Thập Nhị Thời Quân - 3 / 4 (Nguyên-Thủy)

Ngài Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu có viết và xuất bản nhiều sách Đạo, giải thích và truyền bá Giáo lý của Đạo Cao Đài, kể ra sau đây:

1 . Luận Đạo Vấn Đáp (1927)
2 . Tiên Thiên Tiểu Học (1927)
3 . Bài Thuyết Đạo.
4 . Châu Thân Giải.
5 . Ăn Chay.
6 . Đức Tin.
7 . Chơn Lý (1928)
8 . Đại-Đạo Căn Nguyên (1930)
9 . Thiên Đạo (1955), viết chung với Phan trường Mạnh.
10 . Luân Hồi Quả Báo (1956) viết chung với Ngài Khai-Đạo Phạm tấn Đãi.

Về việc viết sách phổ truyền Giáo lý Đạo Cao Đài, Ngài Bảo-Pháp lo ngại có điều sai sót không tránh khỏi, nên Ngài cầu hỏi Đức Chí-Tôn, thì Đức Chí-Tôn giáng cơ trả lời như sau: (Phò loan: Bảo-Pháp - Hiến-Pháp) [tháng 5-1927]

"Hậu ! Sách con làm ra đều có giá trị, là nhờ Thầy giáng tâm con.
Con sợ sai lầm cũng phải, nhưng về sự sai siển, dầu bậc Thánh xưa làm sách cũng còn nhiều chỗ khuyết điểm. Vậy con cứ an lòng mà làm ích thêm nữa. Thầy hằng ở bên con mà dìu dắt cho trí hóa rộng thêm,nghe con! Năm 1928, Ngài Bảo-Pháp cũng có hỏi Đức Chí-Tôn về việc viết sách Đạo, Đức Chí-Tôn đáp:

“Hay đó con ! Con cứ lần lần đến đâu thì có giá trị đến đó, tùy theo trình độ học cứu mà tấn hóa, nghe !"

Sau khi Ngài Bảo-Pháp đăng Tiên, người con trưởng nam của Ngài là Hiền Tài Nguyễn Trung Ngôn, đại diện gia đình của Ngài Bảo-Pháp, viết văn thư đề ngày 27-6 Quí Sửu (dl 26-7-1973) hiến dâng cho Hội-Thánh bản quyền tất cả sách của Ngài Bảo-Pháp viết ra kể trên để Hội-Thánh tùy nghi ấn hành phổ biến và được Hội-Thánh chấp nhận ngày 7-8-1973.

Ngoài việc làm thi và viết sách Đạo, Ngài Bảo-Pháp còn có thiên tài đặc biệt viết các câu liễn đối. Tuy Ngài tự học chữ Nho, nhưng nhờ sự thông minh lỗi lạc của bậc nguyên căn, khiến các cụ đồ Nho và người Tàu phải chịu khâm phục.

Ngài Hiến-Pháp Trương Hữu Đức có thuật lại “Tôi còn nhớ lúc nọ, Đức Lý Đại Tiên giáng cơ khen tặng và nói rằng: Ai muốn xin liễn thì xin nơi Hậu".

Ngài Bảo-Pháp viết đôi liễn cho Thuyền Bát Nhã:
- Vạn sự viết vô, nhục thể ký qui tam xích thổ,
- Thiên niên tự hữu, linh hồn trực đáo Cửu Trùng Thiên.

Nghĩa là: Muôn việc đều không, xác thịt trả về ba tấc đất. Ngàn năm tự có, linh hồn thẳng đến chín từng không.

Hai câu liễn nầy rất hay, đối rất chỉnh, nhưng khi dâng lên Đức Lý Giáo-Tông thì Đức Lý chỉnh lại đoạn sau, ý tứ lại càng cao-kỳ, tuyệt diệu hơn nữa:
- Vạn sự viết vô, nhục thể thổ sanh hoàn tại thổ.
- Thiên niên tự hữu, linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên.

Nghĩa là: Muôn việc đều không, xác thịt đất sanh hoàn lại đất. Ngàn năm tự có,linh hồn Trời hoá trở về Trời.

Trong gia đình, Ngài Bảo-Pháp Nguyễn-Trung-Hậu là người con hiếu thảo. Nhờ công quả của Ngài lập được trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà thân mẫu của Ngài được siêu thăng và tăng cao phẩm vị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, đúng với hai câu kinh trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ qui liễu:
Thong dong cõi thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa.

Thân mẫu của Ngài Bảo-Pháp được Đức Chí-Tôn cho phép giáng cơ bày tỏ với Ngài như sau:

Ngày 19-2-1929. Phò loan : Bảo-Pháp - Khai-Pháp.
"Mẹ mừng con, Mẹ cám ơn con đó.
Con đâu rõ đặng ngày nay Mẹ nhờ công con mà đặng thăng cấp. Nay Mẹ đặng vào Đông Đại Bộ Châu. Ấy cũng nhờ ơn của Đức Chí-Tôn rất thương mà cho Mẹ vào phẩm ấy.

Mẹ chẳng biết lấy chi mà thông công cho hai con và các cháu, nên mới dụng huyền diệu mà Mẹ đã cầu xin Chí-Tôn ban cho Mẹ đặng cho con cùng cháu hay rằng Đức Chí-Tôn đã giữ lời hứa cùng con. Nay Mẹ đến khuyên hai con khá lo sao cho tròn phận sự, ngày thêm vun đắp nền Đạo đặng báo đáp Ơn Trên đã hết lòng vì cả nhà ta. Nếu con có lòng ấy thì Mẹ rất vui lòng đó, con hiểu ?

Mẹ rất vui thấy lòng con, nên Mẹ mới xin phép Chí-Tôn đến đây tỏ ít lời cho con hiểu. Vậy con khá an lòng mà lo Đạo, chớ nên vì việc nhỏ mà nao chí nghe !

Tôi chào nhị vị Thánh (Nói với ông Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa và Bác-vật Lưu-văn-Lang). Tôi chẳng biết lấy chi cám cảnh cho bằng dùng vài lời nhắc đây: Xin nhị vị khá hết lòng lo hiệp tác mà nâng cao địa vị mình càng ngày cho tột phẩm.

Tôi đây chẳng chi xứng phận mà cũng nhờ ơn Chí-Tôn thương tưởng thay. Ấy cũng nhờ sức con mới đặng vậy, không thì biết sao mà kể xiết.

Ấy đó, công của nhị vị càng dầy thì Chí-Tôn càng yêu dấu. Xin khá để hết tâm chí mà hành phận sự. Ấy là lời tôi xin nhị vị khá để ý.

(Hỏi về việc ông thân của tôi)
- Mẹ không dám nói. Thôi Mẹ lui."
Vào cuối năm 1958, do tuổi già sức yếu, lại bị bịnh áp huyết cao, Ngài Bảo-Pháp phải xin phép trở về dưỡng bịnh tại tư gia ở đường Ngô Tùng Châu, Gia Định.

Nhưng Thiên số định kỳ, Ngài đăng Tiên tại tư gia lúc 16 giờ 50 phút ngày 7-9 Tân Sửu (dl 16-10-1961), hưởng thọ 70 tuổi. Hội-Thánh có đến cử hành tang lễ trong 5 ngày và tạm an táng nơi nghĩa trang gia đình của Ông Bảy Bích tại Cây Quéo, Gia Định.

Ngài có cho Bài Thài tế lễ Ngài:
THI
Nhà Phật hôm nay giữ Đạo mầu,
Phiền ba ngảnh lại có vui đâu.
Tẻ đường phi thị, noi đường tịnh,
Tìm cửa Từ bi, lánh cửa Hầu.
Xác thịt trải qua miền gió bụi,
Nắm xương nhờ gởi bóng tang du.
Lửa lòng vụt tắt từ đây vẫn,
Giọt nước nhành dương gội tấm sầu.

D - Hài cốt Ngài Bảo-Pháp được cải táng:
13 năm sau, vào giữa năm Giáp-Dần (1974), (theo lời thuật lại của Hiền Tài Nguyễn Trung Nhơn, thứ nam của Ngài Bảo-Pháp), thì Ngài Bảo-Pháp ứng mộng cho các con của Ngài, bảo lên xin với Hội-Thánh cải táng cho hài cốt Ngài về Thánh địa Tây Ninh nội trong năm nay (1974). Do đó, các con của Ngài dâng tờ lên Ngài Hiến-Pháp, lúc đó đang cầm quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài và được Ngài Hiến-Pháp chấp thuận.

Ngày 4-9 Giáp-Dần (dl 17-10-1974), Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức, Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài đích thân ra lịnh tổ chức lễ cải táng.

Ban Nhà Thuyền Trung Ương do Giáo Sư Thái-Hồ Thanh hướng dẫn đến phần mộ, đưa quan tài lên khỏi huyệt và mở ra. Điều đặc biệt làm mọi người ngạc nhiên là thi hài của Ngài Bảo-Pháp vẫn còn nguyên vẹn như lúc mới thoát xác, sau 13 năm mà không bị tan dữa như các thi hài khác, lại không khô cứng, nên chỉ cần dùng rượu trắng thoa bóp thì có thể sửa đổi tay chân, đặt thi hài từ tư thế nằm trở thành tư thế ngồi kiết-dà, tay bắt Ấn Tý, để liệm vào liên đài một cách dễ dàng.

Liên đài được quàn lại tư gia một đêm để Tế Điện. Hôm sau, Hội-Thánh rước liên đài kỵ Long Mã đi về Tòa Thánh Tây Ninh, tới nơi vào chiều ngày mùng 6 tháng 9 Giáp-Dần và được đặt nơi Báo Ân Từ.

Hội-Thánh thiết lễ tế điện và cầu siêu.
Ngày mùng 7-9 Giáp-Dần, Liên đài kỵ Long Mã đến Đền-Thánh, thỉnh Bửu ảnh vào kỉnh lễ Đức Chí-Tôn và sau đó, Liên đài kỵ Long Mã đi ra đất Ao Hồ nhập Bửu tháp.

E - Bậc Nguyên-nhân đến trần:
Về nguyên căn của Ngài Bảo-Pháp Nguyễn-Trung Hậu, Ngài có ghi lại như sau:

"Ngày mùng 3-7-Đinh Mão (dl 31-7-1927), nguyên Đức Chí-Tôn có cho biết tiền thân của Hậu là Xích Tinh Tử và của Đức là Từ Hàng Đạo Nhơn, may được Quỉ Cốc Đại Tiên giáng đàn, chúng tôi xin Ngài cho mỗi đứa một bài thi .

Bài thi cho Hậu (Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu) :
Đỏ đỏ một vùng ấy Hỏa tinh,
Nhà Châu tên tuổi đã rành rành.
Tam-Kỳtái thế an thiên hạ,
Hậu nhựt thành công hậu hứng tình.

Bài thi cho Đức (Hiến-Pháp Trương Hữu Đức):
Thập nhị Tiên gia nhứt tánh TỪ,
HÀNG phong vương mãn thọ hàn thư.
Trung niên thế cuộc tao vân mộng,
Quản thị Càn Khôn thủ Phật thư.

- Điển tích về các nhân vật trong tiền kiếp:
Theo Truyện Phong Thần, Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn, Giáo Chủ Xiển Giáo, có 12 người học trò giỏi, trong đó có: Xích Tinh Tử và Từ Hàng Đạo Nhơn.

12 vị học trò nầy được lịnh của Đức Nguơn Thủy xuống trần giúp Khương-Thượng Tử-Nha đánh các Tiên Triệt giáo, học trò của Đức Thông Thiên Giáo Chủ đang ủng hộ Vua Trụ. Phía các Tiên Xiển Giáo đánh phép thắng các Tiên Triệt Giáo, giúp Khương-Thượng tiêu diệt Vua Trụ, mở ra nhà Châu, với vua Châu-Võ-Vương. Xong các Tiên đều trở về núi tiếp tục tu luyện.

Nay đến thời Tam-Kỳ Phổ-Độ, các Tiên tình nguyện giáng trần làm tướng soái cho Đức Chí-Tôn Khai-Đạo.
Lúc sinh tiền Ngài có xướng họa thi văn với Đức Thượng-Sanh:

Hoài hữu gởi bạn Thuần-Đức:
Xa xuôi chiều ngóng mấy vần mây,
Thắt-thẻo dường như nhạn lạc bầy.
Vắng khách cảnh còn xơ-xác quạnh.
Chờ người sầu vẫn chập-chồng xây.
Chuông ngân luống nhắc lời giao ước,
Trống giục càng mong buổi hiệp vầy.
Đợi Bạn thuyền từ chưa tách bến,
Nhớ nhau xin cạn chút niềm tây.
                                                             Huệ-Giác ( 19-12 Kỷ Hợi - 1960)

Họa vận:
Xuôi ngược thêm buồn hội nước mây,
Trời sương ảm-đạm nhạn kêu bầy.
Mơ hồn hồ điệp đêm trắng lạnh,
Thương cái dã tràng bãi cát xây.
Năm tháng chưa phai lời ước hẹn,
Tẻ vui còn nhớ buổi sum vầy.
Chỉ vì lan tất không duyên hợp,
Mảng đứng bờ Đông vọng bến Tây.
                                                                                 Thuần Đức.

Thơ của Ngài Bảo-Pháp:
Thu thiên dạ vũ
Trời hôm như họa, gió như ru,
Bỗng chốc mưa dầm lợt vẻ thu.
Mâm bạc lờ-mờ mây phủ gấm,
Đóa vầng oằn-oại nước đeo châu.
Khoe tươi Trước tử cành đưa võng,
Gội mát ngô đồng lá đánh đu.
Hâm rượu Huỳnh-hoa ngồi uống đợi,
Phong quang đem lại cảnh duyên sầu.

                          Họa bài thơ Ngụ đời của Cao-Liêng-Tử:
Đời có chi mà phải ước mong!
Thoạt còn thoạt mất dưới vầng hồng.
Sang hèn biến đổi mây năm sắc,
Vinh nhục đầy vơi nước một dòng.
Thua được, được thua phiền lụy mãi,
Trả vay, vay trả nghiệp nhân còn.
Sao bằng hôm sớm say mùi Đạo,
Nhẹ gót an-nhàn mặc ruổi dong.

                          Tỉnh thế tu chơn:
Gió ngược xông pha đã lắm lần,
Trường đời gay cấn thấy dần lân.
Nước dương quyết rửa tan niềm tục.
Phất Chủ toan đem phủi bụi trần.
Bể khổ lần qua nhờ đuốc Phật,
Thuyền từ nhẹ lướt cậy đèn Thần.
Hằng ngày đạm bạc nhờ dưa muối,
Vui Đạo an tâm với cảnh bần.
                                                                                     Diệu Tuyến – 1-8-1958
Họa vận:
Giấc mộng phù sanh thức tỉnh lần,
Cảnh chiều thư thả đọc kinh luân.
Niệm hương tế độ hành Tam lập,
Lần chuỗi Từ bi tịnh lục trần.
Tháng lụn ngày qua giồi đạo hạnh,
Đêm chầy canh vắng dưỡng tinh thần.
Quản bao phi thị đời xuyên tạc,
Mặn lạt tương dưa chịu khổ bần.
( Thuần Đức – 8-8- 1958)

               Ông Bảo-Pháp gởi cho Đức Thượng-Sanh
                                      Cảm thuật:
Tuy xa nguồn Đạo tác phong còn,
Trăm giũa ngàn mài một tấm son.
Thuyền sớm ra khơi quày lại bến,
Chim chiều bạt gió hướng về non.
Trông lui chưa toại công ti-tí,
Nghĩ tới buồn cười chuyện cỏn-con.
Cúi ngửa giữ cho lòng khỏi thẹn,
Mặc ai toan bóp méo vo tròn.
                                                                         Thuần Đức – (7-12-1959)

Họa vận:
Còn sống đâu quên nhiệm-vụ còn.
Bến mê độ khách tạc lòng son.
Tuồng đời đã trải nhiều đau khổ,
Nợ Đạo toan đền rạng nước non.
Nhường-nhịn gắng qua cơn khảo lớn,
Ngược xuôi mong vững chiếc thuyền con.
Ơn Trên xây chuyển xin cầu nguyện,
Hòa hiệp đệ huynh nghĩa vẹn tròn.
                                                                         Huệ-Giác

Ngự Bình Thi xã ở Huế gởi cho cụ Thuần Đức hai bài thơ:
1 - Thương mà vận ghét:
Đã biết Thương mà không biết ghét.
Xem người bốn biển anh em hết.
Đem câu hòa ái chuốc trau lòng
Dệt chữ thâm tình sâu đậm nét
Ruộng Nghĩa nền Nhân cố bảo tồn.
Mây Từ mưa Pháp hằng tha-thiết,
Nhiễu điều phủ lấy giá gương trong,
Nâng-đỡ thương yêu là yếu quyết.

2 - Ghét mà vận Thương:
Non sông còn dấu vết tang thương,
Ghét bọn đầu cơ phản lập trường.
Trách kẻ bất tài mua địa vị,
Căm loài vô hạnh bán Thiên lương,
Rửa tai biến lộng câu đầu lưỡi,
Ngậm miệng cho qua ách giữa đường.
Đợi buổi cháy nhà ra mặt chuột.
Mấy phường đểu giả hết khoa trương.
                                                                      Thuần Đức (24-1-1960)

Họa vận Bài Tự thuật của Sĩ-Tải Hưởng:
Thoi đưa thắm thoát tháng ngày qua,
Lẻo-đẻo mà lên đến cảnh già.
Tình dục mừng xa vòng bảy sáu,
Thường cương hằng giữ đạo năm ba.
Rủi may an phận trên phù thế,
Lặn hụp thương ai giữa ái hà.!
Cúi ngửa hôm mai lòng chả thẹn,
Vắt tay nằm nghỉ hả hà ha!
                                                                      Thuần Đức

Bài Tự thuật của Sĩ-Tải Huỳnh văn Hưởng:
Vườn đời băm bảy cái thu qua,
Sự nghiệp chưa nên tuổi muốn già.
Lập Đức, công xưa vừa đủ chục,
Nối giềng con muộn được tròn ba.
Những mong xử vẹn thân trần cấu,
Nào quản gian lao chốn hải-hà.
Một gánh cang thường khi rảnh phận,
Ngày về may gội nước Ma-Ha.
                                                                                     Sĩ-Tải Huỳnh-văn-Hưởng

                          Thuần Đức họa với Thi đàn:
1 .
Muốn tiến cho mau cũng khó mau,
Còn vương chướng ngại một phần nào.
Tóc xanh thương thế nguyền chưa toại,
Đầu bạc riêng già tuổi đã cao.
Cửa Đạo buồn xem trò phản trắc,
Đường tu nào ngại cảnh gian lao.
Ngùi ngùi nhớ tới vườn thơ cũ,
Đã mấy phen hoa lá trổ màu.

2 .
Tình thương cuồn cuộn nước sông Hằng,
Ôm mối tư hoài đã mấy trăng.
Xót phận vô tài lo trở bước,
Lánh vòng đa sự sớm lui chơn.
Thiện chân thẹn với hàng cao kiến,
Địa vị xin nhường bậc quảng văn.
Sức khỏe tuy chưa hồi phục hẳn,
Mà lòng viễn biệt kể như gần.

3 .
Giáo-lý mang theo chỗ thực hành,
Góp phần phổ biến giữa nhơn sanh.
Sóng cồn biển khổ từng từng bạc,
Cây rập rừng Thiền lá lá xanh.
Những ước đêm mờ soi đuốc huệ,
Nào dè thân mọn ẩn lều tranh.
Thương đàn em dại đương ngơ-ngáo,
Nghịch cảnh vô phương để tác thành.

4 .
Mấy dặm quan hà mấy dặm trông,
Hiềm vì chưa tiện cánh chim hồng.
Tơ tằm vương vấn tình ưu-ái,
Thơ nhạn phô bày mối cảm thông.
Đường học vấn ai ngăn bước tiến,
Cảnh Tao đàn khách nặng lòng mong.
Nước bèo vẫn biết tan rồi hiệp,
Đạo ấy xin dùng chỗ thích trung.
                                                              Thuần Đức (Ngày 23-4-1959)

   Cảm thuật:
(Cụ Thuần Đức bị câu lưu một tháng sau cuộc đảo chánh Kỳ I ngày 1-11-1961)

Giữ-gìn danh giá mấy mươi năm,
Một đoạn đường qua cát bụi lầm.
Nghịch cảnh cam bề xa cửa Đạo,
Ngược chiều đưa bước đến nhà giam.
Gian lao ngần ấy lòng không nản.
Tội lỗi gì đây? Việc chẳng làm!
Ai biết ta chăng? Ta tự biết!
Riêng hiềm có miệng cũng như câm.

Từ ngày thọ lãnh chức Thiên phong,
Lòng Đạo trau tria thấm thía lòng.
Cảnh thịnh không vinh mà chẳng nhục,
Đường đời ngại núi lại e sông.
Riêng đây đã bén mùi dưa muối,
Ai đó còn nuôi chí Hộc Hồng!
Ví biết cõi trần là cõi tạm!
Cần chi ngàn tứ với muôn chung?

Cây cỏ nhờ sương sống phủ phê,
Đưa thoi cái én mách Xuân về.
Hồi chuông trừ tịch khai đời mới,
Tiếng trống giao thừa phá giấc mê.
Bờ Đạo dìm-dà hoa Tín-ngưỡng,
Ruộng lòng thơ-thới lúa Từ-bi.
Mượn lời thiện nguyện thay lời chúc,
Nguyện chúng sanh tu đúng kịp kỳ.
                                                              Thuần Đức ( Xuân Mậu-Tuất (1958)

   Họa bài TỰ THUẬT của Đức Thượng-Sanh:
Không đem tài đức nhắc đồng cân,
Mùi Đạo hôm mai được thấm nhuần.
Thú sẵn cờ Tiên vui nước Trí,
Cảnh nhàn mây gấm phủ non Nhân.
Hứng lằn gió huệ tan niềm tục,
Mượn giọt nhành Dương rửa bợn trần.
Phi thị dầu ai lời biếm nhẻ,
Những mong đem oán đổi làm ân!
                                                  Bảo-Pháp Thuần Đức

Bài thơ chữ Bần:
Vùng vẫy khó toan với chữ bần,
Khuấy chơi chi cứ quẩn bên chân.
Chỉn buồn bảng lảng tình bè bạn,
Đâu quản đeo đai mối nợ nần.
Rượu sớm mượn mùi khuây thế sự,
Thi chiều lựa vận ngóng tao nhân.
Tuồng đời ấm lạnh qua rồi chán,
Ướm mượn nhành dương quét bụi trần.
                                                  Nguyễn-Trung-Hậu

Dưới chân Thầy:
Vì thương sanh chúng độ kỳ ba,
Ba nhánh Thầy đem lại một nhà.
Nhà có chơn sư bền mối đạo,
Đạo không căn bản lạc đường tà.
Tà quyền khéo giở trò minh chánh,
Chánh pháp đem mưu cuộc hiệp hòa.
Hòa cả tinh thần hòa tín ngưỡng,
Ngưỡng mong Thầy mở Hội Long Hoa.
(1927)

Về Tòa-Thánh hành Đạo:
Tuổi già gặp buổi Đạo chinh nghiêng,
Đành phải ra tay chống đỡ thuyền.
Cỡi sóng quyết sang miền tịnh độ,
Thuận buồm nhờ núp bóng Cao Thiên.
Trên đường độ chúng vui đoàn kết,
Trong việc tu thân học Thánh Hiền.
Còn chút hơi tàn còn nhiệm vụ,
Còn lo phổ cập mối Chơn truyền.
                                                                         (6-7-1957)

CHƯƠNG III :

Tứ vị Thời Quân chi Đạo

CUỘC ĐỜI CỦA THẬP NHỊ THỜI QUÂN

05 - Tiếp-Đạo
Fr: Regislateur Religieux
CAO ĐỨC TRỌNG
(1896-1958)
Đạo Hiệu: Chánh Đức
Ngày sinh: 20-4 Đinh-Dậu (1897)
Ngày Qui: 23-5 Mậu-Tuất (1958)
Đạo hiệu: Có hai: Chánh-Đức và Huyền Hạo Đạo-nhơn
Đức Tiêu-Diêu Đạo-sĩ giáng tặng cho Đạo hiệu này:

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: “Thượng-Phẩm thì quyền về Ðạo, dưới quyền:
Tiếp Ðạo
Khai Ðạo
Hiến Ðạo
Bảo Ðạo

Lo về phần Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư Môn Ðệ Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng.

“Bốn vị Thời Quân của chi Ðạo, đồng quyền cùng Thượng-Phẩm khi người ban quyền hành chánh, song mỗi vị có phận sự riêng, quyền hành riêng là:

“Tiếp Ðạo là người tiếp cáo trạng án tiết thì phải quan sát trước coi có oan khúc chi chăng, đáng ra binh vực thì phải dâng lại cho Khai Ðạo.”

Bài thài hiến lễ:
Cỗi xác phàm vui lại cảnh Thiên,
Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
Trường Đời dầu chẳng tròn ân nghĩa,
Nợ Đạo rồi xong gác bút nghiên.
Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh Tuý,
Chơn mây ngẩn chạnh bạn rừng Thiền.
Từ đây dạo khắp trời non nước,
Nâng giúp quần sanh hưởng huệ duyên.
                                                                                     Tiếp-Đạo Chơn-Quân

Đức Hộ-Pháp nói về ông Tiếp-Đạo:
 “Khi Đức Chí-Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí-Tôn mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ chứ không phải mở Đạo Cao-Đài, tới chừng Ngài biểu cầm một cây Cơ và một ngọn Bút đi các nơi thâu môn đệ.

Trọng yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông đồ có sứ mạng trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ này đã giáng sanh trước đặng làm môi giới độ Đạo sau này. Đức Chí-Tôn biểu chúng tôi phò loan đặng Ngài dùng quyền năng thâu dụng mấy vị Tông đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân hiển hiện ra, trong số các vị Thời Quân ấy có CAO TIẾP ĐẠO ở tại Kiêm-Biên chớ không phải ở Sài-gòn.
Đi thâu Thập Nhị Thời Quân rồi Đức Chí-Tôn mới mở Đạo”. (ngày 13-10 Giáp-Ngọ - 1954)

A - Tiểu sử Ngài Tiếp-Đạo Cao-Đức Trọng:
1 - PHẦN ĐỜI:

Ngài Tiếp-Đạo quí danh Cao Đức Trọng, sanh ngày 20-4 Đinh-Dậu (1896) tại làng Ích Thạnh, quận thủ Đức, tỉnh Gia Định. (Ngài Cao Tiếp-Đạo là bào huynh của Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang, nên phần gia thế (xin xem Tiểu sử của Đức Thượng-Sanh)

Thuở thiếu thời Ngài rất thông minh, bản tính thuần lương và ngôn từ thanh tao nhã nhặn. Nhờ thế, khi làm ở Sở Chưởng Khế tại Thủ đô Nam vang (Cam Bốt) đều được bạn đồng sở mến chuộng.

2 - PHẦN ÐẠO:
Năm 1927, lúc Đức Phạm Hộ-Pháp đến Nam Vang, thủ đô nước Cao Miên để mở đạo thì Đức Ngài ngụ tại nhà Ngài Cao Đức Trọng. Lúc đó Ngài Trọng đang làm công chức Sở Chưởng Khế tại Nam Vang.

Tại đây, Đức Chí-Tôn giáng cơ thâu Ngài Cao Đức Trọng và nhiều vị khác vào hàng Môn đệ.
Đàn cơ ngày 29-6-Đinh Mão (dl 27-7-1927) Đức Chí-Tôn ân phong Ngài Cao Đức Trọng vào chức Tiếp-Đạo Hiệp-Thiên-Đài. Ngài là vị Thời Quân được Đức Chí-Tôn phong sau cùng trong số Thập Nhị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài.

Nhờ thiên thơ dĩ định, mà thân mẫu Ngài được phong chức Giáo-Sư tức bà Giáo-Sư Hồ Hương-Lự. Bởi trước đó đàn Cơ đêm 19-11-1926 phong phẩm vị cho chư Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài còn khuyết chức Tiếp-Đạo chính là để dành cho Ngài đây.

Cùng năm đó, Đức Phạm Hộ-Pháp lập Hội-Thánh Ngoại Giáo tại Kiêm biên, mãi đến năm 1938 Ngài mới lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng. Bấy giờ kinh tế khủng hoảng cùng khắp thế giới, trong Đạo cũng phải chịu ảnh hưởng, Ngài không màng thân phận, quyết tâm kiên trì chủ nghĩa thương đời, an ủi và dìu dắt toàn Đạo có phương sinh sống để an lo tu hành.

Năm 1942, giữa cuộc thế chiến thứ hai, sanh linh đồ khổ, Chánh quyền Pháp chiếm cứ Tòa Thánh và đóng cửa các Thánh Thất. Hội-Thánh Ngoại Giáo (Kiêm Biên) bị chiếm đóng, quả Càn Khôn bị đập, các Long vị Tiên Phật bị dẹp. Trước tình thế bất ổn, Ngài phải lánh nạn qua Thái-Lan, cũng là dịp thi hành thiên lịnh truyền giáo ngoại quốc.

Năm 1944, Ngài trở về Việt Nam, đến năm 1946, sau khi Nhật đảo chánh Pháp, các Thánh Thất được mở cửa lại, Tòa Thánh được trùng tu, Ngài phải chủ tọa Hội Nhơn-Sanh vì lúc đó chưa có Thượng Chánh Phối-Sư, để tuyển chọn Chức sắc cầu thăng.

Năm Quí Tỵ (1953), Thánh Lịnh số 281/TL cử Ngài Tiếp-Đạo làm Cố Vấn Hành Chánh Đạo kiêm Nghị Trưởng Hội Đồng Kinh Tế Châu Thành Thánh Địa. Sau đó Ngài được cử điều khiển Cơ Quan Truyền Giáo Hải Ngoại.

Năm 1954, Ngài lại lãnh nhiệm vụ truyền giáo ngoại quốc, kiêm nhiệm Cố Vấn Hành Chánh Đạo, giáo hóa Chức sắc cho thông hiểu luật pháp và chơn truyền Đại-Đạo. Cũng năm này, Ngài cầm quyền Chưởng Quản Cơ-Quan Phước-Thiện (nay là Hội-Thánh Phước-Thiện), là cơ quan bảo tồn lo giúp đỡ công ăn, việc làm, thuốc men, cơm áo cho bổn Đạo.

Năm Bính Thân (1956), sau khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong qua Nam Vang (thủ đô nước Cao Miên), Ngài Cao Tiếp-Đạo được Hội-Thánh cử làm Đại diện Hội-Thánh giao tiếp với Chánh phủ Ngô Đình Diệm, xếp đặt ổn định việc Đạo. Ngài cùng với Ngài Bảo-Thế Lê Thiện Phước thảo luận với Ông Nguyễn Ngọc Thơ, đại diện Chánh phủ Diệm, lập ra Thỏa Ước Bính Thân, qui định các điều khoản hành đạo của Đạo Cao Đài.

Ngài Cao Tiếp-Đạo được Chánh phủ Ngô Đình Diệm ủng hộ và thúc đẩy việc vận động với Hội-Thánh rước Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang (đang ở Sài Gòn) về Tòa Thánh Tây Ninh cầm giềng mối Đạo, thay thế Đức Phạm Hộ-Pháp đang lưu vong nơi nước Cao Miên.

Với sự ủng hộ của chánh quyền Ngô Đình Diệm, vả lại Đức Thượng-Sanh Cao Hoài Sang là bào đệ của Ngài Cao Tiếp-Đạo, nên việc vận động nầy thành công dễ dàng.

Tháng 5 năm 1957 (Đinh Dậu), Ngài Cao Tiếp-Đạo hiệp cùng Đức Thượng-Sanh và một số vị Thời Quân, từ Sài Gòn về Tòa Thánh Tây Ninh cầm quyền điều khiển nền Đạo.

Mấy lúc sau nầy, Ngài Cao Tiếp-Đạo lâm bịnh nặng, không ăn uống chi được, nên đến ngày 23-5-Mậu Tuất (dl 9-7-1958), Ngài qui Thiên hưởng thọ 62 tuổi.

Tang lễ được cử hành trọng thể tại Tòa-Thánh Tây Ninh theo hàng Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài, liên đài kỵ Long mã nhập bửu tháp.

Sau khi Ngài Cao Tiếp-Đạo đăng Tiên 2 ngày, Đức Thượng-Sanh và chư vị Thời Quân có tổ chức đàn cơ tại Giáo-Tông Đường, đêm 25-5-Mậu Tuất (dl 11-7-1958), lúc 7 giờ tối.
Phò loan: Thượng-Sanh - Bảo-Pháp.
Đức Cao Thượng-Phẩm giáng cơ cho biết như sau:

HIỆP THIÊN ĐÀI CAO THƯỢNG PHẨM
Chào mấy em,
Bần đạo cho mấy em Thượng-Sanh, Bảo-Pháp, Khai-Đạo biết, sự quyết định của Hội-Thánh Hiệp-Thiên Đài về chỗ an tọa liên đài của toàn Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài là hợp với Thánh ý.

Nếu chẳng vậy thì sự huyền bí di truyền nền Chánh giáo đều hỏng hết.
Hiệp Thiên tuy mất một bạn nhưng Thiên cơ định vậy.
Dầu sao, Tiếp-Đạo cũng sẽ là một Đấng dìu đường thiêng liêng cho mấy em làm tròn nhiệm vụ.
Còn xác thân là còn trách nhậm nặng nề với Đạo và Đời. Mấy em an lòng bước tới, không chi trở ngại đâu.
Tiếp-Đạo sẽ đến với mấy em trong một ngày gần đây, vì mắc bận chầu Bạch Ngọc Kinh và Ngọc Hư Cung.

Bần đạo xin chư đệ chớ nên nản lòng, sao sao cũng có Bần đạo và mấy bạn nơi thiêng liêng giúp sức.
Kính chào.” THĂNG.

B - Ngài Cao Tiếp-Đạo giáng cơ:
8 giờ đêm 3-6-Mậu Tuất (dl 19-7-1958) tại Giáo-Tông Đường
Phò loan: Thượng-Sanh - Bảo-Pháp.
Hầu đàn: Tả Phan Quân và hai vị Sĩ Tải.Đàn cơ đêm mùng 3-6-Mậu Tuất (dl 19-7-1958) tại Giáo-Tông Đường hồi 8 giờ tối.

HIỆP THIÊN ĐÀI CAO TIẾP ĐẠO
Chào Anh Bảo-Pháp, Thượng-Sanh và mấy em.
Bần đạo để lời cám ơn toàn bạn Hiệp Thiên, toàn cả Chức sắc Cửu Trùng và toàn đạo nam nữ đã hết lòng lo lắng cho Bần đạo khi Bần đạo về với Đại Từ Phụ. Đó là nghĩa thịt xương. Vậy Bần đạo xin có mấy lời:
THI
Cổi xác phàm vui lại cảnh Tiên,
Độ sanh phỉ hiệp tạo nên giềng.
Trường đời dầu chẳng tròn ân nghĩa,
Nợ đạo rồi xong gác bút nghiên.
Cõi Thánh nhàn xem tranh đảnh Túy,
Chơn mây ngẩn chạnh bạn rừng thiền.
Từ đây dạo khắp trời non nước,
Nâng giúp quần sanh hưởng huệ duyên.

Bần đạo được nhờ Phật Mẫu và Cửu vị Nữ Phật giao cho phận sự thiêng liêng phổ-độ khắp miền Á Châu, nhưng dầu sao Bần đạo cũng hiệp với mấy Đấng thiêng liêng tiền bối của Đạo trông nom và trợ giúp mấy bạn Hiệp Thiên làm tròn nhiệm vụ.

Bần đạo xin em Thượng-Sanh khuyên giải Bà thân mẫu chúng ta. Anh đã hưởng trọn Thiên ân của Đức Chí-Tôn, đó là một điều vui chớ chẳng phải việc buồn.
Bần đạo kính chào cả mấy bạn”. THĂNG.

Bài thi của Ngài Cao Tiếp-Đạo cho trong bài giáng cơ bên trên được dùng làm bài thài hiến lễ cho Ngài.
Thuở sinh tiền, Ngài Cao Tiếp-Đạo là một nhà thơ lỗi lạc với bút hiệu là Huyền Quang. Năm 1950, Ngài lập Đạo Đức Văn Đàn, qui tụ các Chức sắc và tín đồ yêu mến thơ văn của Đạo, gây được một phong trào thi văn nổi tiếng tại Tòa Thánh Tây Ninh. Phong trào này kéo dài được 2 năm thì có phần chựng lại vì Ngài Cao Đức Trọng bận lo việc Đạo. Đến năm 1957, Ngài Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu phục hồi sinh hoạt của Đạo Đức Văn Đàn.

Lúc sau nầy, Ngài Cao Tiếp-Đạo lấy bút hiệu là Chánh Đức, do Đức Tiêu Diêu Đạo Sĩ giáng cơ ban cho, với hai câu đối nói lên ý nghĩa của bút hiệu nầy:
CHÁNH khí tà gian khủng,
ĐỨC trọng quỉ thần kinh.

Sau đây, xin chép lại một số bài thi của Ngài Cao Tiếp-Đạo:
Họa vận bài thi "CẢM TÁC" của Đức Cao Thượng-Sanh khi Ngài đến thăm Đức Phạm Hộ-Pháp, lúc Đức Hộ-Pháp trở về Tòa Thánh sau 5 năm bị đồ lưu nơi hải ngoại:
Màu sen Tây vức ngắm thêm tươi,
Hỏi khách Hỗn Ngươn đặng mấy người?
Ly hận ngày qua non ngó khóc,
Trùng hưng buổi hiện gió reo cười.
Cơ huyền trí định tan rồi hiệp,
Phép tạo tay cầm ngược cũng xuôi.
Tỏ đặng nỗi mừng chia hạnh phúc,
Đá kia cũng gật để nên lời.

Họa vận bài thi của Bát Nương giáng cơ đêm 15-8-Bính Tuất (1946):
Thuận Nghịch đọc.
Đọc thuận:
Qua thu bước khổ cảnh thay lần,
Trị quốc điềm đem thấy hiện lân.
Hòa ái chạm gương nêu trước tử,
Nghĩa nhân bia dấu tạc kiều Ngân.
Ca hoàn Việt, lập an ngôi Thánh,
Định đảnh Nam, vang tiếng hạc Thần.
Nhà nước Đạo xong gầy hậu phúc,
Hoa tiên bức chép rạng đài vân.

Đọc nghịch:
Vân Đài rạng chép bức hoa tiên,
Phúc hậu gầy xong Đạo nước nhà.
Thần hạc tiếng vang Nam đảnh định,
Thánh ngôi an lập Việt hoàn ca.
Ngân kiều tạc dấu bia Nhân Nghiã,
Tử trước nêu gương chạm ái-hoà.
Lân hiện thấy đem điềm quốc trị,
Lần thay cảnh khổ bước thu qua.

Họa vận bài thi “Tức Sự” của Đức Thượng-Sanh:
Đường trần mừng tránh lối nghiêng xe,
Quán tục thanh tâm chẳng rượu chè.
Lướt thế trẻ dong đường dặm liễu,
Xem đời già núp cội cây hòe.
Noi gương Đỗ Phủ vài hàng mực,
Giỏi chí Nghiêm Lăng ít mảnh tre.
Đợi gió xây chiều về động Thánh,
Buồm nhân trở lái cánh loan sè.

SỐNG VỀ ĐẠO
Thuyền từ đưa khách lướt ngàn voi,
Đuốc huệ tay trau đã thấy mòi.
Tỉnh thế cung Trời đưa giọng khánh,
Độ nhân non Thánh trổi hơi còi.
Huyền châu động báu nguồn Tiên chỉ,
Xá lợi đài sen gốc Phật roi.
Lấy mắt vô hình xem vũ trụ,
Máy linh bao khắp ngoại vòng thoi.

                          Chánh Đức Hoạ:
Xủ áo phồn hoa tránh ngựa voi,
Riêng vui động Túy đã ra mòi.
Non nhân ngắm lại cành tươi tốt,
Rừng tục xem qua lá cọc còi.
Lục Tổ thọ truyền gương vẫn tạc,
Quan Âm đắc đạo tiếng còn roi.
Nhiệm mầu diệu pháp Ba-la-mật,
Hơn cả muôn vàng ức triệu thoi.

  
CẢM THU MỘ QUỐC
(Thập thủ liên hoàn)
1 .
Sầu đưa giọng quốc cảnh thu chiều,
Nhìn lại vùng Nam hận khó tiêu.
Lửa thét tinh trung gương vẫn tạc,
Gươm đề khí liệt tiếng còn bêu.
Đền Giao nào lúc oai lừng lẫy,
Đảnh Việt nay cam ruột chín chiều.
Hưng phế cuộc đời tuy chẳng lạ,
Thương vì dân khổ biết bao nhiêu.

2 .
Bao nhiêu thanh thế bốn ngàn năm,
Lịch sử từng ghi thật chẳng lầm.
Hồ Kiếm Anh Vương gầy nghiệp lớn,
Sông Đằng quốc sĩ trả thù thâm.
Chung vầy sức mạnh non sông vững,
Chia rẻ lòng dân ngọc cát lầm,
Giọt nước mái nhà mòn tảng đá,
Sao ta chẳng sớm kết đồng tâm?

3 .
Đồng tâm mới vẹn phận anh phong,
Nối chí tiền nhân chẳng thẹn lòng.
Chịu đói thà cam con hạc nội,
Cầu no khá tránh phận gà lồng.
Đắc thời đứa nịnh nghiêng tai ngoảnh,
Nghịch thế người ngay mỏi mắt trông.
Nếm mật Việt Vương còn để tiếng,
Gian nan hết lúc đến tao phùng.

4 .
Tao phùng vận hội gắng tìm phương,
Thành bại xưa nay ấy đã thường.
Nhẫn nại học đòi mưu Phạm Lãi,
Tranh phuông để ý kế Trương-Lương.
Ôn hoà lập chí gầy thân ái,
Chánh trực giồi tâm dựng thái bường.
Tòng bá giữ bền gan sắt đá,
Có ngày thoả nguyện định phong cương.

5 .
Phong cương xưa tốt đẹp dường bao!
Nay lại tiêu tan bởi cớ nào?
Bởi chuộng hư danh chê cổ tục,
Bởi thương vật chất mến tân trào.
Bởi phường bộc lại thân đầy đủ,
Bởi đám nô dân phận khát khao.
Bởi kẻ tôi đòi quên chủng tộc,
Bởi quân mọt nước bán đồng bào.

6 .
Đồng bào cay đắng nạn liên-miên,
Thân gỗ người lăn há dám phiền.
Bởi đám thương nhà thương tủ bạc,
Bởi quân mến nước mến đồng tiền.
Bởi ưa khổ hải tham quyền thế,
Bởi thích phồn hoa gọi phước duyên,
Dân khổ vì chưng tân mỹ tục,
Tám mươi năm lẻ há còn nguyên?

7 .
Còn nguyên đâu đặng khí hùng tinh?
Tù tội khư khư buộc lấy mình.
Hiệp sức đã đành chung hiệp trí,
Đồng nguy mới biết đặng đồng tình.
Gà bầy chiu chít âm thầm gọi,
Chiên lũ bơ vơ chẳng khá nhìn.
Dân chúng của mình bao nỡ giết?
Dại thì lấy trí hoá ra minh.

8 .
Ra minh lẽ chánh gắng cầm cân,
Chung hiệp sức côi để ý cần.
Thưởng phạt rõ-ràng nâng khí phách,
Ân oai đầy đủ vững tinh thần.
Bình Ngô Đại Cáo bia danh Nguyễn,
Sát-Thát Binh thư dựng nghiệp Trần..
Hưng thạnh còn chờ tay liệt sĩ,
Vẫy vùng cho đáng mặt phong vân.

9 .
Phong vân. nay gặp thấy bay rồng,
Độc lập là phương lập Nghĩa Nhân.
Lợi nước lợi nhà thì lợi thế,
Thương nòi thương giống mới thương dân.
Đống xương vô định xây tình thế,
Giòng máu chinh phu rửa bợn trần.
Chia sớt khổ sầu cho vẹn phận,
Cứu dân giúp nước mới dày công.

10 .
Dày công dựng nghiệp giữa trời Đông,
Non nước xinh tươi vẻ Lạc Hồng.
Lập quốc muốn loà gương quốc thể,
Hoá dân giữ vẹn nét dân phong.
Hưng vong lối cũ tua ghi dạ,
Trị loạn nền xưa gắng tạc lòng.
Lịch sử lưu đời dầu để dấu,
Muôn năm bóng khuất tiếng thơm nồng.

Mùa Thu Đinh-Hợi
Huyền Quang Đạo Nhơn
(Đạo hiệu của Cao Tiếp-Đạo)

 Ngài Cao Tiếp-Đạo hoạ nguyên vận bài
THẬP THỦ LIÊN HOÀN
Của Ngài Bảo-Pháp Nguyễn Trung Hậu
(đăng Trong quyển Tiên-Thiên Tiểu học)
1 .
Chạnh thương người thế ngẩn-ngơ lòng,
Muôn vật trần gian một chữ KHÔNG.
Sanh tử miệt mài chưa thoát lối,
Lợi danh buộc trói chẳng xa vòng.
Phước duyên bởi tạo không nên cảnh,
Tình thế trông ra mới ngược dòng,
Dòm lại khách trần đương xạo xự,
Đua chen quán tục dựa lầu hồng.

2 .
Lầu hồng.say tỉnh kể gì thân!
Nhơ bợn chơn linh chẳng định Thần.
Lượng sắc, lượng tài chưa phải lượng,
Cân tình cân tội mới nên cân.
Oan khiên ví biết đời là mộng,
Nghiệp chướng xa dần, Đạo ấy Xuân.
Mượn nước nhành dương lau tục trái,
Thoát mê rảo bước thử đi lần.

3 .
Đi lần mới rõ cảnh nhàn thơi,
Giấc mộng hay chi chác nợ đời.
Đuốc huệ rạng soi đường tấn hoá,
Thuyền từ nhẹ tách bến luân hồi.
Niệm câu diệt khổ gìn tâm Phật,
Dồi đức háo sanh giữ tánh Trời.
Nhắm thử muôn loài trong vũ trụ,
Loài nào chẳng muốn đặng an nơi?

4 .
Muốn đặng an nơi để trí dò,
Kiếp người sớm khóc lại chiều lo.
Sang hèn bọt nước hay bày vẽ,
Vinh nhục đám mây há cợt trò.
Vụ xác chỉ xem trường hữu tướng,
Vong hồn nào nghĩ cõi Hư vô!
Xôn xao biển khổ bao người đắm!
Hạnh phúc thử tìm mấy kẻ cho?

5 .
Cho tròn quả phúc bậc thiên đồ,
Cửa ngục trần gian rán sức xô.
Trời chuộng đức lành hằng chuộng khắp,
Phật noi tâm tánh chẳng noi mô?
Cầu danh thẹn lẫn hàng cao sĩ,
Xả phú vui thầm phận hạ bô.
Tỉnh giấc mộng vàng làm hạc nội,
Mùi hương Cực-Lạc mới thơm tho.

6 .
Thơm tho theo Phật dựa Đài sen,
Thuyền báu độ sanh thả một bên.
Thân tục hoá làm thân bất diệt,
Phước phàm đổi lấy phước thiêng liêng.
Thương đời dẫn lối về non Thánh,
Cứu chúng đưa đường đến cảnh Tiên.
Xây nấc thang hồng nêu Bác ái,
Công tròn quả mãn mới là nên.

7 .
Nên biết chơn thân mới biết mình,
Biết người chưa thế vững lòng tin.
Biết đời bào ảnh gìn thân sắc,
Biết kiếp vô thường giữ khí tinh.
Bế đặng Ngũ quan thông xuất tánh,
Diệt tan Lục dục rõ siêu hình,
Một bầu nhựt nguyệt chừ vui thú,
Hứng giọt Ma-Ha rải phép lành.

8 .
Phép lành trời sẵn mở đường tu,
Này buổi sấu kia đặng hoá cù.
Bụt Phật khêu loà cây đuốc huệ,
Chổi Tiên quét sạch đám mây mù.
Gắng bồi đảnh Việt nền Nhân vững,
Rộng chứa vùng Nam cội đức to.
Tam giáo một nhà xem chẳng lạ,
Khai nguơn tái tạo chuyển tông Nho.

9 .
Tông Nho nguồn cội Thánh truyền roi,
Bởi tại đời mê mới đổi dời.
Khói đạn cùng nơi sông hút máu,
Lửa binh khắp chốn đất ăn người.
Nắn nhồi thổ võ đà nên vóc,
Dìu dẫn nhơn sanh há thiếu lời.
Tòng bá rạng soi gương trí huệ,
Nghĩa Nhân bền giữ khá buông trôi.

10 .
Buông trôi bao thuở tạo tâm đồng,
Tin chắc trời già thật chí công,
Đời khổ mải mê thêm mãi bận,
Đạo mầu càng nhắp lại càng nồng.
Đoạn xong oan trái về non Tuý,
Dứt hẳn trần duyên lại cảnh Bồng.
Thẳng lối trần sinh đi tận chốn,
Cảnh Tiên muốn đến Phật nơi lòng.
                                                                                                 Chánh Đức

   Năm 1951 Ngài Cao Tiếp-Đạo viết bài:
   GIỚI QUÂN SĨ CA.
   Lời vàng tặng các Tướng sĩ, Quân nhân.

Ngàn xưa dạy phép hành quân,
Việt quân nên lấy chữ NHÂN làm đầu.
Công danh là chữ về sau,
Những điều tiểu lợi hơi đâu mà hòng.

Chinh phu mấy kẻ trường tồn?
Miếng cơm tấm áo cũng công cao dày.
Binh đao chừng mấy năm nay,
Ơn Trên che chở nghĩa Thầy xót thương.

Dấn thân vào cảnh chiến trường,
Nghĩ người gối đất nằm sương xót tình.
Bên trời chưa dẹp lửa binh,
Biết bao gay gốc đã đành lầm than.

Nào nơi nhà cửa sương tan?
Trông ra thấy những khói tàn gió bay.
Nơi nào đồng nội cỏ cây,
Trâu bò lạc luống bừa cày vắng tanh.

Nơi nào hàng quán họp thành,
Xạc xào góc chợ chông chênh bên đường.
Nơi nào thuyền khách thông thương,
Mái chèo cắm dọc cánh buồm vắt ngang.

Kìa ai cũng đám da vàng,
Trách ra ai cũng nhộn-nhàng tham si.
Tài mà chi? Lợi mà chi?
Chờ cho hết giặc còn gì là dân?

Nhiễu nhương biết mấy mươi lần!!
Dân phần sợ giặc, lại phần sợ quan !
Nào đâu nước vững nhà an?
Binh qua rồi nữa cơ hàn liệu sao?

Của ai xin chớ hô hào,
Oan gia kết lắm biết bao giờ rồi?
Hoặc là lấy của làm mồi,
Nhử cho vào lưới mặc dầu giết tha.

Hoặc là thấy lửa xót xa,
Thấy người nặng gánh dám ra mà làm.
Buồn xem cảnh vật điêu tàn,
Binh quan lên trước, giặc lan sau rồi.

Hoặc là dặm vắn đường dài,
Mặt trong bòn của, mặt ngoài thị oai.
Khuyên nhau rán sức bền dai,
Ra tay địch khá rạng danh anh tài.

Máu tham nào có gì hay,
Đã mòn vai gánh lại cay miệng cười.
Của người là cái nợ đời,
Giành nhau rồi vẫn đến mười chưa yên.

Đem thân bồi đắp sơn xuyên,
Nghĩa Nhân gắng vẹn chớ quên lời thề.
Nào cha, nào mẹ, nào quê,
Ra đi chẳng định dặm về còn xa.

Sao cho nổi mặt sơn hà,
Lừng danh cứu quốc mới là quân nhân.
Non cao nước chảy tợ đờn,
Ấy ai suy nghĩ mựa hờn lời nguy.

Kiếp người mỏng mảnh gió lay,
Tiếng nhơ mang lấy anh tài nông trang.
Vùng Nam máu đỏ da vàng,
Vì dân gắng để vài hàng sử xanh.
                                                                                                 Chánh Đức

Năm Ất-Dậu (1945) sau cuộc đảo chánh Pháp (9 Mars) có làm cửa Khải-Hoàn-Môn tại Sài-gòn đặng tiếp rước Đức Kỳ Ngoại-Hầu Cường Để là nhà Cách mạng phiêu lưu 40 năm nơi xứ người. Ngài Chánh Đức viết:
CẢM ĐỀ
Rúng động non Nam khúc khải hoàn,
Treo gương Hồng-Lạc phục giang san.
Vẻ tươi Quốc sử loà cương thổ,
Đánh tỉnh hồn dân dựng miếu đàng.
Nước bốn ngàn năm lừng máu đỏ,
Dân hăm lăm triệu rạng da vàng.
Khí linh bia mãi cùng trời đất,
Rúng động non Nam khúc khải hoàn.
                                                                         Chánh Đức

VĂN ĐÀN THI CUỘC

Ngày 7 tháng giêng năm Ất Mùi là khoảng thời gian Khánh Thành Tòa-Thánh Tây ninh. Hội-Thánh có tổ chức một cuộc Thi-văn-Đàn theo lối xướng hoạ thi thơ tại

Tòa-Thánh, tất cả có 52 thí sinh dự thi, nhưng chỉ 12 người được chấm đậu.
Dưới đây là hai bài xướng của Ngài Cao Tiếp-Đạo hiệu là Chánh Đức làm Trưởng Ban Văn-Đàn. Ngài đặt ra hai bài thi này. Trong số đó có hai bài được chấm nhứt, nhưng duy chỉ có một Thí sinh mà thôi đó là bài của LÊ HOÀ-HIỆP, Thư ký văn phòng Hộ Viện Phước-Thiện. Xin ghi lại từng bài xướng và hoạ để đối chiếu:

                                                              1.
                                      Mừng Lễ Khánh Thánh Tòa-Thánh

Khánh hỉ Chí-linh mối Đạo dìu,
Mầng soi đảnh Việt đuốc Linh Tiêu.
Mầng khai Tân Thế khai Tân Pháp,
Mầng lập Thánh Tông định Thánh điều.
Mầng vạn chủng đoạn lìa trái chủ,
Mầng Bát hồn hưởng phước Tiêu-diêu.
Mầng trời Đông rạng xinh Hồng-Lạc,
Mầng lóng non Nam tiếng nhạc Thiều.
                                                                                                             Chánh Đức
  
Bài hoạ giải nhất của Lê-Hoà-Hiệp:
Hạnh ngộ Chí-Tôn đuốc huệ dìu,
Khánh Thành mừng Lễ nghiệt căn tiêu.
Khai cơ tận độ nâng chơn thể,
Chuyển pháp huyền linh định luật điều.
Dẫn lối Thiện Nam chầu điện Ngọc,
Đưa đường Tín nữ bái Cung Diêu.
Nhành dương vui gội phong trần sạch,
Cửu Nhị nguyên nhân lóng tiếng thiều.

2 .
Ý nghĩa cuộc Lễ Khánh Thành:

Chiếu diệu linh quang Lễ Khánh Thành,
Tượng trưng nguơn chủng đặng huờn sanh.
Tạc hình Ngọc Đế cư trần thế,
Rạng bóng Hư linh hiệp Vạn linh.
Chuyển thế trừ oan nâng Thánh chất,
Khai nguơn tạo đức lập thăng bình.
Lạc Long mầng đặng ân hồng rải,
Muôn kiếp ngàn đời đẹp vẻ thanh.
                                                                         Chánh Đức

  
                          Bài hoạ giải nhất của Lê-Hoà-Hiệp:
Mừng nay Tòa-Thánh tạo hoàn thành,
Trụ vững Đức tin của chúng sanh.
Giục trống Lôi-Âm qui Vạn chủng,
Rung chuông Bạch-Ngọc thức quần linh.
Rải chan Hoà Ái đời an lạc,
Gieo rắc Nghĩa Nhân nước thạnh bình.
Quốc-tế nhận nhìn nền Quốc Đạo,
Trương cờ hưởng ứng rạng Tam Thanh.

Ngài Tiếp-Đạo Chơn-Quân Cao-Đức-Trọng là một nhà thơ nổi tiếng của nền Đạo. Chính Ngài là người đầu tiên dìu dẫn ĐẠO ĐỨC VĂN ĐÀN. Ngài sáng tác thơ rất nhiều. nhưng trong lòng trang giấy hẹp xin trích lục ra một số bài có tính cách đại chúng, cũng là một dịp tỏ lòng kính phục một bậc tiền khai Đại-Đạo.

Tặng Đức Hộ-Pháp:
Nêu rõ “Tinh Trung” thật phép mầu,
Kỳ-Sơn phụng gáy nghiệp qui Châu.
Non sông đổi vẻ phô màu thắm,
Hồng hộc thay lông đẹp áo chầu.
Rỡ mặt lập đời ngôi Giáo-Chủ,
Đẹp hình Cứu Thế Đức Giê-Du.
Chuyển thay Hồng-Lạc gầy Tân thế,
Thánh Đức dầm chan đổi hận thù.
Chánh Đức

Đêm 12-10 Kỷ-Sửu (1949) tại Bửu-Tháp Đức Quyền Giáo-Tông, Đức Hộ-Pháp ra đề thi “Thần Lý Ngưng Dương du Nam”.
THI
Bầu linh gậy sắt quảy du Nam,
Nương bóng Từ-bi đến cảnh phàm.
Độ thế so đồng cân Nhựt nguyệt,
Phục sinh đổ trọn giỏ Hoa-Lam.
Nẻo Tiên lối cũ thân dầu toại,
Bợn tục đường xưa bước đã nhàm.
Bảy Bạn ai còn nơi cõi thế?
Đông-Du xin nhắc vụ ông Lam.
Phạm Hộ-Pháp

               Chánh Đức nối điêu nhị thủ:
               Nhớ Đức Quyền Giáo-Tông

Gậy sắt tay nâng Thánh-Thể dìu,
Nam Du tròn vẹn quả căn tiêu.
Chiếu gương tỉnh trí gầy dân chủ,
Xây máy huyền linh lập Đạo triều.
Dẫn bước nhơn sanh lìa khổ hải,
Đưa đường nguyên chủng đến Linh Tiêu.
Riêng che đảnh Việt bầu linh đổ,
Gặp Hội phong vân đã thuận chiều.

Thuận chiều chung trí định Chơn Tông,
Đoàn kết dân Nam chặt dải đồng.
Non nước điểm tô hồn chí-sĩ,
Cõi bờ đậm vẻ máu anh phong.
Phục hồi xã tắc xinh giòng Lạc,
Thống hiệp uy linh đẹp giống Hồng.
Bảy Bạn còn chờ nơi khí liệt,
Ngưng Dương danh tạc giữa Trời Đông.
                                                                                                 Chánh Đức

(Đặc biệt trong gia-đình của Ngài đều giữ phẩm tước yếu trọng cửa Đạo Cao-Đài. Bà Mẹ là Đầu-Sư Hồ-Hương-Lự qui thiên sau các người con.

Ngài Cao-Đức-Trọng phẩm Tiếp-Đạo Chơn-Quân là Anh thứ hai.
Người Chị thứ ba là Bà Cao Hương Cường, phẩm Giáo-Sư (Cửu-Trùng-Đài).

Ngài Cao-Hoài-Sang, phẩm Thượng-Sanh là thứ tư trong gia đình. Cả hai Ông cùng đứng vào Cơ quan Hiệp-Thiên-Đài.

Một lỗi-lầm chịu phạt:
Trong thời gian hành Đạo, không biết tâm ý của Ngài Cao-Đức-Trọng có lầm lỗi gì mà Ngài có giáng Cơ xin lỗi và từ giã Mẹ để đi đầu thai:

Phò-loan: Thượng-Sanh và Bảo-Văn Pháp-quân.
CAO-ĐỨC-TRỌNG
Từ giã đêm 01 rạng 02 tháng 03 năm Canh-Tý (1960)
Thưa Mẹ,
Con cúi đầu lạy Mẹ, Qua mừng hai Em và Quí hữu. Mời quí hữu xuất ngoại để có tỏ việc riêng.

Thưa Mẹ,
Hôm nay con đến đây với thâm tình mẫu-tử, hầu tỏ nỗi niềm tâm sự, mặc dầu vô hình khác cảnh, nhưng Ơn cúc dục sanh thành nghĩa nặng đeo mang, lòng bác ái của Mẹ vô hạn. Bởi công đức lớn và tâm trung của Mẹ đối với Ngọc Hư-Cung và các Đấng đều ghi. Hơn nữa đối với Thiên quân trọn nghĩa chung thủy nên quyền Thiêng-liêng ân tứ cho con được trở về thăm, tỏ nỗi tâm sự khổ đau bởi vì lòng thương vô hạn: Mẹ hằng cầu khẩn vái van mà động lên lòng các Đấng.

Khi con còn tại thế, vì mang xác phàm không gìn tròn sứ mạng nên có sự lỗi-lầm! Bên ngoài thế tục còn qua được, nhưng về tâm sự nơi lòng người khó tránh lẽ công bình, luật Thiên-điều nhặc nhiệm.

Sự oan nghiệt tâm phàm của con rủi một chút mà linh hồn con phạm Thiên Điều. May nhờ công tu-luyện và tâm trung vì Đạo nên an-ủi đó chút!

Khi lãnh lịnh Ngọc-Hư-Cung xuống thế, có bổn phận phải giúp Ngự-Mã-Quân mà ngược lại không tròn Nghĩa, vì nặng mang phàm tục lôi cuốn, quên hẳn Thiêng-liêng cao trọng…Ôi! Phàm tục! Vì mi mà làm Ta lầm-lạc, chẳng hiểu đặng rằng Ngự-Mã là mạng lịnh của Khí Hư-vô thay thân Chí-Tôn tạo đời cải dữ ra hiền.

Mẹ ơi! Một lời nói sai với Ngự-Mã cũng bị đọa, huống chi sửa cải chơn truyền tội trọng dường nào! Sự lỗi lầm của con nay việc đem Em về tước quyền Thiên-Quân nên gánh lấy tội-lỗi. Tưởng lúc lâm chung đày đọa xác thân vậy thôi. Nào dè, linh hồn chịu án Thiên-Điều! May nhờ ơn Đức Ngự-Mã đầy lòng Từ-bi Bác-ái vị tha đến thức tỉnh và an-ủi con. Nhứt là Đức Ngài không nói đưa Giáng-Ma-xử. Hai nữa nhờ Đức Thượng-Phẩm và Lục-Nương dìu độ.

Đức Ngự-Mã, Ngài cầu xin với Ngọc-Hư cho khỏi bị tiêu diệt linh hồn để tái kiếp đền lại những lỗi-lầm mà nợ tình của hàng vạn linh-hồn cùng Thánh-Thể Chí-Tôn mà con đã gây ra. Rồi đây không biết đến nơi nào với một kiếp sanh để đền nợ. Nếu chẳng may vương mang sự lỗi-lầm thì con chưa cỗi xác tục đây, phải đợi mãn kiếp sanh mới và thọ lịnh hoặc tội đày hoặc tái kiếp. Từ đây tình cốt nhục cũng như Mẫu-tử biết ngày nào hội ngộ trùng phùng đền ơn tái tạo?
Con quì lạy Mẹ an tâm.

Những di tích chi của Thiên quân, phải cố giữ đừng sửa đổi mà phạm Thiên-Điều như Qua đã làm.
Con cúi đầu lạy Mẹ và chào hai Em!” Thăng.

Thân sinh của Ngài Cao Đức Trọng là ông Cao Hoài Ân có giáng cơ nói với Ngài Trọng rằng:
 “Con Trọng, Ba đến có điều cần kíp nói với con!
Một nhà đã hưởng trọn ân hồng,
Đổi của thiêng liêng gắng chút công.
Dặm cũ Ba đương chờ tiếng hạc,
Nhà xưa con khá để nêu dòng.
Lửa hương tuy thiếu chưa nên Đạo,
Thanh sử đã thừa đủ nghiệp Tông,
Kìa gánh non sông Nam Việt khổ,
Hỏi con (luỵ) có thấy nỗi đau lòng?

Con! Phải nhớ đứng anh hùng nơi võ trụ này mà tạo thời cải thế đặng là dùng phương hướng nào chăng?
- Tiếp-Đạo bạch…
- Phải đó con: “Phải trần ai mới ra mặt công hầu”. Nhớ nghe! Thăng.

Ngày 10-10 Canh-Dần (dl19-11-1954) Đức Quyền Giáo-Tông giáng Đàn nói chuyện với Ngài Cao Tiếp-Đạo về cơ Đạo, Đức Ngài có cho Thi:

THI
Lưỡi liềm chi dễ sánh Kim câu,
Gây sự bởi ai tạo buổi đầu.
Đông hải mênh mông còn phải cạn,
Tây Hồ chật hẹp độ bao sâu?
Tài ba Động Bích bao nhiêu sức,
Quyền phép Côn-Lôn sẵn mấy bầu.
Quyết đoán cuộc cờ ai thắng bại,
Chỉn xem Tiên Phật hướng về đâu?
Đức Quyền Giáo-Tông

06 - Khai-Đạo
Khai-Đạo 開道
Fr: Réformateur Religieux
PHẠM TẤN ĐÃI
(1901-1976)

Ngày sinh: 28-7 Tân Sửu (Dl 10-9-1901)
Ngày qui: 19-2 Bính-Thìn (1976)
Đạo hiệu: Trí Thanh
Làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước (Chợ-lớn)
Pháp-Chánh-Truyền qui định:

“Thượng-Phẩm thì quyền về Đạo, dưới quyền:
- Tiếp-Đạo
- Khai-Đạo
- Hiến-Đạo
- Bảo-Đạo

“Bốn vị Thời Quân cuả chi Đạo đồng quyền cùng Thượng-Phẩm, khi Người ban quyền hành chánh, song mỗi vị có phận sự riêng, quyền hành riêng là:

“Khai Ðạo khi đặng tờ kêu nài cầu rỗi, thì liệu như đáng rỗi, phải nhứt diện tư tờ qua cho Tòa Tam Giáo Cửu-Trùng-Ðài xin đình án bao lâu tùy ý, song chẳng đặng phép quá 15 ngày, nhứt diện dâng sớ cho Hộ-Pháp cầu nhóm Ðại Hội Hiệp-Thiên-Ðài đặng định liệu, như phải đáng bào chữa thì Khai Ðạo phân giải giữa Hội cho ra lẽ oan ưng, Hiệp-Thiên-Ðài cho lịnh thì mới dâng nội vụ lên cho Hiến Ðạo.”

Bài Thài hiến lễ:
Ngài Khai-Đạo Phạm-Tấn-Đãi đăng Tiên lúc 9 giờ 10 đêm 19-2 Bính-Thìn, ngay đêm sau Ngài giáng Cơ tại Giáo-Tông-Đường cho Bài thài để hiến lễ cho Ngài.
KHAI mở Đạo Trời độ chúng sanh,
ĐẠO mầu giải thoát giống dân lành.
CHƠN truyền cố vẹn Đạo nhà vững,
QUÂN quản dân quyền dứt chiến tranh.
                                                                                                 Khai-Đạo Chơn-Quân

A - Bản Tuyên Dương Công Nghiệp
Khai-Đạo Phạm Tấn Đãi (1901-1976)
Tiểu sử của Ngài Khai-Đạo Phạm Tấn Đãi được Ngài Bảo-Đạo Hồ Tấn Khoa viết rất rõ trong Bản Tuyên Dương Công Nghiệp, đọc trong dịp lễ an táng Ngài Khai-Đạo, liên đài nhập bửu tháp ngày 22-3-1976, xin chép nguyên văn ra sau đây:

BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP

Hiền Huynh KHAI-ĐẠO, Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, Tòa Thánh Tây Ninh
Kính Hội-Thánh Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Phước-Thiện,
Kính Chư Chức sắc Thiên phong, Chức việc và toàn Đạo Nam Nữ,

Kính Quí vị,
Hiền huynh Khai-Đạo Chơn-Quân Phạm-Tấn-Đãi, Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài đã qui Thiên lúc 21 giờ 10 ngày 19-2-Bính Thìn (dl 19-3-1976), hưởng thọ 76 tuổi.

Tin đột ngột nầy làm sững sờ toàn thể Hội-Thánh và bổn đạo, vì buổi sáng cùng ngày Người vẫn còn ngồi trong thành phần Chủ Tọa Đoàn phiên họp Hội-Thánh Lưỡng Đài tại Giáo-Tông Đường và sau buổi họp, Người chỉ mệt xoàng, rồi đến chiều là trút hơi thở cuối cùng, nhẹ tách ra đi về chầu Ngọc Hư phục lịnh.

Nhơn danh Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài, tôi xin trân trọng tuyên dương công nghiệp của Hiền huynh Thời Quân Khai-Đạo về hai mặt Đạo lẫn Đời như sau:

Hiền huynh Phạm Tấn Đãi, tộc danh là Thuộc, và Đạo hiệu là Trí Thanh, sanh ngày 28-7-Tân Sửu (dl 10-9-1901) tại làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn.

Thân phụ của Người là Ông Phạm Thành Thiệt, được Thiên phong Giáo Hữu, sau khi nhập môn cầu Đạo, thăng lần đến phẩm Phối-Sư Phái Thượng.

Thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Ruộng, cũng được thọ Thiên ân Giáo Hữu, quê quán ở Chợ Trạm làng Mỹ Lệ.

Thuở thiếu thời, Người đã theo học các trường: Chợ Trạm, Trường Cần Giuộc, Trường Richaud, Trường Xã Tây Chợ Lớn, Trường Trung học Chasseloup Laubat, và Trường Trung học Nguyễn Xích Hồng.

Vì lẽ nội tổ không khứng cho con cháu mình làm việc cho Chánh phủ Pháp, nên sau khi ra trường, Người chỉ giúp việc cho người chú bà con có nhà máy xay lúa ở Bình Đông Chợ lớn.

Năm 1920, ông chú qua đời, Người nghỉ việc và xin phép nội tổ đi dạy học. Được chấp thuận, Người mới xin vào ngạch Giáo viên, được bổ dạy ở trường Phú Lâm (Chợ Lớn).

Năm 1921, đổi về dạy tại Cần Giuộc.
Năm 1923, sang dạy ở Rạch Kiến. Lúc ấy nhằm năm bắt thăm đi lính, Người bị trúng thăm số 1 . Để muốn khỏi đi lính, Người phải làm tờ giao kèo tình nguyện hành nghề Giáo viên trong 10 năm mới đặng miễn dịch.

Thời gian dạy học, vì tánh cương trực, không bợ đỡ, nên bị nhà cầm quyền đổi đi nhiều chỗ, không ở nơi nào dạy được trên 3 năm, và rốt cuộc bị đưa về dạy ở vùng xa xôi Đức Hoà.

Trong lúc ấy, Người thường có đi dự nhiều cuộc hội họp diễn thuyết của các đoàn thể xã hội, đặng quen biết với các ông Phạm Văn Tươi Đốc học, ông Nguyễn Ngọc Tương Chủ Quận Cần Giuộc, v.v...

Vào ngày thứ bảy, 19-12-1925 (âl 4-11-Ất Sửu), Người được ông Phủ Nguyễn Ngọc Tương mời đến dự Lễ Khai đàn, có rất đông viên chức đến dự. Đêm ấy, Đức Chí-Tôn giáng dạy, ban cho mỗi người một bài thi bốn câu, và riêng Người thì Đức Chí-Tôn cho bốn câu thi như sau:
THI
Dằn lòng len lỏi hãy qui y,
Nay gặp Ta đây đã đến kỳ.
Oanh liệt hồng trần e phải khổ,
Tầm đường đạo đức tránh đường nguy.

Và đúng một tuần sau, thứ bảy, ngày 26-12-1925 (âl 11-11-Ất Sửu), các ông ấy đến tư gia của Người để Khai đàn thượng tượng cầu các Đấng.

Đêm ấy, Đức Chí-Tôn giáng cơ dạy Đạo và thâu nhận nhập môn, có cho Người một bài thi:

THI
Nên gầy đạo đức đặng hồi nguyên,
Un đúc trẻ thơ sửa tánh hiền.
Nương bút Thiên cơ lo độ chúng,
Dìu người gắng sức đến rừng thiền.

Chính ngày ấy là ngày Người nhập môn cầu Đạo.
Sau ngày nhập môn, Người cùng ông Đốc học Tươi tập cầm cơ hằng tháng mới viết ra chữ và thi phú.

Ngày Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài ngày 12 tháng Giêng Đinh-Mão (dl 13-2-1927), Đức Chí-Tôn phong Ngài Phạm Tấn Đãi chức Khai-Đạo Hiệp-Thiên-Đài .

Từ ngày ấy, Người cùng ông Đốc học Phạm Văn Tươi đắc phong Hiến-Đạo Hiệp-Thiên-Đài, cầm cơ cho các Đấng thâu nhận nhơn sanh nhập môn vào Đạo, trong những ngày nghỉ làm việc ở nhà trường: Thứ năm, Chúa nhựt và dịp bãi trường, có sự chứng đàn của ông Thượng Chánh Phối-Sư Thượng Tương Thanh, Đầu-Sư Ngọc Lịch Nguyệt, cùng nhiều Chức sắc khác.

Ngày 17 Giêng Quí Dậu (dl 11-2-1933) Đức Quyền Giáo-Tông và Đức Phạm Hộ-Pháp đồng ký tên ra Thông Tri thăng phẩm Quyền Đầu-Sư cho 3 vị Chánh Phối-Sư: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh.

Như vậy ba phẩm Chánh Phối-Sư bị khuyết, nên tạm cử ba vị Thời Quân Hiệp-Thiên-Đài vào hàng Khai qua Cửu-Trùng-Đài nắm quyền ba Chánh Phối-Sư (viết tắt CPS):

“Việc giao quyền hành Chánh Phối-Sư cho ba Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài là việc mà Hội-Thánh mới định hôm kỳ nhóm ngày mùng 9 tháng Giêng, nhằm 4-3-1933. Ba Chức sắc ấy là:
- Khai-Thế Thái Văn Thâu, lãnh phận sự Thượng CPS.
- Khai-Pháp Trần Duy Nghĩa, lãnh phận sự Ngọc CPS.
- Khai-Đạo Phạm Tấn Đãi, lãnh phận sự Thái CPS."

Thời gian ấy, nhà cầm quyền Pháp làm khó khăn đối với Đạo, nhưng Người vẫn vừa dạy học theo khế ước, vừa lặn lội về Tòa Thánh hành đạo trong những ngày nghỉ lễ, đến năm 1936.

Ngày 5-4-1945, sau khi Pháp bị Nhựt bổn đảo chánh, Người về ở luôn Tòa Thánh hành đạo, qui tụ chư Chức sắc lo sửa chữa các dinh thự bị hư sập.

Cuối năm 1945, Nhựt bổn đầu hàng Đồng Minh, Pháp trở lại Việt-Nam, đem quân chiếm Tây Ninh. Ngài Khai-Đạo hiệp cùng Ông Phối-Sư Thái Khý Thanh, người gốc Đường nhơn, lo bảo thủ Tòa Thánh khỏi sự chiếm đóng của Pháp.

Tháng 8 năm Bính Tuất (1946), Đức Phạm Hộ-Pháp hồi loan. Đức Ngài liền ra Thánh lịnh số 3/TL ngày 22-8-Bính Tuất (dl 17-9-1946) giao trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối-Sư cho Người và kiêm luôn Thống Quản Cơ Quan Phước-Thiện.
- Thánh lịnh số10/TL ngày 10-9-Bính Tuất (dl 4-10-1946) giao nhiệm vụ giao tiếp với nhà cầm quyền Pháp.
- Năm 1949, Thánh lịnh số 17/TL ngày 21-9-Kỷ Sửu (dl 11-11-1949) giao trả quyền Ngọc Chánh Phối-Sư lại cho Cửu TrùngĐài và trở về Hiệp-Thiên-Đài lãnh nhiệm vụ Giám Đốc Hạnh Đường, hiệp cùng 4 vị Thời Quân khác lo phần đào luyện Chức sắc.
- Năm 1952, Thánh Lịnh số 37/TL ngày 11-4-Nhâm Thìn (dl 4-5-1952), một lần nữa qua Cửu-Trùng-Đài lãnh trách vụ Quyền Ngọc Chánh Phối-Sư.
- Năm 1955, Thánh lịnh số 54/TL ngày 27-3-1955 (âl 4-3-Ất Mùi), giao quyền Tam Đầu Chế Hiệp-Thiên-Đài và cuối năm 1955, sau khi xin nghỉ dưỡng bịnh 6 tháng, trở lại hành sự. Người giao trả quyền Ngọc Chánh Phối-Sư lại cho CTĐ.
- Đầu năm 1956, Đức Phạm Hộ-Pháp rời Tòa Thánh đi Kim Biên, và tháng 3 năm 1957, Hội-Thánh CTĐ và Phước-Thiện hiệp nhau làm Tờ yêu cầu Đại huynh Thượng-Sanh và chư vị Thời Quân về Tòa Thánh cầm giềng mối Đạo.
- Năm 1957, Đạo lịnh số 1/ĐL ngày 19-4-Đinh Dậu (dl 18-5-1957), phân công mỗi vị Thời Quân lãnh phận sự HTĐ cùng chư vị Thượng Thống Cửu Viện trao đổi ý kiến giúp hay cho Hội-Thánh CTĐ.
- Đạo lịnh số 4/ĐL ngày 6-5-Đinh Dậu (dl 3-6-1957), tạm cầm quyền Ngọc Chánh Phối-Sư, thay thế Ông Ngọc Non Thanh. Đây là lần thứ ba mà Người qua cầm quyền Ngọc Chánh Phối-Sư bên CTĐ.
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày 27-6-ĐinhDậu (dl 24-7-1957), Hội-Thánh HTĐ và CTĐ lập Tờ Ủy quyền cho Ngài Khai-Đạo thay mặt Hội-Thánh đứng bộ những bất động sản của Đạo mua.
- Vi Bằng số 28/VB ngày 21-8-1957 (âl 26-7-Đinh Dậu), đề cử Người làm Trưởng Phái Đoàn viếng các địa phương Nam và Trung Tông Đạo.
- Năm 1958, Đạo lịnh số 29/ĐL ngày 9-6-Mậu Tuất (dl 25-7-1958), giao cho Ngài Khai-Đạo điều khiển CQPT.
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày 9-6-Mậu Tuất (dl 25-7-1958), giao quyền Đại diện HTĐ giao thiệp với Chánh phủ.
- Năm 1961, Đạo lịnh số 1/ĐL ngày 22-10-Tân Sửu (dl 29-11-1961), giao quyền Thống quản 4 vụ: Hộ, Lương, Nông (Kinh tế và Kỹ Nghệ) và Chẩn Tế vụ.
- Năm 1962, Đạo lịnh số 29/ĐL ngày 12-8-Nhâm Dần (dl 10-9-1962), giao cho Ngài Khai-Đạo chăm lo về mặt Đạo với quyền hành như sau:

Ngoài phận sự điều khiển CQPT, Ông lãnh nhiệm vụ chăm lo về Tịnh Thất và Thánh Thất.
Người có quyền biện hộ cho những Chức sắc nào lỡ lầm phạm tội bị đưa ra Tòa Tam Giáo. Ông cũng có phận sự khuyên lơn, ngăn ngừa những người Đạo vô tình hay cố ý sa ngã vi phạm pháp luật Đạo.

Nếu có sự lộn xộn ở địa phương nào làm tổn thương đến nền Đạo thì Ông sẽ hiệp với Thượng Chánh Phối-Sư thân hành đến đó trấn an nhơn tâm.

Được thay mặt cho Hiệp-Thiên-Đài kiểm soát các cơ quan Giáo Huấn Chức sắc CTĐ và PT, vì Giáo Huấn là thuộc quyền của HTĐ. (Đạo Luật Mậu Dần trang 18, Điều 7: Về Hạnh đường).
- Đạo lịnh số 30/ĐL ngày 12-8-Nhâm Dần (dl 10-9-1962), giao trọn quyền điều khiển CQPT kiêm luôn các Cơ quan Lễ, Nhạc, Đồng Nhi và Ban Thuyền Bát Nhã.
- Năm 1963, Đạo lịnh số 11/ĐL, ngày 18-3-Quí Mão (dl 11-4-1963), giao nhiệm vụ Kiểm soát Chương trình và Bài giảng nơi Hạnh đường.
- Năm 1965, Đạo lịnh số 42/ĐL ngày 12-9-Ất Tỵ (dl 6-10-1965), làm Trưởng ban Kiểm soát Hỗn hợp tài sản Đạo.
- Năm 1967, Thánh Lịnh số 14/TL, ngày 19-Giêng-Đinh Mùi (dl 27-2-1967), giao nhiệm vụ Thống Quản Hội-Thánh Phước-Thiện Nam Nữ, kiêm nhiệm Trưởng ban Kiểm soát Hỗn hợp tài sản của Đạo.
- Thánh Lịnh số 3/TL ngày 28-11-Đinh Mùi (dl 29-12-1967), làm Giám Đốc Cơ quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý Đại-Đạo.
- Năm 1969, Thánh Lịnh số 13/TL ngày 28-11-Mậu Thân (dl 16-1-1969), Chủ Tọa Tòa HTĐ thay thế cho vị Thời Quân Bảo-Thế.
- Năm 1971, Thánh Lịnh số 6/TL ngày 6-12-Canh Tuất (dl 2-1-1971), làm Trưởng Ban Nghiên cứu kế hoạch xây cất Đạo Đức Đại Học Đường.
- Thánh Lịnh số 3/TL ngày 26-5-Tân Hợi (dl 18-6-1971):

Chưởng quản Bộ Pháp Chánh.
Thống quản Vạn Pháp Cung.
Trưởng ban Đạo Sử và Thư Viện.
- Thánh Lịnh số 19/TL ngày 10-10-Tân Hợi (dl 27-11-1971), Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Viện Đại Học Cao Đài.
- Năm 1972, Thánh Lịnh số 33/TL ngày 4-12-Tân Hợi (dl 19-1-1972), Quyền Viện Trưởng Viện Đại Học Cao Đài.
- Năm 1973, Thánh Lịnh số 61/TL, ngày 19-6-Quí Sửu (dl 18-7-1973), làm Chủ Tọa Hội Đồng Kiểm Án Hiệp-Thiên-Đài
- Đầu năm 1976, sau khi Đại huynh Hiến-Pháp Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài đăng Tiên, trong phiên họp khoáng đại Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài ngày 21-12-Ất Mão (dl 21-1-1976), toàn thể Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài đồng ý với nhị vị Thời Quân Hiến-Đạo và Bảo-Đạo, giao nhiệm vụ Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài cho Thời Quân Khai-Đạo; và do Thánh giáo tại Cung Đạo Đền Thánh đêm 23-12-Ất Mão (dl 23-1-1976), Đức Phạm Hộ-Pháp đã chấp nhận cho Người lãnh trọng trách nầy. Lễ Tấn phong Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài cho Người đã cử hành long trọng tại Đền Thánh ngày 19-1-Bính Thìn (dl 18-2-1976), và chỉ trong thời gian ngắn ngủi, tròn một tháng hành quyền Chưởng quản, Người đã trở lại ngôi Thiên, để cả cơ đồ Hiệp-Thiên-Đài lại cho bao người đang bỡ ngỡ.

Kính thưa Quí vị,
Từ ngày Khai-Đạo và suốt hơn 50 năm liên tục hành đạo, Người đã có mặt hầu hết trong mọi biến chuyển thăng trầm của cơ Đạo. Với rất nhiều nhiệm vụ khá nặng nhọc kể trên, Người đã gồng gánh và cố gắng làm tròn sứ mạng đã được phú giao, và những thành quả tốt đẹp như Viện Đại Học Cao Đài, Cơ quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý, Ban Đạo Sử, đã nói lên thực tiễn việc làm của Người.

Nhìn sự việc, chúng ta vô cùng mến tiếc và nguyện dốc sức tiếp tục chung trí hiệp tâm lo xây dựng và bảo tồn nghiệp Đạo đến ngày thành công rực rỡ, để khỏi phụ lòng các bậc tiền nhân đã khổ công xây dựng.

Trước khi dứt lời, tôi xin thành khẩn cầu nguyện Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng liêng ban hồng ân cho Hiền huynh Khai-Đạo được cao thăng Thiên vị và mong Hiền huynh niệm tình đồng đạo, vùa trợ chúng tôi trên bước đường hành đạo.
Tòa Thánh, ngày 22 tháng 2 năm Bính Thìn.
(dl 22-3-1976)
TM. HỘI THÁNH
BẢO ĐẠO Hồ Tấn Khoa (ấn ký)

B - THÁNH GIÁO của NGÀI KHAI ĐẠO
Ngài Khai-Đạo Phạm Tấn Đãi đăng Tiên lúc 9 giờ 10 phút tối ngày 19-2-Bính Thìn (dl 19-3-1976), thì ngay chiều hôm sau, ngày 20-2-Bính Thìn, Ngài giáng cơ tại Giáo-Tông Đường, cho bài Thánh giáo sau đây:

THÁNH GIÁO của NGÀI KHAI ĐẠO
Giáng tại Giáo-Tông Đường ngày 20-2-Bính Thìn.

KHAI ĐẠO
Xin chào Bảo-Đạo, Đầu-Sư, chư Chức sắc Nam Nữ có mặt nơi đây.

Bần Tăng được lịnh về gấp, các bạn chớ thắc mắc về sự qui Tiên gấp của Bần tăng, bởi có lịnh Ngọc Hư. Một điều đáng tiếc là Bần tăng lãnh lịnh của Ngự Mã Quân Hộ-Pháp Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài mà chưa thực hành gì cả.

Như vậy, Hiền huynh Bảo-Đạo và Hiến-Đạo tiếp tục chung tâm hiệp trí lãnh đạo Hiệp-Thiên-Đài y theo lời dạy của Đức Hộ-Pháp. Nếu Hiến-Đạo vì bịnh không thể thường trực tại Tòa Thánh thì Hiền huynh Bảo-Đạo nhận Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài thế cho Bần tăng và cứ thực hành y theo lời chỉ giáo của Đức Ngài tại Cung Đạo.

Đức Hộ-Pháp căn dặn chư Thời Quân còn tại thế cố bảo thủ Chơn truyền và Đạo pháp vì chư Chức sắc Lưỡng Đài hành đạo ngoài lời dạy của Đức Chí-Tôn và các Đấng Thiêng liêng từ ngày Khai-Đạo, vi phạm Thiên điều, bị Thần Thánh lánh xa không ủng hộ, bằng cớ cho Kim Quang Sứ ra lịnh Quỉ Vương cám dỗ và thâu làm môn đệ là khác. Chừng ấy công nghiệp khổ hạnh của chư Chức sắc đều bị phế bỏ hết.

Vậy Bảo-Đạo Hiền huynh cần mạnh dạn nhắc nhở Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài cố gìn giữ luật pháp, đó là đặc ân đối với Chức sắc Nam Nữ chớ có gì e ngại!

Đức Hộ-Pháp dặn Bảo-Đạo và Hiến-Đạo cố dìu dẫn Hội-Thánh Phước-Thiện và bắt buộc họ phải thi hành Phước-Thiện theo Đạo luật đã ấn định. Nếu sai lạc chủ nghĩa Phước-Thiện là chư Chức sắc Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng phế vong trách nhiệm, bị Thiên điều trừng trị mà còn bị án bất tuân lịnh của Đức Hộ-Pháp mà chớ.

Bần Tăng bảo rằng, chúng cố thực hành cho chính chắn, sau nầy sẽ thấy thành công mỹ mãn mà cũng chính Đức Hộ-Pháp tuyên dương công nghiệp tại Ngọc Hư Cung đó.

Về bài thài, đợi Bần Tăng thương lượng rồi sẽ gởi.
Xin kiếu. Thăng.
Tái cầu:
THÁNH HIỂN
Xin chào chư Hiền huynh Bảo-Đạo, Ngọc Đầu-Sư, chư Chức sắc Nam Nữ Lưỡng Đài.

Tệ Thánh vâng lịnh Hiền huynh Khai-Đạo đem bốn câu thài sau đây:
KHAI mở Cao Đài độ chúng sanh,
ĐẠO mầu giải thoát giống dân lành.
CHƠN truyền cố vẹn, Đạo nhà vững,
QUÂN chủ dân quyền dứt chiến tranh.

C - THI VĂN của Ngài KHAI ĐẠO:
Thuở sinh tiền, Ngài Khai-Đạo ít làm thơ. Sau đây xin chép vài bài thi của Ngài Khai-Đạo mà chúng tôi sưu tầm được: Họa bài thi "CHỮ BẦN' của Ngài Bảo-Pháp:
Chịu tiếng thế gian gọi Đạo bần,
Mang bầu quẩy gậy đẩy đưa chân.
Ly gia thưởng thức mùi Đạo sự,
Giải thoát dây oan phủi nợ nần.
Gắng chí dồi mài thành Đạo sĩ,
Bền gan luyện tập đặng hiền nhân.
Khai đường giác thế mong đời tỉnh,
Độ dẫn quần sinh lánh bợn trần.

Khai-Đạo Phạm-Tấn Đãi.
Sau đây là bức thơ của Ngài Khai-Đạo gởi Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải (qui vị ngày 26-12-Canh Dần, dl 2-2-1951).
Tòa Thánh, ngày 22-Giêng-Tân Mão(dl 27-2-1951) (Năm Đạo thứ 26)

Kính gởi: Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải.
Cầu xin cho biết rành tiền căn huynh đệ nơi cảnh thiêng liêng, tên mỗi người, coi còn ai nữa trong kiến họ Brahma Vichnou và cầu xin Hiền hữu họa nguyên vận bài thi của Bần sĩ làm để khóc Hiền hữu trong khi ly biệt Âm Dương hai ngã. Có lẽ phải chịu vắng hình vắng bóng, chớ lời lẽ qua lại hãy còn hoài.
THI
Hiền đệ qui Thiên để mối sầu,
Tiền căn dan díu khóc canh thâu.
Nhớ lời mấy lúc cùng vui hứng,
Nhắn gọi bao lần chỗ thảm sầu.
Khuất bóng thông truyền vì cảnh giới,
Xót xa tiếng luận phải đương đầu.
Lòng ai đoái tưởng xin phò hộ,
Giám Đạo họa cùng mấy giọt châu.

KHAI ĐẠO Phạm Tấn Đãi.
Bài giáng cơ trả lời của Giám Đạo Nguyễn Huợt Hải:
Phò loan: Nhung-Nguyên. Ngày 22-1-Tân Mão.

GIÁM ĐẠO NGUYỄN HUỢT HẢI
Cười ... Lúc nãy Ngài Khai-Đạo trông tin trả lời mà mấy "toi" không nói giùm....
Còn việc Ngài Khai-Đạo hỏi thì tên của ông KHÝ và của "moi" ổng đã biết.

Tên của ông LỢI là Brahma Vhrinich, cô NHÂM là Brahma Prech, con của vua Brahma Itichnhon vào lúc năm 752, đệ tử của dòng Brahma Darma. Trong kiến họ tại đây không còn ai nữa. Nhung! Tịnh thêm chút nữa để họa thi:

HỌA:
Cảnh đọa tay chia luống nhớ sầu,
Tình huynh nghĩa đệ mấy trăng thâu.
Canh khuya nhìn ngọn hoa đăng cạn,
Trống nhặt nhỏ hình nhạn bút sầu.
Một thuở tương rau nên hiệp mặt,
Đôi khi muối tuyết đã chung đầu.
Hữu vô hai ngã đành ly biệt,
Đệ trở Thiên Cung bởi lịnh chầu.

Xin nhờ mấy toi biên rõ rồi chuyển cho Ngài Khai-Đạo giùm. (Tài liệu của Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng).
Ngài Khai-Đạo có họa vận bài Thi của Đức Thượng-Sanh, ngày 12-6-Đinh Dậu (dl 29-6-1957):
HOẠ
Đạo Trời thử thách lúc chinh nghiêng,
Quyết chí tầm phương giữ vững thuyền.
Ráng sức trở day theo máy tạo,
Tận tâm chèo chống đáp ân Thiên.
Từ bi nhẫn nại gương Tiên Phật,
Trung thứ khoan dung chí Thánh Hiền.
Mừng thấy thời cơ nhiều thuận tiện,
Muôn năm nghiệp Đạo để lưu truyền.
                                                              KHAI ĐẠO

07 - Hiến-Đạo
Hiến-Đạo
Fr: Rénovateur Religieux
PHẠM VĂN TƯƠI
(1897-1976)
Sanh ngày 15-12 Bính-Thân (dl 17-01-1897)
Qui: 23g đêm 8-4 Bính Thìn (dl 6-5-1976)

Tại tư gia số 21 đường Lý-Nam-Đế quận 5 Chợ-lớn nhằm ngày đản sanh Phật Thích-Ca. ngài di chúc an táng tại quê nhà xã Qui đức, quận Cần giuộc (Long an)
Hưởng thọ 80 tuổi
Đạo hiệu là Lạc Nhân

Pháp-Chánh-Truyền qui định:
PCT: “Hiến Ðạo khi đặng tờ chi của Khai Ðạo dâng lên, tức cấp phải tìm biết căn nguyên cho rõ ràng, cấm không cho Hiến Ðạo thông đồng cùng Hiến-Pháp và Hiến-Thế.

Sự chi đã vào tay Hiến Ðạo rồi thì đã ra bí mật, dầu cho Chức Sắc Hiệp-Thiên-Ðài cũng không đặng biết tới nữa.
Hiến Ðạo phải dâng nội vụ lên cho Bảo Ðạo”.
Đức Chí-Tôn có ban cho thi ở buổi đầu:
Một nhà sung túc hưởng ân Thiên,
Mối Đạo từ đây đắc sở truyền.
Giáo hoá dày công giồi đức hạnh
Cháu con sau hưởng phước liền liền
                                                                         Đức Chí-Tôn (15-01 Bính Dần- 1926)
(Vì táng ở quê nhà, không có Bài thài hiến lễ)

A - Tiểu sử Ngài Hiến-Đạo Phạm Văn Tươi
1 - Phần đời:
Ngài Phạm Văn Tươi, sanh ngày 15-12-Bính-Thân (dl 17-1-1897) tại quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn bấy giờ.

Thuở thiếu thời, Ngài theo Tây học, sau khi đậu bằng Tiểu Học Pháp, Ngài thi đậu vào trường Sư Phạm (École Normale) thời đó, tốt nghiệp rồi được bổ về dạy học tại trường Tiểu Học Cần Giuộc, sau đó lên làm Hiệu Trưởng trường nầy. Về sau, Ngài được đổi về Sài gòn dạy tại trường Pétrus Ký.

Hiền nội của Ngài là Bà Nguyễn Thị Quận, sanh năm 1899 tại làng Long Phụng, quận Cần Giuộc. Hai Ông Bà có được 7 người con, chỉ có một con trai, thứ tư tên là Phạm Duy Ninh, sanh năm 1925 và mất ngày 16-6-1990 tại Cần Giuộc.

Ngài Phạm Văn Tươi nhập môn vào Đạo Cao Đài năm 1926 và đắc phong vào phẩm Hiến-Đạo Hiệp-Thiên-Đài ngày 12-1-Đinh Mão (dl 13-2-1927) khi Đức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài.

Đầu năm 1926, Đức Chí-Tôn mở rộng cơ phổ-độ tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, nên cho thiết lập 6 Đàn lệ để nhơn sanh nhập môn cầu Đạo, trong đó, Đàn ở Tân Kim (Cần Giuộc) thiết lập tại nhà Ông Cựu Hội Đồng Địa Hạt Nguyễn Văn Lai.

Tại đàn nầy, quan Phủ Nguyễn Ngọc Tương và Ngài Lê Văn Lịch luân phiên chứng đàn, hai Ông Ca Minh Chương và Phạm Văn Tươi phò loan; còn việc sắp đặt thờ cúng có quí Ông Lê Văn Tiếp, Nguyễn Văn Nhơn, Phạm Văn Tỷ và Võ Văn Kỉnh.

Ngày 9-2 Quí-Dậu (dl 4-3-1933) Đức Quyền Giáo-Tông Lê Văn Trung và Đức Phạm Hộ-Pháp ra Đạo Nghị Định giao cho Ngài Thời Quân Hiến-Đạo làm Quyền Chưởng Pháp Cửu-Trùng-Đài trong lúc Cửu-Trùng-Đài đang khuyết Chức sắc ở phẩm vị nầy.

Cuối năm Bính Tuất (1946), Đức Hộ-Pháp thành lập Hội-Thánh Phước-Thiện, có bổ nhiệm Ngài Hiến-Đạo Phạm Văn Tươi làm Thống Quản Cơ Quan Phước-Thiện.

Qua đầu năm 1947, Tết Đinh Hợi, Ngài trở về quê nhà ở Cần Giuộc, rồi vì thời cuộc nên Ngài bị kẹt luôn không trở lên Tòa Thánh hành đạo được.

Năm Kỷ Dậu (1969), Ngài Hiến-Đạo Phạm Văn Tươi được giao nhiệm vụ Phó Thống Quản Hội-Thánh Phước-Thiện Nam Nữ, theo Thánh Lịnh số 20/TL ngày 3-7-Kỷ Dậu (dl 15-8-1969) của Đức Cao Thượng-Sanh, Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài.

Năm Tân Hợi (1971), Ngài Hiến-Pháp Trương Hữu Đức lên nắm Quyền Chưởng quản Hiệp-Thiên-Đài, có ký Thánh Lịnh số 02/TL ngày 26-5-Tân Hợi (dl 18-6-1971), bổ nhiệm Ngài Hiến-Đạo Phạm Văn Tươi vào những chức vụ qua các Thánh Lịnh sau đây:

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Tứ thập lục niên)
TÒA THÁNH  TÂY NINH
       Văn phòng
HIỆP THIÊN ĐÀI        
Chưởng quản HTĐ        
       ---ooo---
     Số: 02/ TL.   
HIẾN PHÁP
Quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài

Chiếu Tân Luật và Pháp-Chánh-Truyền,
Chiếu Hiến-Pháp và Nội Luật Hiệp-Thiên-Đài ngày 15-2-Nhâm Thân (dl 21-3-1932),
Chiếu Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài ngày 8-Giêng-Giáp Thìn (dl 20-2-1964) và Hiến-Pháp bổ túc ngày 27-2-Ất Tỵ (dl 29-3-1965),

Chiếu Thánh giáo của Đức Hộ-Pháp tại Cung Đạo Đền Thánh đêm mùng 6-5-Tân Hợi (dl 29-5-1971) chấp thuận việc công cử vị Thời Quân Hiến-Pháp lên cầm quyền Chưởng Quản Hiệp-Thiên-Đài,

Chiếu Thánh Lịnh số 20/TL ngày mùng 3-7-Kỷ Dậu (dl 15-8-1969) của Đức Thượng-Sanh giao cho Ngài Hiến-Đạo nhiệm vụ Phó Thống Quản Hội-Thánh Phước-Thiện Nam Nữ,

Chiếu Vi Bằng số 11/VB phiên nhóm ngày 24-4-Tân Hợi (dl 18-5-1971) của Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài công cử Ngài Thời Quân Hiến-Đạo lên cầm quyền Thống Quản Hội-Thánh Phước-Thiện Nam Nữ thay thế cho Ngài Thời Quân Khai-Đạo qua lãnh nhiệm vụ Chưởng quản Bộ Pháp Chánh, cuộc công cử nầy được sự chấp thuận của Đức Phạm Hộ-Pháp do Thánh giáo đêm mùng 4-5-Tân Hợi (dl 27-5-1971) tại Giáo-Tông Đường,

Chiếu Vi Bằng số 01/VB phiên nhóm ngày 25-5-Tân Hợi (dl 17-6-1971) Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài đồng thinh quyết nghị giao cho Ngài Thời Quân Hiến-Đạo, ngoài nhiệm vụ Thống Quản Hội-Thánh Phước-Thiện Nam Nữ, kiêm nhiệm luôn các cơ quan Tang Tế Sự thay thế Ngài Thời Quân Khai-Đạo, nên:

THÁNH LỊNH

Điều thứ nhứt: Giao cho Ngài Thời Quân Hiến-Đạo lãnh nhiệm vụ sau đây kể từ ngày ký tên Thánh Lịnh nầy:
Thống Quản Hội-Thánh Phước-Thiện Nam Nữ.
Thống Quản các cơ quan Tang Tế Sự: Nhạc, Lễ, Giáo Nhi, Đồng nhi, Ban Tổng Trạo, Ban Thuyền Bát Nhã.

Thống Quản Trí Huệ Cung.
Trưởng Ban Cứu Thương và Ban Phòng Hỏa.
Điều thứ nhì: Thâu hồi Thánh Lịnh số 20/TL chiếu thượng không còn hiệu lực nữa.

Điều thứ ba: Ngài Thời Quân Hiến-Đạo, Hội-Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên Cửu Trùng Nam Nữ và Hội-Thánh Phước-Thiện Nam Nữ, tùy nhiệm vụ thi hành và ban hành Thánh Lịnh nầy.
Tòa Thánh , ngày 26 tháng 5 Tân Hợi.
(dl 18-6-1971)
Quyền Chưởng Quản HTĐ
HIẾN PHÁP Trương Hữu Đức
(ấn ký)

Ngài Hiến-Đạo Phạm Văn Tươi lãnh nhiệm vụ hành đạo theo Thánh Lịnh kể trên từ ngày 26-5 - Tân Hợi (1971) cho đến ngày liễu Đạo.

Ngài Hiến-Đạo Phạm Văn Tươi đăng Tiên tại tư gia ở địa chỉ số 21 đường Lý Nam Đế, Quận 5, Sài Gòn, lúc 23 giờ đêm mùng 8-4 âl-Bính Thìn (dl 6-5-1976), nhằm ngày vía Đức Phật Thích Ca và Bà Nữ Đầu-Sư Lâm Huơng Thanh, hưởng thọ 80 tuổi.

Ngài di chúc cho con cái an táng Ngài tại quê nhà ở xã Qui Đức, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Vì tình hình Đạo Sự năm 1976 (sau khi Giải phóng miền Nam được một năm) có nhiều khó khăn, nên Hội-Thánh cũng tuân theo di chúc của Ngài Hiến-Đạo.

Hội-Thánh cử Ngài Bảo-Đạo Hồ-Tấn-Khoa thay mặt Hội-Thánh xuống tới gia đình của Ngài Hiến-Đạo, đọc bài Điếu văn tuyên dương công nghiệp của Ngài đối với Đạo và chia buồn cùng tang quyến. (Tài liệu của Cải Trạng Lê Minh Khuyên)

Nguyên văn bài Điếu văn này cũng như tất cả các vị tiền bối, xin xem đề tài “Những dòng lệ khô tiếp nối” cùng Soạn giả.

Ngài Hiến-Đạo có lưu lại tập sách mỏng tựa đề "TIẾNG GỌI" do ông Giáo Hữu Thượng Tư Thanh, Tổng Quản Văn phòng Hiến-Đạo, cùng các nhân viên trực thuộc tạo thành, bằng cách gom góp các bài giảng đạo, các bài diễn văn và huấn từ của Ngài trong suốt ba năm từ 1970 đến 1972.

Ngài Hiến-Đạo có Đạo hiệu là Lạc Nhân, nhưng Ngài rất ít làm thơ. Chúng tôi sưu tập được một bài thơ đường luật của Ngài, họa vận bài thơ Xuân Tân Hợi của Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài:
THI
Đất nước Xuân về mấy độ qua,
Toàn dân trông ngóng cảnh bình hòa.
Ruộng dâu hóa bể đầy kinh ngạc,
Dòng nước chưa thanh chảy bến hà.
Thương kẻ tuổi xanh còn nặng nợ,
Xót vì nhiệm vụ phải ly gia.
Ước mong đến buổi hòa ngưng chiến,
Cho vợ gặp chồng, con gặp cha.
Lạc Nhân
(Xuân Tân Hợi 1971)

Trong dịp Lễ Khánh Thành Thánh Thất Cần Giuộc ngày 21-2-Nhâm Tý (dl 4-4-1972), Ngài Hiến-Đạo Phạm Văn Tươi, thay mặt Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài đến dự lễ, có đọc một bài diễn văn, trong đó nhắc lại lúc Đạo Cao Đài mới mở tại Cần Giuộc, trích ra sau đây:

"Hồi ức lại hơn 45 năm về trước, lúc Đạo mới phôi thai, cố Tri Phủ Nguyễn Ngọc Tương, lúc bấy giờ làm Quận Trưởng Quận Cần Giuộc, là người có trọng trách truyền đạo nơi đây.

Ông Phạm Tấn Đãi, ông Trương Thế Ngộ và tôi được Đức Chí-Tôn thâu nhận làm Môn đệ, để hiệp cùng ông Nguyễn Ngọc Tương phổ thông Chơn đạo.
Kế đến ông Ca Minh Chương, cựu giáo chức, cũng được đứng vào hàng ngũ chúng tôi.

Chính nơi đây, Đạo được khai mở trước nhứt và thâu nhận một số tín đồ đông nhứt.
Chúng tôi là những trong giáo giới, ban ngày thì đi dạy học, ban đêm mới rảnh việc, cùng đi với ông Nguyễn Ngọc Tương khai đàn thượng tượng, thâu nhận tín đồ. Suốt một năm trường, đêm nào cũng như đêm nấy, chẳng quản gió sương, bùn lầy nước lội, gai gốc cũng qua, chúng tôi từ xã ấp nầy sang xã ấp kia, một niềm tin tưởng mãnh liệt, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng, khuyên nhủ đồng bào theo đường Chánh giáo, mở rộng Đạo Trời.

Âu cũng là cơ duyên hiếm có giúp chúng tôi lập được công quả và sớm lập vị mình.
Ngày qua tháng lại, Đạo dần dần mở rộng như vết dầu loang, từ quận Cần Giuộc đến Rạch Kiến, Rạch Đào, Rạch Núi, Gò Đen, Cần Đước trong tỉnh Chợ Lớn, rồi tràn qua tỉnh Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre.

Lẽ cố nhiên chánh quyền Pháp không muốn Đạo được bành trướng mau chóng với một số tín đồ quá đông, bèn đặt kế hoạch bài trừ. Một mặt phân tán mấy người có nhiệm vụ trọng yếu trong Đạo, một mặt khủng bố tín đồ, làm khó dễ trăm bề, hăm he dọa nạt đủ điều.

Chúng tôi vốn là công chức, cùng chung số phận với Ông Quận trưởng Nguyễn Ngọc Tương, bị đổi đi xa, một người một nơi, cách trở gia đình.

Âu cũng là cái may cho Đạo, hột giống Đạo được đem rải trên đất mới. Thế là Đạo được mở rộng châu vi hoạt động. Thiệt là "tình cờ chẳng hẹn mà nên."

Rồi bắt đầu từ đó, Đạo càng ngày càng tiến mãi, mặc dầu gặp nhiều khó khăn trở ngại cũng vượt qua khỏi, là do tinh thần nhẫn nại và lòng hy sinh vô bờ bến của phần nhiều chư Đạo hữu.

Trải bao nhiêu năm biến chuyển thăng trầm, Đạo được tô điểm mang sắc thái ngày hôm nay, ấy cũng nhờ các vị tiền bối đã dày công xây dựng nghiệp Đạo.

“Nói đến tiền bối, ở đây chúng tôi không khỏi bồi hồi nhắc đến Đức Quyền Giáo-Tông Thượng Trung Nhựt, nơi chôn nhau cắt rún của Đức Ngài cách đây cũng không xa.

Đức Ngài buổi sanh tiền, sau khi được Đức Chí-Tôn nhận làm Môn đệ, một lòng tin tưởng nơi Đấng Đại Từ Phụ, tận tụy hành Đạo, đi khắp đó đây gieo hột giống lành, chịu trăm đắng ngàn cay, nhiều điều hổ nhục, mang tiếng thị phi, người đời mai mỉa.

Chúng tôi còn nhớ hình bóng Đức Ngài, mặc dầu tuổi cao, cũng có lúc cùng chúng tôi, cùng lặn lội bùn lầy, cùng vày đạp chông gai, để đến tận một nơi xa trong làng mạc, thiết lễ lập đàn cho thiện nam tín nữ cầu Đạo. Thiệt là một bực Đại Đức có công to trong nền Đạo.

Còn hai vị nữa, đối với chúng tôi, trước là bạn thâm giao, sau là người đồng đạo: Cố Quận Trưởng Nguyễn Ngọc Tương thọ Thiên ân Quyền Thượng Đầu-Sư, là một trong những người rường cột của Đạo lúc ban sơ; thứ đến là Cố Giáo viên Ca Minh Chương, tức Bảo-Đạo Hiệp-Thiên-Đài, là người có công buổi đầu trong Đạo. Nay gặp dịp may, chúng tôi trở về cảnh cũ, chạnh nhớ đến người xưa, tình đồng đạo, nghĩa kim bằng, vắng bóng cố nhân, lòng nào mà chẳng não lòng”.

08 - Bảo-Đạo
Bảo-Đạo 保道
Fr: Conservateur Religieux
CA MINH CHƯƠNG
(1850-1928)
Sanh năm: Canh Tuất (1850)
Qui: ngày 19-10-Mậu Thìn (dl 30-11-1928), trở về thiêng liêng vị, hưởng thọ 79 tuổi.
Tại ấp Thanh Ba, làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Ðiền Trung, quận Cần Giuộc.

Ban đầu an táng tại quê nhà, vì Đạo mới khai chưa có đất. Sau cải táng về Ngã Ba Ao Hồ, Châu Thành Thánh địa, Tòa-Thánh Tây Ninh

Pháp-Chánh-Truyền qui định:
 “Bốn vị Thời Quân của chi Ðạo, đồng quyền cùng Thượng-Phẩm khi người ban quyền hành chánh, song mỗi vị có phận sự riêng, quyền hành riêng là:

“Bảo Ðạo phải gìn giữ bí mật ấy cho kín nhiệm, làm tờ lý đoán binh vực chiếu y luật Ðạo rồi dâng lên cho Thượng-Phẩm, đặng người lo phương bào chữa.
Bảo Ðạo là người làm Ðầu Phòng Văn của Thượng-Phẩm.
Thượng-Phẩm và tứ vị Thời Quân của chi Ðạo, phải thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.”

Bài Thài tế lễ Ngài Ca Bảo Ðạo:
Thủ phận rước hồn kíp phục hồi,
Gạn công tính quả định theo ngôi.
Sạch trong tâm tánh lo trau trước,
Cân tạo công bằng chẳng để lơi.
                                                                                     Bảo Ðạo Chơn-Quân

Ngài Ca Bảo Ðạo có giáng cơ cho bài thi:
Từ đây ra khỏi chốn nhơn gian,
Thủy tú sơn tinh thích chí nhàn.
Vì bởi lục căn lòng chẳng bợn,
Cho nên mới đặng nhập Tiên bang.

A- Tiểu sử Ngài Bảo-Đạo Ca-Minh-Chương:
Trong Thập Nhị Thời Quân, Ngài Ca Minh Chương lớn tuổi hơn hết và đăng Tiên sớm hơn tất cả.

Ngài Ca Minh Chương sanh năm 1850 (tuổi Canh Tuất) tại ấp Thanh Ba, làng Mỹ Lộc Tây, tổng Phước Ðiền Trung, quận Cần Giuộc, trong một gia đình thấm nhuần Nho giáo. (Ngài Ca Minh Chương cùng quê với Ðức Quyền Giáo-Tông Lê văn Trung).

Ngài được dân chúng làng Mỹ Lộc cử lên làm chức Hương Bộ trong làng. Sau một thời gian, Ngài chán nản việc làng xã nên xin nghỉ và đi dạy học.

Hiền nội của Ngài Ca Minh Chương là Bà Phạm Thị Kế (1860-1933), Ông Bà sanh được một con gái đặt tên là Ca Thị Thế (1884-1956).

Ðầu năm 1926, ngày 3-4-1926 (âl 21-2-Bính Dần), Ðức Chí-Tôn giáng cơ tại Vĩnh Nguyên Tự, Ngài Ca Minh Chương có hầu đàn, được Ðức Chí-Tôn ban cho bốn câu thi và thâu nhận Ngài vào hàng Môn đệ.
THI
Thế thượng hề vô bá tuế nhân.
Thất tuần dĩ định vấn thời quân.
Ưu tư mạc vọng thường vô lộ,
Nghiệp trái tùy căn định số phần.

Khoảng tháng 5 năm Bính Dần (1926), Ðức Chí-Tôn cho lập sáu đàn cơ để phổ-độ nhơn sanh, trong đó có một đàn cơ lập tại nhà Ông Cựu Hội Ðồng Ðịa Hạt Nguyễn Văn Lai ở Tân Kim quận Cần Giuộc, quan Phủ Nguyễn Ngọc Tương và Ngài Lê Văn Lịch thay phiên chứng đàn, hai Ngài Ca Minh Chương và Phạm Văn Tươi phò loan, để dân chúng đến hầu đàn, nhập môn cầu Ðạo.

Ngày Khai Ðạo tại chùa Gò Kén, 14-10-Bính Dần (dl 18-11-1926), Ðức Chí-Tôn lập tịch Ðạo Nữ phái, phong cho Cô Ca Thị Thế vào chức Phó Giáo Sư (tức là Giáo Hữu), lấy Thiên ân là Hương Thế. Cũng trong đàn cơ nầy, Ðức Chí-Tôn phong Bà Lâm Ngọc Thanh là Nữ Giáo Sư, Thánh danh Hương Thanh. [Trong bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Chí-Tôn gọi Ca thị Thế là Ca thị]

Khi Ðức Chí-Tôn lập Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài, ngày 12-1-Ðinh Mão (dl 13-2-1927), Ðức Chí-Tôn phong Ngài Ca Minh Chương chức Bảo Ðạo, nên người ta thường gọi Ngài là Ca Bảo Ðạo.

Ðức Chí-Tôn khai khiếu cho Ngài Ca Minh Chương, để Ngài ngồi phò loan cùng Ngài Hiến Ðạo Phạm Văn Tươi, lập thành cặp Phò loan truyền đạo trong buổi sơ khai.

Hoàn cảnh khắc khe của Ngài Ca Minh Chương thật quá thảm thiết. Bài Văn tế của Đức Hộ-Pháp đã rõ:
…Hỡi ôi ! Vợ già yếu, gái thời ngây dại,
Nối lửa hương, ngó lại vắng người.
Theo linh xa một gái chơi-vơi,
Phò giá triệu bóng trời không kẻ đậy…

Ðức Chí-Tôn giáng cơ cho Ngài Ca Bảo Ðạo bài thi để an ủi cho hoàn cảnh gia đình bi thảm của Ngài:
Thấy con gia đạo tợ tơ cuồn,
Chạnh đến lòng Thầy dạ ướm tuôn.
Ngặt nỗi vợ nhà đau dã dượi,
Khật khùng con trẻ nói luông tuồng.
Khiến nên mai đảnh khơi màu trắng,
Cho đến tòng lâm trổ sắc buồn.
Công quả đã đành công quả đủ,
Nay đem ba kiếp dập dồn luôn.

Qua bài thi trên, Ðức Chí-Tôn cho biết: Ðức Chí-Tôn cho gia đình của Ngài Ca Bảo Ðạo nhồi quả ba kiếp nhập lại trả trong một kiếp nầy: Ngài bị bịnh, vợ cũng bị bịnh, con bị điên khùng. Nay phải ráng chịu đựng để trả trong kiếp nầy cho sạch nợ tiền khiên thì mới có thể trở về cựu vị.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ ]  [ 4 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét