10 Quí-Tỵ (1893)
- Qui lúc 5 giờ chiều ngày 15-01 Ất Tỵ (1965)
Quê quán: Bình Thạnh (Biên-Hòa)
Pháp-Chánh-Truyền: “Dưới quyền Hộ-Pháp có bốn vị:
- Tiếp-Pháp
- Khai-Pháp
- Hiến-Pháp
- Bảo-Pháp
Bốn vị ấy đồng quyền cùng Hộ-Pháp; khi đặng lịnh Người sai đi hành chánh,
song mỗi vị có mỗi phận sự riêng, quyền hành riêng là:
“Tiếp-Pháp là người tiếp luật lệ, đơn trạng kiện thưa, có quyền xét đoán,
coi có nên phân định hay chăng; những điều nào không đáng thì chiếu theo Ðạo Luật,
hoặc bỏ qua, hoặc trả lại cho Cửu-Trùng-Ðài; còn như đáng việc phải phân định,
thì phải dâng lên cho Khai-Pháp định đoạt.”
Ðiều Thứ Bảy trong Hiến-Pháp qui định:
“Trách nhậm của Tiếp-Pháp là giúp cho sự ban hành Ðạo Pháp và yêu cầu sửa đổi
những điều lệ nào bó buộc quá lẽ và khổ khắc nhơn sanh trước mặt Luật Pháp”.
Bài
Thài hiến lễ:
TIẾP điển Trời ban độ
chúng sanh,
PHÁP luân thường chuyển rạng
Thiên-Đình.
CHƠN như đắc vị nhàn Tiên
cảnh,
QUÂN Thánh Thần minh kiến
Đạo thành.
Tiếp-Pháp Chơn-Quân.
Ngài Tiếp-Pháp giáng Cơ cho bài Thài này ngày 16-01 Quí Tỵ (dl 17-02-1965
lúc 9 giờ đêm)
A - Tiểu sử Ngài Tiếp-Pháp
Trương văn Tràng:
1 - PHẦN ĐỜI:
Ngài Tiếp-Pháp Chơn-Quân thế danh là Trương Văn Tràng, sanh ngày 25-10
Quý-Tỵ (1892) tại Bình Thạnh (Biên Hòa).Thân phụ là Trương văn Tịch và Thân mẫu
là Trần thị Lịnh. Ngài xuất thân trong một gia đình Nho-phong. Thuở thiếu thời
theo học Hán văn với người cậu. Kịp đến khi nền văn hoá nước nhà bước sang giai
đoạn tiến triển, hầu hết mọi người dân Việt-Nam đều hưởng ứng nhiệt liệt. Phụ mẫu
ông cho theo học Việt và Pháp tại trường Tổng, kế là trường Tỉnh.
Khi ra trường, phụ mẫu Ngài định lo bề gia thất và cũng bắt đầu từ đó ông
làm việc tại Sở Hỏa Xa Đông Dương (Sài gòn) và ông còn ghi tên học trường Hàm
Thụ ở Pháp.
Tuy sự sanh hoạt cũng gặp nhiều điều trở ngại, nhưng nhờ lòng kiên nhẫn và
chí hy sinh nên lúc nào cũng cố gắng phát triển khả năng để phục vụ sở hành
theo phương châm Nho giáo, nhứt là tinh thần Đại học, Trung dung “Kính sự như
tín” nghĩa là làm việc phải hết sức chăm-chỉ và thận trọng.
Nhờ sự tận tâm phục vụ nên về sau được liệt vào hàng Thông phán nhứt hạng rồi
hồi hưu và trước khi đăng Tiên ông vẫn còn hưởng hưu bổng.
Năm 1925, tại nhà Đức Cao Thượng-Phẩm ở Sài-gòn, mỗi đêm đều có Ngài Phạm
Công-Tắc (Hộ-Pháp) và Ngài Cao Hoài Sang (Thượng-Sanh) đến Xây bàn để cầu các Đấng
vô hình xin thi phú và tiêu khiển thời gian, nhưng ông Trương văn Tràng không dự
thường xuyên được và bận làm việc ở Sở Hoả xa đồng thời học hàm thụ ở École par
Correspondant de Paris, nước Pháp.
2 - PHẦN ÐẠO:
Phong trào Xây bàn để cầu các Đấng về cho thi phú cùng xướng hoạ với nhau
thật là tâm đắc. Lúc này các Đấng giáng dạy về phương pháp Cầu Cơ, tiện dịp tiếp
các đấng thiêng liêng, thế nên các bậc tiền bối rất là thoả mãn.
Vào một đêm kia tại tư gia Ngài Khai-Pháp Trần Duy nghĩa, Ngài gặp Đức Phạm
Hộ-Pháp và Đức Cao Thượng-Phẩm đang phò cơ liền vào quỳ lạy được Đức Chí-Tôn
kêu tên
“Con hãy sửa soạn đi theo mấy anh con mà hành Đạo”.
Nhờ đó, lòng chuộng Đạo được phát triển Đức Chí-Tôn chỉ định cho Ngài cùng
Trần Khai-Pháp là cặp cơ phổ-độ.
Ngày 25-12-1926 Ngài được đắc phong Tiếp-Pháp tại Từ Lâm Tự (Gò-kén - Tây
Ninh). Tuy phải bận sinh kế, Ngài vẫn hằng lo nghiệp Đạo, nên lập tại Cây Đào
(Biên Hòa) một Thánh Thất hiện nay vẫn còn.
Năm 1949, Ngài trọn phế Đời hành Đạo, được Đức Phạm Hộ-Pháp, Chưởng-Quản Nhị-Hữu
Hình-Đài giao làm bí thư. Năm 1953, Ngài Trần Khai-Pháp liễu Đạo, Ngài cầm quyền
Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh..
Năm 1956, Đức Phạm Hộ-Pháp xuất ngoại, cơ Đạo bất an, Ngài lui về nghỉ tạm.
Đến tháng 4 năm 1957, trở lại cầm quyền Bộ Pháp Chánh. Ngoài việc lo hành chánh
Đạo, Ngài còn gia công sáng tác nhiều sách Đạo, nhất là quyển “GIÁO LÝ ĐAỊ-ÐẠO”
được Đức Phạm Hộ-Pháp và nhiều học giả tán thưởng.
B - Ngài TIẾP-PHÁP ngoạ bịnh
Qua cuối mùa thu năm Giáp-Thìn (1964) Ngài Tiếp-Pháp Trương văn Tràng ngoạ
bịnh điều trị tại nhà thương Phạm Hữu Chương (Chợ-lớn) kế qua nhà thương Grall
(Đồn đất) Sài-gòn. Bịnh tình ngày càng gia tăng mãnh liệt, gần như tuyệt vọng.
Ngài xin với Hội-Thánh cầu một đàn cơ để cầu xin thiêng liêng cho thuốc chữa trị.
Hội-Thánh chấp thuận, liền thiết đàn Cơ tại Giáo-Tông-Đường.
Ngài Khai-Pháp giáng Cơ dạy Hội-Thánh xuống nhà thương Crall rước Ông về
Tòa-Thánh cầu nguyện và dùng thuốc Nam. Lời dạy ấy nhằm ngày 4-01-1964. Sau 7
ngày, làm đúng như lời dạy, bịnh tình Ngài Tiếp-Pháp khỏi hẳn.
Ngài Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa và Tiếp-Pháp Trương văn Tràng là một cặp Cơ
Phổ-Độ từ buổi Khai-Đạo. Ngài Khai-Pháp dầu đã Qui Thiên, nhưng lúc nào cũng
quan tâm đến bạn đồng môn còn tại thế.
Sau khi bình phục Ngài Tiếp-Pháp có làm mấy bài thi để tỏ lòng biết ơn Hội-Thánh
và tất cả đã lo cho Ngài:
THI
1 .
Đường đời khúc-khuỷu biết
đâu lường,
Trên có Huỳnh-Nương hết dạ
thương.
Khai-Pháp Chơn-Quân truyền
diệu lý,
Quần Tiên rưới phước hộ
Thiên-lương.
2 .
Trời chiều bảng-lảng bóng
thiều-quang,
Tiếng trống thu không giục
khách nhàn,
Đoái lại chúng sanh thiên
vạn ức,
Vẫn còn bận bịu với thời
gian.
Tiếp-Pháp Trương-Văn-Tràng
Đây thật là một huyền diệu thiêng liêng dành cho người có lòng tín ngưỡng
chân thành mới tiếp nhận được mà thôi. Cho hay ở thế kỷ 20 này dầu khoa học cực
thạnh, phát minh cơ giới cực kỳ tinh xảo, nhưng người Đạo Cao-Đài vẫn câu thông
được với các Đấng huyền linh bằng một đức tin tuyệt đối, bằng một sự tín ngưỡng
chân thành thì lúc nào cũng nhận được huyền diệu vô biên của Đức Thượng-Đế.
Ngài Tiếp-Pháp bình phục sức khoẻ vào đầu tháng chạp năm Giáp-Thìn đến rằm
tháng giêng năm Ất-Tỵ (16-2-1965) thì Ngài thoát trần vào 5 giờ chiều. Sự cứu rỗi
của thiêng liêng cho mọi người thấy rằng Đấng tạo đoan lúc nào cũng hộ trì,
nhưng căn số phải về chầu Bạch Ngọc thì không cưỡng lại được. Tuy nhiên Ngài
cũng biết trước được thời gian qui Thiên, mấy tháng trước Ngài đã chuẩn bị sẵn
sàng một Tòa liên đài để gởi xác thân Ngài vào nơi đó.
C - VĂN NGHIỆP:
Ngoài thì giờ phụng sự cho Đạo nghiệp của Đức Chí-Tôn. Ngài Tiếp-Pháp đã
lưu lại mấy quyển sách, được các bậc tiền bối để lời giới thiệu.
1 - Quyển GIÁO-LÝ ĐẠI-ĐẠO
xuất bản năm 1950 được
Lời giới thiệu của Đức Hộ-Pháp
khi xuất bản lần I:
“Quyển sách sơ lược, tuy chưa đem trọn
hình Chơn pháp, nhưng đã giảng giải đủ mọi phương tu niệm. Vậy nó sẽ giúp ích
cho độc giả sưu tầm Chơn lý đặng bước vào “Bí Pháp Chơn Truyền”. Ấy là chìa
khóa mở cửa hữu hình thông qua Thế giới huyền linh vô tả.
Xin đề lời cùng cả Tín đồ và Chức sắc, nên đọc và đào luyện tinh thần hầu
mai hậu hưởng phần siêu thoát.
Cho phép in và ấn tống.
Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 8-6-1948
Hộ-Pháp PHẠM CÔNG TẮC
(ký tên và đóng dấu)
Lời giới thiệu khi tái bản lần III của Đức Thượng-Sanh
Tặng quyển “GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO” của Ông TIẾP PHÁP TRƯƠNG VĂN TRÀNG
“Giáo lý” Đạo Trời thất ức
niên,
Trương Quân biên soạn để
lưu truyền.
Tồn tâm chỉ rõ đường mê
giác,
Dưỡng tánh phân rành nẻo tục
Tiên.
Vẹt ngút mây mù nâng đuốc
huệ,
Gắng công học hỏi đáng tài
hiền.
Noi theo chánh thuyết bền
trau luyện,
Mới đạt chân tu phép diệu
huyền.
Tòa Thánh ngày 14-8 Kỷ Hợi (26-9-1959)
Lời giới thiệu khi tái bản
lần thứ tư của Ông Bảo-Thế LÊ THIỆN PHƯỚC.
“Học Đạo là tìm hiểu Chơn lý và một khi thấu triệt rồi thì không còn vui
thú nào ở thế gian sánh kịp. Nhờ vậy, người hành đạo mới dám hy sinh những cái
gì ràng buộc Thần trí và Tâm hồn, ngõ hầu giải thoát cảnh trầm luân bể khổ, đặng
qui hồi nguyên bổn.
Từ xưa đến nay, đã có nhiều Tôn giáo xướng xuất nhiều phương hướng dìu dẫn
nhơn sanh trong trường xử sự, tiếp vật theo Đạo hóa sanh của Trời. Song le, văn
minh vật chất càng ngày càng tiến triển như hiện giờ, khoa học gần như muốn chiếm
đoạt cơ mầu nhiệm của Tạo Đoan, thì trái lại, tinh thần Đạo Đức của nhơn sanh
ngày càng lu mờ, mặc dầu, các Tôn giáo kia đã tận lực giáo nhơn qui thiện.
Đại-Đạo Tam-Kỳxuất thế, với một yếu lý qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi, thành thử
những tu sĩ của nền Tân Tôn Giáo nầy không còn phân biệt Giáo phái, tức là coi
nhau như bạn thân, đồng theo một khuynh hướng “Cứu nhơn độ thế”. Lẽ dĩ nhiên, Đạo
Cao Đài phải có một Giáo lý phù hạp với trình độ của nhơn sanh hiện tại đặng
chuyển đọa vi thăng, tiêu trừ nghiệp chướng. Huynh Tiếp-Pháp Trương Văn Tràng
đã dày công soạn quyển Giáo lý nầy, cốt yếu để giúp cho các bạn tu sĩ, khỏi lầm
lạc trên đường học Đạo.
Sách nầy đáng truyền bá các nơi, dầu nơi gia đình Đạo giáo, hay gia thất
bàng quan, đều nên đọc nó, bất luận là lúc nào, trong đời mình sẽ thấy nó là
nguồn an ủi, để sửa mình khi rủi lâm vấp tội tình, hoặc nó sẽ làm kim chỉ nam,
để vạch lối cho kẻ Hành giả đem Ta giả hiệp trở về cái Chơn thật bổn ngã.”
Tòa Thánh, ngày 28 tháng 8 năm Kỷ Hợi (dl. 30-9-1959)
QUYỀN ĐẦU SƯ CỬU TRÙNG ĐÀI
Bảo-Thế
Ký tên: LÊ THIỆN PHƯỚC
Tựa Của Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
“Sự xuất hiện của Đại-Đạo Cao-Đài ở miền Nam Việt-Nam cách đây chưa đầy nửa
thế kỷ, mà sức cảm hóa lan tràn mau lẹ. Tín đồ Nam, Trung, Bắc lên tới hàng triệu,
thực là một hiện tượng tâm lý xã hội hết sức lạ kỳ. Đấy chẳng phải nhờ tài truyền
giáo của người mà là một năng lực huyền diệu tâm linh như là ba động, gọi ba động
theo định luật Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu vậy.
Một Đạo sĩ danh tiếng Ấn Độ bảo: Nếu ai ngồi trong hang núi hẻo lánh ngày
đêm tâm tâm niệm niệm một ý niệm, ý niệm ấy sẽ tập trung hết năng lực tinh thần
trở nên một ý tưởng lực xuyên sơn quá hải, như một điện lực để tràn vào xã hội,
tìm nhập vào tâm hồn đồng điệu như tia chớp bắt vào ngọn thu lôi mà ảnh hưởng
khắp cả.
Đạo Cao Đài ngày nay mà giáo-lý cơ bản là tinh thần tổng hợp “Tam Giáo Đồng
nguyên” vốn đồng điệu với tâm hồn nhân dân nông nghiệp Việt-Nam. Cái điệu nhạc
tinh thần ấy vốn gốc rễ sâu xa trong tinh thần truyền thống dân tộc, cho nên một
giáo sư Pháp trường Viễn Đông Bác Cổ, Mr. Durand đã nhận xét về tâm hồn Việt
Nam rằng:
“Nói rằng tâm hồn Việt Nam do một tổng hợp ảnh hưởng của ba hệ thống: Nho,
Phật, Lão, chi phối thực là một điều đã trở nên điển hình vậy”. Maurice Durand
Bulletin Etudes - Indochinoises - Saigon 1953.
Nhưng sự thật Tín đồ Cao Đài đại đa số là nông dân mà nông dân thì không có
học, cho nên họ bảo họ chịu ảnh hưởng của ba hệ-thống tư tưởng bác-học chính yếu
Á Đông thì cũng khó hiểu. Xét kỹ, trước khi có ba hệ thống trên du nhập vào đất
cố đô của nòi giống Việt là đất Giao Châu (Bắc Việt) thì ở đấy như các nhà khảo
cổ đã khai quật tại Thanh-Hóa và Bắc-Ninh hai di tích văn minh là văn minh Đông
Cổ và văn minh Cổ Mộ. Đông Cổ tượng trưng cho tín ngưỡng Hồn nước linh thiêng
và Cổ Mộ đại diện cho sùng bái Hang động thiên nhiên. Cả hai khuynh hướng đã sẵn
chung một cơ sở “Linh” từ Tổ Tiên cho đến Thần Tiên. Do đấy mà nhân dân Việt
Nam “Sống trong siêu nhiên” (Vit dans le surnaturel) (1) như Linh Mục Leopold
Cadière đã kết luận hay là như Alfred Meynard đã nhận định: “Người Đông phương
đã đem vô hình vào đời sống hằng ngày của họ”. (L'Oriental a fait entrer l'invisible dans son
existence quotidienne). (2)
Chính đấy là nguồn
gốc sâu sa của tín ngưỡng Cao Đài hợp Đời với Đạo vào
một nguồn tâm linh:
Đời, Đạo nên lo nối bước
theo,
Đời không Đạo Đức chịu
mang nghèo.
Đạo, Đời tương ứng thành
an trị,
Đời, Đạo thấp cao cũng rán
trèo.
Đại Thừa Chơn Giáo.
Nhưng tín ngưỡng Cao Đài sau khi thâu hóa ba hệ thống Giáo lý căn bản Đông
Phương và thống nhứt vào tín ngưỡng Tâm linh truyền thông dân tộc, đã luôn luôn
trung thành với tinh thần Đạo học Đông phương là Giác mà Tin, chẳng phải mê tín
như lời Thầy cảnh tỉnh:
Tiếng chuông khải ngộ thức
hồn mê,
Trống đổ kêu mau kíp trở về.
Giác thế hồi tâm hành hướng
thiện,
Mê nơi cõi tục khổ trăm bề.
Tiếng Trống Giác Mê.
Cũng vì mục đích Giác Mê mà Cụ Tiếp-Pháp Trương văn Tràng đã cố công soạn
ra tập sách “GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO” nầy rất công phu, có mạch lạc thứ tự, đã giản dị
lại thâm thúy, hơn nữa tất cả giá trị không ở tại công trình nghiên cứu mà còn
là kinh nghiệm bản thân tu luyện suốt một đời của tác giả, thực đáng là những
bài học Đạo đức sống, linh động cho kẻ học Đạo vậy.
Cụ đã quá yêu, có nhã ý cho phép tôi đề tựa. Tựa thì tôi đâu dám, bất quá
có vài lời phụ họa để khỏi phụ lòng tri ngộ của một bậc lão thành vậy”.
NGUYỄN ĐĂNG THỤC
Gia Định, ngày 5-9-1964.
2 - Quyển Trên Đường Tấn
Hoá
Được sự tán thưởng của Ông Hiến-Pháp TRƯƠNG HỮU ĐỨC
“Tôi rất hân hạnh được xem quyển “TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA” do bạn Tiếp-Pháp
Trương Văn Tràng sáng tác.
Trong lúc Đạo CAO ĐÀI đang thiếu sách phổ thông, quyển sách nầy ra đời rất
là cần ích cũng như bất luận sách nào, thuộc loại khảo sát về đạo lý, hà huống
tác giả là một Chức Sắc cao cấp trong Đạo thì giá trị của tác phẩm ấy xứng đáng
là dường nào!
Điều nên nhớ là “Đăng chúc cầu minh, đọc thơ cầu lý”. Cái hay của quyển
sách không phải chỉ xem qua rồi nhận xét được, mà cần phải suy nghiệm ý tứ và lời
lẽ. Bất luận trong một quyển sách nào cũng vậy, cái yếu lý của nó chỉ quy vào một
điểm mà thôi, chớ không phải ở toàn bộ cuốn sách, cho nên mới có câu “Đọc thơ cầu
lý” là vậy.
Một lần nữa, tôi rất hân hạnh được giới thiệu tác phẩm này cùng bạn đọc.
Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
LỜI PHI LỘ của Ông Bảo-Thế
LÊ THIỆN PHƯỚC
“Trần tục là cõi sầu than khổ lụy dành cho các Đấng vô hình vì bị tội lỗi,
lạc lầm mà phải sa đọa đặng tìm phương giải thoát trầm luân qui hồi cựu phẩm.
Trần tục cũng là trường thi công đức, dành cho khách phàm trả nợ tiền khiên, dứt
đường oan trái đặng lập vị thiêng liêng khỏi luân hồi chuyển kiếp.
Khái niệm như trên thì bao nhiêu khổn trần là bấy nhiêu bài học, mặc dầu mặn
đắng chua cay, nhưng cứu cánh là cảnh tỉnh người trí, rút lấy kinh nghiệm, quay
về đời sống thuận theo Thiên lý, bỏ đời sống dựa theo nhục dục. Thiên lý là Đạo,
nhục dục là tội tình. Đạo thì mãi còn, tội tình thì sớm mất.
Vả lại, Đạo không xa người, duy người xa Đạo, nên sách rằng: "Đạo giả
dã bất khả tu du ly dã. Khả ly phi Đạo dã". Bởi đó:
- Người không Đạo thì xử sự không hợp lý, hợp tình.
- Nhà không Đạo thì luân thường đảo ngược.
- Nước không Đạo thì chơn trị không còn.
Vậy thì ngày nào con người còn mạnh tranh trên thị trường cơm áo đất đai;
ngày nào thiên hạ còn nhị phân lý tưởng, chưa hòa đồng trên một độc nhứt kế hoạch
tồn sinh, thì khó trông mong tái lai ngày quang đãng.
Ánh Thái Dương rọi sáng khắp nơi, nẻo Đạo-đức dễ tìm khắp chốn, nhưng nhơn
tâm còn lắm say sưa trong phồn hoa ảo mộng, thì phương tối hậu để vén màn hắc
ám là nhờ năng lực tinh thần của Tôn giáo.
Từ thử nhiều Tôn giáo đã đem hết thiện chí trợ khổn cho đời, nay ĐẠI ĐẠO
TAM KỲ PHỔ ĐỘ cũng cùng theo một chí hướng.
Với mục phiêu ấy và thể theo những nhà khảo cổ tiền nhân Việt-Nam trong thế
kỷ XX, Trần Trọng Kim (Phật Giáo), Phan Bội Châu (Khổng Học Đăng), Đạo huynh Tiếp-Pháp
Trương Văn Tràng góp nhặt tài liệu tinh hoa của TAM GIÁO soạn thành quyển TRÊN
ĐƯỜNG TẤN HÓA giải rành phương châm nhập thế và xuất thế. Cả hai phương châm đều
thích hợp với sở cầu của các giới trong đại chúng, từ bậc ưu thời, mẫn thế; bậc
tu sĩ phế đời, đến bậc thường nhơn, không giới nào đọc sách nầy mà không thỏa
chí, vui lòng.
Quyển TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA sẽ góp thêm một bửu vật trong kho tàng của TÔN
GIÁO.
TÒA THÁNH, ngày 3 tháng 3 năm Quý Mão
(27- 3 - 1963 d.l.)
Bảo-Thế Lê Thiện Phước
Lời giới thiệu của NGUYỄN ĐĂNG THỤC Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa SAIGON
“Văn hóa Đông Nam Á vốn có khuynh hướng truyền thống là tinh thần hợp hóa;
cái tinh thần mà một bài cổ thi Chà-và Autasoma đã toát yếu vào khẩu hiệu điển
hình "Bhinueka Tunggal Ika" Đồng nhất trong sai biệt! Cái tinh thần
mà năm thế kỷ Lý Trần trong lịch sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam đã lấy làm
Quốc học Tam giáo.
Cái tinh thần mà học giả danh tiếng Lê Quí Đôn (1726-1784) đã nhắc lại:
“Thù đồ đồng qui, nhất trí bách lự”. Đường khác cùng về, trăm nghĩ đến một.
Cái tinh thần mà gần đây đã biểu hiện ra nơi nhân dân miền Nam, thành một
Tôn giáo hằng triệu Tín đồ, nhất đán bỏ mặn; ăn chay.
Cái tinh thần ấy là một thực kiện nhân văn linh động, thâm sâu không phải một
chủ nghĩa phù phiếm vậy.
Mới đây tác giả ‘TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA” là cụ Tiếp-Pháp Trương Văn Tràng trong
Tây Ninh, có nhã ý đem cho tôi đọc tập khái luận về Triết lý Tam giáo của cụ.
Vốn mộ Đạo lý từ lâu và từ lâu mong mỏi phụng sự truyền thống văn hóa dân tộc,
tôi lấy làm hân hạnh được giới thiệu với độc giả cái Triết lý uyên thâm sâu rộng
của
Tam giáo:
- Nho vì nhân sinh,
- Lão vì thiên nhiên vũ trụ,
- Phật vì tâm linh siêu nhiên.
Tuy ba mà là một, nền tảng chung của triết học truyền
thống Á châu, triết học ấy không phải là những hệ thống danh lý khái niệm lạnh
lùng mà là những đường lối thực hiện nguồn sống vô hạn tràn ngập khắp hết các
trình độ hiện sinh, vật lý, sinh lý, tinh thần và siêu tinh thần, cho nên nó
đòi người ta phải thông cảm với cả tâm tình và lý trí.
Để trình bày cái Triết lý Tam giáo ấy là cơ sở của Đạo Cao Đài thì không ai đủ tư cách
hơn là một nhà Tiếp-Pháp đã đem đời sống cống hiến cho Đạo, cố thực hiện Giáo
lý của Khổng Tử.
"Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ".
Nay giới thiệu
(Ký tên)
NGUYỂN ĐĂNG THỤC
Riêng soạn giả “Trên Đường Tấn Hoá” viết:
…Trong quyển "TRÊN ĐƯỜNG TẤN HÓA" nầy, chúng
tôi muốn nói sự tấn hóa của một cá nhơn theo đạo tự nhiên Trời Đất, nghĩa là kẻ
học phải bắt chước Đạo Trời để sửa đạo người, lần
hồi tiến bộ: từ chỗ dở đến chỗ hay; từ chỗ tối đến chỗ sáng, làm cho mình có một tinh thần chí Chơn, Thiện, Mỹ, vượt lên trên những tục lụy trần ai và chung qui cầu sự giải
thoát kiếp Luân hồi ra ngoài vòng sanh tử, đặng trở về
cảnh an nhàn tự tại, Phật gọi là Niết Bàn, hay Cực Lạc Thế Giái.
Vậy phải học hỏi cách nào để biết Đạo Trời mà làm theo?
Muốn học Đạo Trời, một mặt chúng ta phải quan sát sự vật ngoài thế giái vạn hữu,
tìm biết luật tự nhiên tiềm tàng trong muôn loài. Khoa học thực nghiệm chứng
minh rằng trong võ trụ có điện khí, nguyên tử v.v... Chúng ta nương theo khoa học thực nghiệm để tìm học về phương diện nầy.
Một mặt khác, chúng ta quay về nội giới, tìm hiểu cái Dịch lý của tâm lý và
sanh lý; ý hội nội giới và ngoại giới để biết Đạo Trời và đạo người rồi tận lực
tu tập thân tâm của mình cho đến chí Chơn, Thiện, Mỹ”
Kết luận:
Cả một đời Ngài Tiếp-Pháp đã hy sinh cho đạo nghiệp của Chí-Tôn, phụng sự
chúng sanh nên chẳng quản tiếng đời miệng thế dèm pha, lúc nào cũng cố gắng tu
học siêng năng, Ngài có biên soạn mấy quyển sách Đạo lưu lại cho đời thật là ơn
ích. Mới thấy kiếp tằm dâu luôn nặng nợ
Thi rằng:
Cõi trần thui thủi tháng
cùng năm,
Tu niệm đòi phen nhỏ lệ dầm.
Chi quản thế tình đời khinh thị,
Nào mơ cõi tục cảnh thăng trầm.
Con đường Đại-Đạo miên trường tiến.
Cái nẻo Thần Tiên vĩnh cữu
thâm,
Giấc mộng trần ai trong cõi tạm,
Việc đời muôn sự nỗi niềm
cam.
Tiếp-Pháp
Thật ra trong mấy năm đầu hành Đạo: từ năm 1928 về sau
vừa lo việc Đạo, vừa làm Đồng tử cho Đức Chí-Tôn truyền Đạo, người Pháp cũng
luôn theo dõi hành động của những bậc tu hành này không ít. Nhưng khi đọc qua lời giới thiệu sách cũng đủ thấy sự quan trọng là đường
nào!
02- Khai-Pháp
Khai-Pháp 開法
(Fr: Réformateur Juridique)
TRẦN DUY NGHĨA
(1888-1954)
Ngày sinh:17-8 Mậu-Tý (Dl 11-9-1888)
Ngày Qui: 22-1
Giáp Ngọ (dl 24-2-1954) 3g30 sáng.
Tiền Kiếp Ngài
Khai-Pháp Trần Duy Nghĩa là ngươn linh Thánh Pierre, một
trong 12 vị Thánh Tông Ðồ của Chúa
Pháp-Chánh-Truyền:
“Dưới quyền Hộ-Pháp có 4 vị :
“Khai-Pháp khi tiếp đặng luật lệ, đơn trạng kiện thưa của Cửu-Trùng-Đài định
xử hay là đã xử nơi Tiếp-Pháp dâng lên, thì quan sát coi nên cho cả Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài
biết cùng chăng? Như đáng việc thì tức cấp nhứt diện tư tờ cho Cửu-Trùng-Đài
xin đình đãi nội vụ lại bao lâu tùy ý, song chẳng đặng phép quá 15 ngày, nhứt
diện trình cho Hộ-Pháp hay, đặng Hộ-Pháp mời nhóm Hiệp-Thiên-Đài thì Khai-Pháp
phải khai rõ nội vụ ra cho Hiệp-Thiên-Đài quyết định, như quyết định phải sửa cải
luật lệ hay là buộc án thì Khai-Pháp phải dưng lại cho Hiến-Pháp.” (PCT)
Bài Thài hiến lễ:
Đã chán công danh dưới
phép người,
Đem thân cửa Phạm để nên
nơi.
Lóng chuông Bạch-Ngọc hồi
hồn tục,
Nghe trống Lôi-Âm tỉnh mộng
đời.
Nắm pháp Thiêng-Liêng dìu
Thánh vị,
Cầm Cân Công-lý giữ ngôi
Trời.
Dầu chưa trọn nghĩa
Thiên-Thơ định,
Giác ngộ vui theo cũng kịp
thời.
Khai-Pháp Chơn-Quân
Đức Hộ-Pháp mừng cho Ngài Khai-Pháp đoạt Đạo:
…“Thật sự hôm nay Đức Khai-Pháp Chơn-Quân đã hưởng được hạnh phúc mà Bần Đạo
đã tả ra khi nãy đó. Cái hạnh phúc chơn thật của Ngài hôm nay hưởng được, trái
lụng lại chúng ta buồn thảm chia ly về phần xác, mà Bần Đạo lấy làm hân hạnh
phúc hậu vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo.
Khai-Pháp Chơn-Quân đã đoạt Đạo tại thế đó vậy!
Bần Đạo làm chứng cho toàn thể con cái Đức Chí-Tôn điều ấy” (28-1 Giáp-Ngọ
dl 2-3-1954)
A - Tiểu sử của Ngài
Khai-Pháp Trần Duy Nghĩa
1 - PHẦN ĐỜI:
Ngài Khai-Pháp quí danh là Trần Duy Nghĩa, sanh năm Mậu Tý (1888) tại làng
Thành Phô, tổng Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công.Trưởng thành trong một gia đình Nho
phong. Thân phụ là Ông Trần-Duy-Quyền và Thân mẫu là Bà Đặng thị Lâu, đều ở Gò
Công.
Hiền nội của Ngài Trần duy Nghĩa là Bà Hồng thị Đỏ (Cô ruột của Cựu Đại Tá
Hồng Sơn Đông). Hai Ông Bà chỉ sanh được một người con trai, đặt tên là Tháp,
nhưng chẳng may mất sớm lúc mười mấy tuổi. Hai Ông Bà không sanh con thêm, nên
xin 2 người con gái để làm con nuôi :
- Một người tên Nguyễn thị Lụa, là cháu ruột kêu bằng Dì của Bà Hồng thị Đỏ.
- Một người tên là Trần thị Huê, là cháu ruột của Ngài Trần duy Nghĩa.
Đức tính ông hòa hoãn, đạo hạnh, làm thơ ký Sở Hỏa Xa Sài gòn, được bạn đồng
sự yêu mến, tư gia Ngài bên cạnh ga xe lửa, hiện nay là tiệm cơm chay TÍN NGHĨA
(đường Trần Hưng Đạo, Sài gòn).
2 - PHẦN ÐẠO:
Năm Bính Dần (1926), Đức Phạm Hộ-Pháp vâng lịnh Đức Chí-Tôn đi xuống Gò
Công tìm Ngài Trần Duy Nghĩa. Vì Ngài là một nguyên nhân giáng phàm có nhiệm vụ
tiền định, nên Ngài liền vâng chịu đi theo Đức Phạm Hộ-Pháp về Tòa Thánh Ngài
nhập môn cầu Đạo và đắc Thiên Phong Khai-Pháp Chơn-Quân (1926) phò cơ phổ-độ.
Và kể từ đó, Ngài luôn theo sát Đức Phạm Hộ-Pháp để hành Đạo.
Ngài Trần Duy Nghĩa được Thiên phong Khai-Pháp, cùng một lượt với chư vị Thời-Quân
khác khi Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài ngày 12 tháng Giêng
năm Đinh Mão (dl 13-2-1927).
Ngài hợp cùng Ngài Tiếp-Pháp Trương văn Tràng thành cặp Phò-loan truyền Đạo
lúc ban sơ và sau đó trở thành cặp Phò loan chuyên về Bí Pháp.
- Năm 1930 Ngài nhận lãnh trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối-Sư vì Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
thiếu Chức sắc cao cấp để tránh sự khủng hoảng Hành Chánh Đạo.
- Ngày 4-2-1933 Hội-Thánh nhóm giao cho cầm quyền Ngọc Chánh Phối-Sư do Đạo
Nghị định thứ 9, 12, 21 và 24 do Thánh Thơ số 5 đề ngày 22 Mars 1933 của ba vị
Đầu-Sư.
Ngày 17 tháng Giêng Quí-Dậu (dl 11-2-1933) Đức Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung
hiệp cùng với Đức Phạm Hộ-Pháp đồng ký tên ra một Thông Tri thăng phẩm Quyền Đầu-Sư
cho ba vị Chánh Phối-Sư là: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang
Thanh. Như vậy, ba phẩm Chánh Phối-Sư bị khuyết, nên tạm cử ba vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài
qua Cửu-Trùng-Đài đảm nhiệm ba chức vụ kể trên. Thông Tri ấy có đoạn như sau:
“Việc giao quyền hành Chánh-Phối-Sư cho ba Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài là việc
của Hội-Thánh mới định hôm kỳ nhóm ngày 9 tháng Giêng rồi đây, nhằm ngày
4-3-1933. Ba Chức sắc ấy là:
. Khai-Thế Thái văn Thâu, lãnh phận sự Thượng Chánh Phối-Sư.
. Khai-Pháp Trần duy Nghĩa, lãnh phận sự Ngọc Chánh Phối-Sư.
. Khai-Đạo Phạm tấn Đãi, lãnh phận sự Thái Chánh Phối-Sư”.
Đạo Nghị Định của Đức Hộ-Pháp số 56 ngày 23-9 Ất-Hợi (dl 20-10-1935), Ngài
Khai-Pháp Trần duy Nghĩa trở về Hiệp-Thiên-Đài...
Đạo Nghị Định của Đức Hộ-Pháp số 46 ngày 21-8 Bính-Tý (dl 6-10-1936), Ngài
Khai-Pháp được giao nhiệm vụ Thẩm Án Tòa Đạo và tạm quyền Chưởng quản Cơ Quan
Phước-Thiện cho tới ngày có một vị Thời Quân (Chi Đạo) thay thế.
Năm 1937 Ngài trở về Hiệp-Thiên-Đài nhận chức Chưởng Quản Phước-Thiện. Nhờ
đức tánh hòa ái, Ngài được trên dưới kính mến. Có thể nói cho đến ngày nay, các
Tín hữu Phước-Thiện vẫn còn luyến tiếc một Chơn-Quân mẫn cán tài năng, dìu dắt
Cơ quan vững bước trên đường Đạo sự.
Ngày 17-6 Tân-Tỵ (dl 11-7-1941) lính Mật Thám Pháp vào Tòa Thánh bắt bốn vị
Chức sắc:
- Phối-Sư Ngọc Trọng Thanh,
- Giáo Sư Thái Gấm Thanh,
- Giáo Sư Thái Phấn Thanh
- Sĩ Tải Đỗ quang Hiển,
Đồng thời ở Sài gòn, chúng đến bắt Ngài Khai-Pháp tại tư gia của Ngài. Lúc
đó, Đức Phạm Hộ-Pháp đã bị chúng bắt trước đó gần nửa tháng, tức là ngày
4-6-Tân Tỵ (dl 28-6-1941).
Ngày này, chánh quyền Pháp đưa Đức Hộ-Pháp, Ngài Khai-Pháp và bốn vị Chức-sắc
lưu đày ra hải-đảo Madagascar, Mã đảo bên Phi Châu, trên chiếc tàu Compiège .
Trong thời gian bị lưu đày nơi Mã đảo, Ngài Khai-Pháp và Sĩ Tải Đỗ quang Hiển
luôn luôn kề cận bên Đức Phạm Hộ-Pháp để giúp đỡ và cùng chia xẻ những nỗi đau
buồn khổ cực. Sĩ Tải Đỗ quang Hiển và Giáo Sư Thái Gấm Thanh đã chết tại đảo.
Sĩ Tải Đỗ quang Hiển đắc Thánh vị. Đức Hộ-Pháp bị chúng khép vào tội chánh-trị
cùng với Ngài Khai-Pháp đó chỉ là hình thức hạn chế việc phát triển nền Tân
Tôn-giáo. .
Ngày 25-7 Bính-Tuất (dl 21-8-1946) Đức Hộ-Pháp, Ngài Khai-Pháp và hai vị Chức
sắc còn lại là Phối-Sư Ngọc Trọng Thanh và Giáo Sư Thái Phấn Thanh, sau hơn 5
năm 2 tháng bị lưu đày, được Chánh quyền Pháp đưa trở về Việt Nam trả tự do, đi
trên chiếc tàu Ile de France, cặp bến Vũng Tàu.
Ngày mùng 4-8 Bính-Tuất (dl 30-8-1946), Chánh quyền Pháp đưa bốn vị từ Sài
gòn về Tòa Thánh. Hội-Thánh và đông đảo tín đồ tổ chức Lễ nghinh tiếp vô cùng
long trọng và hết sức cảm động.
Sau những năm tù đày khổ hạnh, nhưng khám đường chỉ là nơi nung rèn khí tiết
đối với các Ngài.
Sau đó, Ngài lại nhận nhiệm vụ mới là Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh.
Ngài Khai-Pháp Trần duy Nghĩa tiếp tục hành đạo sát cánh Đức Phạm Hộ-Pháp,
được Đức Phạm Hộ-Pháp giao cho nhiệm vụ Chưởng quản Bộ Pháp Chánh và Ngài ở nhiệm
vụ nầy cho đến lúc đăng Tiên.
Năm 1953, sau khi nhìn lại quãng đường đã đi Ngài quyết định bớt việc Văn
phòng để vào Trí Giác nhập định.
Năm 1954, giúp đời nâng Đạo chưa toại nguyện, tuổi già đưa Ngài về cõi
Thiêng liêng hằng sống, hưởng thọ 66 tuổi (ngày 22-01-Giáp Ngọ).
Ngài đăng Tiên lúc 3g30 sáng ngày 22 tháng Giêng Giáp Ngọ (dl 24-2-1954) tại
Văn phòng Hiệp-Thiên-Đài Tòa Thánh, hưởng thọ 66 tuổi.
Sau khi đăng Tiên Ngài có giáng Cơ cho Bài thài hiến lễ, (xem ở trang đầu.)
B - Đi tìm Pháp:
Đức Hộ-Pháp nhắc lại buổi đầu Đức Chí-Tôn dạy “đi tìm Pháp”. Nhưng rốt lại
đi tìm đúng Ông Trần-Duy Nghĩa sau phong cho là Khai-Pháp Chơn-Quân.
“Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí-Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần
Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng
ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nỗi sự nghiệp của Chí-Tôn đã giao
phó.
Ngài nói rằng:
“Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt Nam trên bốn ngàn năm đã chết, nào dè
ngày nay Đức Chí-Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt Nam
sẽ sống lại được mà là cứu chữa Tổ quốc và giống nòi dân tộc Việt Nam sẽ cỗi
ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành.”
Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để
không bao giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.
Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài
Khai-Pháp và Bần Đạo không giờ khắc nào mà quên trong cảnh tù đày lao lung…
Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí-Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần
Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả.
Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không
có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai-Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì
sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt
Minh, ở giữa thì Quân Đội Cao Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày
nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau làm đến tương tàn cốt nhục của
nòi giống Việt Nam ta nữa mà chớ.”
C - Lễ Di Liên Đài của
Ngài Khai-Pháp:
Ngày 28-Giêng Giáp-Ngọ (dl 2-3-1954) trong buổi Lễ Di Liên đài của Ngài
Khai-Pháp nhập bửu tháp. Đức Hộ-Pháp có lời phát biểu để tưởng niệm và cũng để
tuyên dương công nghiệp của Ngài Khai-Pháp, xin trích ra một đoạn sau đây:
“Đức Khai-Pháp Chơn-Quân, cả toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí-Tôn đều hiểu
là ai ?
Trong 12 vị Chơn-Quân của 12 con Giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn vũ trụ thế
nào, có lẽ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí-Tôn hiểu thấu.
Bần đạo lại thêm một điều trọng hệ hơn hết, người không phải xa lạ với nhơn
loại nơi mặt Địa cầu nầy, người đã cùng làm bạn với nhơn loại và chịu khổ cùng
nhơn loại. Ngài là một bậc yếu nhân đã giúp Đức Chí-Tôn tạo dựng một nền văn
minh hiện tại.
Bần đạo nói quả quyết rằng: Ngài là một vị yếu nhân đã cầm quyền về tinh thần
của nền văn minh.
Ngài tái kiếp, sứ mạng của Ngài là không chi khác hơn là làm thế nào cho nền
văn minh ấy chung hiệp các nền văn minh tối cổ trên mặt Địa cầu nầy, làm cho
thiên hạ thống nhứt về tâm hồn, thống nhứt về đạo đức. Thật sự hôm nay, Đức
Khai-Pháp Chơn-Quân đã hưởng trọn hạnh phúc mà Bần đạo đã tỏ ra khi nãy đó, cái
hạnh phúc chơn thật của Ngài hôm nay được hưởng, trái lụng lại, chúng ta buồn
thảm chia ly về phần xác, mà Bần đạo lấy làm hân hạnh vui hứng thấy Ngài đã đoạt
Đạo. Đức Khai-Pháp Chơn-Quân đã đoạt đạo tại thế nầy đó vậy.
Bần đạo làm chứng cho toàn thể con cái Đức Chí-Tôn điều ấy” .
D - Ngươn linh Thánh Pierre:
Theo lời Đức Hộ-Pháp,
chúng ta hiểu rằng: Ngài Trần Duy Nghĩa là Thánh Pierre (Phê-rô) chiết chơn linh giáng phàm để làm tướng soái cho Đức Chí-Tôn Khai-Đạo. Thánh Pierre
là một trong số 12 môn đồ của Đức Chúa Jésus, là người mà xưa Đức Chúa Jésus
tin cậy, đặt nền tảng của Hội-Thánh truyền giáo của Ngài. Thánh Pierre là đệ nhứt
Tông đồ của Chúa Cứu thế:
“Theo Bí pháp chơn truyền của cơ sanh hoá phải có đủ Âm Dương.Trong sanh
quang chúng ta có điện quang (Négatif và Positif) cũng như vạn vật có trống mái
vậy.
Nền Tôn giáo nào có đủ âm dương thì mới vĩnh viễn. Như Đức Chúa Jésus
Christ ngày trước bị đóng đinh trên cây Thánh giá đầu thuận lên trên gọi là đạt
dương. Ông Thánh Pierre là đệ I Tông đồ, bị đóng đinh trở ngược lại gọi là phản
Âm.
Âm Dương tương hiệp tượng trưng bí pháp nên Đạo Thánh lưu truyền 2.000 năm,
không ai dùng quyền gì tiêu diệt đặng. Chí-Tôn còn có thể sai con của Người đến
lập Đạo như: Thích Ca, Chúa Jésus Christ, Khổng Tử…”
Ông Chơn Nhơn Phạm Duy Hoai có thuật chuyện Ngài Khai-Pháp như sau:
“Một hôm nọ, Đức Phạm Hộ-Pháp lập đàn, có các vị Chức sắc Thiên phong dự chứng.
Đức Phạm Hộ-Pháp cầm cây Kim Tiên đưa ra bên trên và trước mặt Ngài Khai Pháp
đang quì. Đức Phạm Hộ-Pháp nói:
- “Nầy Pierre, ngày trước nguơi đã chối ta ba lần, lần nầy ta tha cho đó.”
Tiền kiếp của Ngài là Thánh SAINT PIERE, tức là một trong 12 Thánh Tông-Đồ
của Thiên-Chúa-giáo, ngày nay các vị Thánh ấy cũng trở lại trong hàng Thập Nhị
Thánh, tức là Thập Nhị Thời Quân trong cửa Hiệp-Thiên-Đài cũng giữ phận sự hầu
Thầy mà thôi”.
Một hôm Ông Bà Đốc Phủ Chi, là người theo Đạo Công-giáo có đến nhà Ngài Cư,
mục đích muốn thử xem vấn đề chơn giả của Cơ Bút, nên ông Bà có đề nghị:
“Xin cho chúng tôi để thử trên bàn Cơ hai vật này là Ảnh tượng CHÚA và Cây
Thánh giá. Nếu Đức Cao-Đài là Thượng-Đế thật thì mới giáng Cơ được, bằng Quỉ
Vương thấy hai vật báu này tự nhiên phải tránh”.
Ông Cư bằng lòng cho thử. Đoạn Ông Đốc Phủ
cùng ngồi với Ngài Tắc để quan sát. Trước hết Thánh Pierre giáng Cơ cho 4 câu thi để trả lời cho Ông Bà Đốc Phủ
Chi, vào ngày 17-11 Ất-Sửu (dl 01-91-1926)
Thánh giáng cho biết:
SAINT PIERE
Thiên đàng giữ cửa góc
Trời Tây,
Truyền Ðạo cho dân biết
mặt Thầy.
Cứu chuộc đã gần đôi
ngàn tuổi,
Cao Ðài phú thác dắt
dìu bây.
(31 Decembre
1925)
Ngày 11-01 Bính Dần (dl 23-2-1926 ) Đức Chí-Tôn có giáng cho Khai-Pháp Chơn-Quân:
THI
Đạo Tâm rỡ rỡ sáng như ngày,
Hiệp cũng may mà gặp cũng may.
Đã mộ trong lòng thân cũng mộ,
Một lòng mộ Đạo chớ đơn sai.
Đức
Chí-Tôn
E - Ngài Khai-Pháp
giáng Cơ:
Tối hôm sau, Ngài Khai-Pháp giáng cơ tại Bộ Pháp Chánh.
Phò loan: Giám Đạo Hợi - Luật Sự Nhung.
Đêm 23-giêng-Giáp Ngọ, lúc 8 giờ tối.
Khai-Pháp TRẦN DUY NGHĨA
Tệ tăng xin chào quí bạn, Qua chào mấy em.
Chẳng phải lẽ sống là hạnh phúc cõi trần gian, nếu biết thì quí bạn cũng đã
mừng cho Tệ Tăng rồi. Cái phàm thể chẳng qua là đồ mục, đâu đáng gì. Chính lúc
sanh tiền, Tệ Tăng cũng lầm lẫn đó. Vậy xin cảm bái lòng tri ngộ của Đức Hộ-Pháp
và cảm tạ quí bạn cùng Hội-Thánh.
Các em cũng vui mà lo tròn trọng trách nghe.
Xin để lời chào mừng bổn quyến.
THI
Sáu mươi sáu tuổi có bao
lâu,
Ngảnh lại trần gian chửa
mãn sầu.
Tiếc lúc về già đời mỏi mắt,
Dầu an Tiên cảnh vẫn
đeo sầu.
Tệ
Tăng xin hẹn lúc khác.
Xin
kiếu. Thăng
Ba ngày, sau ngày Ngài Khai-Pháp qui Thiên, liền giáng
cơ nói về cái chết của Ngài:
Phò loan: Sĩ Tải Ảnh -Luật Sự Nhung.
Đêm 26-giêng-Giáp Ngọ (dl 28-2-1954).
Khai-Pháp
“Qua chào mấy em.
Thấy mấy em nhọc nhằn, Qua không vui chút nào. Sự sanh ly tử biệt là thường
của thế gian. May duyên, Qua được diễm phúc thọ hồng ân của Đức Chí-Tôn và Đức
Từ Mẫu mà Qua được biệt đãi, chớ thật ra Qua với mấy em đâu có khác gì.
Nhớ lại lúc anh em chúng ta chung trí để làm việc, mặc dầu có nhiều sơ sót
vì chúng ta không phải là chuyên môn, nhưng có nhiều đặc sắc.
Ngày về, Qua được Đức Chí-Tôn ban ân khen thưởng, đó là công nghiệp của mấy
em. Vậy Qua xin thành thật cảm tạ ơn tríu mến đã làm nên sợi dây thân ái giữa
chúng ta thêm bền chặt. Qua xin mấy em vui lòng với Qua nghe.
Thừa Sử bạch: - Đức Hộ-Pháp muốn rõ lúc Ngài qui vị.
- Cười ... Đức Ngài muốn biết rõ để răn phạt em Bảo thể có phận sự bữa đó.
Cười ...
Thửa Sử bạch: - Phải lúc 4 giờ Ngài đi tiểu trở vô mới té phải không ?
- Không phải, lúc ấy vào lối 3 giờ hơn, Qua thấy chột dạ và không muốn làm
phiền mấy em Bảo thể nên Qua tự mở cửa định vòng ra ngã sau, vừa đến tam cấp,
có luồng gió lạnh đập mạnh vào nên té luôn mà rời xác. Đó là Anh Cao Thượng-Phẩm
đến đem Qua về.
Thừa Sử bạch: - Có lẽ khi té, Ngài trăn trở một lúc rồi mới đi ?
- Đi liền. Qua bị còn một chút nợ nên phải trả bằng cách ấy cho trọn đấy
thôi, chớ chẳng phải rủi ro chi cả. Mấy em an tâm, nếu Đức Hộ-Pháp có hỏi thì bạch
giùm Qua, chớ để em Bảo thể bị phạt thì oan cho nó lắm.
Thôi khi khác, Qua sẽ đàm đạo nhiều.
Qua kiếu mấy em.” Thăng.
Sở dĩ có lời tâm sự ấy là vì lúc qui Thiên, Ngài
Khai-Pháp lẽ ra có vị Bảo-Thể theo săn sóc sức khoẻ cho Ngài, nhưng lúc đang đêm Ngài ra ngoài một mình rồi té trên bực thềm và tắt hơi. Lỗi ấy qui vào trách
nhiệm của vị Bảo Thể. Nhưng Ngài đã thanh minh cho rồi.
Qua câu nói “bị còn một chút nợ nên phải trả bằng cách ấy cho trọn đấy
thôi” ấy là tiền kiếp Thánh Pierre đã ba lần chối Chúa, sau cùng năn nỉ khóc
lóc với Đức Mẹ Maria xin tha tội. Giờ này cái chết của Ngài là té trên bực thềm
rồi đi luôn. Bởi Pierre là đá mà chính “bực đá” này đã kết liễu cuộc đời Ngài để
chấm dứt oan nghiệt…”.
Bốn hôm sau, Đức Cao Thượng-Phẩm giáng cơ cho biết Ngài Khai-Pháp có đủ
công nghiệp nên trở về cựu vị, tiếp theo là Ngài Khai-Pháp giáng cơ:
Phò loan: Giám Đạo Hợi - Luật Sự Nhung.
Bộ Pháp Chánh, 30-1-Giáp Ngọ (dl 4-3-1954)
Chứng đàn: Tiếp-Pháp, Bảo-Đạo.
CAO THƯỢNG PHẨM
Chào Tiếp-Pháp, Bảo-Đạo, mấy em và Chị ba.
Hôm nay, toàn thể Ngọc Hư Cung đều vui mừng tiếp rước vị Khai-Pháp
Chơn-Quân trở về cựu vị với công nghiệp rõ ràng. Vậy, Bần đạo đến cho hay trong
cửa Hiệp-Thiên-Đài thêm phần vinh hiển.
Thôi, Bần đạo nhượng cơ cho Trần Khai-Pháp. Thăng.
TÁI CẦU:
Khai-Pháp TRẦN DUY NGHĨA
“Xin chào mấy bạn, chào mấy em.
Từ buổi rảnh nợ trần, Tệ Tăng vẫn luyến tiếc đến những công nghiệp mà mấy bạn
sẽ tiếp tục làm hằng ngày gần đây. Ngày giờ đã định, Chí-Tôn không thể để Tệ
Tăng còn ở tại trần nữa và phải giao phận sự lại cho bạn Tiếp-Pháp.
Vậy Tệ tăng không thể cùng mấy bạn chung vui sớt nhọc lúc sau nầy mà phải
trở về lo mặt huyền linh, hầu giúp cơ xây chuyển được chóng kịp ngày giờ.
Mấy bạn, tuy mất Tệ tăng về mặt hữu hình, song ở vô vi thì Tệ tăng luôn
luôn ở bên mấy bạn.
Bạn Tiếp-Pháp, kể từ giờ nầy, bạn là vị Chơn-Quân lãnh phần Tiếp-Pháp lịnh
mà hành nên Chánh truyền cho cơ định thế. Phần Khai-Pháp đã qua, giờ đến lượt bạn,
ấy Thiên cơ tiền định. Bạn suy gẫm sẽ hiểu thêm.
Tiếp-Pháp bạch: - . . . (về sự bất tài của mình)
- Việc làm trước dở sau hay là lẽ thường, nghề dạy nghề chớ không ai dạy ai
giỏi. Vậy bạn cứ nung chí và tận lực thì kết quả không xa đâu.
Từ đây là cơ hành pháp chớ không còn là cơ thọ pháp nữa. Vậy bạn là người
tiếp nhận pháp giới của chúng ta và tùng Hộ-Pháp đặng ban hành chánh pháp cho
Thánh thể và cả con cái Chí-Tôn. Như vậy thì trách nhiệm rất nặng nề, bạn khá
thận trọng, còn về mặt vô vi, Tệ tăng luôn luôn giúp sức, nếu có điều chi thắc
mắc thì cứ kêu Tệ tăng sẽ đến giải giúp cho.
Bạn Bảo-Đạo,
Bạn đã thọ Thiên ân trong hàng Thời Quân với trọng trách Bảo-Đạo tức là
thay thế cho Thượng-Phẩm tại thế vậy, bạn hiểu trách nhiệm nặng là dường nào rồi,
chỉ còn chờ ngày Đức Hộ-Pháp và Anh Thượng-Phẩm ban pháp thì bắt tay vào việc.
Bạn ráng lên vì sẽ mệt nhọc lắm đó.
Anh Quyền Thượng Chánh Phối-Sư, Tệ tăng xin gởi lời chào mừng hết các bạn Cửu-Trùng-Đài
và để lời cảm tạ. Tệ tăng hứa sẽ giúp tay anh Quyền Giáo-Tông đặng Cửu-Trùng-Đài
ra giá trọng.
Bây giờ Tệ tăng xin nói chuyện với người bạn một chút.
Bà Hương Đỏ, xin Bà dẹp hết sầu bi mà mừng cho Tệ tăng. Nói như thế thì Tệ
tăng đã quá lục tuần rồi, cảnh biệt ly không còn chi đáng thương xót nữa. Còn về
việc Đạo thì ngày công tròn quả mãn đặng về Chí-Tôn và Phật Mẫu là ngày vinh diệu
hơn hết. Vậy thay vì buồn thương, Bà mừng vui mới phải.
Tệ tăng chỉ muốn biết một điều là bà xin Quyền Chí-Tôn tái thủ phận sự đặng
tiếp tục công nghiệp lúc về già. Được chừng ấy thì Tệ tăng vui mừng lắm. Còn việc
nhà, khéo thu xếp là được, Tệ tăng khỏi bận nhắc.
Như vậy là đủ rồi, Tệ tăng xin kiếu.” Thăng
(Bà Hương Đỏ, thế danh là Hồng Thị Đỏ,
vợ của ông Nghĩa)
Phò loan: Giám Đạo Nguyễn văn Hợi.
Thừa sử: Nguyễn văn Kiết. Hầu đàn: chức sắc HTĐ
Đàn Cơ đêm mùng 2-12 Giáp Thìn (dl 4-1-1965) tại Giáo-Tông Đường.
Khai-Pháp,
“Chào Hiền huynh Bảo-Thế cùng các
Em. Tiện đây,
Bần Tăng đàm đạo cùng Bảo-Thế.
Ngày Bần Tăng về Chí-Tôn mới rõ quyền năng Thiên triều vô biên. Chính Bần
Tăng rón rén bước vào Bạch-Ngọc-Kinh phải nhờ chơn linh Vi-Hộ dẫn đến. Từ đây mới
biết Chí-Tôn phần nào và được thấu đáo nhiệm vụ của Thời Quân chẳng những nơi
thế gian mà còn nơi cõi Thiên nữa. Như thế mới khiếp sợ trách vụ mình .
Nếu quí bạn được thấy thì tưởng không còn muốn ở cõi trần nữa làm gì. Vậy Bần
Tăng ước mong quí Bạn Thời Quân tìm cách dòm về hướng Chí-Tôn để rộng quyền làm
tròn Thiên soái mạng.
Hổm rày Đức Hộ-Pháp chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài có nhóm Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài
nhiều lần để quyết định tương lai của nền Chánh giáo. Vì thế mà Bần Tăng được
chỉ định để gần gũi Hiền huynh, để ủng hộ và trao lời của Đức Hộ-Pháp dạy.
Hiền huynh nhớ Đạo Cao-Đài có chánh trị đạo, thì tưởng cũng không đụng chạm
ai. Đời họ lo lấy. Đạo mình mình trị trong vòng tự do tín ngưỡng, miễn đừng lấn
quyền Đời thì thôi.
Hộ-Pháp than: lúc này không người kế chí, nhưng Đức Ngài còn tin nơi Hiền
huynh nên chính Đức Ngài dục tấn Hiền huynh về, khi còn ở Đô thành, có lẽ Hiền
huynh còn nhớ Ngài kêu hôm nào đó. Hiền huynh cứ tiến tới nhiệm vụ của Đức Hộ-Pháp
đã giao, tức bên cạnh có Ngài và chư Thời Quân ám trợ, đừng lo ma hồn quỉ xác
gì nữa, bất quá chúng nó thêm công quả để Hiền huynh đạt Đạo cho mau vậy. Thôi,
hiền huynh vững đức tin, cuộc thế đã đến thời kỳ kết thúc, nên Thần Tiên đã lâm
phàm, đồng ngưỡng về Cao-Đài Thánh địa là Tòa Bạch-Ngọc-Kinh tại thế.
Bần Tăng tưởng Hiền huynh đã từng gần Đức Hộ-Pháp cũng còn nhớ cách phục
nhơn tâm và thâu thiên hạ là dường nào rồi! Nhờ tâm đức ấy mà Ngài lập đại công
thì Hiền huynh nên theo đường lối ấy thì ắt thành công trong sứ mạng đó.
Xin chào Hiền huynh để kỳ tới sẽ tái ngộ”. Thăng.
03 - Hiến-Pháp
Hiến-Pháp 憲 法
Fr: Rénovateur
Juridique
TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(1890-1976)
Sanh ngày: 2-2 Canh-Dần (1890)
Ngày Qui: 20 giờ 15 ngày 15-12 Ất-Mão (dl 15-02-1976)
Đạo Hiệu: Thân Dân
Ngươn-linh: Từ-Hàng Đạo Nhơn.
Quê quán: Cầu An Thượng, Hiệp-Hòa, Chợ-Lớn.
Pháp-Chánh-Truyền qui định:
“Hiến-Pháp khi tiếp đặng luật lệ đơn trạng, thì phải mở đường tra vấn cho
minh lẽ nên hư, phải trái, đủ chứng cớ rõ ràng, rồi dâng lên cho Bảo-Pháp cho đủ
nội vụ, cấm Hiến-Pháp không đặng thông đồng cùng Hiến Ðạo và Hiến-Thế.
Ấy vậy kể từ việc chi đã giao vào tay Hiến-Pháp rồi, thì đã ra bí mật, dầu
cho Chức Sắc Hiệp-Thiên-Ðài cũng không đặng biết tới nữa”.
Thầy buộc cả Chi pháp phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.
“Trách nhiệm của Hiến-Pháp là tìm những phương hay để hiến cho luật pháp để
tiện việc thi hành và truyền bá những tư tưởng cần ích cho Đạo về phương diện
hành pháp”. (Hiến-Pháp năm Nhâm Dần 1932)
Bài thài hiến lễ:
Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức là một trong những Tướng-Soái của Chí-Tôn,
lúc qui thiên Ngài cũng giáng đàn cho một bài Thi để thài hiến lễ.
HỮU-ĐỨC mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn mong ước cái
không hay.
Mừng nay gặp Đạo lòng mong muốn,
Chí quyêt cùng nhau để
hiệp vầy.
Hiến-Pháp
Chơn-Quân
A - Tiểu sử Ngài Hiến-Pháp
Trương-Hữu-Đức
Ngày 20-5-Tân Hợi (dl 12-6-1971), Ngài Hiến-Pháp Trương Hữu Đức có tự viết
Tiểu sử của Ngài, xin chép y nguyên văn như sau đây:
“Trương Hữu Đức, sanh ngày mùng 2 tháng 2 năm Canh Dần (1890) (trên giấy tờ
sanh năm 1892), con ông Trương Văn Tựu (chết) Cựu Cai Tổng Cầu An Thượng, làng
Hiệp Hòa (Chợ Lớn), Giáo Sư phái Ngọc và bà Lê Thị Nhụy tức Sót (chết). (Hiền nội
của Ngài Trương Hữu Đức là Bà Nguyễn Thị Sanh, nhập môn vào Đạo Cao Đài rất sớm,
được Đức Chí-Tôn phong phẩm Nữ Lễ Sanh, do kỳ Phong Thánh Nữ phái lần thứ nhứt
ngày 14-Giêng Đinh Mão, dl 15-2-1927).
Ngài Nhập môn vào Đạo Cao Đài từ năm Ất Sửu (1925) lúc mới còn Xây bàn, vì
lúc ban sơ, những người theo Đạo đều do lịnh Đức Chí-Tôn chỉ định, nên không có
Sớ Cầu Đạo.
Trong số 12 Môn đệ đầu tiên của Đức Chí-Tôn nêu tên trên bài thi tứ tuyệt
trong quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển thứ I có tên ĐỨC (sau thọ phong Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài),
hiệp với Ông HẬU thành cặp phò loan truyền đạo, Ông Hậu sau thọ phong Bảo-Pháp
Hiệp-Thiên-Đài.
Trong lúc các Ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang bày cuộc Xây
bàn thì Đức còn hoài nghi cho rằng mấy Bạn ấy giả ngộ chơi nên không tin; về
nhà, Đức đem bàn ra, đặt tay lên xây thử để xin thi, tức thì có vong linh người
anh nhập, nhưng thay vì cho thi, lại cho hai vị thuốc. Đức uống thuốc ấy lành bịnh
hậu trên 20 năm.
Qua bữa kế đó, vào lúc đúng ngọ, trong khi thanh tịnh, Đức bắt chước Ông Tắc,
chấp bút một mình và cầu nguyện xin thi. Có vị Minh Nghĩa Tiên Ông giáng bút
cho bài thi như sau:
Minh Đức mừng nay đã gặp
Thầy,
Chẳng còn ao ước cái không
hay.
Mừng cầu Âu Á càng thêm mặt,
Mừng nậu côn đồ đã chịu
chay.
Đức chỉ xin được một bài thi đó thôi, sau chấp bút hoài cũng không được. Từ
đó, Đức hết lòng tin tưởng, ăn chay luôn, phụng thờ Đức Cao Đài và hiệp cùng
các đồng đạo đi phổ-độ các nơi.
Cặp cơ Hậu - Đức có nhiệm vụ chấp cơ truyền đạo, mà mỗi đêm thứ bảy phải chấp
cơ tại Thánh Thất Cầu Kho (Thánh Thất tạm nơi nhà Ông Đốc Bản) để cho thiện nam
tín nữ đến hầu đàn cầu Đạo. Đồng thời mỗi đêm khác đều đi phổ-độ các nơi thôn
quê sau khi mãn giờ làm việc, vì lúc ấy, Ông Hậu làm Đốc học trường tư thục,
còn Đức thì làm công chức cho chánh phủ Pháp. Lắm khi phải đi suốt đêm, sáng về
điểm tâm rồi đi làm việc luôn, nhưng vì sự tin tưởng nên không biết nhọc. Có
nhiều đêm, Đức phải đi lên Gò Kén (Tây Ninh) để chấp cơ tại đó cho nhơn sanh nhập
môn cầu Đạo.
Lúc Đạo mới mở, Đức Chí-Tôn chẳng những giáng cơ độ rỗi nhơn sanh mà còn
ban điển lành cho các đồng tử để chữa bịnh cho bổn đạo. Vì vậy mà Đức chữa lành
nhiều bịnh tê thủng, dịch tả và câm, vv... Việc chữa bịnh có được kết quả như vậy
là nhờ điển lành của Đức Chí-Tôn ban cho, chớ mấy vị đồng tử đâu có phải là người
chữa bịnh.
Sự huyền diệu lạ lùng ấy làm cho đức tin của mọi người được tăng gia. Nhưng
chẳng bao lâu, khi Đạo lập thành rồi, thì việc chữa bịnh bằng nhơn điển phải
ngưng một lượt với Cơ bút, vì e có sự lạm dụng.
Khi thọ phong chánh thức vào hàng Thập Nhị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài với chức
Hiến-Pháp Chơn-Quân, Đức thường lên xuống Tòa Thánh Tây Ninh để hành đạo trong
lúc rảnh rang, vì Đức vẫn còn giúp việc cho Chánh phủ Pháp, tùng sự tại Sở Hỏa
Xa Sài Gòn.
Sau, Đức được Ông Chánh Sở Mật Thám Nam Kỳ là Ông Nadau mời đến để giao chức
vụ Thông dịch viên Sở ấy. Trước khi nhận lời, Đức có cầu cơ thỉnh giáo Đức
Chí-Tôn, vì lúc bình thường, Đức không thích giúp việc cho Sở ấy, là Sở không
có cảm tình đối với dân chúng. Đức Chí-Tôn dạy Đức nên qua giúp việc cho Sở ấy vì
sẽ có cơ hội giúp Đạo.
Quả thật như lời Đức Chí-Tôn nói, chẳng bao lâu Ông Cao Quỳnh Cư (tức Cao
Thượng-Phẩm ), có ra bản “PHỔ CÁO CHÚNG SANH” để truyền bá Đạo Cao Đài, trên
bìa Bản Phổ Cáo ấy có tựa đề "Đại-Đạo Tam-KỳPhổ-Độ". Lần đầu tiên Bản
Phổ Cáo ấy không có kèm thêm chữ Hán, nhưng lần sau, Ông Cư có thêm mấy chữ
Hán. Để tượng trưng Tam giáo qui nguyên, ngoài bìa Phổ Cáo Chúng Sanh có vẽ
hình ba vị Giáo chủ là Đức Thích Ca, Đức Lão Tử, và Đức Khổng Tử.
Bản Phổ Cáo Chúng Sanh in lần đầu được gởi ra Nha Tổng Giám Đốc Mật Thám Hà
Nội để dịch ra Pháp văn. Nhưng người thông dịch viên ngoài ấy lại dịch câu tựa:
Đại-Đạo Tam-KỳPhổ-Độ là Đạo lớn cứu vớt 3 Kỳ.
Lúc đó là lúc nhà cầm quyền Pháp để ý theo dõi hành vi Đạo Cao Đài rất gắt,
nên Hà Nội gởi bài dịch văn ấy vào Nam hỏi Ông Chánh Sở Mật Thám Nadau, có phải
Đạo Cao Đài làm chánh trị không, để họ giải tán.
Nhằm lúc ấy, Ông Nadau tin dùng Đức, nên Ông mới đến hỏi bài dịch văn ấy có
đúng nghĩa không?
Đức trả lời rằng: Không đúng, vì nguyên văn câu ấy có nghĩa là Đại-Đạo mở lần
thứ ba để độ rỗi, chớ không phải cứu vớt 3 Kỳ (trong Liên bang Pháp là Nam kỳ,
Trung kỳ và Bắc kỳ). Để trưng bằng cớ cụ thể, Đức đem trao cho Ông Nadau Bản Phổ
Cáo Chúng Sanh có in chữ Hán. Ông liền phúc trình ra Hà Nội giải thích rõ việc ấy.
Nhờ đó mà Đạo khỏi bị giải tán và người Đạo cũng đỡ khổ. Đó là bằng chứng “Đức
cứu Đạo”.
Còn nhiều việc khác nữa, nhưng không đáng kể.
Qua năm 1945, Pháp bị Nhựt bổn đảo chánh tại Đông Dương, Đức tản cư về thôn
quê, nhưng ở đâu cũng không yên, Đức liền về Tòa Thánh, ở được một hôm thì Pháp
đổ bộ, bắn chết một Đạo hữu ở Rừng Thiên nhiên (Tòa Thánh). Tính không êm, Đức
liền rời khỏi Tòa Thánh, băng rừng đi bộ từ Tây Ninh về Lộc Giang (Chợ Lớn).
Lúc đó dẫu có tiền cũng không có xe đi.
Tản cư ở Lộc Giang được một thời gian, Đức trở lại quê nhà ở Hiệp Hòa (Chợ
Lớn), nhưng sau lại tản cư xuống chùa Minh Đức nơi Đền Thờ Phật Mẫu tại cầu
Băng Ky Gò Vấp, do Ông Sĩ Tải Nguyễn Văn Thiệt làm chủ, lúc ấy cùng ở chung với
mấy Ông: Bảo-Pháp, Bảo-Thế, Khai-Đạo, cũng đồng cảnh huống.
Cũng trong năm 1945, bị bom nguyên tử, Nhựt đầu hàng Đồng Minh, Pháp trở lại
Đông Dương và chiến đấu với Việt Minh. Pháp kêu gọi công chức hồi cư để hiệp
tác, Đức còn do dự mấy tháng.
Đến năm 1946, mới chịu trở lại vì hoàn cảnh bắt buộc.
Đến năm Nhâm Thìn (1952), được giấy hồi hưu, Đức trở về Hiệp Hòa ở chung với
người em ruột trong một ngôi nhà tranh rách nát. Nhờ vậy mà tránh khỏi Việt
Minh và quân đội Pháp khủng bố. Quân đội nầy chỉ khủng bố những nhà tốt mà
thôi. Đức cũng muốn về Tòa Thánh làm Đạo nhưng vì lúc ấy, Đạo còn dùng rất nhiều
quân đội nên không về vì tình trạng không hạp.
Mãi đến hạ tuần tháng 8 năm Ất Mùi (1955), Quân đội Cao Đài, một phần tự giải
ngũ, một phần gia nhập vào quân đội quốc gia, còn Đức Phạm Hộ-Pháp thì bị cấm
phòng tại Hộ-Pháp Đường, Đức mới về Tòa Thánh để quan sát tình hình và hiệp với
các Chức sắc khác để lo gỡ rối cho Đạo.
Nói đến đây, Đức không quên ghi ơn hai Ông bạn
Hiệp-Thiên-Đài là Bảo-Thế và Tiếp-Pháp, có lòng đến tận nhà ở Hiệp Hòa,
khuyên Đức về hợp tác hành đạo. Vì vậy mà Đức mới thanh toán hết gia nghiệp mới
gầy dựng được chút ít, chí quyết phế đời hành đạo, mong cứu vãn tình thế, vì
lúc ấy là lúc hỗn loạn. Có nhiều Chức sắc và Đạo hữu bị giam cầm do Ban Thanh
Trừng điều khiển.
Năm Bính Thân (1956), Đức cùng Hội-Thánh ký kết Thỏa Ước với Chánh phủ Cộng
Hòa, cam kết không làm chánh trị.
Đồng thời Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc đang lưu vong tại Nam Vang, lại phát động
Phong trào Chung sống Hòa bình và chỉ định Đức làm đại diện cho Người nơi Tòa
Thánh. Vì lẽ đó mà Đức bị tình nghi và bị cấm cư trú hai năm tại Sài gòn, mặc
dù Đức không thọ lãnh chức Trưởng Ban Miền Nam Phong trào Chung sống Hòa bình
do Đức Phạm Hộ-Pháp bổ nhiệm, nghĩ vì đã ký Thỏa Ước Bính Thân, thì cố nhiên phải
tôn trọng chữ ký của mình.
Mãn hai năm cư trú, Đức trở về nhà với gia đình để dưỡng sức vì tuổi cao kỷ
trưởng. Tuy nhiên, đối với sự thành bại của Đạo, không thể ngồi ngó cho đành.
Vậy nên vào lúc tháng 9 năm Nhâm Dần (1962), Đức trở về Tòa Thánh tái thủ
phận sự tại Hiệp-Thiên-Đài với nhiệm vụ: Tuyển soạn Thánh Ngôn và viết Đạo Sử.
Chí nguyện làm tròn phận sự, rồi có nhắm mắt theo Thầy cũng ngậm cười nơi
cõi Thiêng liêng Hằng Sống.
Từ ấy, Đức cộng tác với Đức Thượng-Sanh.
Ngoài nhiệm vụ kể trên, còn kiêm nhiệm thêm Bộ Pháp Chánh, Ban Kiểm Duyệt,
Ban Đạo Sử và Thơ viện cho đến ngày nay.
Đắc phong Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài và cuộc lễ Tấn Phong được tổ chức
vào ngày Chúa Nhật 21-5-Tân Hợi (dl 13-6-1971) tại Tòa Thánh Tây Ninh, có mời
Chánh quyền, các đoàn thể và các Tôn giáo bạn đến dự.
Tòa Thánh, ngày 20 tháng 5 Tân Hợi.
(dl 12-6-1971)
Hiến-Pháp Trương Hữu Đức
Sau ngày Đức Thượng-Sanh đăng Tiên (26-3-Tân Hợi, dl 21-4-1971), Hội-Thánh
Hiệp-Thiên-Đài họp phiên Đại Hội vào ngày 24-4-Tân Hợi (dl 18-5-1971) để công cử
vị cầm quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài , thì toàn Hội đồng thanh cử Ngài Hiến-Pháp
Trương Hữu Đức lên đảm nhận trọng trách ấy. Vi Bằng công cử được dâng lên quyền
thiêng liêng, Đức Phạm Hộ-Pháp giáng cơ chấp nhận và phê chuẩn, do đàn cơ tại
Cung Đạo Tòa Thánh ngày 6-5-Tân Hợi (dl 29-5-1971).
Tháng 4 năm Quí Sửu (1973), trong đàn cơ tại Cung Đạo Tòa Thánh, Đức Lý
Giáo-Tông và Đức Phạm Hộ-Pháp đồng ý thăng nhiệm cho Ngài Hiến-Pháp Trương Hữu
Đức lên Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài để đủ quyền năng thực hành trọng trách bảo
thủ Luật pháp Chơn truyền hầu phát triển nền Đạo.
Từ ngày lãnh trọng trách Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, Ngài Hiến-Pháp rất lo
âu và tận tụy với nhiệm vụ, nên thường hay bịnh hoạn, mỗi lúc mỗi nhiều hơn.
Ngài đăng Tiên lúc 20 giờ 15 phút ngày 15-12-Ất Mão (dl 15-1-1976), hưởng
thọ 87 tuổi.
Trong Bài Điếu văn của Ngài Bảo-Đạo Hồ Tấn Khoa, đọc trước liên đài của
Ngài Hiến-Pháp, trước khi nhập bửu tháp, có một đoạn quan trọng, xin trích ra
sau:
“Nhớ buổi xưa, lúc cơ Đạo chinh nghiêng, Đức Phạm Hộ-Pháp đang bị bao vây
trong Hộ-Pháp Đường, cả Chức sắc lưỡng phái lưỡng Đài đang hoang mang, nhơn tâm
bất nhứt, tâm lý bất đồng, sống trong hoàn cảnh hồi hộp lo âu sợ sệt, đột nhiên
thấy Anh (Hiến-Pháp) đơn độc xách gói về Tòa Thánh.
Anh Bảo-Thế và các Anh khác hỏi Anh về Tòa Thánh làm gì trong lúc khó khăn
rối rắm như vầy?
Khi ấy, lần đầu tiên Em gặp Anh và cũng lần đầu tiên Em nghe Anh thốt ra một
câu trả lời bất hủ, mà Em vẫn còn ghi mãi trong ký ức, lấy làm gương sáng cho
bước hành đạo và hôm nay, Em xin nhắc lại cho toàn thể các bạn Đạo hiện diện
nơi đây đặng biết và ghi nhớ để làm phương châm hành đạo.
Anh nói rằng: “Sách xưa có dạy: “Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung
thần”. Trong Đạo cũng vậy, lúc cơ Đạo thạnh hành, ai cũng làm đặng. Hôm nay gặp
buổi chinh nghiêng, nền Đại-Đạo đang cơn bối rối, Đức nầy mới xin về để cùng
chia sớt phần nào cảnh lo âu khó nhọc với Anh Em”
Lời nói bất hủ nầy cho ta thấy tinh thần hy sinh phục vụ của Anh cao cả là
dường nào và có mãnh lực nhắc cho chúng ta cả thảy nhớ câu Minh Thệ: Hiệp đồng
chư môn đệ..., để mỗi khi cơ Đạo gặp cảnh khó khăn, thì chúng ta phải nhứt tâm
nhứt trí siết chặt hàng ngũ, trụ vững đức tin, chia đau sớt khổ với nhau, để phục
vụ cho Đạo pháp và cho nhơn sanh, chớ không lý do gì lánh né phận sự, để miệng
thế bia danh muôn thuở.”
Đầu năm 1975, trong lúc nội chiến giữa quân đội quốc gia và quân đội cộng sản
xảy ra rất ác liệt trong toàn Miền Nam Việt-Nam, Ngài Hiến-Pháp Trương Hữu Đức,
với tư cách là Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài, có
gởi một bức Thông Điệp kêu gọi Hòa bình đến các Chánh phủ liên hệ trong cuộc
chiến và yêu cầu đặt vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh ra ngoài vòng chiến
tranh.”
B - Nguyên văn Thông Điệp
Hòa bình:
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Ngũ thập niên)
TÒA THÁNH TÂY NINH
Văn phòng
Chưởng quản
HIỆP THIÊN ĐÀI
--- ooo ---
CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ĐÀI
THÔNG ĐIỆP
của Hội-Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh về Hòa Bình Việt Nam
Kính gởi:
Các Chánh phủ liên hệ trong cuộc chiến tại VN.
Ông Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc.
Ông Chủ Tịch Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Ông Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến tại Việt-Nam.
Chánh Phủ các quốc gia trong Liên Hiệp Quốc.
Các nhà Lãnh đạo Tôn giáo.
Nghĩ vì Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 qui định cuộc đình chiến ở Việt-Nam
là một niềm hy vọng lớn lao cho toàn cả dân Việt-Nam đã quá đau khổ vì nạn chiến
tranh, nay mong được thấy Hòa bình lập lại.
Nhưng ngược lại, hai năm qua mà cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn ngày càng ác
liệt, gây không biết bao nhiêu cảnh máu đổ thịt rơi, cửa nhà tan nát, mỗi ngày
hy sinh cả ngàn thanh niên ưu tú của dân tộc, làm cho mọi người phải đau lòng
thất vọng.
Trước cảnh tang thương tang tóc của dân lành, Hội-Thánh và toàn thể tín hữu
Cao Đài luôn luôn giữ vững tôn chỉ cộng yêu hòa ái của một nền Tôn giáo Đại-Đồng
và trung thành với đường lối Hòa bình Chung sống của Đức Hộ-Pháp Phạm Công Tắc
chủ trương để hòa giải dân tộc.
Nên thiết tha kêu gọi quí Lãnh tụ các bên lâm chiến:
1 - Xin mở lòng thương xót đồng bào ruột thịt của chúng ta quá đau khổ vì
chiến tranh, sớm bình tĩnh ngồi lại để tự giải quyết vấn đề nội bộ giữa người
Việt với nhau trong tình huynh đệ, tương thân tương ái, tương nhượng, hầu chấm
dứt nạn chiến tranh tàn khốc. Đặng như vậy, cả bốn chục triệu đồng bào Việt-Nam
sẽ ghi ơn quí vị và thế hệ mai sau sẽ ghi một điểm son vào trang lịch sử hiện tại
cho quí vị.
2 - Xin lưu tâm đến Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh và cả vùng Thánh địa gồm 19
Phận đạo là nơi tôn nghiêm sùng bái của toàn thể tín hữu Cao Đài và cũng là nơi
gần nửa triệu dân lành chỉ biết tu hiền, sống đông đúc nơi đây được đôi bên đặt
ngoài vòng chiến, để tránh khích động đến lòng tín ngưỡng của mấy triệu tín hữu
trong toàn quốc.
3 - Nếu muốn dùng một nơi nào trong vùng Thánh địa Tây Ninh để làm địa điểm
của hai bên và Ủy Hội Quốc Tế làm nơi hòa đàm trong quốc nội thì chúng tôi có
thể sẵn sàng chấp thuận. Trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề Hòa bình Việt-Nam,
trật tự an ninh nơi đây sẽ tạm thời do Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đảm nhiệm.
Hội-Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chúng tôi cũng thiết tha kêu gọi các cường
quốc trong hai khối và tất cả các quốc gia Hội Viên Liên Hiệp Quốc, cùng toàn
thể nhân dân yêu chuộng Hòa bình trên thế giới chứng nhận và ủng hộ lời kêu gọi
nầy.
Đại-Đạo Tam-KỳPhổ-Độ, ngày 04-12- Giáp Dần.
(dl 15-1-1975)
TM. Hội-Thánh ĐĐTKPĐ
CHƯỞNG QUẢN HTĐ
Hiến-Pháp TRƯƠNG HỮU ĐỨC
(ấn ký)
C - Thi văn của Ngài Hiến-Pháp:
Ngài Hiến-Pháp Trương Hữu Đức có bút hiệu là Thân Dân, có làm khá nhiều bài
thi đường luật, xin trích ra đây vài bài tượng trưng:
ĐẠO ĐỜI TƯƠNG ĐẮC
Đạo Đời tương đắc cứ như
nhiên,
Đời Đạo đôi bên nắm vững
quyền.
Đạo đắc nhơn tâm, Đời đắc
sách,
Đời do dân ý, Đạo dân quyền.
Ái hòa Đạo dụng làm căn bản,
Nhân nghĩa Đời toan giúp
phổ truyền.
Đời Đạo tương liên gieo
Thánh đức,
Nhơn sanh an hưởng cảnh
Thần Tiên.
* * *
Ba đào sóng bủa bởi
thuyền to,
Lèo lái kiên gan vững
phận trò.
Nẻo tắt đường quanh bền
sức chống,
Sông sâu biển thẳm gắng
công dò.
Lướt dòng cậy có nhiều thần lực,
Quá hải nương nhờ bóng tự do.
Bến tục thuyền từ dìu độ
chúng,
Đưa vào nguồn sống khỏi tò
mò.
THÂN DÂN
Họa nguyên vận 2 bài thi Ngư và Tiều của Ông Huệ Giác:
Nghinh ngang mặt nước một con thuyền,
Cái thú ngư ông ấy thú Tiên.
Bủa lưới bao trùm gồm bốn biển,
Giăng câu định hướng nắm ba giềng.
Ở trần không nhiễm mùi trần tục,
Xử trí yên vui cảnh trí riêng.
Trời Đất rộng thinh dành một cõi,
Thú nhàn quyết tránh lợi danh quyền.
* * *
Nào phải nông gia sợ mất mùa,
Tiều phu nghề ấy khỏi nài mua.
Rừng tòng phủi sạch điều hơn thiệt,
Rìu búa chi màng cảnh được thua.
Trối kệ những ai ham đổi mới,
Thìn lòng riêng tớ giữ nghề xưa.
Chim trời cá nước ai ngăn đón,
Danh lợi đâu cần nhọc trí đua.
HIẾN PHÁP Trương Hữu Đức
Biệt hiệu THÂN DÂN.
Giỗ Tổ Hùng Vương
Cây có cội, nước có nguồn,
Mồng mười giỗ Tổ Đức Hùng
Vương.
Hoan nghinh đại nghiệp ơn
khai sáng,
Tưởng niệm công trình lập
kỷ cương.
Đất Việt địa linh sanh tuấn
kiệt,
Trời Nam quốc vận mạnh phi
thường.
Giang san gấm vóc bền chân
vạc,
Đảnh tộ Việt-Thường vững bốn
phương.
THÂN DÂN
Huệ Giác hoạ:
Việt chủng vì chưng rõ gốc
nguồn,
Đua nhau giỗ Tổ Đức Hùng
Vương.
Tiền nhân bố đức khai cơ
nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ
cương.
Văn hiến tạo nên còn chói
rạng,
Lạc Hồng roi giống há
khinh thường?
Hiềm đang tranh chấp chia
bờ cõi,
Cầu nguyện Bắc Nam hiệp nhứt
phương.
Đức Thượng-Sanh (Huệ Giác)
Hiến-Pháp hoạ thi của Đức Quyền Giáo-Tông
Giáng Cơ ngày 13-10 Kỷ Mão (14-11-1951)
Bao năm chi xiết nỗi ân
tình,
Hồi tưởng thâm giao nghĩa
đệ huynh.
Ngắm vật nhớ người đà vắng
bóng,
Nhìn pho bửu ảnh vẫn mơ
hình.
Hoằng khai Đại-Đạo nêu
gương Thánh,
Phổ-Độ quần sanh hiệp Chí
linh.
Tam giáo Ngũ Chi đồng thống
nhứt,
Mong chờ vận hội dựng Hoà
bình.
Chánh kỷ hoá nhân
Chánh kỷ trước rồi mới hoá
nhân,
Đạo mầu rèn luyện khá
chuyên cần.
Tồn tâm tự giác nhi tha
giác,
Dưỡng tánh canh tân hựu nhựt
tân.
Tô điểm nền NHÂN gìn đạo
NGHĨA,
Vun bồi cội PHÚC vẹn Tu THÂN.
Đem gieo Thánh-cốc nơi trần thế,
Toàn thể chúng sanh hưởng huệ ân.
Thân Dân
04 - Bảo-Pháp
Bảo-Pháp 保 法
(Fr: Conservateur Juridique)
NGUYỄN TRUNG HẬU
(1892-1961)
Ngày sinh 5 -3 năm Nhâm-Thìn (dl 1-4-1892)
Ngày qui:7-9
Tân-Sửu (Dl 16-10-1961) lúc 16g 50
Hưởng thọ 70 tuổi tại nhà riêng ở Gia-Định.
Pháp-Chánh-Truyền dạy:
“Bảo-Pháp là vị Thời quân thuộc chi
Pháp, đặng đồng quyền cùng Hộ-Pháp khi đặng lịnh Người sai đi hành chánh, song
mỗi vị có mỗi phận-sự riêng, quyền hành riêng.
“Bảo-Pháp thì gìn-giữ sự bí-mật ấy
cho kín nhiệm, làm tờ đoán xét và định án chiếu y luật Đạo rồi dâng lên cho Hộ-Pháp
đặng Người phân xử.
“Bảo-Pháp là người Đầu-phòng-văn của
Hộ-Pháp”
“Thầy buộc cả chi Pháp phải thề giữ
dạ vô tư mà hành chánh"
“Trách nhiệm của Bảo-Pháp là bảo-tồn
luật pháp, bảo hộ không cho ai được phạm đến những điều lệ nào đã thành mặt luật”
(Hiến-Pháp Nhâm-Dần 1932)
Bài Thài hiến lễ:
Đối với nền Đại-Đạo rất đặc biệt là các bậc Chức-sắc cao cấp khi qui Thiên,
liền giáng đàn cho một bài thi làm “Bài thài hiến lễ” riêng cho các Ngài:
Nhà Phật hôm nay giữ Đạo mầu,
Phiền ba nghĩ lại có vui
đâu.
Tẻ đường phi thị noi đường
tịnh.
Tìm cửa Từ-bi lánh cửa Hầu.
Xác thịt trải qua miền gió
bụi.
Nắm xương chờ gởi bóng
tang du.
Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn…
Giọt nước nhành Dương gợi
tấm sầu.
Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu
A - THÂN-THẾ VÀ SỰ-NGHIỆP
1 - Phần Đời:
Ông tên thật là Nguyễn-văn-Hậu bút hiệu là Thuần Đức, tức là Nguyễn-Trung-Hậu
sinh ngày mùng 5 tháng 3 năm Nhâm-Thìn (dl 01-04-1892) tại xã Bình hòa, tỉnh
Gia Định (nay là quận Bình-Thạnh).
Thân sinh là ông Nguyễn-Phục-Lễ, còn có tên Nguyễn Văn Nhiêu, bút hiệu Tiết
Văn, Đông y sĩ, làm bốn khóa Hội đồng địa hạt Tỉnh Gia Định.
Thân-mẫu là Bà Lê-Thị-Cơ, người gốc Bình Định.
Ông phối-ngẫu với Bà Diệp Thị Nguy (thường gọi là Diệp Thị Quy con của ông
Diệp Văn Chỉ và bà Dương Thị Kiển) kết hôn ngày 4-10-1919 (dl 11-8 Kỷ-Mùi) sanh
được 8 người con: 5 trai, 3 gái. Các con cùng với hầu hết dâu, rễ đều noi ý cha
theo nghiệp Đạo.
Ông Hậu theo Tây học, nhưng cũng biết Hán-học, lại thông minh, là thi nhân
trong văn giới miền Nam, tốt nghiệp trường sư phạm Gia-Định (École Normale de
Gia-Định) tháng 2 năm 1911. Khi ra trường Người được bổ làm Giáo-viên tại một
trường ở đường Taberd, trước đây gọi nôm na là trường “Sở cọp”. Sau trường này
bị bãi bỏ mới về dạy tại trường Tiểu học đường Richaud, nay là đường Nguyễn
Đình Chiểu.
Đến năm 1919 làm Thơ-ký cho ông Giám-đốc các trường tiểu học Sàigòn.
Năm 1922 được làm Giám-đốc trường tư thục Internat primaire de Dakao tại đường
D'Ariès, kế đổi là Tư thục Huỳnh Khương-Ninh.
Những năm sau đó, thỉnh thoảng Người có làm Giáo sư Pháp-văn Trường Hưng-Việt,
trường Nguyễn Anh Bổn tức là trường Nguyễn Phan Long cũ, trường Nguyễn Du....
Năm 1930-1931, Người vừa viết báo cho Đuốc Nhà Nam, Hoàn Cầu Tân Văn của
ông Nguyễn Háo Vĩnh, vừa làm chủ bút tờ tạp chí Pháp văn La Revue Caodaiste và
năm 1932 làm chủ bút nguyệt san Đại Đồng của Liên hòa Tổng Hội do ông Nguyễn
Phan Long lãnh đạo.
Đến năm 1934, vì bệnh hoạn liên miên, nhờ ông Cai tổng Trương Vinh Quy và
ông Phán Của giúp đỡ từ Cầu Kho (Saigon) về nương ngụ tại số 186/42 đường Ngô
Tùng Châu (nay là 101/71, đường Nguyễn Văn Đậu, quận Bình Thạnh) cho tới ngày
qui vị, thọ 70 tuổi.
2 - PHẦN ÐẠO
Vào đầu tháng giêng năm 1926, Người nghe tin quí ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh
Cư, Cao Hoài Sang cầu cơ có Tiên giáng cho thi hay lắm. Người đến nhà ông Cư
xem coi tình hình và được bài Thánh huấn đầu tiên của Đức Chí-Tôn đến với tá
danh AĂÂ:
THI
THUẦN văn chất ĐỨC tài
cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng
vào.
Non nước muốn nêu danh tuấn
kiệt,
Đến hồi múa bút vụt cờ
Mao. (1)
(1) Theo các tài liệu sử Đạo thì câu này là:
“Đến hồi búa Việt giục cờ
mao”
Vì điểm danh đúng bút hiệu Thuần Đức, nên Người đã có niềm tin. Một hôm
khác, trong một buổi Xây bàn, Người bạch cùng Đấng AĂÂ rằng:
“Tôi còn nhớ hai câu đối
thuở nay chưa ai đối được, nên xin đem ra nhờ Ngài đối chơi cho vui.
Đức AĂÂ đáp:
“Bần Đạo xin hầu đối,
nhưng nếu đối ra không chửng, quí vị chớ cười mà niệm tình Bần-đạo mà chấn chỉnh
lại cho".
Câu đối của Thuần Đức ra :
"Ngồi yên ngựa đừng
bò con nghé"
Đức AĂÂ đối lại:
"Cỡi lưng trâu chớ khỉ
thằng tê"
Thuần Đức ra: "Ngựa
chạy mang lạc”
Đức AĂÂ đối lại: "Cò
bay le bè"
Lời bàn: Những câu đối nôm này một chữ mà hai nghĩa:
Thí dụ câu: Ngồi yên ngựa đừng bò con nghé.
- Đây chỉ là một lời dặn dò của người lớn!
- Nghĩa thứ hai là trong câu này nói đến tên của ba con vật: Ngựa, bò,
nghé.
Đối lại: Cỡi lưng trâu chớ khỉ thằng tê.
Ý tứ cũng rất chỉnh là thứ nhứt ngụ ý lời khuyên răn.
Kế đến là tên ba con vật: trâu, khỉ, tê.
Thế nên khi nghe xong tất cả những người có mặt đều hết sức phục tài Đức
AĂÂ.Cũng nhờ đó ông Thuần-Đức nhập môn theo Đạo Cao-Đài từ thuở ban đầu vào đêm
14 rạng rằm tháng 3 năm Bính-Dần (Dl 25 rạng 26-4-1926) thọ Thiên phong Tiên Đạo
phò cơ Đạo sĩ, cùng ông Trương-Hữu-Đức.
Đến năm 1926 vì làm ăn sa sút, ngày 23-6-1926 (Dl 14-5 Bính-Dần) Người có cầu
hỏi Đức Chí-Tôn coi nên tiếp tục hay để cho sụp đổ, thì Thầy dạy:
THI
Con muốn làm sao tự ý con,
Nhà nghèo nhơn nghĩa miễn
vuông tròn.
Thầy đâu nỡ để môn đồ cực,
Mối đạo giữ cho ngàn thưở
còn.
Đến ngày 21-7 Bính-Dần (dl 04-08-1926) Người tự thấy không thể đứng vững được
nữa với mái trường “Internat de Dakao”nên cùng với ông Đốc-học Đoàn-Văn-Bản thỉnh
giáo Thầy một lần nữa (mỗi người thỉnh giáo việc riêng của mình) thì Thầy giáng
cho mỗi người một bài thi, trong đó bài thi cho ông Thuần-Đức như sau:
THI
Cái khiếu thông minh con ở
đâu?
Kêu Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ là quân tử chi màng việc,
Hễ biết điều cao bớt việc
sầu.
Theo lời dạy của Đức Chí-Tôn, Người giao trường lại cho ông Huỳnh Khương
Ninh rồi gia nhập vào Tôn giáo Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Ngài với ông Trương Hữu Đức lãnh lịnh đi phổ-độ trong các tỉnh Chợ Lớn, Gò
Công, Tân An, Mỹ Tho, Định Tường, Bến Tre.
Trước đó có đàn Cơ ngày 16-11-1925 có vị Quí Cao là một Thi sĩ đã quá vãng
cũng là bạn thơ của Ngài xưa kia có giáng đàn cho:
THI
Thương nhau nhớ lúc hứng
thơ hòa,
Sanh tịch đôi đàng phải
cách xa.
Chén rượu đồng tâm nghiêng
ngửa đổ,
Biệt ly này trách bấy Trời
già.
Quí cao
Thuần-Đức họa lại:
Đêm khuya tịch-mịch gió
thu hòa,
Chạnh nghĩa kim bằng dạ
xót xa.
Đạo-lý những mong vầy một
cửa.
Ngờ đâu rời-rã buổi chưa
già.
Thuần-Đức
Ông Nguyễn-Trung-Hậu vốn là một nhà thơ lỗi-lạc, một ký-giả có bút hiệu Thuần-Đức,
một văn-tài trong làng báo, giờ đây gặp được cơ huyền-diệu. Đức Chí-Tôn mới
dùng Cơ Bút để giáo-hóa nên làm tăng lòng hứng khởi, do vậy mà bấy giờ Ngài
sáng tác nhiều hơn và xướng họa thi văn với đủ các giới, các cõi từ hữu hình đến
vô hình.
Ngày 15-12-1925 Ông Thuần-Đức có bài thơ xướng:
THI
Mấy năm rồi cũng phủi tay
không.
Đường thế chiêm-bao một giấc
nồng.
Nặng nghiệp phong-trần buồn
với phận
Lo bề trung hiếu thẹn cho
lòng.
Trời cao chưa phỉ tình mây bạc.
Đất túng càng khinh chốn
chậu lồng.
Chờ gặp cố nhân lòng
dám hỏi:
Hỏi ra mới biết vận
cùng thông ?
Hầu như các bậc Thiên mạng đến cảnh
trần đều ngao ngán cảnh trần, chớ không phải chán đời mà tìm cách lánh đời. Chính cũng vì động cơ chán ngán ấy
thúc đẩy mà quyết ra tay cứu đời, quyết làm theo lời Thầy dạy-dỗ để sẵn-sàng
“Tu mà cứu thế dễ như không”!
Ông Quí-cao gíáng đáp họa:
Một tiếng U-minh gióng cửa
Không.
Phồn-hoa giựt tỉnh giấc
đương nồng,
Ngồi thuyền Bát-Nhã qua
tình biển,
Mượn nước nhành Dương rưới
lửa lòng,.
Cuộc thế lạnh-lùng làn gió
lọt,
Đường đời ngán-ngẫm bụi trần
hồng.
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên
Đạo,
Oan trái phủi rồi phép Phật
thông
Quí-Cao
Thuở ấy Đức Thượng-Đế còn ẩn danh dưới từ AĂÂ, nên các Ngài không chút sợ-sệt,
cứ nghĩ đây là một vị Đại Tiên sẵn-sàng giải đáp cho những thắc-mắc, nên cầu Ngài
giải giùm cho mấy từ-ngữ khó của ông Quí-Cao.
Đức AĂÂ giải:
Bát-Nhã: đây chính là Bát-Nhã Ba-la-Mật, có nghĩa là Phật độ vong hồn qua
khỏi biển khổ đặng đến Tây-phương. Vì trước khi đến Tây-phương phải qua một cái
biển khổ.
Tình biển: hay biển tình. Tình là oan oan, oan oan là khổ, Biển tình là biển
khổ.
Phồn hoa: Phồn nghĩa là trong vòng, Hoa nghĩa là sắc dục. Phồn hoa nghĩa là
giấc phàm.
Ngài nhập môn theo Đạo Cao-Đài vào năm Ất-Sửu (1925) Lúc ban sơ còn Xây
bàn, Ngài Nguyễn Trung-Hậu là một trong số 12 Môn-đệ đầu tiên của Đức Chí-Tôn,
chỉ định qua bài thơ Tứ tuyệt.:
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài
sanh,
Bản đạo khai Sang Quí Giảng
thành.
Hậu Đức Tắc Cư thiên địa cảnh,
Quờn Minh, Mân đáo thủ đài
danh.
Trong 12 tên được điểm danh nhưng thực tế có 13 vị, vì có hai người trùng
tên Sang và sau cùng thì Ông Chiêu tách riêng lập ra phái Chiếu-Minh nên rốt lại
thì cũng đủ 12 người.
Vào khuya mồng một Tết năm Bính-Dần (dl 13-12-1926) khoảng giờ Tý, Ngài tái
cầu thì Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáng dạy rằng:
“Đức, Hậu tập Cơ sau theo mấy Anh mà độ người, nghe!”
Năm Bính Dần (24-9-1926) Đức Chí-Tôn cho ông Nguyễn Trung Hậu bút hiệu Thuần-Đức
bài thi khoán thủ:
THI
THUẦN phong mỹ tục giáo
nhơn sanh,
ĐỨC hóa thường lao mạc dị
danh.
HẬU Thế lưu-truyền gia
pháp quí,
GIÁO dân bất lậu tán thời
manh.
Bài thi kế tiếp:
Đã có căn phần dựa cảnh
Tiên,
Bước đời chớ quản bậc sang
hèn.
Mưa mai nắng xế chờ qua khỏi.
Đêm tối lần ra gặp ánh
đèn.
Ngày 15-3-Bính Dần (dl 26-4-1926), Ðức Chí-Tôn phong Ngài Nguyễn Trung Hậu
cùng với Ngài Trương Hữu Ðức làm Tiên Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ.
Hai Ngài trở thành cặp phò loan cầm cơ cho các Ðấng thiêng liêng phổ-độ
nhơn sanh các tỉnh: Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre.
Ngày 12-1-Ðinh Mão (dl 13-2-1927), Ðức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài,
Ðức Chí-Tôn phong Ngài Nguyễn Trung Hậu vào phẩm Bảo-Pháp Hiệp-Thiên-Đài
Lúc bấy giờ, Ngài cũng như chư vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài khác đều là công
chức hay tư chức, nên sau khi mãn giờ làm việc ở cơ quan thì mới đi phò loan
cho nhơn sanh nhập môn cầu Đạo, có khi chấp cơ suốt đêm, sáng lại đi làm việc
luôn. Nhờ các Ðấng hộ trì, nên tuy vất vả nhưng các Ngài không biết mệt nhọc và
ốm đau.
Ngày mùng 7-3-Quí Dậu (dl 1-4-1933), Ðức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung cùng
với Ðức Phạm Hộ-Pháp ra Châu Tri số 01, cử ba vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài tạm
qua cầm quyền Chưởng Pháp bên Cửu-Trùng-Đài Ngài Bảo-Pháp Nguyễn-Trung-Hậu đảm
nhiệm Quyền Thái Chưởng Pháp.
Khi Ðức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung qui Thiên năm 1934, Ngài Bảo-Pháp trở
về Hiệp-Thiên-Đài. Sau đó, Ngài bị bịnh hoạn liên miên, nên xin phép lui về tư
gia dưỡng bịnh ở đường Ngô tùng Châu Gia Ðịnh.
Ngày mùng 5-Giêng-Bính Thân (dl 16-2-1956), Ðức Phạm Hộ-Pháp bị Chánh quyền
Ngô Ðình Diệm bó buộc nên phải đi lánh nạn, lưu vong sang Cao Miên.
Lúc bấy giờ nền Ðạo tại Tòa-Thánh Tây-Ninh thiếu người gánh vác. Hội-Thánh
yêu cầu Ðức Thượng-Sanh lên Tòa Thánh nắm quyền điều hành nền Ðạo. Ðức Thượng-Sanh
họp cùng chư vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài, trong đó có Ngài Bảo-Pháp, đồng ý trở
về Tòa Thánh, trấn an bổn đạo và đứng ra gánh vác nền Ðạo.
Đầu tháng tư Đinh-Dậu (tháng 5 năm 1957) Ngài cùng với Đức Thượng-Sanh và
quí vị Thời-Quân về Tòa Thánh tái thủ phận sự. Ngày 15-4 Đinh-Dậu (dl
14-5-1957) Ngài được Hội-Thánh cử làm Giám đốc Hạnh Đường dạy khoá Giáo Hữu và
Lễ Sanh, đúng theo chơn truyền của Đạo. Cũng trong thời gian này Ngài thành lập
lại Ðạo-Đức Văn Đàn mà trước đây do Ngài Cao Tiếp-Đạo bút hiệu Huyền-Quang,
Chánh-Đức đứng ra thành lập vào năm 1950 và chỉ hoạt động được 2 năm. Ngài dạy
về niêm luật Đường-thi được nhiều người hưởng ứng. Ngài Bảo-Pháp có cảm tác bài
thi để kỹ-niệm:
CẢM TÁC
Hội-Thánh giao cai quản Hạnh
đường,
Ân cần lo lập kỷ trần
cương.
Giúp người tâm chí hành
Thiên mạng,
Tuyển bực nhân hiền trấn tứ
phương.
Học hỏi khép vào khuôn Ðạo
lý,
Lọc lừa mở rộng cửa khoa
trường.
Góp phần xây dựng trong
muôn một,
Khó vẫn không nao, nhọc chả
màng.
Trong thời gian này vì tuổi già sức yếu (bị huyết áp cao) ngày rằm tháng 11
năm Mậu-Tuất (dl 24 tháng 12 năm 1958) Ngài trở về Gia Định dưỡng bịnh. Trong
cuộc chính biến ngày 11-11-1960, do nhóm người tổ chức đã tự ý để tên Ngài vào
bản tuyên ngôn nên sau đó Ngài bị nhà cầm quyền Sàigòn cũ tạm giữ một tháng năm
ngày từ ngày 18-11-1960 đến 22-12-1960. Trong thời gian bị tạm giam, Ngài có làm 12 bài thi. Trong bài cảm thuật có
2 câu:
Ai biết ta chăng ta tự
biết,
Riêng hiềm có miệng
cũng như câm.
Từ đó Ngài sống thanh đạm tại Gia Định với các con an hưởng tuổi già. Ngài
vẫn còn làm thơ và xướng họa với các bạn Đạo và các môn sinh trong Đạo-Đức
Văn-Đàn qua đường bưu điện. Ngài cũng thường làm thơ tự thuật, tả cảnh, tả tình
gói niềm tâm sự trong các vần thơ và cũng trong thời gian này Ngài thường xướng
họa thơ với các thi sĩ lão thành trong Nam Phong Thi Xã.
Năm 1961: Ngài qui Thiên sau một cơn bạo bịnh tại tư gia. Thời gian bịnh
kéo dài đúng một trăm ngày, Ngài thoát xác qui thiên tại Gia-Định vào lúc 16 giờ
50 ngày mùng 7 tháng 9 năm Tân Sửu (dl 16-10-1961). Tang lễ được Hội-Thánh cử
hành theo lễ Đạo trong 5 ngày và tạm an táng tại nghĩa trang gia đình của ông Bảy
Bích tại Cây Quéo.
Sau hơn 13 năm, gia đình có đơn yêu cầu xin cải táng hài cốt Ngài về Tòa
Thánh Tây ninh. Với công trình ấy, nên sau ngày cải táng Ngài về đất dành riêng
cho Thập Nhị Thời Quân thì quí thi gia trong Đạo Đức Văn Đàn có xuất bản tập
HOÀI NIỆM THUẦN ĐỨC TIÊN SINH (năm 1974, Giáp Dần).Tập Hoài Niệm này được Ngài
Hiến-Pháp, Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài ghi “Lời hoài cảm”.
B - Sự nghiệp văn chương:
Ngoài việc viết báo như đã trình bày ở phần trên. Ông Thuần Đức có dịch
đăng báo một số ít tiểu thuyết từ Pháp văn ra Việt-văn. Nhưng sự nghiệp thi phú
của Người là nổi bật hơn hết.
Người bước vào làng thơ năm 19 tuổi (1911) với bài tự thuật có hai câu chuyển
kết :
Cạn trần chưa biết ai là bạn,
Liều với xuân xanh bút một
ngòi.
Và bài thơ cuối cùng của Người đề ngày 30-6-1961, đúng 108 ngày trước ngày
Người về chầu Đức Chí-Tôn, là bài “THÔN CHIỀU BUỒN”, trong đó có cặp trạng báo
trước tâm sự người sắp ra đi:
Khoanh tay đứng ngóng thuyền
xa bến,
Đứt ruột ngồi nghe nhạn gọi
đàn.
Sự nghiệp thi phú của Thuần Đức bao gồm ba thời kỳ chủ yếu:
a/ - Thời niên thiếu:
Thời kỳ xướng họa với các thi hữu trong NGƯU GIANG THỊ XÃ trong các năm
1918-1920. Thời gian này người có sáng tác bài XUẤT GIA (1919) mà ngay cả các
con Ngài trong gia đình cũng ngộ nhận rằng Người sáng tác bài XUẤT GIA trong thời
gian tái thủ phận sự Đạo vào năm 1957-1958. Sau này, khi thu tầm lại tài liệu,
bút tích của Người để soạn quyển Thuần Đức Thi Hiệp Tuyển, mới tìm được sự thật
của thời gian sáng tác bài thi. Như vậy, Người đã có tư tưởng thoát tục trước
khi được Đức Chí-Tôn dưới tá danh AĂÂ điểm danh, trùng hợp với khoảng thời gian
Đức Ngô Minh Chiêu nghe hồng danh Đức Cao Đài tại tỉnh Tân An khoảng tháng 12
năm Canh Thân (đầu năm 1920).
b/ - Thời kỳ đã nhập môn vào Đạo CAO ĐÀI:
Trong thời gian này, Người sáng tác những bài thi thuần Tôn giáo, như bài
DƯỚI CHÂN THẦY, ĐẠI-ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ …
c/ - Thời kỳ tái thủ phận sự Đạo:
Trong thời gian này, Ngài thường xướng họa với quý vị Chức sắc Đại Thiên
Phong, như Đức Thượng-Sanh, Ngài Cao Tiếp-Đạo, Ngài Bảo Văn Pháp Quân… và quí
thi gia trong Đạo Đức Văn Đàn.
Bài Ai điếu ghi riêng trong tập: Những dòng lệ khô tiếp nối Cùng Soạn giả.
(Vì viết chung một tập thì quá dày)
C - Tác phẩm:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét