Chuyện Kể Về Hộ Pháp Phạm Công Tắc - 3 /5 * Duy Hòa


Sau đó Can Tương đã thành công rèn được lưỡi kiếm sáng chói như mặt nước hồ thu, mũi kiếm sáng hoắc tựa như băng giá. Ngày đeo gươm mặt trời mờ ánh, đêm cất thì vầng trăng lóe vàng. Sao chổi cũng vì nó mà phải lùi xa, yêu ma cũng vì nó mà phải ẩn náo. Lưỡi kiếm vô cùng sắc bén, chém sắt tợ bùn non. 
Khi Can Tương dâng kiếm báu lên Ngô Vương, Ngô Vương vô cùng xúc động khi biết lòng
hy sinh của Mạc Da, liền truyền lệnh khắc chữ “Long Tuyền” lên kiếm Dương, khắc chữ “Thái A” lên kiếm Âm. Tương truyền song kiếm quí được vang danh nỗi tiếng suốt thời đại Ngô Vương.

Đến đời Tấn Huệ Đế có Quãng Vũ Hầu là Trương Hoa, một đêm nhìn lên trời thấy giữa sao Ngưu và sao Đẫu có xung quanh khí màu tím chói sáng cả một góc trời mà dân chúng cả vùng đều nhìn thấy. Trương Hoa xuống lệnh cho quần thần đi mời Lôi Hoán, là một nhà thiên văn nỗi tiếng thời ấy ở tại Dư Chương để chất vấn coi là hiện tượng gì cho biết. Lôi Hoán cho biết rằng ở vùng huyện Phong Thành có cất giấu tinh kiếm nên xảy ra hiện tượng mà mọi người đều thấy. Sau đó Trương Hoa tấn phong Lôi Hoán làm Huyện Phong Thành, thuộc tỉnh Chiết Giang với trọng trách trấn nhậm Phong Thành để tìm được kiếm quí. Sau đó Lôi Hoán tìm được cặp song kiếm được chôn bên dưới nền chân thềm nhà ngục, được bỏ trong một cái hòm bằng đá rất kiêng cố. Hắn ta động lòng tham nên chỉ dâng lên cho Quãng Vũ Hầu Trương Hoa thanh Long Tuyền Kiếm mà thôi, còn bản thân giữ lại thanh Thái A Kiếm. Kể từ đó chẳng ai biết Thái A Kiếm được cất giấu ở đâu, cho đến khi Lôi Hoán chết, con của Lôi Hoán mang một thanh kiếm quí đi qua sông Diên Bình Tân, khi thuyền vừa ra khỏi bến bị một cơn gió mạnh thổi đến làm thuyền lắc lư, cây kiếm bị rơi xuống nước, dòng sông tức thì có sóng to gió lớn nỗi lên, liền khi ấy có 2 con rồng nỗi lên mặt nước cuộn sóng ầm ầm và thanh kiếm bị cuốn trôi đi mất.

Đức Hộ Pháp mở một buổi họp để thành lập một phái đoàn đi tìm Long Tuyền Kiếm. Buổi họp thành công tốt đẹp trong tinh thần tình nguyện, có 36 vị tham gia do 12 vị chịu trách nhiệm đôn đốc hướng dẫn đi trên 12 chiếc xuồng chèo. Danh sách 12 vị chịu trách nhiệm như sau:
1 . Hàm Sung
2 . Nguyễn Văn Chường
3 . Huỳnh Văn Phuông
4 . Lê Văn Tiết
5 . Trần Thạnh Mậu
6 . Triệu Văn Kỳ
7 . Đỗ Văn Pho
8 . Lê Văn Trung
9 . Nguyễn Văn Chánh
10 . Phạm Văn Đương
11 . Cao Văn Phúc
12 . Lê Văn Phước

Mẹo thời ngày mùng 7 tháng Tư năm Kỷ Tỵ (1929), Ngài cùng phái đoàn chầu lễ và cầu nguyện Chí Tôn tại Khổ Hiền Trang, sau đó dùng bữa sáng tại hậu điện rồi lên đường lúc 8 giờ, trực chỉ đi dọc theo con sông, thẳng đến chợ Thầy Yên,  rồi đi thẳng vào Láng Cát độ 5 cây số thì dừng lại tại con rạch nhỏ, hai bên bờ đồng bào ở rất thưa thớt. Người dân nơi đây chỉ sống với nghề đan đệm, thỉnh thoảng có một cái lò gốm sản xuất chén tộ, dĩa lu, chậu,… cảnh sống lác đác, cây cối thì khô cằn bởi nước phèn không trồng gì được ngoài cây bàng và cây năng sậy mọc xanh um.

Sau đó phái đoàn phải lên bờ đi bộ thẳng vào một cánh đồng hoang, toàn cây sậy, bàng, năng mọc cao khỏi đầu người. Người chịu trách nhiệm hướng dẫn đi trước phải cầm một sợi dây luộc thắc dài cho người đi sau, vì người đi sau không nhìn thấy người đi trước, rất dễ bị lạc.

Đi độ khoảng 700 mét trong hơn 1 tiếng đồng hồ, phái đoàn nghỉ chân trên một gò đất cao ráo như một ngọn núi mới hình thành. Ngài bảo lấy cái bàn nhỏ đặng Ngài chấp bút. Đoạn Ngài định thần chấp bút thì có Lỗ Ban Tôn Sư giáng, tường thuật lại gốc tích, giai đoạn và chỉ cách giải quyết tháo gỡ. Đó là một thầy địa lý người Tiều Châu đã bí mật len lỏi đến đây dùng phép trù ếm không cho ngọn núi nầy mọc lên cao vì lo sợ sẽ có nhiều nhân tài Việt Nam xuất hiện. Đức Hộ Pháp hỏi:
“Họ ếm nơi nào? Nhờ Lỗ Ban Tôn Sư điểm chỉ.”
Ông Lỗ Ban mới trả lời:
“Lấy bàn làm trung tâm, đi về hướng mặt trời lặn 30 bước, đào xuống sẽ gặp.”

Đức Ngài chọn một người cao và một người thấp nhất trong đoàn, bước một lượt 30 bước rồi dừng lại, lấy trung bình rồi sắp xếp người đào nơi Ngài chỉ. Ngài ra lịnh cho anh em đứng theo hàng ngang san sát, mỗi người một cái cuốc và cuốc một lược. Cuốc mỗi lúc một xuống sâu mà không thấy gì cả. Đường cuốc thành một đường rãnh dài, sâu mà chưa thấy dấu hiệu gì, mọi người thì mệt nhoài rồi. Nên Ngài cho dừng tay rồi nghỉ. Trong lúc đó có một người mới nói:
“Còn cái bụi cỏ chát trước mặt sao không tém cho sạch luôn để làm gì?”

Vừa nói vừa lấy cuốc đào tém bụi cỏ lật ngang. Liền thấy có một chổ trũng.
Thấy hiện tượng lạ, liền trình với Đức Hộ Pháp, Ngài bảo theo đó mà đào xuống tiếp. Vừa đào được 3 cuốc thì thấy đất chỗ ấy không cứng mà hình như có vật gì đó trong đất, vì đất có màu sét. Ngài bảo không đào nữa, lấy tay moi. Khi moi lên thì lấy được một cái đao lớn dài, gẫy cán, gỉ đầy sét, một cái hũ bịt kín, trút hũ ra bên trong có một cái hột gà đen thui, 6 con cờ tướng bằng ngà, 6 đồng tiền kẽm đời Minh Mạng. Cả phái đoàn mừng rỡ cố gắng đào sâu xuống nữa thì đụng phải cái hộp bao  chì dài 9 tấc. Mọi người reo mừng, Ngài dạy phải thận trọng đem bao chì lên cho nguyên vẹn và chỉ dẫn lau sạch sẽ. Ngài nói Long Tuyền Kiếm ở trong đó. Hộp bao chì được cẩn thận gói lại bằng một khúc vải đỏ và được lệnh đem về Tòa Thánh.
Ngài còn dạy thêm:
“Nay là ngày kỷ niệm nước Việt Nam dòng giống Lạc Hồng được hữu phước nhờ Đạo Trời khai mở gỡ nạn ách cho nhân loại, và từ đó gỡ ách nô lệ, dòng dõi Tổ Phụ ta sẽ phục nghiệp, dân tộc ta sẽ xuất hiện nhân tài phá tan xiềng xích chẳng còn bị lệ thuộc nữa. Nếu chậm trễ là do dân tộc Việt Nam không lo tôn thờ chủ nghĩa của Đức Chí Tôn, không đủ sức thương yêu nhau cứ tranh giành quyền lợi. Lại nữa Tổ Phụ ta đã vay nợ máu Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn còn dính dòng máu ấy phải trả dứt rồi mới vãn hồi hòa bình độc lập thực sự được.”

Sau nầy Đức Hộ Pháp có giảng về giai đoạn lịch sử vay nợ máu đó như sau:
" Theo lịch sử thời kỳ Lê Trùng Hưng từ 1502 tới 1789, đã biến sanh ra nạn nước Nam Bắc phân tranh, hoàng đồ chia rẽ, đế vị nhà Vua Lê cầm vận mạng nước nhà. Còn hoàng đồ chia phân ra từ miền Trung, tức nhiên từ miền Nam nầy từ núi Hoành Sơn đổ vô thuộc Chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đổ ra thuộc về Chúa Trịnh.
Nước đã ly loạn, trong Nam có đảng tranh vì Chúa Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã dấy loạn, theo lịch sử thì cả toàn quốc không có một người nào là không hiểu, bần đạo chẳng cần nhắc lại đây mà làm gì.
Đến năm 1778, Nguyễn Nhạc đã xưng Vương tức vị và định chiếm đoạt luôn Bắc Việt, tức nhiên tạo loạn cả toàn quốc. Trong thời kỳ ấy đất Tây Sơn có người đã làm cho nước nhà nổi danh đối với Trung Hoa, tức nhiên đối với nước Tàu, là Nguyễn Huệ. Khi đặng lịnh của Nguyễn Nhạc ra trận, Ngài phân binh đuổi quân Tàu ra khỏi Bắc, tức nhiên ra khỏi Thăng Long Thành của mình. Nguyễn Nhạc tạm phong cho Nguyễn Huệ Bắc Bình Vương.
Tuy vậy, Tây Sơn lấy thuyết hồi Lê diệt Trịnh, gọi là phò Lê diệt Trịnh, song kỳ trung Tây Sơn đã mong chiếm đoạt hoàng đồ thì trong khi ấy từ Nam chí Bắc đều thuộc về Tây Sơn.
Giết người không phải tuyệt sanh mạng của loài người, như đốn cây chẳng là giết chết cây, mà là làm cho nó sanh chồi nẩy tược, kẻ làm ác nó tưởng giết là hết, không thể như thế được, chúng ta sẽ còn thấy tấn tuồng nhơn quả. Nước Việt Nam ta đã từng chịu luật nhơn quả trả vay, cựu trào đã tàn sát Ngu Khôi. Mã Ngụy hiện  còn di tích tại Trường Đua bây giờ, đã giết họ đặng đưa họ lên làm chúa, 80 năm nô lệ do đó mà ra."

Đức Ngài chỉ nơi có láng cát xung quanh toàn là đồng ngập nước mênh mong, vì là nơi cùng giữa của Đồng Tháp là một chỗ đất trũng, láng cát ấy là một chỗ đang nổi gò. Đức Ngài nói:
“Ai ở dài theo đây sau nầy sẽ làm giàu, vì đây là cái núi chưa nổi. Ngày giờ đến họ đi ghe vào đây mua gạch. Nó như miếng chai vậy, trong và lấp lánh, chỉ cần cào lớp mặt phớt qua bỏ đi rồi cạy sắn từng miếng, từng miếng có lớp, hết lớp nầy rồi kế lớp khác, chặt cho có góc cạnh như viên gạch bán lấy tiền. Bởi vì đây là một loại đất thành đá còn mềm, loại đá này rất đẹp mà những nơi khác không có. Nên nó có giá trị và quí lắm.”
Ngài chỉ tay về phía trước nói:
“Còn mạn trên đó nếu mình không ở sau này tụi nó vào, nó giành chỗ đó để khai thác thì thật là uổng lắm đó.”

Ý Ngài nói ở đây là ám chỉ tụi nước ngoài.
Sau nầy vào một hôm có đông đảo anh em Phạm Môn, Đức Hộ Pháp vẽ hình cây Long Tuyền Kiếm mà Tàu trấn ếm và chỉ cho anh em biết như vầy:
“Cán nó là núi Bà, Nội Ô Tòa Thánh là cái ấn đường. Còn lưỡi của nó là mạch đi sâu 300 mét dưới lòng đất, mũi nhọn nhô lên ngay láng cát ở Phú Mỹ. Tàu nó ếm tại mũi, vì mũi ấy là chỗ địa huyệt linh, ếm ngay làng Phú Mý, nó có tác dụng làng ấy nếu có xuất tướng đều chết yểu. Nơi mũi ấy sau nầy là một ngọn núi, núi ấy được cấu trúc bởi loại đá quý.”

Nói về bên dưới Thánh địa Nội Ô Tòa Thánh, hồi Đức Lý dạy các vị chức sắc đi tìm mua đất để xây Tòa Thánh mới vì ông Như Nhãn đòi chùa thì mấy vị tìm được khu đất Nội Ô ngày nay. Đến tối hôm đó trở về phò loan thì Đức Lý giáng cơ nói:
“Lão khen Thái Thơ Thanh, phải đó đa không, tưởng chư hiền hữu không thấy nữa.
Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh địa. Sâu hơn 300 thước như con sông giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm như con rồng đoanh nhau, nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi, gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu, một đầu ra giếng mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia.”

Sau đó Ngài dạy ông Trung đào một con kênh bắt đầu từ ngọn Chàm Sập băng ngang qua chót mũi kiếm cho bứt để hóa giải phép ếm của thầy địa lý, có ý là chặt đứt đoạn mũi kiếm ấy đi. Ông Trung vâng lịnh làm.
Rủi sao ông Tòng, là con lớn của ông Trung chết. Khi hay tin Đức Hộ Pháp hỏi ông Trung một cách lớn tiếng:
“Tao bảo mày chặt mũi, bộ mày chặt không đứt sao mà còn như vậy?”

Ông Trung tái mặt bước đến sát bàn Đức Hộ Pháp nói nhỏ với Ngài. Nghe xong Đức Hộ Pháp lắc đầu nói tiếp:
“Nhạc Vân bao giờ cũng chết yểu.”
Nhạc Vân là con trai của Nhạc Phi. Nhạc Phi là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống từng thắng Kim 126 trận. Nhưng về sau nhà Tống lại sợ hãi và có chủ ý muốn hòa với Kim, còn Nhạc Phi thì không chịu nên ông và con trai là Nhạc Vân bị Tần Cối, vốn được sử sách coi là một tên gian thần nhu nhược đứng đầu chủ ý đầu hàng hạ độc giết chết tại đình Phong Ba thuộc đại lý tự Lâm An.
Đêm hôm đó Phật Mẫu giáng cơ tại Khổ Hiền Trang lập Thảo Đường có cho bài thi nầy:
“Thảo Đường phước địa ngộ tùng hoa,
Lục ức dư niên vũ trụ hòa.
Cộng hưởng trần gian an lạc nghiệp,
Thế đăng đồng đạo thịnh âu ca.”

Đức Hộ Pháp căn dặn anh em cố lo lập sở Thảo Đường, cất nơi dựa chưn chổ hòn núi Lan đó tạm thời chờ sau này cất Đền Thờ Phật Mẫu.
Đức Ngài còn tổ chức cân Thần lập thệ cho các vị để chọn vào Phạm Môn.
Các lần tổ chức đó như sau:
- Hồi còn ở Thủ Đức, Ngài có tổ chức lập thệ lần thứ nhứt vào ngày 12 tháng 5, Canh Ngọ (1930) cho 23 người; ngày 28 tháng 9, Tân Mùi (1931) cho 344 người.
- Nay ở Khổ Hiền Trang Ngài tổ chức lập thệ kỳ thứ nhì vào ngày mùng 2 tháng 3, Nhâm Thân (1932) cho 72 người.
- Kỳ thứ ba tại Trường Hòa vào ngày 18 tháng 8, Ất Hợi (1935) cho 77 người.
- Kỳ thứ tư ngày 18 tháng 8, Ất Hợi (1935) cho 52 nam, 26 nữ, trong kỳ nầy có:
* Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
* Tiếp Lễ Nhạc Quân Trần Quang Thế
* Phối Sư Thượng Trí Thanh
* Giáo Hữu Thái Gấm Thanh
* Tả Phan Quân Trang Văn Giáo.

Đức Ngài tổ chức làm lễ cân Thần các vị. Mỗi người vào trước Thiên bàn quì xuống. Đức Hộ Pháp đến trước mặt, 2 tay Ngài úp xuống phía trên đầu của người đang quì. Ngài bảo nhắm mắt lại, không hiểu Ngài hành pháp gì xong rồi Đức Ngài đọc theo thứ tự:
1 . Hạnh…điểm
2 . Đức…điểm
3 . Trí…điểm
4 . Lực…điểm
5 . Tinh…điểm
6 . Thần…điểm
7 . Tâm…điểm
8 . Tình…điểm

Tất cả cộng lại chia ra lấy trung bình. Người nào được trung bình đổ lên thì đậu, còn ai dưới thì lập công đức thêm sẽ xét lại sau nầy.
Người chịu trách nhiệm ghi là ông Lê Văn Trung, người Phạm Môn.
Thí dụ: Ông quì trước Thiên bàn là Nguyễn văn A. Thì sau khi Ngài hành pháp, Ngài đọc:
1 . Hạnh 5 điểm.
2 . Đức 6 điểm.
3 . Trí 7 điểm.
4 . Lực 8 điểm.
5 . …

Cứ như vậy hết người nầy đến người khác tuần tự mà ghi, riêng biệt từng người.
Xong hết Đức Ngài cộng lại, lấy số trung bình, chọn chính thức là người Phạm
Môn. Những ai còn thiếu chưa đạt trung bình hoặc yếu kém điểm nhất thì Đức Ngài
không nhận và phải cố gắng tu tập thêm.

Lần nọ có hai (2) người đã ghi hết điểm số vào danh sách mà quên ghi tên, nên ông Trung đem sổ vào trình với Đức Ngài và nhờ Ngài định coi điểm số nào là của ai, của ai. Đức Hộ Pháp xem sổ rồi nhìn hai (2) người ấy, Ngài chỉ cái trên của người nầy, cái dưới của người kia. Ông Trung hỏi tên hai (2) vị ấy rồi ghi vào theo Ngài chỉ.

Lần đó có ông Phạm Duy Hoai, về sau đắc phong Chơn Nhơn có kể lại trường hợp của ông là lúc nhắm mắt ông cũng có tính hiếu kỳ, nên lén hí hí để xem Đức Ngài làm gì. Ngài biết nên bảo:
“Con nhắm mắt lại mà phải thật sát nữa mới được.”

Ông hoảng hồn nhắm lại mà còn ngẫm nghĩ:
“Sao mình hí hí mà ổng lại biết!”

Đến lúc vị nào đã được chọn vào Phạm Môn mà được Đức Ngài bổ đi hành đạo, Ngài còn biểu đến trình diện để xét thêm mạng căn số kiếp cho thích hợp rồi mới có giấy bổ đi. Ngài có nói:
“Hồi xuống thế Phật Mẫu cho tám (8) thứ ấy mỗi thứ là mười (10) điểm, xuống đây nhiễm trần rồi bỏ hết.”
Cho nên Đức Ngài đi tìm lại ai còn được năm (5) điểm là Ngài đem trả lại cho Phật Mẫu. Đó là số điểm mỗi thứ phải là trung bình. Nếu phần nào thiếu thì phải tu tập thêm cho đủ trung bình mới được.

Sau nầy về Tóa Thánh mấy anh em Phạm Môn ở đấy cũng xin Đức Hộ Pháp cân Thần như ở Khổ Hiền Trang. Đức Ngài mới nói:
“Phạm Môn mấy em ở đây hơn mấy đứa Khổ Hiền Trang, vì mấy em hữu phước được gần qua hơn, cái gì qua cũng để ý chỉ dạy nhiều vì gặp mặt trò chuyện hằng ngày. Còn ở Phú Mỹ xa qua, nên qua phải trục Thần, cân Thần để chọn lựa đứa nào có căn có duyên mới được.”
Cách lập thệ là dùng rượu đỏ đổ vào một cái thao lớn, mỗi người nhúng ngón tay giữa của bàn tay mặt vào rượu và nói rằng:
“Đây là huyết thệ của tôi.”

Rồi mỗi người uống 1 hớp. Ba, mẹ, vợ, con của người chánh danh cũng phải uống mỗi người 1 hớp. Người lập thệ quì trước Thiên Bàn nguyện như vầy:
“Tôi là….....,...…tuổi, thề rằng từ nay tôi coi anh em Phạm Môn như ruột thịt, sanh tử bất ly, thoản có điều chi hoạn nạn thì tôi liều mình với anh em tôi. Nếu ngày sau tôi thất nguyện, quyền thiêng liêng hành pháp tận đọa tam đồ bất năng thoát tục và thầy tôi không nhìn đến tôi nữa.”

Đức Hộ Pháp nói:
“Đáng lẽ mỗi người phải cắt tay mình lấy máu đựng chung rồi mỗi người uống 1 hớp, nhưng mấy em làm người đạo, mỗi người đều giữ trường trai, không thể làm như vậy được, nên phải dùng rượu chát đỏ để thay thế.”

Lễ hồng thệ còn được gọi là “Đào viên pháp”. Khi được thọ pháp rồi mới được coi chánh thức là người của Phạm Môn.
Đức Hộ Pháp có tiên tri:
“Đất Khổ Hiền Trang là cái mũi thuyền Bát Nhã, còn cái lái là Tòa Thánh, đất nầy phải xuất Thánh mới được.”

Tòa Thánh lần lần yên tịnh, Đức Quyền Giáo Tông mới xuống Khổ Hiền Trang rước Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh. Tùy tùng theo Quyền Giáo Tông có ông Giáo Hữu Thượng Latapie Thanh là người Pháp, cuộc tiếp rước Quyền Giáo Tông rất long trọng, nhờ ông Latapie quen với tỉnh trưởng Pháp nên ông Ca không phá gì được. Khổ Hiền Trang là nơi tạo được lắm nhân tài, lắm chức sắc rường cột của Phước Thiện sau nầy, là nơi xuất Thánh nhiều nhất ở Miền Nam.

Khi về Tòa Thánh, Đức Ngài dạy anh em Phạm Môn tạo sở Khách Đình kế lộ Phước Đức Cù, sau hậu nhà sở Khách Đình sát với rừng cấm hướng Nam Tòa Thánh. Nhà sở nầy do ông Nguyễn Văn Lư làm chủ sở.

Trong lúc tạo sở nầy cơm gạo rất thiếu thốn, mỗi bữa ăn đều là khoai mì với lá đậu rồng, lá cây búng chấm nước muối. Lúc đó ông Phạm Văn Út là người nhỏ tuổi hơn hết, khoảng 20 tuổi, tới bữa ăn vô thấy toàn là khoai mì với nước muối liền khóc ròng, vì đã kéo dài đến cả tháng mà chưa được bữa cơm nào. Lạ một điều là trong số anh em nầy khi có ai về thăm nhà, cha mẹ hoặc vợ con hỏi thăm lên chùa làm công quả là làm gì thì đều trả lời là làm nhà, học kinh, học đạo, và trồng trỉa chớ không ai cho biết những sự khổ hạnh đói khát vì sợ cha mẹ vợ con buồn rồi không cho đi nữa. Sau nầy có dịp hỏi lại với nhau thì mới biết ai ai cũng đều trả lời với gia đình giống nhau như vậy.

Hồi làm cây tạo dựng nhà sở Khách Đình, đã gần đến ngày dựng mà còn thiếu cây đòn dong, anh em mới bạo gan vô rừng cấm đốn cây dầu nước rồi mượn mấy anh em người Miên phụ khiêng đem về cưa ra đặng làm cây đòn dong. Khi vừa cưa xong chưa kịp dọn dẹp, kế đó có ông đội ngự là đội kiểm lâm vô tới thấy cây mới cưa nên đi vòng theo mé rừng thấy dấu đường khiêng cây về, liền trở vô bắt và lập biên bản. Anh em liền trình lên Đức Hộ Pháp, Đức Ngài mới nói:
“Nó muốn kiếm tiền đó, mấy em về năn nỉ cho nó tiền là xong.”
Anh em liền trở về năn nỉ và cho 5$. Ông đội ngự nói:
“Thôi, tôi vui lòng tha cho nhưng từ nay đừng ăn cắp cây của nhà nước nữa.”
Nói rồi xé hủy biên bản ra về.

Bữa nọ đang nghỉ trưa, Đức Ngài ngồi trên võng 2 anh em Phạm Duy Hoai đến chỗ Ngài ngồi lạy 2 lạy rồi thưa:
“Bạch Thầy con ở Khổ Hiền Trang xin Thầy cho 2 anh em con vào Phạm Môn với anh em.”
Đức Ngài ngồi lặng thinh hồi lâu, ngó quanh rồi nói:
“Cái Phạm Môn của Đức Chí Tôn thì qua không biết định cho ai, chớ Phạm Môn của qua lập ở đây hay mấy con ở Khổ Hiền Trang cũng vậy mà thôi. Cái Phạm Môn của Đức Chí Tôn là 500 vị La Hán lãnh lịnh ở Cực Lạc Quốc theo Ngài, trợ giúp Ngài trong việc lập đạo.”

Sau đó Đức Ngài cho anh em xuống mở sở Phạm Môn tại Tâm Lạch thuộc xã Trường Hòa (Tây Ninh), do ông Lê Văn Lưu làm chủ sở sắp đặt việc nhà cửa và canh tác ruộng rẫy. Năm đó là năm Canh Ngọ (1930), ông Phạm Văn Màng nhiệm vụ coi anh em người Miên làm hằng ngày. Vì sở nầy có lối 40 người Miên Nam Nữ, còn người Việt lối 20 người. Ông Lại Văn Sắc lo về lương thực và ngoại giao.

Khi mới đến tạm ở nơi nhà ông Út Giáp (Phạm Văn Giáp) vì nhà của ông gần chỗ tạo nhà sở, phần lớn trong nội vụ kiến tạo nhà sở nầy đều nhờ sự giúp đỡ của anh em ông Giáp. Nguyên bởi ông Phạm Văn Giáp lúc nầy đang ở giúp việc cho Đức Ngài tại Hộ Pháp Đường. Khi khởi sự khai mở ruộng rẫy lúc đem trâu ra máng cày vô rồi chính Đức Hộ Pháp cầm cày anh em dắt trâu, cày đủ 3 vòng Đức Ngài trao lại cho anh em ở sở cày.

Ngài còn dạy cả anh em Phạm Môn phải học “Thập Điều Giới Răn”. Phải học cho thuộc làu đặng khi Ngài biểu đọc là phải đọc cho thuộc. Các điều đó là:
1 . Phải tuân y luật pháp chơn truyền của Chí Tôn.
2 . Phải trọn hiếu với tông đường phụ mẫu, trọn nghĩa vợ chồng, vẹn phận làm cha.
3 . Phải trọn giữ trai giới.
4 . Phải xa lánh các đảng phái.
5 . Phải thật hành phước thiện, nuôi người già, dưỡng trẻ nhỏ.
6 . Không đặng thâu của chúng sanh.
7 . Coi anh em đồng đạo như ruột thịt.
8 . Không đặng bội sư phản bạn.
9 . Phải ở như các Thánh Hiền, đừng phạm tội vong công bội đức.
10 . Phải thương yêu loài người và loài vật, kỉnh trọng mạng sanh, vừa theo tánh chất của Chí Tôn là Chúa sự sống.

Đức Ngài còn dạy ông Trịnh Phong Cương ra tạo sở Giang Tân kế mé sông Vàm Cỏ Đông thuộc xã Trường Hòa, sát ranh với xã Long Thành; sở Nam Công Nghệ gần ngã ba đi Suối Đá và đi Chà Là tại góc đường đi vô Thái Bình Thánh Địa do ông Võ Văn Đợi tự là Đại làm chủ sở; sở Nữ Công Nghệ ở gần ngã tư Ao Hồ do ông Đinh Văn Tiết làm chủ sở; sở Dưỡng Lão Đường cũng gần đó, về sau được xây thành Điện Thờ Phật Mẫu Đệ Tam, do ông Võ Văn Chi làm chủ sở.

Liên quan đến chuyện mua đất cất nhà Phạm Môn, ngày xưa nơi vùng đất Cẩm Giang có một khu đất không ai dám vào, dù chỉ đi ngang cũng còn sợ. Nếu có việc cần chi hoặc bẻ một nhánh củi cũng phải van vái mới được. Người ta còn đồn đãi thấy nhiều hiện tượng kỳ quái khác làm cho người dân nơi đây rất sợ, đến đỗi bán cũng chẳng hề ai dám mua.
Thấy vậy các anh em Phạm Môn hỏi Đức Hộ Pháp. Đức Ngài nói:
“Kệ, coi người ta để nới thì mình mua để làm nhà họ Phạm.”

Đất là đất khó nên người bán cần bán cho được nên chẳng đòi cao, việc mua bán rất mau lẹ dễ dàng. Xong đâu đấy, Đức Ngài mới xuống xem đất, đồng thời chỉ vẽ mô hình để xây dựng. Đức Ngài và anh em Phạm Môn thấy trong khu đất có 3 cái gò hơi giống gò mối. Đất lâu ngày không ai bén mảng nên coi hoang vắng lắm, cây cỏ um tùm. Đức Ngài dạy anh em Phạm Môn phát hoang xung quanh, còn 3 cái; gò đó đừng phá vội, coi chừng là mộ chôn người ta chớ không phải là gò mối.

Đến trưa, Đức Hộ Pháp nằm nghỉ trên võng. Lúc mơ màng Ngài thấy mình xách cặp táp, ăn mặc lịch sự, bước vào một tòa nhà cao lớn như một dinh cơ của  quan lớn vậy. Người gác cửa là một vị tướng vạm vỡ oai nghi, tay cầm đại đao giống như Châu Xương.
Ngài vào bên trong, để cặp táp lên bàn, ngồi vào ghế, xong đâu đấy Ngài nói:
“Tướng quân cho vào.”

Liền đó có một người từ ngoài bước vào. Đến trước mặt Ngài, vị ấy xá chào.
Thấy người nầy đẹp đẽ, phong thái tư cách oai nghi, đúng bực là một viên quan chức sắc. Đức Hộ Pháp nói:
“Mời quan lớn ngồi.”

Ngài vừa nói vừa chỉ cái ghế trước bàn.
“Tôi cho phép quan lớn chung chiêu.”

Đức Hộ Pháp nói xong, vị quan bắt đầu trình bày sự việc:
“Nguyên tôi tên là Cẩm, đỗ bằng Tú Tài nên người dân quen gọi là Tú Cẩm hay là Cẩm Tú. Tôi có 3 người vợ, người vợ cả không có con, 2 người vợ thứ đều có con. Nhưng tôi thì thường sống chung với vợ cả, mọi sự chăm sóc cho tôi đều do một tay của bà đảm nhận hết.
Vì không có con nên có lần về quê nhà đám giỗ, bà có xin dẩn về một đứa cháu gái của bà trạc 11-12 tuổi để làm con nuôi và làm nguồn an ủi cho sự cô quạnh của một người đàn bà đứng tuổi. Thấy vậy tôi cũng chấp nhận với bà, và xem đứa cháu gái như là con ruột của hai vợ chồng vậy.

Thế rồi từ đó cháu nó một ngày một lớn, nét đẹp trổ mã trông rất xinh lịch, lại là con quan nên rất thông thái, hơn nữa việc dạy dỗ của hai vợ chồng tôi cũng đẩy đủ nên cháu nó ngoan hạnh như gương của bà nhà tôi vậy. Việc gì của bà nhà tôi làm thì cháu nó cũng để ý làm theo, tánh nết thuần hậu ấy làm hai vợ chồng tôi thương mến và đối với bà thì càng thân thiết tâm đầu ý hợp lắm.

Rồi chẳng may vợ tôi mất sớm. Sau khi chôn cất, trong nhà còn lại 2 người.
Cháu gái ấy thay vợ tôi làm những việc mà bà vẫn làm lúc sanh tiền, và chăm sóc tôi như thế nào thì cháu cũng làm y như vậy. Chẳng hạn như phụ mặc áo cho tôi, hoặc khi tháo khăn, tháo nón, dọn dẹp giùm, khi bưng nước rửa mặt, hay giặt giũ cất xếp ngăn nắp. Tôi xem nó như con, nó xem tôi như cha.

Có một lần nọ sau khi dở mão ra, tôi thấy mến thương vì từ khi mất người thân cháu nó trở nên cực nhọc nhiều, nên kéo sát lại hôn lên má như an ủi và chỉ duy nhứt có một lần.
Ngày lại qua ngày, 2 bà vợ lẻ vì ghen tương, hơn nữa thấy cháu cũng đã lớn rồi nên bàn cùng tôi nên gã cháu ấy để nó yên bề gia thất. Hai bà vợ lẻ đã có ý tốt là nên gã cho con trai mình, vì tiện là nó ở đây đã lâu và nó thông thái, ngoan hiền. Xét thấy cháu nó không có quan hệ dòng họ, mà có nghĩa nặng tình sâu với gia đình này, cùng sống và đã hiểu biết ý nhau, không còn điều gì ngần ngại nữa. Thật là may mắn vậy. Riêng về phần cháu gái lòng dạ nó thật tốt, nó chung thủy trung kiên, thật thà chơn chất. Bao nhiêu chỗ mối mai mà nó đều từ chối. Vì trong suy nghĩ của nó là làm vợ làm như bà dì nó vậy thôi, chớ có gì đâu. Thôi thì làm vợ ở đâu cũng vậy thì làm vợ cho dượng tốt hơn hết vậy. Chớ biết đâu về làm vợ cho người khác, chỗ ở lạ lùng mình mắc cỡ. Nó chỉ nghĩ là nấu cơm, giặt giũ, quét dọn, sắp xếp giữ nhà, tiếp khách chớ đâu hiểu là làm vợ là phải sanh con, nó hoàn toàn vô tư trong sạch. Nói gã cho con trai mình nó cũng không chịu, vì nó sợ không ai chăm sóc cho tôi. Vì đã làm vợ con mình thì phải chăm sóc cho con mình, thì thời gian đâu mà lo cho tôi nữa, nó hồn nhiên như vậy.

Đứng trước tình cảnh ấy, áp lực ấy, tôi giải thích điều hơn lẽ thiệt, khuyên nó đi lấy chồng, ở hoài vậy người đời đàm tiếu. Con nghe lời dượng rồi con là vợ của con dượng tức là con dâu của dượng, nào có lấy chồng xa, ở nhà lạ đâu mà ngại.

Nó ngoan ngoãn nghe lời, vì nó thương tôi lắm. Đám hỏi, đám cưới từng tự tiến hành một lượt. Hôm ấy trong tiệc cưới còn đang nhộn nhịp vui vẻ, mọi người tửu lượng đã nhiều, trong lúc rượu thịt chè chén say sưa có người cười nói:
" Vừa là đầy tớ, vừa là cháu, vừa là con, vừa là con dâu, vừa là bà chủ nhà."

Rồi bọn họ cười ồ. Nó mãi suy nghĩ về câu nói ấy. Nó nhạy bén và tự ái, nó thấy bọn nầy có ý biếm nhẻ nó, nó hiểu rằng người đời đang để lời trêu chọc nó. Nó buồn, nó thẹn, nó tức tối, nó xấu hổ. Tan tiệc, trời đã về đêm. Nó tự vận trong đêm tân hôn đó.

Hay tin nó chết tôi hết sức kinh hoàng, tôi chỉ nghĩ là tôi ép nó lấy chồng nên nó tự vận chớ đâu có biết tại bọn nhậu kia. Vậy là tại vì tôi mà nó chết, tôi đã gây ra cái chết này, tôi cảm thấy tội lỗi quá, sống làm chi đây. Nếu mình sống lương tâm sẽ giày vò hành phạt không yên, thôi chết cho rồi, chết để tạ lỗi. Trong đêm thứ hai lúc lo tang lễ cho nó thì thêm một cái chết nữa đó là tôi.

Đứa con trai thấy cảnh vợ nó chết, cha nó chết, nó như điếng hồn. Nó nghĩ chắc là nó có lỗi gì nặng lắm, trầm trọng lắm do vậy mà vợ chưa nắm được tay thì đã chết, còn cha thì chưa được trao quà đã thác, thôi mình đáng chết lắm, còn gì luyến tiếc. Thế là nó cũng tự tử.
Đám cưới chưa động phòng thì 3 mạng người chết liên tục.

Nói đến đây ông Tú động lòng sụt sùi nức nỡ. Đức Hộ Pháp nói:
“Gọi cho người con gái vào.”
Cô gái bước vào xá chào Đức Ngài kỉnh lễ. Ngài thấy cô đoan trang, thùy mị, đẹp xinh, người sáng sủa, thanh thoát, khoan thai, có học, ra bề gia giáo nhưng mặt cứ cúi xuống, chỉ ngước lên lúc xá Ngài mà thôi. Đôi tay lúc nào cũng mân mê tà áo. Hỏi đến thì cô đáp lại, còn không hỏi thì đứng lặng thinh, buồn dào dào.
Đức Ngài bảo:
“Hãy trình bày tự sự đi.”

Cô gái nhìn Ngài rồi kể:
“Tôi chỉ biết thật một điều là làm những công việc ấy thường ngày như dì tôi đã làm cho dượng để thay thế cho dì vì người đã mất đi. Tôi thương dượng một mình, bận bịu việc quan, không người chu tất việc nhà nên làm giúp để đáp đền công nuôi dưỡng dạy dỗ nên người.
Lúc ấy tôi không biết việc làm chồng vợ của dì và dượng là cái gì khác nữa ngoài việc lo lắng như trên. Tôi chỉ thấy dì làm vậy là tôi làm vậy. Cho nên khi dượng khuyên lấy con dượng làm chồng thì tôi nghĩ cũng lo cho người đàn ông ấy bao nhiêu việc ấy thôi. Thế nên nghe lời dượng chấp nhận cho dượng vui lòng. Bữa tiệc cưới tôi nghe họ nói nhìn họ để mắt dòm tôi, cười ồ, tôi biết là họ nhắm vào tôi, tò mò, cay nghiệt giễu cợt chế nhạo tôi:
" Vừa là đầy tớ, là con, là cháu, là con dâu lại là bà chủ nhà."

Tôi suy nghĩ và chợt hiểu ra, tôi xấu hổ vô cùng và vì không muốn ai đàm tiếu nên tôi quyết định chết đi mà thôi. Chết để không nghe không thấy nữa.
Xong người con gái cúi mặt xuống. Đức Hộ Pháp gọi cho người con trai vào.
Người con trai xá chào Ngài kỉnh lễ. Ngài mới nói:
“Hãy nói đi!”
Người con trai liền thưa:
“Thưa, riêng tôi, tôi không hiểu điều gì hết, lại thắc mắc một điều là vì sao vợ mình chưa thành thân, chưa gần tạng mặt lại tự vận chết. Tôi nghĩ chắc là có uẩn khúc chi đây, hoặc là do gia đình tôi, hay do tôi có lỗi với nàng ấy. Tiếp theo cha tôi lại chết, cái chết của cha làm cho tôi hết sức bàng hoàng và càng thêm nghi vấn.
Cha và vợ mình có giận mình không, tôi thiết nghĩ là lỗi do mình, nên chung tình vẹn nghĩa thì hay hơn, và tôi quyết định chết theo luôn.”

Lúc bấy giờ Ngài đã rõ chi tiết tự sự vấn đề câu chuyện. Ngài xin được thấy hình ảnh thật. Sau đó Ngài được Chí Tôn dùng huyền diệu thiêng liêng cho Ngài thấy hình ảnh thật diễn biến, sinh hoạt, âm thanh, tiếng nói, tiếng cười, người và cảnh y như lời kể.

Đến đoạn tiệc cưới, Ngài nghe mà lại không thấy. Vì Đức Chí Tôn chỉ cho Ngài nghe mà không cho thấy. Ngài nghe tiếng nói trong đám ăn nhậu phát biểu câu nói giễu mà đã gây ra cái chết của người con gái, rồi 2 mạng tiếp theo. Ngài phán lỗi là do đám người này. Bọn họ là ai? Ngài không thấy được, như vậy làm sao xử được. Chí Tôn biết trước nên không cho thấy, nếu Đức Chí Tôn cho Ngài thấy thì dứt khoát Ngài đã xử bọn họ rồi còn gì.

Không xử mấy người kia, Ngài liền tính việc xử 3 oan hồn nầy. Ngài phán:
“Ông là một vị quan liêm chánh, đáng khen, nếu ông có ý ham sắc, có ý tà dâm là đã ở với cô gái ấy sau khi vợ mất. Ông đứng đắn, đàng hoàng. Do đó được cô gái ấy coi trọng và kính như cha vậy. Ông vô tội, cho đi đầu kiếp.
Cô kia, cô thật thà chơn chất, ngây thơ vô tư trong sạch, lại biết hỗ ngươi khi bị thị nhục, tự vận để bảo toàn danh tiếng cũng đáng khen. Cho đi đầu kiếp.
Cậu kia, cậu chẳng biết gì, lại chẳng liên can gì. Lại vì một tình vợ, một nghĩa với cha mà quyên sinh tỏ tường khí tiết, cũng đáng khen. Cho đi đầu kiếp.”

Đức Ngài hành pháp giải oan nghiệt và cho đi tái kiếp trở lại. Bản án kết thúc.
Kể từ đó, khu đất ấy được anh em Phạm Môn dọn dẹp, dọn luôn 3 cái gò, tạo dựng nhà thờ Phạm phủ đầu tiên. Sự quấy phá không còn, và vùng đất đó về sau nầy được gọi là Cẩm Giang. Cái tên có nguồn gốc từ đây.

Ngày 16 tháng 10, Quí Dậu (1933), anh em dựng nhà lớn tại sở Trường Hòa để làm nhà thờ. Vụ nầy có thân quyến của anh em Phạm Môn rất đông, lối khoảng 500 người. Lúc thợ mộc đang chỉnh đốn kèo cột để đóng đòn tay thì bổng đâu có  ông Phủ Sửu chủ Quận Châu Thành Tây Ninh đi với 5 người lính và Hương Thân, ở Hương Chà Là vô tới. Anh em rất lo sợ, Đức Ngài ra bắt tay Quận Sửu chào hỏi, ông Sửu chào lại và quở:
“Làm gì đông dữ vậy?”

Đức Hộ Pháp trả lời:
“Dựng nhà.”
Ông ta hỏi:
“Có xin phép không? Vì theo lịnh quan lớn chánh thì cuộc hội họp quá mười (10) người phải xin phép. Còn bây giờ 4-5 trăm người mà không có phép nên tôi phải lập biên bản.”
Đoạn Quận Sửu kêu Đức Ngài vô làm biên bản liền. Lúc ông quận nói chuyện với Đức Ngài, anh em rút vô đám rừng phía sau chỗ dựng nhà và trong 2 đám mía lau bên hông cao khỏi đầu nữa. Khi lính kêu biên tên từng người thì chỉ còn lối 30 người. Ông ta nổi giận hét lớn:
“Cho mấy người giỏi trốn, rồi đây sẽ biết.”

Kế bắt Đức Ngài ký tên vào biên bản rồi ra xe về liền.
Gần tết Quí Dậu (1933) ông trưởng Tâm, sếp lính Tây Ninh đi với 5 người nữa tới Hộ Pháp Đường trình giấy Chánh Thanh Biện Tây Ninh cho lính xét nhà.
Họ tịch thu:
- Hồ sơ hiến thân của cả Phạm Môn.
- Văn thơ của đạo.
- Văn thơ của đời, gồm cả mật thơ của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở Nhựt, của Nguyễn Hải Thần ở Tàu, cùng các tài liệu chính trị khác.
Hai tháng sau có lịnh đóng cửa các cơ sở Phạm Môn, mỗi nhà sở đều dựng một tấm bảng:
“Niêm cửa lại vì lập hội không xin phép trước.”
Trát tòa đòi Đức Ngài và các chủ sở Phạm Môn. Đức Quyền Giáo Tông cũng theo ủng hộ tinh thần.
Tòa kêu Đức Ngài ra trước buộc tội lập hội riêng mà không xin phép. Đức
Quyền Giáo Tông xác nhận các sở nầy là của chung của Đạo Cao Đài chớ không
phải của riêng. Tòa phạt mỗi vị chủ sở 18 quan tiền Pháp, lối 20 đồng, còn đạo sở
mỗi người mườ (10) quan tiền.

Đức Ngài dạy anh em ký tên chống án lên Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn. Tòa nầy cũng xử y án Tòa Tây Ninh. Luật Sư Trương Văn Giáo (thọ phong Bảo Cơ Quân) của đạo biểu anh em chống án qua Pháp. Tòa Tối Cao Pháp xử trắng án.
Tuy vậy, các cơ sở Phạm Môn không được hoạt động công khai, kể như bị đóng cửa vĩnh viển.

PHẠM NGHIỆP GÁNH VÁC NỀN ĐẠO

Lúc bấy giờ trong nền đạo xảy ra nhiều biến cố, phân chia chi phái mà khởi nguồn từ việc ông Ngô Văn Chiêu tách riêng thành lập phái Chiếu Minh. Cũng bởi vì buổi Thầy vừa định giao cho ông Chiêu làm Giáo Tông thì Quỉ Vương mới kêu nài Chí Tôn xin khảo. Chí Tôn có kể lại là:
“Vốn từ trước trong Thiên thơ Tam Kỳ Phổ Độ nầy nền Chánh giáo phải có:
Nhứt Phật, Tam Tiên, Tam thập lục Thánh, Thất thập nhị Hiền, Tam thiên Đồ đệ chưởng quản thâu Tam Giáo hiệp nhứt.

Chiêu, thiệt là Nhứt Phật đó.
Vậy, trước ngày định lập Thiên phong đặng tôn chức Giáo Tông cho nó thì Chúa Quỉ sai Tam thập lục Động Địa giái kêu nài với Ta rằng: Cựu phẩm nó chẳng xứng ngôi ấy, và kiện rằng: Nó chẳng nhứt tâm thờ phượng Ta.
Ta có cải lẽ, Quan Thánh Đế và Quan Âm giúp lời, Ta nhứt định phong chức Giáo Tông cho nó.

Chúa Quỉ xin lịnh Ta mà khảo nó, mà phải để cho Tam thập lục Động hành xác nó. Ta không nỡ nên cho khảo mà không cho hành xác.
Rủi thay! Đau đớn thay! Buổi khảo nó phải bị tà quái áp chế nên phải mất ngôi, song Ta cũng còn thương yêu chẳng nỡ, nhưng mà có mặt chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thì khó bề bào chữa đặng.
Đại lụy! Ta phải dùng quyền Chí Tôn mà tha thứ, song buộc nó phải tịnh thất.
Ta vừa muốn tha nó, lại bị Tam thập lục Động khảo nữa thì mới liệu sao?”

Ông Chiêu vốn là chiết ngươn linh của Tào Quốc Cựu, trong hàng Bát Tiên.
Thật ra nguyên do phân chi lập phái cũng bởi là khi mới mở đạo thì mấy ông lớn đều do nơi trường quan lại của Pháp, trong hàng Phủ và Đốc Phủ mà họ đương cầm quyền Chủ Quận hay Phó Chủ Tỉnh. Vì cớ mà Pháp đã ra lịnh cho mấy ông ấy phải từ khước, không đặng hiệp tác cùng ông Trung, là tay nghịch hẳn cùng Pháp đã rõ ràng bằng cớ. Pháp lại hứa cùng mấy ông ấy rằng họ muốn tu theo Đạo Cao Đài thì họ tự lập chi phái, rồi họ sẽ được sự bảo vệ đặc biệt của Pháp, còn theo ông Trung thì họ sẽ bị khủng bố, không cho làm quan lại của Pháp nữa. Điều ấy mấy ông lớn cũng không đủ sợ, vì công danh quyền lợi mình mà nhảy ra thành lập chi phái, nhưng tới khi Pháp hăm rằng sẽ khủng bố đến con cái của họ đương du học tại Pháp, tiền cấp học bổng bị thâu lại và không cho cha mẹ có phương thế gởi tiền sang cho nữa đặng tiếp tục việc học hành. Điều nầy làm cho họ kinh khủng hơn hết. Thật ra thì cả con cái mấy ông đương du học tại Pháp và tương lai của chúng rất nên sáng lạng, sẽ bị bỏ dở vì cuộc trả thù của Pháp.

Ông Chiêu cũng bị Quỉ Vương sử dụng ma quyền sẵn có đó là chính quyền Pháp bố ráp ông, chúng đe dọa đến sự an nguy cá nhân cũng như con của ông đang du học ở Pháp, làm cho ông Chiêu lo sợ mà tách riêng ra với lý do ông ta nói là "Ngô thân bất độ, hà thân độ", nghĩa là bản thân ông ta còn chưa độ được thì độ ai. Rồi sau đó tự thành lập chi phái Chiếu Minh.
Ngay sau đó cũng có nhiều chức sắc Thiên phong nối gót theo ông Chiêu tách riêng tự thành lập chi phái như:
- Ông Giáo sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quang Kỳ) lập phái Cầu Kho tại Thánh Thất Cầu Kho, Sài Gòn.
- Ông Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập phái Minh Chơn Lý ở Mỹ Tho.
- Ông Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh (Nguyễn Văn Chính) lập phái Tiên Thiên ở Cai Lậy.
- Đầu Sư Thượng Tương Thanh (Đốc Phủ Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Đốc Phủ Lê Bá Trang) lập phái Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre.

Ông Trang vốn đương là Ngọc Chánh Phối Sư, cùng với ông Tương đương là Thượng Chánh Phối Sư. Rồi khi ông Chiêu bị khảo thất Đức Chí Tôn mới giao chức Giáo Tông cho Đức Lý Đại Tiên kiêm nhiệm về vô vi, còn về hữu hình thì Đức Lý giao cho ông Lê Văn Trung. Khi ông Trung lên nắm Quyền Giáo Tông thì ông Tương đắc phong lên phẩm Thượng Đầu Sư.

Buổi sáng ngày đăng điện chánh vị cho ông Tương xong, kế đó nghe Đức Hộ Pháp đọc Pháp Chánh Truyền chú giải, ông Tương thấy Đầu Sư không có quyền bằng Chánh Phối Sư nên ông rủ ông Trang chiều đó liền từ nhiệm Đầu Sư mà chỉ giữ chức Chánh Phối Sư như cũ, không lên Đầu Sư nữa. Đức Hộ Pháp biết trước việc nầy nên ngay sau khi làm lễ xong, Ngài chỉ định ba (3) vị Thời Quân của Hiệp Thiên Đài qua Cửu Trùng Đài nắm giữ vị trí Chánh Phối Sư.

Thế là chưng hửng. Đầu Sư thì đã được Đức Hộ Pháp chấp thuận từ nhiệm, mà Chánh Phối Sư thì đã có người. Ông Tương, Trang mới tính kế tách rời Tòa Thánh để lập chi phái Ban Chỉnh Đạo ở Bến Tre. Khi đó ông Tương còn mang hết giấy tờ đất đai của Tòa Thánh theo đi luôn.

Lúc đó Đức Hộ Pháp chỉ định cho thầy giáo Văn xuống Bến Tre gia nhập với Ban Chỉnh Đạo. Không hiểu vì sao ông hai giáo Văn được ông Tương cử làm Hộ Pháp, có lẽ ông ấy được Đức Hộ Pháp truyền Thần nhập thể hay cho huyền diệu gì đó nên sau một thời gian gia nhập Ban Chỉnh Đạo, ông Tương thấy ông Văn có khả năng như Hộ Pháp thật, nên cho nắm chức Hộ Pháp và hành quyền nơi chi phái.

Thời gian sau, “Hộ Pháp” Văn mới khởi sự tạo điều kiện cho ông Tương nhập tịnh. Ông tìm đủ lý lẽ đốc thúc ông Tương thiền định. Ông Tương nghe theo, trước khi nhập tịnh ông Tương tuyên bố cùng bổn đạo giao trọn quyền cho “Hộ Pháp” Văn đảm nhiệm việc đạo trong thời gian ông không có mặt. Ông Tương cũng nghe lời ông Văn gom tất cả giấy tờ của đạo cho ông nắm giữ. Vì ông Văn nói trong thời gian ông Tương nhập tịnh lỡ có chính phủ đòi, hoặc trình bày điều gì thì khỏi phải làm phiền để ông xử lý ngoại giao với chính phủ cho mau lẹ.

Sau đó ông Văn lựa hết tất cả giấy tờ thuộc về Tòa Thánh gói lại, trước khi đi ông còn sắp xếp lại gọn gàng để hồ sơ của ông Tương vào vị trí cũ. Ông Văn về Tòa Thánh dâng lên Đức Hộ Pháp. Đức Ngài chứng nhận công nghiệp cho ông, và cho phép ông được nghỉ hưu trí. Mà về sau ông Văn có lúc tĩnh lúc ngây. Tương truyền có thể ông giả bộ để tránh sự trả thù của ông Tương, hoặc là lúc nhận lịnh đi thi hành nhiệm vụ Đức Hộ Pháp đã trục Thần của ông mà chiết Thần làm Hộ Pháp nhập thể vì thế ông Tương mới tin tưởng. Khi về Hộ Pháp Đường Đức Ngài thâu lại, Thần ông đi ra rồi đi vào thể xác nên bị yếu. Sau nầy ông mất được Đức Hộ Pháp phong phẩm Sĩ Tải và được hành lễ tại Báo Ân Từ vì công nghiệp phi thường và gọi là Sĩ Tải thiêng liêng vị.

Sau khi ông Chiêu không vượt qua được khảo đảo và tách riêng, Chí Tôn giao chức Giáo Tông cho Đức Lý Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm. Rồi đến giai đoạn nầy nhiều chức sắc Thiên phong cũng muốn tách khỏi Tòa Thánh lập chi phái riêng, bỏ ngoài tai những lời Thánh Giáo của Chí Tôn cùng các Đấng thiêng liêng nên Đức Lý muốn dùng quyền hành của mình để hành phạt những vị phân chia ấy. Nhưng Chí Tôn cản không cho, cũng bởi vì lòng từ bi vô tận của Chí Tôn. Lắm phen Đức Lý cầm bút toan bôi xóa tên của những vị ấy trong cửa đạo đều bị Chí Tôn nài nỉ để Đức Chí Tôn giáo hóa, kêu gọi bọn họ hồi tâm trở lại. Đến đỗi Đức Lý không thể điều hành nền Đạo được nên xin từ chức Giáo Tông. Rồi sau đó đến lượt Đức Ngài Phạm Công Tắc cũng xin từ chức Hộ Pháp. Tuy nhiên Đức Chí Tôn không thuận cho từ chức tất cả mọi hành Đạo còn phải đánh giá lại!

Lòng thương của Đức Từ Bi, Thánh Giáo không nghe, lời vàng như nước đổ lá. Do đó Đức Chí Tôn đành triệu Đức Lý và Đức Hộ Pháp trở lại cầm quyền để xử trị các chức sắc ấy.
Hồi mà Đức Lý mới xin từ chức, Đức Ngài có thấy hình ảnh Đức Chí Tôn bị cụt đi một chân, muốn đi thì nhảy lò cò mà đi. Khi đến Đức Ngài Hộ Pháp xin từ chức thì thấy Đức Chí Tôn chỉ ngồi một chổ, muốn đi đâu thì phải lết thật là thảm não vì đã cụt mất hai (2) chân.

Quý Ngài cảm động thương Đức Chí Tôn quá đỗi mà không dám từ chức nữa. Quý Ngài tái thủ hành quyền Đại Đạo. Đức Lý liền tái thủ hành quyền kẻo tội nghiệp Đức Chí Tôn.
Ngày mùng 4 tháng 11 năm Canh Ngọ (24-12-1930). Đức Lý chính thức tái thủ hành quyền Giáo Tông thiêng liêng.

Sau đó, để chấn chỉnh nền đạo, Đức Lý hiệp cùng Đức Hộ Pháp đưa ra sáu (6) Đạo Nghị Định quan trọng để qui định rõ ràng phẩm trật, ngôi vị và quyền hạng riêng của mỗi cấp bậc trong nền chánh trị đạo.

Xin được trích tóm lược nội dung đàn cơ đó ra như sau:
" TRẦN VĂN XƯƠNG.
Chào chư vị Thiên phong. Có Quan Thánh Đế Quân giáng.
QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.
Chào chư vị Thiên phong Hiệp Thiện Đài và Hương Lự hiền muội. Chư vị cứ thiết đàn có ta trấn thủ."

                                   - Tái cầu:
" ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
LÝ GIÁO TÔNG

Chào chư hiền hữu, chư hiền muội. Có Chí Tôn ngự, chư hiền hữu, chư hiền
muội khá mừng Người!
Lão cám ơn Thượng Đầu Sư làm vẹn phận sự giúp lão."

Thượng Đầu Sư bạch:
" Đệ tử cùng cả chức sắc đều hết lòng lo lắng, cúi xin Đức Giáo Tông từ bi tái nhậm quyền hành hầu chỉnh đốn nền đạo. "

Đức Lý Giáo Tông:
" À há! Thì cũng bởi Chí Tôn nài xin nhiều phen rằng chư hiền hữu, chư hiền muội chưa đủ tư cách giáo dân, lão cũng rộng nghe theo. Đã trót 5 năm để đủ cơ đời dạy ngoan chư hiền hữu, chư hiền muội, ngày nay lão định trừ diệt quỉ quyền, không cho rối loạn nền đạo thử thách Thiên phong nữa.

Chư hiền hữu, chư hiền muội đã đủ tài đức, đạo đức mà hành chánh rồi, thì lão cũng nhứt định giữ nghiêm luật pháp, vậy thì lão hành chánh cứ lấy công bình vô tư làm mực thước, lão chẳng vì thương riêng mà che chở, lão chẳng vì ghét riêng mà hành phạt. Lão nói thiệt rằng, đạo vốn của toàn cả chúng sanh. Lão chẳng lẽ lấy tư mà làm công cho đặng. Lão phải chấp chánh quyền hành, công thưởng, tội trừng cho đáng lý, chẳng phải bởi ngữa nghiêng cơ đạo mà buộc đặng lão phải tùng đời.

Lão lấy quyền vô vi Càn Khôn làm biểu hiệu, lão chỉ vì tình nhau, mà cho chư hiền hữu, chư hiền muội biết trước rằng, đừng ỷ công mà cả lòng khi lịnh. Lão nhứt định chẳng hề tha thứ bao giờ, nên thì để, hư thì trừ, chư hiền hữu, chư hiền muội đừng trách lão quá ư nghiêm khắc nghe!

Hộ Pháp! Lão dùng văn chương thường dụng của nhà Nam đặng làm mấy Đạo Nghị Định nầy. Hiền hữu gắng để hết ý vào, xem xét coi như chánh đáng thì ký tên cùng lão, đặng ban hành phòng có điều chi trở ngại cho lão hiểu đặng toan sửa cải nghe!
Sĩ Tải ráng chép y như văn Lão."

* Nghị Định Thứ Nhứt:
" Điều thứ nhứt: Cả chức sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải tuân y Pháp Chánh Truyền và Tân Luật mà hành đạo theo trách nhậm của mỗi người. Lớn chẳng đặng giành quyền nhỏ, nhỏ chẳng đặng lấn quyền lớn.
Điều thứ nhì: Chư chức sắc Thiên phong phải tuân theo trật tự lớn nhỏ phải phân minh, chẳng đặng phạm thượng làm nhơ danh của đạo.
Điều thứ ba: Cả chức sắc Thiên phong Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải ban hành Nghị Định nầy, kể từ ngày Rằm tháng 10, ai phạm tội, giải ra Tòa Tam Giáo."

* Nghị Định Thứ Nhì:
" Điều thứ nhứt: Ban quyền hành cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà thi hành các phận sự Giáo Tông về phần xác, còn phần Thiêng Liêng có Lão.
Điều thứ nhì: Chức sắc Cửu Trùng Đài, duy bậc Chánh Phối Sư phải tùng quyền mà hành chánh về phần chánh trị của đạo, song đặng thế mặt cho Đầu Sư, đương buổi Người cầm quyền Giáo Tông của Lão.
Điều thứ ba: Mọi việc chi thuộc về quyền chánh trị, đều giao cho Chánh Phối Sư.
Điều thứ tư: Chánh Phối Sư đặng trọn quyền thông công cùng chánh phủ và nhơn sanh; nhưng buộc phải có Hội Viên Nhơn Sanh và Hội Thánh chăm nom cơ hành động.
Điều thứ năm: Nghị Định nầy sẽ ban hành ngày Rằm tháng 10 năm Canh Ngọ."

* Nghị Định Thứ Ba:
" Điều thứ nhứt: Chánh Phối Sư Nam Phái hành chánh riêng nam; Chánh Phối Sư Nữ Phái hành chánh riêng về nữ, Nam Nữ phân quyền.
Điều thứ hai: Chức sắc hành chánh các nơi, chia quyền theo đẳng cấp như vầy:
- Phối Sư phải ở tại Tòa Thánh.
- Giáo Sư làm đầu một tỉnh.
- Giáo Hữu làm đầu một họ.
- Lễ Sanh làm đầu một quận.
- Chánh Trị Sự làm đầu một làng.
- Phó Trị Sự làm đầu một xóm cùng Thông Sự.
Điều thứ ba: Cả chức sắc có địa phận đặc biệt, chẳng đặng qua khỏi ranh đất trách nhậm của mình mà gây điều ganh lẫn.
Điều thứ tư: Cả chức sắc phải tùng lịnh Hội Thánh, chẳng đặng tư chuyên mà cải sửa Chơn Truyền của đạo.
Điều thứ năm: Những chức sắc phạm tội về Nghị Định nầy phải bị giải ra Tòa Tam Giáo.
Điều thứ sáu: Nghị Định nầy sẽ ban hành từ ngày Rằm tháng 10 năm Canh Ngọ."

* Nghị Định Thứ Tư:
" Điều thứ nhứt: Thượng Chánh Phối Sư có quyền xem xét các nơi, chăm nom đạo hữu.
Điều thứ nhì: Ngọc Chánh Phối Sư đặng quyền trị chức sắc phần đạo và phần đời, coi Chơn Truyền Hội Thánh, buộc chức sắc làm y phận sự.
Điều thứ ba: Thái Chánh Phối Sư đặng quyền điều đình sự phổ độ, tài liệu của đạo đều nơi người chủ, định lương hướng cho chức sắc Thiên phong, lo về tài chánh.
Điều thứ tư: Thượng Chánh Phối Sư đặng quyền thay mặt cho toàn đạo mà giao thông cùng chánh phủ và cả tín đồ, quyền giáo dục nhơn sanh do nơi tay người nắm, làm Chủ Tọa Hội Nhơn Sanh.
Điều thứ năm: Ngọc Chánh Phối Sư cầm quyền sửa trị cả chức sắc, tín đồ, thì quyền tạp tụng cũng nơi người nắm chặt.
Điều thứ sáu: Thái Chánh Phối Sư đặng quyền cầu xin chức sắc hành đạo tha phương, song tại nơi người điều độ, làm Chủ Tọa Hội Thánh.
Điều thứ bảy: Cả quyền hành đã phân định trong Cửu Viện đều y như trước.
Điều thứ tám: Nghị Định nầy sẽ ban hành kể từ ngày Rằm tháng 10 năm Canh Ngọ."

* Nghị Định Thứ Năm:
" Điều thứ nhứt: Buộc cả chức sắc đã thọ phong phải phế đời hành đạo. Điều thứ nhì: Những chức sắc trọn hiến thân cho đạo mới đặng kể vào Hội Thánh, còn những kẻ ngoài vòng thì chẳng dự vào chánh trị của đạo.
Điều thứ ba: Vì công khai đạo của nhiều người, nên cho những kẻ nào đặng Hội Thánh nhìn rằng: Hữu công cùng đạo, vào hàng chức sắc Hàm Phong. Điều thứ tư: Nghị Định nầy ban hành kể từ ngày Rằm tháng 10 năm Canh Ngọ."

* Nghị Định Thứ Sáu:
" Hai vị Thiên phong Giáo Tông và Hộ Pháp phải điều đình Hiến Pháp, sửa trị Đài mình cho hiệp Pháp Chánh Truyền, nên đồng ký tờ nầy mà ước hẹn."

Từ khi ban hành các Đạo Nghị Định nầy thì việc phân nhiệm vùng mới rõ rệt và chức sắc được thuyên bổ đi khắp nơi để hành đạo.

Ba phẩm Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, và Thông Sự gọi chung là Bàn Trị Sự vốn buổi ban đầu trong Pháp Chánh Truyền không có, chỉ định đến phẩm Lễ Sanh mà thôi. Về sau nền đạo mỗi ngày một thêm phổ thông, người theo đạo mỗi ngày một nhiều, Đức Lý mới đặt thêm 2 phẩm chức việc là Chánh và Phó Trị Sự, rồi khuyên Đức Hộ Pháp cũng nên đặt ra một phẩm nữa đó là Thông Sự. Họ là người trông coi trực tiếp các đạo hữu, là người sở tại, là cơ cấu hạ tầng kiên trì và hiệu năng nhất của đạo, cũng thường được gọi là Hội Thánh Em.

Sau khi Đầu Sư Thượng Trung Nhựt lên nắm Quyền Giáo Tông theo Đạo Nghị Định Thứ Hai của Đức Lý và Hộ Pháp ban hành, thì ngày Rằm tháng 11 năm Tân Mùi (1931), tại Thảo Xá Hiền Cung Chí Tôn giáng cơ ban quyền hành Chí Tôn tại thế cho Hộ Pháp và Quyền Giáo Tông. Chí Tôn nói:
" THẦY
Các con,
Thầy lấy làm vui đặng gặp các con đủ mặt ngày nay mà hầu Thầy. Các con nghe lời Thầy dặn cần yếu nầy mà nhớ rằng: Toàn Thế Giới Càn Khôn chính có hai quyền, trên là quyền hành Chí Tôn của Thầy, dưới là quyền hành của chúng sanh.
Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy, nghĩa là Hội Thánh của Đại Đạo ngày nay rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh, còn các con thảy đều đứng vào hàng sanh chúng, dưới quyền hành chuyển của đời, nghĩa là toàn nhơn loại đồng quyền cùng Thầy, mà Tạo Hóa Vạn Linh vốn là con cái của Thầy, vậy thì Vạn Linh cũng có thể đoạt vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.
Trong quyền hành ấy có nhiều đẵng cấp, nên khỏi phải chịu phẩm người; ấy vậy người là chủ quyền của Vạn Linh. Thầy nói rõ: Quyền Chí Tôn là Thầy, Quyền Vạn Linh là sanh chúng, ngày nào quyền lực Chí Tôn đặng hiệp một cùng Vạn Linh thì đạo mới ra thiệt tướng. Thầy đã ban quyền hành Chí Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông và Hộ Pháp, vậy thì quyền hành Chí Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một. Còn cả nhơn loại thì Quyền Vạn Linh; quyền hành Chí Tôn của Thầy duy có quyền Vạn Linh đối phó mà thôi.
Thái Bạch hằng giận các con rằng: Mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ Pháp mà ban hành, thì các con lại còn khi lịnh xem rẻ rúng. Vậy thì từ đây hễ có mạng lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ truyền thì các con phải hội đủ Nhơn Sanh, Hội Thánh, và Thượng Hội mà xét nét cho cặn kẻ phân minh đặng thi hành phận sự."

Nền Đạo lúc bấy giờ bên trong thì phân chi lập phái, bên ngoài thì chính quyền Pháp lo sợ đạo bành trướng mạnh mẽ, một mai trở thành một phong trào ái quốc sẽ gây khó khăn cho họ. Họ tìm đủ mọi cách ly gián, giục loạn. Nào gây mâu thuẫn, dùng quyền tước để dụ dỗ Thiên phong bày trò chia rẽ.

Mối nội loạn xảy ra do ông Quyền Ngọc Đầu Sư Lê Bá Trang với ông Nguyễn Ngọc Tương đầu cáo với chánh quyền Pháp, bảo là Đức Quyền Giáo Tông có hành động không còn xứng đáng làm anh cả. Không những một vị Đầu Sư mà còn có 3 vị Quyền Chưởng Pháp cùng đứng theo phe tiên cáo, và một số chức sắc cao cấp khác đứng sau thúc đẩy.

Đến ngày 19 tháng 5 năm Quí Dậu (1933), Nguyễn Phan Long qui tụ các chi phái Hậu Giang hiệp với số người phản Thầy phản Đạo kéo nhau về Tòa Thánh trích điểm Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp, mục đích muốn chiếm Tòa Thánh được thực dân Pháp hậu thuẩn với sự nội gián của ông Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang). Họ lập cái gọi là "Hội Vạn Linh" không nằm trong luật pháp Đại Đạo tại ngay trong nội điện Tòa Thánh. Vì chỉ có "Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh" chớ nào có cái gọi là "Hội Vạn Linh" bao giờ. Cũng bởi vì bọn họ hiểu mập mờ là lấy Quyền Vạn Linh mới đánh đổ đạo quyền Chí Linh của Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp. Đáng tiếc thay, trong cái hội sái luật nầy lại có rất nhiều chức sắc thuộc vào hàng phẩm Đại Thiên phong của cả Cửu Trùng Đài lẫn Hiệp Thiên Đài tham dự như:
- Quyền Chưởng Pháp Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.
- Bảo Thế Lê Thiện Phước.
- Hiến Đạo Phạm Văn Tươi.
- Quyền Ngọc Đầu Sư Lê Bá Trang.
- Giáo Sư Ngọc Kinh Thanh.
- Giáo Sư Thượng Lai Thanh.
- Giáo Sư Thượng Thình Thanh.
- Giáo Sư Thái Minh Thanh, và 16 vị Giáo Sư khác.

Tín đồ Cao Đài tại Thánh Địa truyền loan một bài thi về sự kiện nầy, như sau:
" Ánh vàng Trung Nhựt tỏa hào quang
Đại Đạo phổ truyền khắp thế gian
Trang Bá móc moi trời tối sẵm
Phan Long trơ tráo đất phai tàn
Nhơn sanh ngơ ngác tan đôi nẻo
Chức sắc âu lo sợ lạc đàng
Hội Vạn Linh này sai luật pháp
Tranh quyền bia miệng đến ngàn năm.”

Bởi vậy, có lần Đức Hộ Pháp tỏ nổi ưu tư nghiệp đạo, kẻ làm thì ít mà người trích điểm thì nhiều, Ngài nói như vầy:
" - Trước khi Đức Chí Tôn đến gieo truyền mối đạo là Thiên Điều đã định mở cửa Thập nhị Khai Thiên đặng đem cơ cứu khổ để tại mặt thế này mà cứu vớt toàn cả cửu nhị ức Nguyên Nhân con cái của Ngài, Đức Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài, mà trong chức sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 vị: Thập nhị Thời Quân với Thượng Phẩm, Thượng Sanh, và Bần Đạo. Trong 15 vị thì chỉ có 4 đến 5 vị lãnh lịnh mà thôi… mà Hiệp Thiên Đài chỉ lãnh lịnh có 4 - 5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được."

Chưa hết, ông Tương còn tìm đủ mọi cách cố tình làm mất uy tín của Đức Quyền Giáo Tông, nói sai lệch mọi sở hành của Đức Quyền Giáo Tông, bêu xấu nói hành nói tỏi, làm đủ mưu kế nhằm cho Đức Quyền Giáo Tông mất hết lòng tin của chức sắc, giục loạn để tiếm vị. Ông Tương còn xúi giục ông Biện Lịch, tức là Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt lúc đó ở tại Nội Ô Tòa Thánh, chửi bởi, bêu xấu, đặt điều định án tội tình cho Đức Quyền Giáo Tông, rêu rao khắp mọi nơi nhằm làm Đức Quyền Giáo Tông tự ái, buồn chán, nản lòng, ngày này qua ngày khác cố ý để cho Đức Quyền Giáo Tông thoái vị.

Trước tình hình đó, Đức Hộ Pháp không hài lòng trước việc trái với lẽ thường về mỗi việc hèn tiện của ông Tương, đã làm những điều quá sái quấy. Lại thương cho cái nhịn nhục của Đức Quyền Giáo Tông. Đức Hộ Pháp cho gọi ông Châu, đạo hiệu Hiệp Phố đến để dạy việc. Ngài dạy ông Châu chọn 11 người và ông nữa là 12, rồi thành lập nhóm gọi là Bảo Thể. Đức Ngài bảo đủ rồi trình diện.

Ông Châu về âm thầm chọn 11 người, ngày hôm sau đến trình diện không dám chậm trễ. Đức Hộ Pháp dạy:
" Làm nhân viên Bảo Thể thì phải biết võ nghệ cho khá mới được. Qua kỳ hẹn 1 tháng phải rèn luyện võ thêm cho thuần thật là thuần."

Đúng một tháng rèn luyện âm thầm, không để cho người ta để ý, ông Châu dẫn 11 người đến nhận việc. Đức Ngài nói:
" Qua giao Biện Lịch cho Bảo Thể, làm sao phải đuổi Lịch đi cho được càng sớm càng tốt.”

Nhận lịnh rồi ông Châu cùng 11 người anh em về bàn kế hoạch.
Khoảng 8 giờ tối ngày mùng 8 tháng Chạp, cả nhóm vào nơi nghỉ của ông Lịch. Mọi người mặt tha lọ quằn quèo, bịt kín mặt, đổi giọng nói, tay cầm gậy, ăn bận kiểu oái oăm, có người còn mang râu sòm sàm. Đến nơi kêu cửa, ông Lịch ra mở cửa thì các ông vào nhà xưng là người của Thập Điện Diêm Cung đến bắt phạm nhân về chầu. Ông Lịch thường ngày hay xưng Phật Tổ nên các ông lớn tiếng hỏi:
" Có Phật Tổ ở đây không?"
Ông Lịch chưa kịp nói thì đoàn người bao quanh ông, bất ngờ một trận đòn giáng xuống, không kịp xây trở, ông Lịch cứ một lời là xin tha thứ. Lúc đó ông Châu làm trưởng mới nói:
" Ông không muốn bị đòn nữa, muốn tha thứ thì hãy cung khai hết tội tình chính miệng mình nói đi, ai xúi biểu, mọi âm mưu, kế độc của ông Tương sắp đặt phải nói rõ ràng."

Ông Lịch vừa run sợ vừa kể hết mọi chi tiết không bỏ xót. Ông Châu nói:
" Vậy thì chứng cứ rõ ràng để giảm cho vì lời chân thật, tôi không bắt hồn về, nhưng ông dọn đi để tôi trả lời là không gặp ông. Nếu ông ở đây thì buộc tôi phải dẫn hồn về."
Ông Lịch:
" Dạ, dạ, đi liền."

Lúc ấy con ông Lịch ở nhà dưới nghe um xùm chạy lên. Mấy ông định dong nhưng nó kéo tay ông Châu lại nói:
" Thôi bác ba ơi cho con xin, cho con xin! "

Vì nó nhận ra giọng của ông Châu. Ông Châu giựt tay rồi rút đi.
Sáng hôm sau nghe tin, ông Tương đến thăm. Chuyện xảy ra được ông Lịch kể rõ đầu đuôi. Ông Tương giận lắm, mới tính kế để dàn xếp trả thù. Sau đó ông Tương đưa ông Lịch về Long Khánh, Xuân Lộc là nơi ông làm Huyện thuở trước.

Rồi ông Tương lấy bộ đồ ông Lịch mặc hồi tối, dùng màu làm lóm lem, thắm chổ này chổ kia để giữa nhà. Xong tự mình ra trình với chính quyền Pháp và dùng lời lẽ gán tội cho rằng đây là việc ân oán thù hằn nên giết người. Ông tố rằng ông Lịch bị hành hung và mất tích để lại bộ đồ thấm máu ở nhà.

Chính quyền Pháp cho người vào ăn kết điều tra sự vụ.
Ông Châu mới trình lên Đức Ngài. Ngài dẫn 12 người Bảo Thể ra trình diện với Pháp và nói rõ việc làm của ông Tương và Lịch mới dẫn đến việc xảy ra lúc ban hôm, và kể rõ từng chi tiết. Còn ông Lịch mấy ông không có giết, chắc là trốn rồi.

Sau đó 1 tháng, ông Lịch được đưa về Tây Ninh vì có người biết chỗ của ông ở Long Khánh. Vậy là mấy ông Bảo Thể được trắng án, 12 vị về trình diện Đức Ngài. Ngài khen mấy anh em và cho về.

Đến tháng Giêng năm Giáp Tuất (1934) sau khi cúng đàn Rằm tháng Giêng vừa xong thì được tin rằng đến ngày 20 tháng nầy là có chi phái về Tòa Thánh đăng điện, tức là lên ngôi Giáo Tông và sẽ đuổi Đức Quyền Giáo Tông ra khỏi Tòa Thánh.

Đức Quyền Giáo Tông lấy làm lo lắng, Đức Hộ Pháp mới nói:
" Xin anh cả yên tâm, để mặc em lo liệu."

Đức Hộ Pháp cho thủ bổn Phạm Môn là ông Nguyễn Văn Gia khẩn cấp kêu hết anh em chủ sở nơi các sở Phạm Môn phải có mặt tại Tòa Thánh trước 5 giờ sáng ngày 20 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1934), mỗi sở chỉ chừa lại một người giữ nhà thôi.

Đúng hẹn, anh em đến đủ mặt tại Hiệp Thiên Đài. Đức Ngài giao cho ông Giáo Sư Thượng Minh Thanh trách nhậm điều động thống nhứt, ông liền phân ra giữ các cửa ra vào Nội Ô Tòa Thánh.
Đến 7 giờ sáng, nhóm người chi phái kéo về vừa đến Cửa Hòa Viện thì ngừng lại, chia ra nhiều nhóm. Nhóm thì xong vào cửa Hòa Viện, nhóm thì xông vào cửa số 2 nhưng đều bị người giữ cửa ngăn lại và nói rằng:
" Các hiền huynh nán đợi chúng tôi báo cáo với Đức Quyền Giáo Tông chừng nào có lịnh Anh Cả cho phép vào thì chư hiền huynh vô cũng không muộn."

Nhưng họ không chịu chờ đợi, ngang nhiên xong đại vào. Bên trong thì cố cản lại, khiến kẻ lấn vào người xô ra. Cuộc ồn ào như thế khá lâu đến lúc dùng vũ lực để tranh phần thắng cho đến 9 giờ sáng mới kết thúc. Bọn người chi phái thất bại bỏ về.

Sau cuộc biến nầy, Đức Quyền Giáo Tông mời anh em Phạm Môn dự buổi tiệc. Ông nói:
" Lúc trước Đức Hộ Pháp mở Phạm Môn có một phần chức sắc lớn trong Hội Thánh đánh đổ, chớ ít ai nhìn nhận là đúng, vì ai nói sao qua nghe vậy chớ thật ra qua cũng không biết Đức Hộ Pháp mở Phạm Môn có ích lợi gì. Đến hôm nay qua mới biết, nhờ có mấy em dám hy sinh để bảo tồn nghiệp đạo. Vậy sau này qua có chết em cũng cho mấy em nó xem qua như em vậy."

Đức Quyền Giáo Tông nói vậy là vì anh em Phạm Môn là người của Hiệp Thiên Đài. Quyền Giáo Tông ngỏ ý với Đức Hộ Pháp cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài mượn người Phạm Môn để bổ đi các tỉnh hầu trấn an tinh thần bổn đạo vì vụ việc một số chức sắc chia phe phân phái. Đức Hộ Pháp đồng ý.

Qua cơn biến đó, chi phái mượn tay chánh quyền Pháp để trả thù trận thất bại.
Chúng bắt nhiều anh em Phạm Môn giam tại khám đường Tây Ninh, buộc tội đủ thứ. Mục đích là xúi các anh em khai Đức Quyền Giáo Tông chủ mưu đánh đuổi người chi phái không cho vô Tòa Thánh bái lễ. Nhưng anh em Phạm Môn đã không chịu khai nên bị tra tấn rất tàn nhẫn, lối 30 ngày sau thì được thả về, có người thậm chí không thể đi được nữa. Vì anh em thà chịu chết chứ không khai.

Trong một đàn cơ tại Giáo Tông Đường, ngày 29 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1934) ông Hương Bảo Thoàn, hồi còn sống làm công quả nơi Phạm Môn, là anh em bạn rễ với ông Phạm Văn Màng, thường gọi là anh Ba. Khi qui liễu ông Thoàn đắc Thần vị vì công quả ít, còn ông Màng đắc Thánh vị hay còn được gọi là "Phối Thánh Màng". Ông Thoàn về giáng cơ nói như vầy:
" Con chào mấy Đại Sư. Lụy…
Mấy hôm nay con biết đặng nhiều việc Thiên thơ tiền định, cho nên danh thể Phạm Môn.
Em chào mấy anh. Em cam thất lễ, em đã có đến tại ngục đường thăm viếng mấy anh nhiều phen. Đau lòng quá đỗi, song em xin mấy anh nhớ rắng Nhan Hồi chết tại ngục thất mới đắc Thánh vị; Chúa Jésus chết treo nơi Thập Tự mới lập đạo Trời. Cõi thế vẫn khác cõi Thiên, đời chê mới nên về đạo. Em xin mấy anh tự hỏi lấy mình rằng, chịu khổ hạnh cùng Đức Chí Tôn thì phước hay tội?

Em cũng tiếc cho em khi còn xác phàm, em không hữu hạnh làm đạo gặp may duyên như mấy anh vậy. Chớ chi em đặng hồng ân như mấy anh ngày nay thì chắc em còn cao hơn phẩm Thần vị nầy. Thật là khối ngọc của mấy anh chưa dùng, còn em thì thém quá đỗi.
Xin đọc lại cho mấy anh nghe rồi con sẽ tiếp. Kiếu lỗi cùng Đức Quyền Giáo Tông. Cười…
Sự phụ hằng nhắc mà cười rằng, em làm đạo ít oỉ hơn hết, chớ chi đặng bằng anh ba thì ngày nay đâu có ngồi dưới thấp thỏi, ngó cao sang Thánh vị của người mà phải thẹn hơn.

Hôm mấy anh mới bị nạn thì Đức Trần Văn Xương đến địa giới Linh Thần, cầm nơi tay một tờ ý chỉ nói cùng các Trấn Tôn Thần rằng có Thánh lịnh dạy phải chăm nom gìn giữ mấy anh cho toàn tánh mạng. Em coi lại là lịnh của anh ba, thẹn thuồng quá đỗi, vì các Trấn biết em là bạn của người mà ngày nay tớ thầy khác bậc.

Xin đọc lại…
May rủi một kiếp sanh mà muôn năm không thể đổi là vậy.
Thưa Sư Phụ, anh dặn con nói lại giùm rằng người đương lo cùng Tam Trấn đặng kiện với Ngọc Hư đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi đạo. Xin Sư Phụ ẩn nhẫn, muôn sự có Chí Tôn, xin đừng sầu muộn nữa, hao mòn thân thể. Anh ba thấy Sư Phụ rầu thì người khóc lóc cùng con nhiều lúc."

Sau đó, ngày Rằm tháng 7 năm Giáp Tuất (1934). Đức Hộ Pháp cùng với Đức Lý Giáo Tông ký tên ban hành 2 Đạo Nghị Định nữa đó là Đạo Nghị Định Thứ Bảy và Đạo Nghị Định Thứ Tám, cùng với 6 Nghị Định trước là 8 nên thường được biết đến với tên gọi là "Bát Đạo Nghị Định ".

Đạo Nghị Định Thứ Bảy
Nội dung như sau:
- Điều thứ nhứt: Cả chức sắc Nam Nữ Cửu Trùng Đài đã trọn hiến thân cho đạo buổi sơ khai đẳng đẳng đồng thăng nhứt cấp, trừ ra:
Một là người nào hiến thân cho đạo sau ngày Rằm tháng 10 năm Canh Ngọ.
Hai là người không trọn tuân luật pháp, không trọn giữ phận sự của mình.
Ba là người cầm quyền hành chánh chẳng toàn công.
Bốn là người nghịch Chơn truyền Chánh giáo, gầy tả đạo bàng môn.
Năm là mới thọ ân phong thưởng.
- Điều thứ hai: Cả chức sắc Thiên phong Hội Thánh Ngoại Giao tùng quyền Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã đủ ân phong công nghiệp, chẳng đặng thăng cấp.
Điều thứ ba: Những người đã có công nhưng đắc tội cùng Hội Thánh, thì phải giao nạp cho Hiệp Thiên Đài. Chừng nào Tòa Tam Giáo Hiệp Thiên cho trắng án, thì đặng thăng cấp như chức sắc Thiên phong hữu công cùng đạo.
- Điều thứ tư: Quyền Giáo Tông và cả chức sắc Thiên phong Hội Thánh Nhị Hữu Hình Đài phải thi hành Đạo Nghị Định nầy.
- Điều thứ năm: Bát cả sớ cầu phong thưởng." Nội dung Đạo Nghị Định Thứ Tám như sau:
" Điều thứ nhứt: Những chi phái nào do bởi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ làm gốc lập thành mà không do nơi mang lịnh Hội Thánh, thì cả chúng sanh chẳng đặng nhìn nhận là của Chí Tôn và phải định quyết là bàng môn tả đạo.
Điều thứ tám: Các tôn giáo xin nhập môn vào mối Chơn truyền phải có đủ Quyền Vạn Linh và Quyền Chí Tôn công nhận."

Liên quan đến Đạo Nghị Định Thứ Tám nầy có câu chuyện như sau. Câu chuyện về ông Đa đậu Cử Nhân nên người đời gọi là Cử Đa quê ở Mỹ Tho. Ông kháng chiến chống Pháp tại quê nhà. Vì thất bại bị Pháp truy bắt, mới bôn tẩu về trụ ngụ trên núi Thất Sơn, nơi đây rừng cây bao phủ, núi hang hiểm hóc xa thành thị, nên dễ ẩn thân.

Thời gian trôi qua, ông Cử thấy cảnh trí hữu hình tâm hồn chán tình đời dâu bể, nổi đam mê về đạo lại đến lúc này ông thọ giáo tu Tiên. Trên núi có một cái chùa bỏ hoang, ông tu chỉnh quét dọn sửa sang trang hoàng rồi làm nơi tu học. Ông thường hay cầu thỉnh Tiên học đạo, vẽ bùa, cho thuốc để trị bệnh cho bá tánh, tiếng đồn về tài trị bệnh của ông ngày một vang xa, nên người đến mỗi lúc một đông hơn.

Rồi ông Cử Đa qua đời, người đệ tử của ông là Bảy Do tiếp tục thay thế ông ở chùa làm việc từ thiện như ông và thờ phượng ông tại chùa luôn.
Lúc bấy giờ ông Nguyễn Văn Ca đương làm Đốc Phủ, lãnh lịnh dẫn lính lùng bắt bọn cướp ở quận Sà Tán, đầu đảng bọn cướp ấy tên là Do. Bữa nọ, ông Ca dẫn lính lên chùa, vì người dân trị bệnh đông người kêu tên ông Do nên Đốc Phủ Ca sinh nghi nên đến để điều tra xét hỏi. Sau khi điều tra xét hỏi xong, Đốc Phủ Ca cho là ông Bảy Do chính là tên chúa đảng đội lốt nhà tu để qua mặt chính quyền sau khi làm nhiều điều phạm pháp mà chính quyền có lịnh truy bắt, ông Ca quả quyết:
" Tên Do cướp và tên Do tu là một. "

Nên ra lịnh bắt giam ông Bảy Do. Ông Bảy Do cố giải thích, kêu nài và minh bạch mình và ông Do cướp là hai (2) người khác biệt chớ không phải một nhưng không lay chuyển được ý quyết của ông Ca. Ông Bảy Do tủi thẹn, và để bảo vệ khí tiết của một người tu chân chính, ông cắn lưỡi chết tại nhà tù. Còn chùa của ông, ông Ca cho  lính đập phá tiêu tan. Cảnh đổ nát hoang tàn đã xóa một thời ngôi chùa linh hiển nầy đón bao khách thập phương lễ bái và đã cứu chữa bao người bệnh tật.

Trước sự việc ấy, ông Cử Đa mới đến kiện ông Ca nơi Ngọc Hư Cung. Ngọc Hư Cung phán:
“Cho phép ông Cử Đa khảo ông Đốc Phủ Ca với điều kiện: Hình thức xưng danh hiệu gì cũng được, nhưng không được phong chức sắc.”

Lúc nầy ông Ca đã nhập vào Đạo Cao Đài và thọ phong phẩm Phối Sư nên ông Cử Đa mới kiện nơi Ngọc Hư Cung và Ngọc Hư Cung phán không cho phong chức sắc là vậy.
Sau đó ông Cử Đa báo thù vượt qua hạn định là phong chức cho 3 ông Đầu Sư giả: Thái Ca Nhựt, Thượng Thới Tinh, Ngọc Thiệu Nguyệt và một số đông người nữa. Vì sau khi Ngọc Hư Cung phán, ông Cử Đa nhận thấy giả danh thì được mà phong chức thì không được làm sao khảo ông Ca. Nên vì vậy để thỏa ý mình, ông Cử Đa đã liều vượt qua qui định. Từ đó ông Ca tách mình ra lập chi phái Cầu Vĩ Mỹ Tho. Rõ ràng ông Cử Đa đã dùng huyền diệu giáng cơ mà làm cho ông Ca tin rồi tôn làm thầy rồi lập phái riêng.

Một hôm nọ Đức Hộ Pháp ra Phạm Nghiệp có lập một đàn cơ, có Phối Thánh Màng về báo với Ngài rằng:
" Đệ tử chào Sư Phụ và chư vị Sư Thúc.
Đức Quyền Giáo Tông khi nãy khi chư Sư vừa đi khỏi Tòa Thánh, người mắc lật đật đi với Thiên Thần Cử Đa đến Trung Huê đặng độ dẫn kềm thúc dân Việt kiều cư đương toan phương dấy động, phục quốc sái mạng Ngọc Hư, hại nỗi thảm thương cho Cử Đa, vì phạm Thiên điều nên thất vị Tam phẩm, lại có lịnh sai gìn giữ đảng phái ấy, nhưng khó nỗi thi thố một mình nên cậy Đức Quyền Giáo Tông giúp sức, thì cũng vì sự bất ngờ của Ngài mà hại ông Cử lớn quá… Cười…
Đệ tử có lịnh dạy nói lại rằng Người đi nội trong 3 giờ thì trở lại hội diện với chư Sư, xin cảm phiền nán đợi. "

Chính vì sự việc của Cử Đa nên Đức Hộ Pháp được lịnh xuất vía đến Thất Sơn ăn kết vụ ông Cử Đa khi xưa. Khi xong, Ngài có làm một bài thi như vầy:
" Bồ Tát chưa nghe tiếng phá chùa,
Bảy Do sau ví kiện hơn thua.
Diêu Trì tượng Phật kia làm chứng,
Núi Cấm Chư Tiên bởi vẽ bùa,
Khói lạnh đau lòng người phạm Tích.
Hương tàn xót dạ Cử Đa xưa.
Cửa quyền sấm nổ tiêu vôi cát,
Mà chất thiêng liêng gẵm đặng chưa."

Một đàn cơ tiếp theo ông Cử Đa đã tiết trình với Đức Hộ Pháp như vầy:
“Kỳ đó ý của bần tăng là đem chúng ra khỏi đặng trong này lập luật, lập luật xong, Đạo Nghị Định thứ 8 Đức Lý lại không cho nguyên nhân tái thệ, mà Hộ Pháp có quyền ân xá lại ký tên vào đó, thì chúng nó nương nơi đâu mà được rỗi. Nếu Ngài không tin tôi, bảo chúng nó chết, thì nó chết cho Ngài coi.
Bởi vì làm thầy dạy nên thì học trò nên, dạy hư thì học trò hư. Bây giờ làm thầy chẳng lẽ đem học trò ra pháp trường xử tử, hay là đem trấn nước…”
Năm Ất Hợi (1935) Đức Ngài đưa anh em Phạm Môn ra cầu phong. Đức Lý giáng phong cho ông Trịnh Phong Cương làm Giáo Hữu, cùng 27 vị Lễ Sanh Phái Thượng, 14 vị đắc “Lễ Sanh Giáo Thiện”. Đức Lý còn cho bài thi:
" Một trường vinh hiển buổi sau đây,
Danh thể khá tua trả nghĩa Thầy.
Nắm giữ mối giềng nền đạo cả,
Lão đương lừa lọc trận rồng mây."

Sau khi Phạm Môn bị chánh quyền Pháp đóng cửa, Đức Ngài biến nó ra thành “Cơ Quan Phước Thiện”. Ngài thuyên bổ mỗi vị lãnh trách nhiệm đi làm đầu họ Phước Thiện cầm quyền 1 tỉnh. Ngài cho bốc thăm chọn 20 vị đi 20 tỉnh Miền Nam, lại tặng mỗi người 1 đạo hiệu nữa. Danh sách các vị ấy là:
Về phần Nữ phái cũng có nhiều vị được Đức Ngài cho đạo hiệu như sau:
1 . Từ Thị Kế - Thừa Thiện
2 . Lệ Thị Lơi - Hồng Huệ
3 . Đinh Thị Chén - Hàm Đức
4 . Phạm Thị Hoành - Giáo Thành
5 . Lê Thị Chín - Thiền Tín
6 . Trần Thị Ơn - Quang Ái
7 . Lưu Thị Sen - Duy Từ
8 . Lâm Thị Nhiệp - Ngọc Căn
Trước khi đi địa phương, Đức Ngài bắt tất cả phải học cách thức hành chánh đạo, nghi lễ ngoại giao, đi lễ. Nhứt là phải thuộc làu Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cùng giọng kinh cho rập ràng. Mỗi đêm đều tề tựu tại Hộ Pháp Đường để học từ 6 giờ chiều đến 10 giờ khuya, đích thân Ngài chỉ dạy.
Có điều khổ cho chức sắc phần đông dốt nát, không biết đọc biết viết, nghe người ta đọc mà đọc theo lâu thuộc, bị rầy lên rầy xuống.
Đi lễ Đức Ngài cũng tập lối Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái, ai cũng phải đi cho trúng Ngài mới chịu. Ngài còn dạy tư cách đến quan viên, nhân sĩ các tôn giáo bạn, nhà thờ chùa, miếu phải như thế nào. Cách lạy theo mỗi tôn giáo, lạy ông bà theo cỗ lệ Việt Nam. Ngài nói:
“Qua biết mấy em từ bấy giờ lo về ruộng rẫy, nay học những việc nầy nên phải lứng khứng, nhưng mấy em lãnh trọng trách trong cơ cứu khổ là đi khai mở cơ quan Phước Thiện, làm đàn anh của nhơn sanh, dìu dẫn họ trên đường lập công, lập vị nơi cảnh thiêng liêng, nên không học không được, dầu có khó khăn bao nhiêu cũng phải ráng học.”

Về ngoại giao thì ông Quyền Chánh Phối Sư Thượng Thành Thanh chỉ dẫn.
Văn kiện thì ông Khai Pháp, Chưởng Quản Phước Thiện lập thành 24 mẫu công văn rồi in cho mỗi vị đầu họ mỗi người 1 bổn. Áo mão mấy vị cũng phải tự sắm một (1) bộ đại  phục, một (1) bộ tiểu phục. Hễ ra khỏi nhà phải mặc tiểu phục. Tiền xe đi cũng phải tự túc, vì Hội Thánh chưa có ngân quỹ, nên phải đi làm mướn hay buôn bán có sanh lợi mới đi hành đạo.

Ngày 12 tháng 9, Ất Hợi (1935) Đức Hộ Pháp tiển đưa chư vị chức sắc Phước
Thiện lên đường. Ngài dặn lần chót:
" Đi tới địa phương gặp chùa Phật, nhà thờ, đình Thần mấy em xin phép vào làm lễ ra mắt các Đấng ấy. Còn khi có chức sắc đến địa phương mình thì phải rước có chuông trống tùy theo phẩm tước, nhưng mấy em bên Phước Thiện nên khước từ điều ấy."

Thầy trò bịnh rịnh chia tay.
Hành đạo được thời gian, đến ngày 27 tháng Chạp, Khai Pháp gởi điện tín cho phép mỗi người về thăm gia đình và đến mùng 8 tết phải có mặt tại Tòa Thánh để cúng vía Chí Tôn và đãi lịnh Hội Thánh.
Ngày mùng 9, Đức Hộ Pháp ban cho mỗi vị 4 phép bí tích:
- Phép giải oan
- Phép tắm thánh
- Phép đoạn căn (phép xác)
- Phép hôn phối.

Ngài trục Thần, khai khiếu truyền dạy cách hành pháp cho từng người, lại ban cho mỗi người Một (1) cây bạch đăng (đèn cầy trắng) và dặn:
" Khi gặp việc khó khăn không giải quyết được thì đợi lúc 12 giờ khuya, đốt cây đèn nầy và thành tâm cầu nguyện thì Thầy sẽ giúp cho. "

Từ ngày có chức sắc bổ đi các tỉnh, cơ sở lương điền mọc như nấm ở các làng, quận, tỉnh. Lúa thóc, khoa, bí tiếp tế về Tòa Thánh dồi dào nên sau nầy sự tạo tác Tòa Thánh nhờ đó mà thuận lợi. Tài chánh cũng khả quan, có tiền mua vật liệu mà xây cất. Nhứt là nhân lực, người đạo sở lần lượt về gánh hồ, đào đất, rửa sạn, nấu cơm, thợ mộc, thợ cửa,… phần đông do người Phạm Môn đảm trách.

Trong đợt chư chức sắc Phước Thiện được bổ đi, có vị Giáo Thiện dưới cấp ông Trứ hiện đang nắm quyền Đầu Họ Long Xuyên lúc bấy giờ.

Khi ông Giáo Thiện lãnh lịnh đến địa phương, ông làm việc hết sức khẩn trương. Ông sắp xếp tất cả hệ thống về mặt chức việc, về mặt hành chánh giấy tờ, về mặt chủ sở, ban, các ngành, người lớn, kẻ nhỏ, người làm đầu, người phụ trách, phân nhiệm phân quyền, lập sở.
Tất cả đã xong. Vi bằng được thành lập, sổ sách được công khai đủ mặt ký tên. Ông cũng không quên ủy nhiệm cho người làm phó thay thế khi ông vắng mặt.

Chẳng may sau đó vài tháng thì ông bị bệnh. Căn bệnh ghẻ lở cứ tăng dần, đủ thuốc thang, đủ thầy chạy chữa mà không thuyên giảm, lại lan khắp mình mẩy. Thân thể ông hôi hám, đau đớn vô cùng.

Thế là mọi việc ông giao cho người thay thế theo vi bằng đã lập. Bổn đạo ở đấy có kẻ tốt người xấu, có người lòng dạ hẹp hòi ích kỷ nhỏ nhen lại là phần nhiều đánh đổ, dị nghị, nói ra nói vô những lời cay đắng. Họ nói bộ hết chức sắc rồi sao mà bổ ông cùi lở đến đây làm, chẳng ích lợi gì mà còn báo ở đây lãnh nuôi như lãnh nợ.

Khi hay tin đó, ông Trứ quyền Châu Đạo Long Xuyên phúc về Hội Thánh.
Đức Hộ Pháp triệu hồi vị Giáo Thiện ấy về Tây Ninh để trị. Rồi được Đức Ngài kêu các danh y cứu chữa, nhưng cuối cùng phải bỏ xác vì hết số căn sau mấy năm thảm khổ vì bệnh tình và chịu lời nhiếc quở chê bai. Hôm ông bỏ xác trần nhẹ nhàng đi về thiêng liêng. Đám tang được cử hành tại Khách Đình theo phẩm Giáo Thiện.
Sau ngày an táng, Đức Hộ Pháp nói với anh em Phạm Môn rằng:
"Qua thấy trong bẹ sen của Đức Phật Tổ có chơn linh của nó trên đó đó bây."

Đức Ngài còn tiếp:
"Đã qua biết chỗ dành để cho những người dưới. Chợ Mới lập công với nó, thế mà họ lại không biết, thật là uổng quá."

" CỬU TRÙNG KHÔNG KẾ AN THIÊN HẠ, PHẢI ĐỂ HIỆP THIÊN ĐỨNG TRỊ V "

Đến ngày 13 tháng 10 năm Giáp Tuất (1934), Đức Quyền Giáo Tông đăng tiên, để một mình Đức Hộ Pháp lèo lái thuyền đạo lướt qua biết bao cơn thử thách nhọc nhằn. Trong ngày an táng xác Đức Quyền Giáo Tông, Ngài có làm bài điếu như sau:
" Gia thế k 20 này toàn đa cu nhơn sanh đu xu hưng v đưng vt cht, đua tranh náo nhit, mnh đng yếu thua, khôn còn di thì thác, làm cho cá nhân và c xã hi sanh hot khó khăn mà quên c tinh thn vi ch…"

Đời chẳng khác nào chiếc thuyền chịu sóng gió ba đào lênh đênh khổ hải.
Những khách giang hồ của Tạo Công ai lại chẳng phập phồng rơi châu đổ ngọc.
Trong cơn khổ não tâm hồn ấy, ngẫu nhiên gặp cứu tinh giải nạn là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ của Đức Thượng Đế chấn hưng tôn giáo.
Ngài đến đặng nhìn nhận các đạo là phương giáo hóa của Ngài và dung hợp các triết lý của đời dưới khuôn phép lương tâm làm chủ.Từ năm Bính Dần (1926) là năm đạo mở tại Nam Kỳ đến nay, Anh Cả chúng tôi Lê Văn Trung, Đạo tịch Thượng Trung Nhựt đảm nhiệm vai tuồng rất lớn lao là phổ độ dìu dắt nhơn sanh vào đường chánh giáo.Một mối đạo rất cao thâm mầu nhiệm mà chính Đức Thượng Đế gieo truyền trong nước nhỏ Việt Nam, thiết tưởng sự khó khăn mà Anh Cả chúng tôi trọn chịu 9 năm, chẳng quản nhọc nhằn một tay chống vững thuyền đạo, bền chí lướt qua mọi khổ hải.

Đạo mở vào buổi nhơn sanh đương khuynh hướng về đường vật chất thì cái tôn chỉ đạo phải có thực lực gì cực kỳ mãnh liệt mới dung hòa nổi hai thuyết duy tâm và duy vật, phải hợp thời thì nhơn sanh mới chịu hoan nghênh mà bước vào cửa đạo. Nếu đạo không có cái tôn chỉ duy tân cải cách theo trình độ tiến hóa của nhơn sanh thì Đức Thượng Đế chẳng cần nhọc công tái lập vì đạo đã có sẵn từ tạo thiên lập địa rồi.Trong các tôn giáo: Phật Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo, Cơ Đốc Giáo cũng có nhiều triết lý cao siêu theo đó mà hành đạo cũng tiến hóa. Mỗi tôn giáo ấy đều có một tôn chỉ đặc thù phù hợp với phong hóa tùy mỗi thời đại chớ không hợp thời buổi bây giờ. Đạo có những điều tối ưu như thế, tất phải có người tài đức làm hướng đạo
mà truyền bá cho nhơn sanh, khỏi lầm đường lạc lối và cũng phải có đại hùng, đại lực mới gánh vác nổi trách nhiệm lớn lao của Đại Đạo.
Anh Cả chúng tôi trước khi vào đạo vẫn là người duy vật như mọi người ngoài đời, về đường danh lợi Người chẳng nhượng cho ai, kịp khi đạo mở Đức Thượng Đế kêu đích danh Người mà phó thác Đạo Trời.
Phong trào duy vật đang sôi nổi, Người đương thời phấn đấu mà Người cũng vui lòng phế hết việc đời để hiến thân cho đạo. Buổi ban sơ chỉ có vài ba anh em theo đạo, cũng có kẻ trắng người đen, không đồng tâm chí, nghịch lẫn nhau. Nhưng vì lòng háo đức của Người sẵn có, Ngài không chút ngại ngùng bạo gan chí sĩ mà hiến mình trọn vẹn lập đạo mới thành, công ấy thưởng nầy làm Anh Cả chúng sanh cũng đáng.
Vào đạo rồi, khi thì lập đàn thương giáo cùng các Đấng Thiêng Liêng, khi đi phổ độ khắp Nam Kỳ. Không nói ra ai cũng rõ, những nỗi khó khăn về hiệp hội ở xứ mình. Cho nên lúc khai đạo gặp nhiều nỗi tân khổ, lại còn nhiều nỗi cam go với đạo hữu các nơi. Khi đạo có mòi hoằng hóa, sau đó Hội Thánh Ngoại Giáo thành lập ở Kim Biên, tuy gặp lắm nỗi truân chuyên mà Người cũng cứ nhứt tâm nhứt đức theo đường thẳng tiến hành không bao giờ nản lòng thối chí.
Vì sao Đức Thượng Đế không chọn người nào khác mà đem mối đạo lớn trao cho Người lúc ban sơ? Có ai dám nói Đức Chí Tôn dùng lầm!
Vậy thì tôn chỉ của Đại Đạo đã biểu lộ rõ ràng, bí quyết đạt đạo chẳng phải do một mặt yếm thế để tịnh dưỡng tinh thần, mà phải lịch lãm về nhân sự và phải xuất chúng, rồi lấy đạo đức mà cứu nhơn quần.
Xã hội phải tùy sở nguyện của chúng sanh mà lập phương phổ hóa, thì cái công tu luyện kia mới bổ ích. Vì vậy Anh Cả chúng tôi mới đặc dụng trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Anh Cả chúng tôi có nhiều điều kiện hợp lý với tân thời mà cũng không nghịch với phong hóa cũ.
Vậy nên Đức Chí Tôn mới dùng Người để làm mô phạm cho cả anh em đạo hữu và cho đời thấy rõ một phần chơn lý trong tôn chỉ Đại Đạo.
Theo thời đại khoa học đang nổ lực phát dương này, nếu đem cái thuyết duy tâm cực đoan mà phổ hóa chúng sanh không khỏi bĩ hậu, còn nếu chuyên một mặt duy vật mà tiến hành thì xã hội có ngày ắt bị tiêu diệt về nạn cạnh tranh. Vậy phải chiết trung hai thuyết mà dung hòa thì đời mới đặng vừa tấn hóa theo văn minh khoa học, vừa duy trì đặng tâm hồn đạo đức. Nhờ hiểu ý nghĩa cao thâm như vậy mà Anh Cả chúng tôi không vì hoàn cảnh mà quá ư thiên lệch về một mặt nào.
Chúng tôi còn nhớ rất rõ lời tuyên bố của Anh Cả chúng tôi như vầy: "Ngày nào nhơn sanh còn khốn khổ thì chưa phải ngày anh tọa hưởng an nhàn, dầu anh đắc quả mà qui Tiên, anh cũng nguyện tái kiếp để độ tận chúng sanh."

Bác ái thay lời tuyên bố ấy, không cần khoe khoan bằng văn chương, với những lời chất phác trên kia cũng tả đặng tâm tình của một trang đại đức.
Theo thế thường, người đi tu nào cũng hy vọng thành Tiên, chứ ít ai ở lẫn lộn trong chốn hồng trần. Vậy mà Anh Cả chúng tôi chẳng hề nao núng, thậm chí có người lo sợ khuyên Người giải quyền nhập tịnh cho yên. Người nói rằng dầu phải tử vì Đạo Người cũng vui lòng, chớ Người không sợ chết mà bỏ quên phận sự. Xem đó đủ thấy cái đại chí của Người vì Người thấu mục đích tối cao của đạo. Tôn chỉ của đạo không dữ mà hùng, hòa mà không nhược.
Cái ý nghĩa đó, Anh Cả chúng tôi hiểu và đã thực hành, nên đạo mới đứng vững đến ngày nay.
Anh Cả chúng tôi còn hiểu rộng nghĩa chữ Từ Bi Bác Ái nên gặp phải nhiều phản động lực của những người thiển kiến… Anh Cả chúng tôi không vì sự thương thấp thỏi của thường tình mà bỏ cái thương đại đồng thế giới cho nên phải gặp nhiều nỗi tân toan…
Ngày nay Anh Cả chúng tôi đã vào cõi hư vô, thiết tưởng những phản động lực kia cũng lần lần giảm bớt… Cái khó nhứt là phải có đủ đức kiên nhẫn để chống lại các phản động lực trong đạo và ngoài đời. Nhiều lý thuyết tương phản nhau vì trí độ của con người không thể đồng đều nhau: kẻ thì ưa thuyết duy tâm, cứ chuyên chú một mặt tiêu cực; còn người thích duy vật thì chuyên chú một mặt tích cực. Mỗi phía đều cực đoan, tránh sao khỏi xung đột. Hai phía xung đột nhau mà bắt đạo ở trung gian là nơi chiến địa thì kẻ cầm quyền trong đạo tránh sao khỏi những nỗi khó khăn. Vì vậy Anh Cả chúng tôi chịu nhiều đau đớn.
Ôi! Một đấng anh hùng như thế, một tay kiện tướng của đạo nay đã ra người thiên cổ. Dẫu gan sắt dạ đồng cũng phải rơi châu mà thương tiếc. Anh Cả ơi!”
Đức Quyền Giáo Tông quay về thiêng liêng để lại trong đạo một khoảng trống trải rất lớn.
Hồi trước khi Quyền Giáo Tông mới lên nắm quyền thì phẩm Đầu Sư khuyết nên 3 vị Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh mới được cử lên nắm. Còn 3 phẩm Chánh Phối Sư thì Đức Ngài đưa 3 vị Thời Quân qua cầm quyền mà lập thành Hội Thánh:
- Khai Đạo Phạm Tấn Đãi cầm quyền Thái Chánh Phối Sư
- Khai Pháp Trần Duy Nghĩa cầm quyền Ngọc Chánh Phối Sư
- Khai Thế Thái Văn Thâu cầm quyền Thượng Chánh Phối Sư

Cơ đạo lúc bấy giờ chia rẻ rất nặng nề. Thánh Thất nầy đôi trăm người lập ra một phái, Thánh Thất kia vài trăm người lập ra một phái không phụ thuộc ai. Chung cuộc vẫn thờ Đấng Cha chung là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Lập chi không biết?
Đến ngày 13 tháng 10 năm Ất Hợi (1935), chức sắc Cửu Trùng và Hiệp Thiên quyết nghị triệu tập Hội Nhơn Sanh vào ngày lễ Đại Tường của Đức Quyền Giáo Tông để giải quyết tình hình bức thiết của nền đạo. Hội Nhơn Sanh là trí tuệ tập thể, là ý dân cao nhứt trong nền đạo với quan niệm "Thiên Nhân hợp nhất", "Ý dân là ý Trời". Chí Tôn cũng đã từng nói:
"Việc gì hợp với lòng chư môn đệ là hiệp với ý Thầy."

Toàn Đại Hội đã đồng thanh tín nhiệm Đức Hộ Pháp cầm quyền thống nhất Chánh Trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị. Tờ của Hội Nhơn Sanh đã biểu quyết như vầy:
" Nghị viên nam nữ Hội Nhơn Sanh nhóm Đại Hội thường niên tại Tòa Thánh ngày 17-10-Ất Hợi, đồng lòng bỏ thăm tín nhiệm chánh sách độc tài của Đức Hộ Pháp và xin đem hết tâm trí giúp Ngài đạt thành sở vọng, đưa cả chúng sanh đi tận trên con đường Thánh Đức của Đức Chí Tôn.
Thảng như phải dụng hết khổ tâm để làm màu cho thiên thơ thì chúng tôi cũng đều vui lòng hiến thân cho nền chánh giáo, đặng Hội Thánh cầm giữ quyền hành và nhặc giữ pháp luật."
Và tờ của Hội Thánh như vầy:
" Nghị viên nam nữ Hội Thánh nhóm Đại Hội bất thường tại Tòa Thánh ngày 18 tháng 10 năm Ất Hợi, sau khi Đức Hộ Pháp giải bày về tình hình hiện thời của đạo, đồng thời bỏ thăm tín nhiệm chánh sách độc tài của Ngài, hầu vừa giúp Ngài có đủ quyền hành giữ nghiêm pháp luật đạo."
Việc đưa Đức Hộ Pháp lên nắm Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài đó là ý muốn của nhơn sanh lúc bấy giờ, và được sự đồng tình của Hội Thánh. Quyết định ấy cũng có tính cách giai đoạn đoản kỳ để cứu lấy nền đạo một khi khống khuyết chức sắc bên Cửu Trùng Đài.
Kể từ đó Đức Hộ Pháp nắm quyền hợp nhất để lo xây dựng và bảo tồn Chơn truyền, dìu dắt con cái Chí Tôn trên đường Thánh Đức. Đức Lý giáng cho Đức Ngài bài thi như vầy:
" Hộ giá Chí Tôn trước tới giờ,
Pháp luân thường chuyển máy Thiên cơ.
Chưởng quyền Cực Lạc phân ngôi vị,
Quản xuất Càn Khôn định cõi bờ.
Nhị kiêp Tây Âu cầm máy tạo,
Hữu duyên Đông Á nắm Thiên thơ.
Hình hài Thánh Thể chừ nên tướng,
Đài trọng hồng ân gắng cậy nhờ."

Trước đó vào ngày 29 tháng Chạp năm Quí Dậu (1934), Lục Nương cũng đã có cho biết trước về sự việc nầy như vầy:
" Em chào mấy anh. Em đương ở Ngự Quan Cung, Bát Nương đến cho hay rằng mấy anh đương ngưỡng nghĩa nên vội vã đến hầu.
Home                    1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét