Chuyện Kể Về Hộ Pháp Phạm Công Tắc - 4 /5 * Duy Hòa


NGHỊ ĐỊNH
Điều thứ nhứt: Hội Thánh sẽ tuyển chọn trong hàng chức sắc Thiên phong đủ hạnh đức, đủ công nghiệp đặng chiết ra khai hóa, giáo hóa cả Cơ Quan Phước Thiện, đặng cứu thế độ đời.
Điều thứ hai: Chức sắc Phước Thiện chú trọng nhập vào Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng kể 12 sau đây:
1 . Minh Đức
2 . Tân Dân
3 . Thính Thiện
4 .  Hành Thiện
5 .  Giáo Thiện
6 .  Chí Thiện
7 .  Đạo Nhơn
8 .  Chơn Nhơn
9 .  Hiền Nhơn
10 . Thánh Nhơn
11 . Tiên Tử
12 . Phật Tử

Điều thứ ba: Những người ngoại giáo hay chư vị Đạo Nhơn các nền Tôn Giáo khác muốn nhập vào cửa đạo thì Hội Thánh do nơi công nghiệp Phước Thiện của họ mà định vị, tùy theo công nghiệp nhỏ lớn đặng định phẩm từ bậc Minh Đức tới Chơn Nhơn mà thôi. Còn bậc Hiền Nhơn đổ lên thì giúp Hội Thánh giữ gìn chơn pháp, nên phẩm vị nầy phải có cơ bút giáng phong mới đặng.
Điều thứ tư: Cả Cơ Quan Phước Thiện đều giao cho Hiệp Thiên Đài chưởng quản.
Điều thứ năm: Chức sắc Phước Thiện không có đạo phục riêng, duy đặng Hội Thánh ân tứ lịnh bài, và sắc lịnh kể ra sau đây:
* Minh Đức và Tân Dân duy có lãnh cấp bằng, mặc áo Đại phục trắng trong mà thôi, không có dấu hiệu chi ngoại thể.
* Bậc chức sắc Thiên phong hay là chức việc thì mặc đồ Đại phục của mình, những người ngoại giáo thì phải mặc khăn đen, áo dài theo quốc phục.
* Thính Thiện, Hành Thiện, và Giáo Thiện thì lãnh sắc lịnh phái Ngọc có lịnh bài của mỗi phẩm vị ấy, gắn giữa dây sắc lịnh ngay ngực.
* Chí Thiện, Đạo Nhơn, và Chơn Nhơn mang dây sắc lịnh phái Thượng có gắn lịnh bài mỗi phẩm vị của họ ngay ngực.
* Hiền Nhơn, Thánh Nhơn, và Tiên Tử thì mang dây sắc lịnh phái Thái có gắn lịnh bài mỗi phẩm vị của họ ngay ngực.
* Phẩm Phật Tử thì do cơ bút nơi Chí Tôn định và mặc sắc phục chi thì tự Người định đoạt.

Điều thứ sáu: Sắc lịnh và lịnh bài của Phước Thiện duy mặc nơi các Thánh Thất và Tòa Thánh để chầu lễ Đức Chí Tôn mà thôi, không đặng dùng theo đồ thường thế.
Điều thứ bảy: Cả Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài tùy phận sự của mình thi hành Đạo Nghị Định nầy.”
Còn về các phẩm chức sắc Bộ Nhạc thì mãi về sau này Đức Ngài mới ban hành Thánh lịnh số 25/TL ngày 29 tháng 3, Tân Mão (1951) có nội dung xin được trích như sau:
" Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền, Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (15-2-1938) giao quyền thống nhứt Chánh Trị Đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho đến ngày có Đầu Sư chánh vị, Chiếu y Sắc Lịnh số 51 ngày mùng 9 tháng 11 Bính Tý (22-12-1936) định phần và phong thưởng cho Lễ Sĩ và Giáo Nhi đầy đủ năm năm công nghiệp, Nghĩ vì Ban Lễ đã định phận thì Bộ Nhạc cũng được hưởng đặc ân của Hội Thánh đặng tiến bước lập vị, nên:

THÁNH LỊNH

Điều thứ nhứt: Trong Bộ Nhạc của Tòa Thánh có chín phẩm ân phong như
sau đây:
1 . Nhạc Sĩ
2 . Bếp Nhạc
3 . Cai Nhạc
4 . Đội Nhạc
5 . Quản Nhạc
6 . Lãnh Nhạc
7 . Đề Nhạc
8 . Đốc Nhạc
9 . Nhạc Sư

Điều thứ hai: Bộ Nhạc chuyên chú về tài năng nghệ thuật thì từ hạ phẩm dẫn thượng phẩm mỗi cấp có khoa mục đặng tuyển chọn danh nhơn để điều khiển nội ban.
Trong mỗi kỳ khoa mục, vị nào ứng thi thì xin thi và mỗi khi thi đậu, mỗi lần được thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thi vượt bực.

Điều thứ ba: Nếu thi rớt thì không đủ tài, phải ở lại phẩm cũ cho đủ năm năm công nghiệp mới được cầu ân phong.
Phần Nhạc Sư đủ năm năm công nghiệp thì thăng lên Phối Sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân, nếu có khuyết.

Điều thứ tư: Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với chín phẩm của Hiệp Thiên Đài hay bậc phẩm khác của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện Như sau nầy:
Điều thứ năm: Chư vị Bảo Thế Tổng Thơ Ký Chánh Trị Đạo, Khai Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư Thượng Thống Lại Viện, Đạo Nhơn Chưởng Quản Phước Thiện, Nhạc Sư Bộ Nhạc, các tư kỳ phận, lãnh thi hành Thánh Lịnh này.”

Do Đức Hộ Pháp lên nắm quyền thống nhứt nên có nhiều sự hiểu lầm từ bên ngoài. Thành ra ngày 14 tháng 10 năm Đinh Sửu (1937), ông Thượng Sanh đứng đầu danh sách nhiều vị Thời Quân ra tờ kỉnh cáo không nhìn nhận vai trò Hộ Pháp Hiệp Thiên Đài của Đức Ngài, xin được trích ra tờ kỉnh cáo ấy như vầy:
“Hiện thời, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã sai biệt với Chơn Truyền, bất đồng tín ngưỡng, mất trật tự tôn ti, kém tinh thần liên lạc. Điều ấy dù không giải rõ tưởng chư Đạo hữu cũng chán biết.

Đem chúng sanh trở về Chánh Giáo, nối chặc dây thân ái đặng cùng chung một tín ngưỡng chơn chánh, một tôn chỉ bác ái từ bi, đó là trách nhiệm hiện thời của chức sắc Hiệp Thiên Đài do theo mạng lịnh Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm ngày 22 Aout 1937.
Không thái quá mà cũng không bất cập, chức sắc Hiệp Thiên Đài sẽ cẩn thận từ ly từ bước một trong việc hành Đạo, nguyện đem hết dạ vô tư chí thành liêm khiết đặng bảo thủ Chơn Truyền và nêu cao danh thể Chí Tôn nơi cõi Việt.

Ngày 2 Novembre 1937, chức sắc Hiệp Thiên Đài vì muốn giữ trọn nghĩa vụ chức sắc đối với ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc nơi Tòa Thánh Tây Ninh, nên lần cuối cùng có gửi cho Người một bức thơ. Ông Phạm Công Tắc không lấy chánh danh mình trả lời lại mà để cho một kẻ khác đứng tên trả lời.

Vậy chiếu theo điều lệ thứ ba trong Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài lập tại Tòa Thánh ngày 21 Mars 1932, chức sắc Hiệp Thiên Đài không nhìn nhận Ông Phạm Công Tắc là Hộ Pháp Hiệp Thiên Đài nữa.”

Hầu hết thập nhị Thời Quân đều ký tên vào tờ kỉnh cáo này, trừ có bào huynh của ông Thượng Sanh là Tiếp Đạo Cao Đức Trọng và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
Thật ra, điều thứ ba trong Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thiên Đài ghi như vầy:
“Nếu Hộ Pháp chuyên quyền không do theo phần đông thì phần đông ấy đặng phép không tuân lịnh của Hộ Pháp và công bố cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài biết đặng đợi ngày cầu xin Đức Chí Tôn phán xét.”

Về sau này, vào mùa xuân năm Canh Tuất (1970) khi ấy ông Thượng Sanh đương nắm quyền lèo lái con thuyền đạo, ông Trần Văn Rạng có đến Giáo Tông Đường nơi ông Thượng Sanh làm việc để tỏ về việc viết tiểu sử của ông. Ông rất từ tốn không nói gì nhiều, chỉ cho ông Rạng một ít bài mà trong buổi đầu học đạo ông Sang đã xây bàn với Bảo Văn Pháp Quân vì các sách trong đạo hiện chưa có những bài này. Trong suốt quá trình công phu, công quả ông tùy cho nhơn sanh định lượng, ông chỉ nhấn mạnh về tờ kỉnh cáo năm 1937 bị nhiều người trích điểm nhất. Nhưng chẳng bao giờ ông chính thức biện hộ cho mình mà để cho công luận và lịch sử soi xét. Ông có nói:
“Ai có sống trong những ngày nền đạo suy vi chia rẽ thì mới thấy những nỗi
khổ tâm, lo lắng của những người có sứ mạng lúc bấy giờ. Bao nhiêu Thánh Thất
đều thuộc về ông Tương. Các vị Thời Quân thì bấp bênh trước lời kêu gọi của ông
Tương đang thiết có một bộ phận của Hiệp Thiên Đài, chư Đạo hữu chẳng biết ngã
về đâu. Tờ Kỉnh Cáo có tác dụng trấn an các vị Thời Quân và chư Đạo hữu từ vùng
Sài gòn trở xuống Hậu Giang. ‘Chư Đạo Hữu muốn hỏi điều chi về việc Đạo xin do
nơi văn phòng tạm thời ở Từ Vân Tự, Phú Nhuận, Gia Định.’ Câu này hàm ý nhằm
ngăn chặn không để một ai ngã về chi phái.”

Theo ông, con đường nào rồi cũng về Tòa Thánh Tây Ninh.
Hồi ông Nguyễn Ngọc Tương khai đạo tại Bến Tre năm 1930 có mời ông Cao Hoài Sang và thập nhị Thời Quân đảm nhiệm cơ quan Hiệp Thiên Đài. Ông và thập  nhị Thời Quân không ai đến dự lễ cả, chỉ gởi chương trình hành đạo coi như một lời cảnh cáo, một lời khuyên bảo đạo đức chớ không phải khế ước hợp tác, vì ông không có đến dự hội. Đó chỉ là tấm lòng ưu tư vì nền đạo phân chia của ông và các vị Thời Quân.
Năm Mậu Dần (1938), Đức Hộ Pháp chuyển Phạm Môn thành Cơ Quan Phước Thiện, trực thuộc chi Đạo Hiệp Thiên Đài. Để hợp nhất các cơ quan Chánh Trị Đạo, Ngài cho ban hành bộ “Đạo Luật Mậu Dần” do tờ kiết chứng đề ngày mùng 8 tháng Giêng năm Mậu Dần (1938) gồm có 4 cơ quan: Hánh Chánh, Phước Thiện, Tòa Đạo, và Phổ Tế.

* Hành Chánh: Là cơ quan để thi hành các luật lệ của Hội Thánh hoặc của Nhơn Sanh dâng lên mà đã có quyền Chí Tôn phê chuẩn, gồm có các phẩm như sau:
1 . Lễ Sanh.
2 . Giáo Hữu.
3 . Giáo Sư.
4 . Phối Sư.
5 . Đầu Sư.
6 . Chưởng Pháp.
7 . Giáo Tông.
Theo lời thuyết đạo của Ngài về phẩm vị của Cửu Trùng Đài, tức là cơ quan Hành Chánh như vầy:
* Thần vị: Là người không đạo mà mộ đạo, lại giữ đặng trọn đạo, hữu căn hữu kiếp có thể đắc vị đối với Địa Thần; kẻ tín đồ biết đạo mà giữ đạo đối với Nhơn Thần; còn Lễ Sanh đối với Thiên Thần.
* Thánh vị:
- Giáo Hữu đối phẩm Địa Thánh
- Giáo Sư đối phẩm Nhơn Thánh
- Phối Sư đối phẩm Thiên Thánh

* Tiên vị:
- Đầu Sư đối phẩm Địa Tiên
- Chưởng Pháp đối phẩm Nhơn Tiên
- Giáo Tông đối phẩm Thiên Tiên.
- Phước Thiện: Là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi nấng thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc cho những kẻ tật nguyên cô độc hoặc giúp tay cho Hành Chánh  thi hành luật pháp được trọn vẹn. Đức Ngài có giải thích về Thập nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng như vầy:
“Minh Đức là gì? Là người đã theo đàng Thiên Lý, sửa tánh cho trong sạch đặng qui về với khí hư linh nhẹ nhàng không còn tối tăm nữa, một mảy quấy không dám làm, một lành nhỏ không bỏ qua. Trọng đức hơn trọng tài, đạo vậy gọi là Minh Đạo. Minh Đức đứng vào hàng phẩm trung thừa của Thần vị.

Tân Dân là người đã bỏ được các điều nhiễm cũ, xưa nay hư tệ như cờ bạc, rượu chè, gian tham, trộm cướp. Nói tóm lại là cái gì đồi phong, bại tục đều bỏ hết. Sửa lòng trong sạch, tịnh dưỡng tinh thần hầu noi theo con đường quang minh chánh đại của Trời, là con đường hành thiện gọi là Tân Dân. Tân Dân đứng vào hàng phẩm thượng thừa của Thần vị.

Thính Thiện là người đã hoán cựu nghinh tân, không còn cái dục tình vật chất nào quyến rũ tinh thần đặng nữa. Sửa lòng trong sạch, hầu nghe lành và học lành, cho biết từ cái chi tiết của lành, đặng làm lành. Thính Thiện đứng vào hàng phẩm hạ thừa của Thánh vị, khi đi chầu Chí Tôn được mang dây sắc lịnh đỏ, đeo khuê bài Thính Thiện, ở cung Ngọc Thanh làm ông Thánh thứ ba.

Hành Thiện là người đã nghe lành và biết việc lành rồi, thì phải làm lành, làm thế nào có thể cho kẻ bịnh hoạn tật nguyền, già cả, góa bụa được hưởng cái lành và được an ủi cõi lòng, hết than thân tủi phận dở dang, khổ não mới gọi là Hành Thiện. Hành Thiện đứng vào hàng phẩm trung thừa Thánh vị, khi đi chầu Chí Tôn được mang dây sắc lịnh đỏ, đeo khuê bài Hành
Thiện, ở cung Ngọc Thanh làm ông Thánh thứ nhì.

Giáo Thiện là người đã làm được lành rồi, thì phải đi dạy cho nhơn sanh tìm đường Thiên Lý là đạo Trời. Giáo Thiện đứng vào hàng phẩm thượng thừa Thánh vị, khi chi chầu Chí Tôn được mang dây sắc lịnh đỏ, đeo khuê bài Giáo Thiện, ở cung Ngọc Thanh làm ông Thánh thứ nhứt .

Chí Thiện là người đã được 5 cái bằng cấp từ Minh Đức, Tân Dân, Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện nên được lãnh đứng đầu các vị Thánh và Thần. Chí Thiện đứng vào hàng phẩm hạ thừa Tiên vị,  khi đi chầu Chí Tôn được mang dây sắc lịnh xanh, đeo khuê bài Chí Thiện, ở cung Thượng Thanh làm ông Tiên thứ ba.

Đạo Nhơn là người đã được trọn lành rồi thì phải về Hội Thánh học tân pháp bí truyền để được đắc pháp. Đạo Nhơn đừng vào hàng phẩm trung thừa Tiên vị, khi đi chầu Chí Tôn được đội khăn đóng trắng, mang dây sắc lịnh xanh, đeo khuê bài Đạo Nhơn, ở cung Thượng Thanh làm ông Tiên thứ nhì.

Chơn Nhơn là người được học tân pháp bí truyền, đắc pháp rồi phải đi ra hành pháp cứu thế độ nhơn trong một nước. Chơn Nhơn đứng vào hàng phẩm thượng thừa Tiên vị, khi đi chầu Chí Tôn được đội khăn đóng trắng, mang dây sắc lịnh xanh, đeo khuê bài Chơn Nhơn, ở cung Thượng Thanh làm ông Tiên thứ nhứt.

Hiền Nhơn là người diệt được cả thất tình lục dục rồi, không còn nhiễm một mảy gì của trần thế nữa. Cõi lòng thanh tịnh ta bà thế giới, độ tận chúng sanh, ấy là hạng Hiền Nhơn. Hiền Nhơn đứng vào hàng phẩm hạ thừa Phật vị, khi đi chầu Chí Tôn được đội khăn đóng vàng, mang dây sắc lịnh vàng, đeo khuê bài Hiền Nhơn, ở cung Thái Thanh làm ông Phật thứ ba.
Thánh Nhơn là người đã học được thông tri tam giái: Thượng giái, Trung giái, Hạ giái có thể vâng lịnh Chí Tôn đi khai đạo một nơi nào để độ rỗi nhơn sanh gọi là Thánh Nhơn. Thánh Nhơn đứng vào hàng phẩm trung thừa Phật vị, khi đi chầu Chí Tôn được đội khăn đóng vàng, mang dây sắc lịnh vàng, đeo khuê bài Thánh Nhơn, ở cung Thái Thanh làm ông Phật thứ nhì.

Tiên Tử là người sáng suốt hoàn toàn, học đủ lục thông: Nhãn thông, Nhĩ thông, Tha tâm thông tức là Mạnh thông, Thần thông, Trí thông có khi vâng lệnh Đức Chí Tôn làm một vị Giáo chủ của nhơn loại. Tiên Tử đứng vào phẩm thượng thừa Phật vị, khi đi chầu Chí Tôn được đội khăn đóng vàng, mang dây sắc lịnh vàng, đeo khuê bài Tiên Tử, ở cung Thái Thanh làm ông Phật thứ nhứt.

Phật Tử được đồng quyền CHÍ TÔN cai quản cả Thần, Thánh, Tiên, Phật trong Càn Khôn thế giái.
CHÍ TÔN có nói kỳ ba này CHÍ TÔN đến độ rỗi con cái của Ngài đến ngang bậc cùng Ngài, là ngôi Phật Tử đó vậy.”
* Phổ Tế: Là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm đạo.
* Tòa Đạo: Là cơ quan bảo thủ chơn truyền, giữ gìn luật pháp, chăm nom chư chức sắc, chức việc, và đạo hữu, thi hành phận sự, che chở những kẻ yếu, bênh vực người cô thế tức là giữ gìn công bình luật đạo, cũng là cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện, và Phổ Tế thêm uy quyền mạnh mẽ và được tôn nghiêm.

Có lần quí vị Hành Thiện được bổ đi làm Trưởng Thập nhị gia, họ đến thỉnh giáo Đức Hộ Pháp như vầy:
“Bạch Thầy, chúng con được bổ đi làm Trưởng thập nhị gai, tức là 12 gia tộc.
Thoảng như trong 12 gia đình ấy có gia đình của quí chức sắc bậc cao như Giáo Sư, Giáo Hữu chúng con phải làm sao? Xin Thầy chỉ dạy.”
Đức Ngài mới nói:
“Vậy thì mấy con được phước chớ sao!”

Ngài không nói gì thêm, các vị như đã hiểu được điều gì qua lời nói ấy.
Về sau, ông Trịnh Phong Cương là người của Phước Thiện có thỉnh giáo Đức Hộ Pháp về Cơ Quan Phước Thiện như thế nầy:
“Bạch Đức Thầy, mấy con theo Thầy học đạo, do Thầy chọn lựa vào môn đệ. Thầy đã mở cửa Phạm Môn là lập công học đạo, chỉ mong được hưởng phẩm vị thiêng liêng thuộc về bóng chớ không thiệt hiện ra mặt xã hội. Từ năm 1925 Phạm Môn đã công khai với chính phủ cùng khắp trong nước, đạo đời đều hiểu và đã có sự công nhận của quyền Vạn Linh và liệt vào đạo luật năm Mậu Dần (1938). Khi Thầy ở hải ngoại về qui phục đạo chấn chỉnh lại, Thầy lập cho cơ quan Phước Thiện có 4 viện tùng lịnh Thời Quân là Ngài Hiến Đạo Phạm Văn Tươi, hành sự được ít tháng, kế Thầy định cho anh Chí Thiện Thế làm Chưởng Quản, thì Thầy dạy lập đủ Cửu Viện.
Đến năm Tân Mão nầy, Thầy cho biết cửu viện là Hội Thánh Phước Thiện thì có phần từ trong đạo lấy làm lạ, vì sao có Hội Thánh Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng

Đài, nay lại có Hội Thánh Phước Thiện. Mấy con nghe rõ chức sắc Cửu Trùng Đài có một vài người tổ chức Hội Nhơn Sanh tới đây sẽ đem danh dự từ Hội Thánh và Khâm Châu, Đầu Tộc Phước Thiện ra trình bày để chỉ trích vì Phước Thiện không có trong Pháp Chánh Truyền, chỉ có Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà thôi và nói rằng  Phạm Môn Phước Thiện là của Thầy đặt riêng. Mấy con rất lo ngại. Ngày giờ Thầy cầm quyền thống nhứt thì không ai dám bác bỏ, dầu cho Hội Nhơn Sanh cũng không qua quyền thống nhứt của Thầy đặng. Sợ một ngày kia Thầy có về thiêng liêng rồi, Nhơn Sanh cùng các cơ quan khác chiếu trong luật không có trong Pháp Chánh Truyền rồi giải tán cả cơ quan Phước Thiện. Riêng về Phạm Môn, dầu danh từ ấy còn hay mất, mất con không lo ngại vì mấy con đã theo Thầy từ lâu ở trong bóng tối, tức là làm việc khi ẩn khi hiện. Dầu ai để hay bỏ cũng vô hại, là mấy con chỉ có một số ít, dầu sao cũng có Thầy. Các con cũng xin Thầy dạy lẽ nào, và cầu xin Thầy ban Thánh lịnh đặng ngày kia khỏi bị hủy bỏ hay giải tán.”

Đức Hộ Pháp trả lời như sau:
“Phước Thiện không có trong Pháp Chánh Truyền họ trích điểm là phải. Mà chính Thầy cũng nhìn nhận là không khi nào Phước Thiện có trong Pháp Chánh Truyền, dầu rằng mấy em cầu xin, xin xỏ đem danh từ Phước Thiện vào Pháp Chánh Truyền lại còn sai hơn nữa. Thầy vẫn lấy quyền Chí Tôn tại thế, không bao giờ làm trái ngược vậy được. Bởi khi lập Pháp Chánh Truyền, Thầy có hội cùng Đức Lý

Giáo Tông được trọn quyền thay thế Đức Chí Tôn. Hễ cái gì Hộ Pháp và Giáo Tông hiệp lại lập ra trong cửa đạo tức là lời dạy bảo của Đức Chí Tôn. Không có việc gì từ nhỏ chí lớn mà không có mạng lịnh Chí Tôn trong đó.
Về quyền hành và trách nhiệm trọng đại nên Đức Lý Giáo Tông nôn nóng lập thành Pháp Chánh Truyền chú giải cho kịp Thiên Thơ của Đức Chí Tôn đã định.

Nếu lập pháp trễ thì đạo phải loạn thì còn gì cho công trình các Đấng thiêng liêng dày công dìu dẫn từ ban sơ. Ấy vậy Pháp Chánh Truyền chú giải ấy là phân quyền cho chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài cho khỏi bị giành quyền nhau mà thôi, và đồng thời trao trọn quyền ấy cho Hộ Pháp có đủ phương kềm chế nền đạo của Đức Chí Tôn.
Pháp Chánh Truyền ở trong cuốn Thiên thơ mà ra, còn chú giải là phân quyền hành, quyển Thiên thơ Đức Chí Tôn đã để tại thế gian nầy. Ngài giao cho con cái của Ngài gìn giữ mà làm của báu không gì bằng, tức là ‘Thánh Ngôn Hiệp Tuyển’.

Trong quyển Thiên thơ nầy, ngày kia có sản xuất nhiều cơ quan khác trọng yếu nữa chớ không phải một cơ quan Phước Thiện mà thôi. Mấy con cứ mạnh dạn trả lời: ‘Pháp Chánh Truyền Hộ Pháp và Giáo Tông lấy trong Thánh Ngôn mà ra thì Phước Thiện Phạm Môn nó cũng ở trong Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn dạy lập ra chớ không có chi gọi là lạ.’

Nếu không phải sứ mạng, nghĩa là người nào không phải là mạng lịnh của Trời thì không khi nào Trời trao cả bí pháp cho tay phàm mà cầm đặng sử dụng. Buổi nọ Đức Lý Giáo Tông dạy lập pháp trước rồi sau Ngài giáng cơ chấn chỉnh đặng lập cho đủ các cơ sở hữu vi, mới có đủ phương giúp Hội Thánh làm hình thể của Đức Chí Tôn mới xứng phận cho Ngài. Đức Chí Tôn đã dạy hồi mới khai đạo:
‘Thầy đã chán biết thế gian nầy là phàm mà Thầy đến Thầy lấy cái phàm hiệp lại thành Thánh, làm sao tránh đặng cái phàm không lẫn lộn trong cái Thánh. Mà hễ Thầy lập nên cái Thánh thể, nếu còn vướng chút phàm thì đã ra phàm, không còn Thánh thể. Các con nên hiểu phẩm vị cao trọng ấy mà trau lòng cho Thánh thể mới đáng giá. Thầy đã khuyên với các con, từ mỗi đứa cứ giữ phận sự mình làm cho trọn phận, còn ngoài ra chi chi cũng mặc Thầy, các con đừng sợ mất mà ngần ngại, bước đường đạo là quí báu. Thầy đã nói muôn việc chị để Thầy lo, các con lo không đặng đâu.’

Thầy cho các con biết cái chủ nghĩa Phước Thiện của Đạo Cao Đài lập ra đây nếu nó ra sớm thì đã bị diệt trong trứng, vì nó là chướng ngại của thế gian. Bởi vì đời cứ bôn xu trên đường duy vật, danh vị, quyền lợi càng tranh đấu mãi. Còn đạo dục tiến tinh thần, đem bác ái công bằng trải trên mặt thế, cộng hòa nhơn loại, làm cho xã hội bình đẳng, nâng đỡ kẻ nghèo đến tột bực, không giàu mà sang, tuy nghèo mà tự toại. Chủ nghĩa ấy nó đương đầu với các sắc dân vương vị, đế quyền, bảo sao nó không phản trắc, cũng vì quyền với lợi. Đừng nói chi người đời, trong đạo mà còn làm tánh đức đó, qua nói là bậc chức sắc lớn không phải hàng đạo hữu mà thôi.

Cơ cứu khổ Đức Chí Tôn dạy lập hồi mới khai đạo, cũng vì cái khó khăn mà duy trì đến ngày Rằm tháng 8, Quí Dậu 1933. Qua mới thuyết trình trong bài diễn văn đã giải rõ, bắt đầu từ Phước Thiện mới nảy nở đến tháng Giêng năm Ất Hợi (1935) mới được bành trướng, thì Đức Lý Giáo Tông cho phẩm Phước Thiện mượn áo mão của Lễ Sanh 3 năm để bổ đi các tỉnh, lo mở Phước Thiện. Ngài dạy đợi đến ngày Hội Thánh lập quyền Vạn Linh sẽ đưa ra hội quyết định. Thì hiển nhiên chủ nghĩa Phước Thiện đã ấn định trong đạo luật năm Mậu Dần (1938) quyền Vạn Linh đã công nhận nó đã thành luật, còn có quyền nào mà sửa đổi hay giải tán. Bởi lẽ ấy mà Đức Lý Giáo Tông lập Đạo Nghị Định số 48/ĐNĐ năm 1938 phân minh trật tự Thập nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng vị.

Qua nhắc lại, khi anh cả chúng ta là Đức Quyền Giáo Tông khởi xướng tại cơ sở Lương Điền công nghệ buổi nọ, mà chánh quyền Pháp còn kiếm cớ bắt tội,  đến đổi ngồi ngục 2 ngày. Còn qua cũng bị tờ phúc sự trình bày với đế quốc Pháp buổi nọ năm 1937 vì nguyên do chánh quyền Pháp nghi kỵ.
Nền đạo của Đức Chí Tôn có 2 cơ quan trọng yếu, nhứt là Cửu Trùng Đài, cơ quan Hành Pháp bảo tồn văn hiến tương lai; còn Phước Thiện là cơ quan bảo tồn Nhơn loại, an ủi vỗ về, nuôi sống thi hài có chi hay bằng.

Lại nữa, Chí Tôn đã giao cho Thánh thể của Ngài chủ quyền, dưới thì có Vạn Linh gìn giữ. Chủ quyền đã có sẵn nơi tay mà không thực hiện, hay là vô tình mà bỏ mất đi, là tại nguyên nhân quả kiếp của giòng giõi Việt Nam hay là toàn thể nhơn loại chưa hưởng sớm được.
Bàn Trị Sự là cấp bậc nhỏ nhứt ở chốn thôn quê được thay quyền Hội Thánh Em:
* Chánh Trị Sự: Đầu Sư em
* Phó Trị Sự: Giáo Tông em
* Thông Sự: Hộ Pháp em.

Huống chi chủ nghĩa Phước Thiện là cơ quan trọng yếu của đạo, của Giáo Tông, của Hộ Pháp mà không có danh từ Hội Thánh?
Trong Đạo Nghị Định 48/ĐNĐ của Giáo Tông đã phân định rõ ràng và bài diễn văn hồi năm 1933 đã giải rõ từ bực Chơn Nhơn trở xuống là giúp Hội Thánh Cửu Trùng Đài. Còn từ Hiền Nhơn đổ lên là cùng Hiệp Thiên Đài lo bảo thủ “Bí pháp tâm truyền” tức là giúp Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
Hội Thánh Cửu Trùng Đài là của Giáo Tông.
Hội Thánh Phước Thiện là của Hộ Pháp.

Dầu thể xác của qua là con kỵ vật của Hộ Pháp có thay đổi thế nào, Hộ Pháp vẫn là Hộ Pháp.
Ngày kia chủ quyền đạo hữu hình nầy là Giáo Tông làm chủ, không lẽ Ngài vô tình chiết bớt cánh tay, tức là giải tán Phước Thiện. Không có điều nào mà Chí Tôn lập ra trong nền Đại Đạo mà không hữu ích. Nếu có chơn linh nào không may duyên mới tìm phá hoại sự nghiệp của Chí Tôn, tức nhiên là do chịu quả kiếp.

Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài còn, mà Hiệp Thiên Đài còn thì cơ quan trong cửa đạo vẫn còn, tức nhiên nhơn sanh còn thì quyền Vạn Linh không bao giờ tuyệt.
Bởi vậy, đại nghiệp thiêng liêng Chí Tôn để tại mặt thế nầy, tức là quyền Đại Đạo giao cho quyền Vạn Linh nắm giữ. Còn Thánh thể Đức Chí Tôn là chủ quyền nó sẽ bảo thủ trường tồn mãi mãi.”

Cũng vì e ngại rằng các Chức Sắc trong khi thi hành phận sự, cũng như là giao tế cùng đời mà mặc đại phục thì có phần giảm nghi tiết đặc biệt dành để đảnh lễ với Chí Tôn, nên năm Giáp Tuất (1934) Đức Ngài mới xin Ơn Trên ban thêm cho một bộ tiểu phục. Rồi sau đó kể từ năm Bính Tý (1936) là Chức Sắc của Cửu Trùng Đài phải mặc tiểu phục tràng y 9 nút, Hiệp Thiên Đài là 6 nút, và Phước Thiện là 12 nút trong khi giao tiếp cùng đời. Về việc nầy vẫn thường bị chính quyền Pháp lúc bấy giờ sách nhiễu. Họ không cho Chức Sắc mặc các đạo phục đã được quy định đó, và buộc phải mặc đồ thường khi tiếp xúc với họ.

Do đó mà ngày 19 tháng 9 năm Mậu Dần (1938), châu tri số 62 được ban bố đề cập đến vấn đề nầy như sau:
“Từ xưa đến nay tôn giáo nào cũng vậy, hễ người tu thì mặc đồ tu theo tôn chỉ của đạo ấy. Đồ mặc là thể đạo như Phật Giáo, Gia Tô Giáo.
Lúc trước Đức Hộ Pháp đã gửi cho Toàn Quyền ở Hà Nội qua Thống Đốc Nam Kỳ và các quan bảo hộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Lào, Cao Miên biết đặng cho lệnh các viên quan của chính phủ hay rằng chức sắc Cao Đài kể từ tháng 2 năm 1936 sẽ mặc đạo phục đi đường và có giao hình đạo phục của toàn chức sắc Thiên Phong nam nữ Hội Thánh Cao Đài. Từ chức việc Chánh-Phó Trị Sự tới Giáo Tông; từ Sĩ Tải đến Hộ Pháp.

Nay lại xảy ra vụ bất ngờ nói rằng không cho chức sắc Đạo Cao Đài mặc đạo phục khi đến hầu chuyện với quan đời mà phải mặc áo thường phục.
Vậy từ đây cứ y luật pháp mà hành đạo, chư chức sắc nào có việc phải đến quan làng hầu chuyện thì cứ mặc đạo phục như thường. Nếu họ không tiếp thì viện đủ lẽ chứng cớ rõ ràng hoặc mời Trưởng Tòa (Thừa Phát Lại) nhân chứng, rồi cho Hội Thánh hay.”

Việc này chính Đức Ngài về Sài Gòn để khiếu nại và Ngài quyết định sẽ làm mạnh nếu nhà cầm quyền còn viện lẽ quanh co từ chối.

Đến ngày mùng 6 tháng 11 năm Mậu Dần (27-12-1938), Toàn Quyền Đông Dương Brévié phúc thư như sau:
“Vì muốn thi hành các sở định của Tổng Trưởng thuộc địa, vị thượng quan tái truyền lịnh cho tín đồ trong các cơ quan dưới quyền của đạo đặng thờ phượng  khỏi điều trở ngại và nhất là không còn buộc họ phải mặc đồ thế phục khi đến trình diện trước quyền hành chánh đời nữa.”
Dù vậy, Đạo Cao Đài vẫn bị dòm ngó, nhà cầm quyền không muốn cho đạo lớn mạnh. Tỉnh trưởng Tây Ninh Vilmont và Thanh Tra Lalaurette người Pháp đã theo dõi và ghi chú từng hành động và cử chỉ, nhất là chư chức sắc Đại Thiên Phong.

Năm Canh Thìn (1940), Nhựt Bổn tràn vào lục địa Trung Hoa, tiến xuống miền Đông Nam châu Á. Pháp lo sợ bắt đầu đàn áp các đảng phái. Đạo Cao Đài cũng phải chịu chung số phận với đất nước. Chữ Vạn biểu hiệu của Phật Giáo trên nóc các Thánh Thất bị hiểu lầm là dấu hiệu của Đức Quốc Xã, nên ngày mùng 2 tháng 4 năm Canh Thìn (1940), Hội Thánh phải ra Thánh Huấn ra lịnh gở các chữ Vạn.

Phong trào bài Pháp lan rộng trên toàn quốc. Các tín đồ là con dân trong nước nên họ nhảy vào vòng tranh đấu. Hội Thánh không thể ngăn được vì nước mất nhà tan, Đạo sự phải suy vi. Nhân cơ hội đó, một số người vô lương, ham mê lợi lộc, dựa theo quyền đời ám hại Đạo. Họ vu cáo phao truyền Đạo Cao Đài lập một nước nhỏ trong một nước lớn. Họ chú giải lệch lạc các danh từ trong Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Nghị Định, Hội Thánh, Hội Nhơn Sanh, Tòa Đạo, Cửu Viện,… ra là Thượng Nghị Viện, Hạ Nghị Viện, Tòa Án, Cửu Bộ,… rồi cố ý cho Đạo Cao Đài có ý chủ trương Quân Chủ Lập Hiến.

Thống Đốc Nam Kỳ, ông Pagès vịn vào đó mật lịnh cho Đại Tá Gordon, Ủy Viên Chánh Phủ của Tòa án Quân Sự lập phương án tấn công Tòa Thánh Tây Ninh.
Nhờ Ơn Trên xoay chuyển, trong một phiên họp của Tòa án Quân Sự, Đại Tá Gordon vô tình tâm sự với một người bạn là ông ta được lịnh thực hiện khám xét một vụ to lớn cần phải xử dụng đến 20 xe cam nhông binh lính để bao vây một khu rừng vào lúc 2 giờ đêm. Người bạn tò mò hỏi:
“Ông khám tổ chức nào mà to tát vậy?”

Lúc đầu ông Đại tá vẫn còn chần chừ, sau ông nói thật rằng mai này (ngày 23 tháng 7 năm Canh Thìn, 1940) sẽ khám xét Tòa Thánh Cao Đài ở Tây Ninh. Người bạn của Gordon lại đem chuyện kể với một người có cảm tình với Đạo Cao Đài. Thế là chiều trước hôm đó, Hội Thánh xem xét lại những giấy tờ gì nghi có liên quan tới chánh trị đều đốt hết. Vừa làm xong lính Pháp cũng vừa đổ quân bao vây chu vi Tòa Thánh chờ sáng là tiến vô khám xét. Chính Đại tá Gordon chỉ huy cuộc khám xét này. Hắn ra lệnh tịch thu hết hồ sơ, giấy tờ của đạo chất vào 10 cam nhông đem về Sài Gòn. Nhưng một Chức Sắc quá chủ quan, lén để lại một tài liệu quan trọng có liên hệ đến Kỳ Ngoại Hầu Cường Để trong quyển kinh của mình. Nhân viên Tòa án  được lịnh tịch thu hết các hồ sơ chớ không phải coi từng hồ sơ nên tài liệu nói trên cũng được chất lên xe cam nhông số 3. Thế nên Sĩ Tải Huỳnh Hữu Lợi phải hối hả xuống Sài Gòn báo tin ấy cho các bạn thân. Các tín hữu cấp tốc liên lạc với nhân viên làm trong Tòa án Quân sự. Một việc khó khăn như vậy mà chỉ ngày hôm sau, một người trong tòa án đem tài liệu về trao tận tay cho Sĩ Tải Lợi.

Kế hoạch của Thống Đốc Pagès vậy là thất bại. Chúng không tìm thấy tài liệu gì trong 10 xe cam nhông đó có thể buộc tội Đức Ngài. Chúng liền trù hoạch phương án khác để diệt đạo.
Ngày mùng 8 tháng 11 năm Canh Thìn (1940), chúng đem 5 xe hơi vào Tòa Thánh bắt các chức sắc và đạo hữu giải ra Tây Ninh.
Ngày Rằm tháng 5 năm Tân Tỵ (1941), chính phủ Pháp cấm các công quả tạo tác không được xây tiếp Tòa Thánh.
Vào lúc 8 giờ sáng, ngày mùng 4 tháng 6 năm Tân Tỵ (1941), lính mật thám vào bắt Đức Ngài.

TRẤN THÁNH PHI CHÂU

Chúng đột nhập vào Hộ Pháp Đường bắt Đức Hộ dẫn giải về giam tại Sài Gòn. Chúng bảo rằng Ngài làm quốc sự chống chế độ thuộc địa.
Tin tức được loan ra ngoài làm chấn động cả toàn Đạo. Chức sắc và đạo hữu xôn xao lo lắng, rồi đây chẳng biết nghiệp đạo sẽ ra sao. Chức sắc đương quyền lúc ấy một số tản cư đi lánh mặt, còn một số quyết chết vì Thầy vì đạo ở lại làm việc.

Ngày mùng 9 tháng 7 năm Tân Tỵ (1941) chủ quận và lính vào Tòa Thánh xét giấy thuế thân và đuổi tất cả tín đồ về tỉnh, về xứ, không cho ở trong chu vi Thánh Địa nữa.
Ngày 11 tháng 7, lính Pháp lại vào bắt thêm 3 vị chức sắc:
1 . Khai Pháp Trần Duy Nghĩa
2 . Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển
3 . Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh
Ở Sài Gòn bắt 1 vị là Giáo Sư Thái Gấm Thanh, ở Cao Miên 1 vị là Giáo Sư Thái Phấn Thanh.
Ngày 7 tháng 8, quân đội Pháp chiếm đóng Tòa Thánh.
Ngày 25 tháng 10, lính mật thám vào Tòa Thánh bắt thêm 3 vị chức sắc nữa.

Đặc biệt là nhà cầm quyền Pháp tìm thấy văn bản của ông Godwin, Trưởng Lão của giáo hội Eglise Gnostique Đức quốc liên lạc với Đức Quyền Giáo Tông, trong đó có đoạn viết như vầy:
" Bức thông điệp của Đức Ngài (Lê Văn Trung) đã tới Trung Âu. Tổng Giáo Hội Eglise Gnostique Đức Quốc mà tôi là Trưởng Lão quyết định liên hợp với Đạo Cao Đài.
Tôi được lãnh nhiệm vụ báo tin cho Đức Ngài biết sự quyết định này và kính xin Đức Ngài thông truyền cho chúng tôi về lịch sử, hiến chương, giáo lý và những nghi lễ của Đại Đạo."

Trong khi đó, nước Pháp bị Hitler xâm chiếm, ở Đông Dương các đảng phái nổi lên chống ách thống trị của Pháp. Đó là những nguyên nhân mà mật thám Pháp buộc phải bắt Đức Ngài đưa đi an trí tại Di Linh rồi Sơn La để trừ hậu họa.

Mới đầu chúng giam Ngài trong khám lớn Sài Gòn rồi chúng đưa Ngài ra Sơn La, là nơi hẻo lánh rừng núi. Sau đó chúng đưa Ngài qua Madacascar, ngày mùng 4 tháng 6 nhuận năm Tân Tỵ (1941), trên con tàu Compìege cùng 5 vị chức sắc và 12 người chánh trị phạm tại cảng Nhà Rồng đi đến Diego Suarez, miền Bắc Madagascar. Trong số nhà cách mạng nầy có Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Sáng, Ngô Văn Phiến, còn lại là đảng viên Đệ Tam Quốc Tế.

Chúng giam Ngài tại Nosilava. Trong thời gian bị tù đày Đức Ngài kể chỉ có ông Khai Pháp Nghĩa và Thánh Hiển là hết lòng phụng sự giúp đỡ Ngài, còn lại họ vì quyền lợi mà xua đuổi, hành hạ Ngài đáo để. Họ còn xúi giục để đẩy Ngài đến chổ nguồn cao, nước độc để giết Ngài một cách gián tiếp. Nếu chẳng phải nhờ quyền năng thiêng liêng giúp sức thì Ngài đã không thể trở về Tòa Thánh quê hương rồi.

Tuy vậy ông Khai Pháp và Thánh Hiển lúc nào cũng xin theo Ngài, dù bị chúng đánh đuổi vẫn tính kế theo nuôi dưỡng Ngài cho được. Tiếc thay, ông Thánh Hiển bị uống trúng nước độc mà cởi bỏ xác phàm nơi rừng sâu nước thẩm. Chỉ còn lại Ngài và ông Khai Pháp. Có lần ông Khai Pháp ôm Ngài mà khóc, van vái một điều là cầu xin Chí Tôn, Phật Mẫu đem về đất Thánh Địa thoát xác mà thôi.

Giữa năm 1942, quân Pháp được lịnh vào đóng quân ngay trên nền Đền Thánh mới xây cất, chưa kịp lót gạch và trang trí. Viên Tiểu Đoàn Trưởng ra lịnh cho binh lính đào đất dưới nền Hiệp Thiên Đài chôn một trái mìn 1 tấn. Chúng cho rằng Đạo Cao Đài có liên quan đến phát xít Đức vì trên nóc có chữ Vạn, nên chúng nghĩ thế nào phát xít Đức cũng đến giải vây Tòa Thánh. Lúc đó, chúng mới châm ngòi cho nổ, vừa diệt Nhật vì đều là đông minh của nhau đến cứu, vừa diệt được đạo. Nhưng sự thật là Nhật không tới, viên Tiểu Đoàn nầy sau đó đã được lịnh đổi đi và bàn giao cho Thiếu Tá Rouband. Thiêng liêng xui khiến cho viên Tiểu Đoàn nọ bàn giao nhưng lại quên không ghi cái nhiệm vụ về quả mìn ấy trong biên bản giao cho Rouband, nên sau này rút đi ông ta cũng không có đá động gì tới quả mìn.

Tất cả bị câu lưu trong trại giam, mãi đến ngày mùng 9 tháng 10 năm Giáp Thân (1944) chúng mới cho Ngài ra ngoài lao động, còn mấy người kia vẫn bị giam.
Ngài mới tìm cách kiếm tiền mua đồ, chiếu, mền gởi vào tù nuôi mấy người còn bị giam. Trong khoảng thời gian bị tù đày Đức Hộ Pháp được quyền năng thiêng liêng che chở khiến bao tai nạn đều qua khỏi.

Một lần xe hơi chở Ngài cùng mấy chục người tù qua một cây cầu bắt ngang sông. Cầu gãy, xe rớt theo thế mà bao nhiêu người cùng rơi theo không ai bị hề hấn gì cả.
Một lần khác cũng xe chở tù, trong đó có Ngài. Xe đang leo lên dốc núi thì bị thụt lùi lăn từ trên cao xuống. May sao chỉ có một gốc cây bên bờ vực thẳm thôi mà có thể ngăn được sức xe đang tuột dốc với tốc độ cao. Tất cả mọi người đều hú hồn hú vía, khi hoàn hồn lại thì ai cũng nhìn Ngài nói rằng:
 “Chúng ta thoát chết đều là nhờ ông lão nầy.”

Nhờ vậy mà họ càng ngày càng có cảm tình với Ngài hơn.
Khi được chúng cho ra ngoài lao động, Ngài để ý thấy dân chúng địa phương thích đeo bông tai, kiềng vàng, cà rá, bèn nghĩ rằng mình nên học nghề thợ bạc đặng tạo ra tiền. Vậy là sau vài tháng Ngài đã trở thành ông thợ bạc bất đắc dĩ. Ngài làm ra những món đồ trang sức trông đẹp mắt hơn đồ địa phương, lại có nhiều kiểu lạ mắt nên bán đắc. Làm ăn tiến triển, Ngài mướn thêm thợ ở địa phương cộng tác thành một tiệm vàng lớn.

Kiếm được chút đĩnh, Ngài gởi vào nuôi mấy người trong tù, giúp họ có cuộc sống đỡ vất vả, cũng như là một sự an ủi động viên giúp họ ấm lòng hơn. Người dân bản xứ họ chất phát nghèo nàn, cũng bởi vì bọn Pháp muốn dễ trị nên chẳng mở mang kiến thức, để cho người dân sống trong cảnh cơ cực. Đến đỗi chẳng biết cày đất trồng lúa ăn nữa, toàn là lùa trâu bò quần cho cỏ rạp xuống rồi vạch đất mà cấy thôi, chứ chẳng biết cày bừa chi hết.

Ngài mới đẽo một cái cày và một cái bừa, kêu nông dân dẫn bò lại cho Ngài cày thử. Ngài làm cái ách, cột cây rồi bắt người dẫn bò. Ban đầu thì đường cày công queo, cày một buổi thấy đất lật lên quá chừng, người dân mừng rỡ. Họ thắc mắc đất cục nào cục nấy bự quá làm sao cho nhỏ lại mà cấy. Ngài mới tháo cày ra, gắn bừa vào, rồi biểu dẫn bò y vậy nữa.
Họ vỗ tay mừng rỡ. Từ đó kiểu cày và bừa được dân địa phương phổ biến, trước gần sau xa, cả vùng làm ruộng trúng mùa. Họ tôn trọng Ngài lắm.

Có lúa rồi mà họ vọt lúa như người Miên lấy chày vọt lúa cho ra gạo, ngày nào ăn vọt đủ ngày nấy. Thấy vậy Ngài mới biểu ông Ngọc Trọng, lúc nầy đã được thả ra tù rồi, đóng một cái cối xay. Ban đầu vì không chuyên môn nên lúa sống và cối nhảy cà tưng khó xay. Sau Ngài làm răng lại cho xuôi rồi gạo ra đều, vỏ lúa tróc theo ý muốn. Còn chỉ cách vần quạt gió để lấy gạo trắng, thôi trấu ra. Ngài cũng làm kiểu mẫu cái sàng để cho họ bắt chước. Kiểu cối xay được dân địa phương phổ biến khắp nơi. Ngài còn đục một cái cối và chày giã gạo để làm mẫu nữa, dạy cách vocơm, nấu nướng theo kiểu ở Việt Nam mình.

Có được cái ăn, Ngài còn chỉ dẫn cho họ tạo nên cái ở nữa. Ngài đi dạo thấy dân chúng cất nhà bằng tranh hoặc lá, không có gạch gói gì cả. Ngài mới nghĩ phải xây một cái lò gạch. Ngài biểu dân chúng chỉ chỗ có đất sét, Ngài đem về làm một  lò nhỏ thử đun lửa. Vài hôm sau Ngài thấy gạch rất tốt nên Ngài quyết định xây một miệng lò lớn, rồi chỉ cách in gạch ngói mà hầm.

Ban đầu lò bị nứt, hơi không đều nên chỗ sống, chỗ chín. Sau Ngài biểu lấy bùn non tô mấy chổ nứt thì gạch có chổ nóng quá phải bị da lu tức là thành sành. Rồi Ngài mới làm lỗ hơi cho điều hòa, gạch ra lò mới đạt được theo ý muốn.

Người Pháp ở đây muốn cất nhà phải mua gạch chỗ khác chở bằng tàu đến đảo thì giá mắc gấp đôi. Lò gạch của Ngài bán giá rẻ, lời quá chừng. Ngài còn biểu dân bản xứ coi theo đó mà xây lò, in gạch, in ngói, học chụm lò mà phát triển tự làm giàu, chứ Ngài không giữ độc quyền.

Rồi Đức Hộ Pháp còn chỉ họ làm vôi nữa. Đức Hộ Pháp đi theo kẹt núi lượm nhiều hòn đá về rồi bỏ vào lửa thử nghiệm, cục nào biến thành vôi thì Ngài trở lại chổ của nó mà tìm.
Đức Hộ Pháp xây một lò vôi nhỏ, mỗi ngày sản xuất lối 2 tấn, sau có vốn xây nhiều lò với sự cộng tác của dân địa phương. Thành công rồi thì Đức Hộ Pháp cho phép ai cũng làm được, chỉ dẫn tận tình cách xây lò, đun vôi. Dân chúng có thêm nhiều công ăn việc làm, đời sống khá giả hơn chút.

Có gạch, có vôi rồi, còn thiếu xi măng (ciment), Đức Hộ Pháp mới đi nghiên cứu đất, đào sâu tìm được đúng đất rồi Ngài mua một cái moteur kéo máy xay xi măng bột. Sau khi làm thành công Đức Hộ Pháp cũng chỉ dẫn lại cho dân chúng biết cách làm xi măng mà xây nhà.
Rồi còn làm thầu khoán đất nữa. Ban đầu lãnh nhà tư làm, sau Đức Hộ Pháp lãnh cất dinh thự của chánh quyền Pháp trên đảo. Uy tín của Đức Ngài một tăng lên, chẳng những dân chúng thương mà chánh quyền Pháp cũng tín nhiệm. Thích đến độ họa đồ nào mà không mang chữ ký của ông Phạm Công Tắc thì không được Công Chánh chấp thuận cho phép.

Lúc làm thầu xây cất, Ngài có lãnh xây cất một hàng rào của một Đại Sứ Mỹ nơi đảo. Ngài vẽ họa đồ rất đẹp, xây dựng chắc lắm, làm họ rất vừa ý. Ngày khánh thành hàng rào, Đại Sứ muốn tạ ơn Ngài bằng một tiệc có sự tham dự của tất cả các Đại Sử Quán ngoại quốc các nước. Ông dặn Ngài đến sau vài phút để làm danh dự cho Ngài.

Ngài được đưa đến buổi tiệc bằng trực thăng, có đến mấy mươi chiếc không biết từ đâu tới. Mỗi chiếc là của mỗi vị đại sứ của một nước. Ngài bước vào có trốngkèn chào mừng. Tất cả đều bắt tay chào vị “Giáo Hoàng bị đày”.

Nhờ sự giới thiệu của Đại Sứ Mỹ, đến giữa tiệc mấy ông Đại Sự mới yêu cầu Ngài thuyết đạo, nói cho họ biết coi mục đích của Cao Đài giáo là gì. Lúc đó nhờ quyền năng thiêng liêng mà Ngài nói thao thao. Mấy ông Đại Sứ tán thán quá chừng. Ngài thuyết bằng Pháp Ngữ. Sau đó ông Đại Sứ Mỹ đem một bản văn đánh máy sẵn nhờ đại diện các quốc gia ký vào. Đó là họ nhận bảo vệ Đền Thánh Tây Ninh dầu quốc gia nào cũng không được quyền chiếm đóng và quấy phá đến Đền Thờ của Thượng Đế. Do đó mà sau nầy ông Ngô Đình Diệm khủng bố đạo, Ngài nói với mấy vị thân tín:
“Coi vậy nó không làm hại Tòa Thánh đâu các con coi, vì luật quốc tế nó đãbiết, nó không dám phạm, các con đừng lo.”

Ngoài ra Ngài còn giúp đỡ dân địa phương xây đập nước nữa. Vì Ngài thấy dân chúng lấy nước rất vất vả, phải lấy nguồn từ xa nhà đội về. Nên Ngài lên núi tìm hồ chứa đặng làm một cái đập dẫn thủy nhập điền. Ngài có thấy một công trình dang dở, hỏi ra thì được biết rằng công trình đã được kỹ sư Pháp, kỹ sư Đức thực hiện nhưng đều thất bại vì sức nước mạnh quá làm vở hết, nhiều lần cất đập không được.

Ngài quan sát thấy nếu cất một hồ thì không thể chịu nổi vì sức nước đổ từ thác rất mạnh. Ngài đề nghị cất 4 cái hồ: một tắm cho trẻ em, một cho đàn bà, một cho đàn ông, và một hồ chứa rồi mới làm đập cản nước. Nhờ vậy mà sức nước yếu đi không làm bể đập.
Vật liệu cũ vẫn còn, chỉ thiếu hơn 1000 mét ống cống. Ông Toàn Quyền ban đầu từ chối công trình vì lúc ấy chánh quốc không ủng hộ tài chính, trên đảo không đủ công quỹ tạo tác. Ngài mới nói:
“Tôi xuất của tư tôi ra, cộng với tiền các mạnh thường quân địa phương có thiện ý sẽ làm được.”

Sau đó ông Toàn Quyền đồng ý, Ngài khởi xây cất ống cống rồi xây 3 cái hồ tắm, còn một hồ chứa lớn để chưa phần lớn nước. Công thợ đào dài theo họa đồ đã vẽ sẵn. Khi khánh thành, dân chúng tề tựu tại đập nước rất đông, có chính phủ Pháp tham dự nữa. Quần chúng đứng dài theo đường mà ống đi qua. Phần đông tụ tập ở miệng nước chảy ra. Khi mở vòi nước chảy ào ào ra, dân chúng vui mừng mà tung hô lên rằng:
“Vive monsieur Tắc!”
Nghĩa là “Vạn tuế ông Tắc”.

Ngài cũng lấy làm hạnh phúc.
Rồi Ngài còn cho xây trường học dạy tiếng địa phương và tiếng Pháp gần những cơ sở sản xuất của Ngài như lò gạch, lò vôi,… Trường dạy từ cấp độ Enfantin đến Élementaire, thời bấy giờ bắt đầu học từ lớp 5 đến lớp 3 rồi đến lớp nhất gọi là supercus. Bọn Pháp muốn để cho dân ngu dốt mà dễ trị, để cho dân đói nghèo thì mới phụ thuộc vào chúng. Khi bước chân lên đảo nhìn thấy dân chúng địa phương làm Ngài liên tưởng đến đồng bào của mình ở quê nhà, cũng đang chịu chung trong tình cảnh bị đô hộ. Ngài luôn xem họ như đồng chủng, khai hóa mở mang tri thức cho họ, vì dẫu sao họ cũng đồng là con cái của Chí Tôn cần được giúp đỡ. Người dân nơi nầy cũng xem Ngài như một đấng cha lành.
Có một đạo sĩ địa phương học với một sư phụ về phép tu hành, nhưng sư phụ nói:
“Nhà ngươi chờ có một vị Phật đến sẽ truyền Pháp cho nhà ngươi đoạt Pháp, chớ ta chỉ dẫn đến đây thôi.”

Đạo sĩ là một tư chức tốt nghiệp cử nhân luật.
Một hôm Ngài đi dạo không hiểu sao đi tới đi lui trước nhà đạo sĩ nầy 3 bận.
Đạo sĩ ra chào và mời vào nhà, rồi quì xuống xin truyền Pháp. Ngài hẹn 3 hôm nữa sẽ trở lại. Ngài xuất Chơn Thần về Ngọc Hư Cung xin phép Chí Tôn và Đức Lý thì được chấp thuận. Đúng hẹn, Ngài trở lại nhà đạo sĩ ấy và cân Thần, mở huyền quan khiếu để vị đạo sĩ nầy đoạt đạo, vân du thiên ngoại. Vị đạo sĩ nầy bái phục Ngài lắm, tự xưng là đệ tử và kiếu Ngài là Thầy.

Ngoài ra Ngài còn thâu nhận được thêm một đệ tử tri thức nữa. Đó là một du học sinh bên Pháp, năm thứ hai trường đại học Luật Khoa. Cô ta ngủ thấy một vị Thần mách bảo:
“Phật ở xứ không thờ lại đi tìm đâu xa mà lập thân.”

Sau đó cô ta bỏ học về quê nhà, cũng bị ba mẹ, anh em trích điểm lắm. Cô không cải, nhưng cứ đi tìm Phật. Dường như có căn nguyên nên khiến cô gặp được Ngài và thọ giáo làm môn đệ Cao Đài đầu tiên ở xứ đảo nầy. Nhờ vậy mà ông thầu khoán bất đắc dĩ lại có một người giúp việc đắc lực.

Trên đảo nầy cũng có nhiều quân nhân người Việt, phần nhiều là người Trung phần, Bắc phần, còn người Nam thì chỉ có 13 người. Bửa nọ một người Trung Kỳ mới nói:
“Ê tụi Sài Gòn bây có quen với ông già chống gậy đằng kia không? Ổng cũng người Nam phần, đâu lại coi có nhìn bà con không?”

Tám Quận mới lại gặp, rồi Ngài hỏi thăm:
“Em ở đâu? Đi lính hồi nào? Do Pháp bắt hay tình nguyện?”
Tám Quận nói:
“Tôi là tín đồ Cao Đài vâng lịnh Đức Giáo Chủ tình nguyện đi đánh Đức.”
Ngài hỏi:
“Cao Đài nào?”
Tám Quận:
“Cao Đài Tây Ninh.”
Ngài hỏi:
“Tây Ninh thiệt không?”
Tám Quận trả lời:
“Dạ thật.”
Ngài hỏi:
“Con biết Đức Giáo Chủ không?”
Tám Quận trả lời:
“Dạ con mới nhập môn nên không biết mặt.”
Ngài ôm anh mà nói rằng:
“Thầy đây con.”
Rồi òa khóc. Ngài hỏi tiếp:
“Con đi mấy đứa? Kêu chúng nó lại cho Thầy thăm.”

Tám Quận mừng quá chạy về trại lính cho anh em hay lại chào Thầy.
Có 4 người gặp trước là Quí, Tám Quận, Chín Tháo, và Mười Phụ. Thấy dáng Đức Hộ Pháp thì Tháo và Phụ chạy riết lại không chào hỏi gì hết mà mỗi người ôm một giò nhấc bổng Ngài lên cao, muốn kêu lớn mà không ra tiếng. Cảnh quấn quít thầy trò tương ngộ đậm đà trong yên lặng.

Mừng nhau hồi lâu rồi Ngài hỏi:
“Con kêu hết mấy đứa khác cho Thầy thăm, còn bao nhiêu nữa?”
Tám Quận trả lời:
“Chúng con có 13 đứa Cao Đài.”
Đức Hộ Pháp hối kêu lại, mừng lắm. 13 người đó là:
1 . Chánh Trị Sự Tháo
2 . Thôi
3 . Phu
4 . Dương
5 . Quận
6 . Ái
7 . Lăng
8 . Lễ
9 . Hoài
10 . Lợi
11 . Lên
12 . Thông Sự Én
13 . Lân.

Ngài dẫn anh em đến nhà, giới thiệu với bà Đầm chủ nhà, vợ ông quan tưDesange Thiếu Tá có nhiệm vụ đưa Ngài về Việt Nam. Bà cũng mừng. Tất cả mọi người cùng tổ chức bữa tiệc ăn mừng.

Một hôm nọ, đài phát thanh tuyên bố: Nhựt Bổn đảo chánh Pháp tại Việt Nam, Cao Đài được tự do hành đạo. Rồi sau đó Pháp phải trả Ngài cùng các chức sắc về Việt Nam. Ngài từ giả chánh quyền Pháp, người dân ở địa phương. Họ đưa Ngài ra xe về mà lệ đổ chứa chan vì cảm tình sâu đậm. Tại nhà ga, hết người nầy vẫy tay tới người khác hun mặt, hun tay, hun chân, kẻ liệng nón, người cởi áo quăng lên xe lửa để tỏ tình triều mến. Tiếng còi reo hối thúc 3 lần mà dân chúng chưa chịu buông Ngài ra. Cảnh sát phải đến can thiệp mới giải tỏa được. Tàu lăn bánh, tiếng hô vang:
“Vive Monsieur Tắc, Vive Monsieur Tắc!”

Văng vẳng rồi nhỏ dần…
Xe lửa đưa Ngài đến Post Tamatave, Ngài gặp lại 13 chiến sĩ hôm nọ cùng về một chuyến tàu Ile de France. Về đến Vũng Tàu, ông Thiếu Tá Déjanges có nhiệm vụ đưa Ngài về, nói:
“Giá trị của ông Tắc có thể định bằng số vàng mà thân hình ông cân được.”

Ngài về đến Tòa Thánh vào ngày mùng 4 tháng 8 năm Bính Tuất (1946) trong sự tiếp rước long trọng của chức sắc và toàn đạo.
Sau đó, một hôm Ngài có đọc báo ngoại quốc, thấy những nhà cách mạng ở bên hải đảo bị chánh phủ Pháp xử tử hình. Ngài viết thơ chính thức can thiệp với Tổng Thống Pháp yêu cần khoan hồng cho họ. Nhờ vậy họ được giảm án tử hình còn chung thân khổ sai mà thôi, nhưng nếu như có một sự thay đổi chế độ họ có thể được tự do dễ dàng. Đó là tình cảm của Ngài đối với người dân nơi ấy.
Về sau có thơ:
“Mến ông thợ bạc gốc thầy tu,
Nuôi cả môn sanh bị nhốt tù.
Đẽo mẫu cày bừa thâu lắm thóc,
Xây lò vôi gạch hốt nhiều xu.
Dắt dìu kẻ khó thành vương khải,
Dẫn độ người lành ngự Ngọc Hư.
Thấy tớ gặp nhau trên đảo vắng,
Pháo đâu đì đạch dưới chân cù.”

Sĩ Tải Đổ Quang Hiển bỏ xác tại hải đảo cũng có về cơ xưng là Thánh Phi Châu, có bài thi như sau:
“Cuộc đời còn lắm nỗi gay go,
Các Đấng ghe phen đã dặn dò.
Hành Đạo Cao Đài cho phải đạo,
Học trò Xiển Giáo đáng danh trò.
Lợi quyền chớp nhoáng đừng mơ mộng,
Đạo đức trường tồn gắng chí lo.
Một kiếp phù sanh không mấy lát,
Thật hành cho vẹn Thích, Tiên, Nho.”

Về chuyện quả mìn năm nào mà bọn Pháp chôn dưới Hiệp Thiên Đài, vào tết năm Bính Thân (1950), Ba Tất (Lê Văn Tất) đọc tin nầy trên báo Pháp rồi trình lên Đức Hộ Pháp hay. Ngài chỉ cười rồi nói:
“Nếu không có ai câu điện mà giựt thì nó sẽ không nổ, để lâu ngày rồi cũng sét và trở thành đất mà thôi.”
Thế mới hay, tòa Bạch Ngọc Kinh tại thế, là nơi Chí Tôn ngự lẽ nào lại bị mưu đồ của phàm tâm mà hủy hoại được sao?
Trong thời gian bị lưu đày trên hải đảo, cũng có khi Đức Hộ Pháp và Sĩ Tải Hiển phò loan cầu cơ, cũng có khi Ngài với Khai Pháp Nghĩa, cũng có các Đấng về chuyện trò an ủi. Như các bài cơ sau:

            - TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ
Lược chiến từng quen đã bấy lâu,
Thiên cơ đã rõ máy cao sau.
Dằn lòng nhẫn nại chờ đôi lúc,
Sẽ thấy khuôn linh phép nhiệm mầu.
Chào Thiên Tôn và chư vị Đại Thiên Phong, có Đức Nhàn-Âm Đạo đến để bần tăng đi triệu Thần Hoàng Bổn Cảnh đến giữ cơ.

            - NHÀN-ÂM ĐẠO-SĨ
Cười, bần tăng lấy làm cảm xúc cho chư vị dường nầy, hận giống dã man tàn ác.
Đương nhiên Trung Huê chia làm Tam Quốc, Trung Quân tức là Nam Kinh đó vậy, nơi ấy cả hang ổ Việt kiều, thời cuộc Á Đông sẽ kết cuộc do nơi đó.
Quá hải đôi phen đến viếng nhau,
Ngặt không cơ bút để lời giao.
An nhàn đôi thuở triều linh địa,
Chuyển thế gặp hồi phải múa đao.
Cỏi Á đã gầy thành chúng quốc.
Phương Âu kẻ diệt tận nô lao.
Lửa hương đất Việt dầu nhen nhúm,
Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu.”

“Nô lao” mà Đức Nhàn Âm nhắc đến trong bài thi trên ý nói đến hòn đảo mà Đức Hộ Pháp đang bị chúng giam giữ, tên là “Nosi Lava”.
Sau đó cũng có một vị đến giáng cơ nhưng muốn giấu tên, nói như vầy:

            - NẶC DANH
Chào Thiên Tôn, chào chư vị Đại Thiên Phong.
Trong cảnh buồn nầy, có người quen đến viếng thường cũng nên cho là hậu tình đó chứ.”
Đức Hộ Pháp mới nói:
“Xin cho biết tên.”

Người đó nói:
“Chẳng cần biết tên mà làm gì, thà để gần gủi nhau hay hơn. Vậy trước khi từ bút, thiếp xin để lại một bài thi làm của.
Nôsi Lao tiếng đặt buồn cười!
Mi đã rước ai hỏi hỡi ngươi.
Lượng thảm bủa gành tình ột ạt,
Gió sầu xô đảnh ái tơi bời.
‘Yêu phu điều’ gọi thương cành sớm,
Giọng Ngạn Uyên khêu nhớ buổi mơi.
Tổ quốc đon đường bao dặm thẳng?
Thưa! Xa thăm thẳm một phương trời."
* Thăng.

“Nôsi Lao” là tác giả đang nói tới tên hòn đảo mà Đức Hộ Pháp đang bị bọn chúng giam giữ. Tiếng Pháp là Novi Lava, nếu đọc qua tiếng Việt thì Nô nghĩa là nô lệ, Lao là lao tù, cái tên chỗ Ngài đang bị giam nó mới có nghĩa mĩa mai làm sao đâu! Ấy thế mà nó lại rước một vị Phật, có biết chăng?

“Yêu Phù Điểu” là sáng sớm có con chim tiếng địa phương kêu nó là “Yêu Phù Điểu”, nó kêu nghe tiếng giống như là “trả chí chàng, trả chí chàng”. Còn buổi sớm mai thì có con quốc nó gọi hồn ước của kẻ yêu giang san nhưng bị thất vận.

Ngạn Uyên hay Đỗ Vũ có tích là ông vua Thục Đế thất quốc, do quá buồn rầu nên chết hóa thành con chim Quốc. Đức Hộ Pháp có ý muốn biết Tổ Quốc chừng nào mới được thanh bình thì vị ấy mới thưa còn xa thăm thẳm. Cũng bởi vì nghiệt oan của dân tộc quá nhiều, phải trả cho hết rồi mới được hưởng thái bình.

            - TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ
Từ ngày chư vị mông trần nơi đây, bần tăng lấy nơi nầy làm căn cứ đặng dễ bề gần gũi. Bần tăng may duyên gặp đặng Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gabron nơi Cung Lập Khuyết, người có hứa đến hội hiệp cùng chư vị, nhưng mắc bận việc nên chẳng định ngày, đợi đôi tháng nữa bần tăng sẽ đi rước.
            * Thăng.

            - NẶC DANH
Chào Thiên Tôn và chư vị Đại Thiên Phong.
Thiếp vì có mạng lịnh đến đây làm bạn bút nghiên trong lúc chư vị đặng mạng lịnh Chí Tôn cho ngồi nghỉ nơi đây.

Chí Tôn than rằng: Chức sắc Thiên phong bên Cửu Trùng Đài thiếu hùng biện văn tài đặng làm tay qui phục sanh chúng, vì cớ ấy mà triết lý đạo khó phổ thông cho toàn thiên hạ. Nhưng Chí Tôn nhứt định trao chơn truyền cho mấy vị nầy mà thôi.
Thiếp xin trích thi văn đặng dìu bước chư vị Thiên phong vào khuôn viên đoạt thành khẩu khí, rồi lần lượt dẫn vào luật tân của Ngô Thường Quân là cháu hai đời của Ngôn Tôn Sách sau cầu phong lên làm Phong Hầu, nên gọi là Tân Luật.

Tái cầu:
Chào Thiên Tôn và chư vị Đại Thiên Phong.
Vì có mạng lịnh nên thiếp xin phép cho thiếp thổ lộ đôi điều. Khi Thầy Thiếp là Vương Thất Nương về chầu và dâng sớ cho Đức Chí Tôn tỏ nổi sự khổ hạnh nhọc nhằn của chư vị nơi đây Đức Chí Tôn lấy làm đau đớn thương tâm, nhứt định chính mình người đến nơi an ủi. Nhưng Lý Giáo Tông can gián, e rằng nhẹ Thiên nhan, để cho Người cam lãnh phận sự ấy.
Người mới cử kim hài xuống âm quang nhủ giáo Thầy thiếp giúp sức. May thay nhờ chư vị thương yêu triều mến, Thầy thiếp nay dạy thiếp đến làm bạn bút nghiên hầu liệu phương an ủi, nên thiếp dạy thi văn, còn về mặt thuyết minh thì để cho Thiên Tôn huấn luyện.

THI
Đã phong trần thế chịu phong trần,
Có thân âu phải biết thương thân.
Nam xa ví chẳng về đường khó,
Việt đảnh mong chi đoạt lửa mừng.
Nặng gánh giang san là thượng trụ,
Nhẹ đai cung kiếm ấy thường quân.
Ngũ hồ tứ hải không lưu lạc,
Mặt địa cầu ta vốn định chừng.

Nam Xa: Tích là Ngô Sĩ Liên đi sứ bên Tàu, nhơn Châu Công cho một cỗ xe có để địa bàn chỉ nam, nương theo đó mà về nước. Ôi! Đường đi qua núi, xuống đèo trăm bề khó nhọc, nhờ vậy mà biết con đường bộ từ Nam chí Tàu mới hành binh đuổi quân Tàu về nước. Sau lấy đặng Hoàng Triều, lập nên Quốc Pháp, nên thi sĩ đời sau cho Nam xa là việc tối khinh mà tối báu.
Việt Đảnh: Là lư đảnh để thờ Hoàng Tộc, ai thâu đặng bá tánh thì bá tánh là con của Hoàng Tộc sau lập Tổ Miếu mà thờ, gọi là “Lư Hương Đảnh Việt”.
THI
Hòn đảo nầy đây trước nhốt tù,
Mà nay làm khám khảo thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thù lũ Tây man Nhựt Bổn trừ.
Tiếp sau có 2 câu nho thích nôm:
Vân trọc đằng phong phi yểu yểu,
Triều tư tẩu bá khứ bôn bôn.

                                   Thích nôm:
Cuồn cuộn mây đưa theo ngọn gió,
Ồn ào sóng rượt chụp khuôn thuyền.
                                                                            * Thăng.”

Tuy vị giáng cơ nầy giấu tên nhưng Đức Hộ Pháp cũng biết được. Đó là Linh Sơn Thánh Mẫu, vâng lịnh Thất Nương Diêu Trì Cung đến chuyện vảng an ủi Ngài cùng chư vị. Ngài biết là vì chiếc nhẫn nạm ngọc trên tay Ngài phát hào quang khi bà thăng. Hạt ngọc nầy của ông Lễ Sanh Võ Văn Đợi tìm được đá ở núi Bà, rồi đem cho thợ bạc mài thành xong đem biếu cho Ngài.

Ông Đợi theo Ngài học tu tịnh, chứng ngộ biết trước được nhiều việc nên Ngài đổi tên ông Đợi ra Võ Linh Đoán và cho trụ trì ở Vạn Pháp Cung để rước các thầy tu ở núi lỡ vận. Về sau biến cố ở núi, Điện tiêu tàn, một nhóm chức sắc xin Đức Ngài cho rước cốt Bà Đen về thờ tại Báo Ân Từ, được Ngài để lời phê:
“Từ cho Quyền Ngọc Chánh Phối Sư cùng 2 vị Quyền Thượng Chánh Phối Sư, Thái Chánh Phối Sư sắp đặt trước đặng trước cốt của bà Linh Sơn Thánh Mẫu về để thờ tạm nơi Báo Ân Từ cho tới khi thái bình trở lại, trùng tu am tự nơi Điện Bà rồi sẽ đem về Điện trả lại.
Nghĩ đến tình cũ trong hồi lao khổ tù đày nơi ngục mà bà đến thăm viếng, an ủi, bênh vực, và phò hộ, bần đạo phải lo trả nghĩa này.
Công chuyện làm cùng lễ nghi phải cho long trọng phải tuyên truyền cho toàn tỉnh nhứt là Châu Thành Tây Ninh hay định ngày họ đến dự lễ.”
Sau nầy trong một bài thuyết đạo, Đức Hộ Pháp gọi chuyến lưu đày nầy là cuộc “trấn Thánh Phi Châu”.

HỘ PHÁP TÁI THỦ QUYỀN HÀNH

Hồi còn bị lưu đày trên hải đảo, một hôm Đức Hộ Pháp nói với ông Khai Pháp
Nghĩa là:
“Anh hãy thu xếp đồ đạt đi, mình sắp về rồi đó.”
Ông Khai Pháp không tin mới nói mỉa mai:
“Nữa, tiên tri nữa rồi.”
Ông Khai Pháp chẳng có chút gì lấy làm tin. Ba ngày sau đúng như lời Ngài nói, chúng trả tự do và đưa Đức Hộ Pháp cùng mấy ông trở về. Lúc đó ông Khai Pháp mới giựt mình sợ hãi, đến lạy Ngài để xin lỗi.
Sau nầy khi về Tòa Thánh rồi một hôm nọ Đức Hộ Pháp lập đàn, có chức sắc Thiên phong dự chứng, Đức Hộ Pháp cầm cây Kim Tiên đưa ra bên trên trước mặt Khai Pháp Nghĩa, ông Khai Pháp thì đang quì dưới chân Ngài. Đức Hộ Pháp nói:
“Này Pièrre, ngày trước ngươi đã chối ta 3 lần, lần này ta tha cho đó.”

Sau khi người Pháp trở lại Đông Dương vào tháng 8 năm Ất Dậu (1945), tình hình Việt Nam lúc bấy giờ thật rối ren, đảng phái nổi dậy nhiều nơi. Người Pháp muốn nắm lấy một vài đoàn thể có tổ chức chặt chẽ, đủ mạnh khả dĩ đương đầu với tình thế lúc bấy giờ. Ở Việt Nam, ngày mùng 8 tháng 4 năm Bính Tuất (1946) các cơ sở đạo tại Sài Gòn bị chính phủ Pháp phong tỏa và bắt giam các người lãnh đạo.

Họ hăm dọa đánh khảo và sau cùng yêu cầu hiệp tác. Sau 22 ngày bị bắt, bị đánh đập và sau 3 ngày hội đàm, ông Trần Quang Vinh và Ménage ký thỏa ước vào ngày 9 tháng 6 năm 1946, đại ý là:
- Đối với Pháp: Quân đội Cao Đài ngưng chiến đấu và giải tán tất cả bộ đội lưu động kháng chiến.
- Đối với Đạo: Quân Pháp ngưng các cuộc khủng bố, không bắt giam tín đồ, bảo đảm quyền tự do hành đạo và truyến giáo. Mở cửa Tòa Thánh và các Thánh Thất, được tự do tế tự trong phạm vi tôn giáo.
Trao trả Đức Hộ Pháp và chư vị Thiên phong về cố quốc, phục hồi các quyền công dân cho chư vị đó.
Vì các điều khoản đó mà chính phủ Pháp mới trả tự do cho Đức Hộ Pháp.
Khởi đầu Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, tức là ông Trần Quang Vinh đến gặp Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ Cédile và Đổng Lý Văn Phòng Frémolle bàn tính việc rước Đức Hộ Pháp bằng máy bay để tỏ lòng kính trọng đối với vị lãnh đạo một tôn giáo lớn. Rồi ngày 20 tháng 8 năm 1946, nhà cầm quyền báo cho đạo hay Đức Hộ Pháp về trên chuyến tàu Ile de France cập bến Vũng Tàu. Giáo Sư Vinh mới vội ra châu  tri cho toàn đạo hay đặng chuẩn bị đón rước. Nhưng sau đó được tin mới là Đức Hộ Pháp không về trên chuyến tàu đó, mà cũng chưa rõ ngày nào về. Pháp còn cho tuyên truyền rằng Pháp không biết bao giờ thả Đức Ngài. Vì chúng sợ dân đạo tụ tập đông đảo mất an ninh.
Đến chiều ngày 21 tháng 8 năm 1946, được tin Ngài về trên chuyến tàu Ile de France đó và đã cập bến Vũng Tàu, thời đó có tên gọi là Cap Saint Jacques. Nhà cầm quyền chuẩn bị đi rước Ngài về Sài Gòn bằng máy bay.
Ngày 22 tháng 8, 1946 tại Tân Sơn Nhứt, phi cơ cất cánh khởi hành đi rước, phái đoàn gồm Giáo Sư Vinh, ông Frémolle, Đổng Lý Văn Phòng của ông Cédile, Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ, ông Bazin, Sĩ quan Cò mật thám. Khi đến nơi, phi cơ bay lượn 3 vòng phía trên chiếc tàu Ile de France rồi mới đáp xuống phi trường. Nơi đó đã có quan chủ tỉnh Cap Saint Jacques, M. Ropion chờ tiếp đón. Cả thảy lên xe xuống bến tàu. Khi gặp mặt Đức Hộ Pháp ai nấy đều mừng rỡ. Riêng ông Frémolle thì ôm Ngài tỏ tình tri ngộ, vì đã quen biết Ngài trên hải đảo. Kế đến là quan tư Pháp Désanges và phu nhân, người có phận sự đưa Ngài về.

Ông chánh chủ tỉnh M. Ropion rước Ngài và phái đoàn về tư dinh đãi buổi cơm trưa. Sau đó ông Giáo Sư Vinh mới thuật lại những diễn biến của nền Đạo khi Ngài vắng nhà. Nào là Tòa Thánh bị chiếm, chức sắc phải hành đạo ở Kim Biên, rồi hiệp tác với Nhựt, Nội Ứng Nghĩa Binh, lập Cao Đài Tham Mưu Quân Sự Vụ, hiệp tác với Mặt Trận Việt Minh, sau rốt là thỏa ước ngày 9 tháng 6, 1946. Riêng cái thỏa ước làm Ngài trầm ngâm khá lâu rồi nói:
“Luật công bình thiêng liêng của Tạo Hóa dầu muốn dầu không cũng không thể sửa cãi đặng, còn thiếu 2 năm 10 tháng mới may ra giải khổ ách cho dân tộc Việt Nam dứt đặng…”

Ý Ngài muốn nói hoàn cảnh thúc bách đã tạo ra quân đội, nhưng cũng là cái nạn Ngài phải lưu vong sau nầy, nhận thay cái khổ cho nhân sanh. Ngài đã rành mọi lẽ nhưng không thể cãi luật Thiên điều đặng.
Tín đồ khắp nơi đến tấp nập thăm Ngài. Ngài giang tay tiếp từng người để tỏ lòng triều mến. Ngài ngùi ngùi kể lại những năm dài lao khổ nơi hải ngoại, mà các Đấng lúc nào cũng giáng cơ an ủi.
Ngày 30 tháng 8, 1946 toàn đạo và chánh phủ làm lễ rước Đức Hộ Pháp về Tòa Thánh. Đoàn xe gồm 5 chiếc của đạo và 7 chiếc của Pháp, nhưng chỉ có 5 chiếc của đạo mới đưa về tới Tây Ninh.
Khi gần tới Tây Ninh thì có chủ tỉnh Tây Ninh ra nghinh tiếp và vào dinh tỉnh trưởng đàm luận. Sau đó đoàn xe tiếp tục về Tòa Thánh đúng Ngọ thời. Chức sắc Hiệp Thiên và Cửu Trùng cùng toàn đạo nam nữ xếp hàng dày đặc hai bên đường nghênh tiếp Đức Hộ Pháp.
Xe ngừng, Ngài bước xuống bước vào Đền Thánh, Ngài quá cảm động khi đối diện người xưa cảnh cũ đến nỗi không ngăn được dòng lệ. Các chức sắc thấy thế cũng cảm động khóc theo. Tiếng Đại Hồng Chung đổ hồi mừng người xưa trở lại.
Người người trật tự đi sau lưng Ngài bước vào bửu điện đảnh lễ Chí Tôn. Sau đó Ngài qua Giáo Tông Đường làm lễ Đức Quyền Giáo Tông, rồi xuống phòng khách dự chứng cuộc tiếp nghinh. Ông Bảo Thế Lê Thiện Phước đại diện cho Hiệp Thiên Đài, Giáo Sư Vinh đại diện cho Cửu Trùng Đài, và một sĩ quan Pháp đại diện cho chính phủ bảo hộ, mỗi người đọc một bài diễn văn để chúc mừng. Sau cùng Ngài đáp từ và tuyên bố về chủ trương của Đạo Cao Đài.
Ông Thượng Sanh Cao Hoài Sang cũng có đến thăm Đức Hộ Pháp, và có cảm tác một bài thơ như vầy:
“Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp bạn này khi khóc lộn cười.
Nguồn đạo xưa trong đôi cảnh nghịch,
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.”

Đức Hộ Pháp có họa vận lại bài thơ của ông Thượng Sanh như sau:
“Sắc son nhuộm tánh đậm màu tươi,
Hay dỡ khen chê để miệng người.
Đày đọa xét thân không hổ thẹn,
Sang vinh nghĩ phận quá buồn cười.
Vó ký từng trải đường nguy hiểm,
Cánh hạc quen chìu gió ngược xuôi.
Ước trả mảy may ơn xã tắc,
Nợ muôn đền một kể chi lời.”

Ông Tiếp Đạo Cao Đức Trọng, là anh của ông Thượng Sanh cũng có làm một bài họa vận lại như vầy:
“Màu xe Tây vức ngắm thêm tươi,
Hỏi khách Hổn ngươn đặng mấy người.
Ly hận ngày qua, non ngó khóc,
Trùng hưng buổi hiện, gió reo cười.
Cơ huyền trí tịnh tan rồi hiệp,
Phép Tạo tay cầm ngược cũng xuôi.
Tỏ đặng nỗi mừng chia hạnh phúc,
Đá kia cũng gật để nên lời.”

Ông Thượng Sanh ở lại để cúng Rằm và dự lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.
Sau khi Đức Hộ Pháp hồi loan, ông Lễ Sanh Thượng Tý Thanh có vào viếng Ngài. Ngài thấy ông rồi hỏi:
“Sao mấy em cắt tóc ngắn hết vậy?”
Ông Tý mới trình rằng khi vào làm hãng tàu Nitinan, Nhựt bắt phải cắt tóc, mấy ông có cầu cơ được Đức Lý chấp thuận. Ngài chuyển sang việc Nội Ứng Nghĩa Binh đang tham gia đảo chánh ngày 9 tháng 3, 1945, Ngài nói:
“Các em tham gia đảo chánh thì tự nhận tương lai của mình không em nào được vào lịch kỷ niệm của đạo, giống như chuyên viên đảo chánh Khương Thái Công cũng không được vào lịch kỷ niệm.”
Hồi trước kia, năm 1941 có ông Giáo Thiện ngồi Châu Đạo Bến Tre tên Lịnh.
Lúc đó ông có gởi về cho thân phụ của ông đang làm công quả ở Hộ Pháp Đường một lá thơ. Vì không biết chữ nên ông thân đem lá thơ ấy trình Đức Hộ Pháp nhờ Ngài đọc giùm. Đức Ngài xem xong không đọc. Ông mới hỏi:
“Thưa Thầy, thằng Lịnh nó nói gì trong thơ vậy?”

Đức Hộ Pháp trả lời:
“Nó gởi lời về thăm anh với tôi chớ có gì đâu!”
Đến nay Đức Hộ Pháp từ hải đảo trở về có nghe tin ông Lịnh lâm bịnh đang điều dưỡng tại Nội Ô Tòa Thánh. Ngài mới đến thăm rồi có hỏi ông Lịnh như vầy:
“Đâu…, em nhớ lại xem, em có lỗi gì với qua không?”
Ông Lịnh trả lời:
“Dạ không!”
Nghe vậy Đức Ngài ra về. Ba bữa sau Ngài đến thăm ông ta lần nữa, và cũng có hỏi y như lần trước. Ông Lịnh một mực trả lời rằng không.
Mấy bữa sau Đức Ngài lại đến thăm ông ta 1 lần nữa, Ngài hỏi lại một cách cố ý, tiếng nói có vẻ cân nhắc và nặng hơn 2 lần trước. Đức Hộ Pháp hỏi:
“Lịnh! Đâu em rán nhớ lại xem, em có lỗi gì với qua không?”
Ông Lịnh bình thản trả lời:
“Dạ không có.”
Ông Lịnh đâu ngờ rằng bức thơ mình gởi cho ông thân đã được Thầy xem nên việc sai trái mà mình cố giấu qua mặt Thầy lại bị Thầy biết rồi.
Đức Hộ Pháp nhìn ông hồi lâu như hối tiếc, rồi lặng thinh ra về. Từ đó không đến thăm ông ta nữa.
Sau thời gian ngắn bịnh không thuyên giảm mà lại nặng, thêm phần nguy kịch không phương cứu chữa, ông Lịnh thoát xác.
Hơn 1 tháng sau, trong một đàn cơ ông Phối Thánh Ba, hay còn gọi là Phối Thánh Màng cho Đức Hộ Pháp hay rằng:
“Anh Nhượng đang che chở cho chú Lịnh ở dưới quyền của Đông Nhạc Đế Quân coi sổ bộ chờ đi đầu kiếp. Anh Lịnh phải tái kiếp làm thân một người phụ nữ ở trong một gia đình đảng cướp côn đồ, không biết có còn nhớ thân mà tầm đạo?
Lụy!”
Bức thơ mà ông Lịnh viết được Đức Hộ Pháp giải bày với anh em Phạm Môn tóm tắt nội dung là ông đã lầm mà theo Hộ Pháp, và khuyên ông thân của ông không nên làm ở Hộ Pháp Đường.
Quân đội Cao Đài do ông Trần Quang Vinh lập từ Nội Ứng Nghĩa Binh (1945) trước khi Ngài trở về. Nên Ngài có nói:
“Chỉ có quân đội Cao Đài thi hành những điều đã ký với Pháp, còn toàn thể đạo đứng trung lập.”
Trong văn thơ số 115/HP-TTVP đề ngày 17 tháng 1, 1949 gởi cho thượng sứ Pháp và đại tướng Blaizot, tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương, Ngài viết:
“Sự hiện diện của những tổ chức quân lực Cao Đài của chúng tôi đã đến giai đoạn không còn cần thiết nữa. Chúng tôi để cho nhà binh Pháp tự do định liệu ngày giờ để chúng tôi giao hồi khí giới, ước mong được sớm ngày nào tốt ngày nấy.”
Sau khi trở về nước, để chuẩn bị cho việc tái thủ quyền hành, Đức Hộ Pháp cho triệu tập Hội Nghị Nhơn Sanh tại Tòa Thánh nhằm chấn chỉnh lại guồng máy
của đạo. Trong Huấn từ khai mạc Đại Hội ngày mùng 1 tháng Chạp năm Bính Tuất (1946), Ngài nói:
“Đã trót 5 năm dư bần đạo bị đồ lưu nơi hải ngoại, đã từng chịu biết bao nhiêu là sự khổ tâm hồn, nỗi lo cho tương lai đạo, nỗi sợ cho vận nước tránh không khỏi cái nạn chiến tranh loạn ly.
Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ tổ, xem nước non đổi vẻ thay màu, thảm thiết nơi lòng, tuông châu đổ ngọc, muốn kêu một tiếng nỉ non giục kẻ tri âm tri kỷ cùng bần đạo, ngoài ra chư hiền hữu, hiền muội. Tưởng khi các bạn có lẽ tội nghiệp cho con hạc linh nầy mà để tai lóng tiếng.
Vậy bần đạo cúi mình cậy các bạn một điều rất thiết yếu là hòa giọng yêu thương cùng con hạc lạc nầy, đặng giục lòng bác ái đến cảnh an nhơn thiêng liêng cho toàn sanh chúng. Vừa để gót về Tổ Đình thì đã quên mãnh thân tiều tụy hao mòn, vội cầu đạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chân truyền, nên tức cấp mở Hội Nghị Nhơn Sanh đặng phục vụ quyền Vạn Linh như trước.”
Nữa tháng sau Ngài cho khai mạc Đại Hội Phước Thiện, Ngài có nói:
“Hội Thánh có 2 cơ quan Hành Chánh và Phước Thiện thường tương khắc nhau, song chưa tìm được chơn lý hòa nhau. Ngày nào chưa hòa nhau là còn thất sách, bất lực, thì không thi thố phận sự cho ra thiệt tướng. Ấy vậy, mấy em phải rán sức định tâm, lấy tinh thần vi chủ, nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn trong óc mấy em thì không bao giờ đạt mục đích tối cao tối trọng, phải có khối óc thiêng liêng mới mong thay hình Thánh Thể Chí Tôn, đối với con cái Ngài là quần linh.”
Ngài vừa khai Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Phước Thiện, vừa thông báo chánh thức cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hay rằng Ngài tái thủ quyền hành, đồng thời khuyên toàn đạo chung lưng đâu cật xây dựng Tổ Đình và nền Chánh Giáo.
Sau đó Đức Hộ Pháp liền bắt tay tiếp tục công cuộc kiến tạo Tòa Thánh, Ngài cho triệu tập những người công quả khi xưa.
Năm Đinh Hợi (1947) ông Lê Minh Tòng, về sau đắc phong Bảo Công Quân năm 1969, là một họa sĩ ở Gia Định bị Pháp tình nghi làm quốc sự bị bắt đày ra Côn Đảo rồi được thả chỉ sau ngày Đức Hộ Pháp hồi loan vài tháng. Ông Tòng về nhà được đôi ngày dự định đi thăm bạn ở Biên Hòa. Khi ra bến xe Ngã Sáu, quyền thiêng liêng lại khiến ông Tòng lên xe đi Tây Ninh. Khi ông Tòng nhận thấy mình đã đi nhầm xe thì đã đến chợ Ngã Năm. Mà ông cũng có từng nghe danh Tòa Thánh cảnh đẹp nên muốn ghé vào thăm.

Đến Hộ Pháp Đường ông lấp ló nhìn vào trong. Bảo Thể vào báo lên Đức Hộ Pháp, Ngài mới biết ngay là người Đức Lý phái đến. Sau nầy khi trấn Thần tượng Tam Thánh Ký Hòa Ước vào ngày mùng 10 tháng 7 năm Mậu Tý (1948), ông Luật Sự Võ Quang Tâm có tường thuật như sau:
“Bức tượng Tam Thánh này do vị Hiền Tài Lê Minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn khổ 2,8m x 1,9m. Hình tượng bằng người thường, Đức Thanh Sơn cầm bút lông mèo, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn cầm bút lông ngỗng và Đức Tôn Trung Sơn cầm nghiêng mực.
Hai Đấng đang viết trên bia đá những chữ:
Hán văn: Thiên Thượng, Thiên Hạ - Bác ái công bình.
Pháp văn: Dieu et humanité – AMOUR ET JUSTICE.
Đi sau bàn đưa có Đức Hộ Pháp, kế là các Ngài Bảo Thế, Khai Đạo,…Đến Đền Thánh, đi vào cửa hông phía Nam, tiến lên Cung Đạo, day mặt tượng ảnh vào Bát Quái Đài. Trước hết Đức Hộ Pháp xông tay vào lư hương và áp vào mặt tượng 3 lần, rồi Ngài bước xuống cầm lư hương xông tượng vẽ 3 ảnh để khử trược.
Khi Đức Hộ Pháp trấn Thần tượng ảnh Tam Thánh xong, các nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng tới cửa trước, rồi đi vào Hiệp Thiên Đài, đến thỉnh Thánh Tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra phía trước Đền Thánh.
Đức Hộ Pháp giải thích: Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ, Đức Tôn Trung Sơn là đại diện Hội Thánh Ngoại Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo ngoại quốc, cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên Đài, quay mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi thiêng liêng của các Ngài.
Cái khuôn xi măng đúc trên vách Hiệp Thiên Đài, từ ngày tạo tác Tổ Đình là để dành đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia bần đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.
Ngày nay, vị Hiền Tài ở hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh này. Mới hiểu rằng Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến. Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết, vì chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.
Từ ngày mùng 10 tháng 7 năm Mậu Tý, tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp Thiên Đài, là biểu hiện cho chủ nghĩa đại đồng của Đạo Cao Đài.”
Để tôn vinh toàn thể nhân dân lạo động, ngoài công trình đắp hình các Thánh, ông Bùi Ái Thoại là người bình dân ít học đã đắp Lao Động Đài ở bao lơn mặt tiền Tòa Thánh, chỗ danh dự nhất, 8 hạng người lao động, là Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục. Ông cũng là người được điểm công hàng đầu và đắc phong Thánh Nhơn do Đạo Nghị Định số 7/PT, Đức Ngài ký ngày 14 tháng 2 năm Mậu Dần (1938). Hai phẩm Thánh Nhơn và Bảo Quân đều đối phẩm Phối Sư bên Cửu Trùng Đài. Xem thế những vị có công xây dựng Tòa Thánh đều được Đạo phong thưởng xứng đáng.
Mùng 3 tết năm Đinh Hợi (1947) công thợ làm lễ bàn giao Tòa Thánh cho Hội Thánh. Đức Ngài có phát biểu trong lễ bàn giao như sau:
“Bần Đạo không ngờ mấy em phái nữ đã đạt được kỳ công. Nhớ lại khi mới khởi công, Bần Đạo chỉ chọn phái nam, sau vì nhân công không đủ nên chọn thêm mấy em nữ. Ban đầu trộn hồ, gánh gạch, lần hồi xây đắp vách tường, công việc của mấy em làm càng ngày càng tiến như phần đông nam phái. Mọi việc chi đủ nam nữ, âm dương mới tạo thành lý đạo. Ấy là định ý của Đức Chí Tôn đó vậy.
Khi ấy, vì dè dặt Bần Đạo mới buộc mấy em phải hồng thệ và thủ trinh cho tinh khiết mà xây Đền Thánh. Ngày nay đặng hoàn thành, Bần Đạo sẽ giải thệ cho mấy em nào muốn ra lập gia đình tùy thích.”
Đức Ngài kêu Tổng Giám Lê Văn Bàng đem tờ giao lãnh mà khi xưa mấy vị này đã ký với Hội Thánh, Ngài ký tên với danh vị thợ hồ.
Mùng 6 tết, Đức Ngài làm lễ trấn Thần Tòa Thánh. Đức Hộ Pháp mặc tiểu phục, dạy Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi và Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn theo Ngài đến Báo Ân Từ, Ngài vào điện làm lễ xong thỉnh nước âm dương giao cho Thừa Sử Lợi. Ngài dùng 3 bó nhang hành pháp xong lại giao cho Truyền Trạng Trấn.
Khi đến Tòa Thánh, Ngài ngó ngay Thiên Nhãn trước Phi Tưởng Đài rảy Cam Lồ Thủy và cầm nhang làm phép trấn Thần. Kế tiếp đến tượng Phật Di Lạc, tượng Đức Quyền Giáo Tông, bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh đến tượng ông Thiện, ông Ác. Sau đó Ngài vào cửa Tòa Thánh đứng ngó vào Tịnh Tâm Điện trấn Thần cái Cân Công Bình trên ngưỡng cửa. Ngài nói:
“Kể từ đây cái Cân Công Bình thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã biểu tượng thiệt hiện ở thế gian nầy, để phân công chiết tội và định phẩm vị tòa sen của toàn con cái Ngài.”
Ngài sang phía hông bên nam phái, đứng ngang Cửu Trùng Đài, cách 12 bước, trấn Thần con Long Mã, trên lưng con Long Mã có bộ Hà Đồ Bát Quái và Cây Kiếm, nên có câu “Long Mã phụ Hà Đồ”. Long Mã chạy về phía tây mà đầu quay về phía đông. Ý nghĩa đạo xuất từ phương đông, đem từ phương đông sang phương tây để cứu vớt chúng sanh.
Kế Ngài đến Bát Quái Đài ngó lên trấn Thần Tam Thế Phật:
Phật Brahma đứng trên con Thiên Nga, nhìn thẳng về phái Tây, đó là ngôi thứ nhứt tượng trưng đời Thánh Đức thuộc Cơ Sanh Hóa.
Phật Shiva đứng trên con Giao Long, nhìn thẳng về phía nam. Đó là ngôi thứ ba, tượng trưng phần trí não thuộc Cơ Tranh Đấu.
Phật Christna đứng trên con Thất Đầu Xà nhìn thẳng về phía bắc. Đó là ngôi hai, có sanh có diệt, đời tái tạo thuộc Cơ Bảo Tồn.
Sau đó Ngài đến trấn Thần 4 con Kim Mao Hẩu ở 2 nấc thang bên hông phía nữ phái. Rồi Ngài vào Cửu Trùng Đài sang bên phía nam phái trấn Thần 4 con Kim Mao Hẩu nữa. Ngài nói:
“Con Kim Mao Hẩu rất mạnh và khỏe, tượng trưng cái năng lực tinh thần con người, nhờ nó mà qua được các từng Trời về cùng Thầy.”
Kế tiếp Ngài vào cửa phía nam phái trấn Thần các Thiên Nhãn quanh Đền Thánh, lần lượt lên tới Bát Quái Đài, rồi sang phía bên nữ phái tất cả là 23 Thiên Nhãn ngó ra ngoài. Vào trong Ngài đến Cửu Trùng Đài bên nữ phái, lên trấn Thần  tượng Bát Tiên và sang bên nam phái trấn Thần tượng Thất Thánh. Rồi Ngài trở xuống ngai Hộ Pháp trấn Thần chữ KHÍ. Ngai Hộ Pháp có thất đầu xà, cái thân mình nó quấn dưới dôn Hộ Pháp, đưa lên 3 cái đầu, trên mỗi cái đầu có 1 chữ: Hỉ, Lạc, Ái và gục xuống 4 cái đầu, trên mỗi cái đầu có 1 chữ: Ai, Nộ, Ố, Dục, choàng cái mình quấn đôn của Thượng Phẩm và cái đuôi dưới đôn của Thượng Sanh.
Đến ngày mùng 8 tháng Giêng, lễ rước quả Càn Khôn từ Báo Ân Từ về an vị tại Tòa Thánh. Ngài có thuyết giảng như sau:
“Ngày nay đã dời quả Càn Khôn, không phải trái đất mà là Thiên Cầu thuộc dương phối hợp với địa cầu thuộc âm thành đạo, về Đền Thánh. Đức Chí Tôn đã ngự nơi ngôi của Ngài. Chúng ta nên mừng cho nhơn loại được ảnh hưởng nơi Đền Thánh nầy mà tiến hóa. Đền Thánh từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi măng nữa, mà là một khối đức tin của toàn con cái Đức Chí Tôn đã dựng nên hình vậy.
Nhờ bàn tay khéo léo của mấy em, mấy con thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách cực khổ hơn 10 năm trường mới tạo nên. Từ đây, mọi sắc dân nào có đủ đức tin nơi Đức Chí Tôn là Chúa tể vạn loại, dầu nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Đền Thánh mà cầu nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài. Đền Thánh làm xong, nền đạo đã vững vàng, chúng ta sẽ đem hạnh phúc lại cho thiên hạ trong buổi chuyển thế nầy.”
Vào năm Ất Hợi (1935), Đức Hộ Pháp bảo anh em Phạm Môn tháo 3 căn nhà mà Ngài đã ra lịnh làm là Dưỡng Lão, sở Nữ Công Nghệ, và sở Phạm Môn Trường Hòa có cùng kích thước với nhau, đem về ráp lại thành 1 để thờ chức sắc, gọi là Báo
Ân Từ. Trước khi khởi công xây cất Tòa Thánh phải dời quả Càn Khôn về tạm tại đây rồi mới phá dở cây lá tranh của Tòa Thánh tạm. Quả Càn Khôn nầy do ông Bính làm. Lúc ráp nhà lại vì không tính trước hay đã tính rồi mà quên do đường kính quả Càn Khôn, nên khi đem vào cửa Báo Ân Từ không vô lọt. Vì cửa hẹp hơn, túng thế đành ép dẹp lại méo như quả trứng mới vào được. Trước cảnh nầy Đức Hộ Pháp khóc và nói:
“Rồi đây Phước Thiện sẽ khổ.”
Sau đó Pháp bắt Đức Ngài đày đi hải đảo, chúng chiếm lấy Tòa Thánh đang xây, lấy Báo Ân Từ làm nhà ăn tập thể, còn quả Càn Khôn thì đập xé thành từng mảnh rồi quăng ra ngoài. Người ta thấy Thiên Nhãn vẫn còn nguyên nên lượm cất. Còn cốt tượng các Đấng chúng ném ra sân, ông Thơ mới đem về Cực Lạc Cảnh sửa đắp lại thờ cho tới ngày nay. Còn Thiên Nhãn ông Thơ mướn người làm lại bằng thiếc. Khi Đức Ngài hồi loan, quả Càn Khôn do ông Thơ tạo được đưa vào Tòa Thánh.
Đến những năm 1960, lúc ấy là thời kỳ của Thượng Sanh. Ông Hoài được Ngô Đình Diệm mua chuộc với một giá tiền đắc để hạ quả Càn Khôn của ông Thơ xuống và dựng quả Càn Khôn mới lên. Bên trong quả Cán Khôn mới nầy ông Hoài có làm cây Thánh Giá. Dựng quả Càn Khôn mới lên nghĩa là dựng cây Thánh Giá, thay đổi quả Càn Khôn chỉ là cái cớ che mắt mọi người thôi.
Ông Bảo Thế và ông Hoài cho mời ông thợ hàn ở cửa số 2 là ông Giáo Hữu Thượng Thửu Thanh đến Tòa Thánh đụt khoang hàn lại chân trụ. Khi hay tin, bà Chánh Phối Sư Hương Nhiều là bạn của Đức Ngài đến Tòa Thánh để quan sát. Lúc đó thợ đã khoan gần tới nơi mà Đức Ngài trấn Thần, bà biết nơi Hộ Pháp đã trấn Thần. Bà có kể:
“Thiêng liêng mầu nhiệm khiến như vậy, nó khoang không tới, chỉ còn một chút xíu nữa là tới rồi.”
Bà e sợ khi khoang phải chạm đến nơi Hộ Pháp đã trấn thì không biết nguy hại dường nào, mà điều gì sẽ xảy ra cho đạo bà không lường trước. Vì lúc trấn Thần Ngài có bảo ông thợ bạc người Phước Thiện quê Phú Mỹ làm một cây gươm bằng vàng. Ngày hành pháp có đông đủ chức sắc từ Giáo Hữu đổ lên chứng dự. Sau khi hành pháp trấn ếm chân trụ Quả Càn Khôn xong Ngài nói:
“Sau này, nơi đây, nếu có hư hoại và mất đi thì những người có mặt hôm nay phải chịu tội trước thiêng liêng.”
Lòng người đâu qua được thiêng liêng. Trời đâu để cho bọn chúng thực hiện được tà tâm của mình. Đến năm Quý Mão (1963) ông Diệm bị lật đổ, chết thảm dưới họng súng đại bác. Ông Hoài cũng chết trươc khi mưu đồ còn chưa được thực hiện. Quả Càn Khôn thì đã làm xong, mà chưa kịp bỏ cây Thánh Giá vào là bỏ mạng trước. Thành ra Quả Càn Khôn mới được thượng lên thờ cho đến giờ đó vậy.
Nguyên từ hồi khai đạo đến năm Bính Tuất (1946), trong Nội Ô Tòa Thánh không có thờ Phật Mẫu. Đến năm Tân Tỵ (1941) Đức Ngài cho xây dựng xong Trí Giác Cung rồi có xây dựng Đền Thờ ở đó luôn, được mệnh danh là Qui Thiện. Đó cũng là nơi đầu tiên thờ Đức Phật Mẫu. Còn Báo Ân Từ lúc đó đang là Đền Thờ tạm thờ Đức Chí Tôn.
Sau ngày từ hải đảo trở về, Đức Ngài tổ chức trọng thể một cuộc lễ lớn có sự tham dự của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, chức sắc và tín đồ. Gọi là “Lễ rước Linh Vị Phật Mẫu về Tòa Thánh” từ Trí Giác Cung đi đường Bàu Sen về Tòa Thánh.
Linh vị rước về thờ tại một căn nhà bằng cây vách ván lợp tranh, Ngài gọi là “Khách Thiện Từ”.
Cho đến khi Đức Hộ Pháp làm lễ rước quả Càn Khôn từ Báo Ân Từ về Tòa Thánh, Linh Vị Phật Mẫu lại được làm lễ long trọng rước từ Khách Thiện Từ về Báo Ân Từ thờ cho đến nay.
Ngày mùng 9 tháng Giêng là ngày vía Đức Chí Tôn, trong 3 ngày lễ, trừ đêm mùng 8 rạng mùng 9 là chánh lễ thì các ngày còn lại là lễ tạ ơn Tiền Hiền, Tổ Tiên, tổ chức các cuộc vui. Đức Hộ Pháp dạy ban nhà thuyền làm rồng nhang để biểu tượng xe rồng, chỗ ngự của Chí Tôn.
Thân rồng nhang dài 36 thước, chia làm 18 khúc làm bằng hình ống. Rồng nhang phải trang trí sao cho thật đẹp với 2 màu truyền thống vàng và đỏ. Các động tác múa bao gồm xuất cung, đi vòng, uốn khúc, lượn sóng, Bát Quái chậm, Bát Quái nhanh, đi thẳng,… Người múa rồng phải là người có sức chịu đựng và đầy đủ kinh nghiệm về múa Long Mã.
Còn ở giữa Đại Đồng Xã, Đức Hộ Pháp cho dựng Văn Minh Điện, tức cái đài hình lục giác, gồm tầng trệt và tầng cao để mọi người đứng xa đều thấy người điều hành. Ban tổ chức gồm: 1 Trưởng Ban, cầm cái mõ và một ban cổ nhạc. Phía trước Văn Minh Điện có một cái cầu thang để người dự lên lãnh thưởng, phía bên trên cao có đề 3 chữ “Văn Minh Điện”, nghĩa là nhà văn minh về đạo đức, văn học, mỹ thuật. Ai đáp trúng thì được thưởng kinh sách có giá trị.
Sang vía Đức Chí Tôn năm sau, Đức Hộ Pháp còn dạy chưng cộ bông. Đề tài bao gồm đức tin nhơn loại, Tam Giáo, Tam Trấn. Phong trào chưng chế mỹ thuật bằng hoa lá bông trái phát triển từ đó, lan về các tỉnh vì người đạo tại Thánh Địa vốn là dân lục tỉnh.
Trong ngày vía Đức Phật Mẫu năm Đinh Hợi (1947), Đức Hộ Pháp xuống lịnh cho cơ quan Phước Thiện chưng cộ bày Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Chỉ có Đức Phật Mẫu là bông hình, còn 4 vị Nữ nhạc hầu Đức Phật Mẫu và cửu vị Tiên Nương mặc áo dài xanh đỏ là người thật, do các Giáo Nhi và Đồng Nhi nữ hóa trang.
Kể từ ngày mùng 1 tháng 2 năm Đinh Hợi (1947) ngôi thờ Phật Mẫu đặt thờ tạm tại Báo Ân Từ. Trong ngày lễ an vị Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương, Đức Hộ Pháp có giảng như vầy:
“Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật Mẫu tại Báo Ân Từ. Hồi mới mở đạo, bần đạo biết công nghiệp của Đức Phật Mẫu như thế nào: Ngài và Cửu vị Nữ Phật dìu dắt con cái của Chí Tôn từ ban sơ đến ngày đem chúng ta giao lại cho Thầy.
Ngày mở đạo vì cái cảm tình ấy, các vị Đại Thiên phong xin thờ Phật Mẫu ở Đền Thánh, Phật Mẫu cho biết quyền Chí Tôn là chúa, còn Phật Mẫu là tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với chúa? Chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí Tôn đến dường ấy.”
Trong năm Kỷ Sửu (1949) có nhiều chi phái trở về xin làm việc với Tòa Thánh Tây Ninh. Trong đó có phái Tiên Thiên do ông Nguyễn Bửu Tài lãnh đạo. Thánh Huấn số 380 ngày 22 tháng 3 năm Kỷ Sửu có ghi về sự kiện nầy như sau:
“Bần đạo đã ân xá cho toàn cả chi phái, bất cứ ai nếu nhập môn lại và vâng y Luật Pháp Tòa Thánh sẽ là tín đồ chánh thức của Đạo Cao Đài.”
Thánh Lịnh số 535 ngày mùng 4 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1949) chấp thuận phái Tiên Thiên do ông Nguyễn Bửu Tài lãnh đạo đưa về Tòa Thánh Tây Ninh. Tất cả chức sắc đều tạm chức Hiền Tài để đợi quyền thiêng liêng quyết định.
Thánh lịnh số 302 ngày 27 tháng 5 năm Canh Dần (1950), các chức sắc phái Tiên Thiên có danh sách trong thông qui ngày 30 tháng 10 năm Kỷ Sửu được dâng lên Đức Lý xem xét vào ngày mùng tháng Giêng năm Canh Dần, được tạm phong vào hàng chức sắc của Tòa Thánh như sau:
1 . Nguyễn Bửu Tài thọ phong Thượng Phối Sư
2 . Phan Lương Hiền thọ phong Thượng Phối Sư
3 . Đinh Văn Dừng thọ phong Ngọc Giáo Sư
4 . Phan Lương Thiệu thọ phong Ngọc Giáo Sư
5 . Trần Văn Tấu thọ phong Thượng Giáo Sư.

Giáo Hữu đủ 3 phái tất cả 26 vị, Lễ Sanh 35 vị. Đức Hộ Pháp lại ký Thánh Lịnh số 13/TL phong thêm 5 vị Giáo Sư, 3 vị Giáo Hữu, và 17 Lễ Sanh. Còn Trung Hòa Học Phái do Trương Kế An lãnh đạo được phong làm Bảo Y Quân. Xem thế lúc nào Tòa Thánh cũng mở rộng cửa để đón nhận con cái của Chí Tôn lầm đường lạc lối quay trở về với con đường chánh đạo.
Đến ngày mùng 4 tháng 2 năm Tân Mão (1951), Đức Lý Giáo Tông giáng cơ trong một cuộc thử cơ của chi phái Tiên Thiên cùng với chức sắc Hiệp Thiên Đài, cũng có nói về việc nầy như sau:
" LÝ GIÁO TÔNG
Chào con cái của Chí Tôn.
Thượng Tài Thanh [Nguyễn Bửu Tài], hiền hữu có biết chăng, đạo Thầy vốn có một.
Khai Pháp hiền hữu chấp bút nhang đuổi nó… vì đây trước mặt lão lại còn cho Thần Cái trụ.
Thượng Tài Thanh, hỏi một Hội Thánh có mấy Đài Hiệp Thiên và mấy Đài Cửu Trùng?
Chính tay lão đã lập Nghị Định thứ tám, có đâu lão lại phá luật, còn Đài Hiệp Thiên do Hộ Pháp nắm giữ, có đâu lão lại quá quyền phạm pháp, phong tước cho Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài.
Hiền hữu vốn biết lão đương quyền Giáo Tông đó chứ?
Cơ chia phe phân phái cũng do đó có phải?
Nè, lão cho hay rằng, Hội Nhơn Sanh sắp đến đó, thử hỏi chức sắc và tín đồ [phái Tiên Thiên] đem về đặng bao nhiêu?
Hiền hữu khá nhớ rằng, được phẩm thì dễ chớ ngồi yên khó lắm. Sự không chịu qui thuận của các chức sắc và tín đồ Tiên Thiên là lỗi nơi hiền hữu chớ không phải của họ. Từ đây, hiền hữu cứ ra nghiêm lịnh coi.
Nên nhớ rằng, với tình thì lão dung thứ được, chớ về luật pháp e khó dung tha.
Cao Sĩ Tấn, lão biết hiền hữu có ý bất mãn nhưng lão khuyên hiền hữu khá suy nghĩ sẽ thấy rõ đường đi. Đức Chí Tôn khai đạo chẳng bó buộc một ai hết thảy, nếu ngoan thì là con Thầy, còn dại thì mặc tình Quỉ dẫn. Những cặp đồng tử của hiền hữu tuy vốn có xuất thần nhưng bị hồi điển do bổn thân. Hiền hữu khá đem họ nhờ sự trau luyện của Hiệp Thiên Đài chức sắc thì sẽ ứng dụng được ngày sau.
Hiền hữu thử hỏi chúng nó coi rằng trước đêm 24 vừa qua, nó có suy nghĩ gì chăng?
Thượng Tài Thanh, hiền hữu hiểu lời của lão rồi chớ?
Bảo Thế, Khai Pháp, và Tiếp Đạo sáng ngày mai phải xuống Trí Huệ Cung tường thuật cặn kẽ cho Đức Hộ Pháp nghe. Còn hai em Hưởng và Nhung, lão khen  đó, hai em đã giúp lão chỉnh đốn Cửu Trùng Đài nhiều lắm đó, lão mang ơn nơi cõi hư linh, còn hữu hình lão không có quyền.”
Trong đàn cơ nầy có 2 nhóm phò loan. Một là của bên phái Tiên Thiên, một là của chức sắc Hiệp Thiên Đài do Luật Sự Hưởng và Luật Sự Nhung phò loan.
Nhưng bên kia bị hồi điển do có tà tâm, đầu cơ bị gãy. Sau khi Đức Lý thăng rồi có Đức Quyền Giáo Tông giáng nói cho mọi người biết như vầy:

" THƯỢNG TRUNG NHỰT
Chào mấy em,
Cười… ông già nộ khí dữ quá ta!
Lúc nãy đồng tử của họ có một người tà tâm nên ổng đánh nó đó. Không sao, tuy vậy chớ Thượng Tài Thanh và Cao Sĩ Tấn biết suy nghĩ lắm, họ bị mê tín mà nên nông nổi. Cười… Coi chừng đồng tử bị đánh bịnh ta ơi! Tội nghiệp, không phải tự họ muốn lên giả, nhưng bị thần trược mà bị hồi điển. Những người đồng tử họ bất bình, họ nói mình xúm nhau mà làm ngưng nghề của họ, chớ không phải là Đức Lý.
Cười… Mặc tình lúc nãy, ông già đã nói trước rồi. Còn Khoa thì coi hình như muốn dẹo muốn rớt. Em Trung Dõng nên gần gũi dẫn dụ họ. Nếu họ có ức thì xin Đức Hộ Pháp phò loan tại Trí Huệ Cung một lần nữa, nhưng cấm không cho đồng tử theo vì e có hại đến họ. Cười…
Cần cơ gãy. Cười… Anh nói thiệt, nếu cơ không gãy thì e cho họ phát điên rồi mà chớ, đó cũng may cho họ vì đầu cơ không có điển, hành pháp không được. Thôi cũng yên một phần, em Trung Dõng cười đi em!”
Đáng tiếc thay, Ơn Trên đã từ bi ân thưởng mà họ vấn hoài mộng tưởng. Thọ phong xong rồi lại cuốn Tượng ra đi chớ chẳng hề chịu hành đạo theo Tòa Thánh.
Ngày 14 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1947), Đức Hộ Pháp cho ban hành Đạo Lịnh 209-HP chỉ dẫn về phương luyện kỷ đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo, hay còn gọi là luyện kỷ, tu đơn, thiền định. Lúc trước Chí Tôn đã truyền tân pháp tu chơn cho Ngài và nay Ngài truyền lại cho nhơn sanh. Vì không tìm hiểu tận nơi mà có người cho là Tòa Thánh chỉ có tịnh thất cho tín đồ mà không có lý pháp tu tịnh cho chức sắc. Chí Tôn có dạy:
“Phải bày bửu pháp ra không đặng giấu nữa.”

Trong Đạo Lịnh 209 của Đức Hộ Pháp có nội dung như sau:
" PHƯƠNG LUYỆN KỶ
Đặng vào con đường thứ ba Đại Đạo Phải biết thân thiết cùng cả nhơn vật, tức là tìm nguyên do của Vạn Linh cùng Chí Linh.
Phải ân hậu và khoan hồng.
Phải thanh nhàn, đừng vị kỷ.
Phải bình tĩnh, nghĩa là đừng chịu ảnh hưởng của họa, phước, buồn, vui (tập tánh không không đừng nhiễm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn tánh).
Phải độ lượng, khoan dung, tha thứ.
Phải vui vẻ, điều hòa, tự chủ và quyết đoán.
Giữ linh tâm làm căn bổn.
Hiếu hạnh với Đức Chí Tôn và Phật Mẫu.
PHƯƠNG PHÁP TRỊ TÂM

Vì tâm là hình ảnh của Thiên lương
1 . Đức tin và khôn ngoan là kho chí bửu, ngoài ra là của bỏ, là đô vô giá.
2 . Ai đã cố oán kẻ thù của mình thì khó giữ thanh tâm công chánh cho đặng.
3 . Ai chẳng oán hận mới thắng đặng kẻ thù nghịch cùng mình.
4 . Sự cừu hận là khối thảm khổ đệ nhứt của nhơn sanh, nên người hiền thì không biết đến hay là từ bỏ cừu hận oán ghét.
5 . Thắng đặng khí nộ mình, thì không chọc ai giận dữ.
6 . Lấy thiện mà trừ ác.
7 . Lấy nhơn nghĩa trừ bạo tàn.
8 . Lấy lòng quãng đại đặng mở tâm lý hẹp hòi.
9 . Lấy chánh trừ tà. Ấy là đường thương Huệ Kiếm.

LUYỆN THÂN, LUYỆN TRÍ
Ẩm thực tinh khiết.
Tư tưởng tinh khiết.
Tín ngưỡng mạnh mẽ nơi Đức Chí Tôn, Phật Mẫu.
Thương yêu vô tận.
Ấy là chìa khóa mở cửa Bát Quái Đài tại thế nầy.
Ngày 14 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1947)
Hộ Pháp
(ấn ký)

Phương pháp trị tâm của Đức Hộ Pháp nói gọn là pháp tâm hay đạo tâm. Vào cửa đạo đi tu là cố gắng tĩnh lặng cái tâm. Bởi lẽ tâm dẫn đầu hết thảy mọi hành động. Khi sinh hoạt theo hướng tham sân si, nhỏ mọn, trách cứ, lo âu, sầu muộn,…
đó là ác tâm. Khi lòng ta rộng lượng, vị tha, hoan hỉ, thương người, đó là cái tâm chơn chánh.
Năm Canh Dần (1950) Đức Hộ Pháp đi Đà Lạt để gặp vua Bảo Đại bàn việc quốc gia trọng hệ. Sau đó Ngài qua Campuchia để hành đạo.
Ngày 18 tháng 10 năm 1950 Đức Hộ Pháp đi Hà Nội để kêu gọi các tôn giáo, đảng phái ngoài bắc thống nhứt để làm sức mạnh đòi chánh phủ Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngài đã tiếp xúc về phía Công giáo có Giám mục Lê Hữu Từ, về phía Phật giáo có Thượng Tọa Thích Tâm Châu. Trong dịp nầy Ngài có làm bài thơ như sau:

" BẮC DU
Non nước hồn thiêng đã tĩnh dần,
Xuân thu nay đổi lại xuân thu.
Nam phong đỡ vững xa thơ Hán,
Bắc tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần.
Bác ái là đề thi tiến hóa,
Nghĩa nhơn ấy mục định duy tân.
Thiên thời địa lợi đôi điều sẳn,
Chỉ thiếu hòa nhơn để hiệp quần.”

Sau chuyến thăm Hà Nội của Đức Hộ Pháp, số tín đồ tăng lên nhanh, nhưng từ sau năm 1954 cơ đạo ở đây gặp nhiều ngăn trở.
Sau đó Ngài trở về Tòa Thánh đôn đốc xây cất các tịnh thất. Rằm tháng Chạp năm Canh Dần (1950) Đức Hộ Pháp làm lễ trấn Thần Trí Huệ Cung. Đó là ngày lễ lớn, các đạo hữu phải đi vòng xuống Thiên Thọ Lộ qua Đoạn Trần Kiều mới vào Trí Huệ Cung tham dự lễ, có cất nhà thủy tạ, trên nóc nhà đắp một con hạc chở 2 người đó là Vân Trung Tử và Tôn Võ Tử. Đức Hộ Pháp có dạy như sau:
“Đắp con hạc ngó về Trí Huệ Cung trên lưng có 2 người cỡi là Vân Trung Tử và Tôn Võ Tử. Ấy là thể pháp tượng trưng rước khách phàm nhập Thánh. Mấy con lại làm con hạc quay đầu trở ra, hướng Thiên Thọ lộ, như vậy là chở người Thánh lâm phàm. Mấy con làm lỡ rồi, dầu sửa lại cũng không được. Việc này thiêng liêng khiến vậy. Âu cũng là phương cách tượng trưng bậc tu hành đều lâm phàm mà thắng nỗi cái phàm mới là Tiên, Thánh. Bằng chẳng được, phàm vẫn là phàm.”
Tôn Võ Tử hay Tôn Tử là học trò của Vân Trung Tử, sanh ở núi La Phù, nhằm thời Xuân Thu ở Trung Hoa đứng vào hàng Chư tử, thao lược tinh thông. Tuy còn nhỏ mà đã soạn được bộ sách binh pháp gồm 13 thiên: Thủy kế, Tác chiến, Mưu công, Quân hình, Bình thế, Hư thiệt, Quân tranh, Cửu biến, Hành quân, Địa hình, Tựu địa, Hỏa công, Dụng gián. Toàn là những thuật dùng binh làm căn bản cho những nhà tướng xưa nay trong cõi Á Đông. Ông làm Thượng Tướng quân cho Ngô Hạp Lư, giúp Ngô đánh Sở. Khi giặc yên, ông trở về điền viên lấy chữ thanh nhàn tiêu dao ngày tháng. Đức Hộ Pháp giảng:
“Xưa kia Tôn Võ Tử tìm thầy học đạo Tiên đã thoát tục. Ngày nọ 2 thầy trò cỡi hạc vân du ngoạn mục, Vân Trung Tử nhủ rằng:
‘Đi ngang qua chợ Thiên Vương là cảnh cũ của con, nếu lòng con còn tưởng nhớ thì con hạc bay không nổi, rồi con phải trở lại phàm không về cùng thầy được.’
Nhưng Tôn Võ Tử đạt phẩm Nhơn Tiên, mà tránh không khỏi bọn phàm, nên khi con hạc bay qua chợ Thiên Vương thấy cảnh xưa động lòng ngậm ngùi, con hạc liền đáp xuống. Vân Trung Tử biết học trò còn nhiễm phàm liền đằng vân về động. Tôn Võ Tử một mình ở lại chợ Thiên Vương đi tìm quê xưa, chỉ thấy chòi tranh ủ dột, người vợ xưa tuổi già quá 70, muốn tạo một sự nghiệp đời thì đã muộn. Đành cam chịu lỡ đạo lỡ đời, ấy vì chẳng chịu nghe lời thầy.
Con hạc bay về chợ Thiên Vương, nay là chợ Trường Lưu thuộc xã Trường Hòa, là gương sáng cho các bậc chơn tu phải cố gắng giữ lòng thanh bạch, dầu có  sống lẫn lộn nơi phàm thế mà không nhiễm mới được. Đó cũng là phương chọn lọc phàm Thánh.”
Đức Hộ Pháp còn giảng về Trí Huệ Cung như sau:
“Trí Huệ Cung là cơ quan tận độ chúng sanh. Nó không phải của ta mà của toàn thể nhơn loại, bởi nó tượng trưng hình ảnh Chí Linh của Đức Chí Tôn tại thế.
Nó không cho phép phân biệt đảng phái, tôn giáo hay nòi giống. Cửa Thiên Hỉ Động là cửa thiêng liêng hằng sống của toàn thể các Chơn Linh.
Bần đạo cả tiếng kêu gọi con cái Đức Chí Tôn, nhứt là Cửu nhị ức Nguyên Nhơn hãy tỉnh mộng, ngó lại Trí Huệ Cung, phải vào nơi cửa nầy mới đạt đạo đặng mà thôi. Đạt cơ giải thoát mới nhập vào cửa thiêng liêng hằng sống, mà Đức Chí Tôn đã dựng riêng dành cho mỗi người.”
Ngày 16 tháng Giêng năm Tân Mão (1951), Đức Hộ Pháp vào Trí Huệ Cung tịnh luyện theo tân pháp nội giáo tu thiền mà Đức Chí Tôn đã chỉ dạy cho Ngài. Khi nhập tịnh thất, Ngài có nói:
“Giải chức Hộ Pháp, chỉ còn là bạn tu mà thôi.”
Đức Ngài nói như thế có nghĩa là muốn vào tịnh thất, nếu là chức sắc phải gởi chức lại cho Hội Thánh trở thành đạo hữu. Sau khi được chơn sư phụ chỉ dẫn rồi hành pháp tịnh luyện, tự tu, tự thành, biết được tánh giác hằng hữu là sắp có ấn chứng thiêng liêng.
Năm Tân Mão (1951) Đức Ngài vào Trí Huệ Cung vì Vạn Pháp Cung chưa xây. Sau khi ra khỏi nhà tịnh, Ngài đã thuyết đạo tại Đền Thánh như sau:
“Bần đạo giải rõ hành tàng trong 3 tháng mà bần đạo đã làm trong nhà tịnh.
Cái hành tàng về mặt đạo pháp giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa mạc cầu khẩn với Đức Chí Tôn ban bố hồng ân cho nhơn loại, đặng đem cơ cứu thế của Ngài giao cho toàn xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Đức Thích Ca vào vườn bồ đề ngồi thiền định đặng xin giải thoát chúng sanh.”
Hồi Đức Hộ Pháp đến Trí Huệ Cung để nhập tịnh thất thì có nhiều người gởi thơ đến xin nhập tịnh một lượt với Đức Ngài, Ngài trả lời:
“Nếu người nào không có tam lập thì không ở chung với ai được hết. Chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời, tức thể pháp mà không ai có bằng cớ chi hết, thì ai tin rằng có bí pháp đạt đạo.
Tam lập là: Lập đức, lập công, lập ngôn. Con người khi sanh ra nơi mặt địa cầu nầy không có tam lập thì không có chi hết. Tam lập quyết định cho ra, ta mới sống chung với xã hội nhơn quần được.”
Khi ra nhà tịnh, Đức Hộ Pháp thấy chợ Ngã Năm gần cửa số 4 Nội Ô Tòa Thánh chật chội và ẩm thấp, nên lấy 47 mẫu đất ở phía Nam Tòa Thánh lập chợ Long Hoa.
Ngày 5 tháng 6 năm 1951 chợ Long Hoa cơ bản thiết lập xong, Ngài làm lễ ban phép lành và trấn Thần Long Hoa Thị, Đức Hộ Pháp nói:
“Bần đạo cho lập gấp cái chợ nầy, tạo một nguồn sinh sống để dành cho nhơn sanh. Ngày giờ nầy tuy là cái chợ thô sơ, rồi đây nó sẽ bành trướng rộng rãi hơn, long trọng hơn. Chắc chắn con cái Đức Chí Tôn không bao giờ ngờ đến. Nhưng bần đạo quả quyết việc đó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và quyền thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã định vậy.”
Khi khánh thành văn phòng Ban Quản Trị Long Hoa Thị, Rằm tháng 7 năm Quí Tỵ (1953), Ngài nói:
“Bần đạo rất tin cậy với lòng nhiệt thành của toàn thể, hãy giúp cho Ban Quản Trị và Hội Thánh lập chợ Long Hoa thiệt mau. Bần đạo dám chắc rằng đời sống của mấy em sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu tươi đẹp. Ngôi nhà chung của chúng ta là một Tông đường để đào tạo đám thơ sinh tiếp tục làm Thánh Thể Đức Chí Tôn, thừa chí đưa hết năng lực tận tình đặng cứu khổ chúng sanh.”
Đích thân Đức Hộ Pháp đôn đốc công cuộc khai phá rừng, Ngài có nói:
“Sau 2 năm, qua còn nhớ khi qua ra khỏi nhà tịnh Trí Huệ Cung. Về nơi đây, qua ban phước lành chợ Long Hoa là tháng 7 năm Tân Mão cho đến tháng 7 nầy thật ra có 2 năm mà thôi. Đức tin con người, nếu mà nhơn loại tụ cả lại làm một khối thì không có gì làm không đặng. Qua vẫn biết cái sự nghiệp kinh doanh do tinh thần hoạt bát của mấy em làm cho qua được hưởng hạnh phúc.
Chợ ngã 5 mấy em đừng tưởng có phép huyền bí. Qua thấy chợ ngã 5 rất sung túc, nhưng lại ẩm thấp, chật chội. Cái tinh thần của mấy em đi cao tiến mạnh. Vì cớ, qua mới lấy 47 mẫu, chưa có chợ nào đặng 47 mẫu, nhưng chừng vài năm nữa đây sẽ chật hết. Qua đã thấy chen chút với nhau rồi đó.”
Đức Hộ Pháp cho xây 8 con lộ tạo nên hình Bát Quái, gọi là “bát long dẫn thủy”. Đức Ngài còn dạy:
“Trong nhà lồng chợ xây một hồ nước thật cao, lấy nước rửa chợ, các tiệm, các phố đủ sức xài. Nhà lồng cất 4 cánh, có 2 tầng lầu: tầng dưới bán thực phẩm, tầng trên bán mỹ phẩm. Trên bồn nước giữa chợ cất cái nhà nóc bằng để cho Thánh Vệ ở, luân phiên giữ gìn châu vi chợ và làm nơi ăn ở trên nhà gác. Còn 4 phía chợ đúc cột làm hàng rào bằng song sắt thật đẹp, để trống cho bốn bề trông vào thấy chợ thong dong mát mẻ. Mỗi phía hàng rào có một cái cỗng. Bốn mặt như nhau, nhưng mỗi cửa để chữ theo mỗi hướng, như: Đông Môn, Tây Môn, Nam Môn, Bắc Môn. Đừng để mấy cái quán cóc che lấp cái vẻ đẹp của chợ. Mấy cái xép theo góc Bát Quái, do Ban Kiến Trúc cất, đúc cột lên mấy từng lầu như phố vậy, để làm nhà hàng hoặc bán các loại máy móc, rađio, tầng dưới chừng 2 thước vuông cho trạm y tế, cứu thương hoặc bịnh hoạn sẵn có thuốc.”

Nghe qua công cuộc từng câu chuyện, Ngài trở lại cầm thước dây đo ngang 40 thước, từ mặt phố bên phải qua trái khoảng trên con lộ 40 thước, ở giữa con lộ lớn có 2 cái lề. Ngài nói:
" - Bên trong sát mặt phố có 2 con lộ nhỏ, xe hơi chạy vào được. Dài trên lộ biểu Trưởng Tộc và nhân viên Chưởng Quản Phước Thiện cũng lo cất 20 cái bar, cất trọn trên lề, đừng vi phạm choán con lộ mất đẹp. Bar cất 2 tầng, cách 40 thước, xa xa để chừa đường ra vào mặt phố. Nếu cất khít choán chỗ người ta rầy mà coi không đẹp. Cho bán đồ bazar hoặc các thứ đồ chơi hoặc bông hoa trái cây Đà Lạt.

Mỗi bar đều có 4 mặt, cửa kiếng xinh đẹp. Cấm nấu nướng, chỉ đến giờ mở cửa bán cũng như bar giữa lộ ở Đô thành.
Trong 20 cái bar dành cho người nghèo không phương sanh sống, hoặc đám nội trợ của chức sắc nghèo cần có phương sanh sống. Khi bớt khổ phải đền ơn, giao lại cho Hội Thánh cho người khác, cứ kế tiếp không ai có quyền làm chủ vĩnh viễn.

Hội Thánh biết kẻ nghèo cho ở chớ không thâu nạp đơn xin, còn nền nhà hình, Đức Ngài định cất tại đầu lề lộ, 2 bên cất y một kiểu có 2 từng. Bên Xuân Dung thì làm nghề ảnh đặc biệt riêng cho Thầy, dành lại số huê lợi đặng cho đám cô nhi có phương sống và mấy con nhiếp ảnh nên cố gắng truyền nghề cho chúng nó thành tài về nghề phim ảnh chiếu bóng.
Trong nhà hình, từng dưới chưng triển lãm các kiểu cổ kim hoặc các cuộc kỷ niệm, mỗi khi Thầy cần dùng thì có sẵn. Từng trên để làm nghề. Sau nầy ngoại quốc họ vô xem Báo Quốc Từ thì họ phải vào lấy hình ảnh, mấy con đủ nuôi đám cô nhi. Còn bên kia giao cho mấy đứa thủ trinh. Công nghiệp tụi nó mà Thầy chưa ban đặc ân, vậy để cho chúng nó làm nhà cơm chay. Thầy làm ăn mót trên lề lộ mà có nghĩa  giúp đám cô nhi và những người nghèo mà cũng là làm cho Long Hoa Thị ngày kia sung túc.
Long Hoa Thị sung túc rồi tự nó sẽ làm chén cơm bát nước của Hội Thánh, của chức sắc, của nhơn sanh chung hưởng đặc ân. Vậy nên cố gắng tạo cho thành.”
Hồi mới xây dựng, Tòa Thánh có chợ Từ Bi trước Tòa Nội Chánh; chợ Thương Binh, sở dĩ có tên nầy là vì phần đất nầy trước dành cho thương phế binh Cao Đài; Tân Dân Thị, tức là chợ Qui Thiện; Thiên Vương Thị, tức là chợ Trường Lưu; chợ Bến Kéo,…

Khu vực từ chợ Thương Binh trở ra Trãng Dài thuở ấy là rừng già san sát.
Đức Quyền Giáo Tông vận động tiền của của nhiều nhà hảo tâm để mua và khai khẩn để đạo có việc dùng. Luật lệ kiểm lâm bấy giờ qui định, nếu khi nào đã mua thì phải khai khẩn. Nếu trong vòng 1 tháng không có hạ cây thì nhân viên kiểm lâm đóng bảng cấm, coi như lấy lại mà không bồi thường.

Đức Quyền Giáo Tông mua xong mà không có công quả để hạ cây, thế cho nên quá hạn một tháng tiền cũng mất mà đất cũng mất. Ông bị số người đưa tiền bạc cho ông kiện ông.
Trước tình hình đó Đức Quyền Giáo Tông tỏ bày cùng Đức Hộ Pháp. Ngài can thiệp với kiểm lâm và cho lịnh anh em Phạm Môn tụ họp gấp rút hạ cây theo qui định. Trong lúc lịnh khẩn bất ngờ, có một số anh em Phạm Môn đi không được vì lý do là vợ sắp sanh. Được báo trình như vậy, Ngài để lời:
“Đứa nào cực khổ về việc này là đại công trước mặt Đức Chí Tôn đó bây. Bởi vì lúc này người đạo đức họ tìm nhà đạo đức họ đến đầu kiếp, nếu nhà đạo đức đóng thì họ về họ sẽ kiện, hãy giúp họ, hãy giúp cho họ được chào đời một cách an toàn là nhận được phước lớn.

Qua cho phép mấy em có vợ sắp sanh ở nhà lo cho tròn trách nhiệm, rồi hãy làm công quả.”
Đức Hộ Pháp còn dạy mỗi họ nên lập một phủ thờ, hay còn gọi là phủ từ. Đó là chơn truyền Nho Tông mà Đạo Cao Đài phô bày để làm nền tảng. Ngài nói:
“Đức Giáo Tông mỗi năm sẽ nhóm họp với các vị Chưởng Phủ mỗi họ một lần, để nghe báo cáo các sinh hoạt chung của từng họ, mỗi họ sẽ tường trình và yêu sách đến Đức Ngài. Sau đó, tùy theo sở hành của từng họ mà Ngài ban hành lời phủ dụ, chỉ dạy thêm hoặc có chính sách phù hạp riêng cho từng họ, đồng thời tìm cách hỗ trợ về mặt tinh thần hay vật chất, nếu họ đó cần thiết đặc biệt hơn các họ khác.  Nhân tiện bên cạnh đó, Đức Ngài có cơ hội nhận những hồ sơ bị hàm oan mà tất cả các cấp trên che dấu, áp bức khiến người của nhà họ đó không phương bào chữa, được Ngài cứu xét bênh vực. Lúc đó, với tư cách là một người anh cả thương yêu đàn em nhỏ chớ không phải là tư cách của một Giáo Tông quyền hành. Nên Ngài có quyền tự mình giải quyết vấn đề, trường hợp mà Ngài nhận thấy đúng. Ngài dễ giải quyết bởi không qua đường hành chánh, Đức Ngài trực tiếp với nhà họ, để phát hiện những điều bất công mà người tín đồ nào đó chịu đựng. Tất cả sẽ phơi bày trước mặt Ngài, không ai qua mắt được Ngài, những em út nhỏ nhoi bị khổ não sẽ được Đức Ngài sắp xếp để Ngài đến tận nơi, tận chỗ mà trả lại sự công bình.

Đây là một điều hết sức hệ trọng trong cửa Đạo Cao Đài, nó hay ho vô cùng. Nó giúp cho kẻ dưới không hề sợ bị đàn anh chức sắc lớn ỷ quyền dấu che, áp bức. Đâu phải vậy thôi, Đức Ngài có quyền kêu gọi kiến họ giàu, đông đảo lớn mạnh giúp cho kiến họ nghèo ít oi nữa mà chớ. Tất cả người sanh ra nơi mặt thế có hàng ngàn họ, mà tự thấy mình không bơ vơ, khổ não vì mình có dòng họ bảo trợ, họ của mình tức là phủ thờ, là nơi mình đặt niềm tin, để tìm đến mà cùng đoàn kết sống. Thật là một mối an nguy mà chỉ có anh cả Giáo Tông sẽ làm gạch mối trăm họ bình yên.

Việc tổ chức nhà họ là một bí pháp của Nho giáo để bảo tồn luân lý cang thường, phong hóa, và nhân phẩm trong công cuộc trị thế. Vì dân Trung Hoa làm mất đi nên sanh ra loạn lạc. Do đó mới bị Thiên điều hành phạt buổi nọ đó là Phong Thần bảng đó vậy. Nay Đức Chí Tôn gầy dựng lại đem giao cho dân tộc Việt Nam.

Mấy em nghĩ coi, có một đứa mang họ mình làm nên việc lớn thì rạng rỡ tông môn. Còn ngược lại có đứa mang họ mình hoặc nghèo khổ hoặc làm tội tình chi đó thì cảm thấy xấu hổ, nên dòng họ đó không dễ gì mà để đâu, họ tìm cách đem về bảo bộc giúp đỡ, hoặc dạy dỗ cho nên người đạo đức, xứng đáng với truyền thống ông bà chớ… cười. Không có họ nào bỏ rơi con cháu mình đâu, họ sợ họ khác chê cười rằng mình thiếu phận lắm. Hơn nữa họ cũng sợ Đức Giáo Tông khiển trách.”
Khởi đầu từ năm 1952, Đức Hộ Pháp cho thiết lập các Phủ Từ trong vùng Thánh Địa nằm trong mục đích truyền đạo mà phương tiện là Tông đường. Phủ Từ hay nhà thờ Họ, như Lê Phủ Từ, Phạm Phủ Từ, Văn Phủ Từ,… Thường tôn vinh một vị văn võ song toàn trong lịch sử và một vị có phẩm tước cao trong đạo như Trần Phủ Từ có thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa. Tất cả người trong họ có thể thờ tại Phủ Từ.
Đức Ngài có phủ dụ về việc lập Tông đường như sau:
Từ trước đến giờ, Đạo Cao Đài lấy Tông đường làm nền móng. Từ đây, sẽ càng mạnh mẽ hơn nữa, sẽ càng cao trọng hơn nữa. Nhờ Tông đường mà ta tạo dựng, bá Tộc ngày kia không ai không đạo. Mấy em tạo phủ thờ, công nghiệp nầy là mấy em lập công đối với Đạo Cao Đài một cách gián tiếp đó vậy.”

Trong dịp đến hội ở Phạm Phủ Từ, Đức Ngài có giảng:
“Hôm nay bần đạo vào hội chẳng phải lấy danh thể Hộ Pháp mà chỉ lấy danh
thể Phạm Công Tắc mà thôi. Chữ hiếu là chữ đứng đầu hết. Không trọn hiếu thì không thể làm việc khác được. Chúng ta có một cơ nghiệp tận thiện, tận mỹ, vĩ đại, ta muốn danh thể ta bền bĩ lâu dài, đại nghiệp thiệt của chúng ta là đây.
Các bậc tiền bối đã dạy rằng: Lập thân hành đạo, dương danh u hậu thế. Ta có thể làm đạo lập thân danh nhưng phải có hiếu trước đã.
Tạo Phạm Phủ Từ chẳng phải cho riêng trong cửa đạo hay nội trong nước Việt Nam mà thôi. Chúng ta ngó tới Bắc Việt, Trung Hoa,… tông đường của ta ở mé biển nữa, thành một cơ quan vĩ đại.”

Sang năm 1953 có nhiều biến cố quan trọng. Khởi đầu là ông Narada Théra, phó Giáo Tông Phật Giáo Tích Lan, nay là Srilanca đem cho nước ta 3 hạt Ngọc Xá Lợi: 1 cho đại thừa, 1 cho tiểu thừa Phật giáo Việt Nam, còn 1 cho tiểu thừa Phật giáo Campuchia. Vì phái đại thừa chưa quyết định để hạt ngọc ở đâu nên Đại Đức Narada Théra giao cho Hoàng Thái Hậu Từ Cung để tặng nơi nào tùy ý, sau nầy bà cũng nhập môn theo Đạo Cao Đài luôn, sau đó được thọ phong Phối Sư, và tặng lại hạt ngọc cho Tòa Thánh. Kèm theo 3 hạt ngọc có 3 cây bồ đề: 1 cây tặng tiểu thừa Việt Nam, 1 cây tặng tiểu thừa Campuchia, còn 1 cây tặng Tòa Thánh trồng gần trụ phướn. Còn hạt Xá Lợi thì được đăng điện đêm ngày 18 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953). Đức Hộ Pháp có giảng:
" Hạt Xá Lợi đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, phó Giáo Tông Phật Giáo Tích Lan, lấy của tư Ngài hiến cho Tòa Thánh.
Chúng ta đã thấy sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh, đều do công của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài (bác sĩ Lê Văn Hoạch).

Phật Thích Ca, theo Đại Đức, là người như ta, có xác thân như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người trong thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn thiêng liêng của Ngài đã lên tới Phật vị. Trước kia Đức Thích Ca đã thành Phật đặng, chúng ta cũng thành Phật đặng. Bần đạo mong cả con cái Đức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài.
Khi Thích Ca đắc đạo, các tông đồ của Ngài thiêu thi hài của Ngài. Các lóng xương chưa thiêu hủy được cất giữ coi như báu vật, người ta gọi là Xá Lợi Phật."

Ngày mùng 10 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953). Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm mời Đức Hộ Pháp và một số môn sinh cũ của nhà giáo Trần Văn Giảng để ban cho thầy cũ huân chương. Đức Hộ Pháp đề nghị tặng cụ danh hiệu Linh Sơn Phu Tử, là chức sắc cao nhất trong Ban Thế Đạo, đối phẩm Phối Sư. Các cựu môn sinh đều nhứt trí.

Ngày hôm đó tỉnh lỵ Tây Ninh trang hoàng rực rỡ biểu chương, cờ xí treo khắp nơi. Tinh thần tôn sư trọng đạo của các môn sinh được thể hiện cao. Tham gia trong cuộc lễ có nhiều môn sinh đều hiển đạt như: Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Tướng Nguyễn Văn Hinh, Giáo Sư Võ Thành Cứ, ông Phủ Trần Văn Giáo, và nhiều bác sĩ, kỹ sư,…
Sau khi Thủ Tướng gắng Bảo Quốc Huân Chương cho cụ giáo Giảng, Đức Hộ Pháp trao lời cho giáo sư Cứ xưng tụng công nghiệp tôn sư.

Để kịp lễ khánh thành Tòa Thánh vào tháng 3 năm 1955, Đức Hộ Pháp ra lịnh sửa Báo Ân Từ thành đền thờ tạm Diêu Trì Cung. Vì Đức Phật Mẫu có công rất lớn trong việc mở đạo nên cô Bát Nương có giáng cơ tại Kim Biên cho Phật Mẫu Chơn Kinh. Đức Ngài có giảng:
“Kinh Phật Mẫu cho tại Kim Biên, nơi Báo Ân Đường của Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi. Bần đạo đến nhằm lúc cúng vía Đức Phật Mẫu. Bà Bát Nương đến cầm cơ viết, có nhiều người làm chứng. Các đạo hữu và một người không biết đạo, đó là ông Hiếu ngồi trước sân chơi. Họ thấy tứ phía đền có hào quang giáng hạ, xẹt xuống ngay Báo Ân Đường. Tới chừng trọn bài kinh rồi cả thảy đều nói không biết cái gì xẹt khi nảy, không dè trong nhà đương chấp bút.”
Nhân dịp nầy Đức Ngài cũng cho các thợ công quả đắp tượng ở phía trên cùng là Đức Phật Mẫu ngồi chánh giữa, 2 bên là 4 vị Nữ Nhạc hầu Đức Phật Mẫu là:
1. Đổng Song Thành
2. Vương Tử Phá
3. Hứa Phi Yến
4. An Phát Trinh

Và Cửu Vị Nữ Phật. Ở dưới là tượng Đông Phương Sóc, nhà văn hóa đời Hán quì nâng 4 quả đào Tiên. Dưới nữa là tượng Cao Thượng Phẩm quì trước sân Hoa Điện Cổ Tự. Đưc Hộ Pháp giảng như vầy:
“Hình của Đức Phật Mẫu đắp theo hình chưng công bộ Cửu Nương lần đầu tiên vào tháng 8 năm Đinh Hợi. Thầy có chỉ cho Chí Thiện Trạch, Trần Phong Lưu, và Tá lý kia cất giữ coi theo đó mà làm mẫu theo sự tích đời Hán Võ Đế bên Tàu. Hồi đó mượn bức ảnh của bà Phối Sư Hương Hiếu.

Đức Phật Mẫu có từ thuở khai thiên do khí Âm Dương tạo thành, có quyền năng vô đối, vô biên, vô lượng cũng như Đức Chí Tôn, hữu hữu vô vô, nắm trọn bí quyết nhiệm mầu của Càn Khôn Vũ Trụ. Chớ không phải bí pháp biến thành thể pháp. Do hiện tượng sự tích đời Hán Võ Đế, đó chỉ là mượn ý tạc hình, chớ Phật Mẫu vốn vô vi.”

Đức Ngài còn giảng về việc Hán Võ Đế cầu Phật Mẫu như sau:
“Vào tiết Trung Thu Rằm tháng 8 năm Ngọ, đầu giờ Tý, vua Võ Đế quì trước chùa thành tâm cầu khẩn. Đúng 12 giờ, thanh loan đáp trước sân Hoa Điện. Vua ra thỉnh Đức Phật Mẫu ngự tại chánh điện. Đức Phật Mẫu dạy 4 Nữ Nhạc trao 4 quả đào Tiên cho Hán Võ Đế và Đông Phương Sóc quì rước lộc.”

Sang năm 1954, Quốc Trưởng Bảo Đại mời Đức Hộ Pháp làm cố vấn tối cao để hoạch định cho chương trình Hội Nghị Génève. Đồng thời Ngài sang Pháp để đáp lời mời của Chánh Phủ Pháp trước kia mà Đức Ngài chưa có dịp đi. Ngày 17 tháng Tư năm Giáp Ngọ (1954), các cơ quan đưa tiễn Ngài lên đường, Đức Ngài có nói:
“Hôm nay bần đạo lấy sứ mạng thiêng liêng đem ngọn cờ cứu khổ đến Châu Âu. Mong rằng cánh hạc huyền linh của Đức Chí Tôn sẽ đem tình ưu ái vô biên của Ngài đặng an ủi tâm hồn các chủng tộc Châu Âu. Quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn sẽ làm cho trường hỗn loạn trở nên thái bình.

Một điều trọng yếu nữa là cả thảy cầu nguyện thế nào cho ngọn cờ từ bi bao phủ trên mặt địa cầu nầy. Bần đạo dắm chắc không có điều chi vui cho Đại Từ Phụ hơn điều đó.”
Hôm Đức Ngài lên máy bay rời phi trường Tân Sơn Nhất, có nhiều chánh khách, chức sắc, chức việc ra tiễn đưa. Khi máy bay đáp xuống phi trường Orly, Pháp có rất đông quan khách đến đón Đức Ngài. Về phía Chánh phủ Việt Nam, có Phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh, Tổng Trưởng Tài Chánh Dương Tấn Tài, đại diện Cao Ủy Phủ Vương Hồng Chương và Đỗ Hùng, rất đông Việt kiều ra đón Ngài.
Về phía chánh phủ Pháp, có ông Thị Trưởng thành Paris, ông Plas và Mattei đại diện Bộ Trưởng Bộ Liên Hiệp Quốc .

Chiều ngày 21 tháng 5 năm 1954, Đức Hộ Pháp mở cuộc họp báo tại nhà hàng George V. Trong lúc dự tiệc, các đại diện báo chí phỏng vấn Ngài về đường lối chánh trị. Ngài trả lời:
“Bần đạo sang Pháp với danh nghĩa cố vấn tối cao của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại. Bần đạo sẽ gặp Đức Quốc Trưởng và sẽ thỉnh ý Ngài.”

Báo chí hỏi Đức Ngài có chống cộng không? Ngài trả lời:
“Chúng tôi là người tôn giáo, thay mặt Thượng Đế cứu vớt tất cả con cái Ngài, dầu kẻ tội lỗi nào cũng cứu vớt.”

Trưa hôm sau Trung Tướng Nguyễn Văn Xuân, cựu Thủ Tướng, đến mời Ngài dùng cơm tại tư gia .
Ngày 23 tháng 5 năm 1954, Ngài đến Canne rồi tới điện Thorène gặp Đức Quốc Trưởng. Ngài tỏ vẻ hài lòng rồi trở về Paris cùng ngày, được Thủ Tướng Bửu Lộc và các chánh khách đưa ra tận ga Canne.

Trưa ngày 24 tháng 5 năm 1954, ông Laniel, Thủ Tướng Pháp tiếp Đức Ngài tại điện Matignon. Cùng đi với Ngài có ông Ngô Khai Minh, ông Nguyễn Văn Ba, và ông Hồ Bảo Đạo. Thủ Tướng Laniel tham khảo ý kiến riêng với Đức Ngài.
Trước khi Hộ Pháp sang Paris, bản Hiệp Ước Génève đã được đăng tải trên các báo. Người ta phao tin đã ký rồi, nhưng thật ra chưa ai ký. Các chánh khách đều trông vào Đức Ngài.
Ngày 25 tháng 5 năm 1954 ông Trần Vinh, Trưởng ban Nghi Lễ Cao Ủy Phủ Việt Nam, sắp chương trình cho Đức Ngài đi viếng và làm lễ ở chùa thờ chiến sĩ trận vong Việt Nam Nogent Sur Marne. Đến chiều tối Ngài đặt tràng hoa nơi mộ chiến sĩ trận vong Pháp ở Arc De Triomphe. Tướng Collion, Tổng Trấn Paris thay mặt chánh phủ Pháp và quân đội nghinh đón, 2 bên đài có đoàn vệ quân bồng sống chào, giàn nhạc trổi quốc thiều Việt Nam và quốc thiều Pháp.

Sau khi đặt tràng hoa lên mộ chiến sĩ vô danh, Ngài trở ra, các quan khách đưa tận xe. Việc đón tiếp như vậy là long trọng lắm, vì Đoàn Vệ Quân và giàn nhạc thường chỉ để đón tiếp các Quốc Trưởng mà thôi.

Tờ mờ sáng ngày 27 tháng 5 năm 1955, Ngài cho ông Hồ Bảo Đạo hay: đêm qua Ngài hội kiến với Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Đức Chưởng Đạo có dạy nhiều việc và cho một bài thi như sau:
“Giờ điểm vinh quang đã khởi màu,
Giang sơn Đất Việt giá là bao?
Nền nhân Câu Tiển vừa che bước,
Cửa ải Phù Tang đã mở vào.
Mong lịch duyệt, nay đà lịch duyệt,
Muốn thanh cao, đã đặng thanh cao.
Tiên rồng sắp đặt hồi phong vũ,
Thay đổi Càn Khôn thử thế nào?”

Tiếp đó, Ngài đi viếng Điện Versailles. Chiều hôm đó, Bộ Trưởng Mécheri thay mặt Tổng Thống Pháp René Coty đến viếng Đức Ngài. Trước khi ra về, ông có nói Tổng Thống Coty mời Ngài sang viếng Điện Élysées. Sau đó Ngài nhường thời giờ tiếp xúc các đạo hữu ở Pháp. Ông Henri Regnault, là người thay mặt Đạo Cao Đài dự nhiều hội nghị Thần Linh Học thế giới thay mặt người Pháp có đạo đến chào Đức Ngài.

Ngày 28 tháng 5 năm 1954 Đức Hộ Pháp và đoàn tùy tùng đến Điện Élysées, được Tổng Thống René Coty đón chào tại cửa. Ngài và Tổng Thống đàm luận, dự tiệc, rồi từ giã.
Hôm sau Thủ Tướng Lộc mời Ngài đến để chúc mừng trước thành quả mà Ngài ngoại giao đã đạt được và hứa sẽ mời Quốc Trưởng Bảo Đại lên Paris hội kiến với Ngài. Chiều hôm đó, giáo sư Gustave Meillon đến thăm Đức Hộ Pháp. Ông chăm chỉ lắng nghe từng câu từng chữ khi Đức Hộ Pháp giải thích về đạo.

Ngày 30 tháng 5 năm 1954 là ngày Đức Hộ Pháp bận rộn nhứt, tiếp phái đoàn nầy, nhân vật nọ, xin ý kiến và thỉnh ý Ngài, như ông Đỗ Hùng, Thư Ký Hội Đồng Quốc Gia Liên Kiết, giáo sư Pierre Max, và nhiều nhân vật chánh giới Pháp lắng nghe tiếng nói của Ngài.
Chiều ngày 31 tháng 5 năm 1954 Ngài đi viếng Điện Panthéon và có viếng mộ Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.

Ngày 1 tháng 6 năm 1954 Ngài đi viếng Điện Invalides.
Ngày 2 tháng 6 Ngài viếng lâu đài Liên Quốc. Ông Mécheri, Tổng Thư Ký Hội Liên Quốc tiếp Ngài và nói:
“Đây là nhà chung của các quốc gia liên kết, có các cộng sự viên Việt, Miên, Lào,… Bộ Quốc Gia Liên Kết không phải là Bộ Thuộc địa trước kia.”
Ông Mécheri hứa với Ngài rằng ông sẵn sàng giúp đỡ Ngài trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam hùng cường và thịnh vượng.
Ngày 4 tháng 6 nhân sinh nhật mồng 5 tháng 5 năm Giáp Ngọ của Đức Hộ Pháp, phái đoàn có tổ chức tiệc tại khách sạn George V, thiết đãi quan khách Việt Pháp, lãnh sự các nước và Việt Kiều hải ngoại. Giữa buổi tiệc, Ngài được thông báo Thủ Tướng Laniel đã ký 2 bản hiệp ước về chủ quyền độc lập của quốc gia Việt Nam đúng ngày sinh nhật để làm quà cho Đức Hộ Pháp.
Trước khi Đức Hộ Pháp trở về Việt Nam ngày 6.7.1954, ông Chevaul, Trưởng phái đoàn Pháp tại Hội Nghị Génève mời Đức Hộ Pháp và phái đoàn Cao Đài dự buổi tiệc vào lúc 12 giờ. Khi chia tay, Ngài nhắc ông Chevaul một câu:
“Ne mettez pas vos doigts dans le panier des crabes.”
Nghĩa là “xin ông đừng thọc tay vào giỏ đựng cua”.
Lúc trong bửa tiệc gặp gỡ các vị đại diện của các tôn giáo cũng hội nghị về vấn đề tôn giáo, Đức Ngài được biết các đại diện tôn giáo của các nước họ chê bai và không đồng tình về cách cư xử của một nhà tu hành, họ cũng bất đồng về quan điểm và hành vi của một nhà đã xuất gia. Đó là Đại Đức Théranavapa.
Chuyện là mỗi khi Đại Đức dùng cơm là có kẻ đệ tử phục dịch cho Đại Đức một cách tận tình cho đến đỗi phải quì xuống và đội mâm cơm trên đầu để dâng. Hình ảnh đó người Phương Tây cho là thái quá, mất quyền làm người, mất tự do và dân chủ. Nên họ phản kháng theo lẽ tự nhiên, bài xích Đại Đức và cho ông là không tôn trọng nhân quyền, không tôn trọng giá trị con người.
Thấy Đại Đức không có phương cách để giải tỏa, Đức Hộ Pháp tội nghiệp cho ông. Ngài mới đứng ra bào chữa, Đức Ngài nói:
“Thưa quí vị. Tôi biết quí vị rất bất bình về hình ảnh hạ mình để tôn trọng vị Đại Đức một cách quá cao cả như vậy. Tôi chỉ xin nhắc lại cái nguồn gốc của sự việc trên để quí vị hiểu thêm.
Chẳng qua là xưa kia, khi Đức Thích Ca đắc đạo trở về, và Ngài bắt đầu cuộc hoằng hóa để giáo truyền Phật pháp, lòng mến mộ của thần dân trong nước đối với Ngài một là địa vị của một Thái Tử, hai là địa vị của một vị Phật. Người xứ ấy tôn trọng, kính mến đến đỗi dâng cơm đội đầu. Từ đó thành ra cái lệ của xứ ấy rồi và truyền mãi cho đến ngày nay để dành cho các vị kế thừa Phật sau khi Phật tịch diệt.
Cái lẽ ấy được các đệ tử tự nguyện làm nhiệm vụ. Chớ thật ra vị Đại Đức có buộc họ làm vậy bao giờ. Xin quí vị hỏi thử xem có như vậy không? Ngay cả khi xưa kia, Đức Thích Ca đâu có bảo họ làm như thế bao giờ đâu. Tại họ mến, họ thương, họ kính trọng thì họ tỏ ra như vậy, ai cản được lòng người. Cũng vì lệ xưa mà thành truyền thống dành cho các vị đại đức chân tu, và cái hình ảnh mà quí vị thấy cũng không ngoài truyền thống nghi lễ của đất nước và dân tộc họ mà thôi. Đã là phong tục, tập quán thì làm sao mà trách được.”
Nghe Đức Ngài nói xong, tất cả quí đại diện tôn giáo như rõ ra, rồi thân thích với vị Đại Đức không còn ngăn cách nữa. Tối đến vị Đại Đức tìm đến nơi ở của Đức Ngài ôm vào lòng, cảm ơn Đức Ngài đã kịp thời bênh vực và tháo gỡ bế tắc về mối thiện cảm mà ông đã vướng mắc trong lúc sáng.

Đức Ngài có làm một bài thơ về chuyến đi nầy như sau:
“ÂU DU 1954
Cỡi gió tung mây đến Pháp triều,
Đo lường vận nước được bao nhiêu?
Tương lai gởi phận tay tha chúng,
Mai mốt thương thân đám Việt Kiều.
Cứu quốc khó trông mong gặp Thuấn,
An dân hết sở cậy nhờ Nghiêu.
Cho hay chánh nghĩa chưa cân đúng,
Máu mũ vì thương phải đánh liều.”

Có một câu chuyện liên quan đến chuyến Âu Du nầy của Đức Ngài. Đó là ngày kia khi còn ở Nam Vang, Đức Hộ Pháp đang đi cùng mọi người, xe đang chạy trên đường thì tự nhiên tắt máy. Xe phải dừng để sửa. Ngay chổ xe dừng lại gần một ngôi nhà sang trọng. Vị chủ nhà là một người đàn bà. Thấy trời trưa nắng nên mời mọi người vào nhà nghỉ mệt. Ngài cùng mấy ông đi theo vào nhà, còn vài người ở lại sửa xe.
Sau khi hỏi thăm đôi điều, Ngài nhìn sắc mặt bà chủ nhà xanh xao, Ngài biết ngay là người nầy bị bịnh liên quan gì đó với người cõi âm. Ngài ngõ ý hỏi:
“Thưa bà, dường như bà bịnh. Nhà thì khá giả, chắc cũng đã đủ thuốc thang chạy chửa mọi điều mà lại không được hết là vì sao vậy? Bà đừng ngại, cứ nói thật đi, nếu giúp được bà tôi sẽ cố gắng giúp cho.”
Bà chủ nhà hết sức ngạc nhiên, thầm nghĩ sao mà Ngài đoán được. Bà ấy nhìn Đức Hộ Pháp thật lâu rồi như có một tin gì đó rồi nói:
“Tôi có người chồng là người Pháp đã chết, nhưng đêm hôm lại về ăn ở với tôi. Cho nên thuốc thang gì cũng không hết bịnh mà cũng không thầy nào trị được.” Nghe vậy Ngài mới nói:
“Được, nếu thật là vậy tôi có thể giúp cho bà. Bà hãy sắm cho một bình bông và một tô nước lạnh dọn lên bàn, ngoài ra không còn gì nữa.”
Bà chủ làm y theo lời dặn. Lúc bấy giờ Đức Hộ Pháp hành pháp kêu tên người chồng và lịnh cho ông chồng về nói chuyện cùng Ngài. Đức Ngài nói bằng tiếng Pháp như vầy:
“Mình là một người dân một nước đại Pháp, là một nước có tiếng văn minh.
Việc chồng vợ ở đời ai cũng vậy, chỉ có bao nhiêu đó mà thôi. Có đâu bạn đã bỏ xác rồi sao không lo cho con đường siêu rỗi phần hồn của mình mà lại nuối tiếc, vấn vươn với người còn sống, chẳng lấy gì làm hay ho mà phải khiến cho họ phải đau bịnh khổ sở vì mình. Mình chết đã yên phận mình, còn đeo đuổi làm chi cho lụy người còn sống vậy. Từ đây bạn nghe lời tôi, đừng gần gủi với người vợ ấy nữa, hãy để cho người ta được tự do mà định phận của mình, còn bạn thì định phận cho bạn nơi Tam Kỳ Phổ Độ có hơn không?”
Nói xong Đức Hộ Pháp lấy nhánh bông chấm vào tô nước vun trên đầu bà chủ nhà. Xong việc thì xe cũng vừa sửa xong. Ngài từ giả ra đi.
Một thời gian sau trên đường về Việt Nam, Ngài muốn ghé lại thăm người đàn bà ấy coi có hết bịnh chưa. Bà ấy đã khỏi bịnh, gặp lại Ngài cùng mấy ông bà ấy mừng và đón tiếp rất chu đáo. Bà ấy nói với Ngài rằng:
“Kể từ lúc Thầy đi chồng tôi không về nữa. Bệnh đã khỏi hẳn, tôi đã phục sức, khỏe khoắn nhẹ nhàng như bình thường. Tôi xin lạy tạ Thầy để đáp ơn.
Tôi biết Thầy là nhà tu nên mới có quyền năng với người chết. Tôi không biết lấy gì để đền đáp công ơn, nếu phải là tiền của chắc chắn là Thầy không nhận. Tôi xét thấy không có gì hơn là biếu tặng Ngài quyển sách, đối với tôi thì không hữu ích chi nhưng đối với chồng tôi thì rất là quý trọng. Chồng tôi thường xem sách ấy và  nói rằng chỉ giới quý tộc mới có mà thôi. Chồng tôi cũng thuộc dòng quý tộc. Vậy chồng tôi đã chết, quyển sách để đây không có giá trị gì, tôi xin tặng Ngài làm vật kỷ niệm, biết đâu hữu ích cho Ngài.”
Đức Ngài nói có lẽ Chí Tôn đã sắp đặt trước mọi chuyện nên tạo duyên gặp làm ơn để nhờ cuốn sách mà bà chủ nhà đó tặng, nên đã giúp cho chuyến Âu du lần nầy của Ngài thành công mỹ mản. Quyển sách ấy giúp Ngài hiểu rõ về xã hội Pháp, hiểu rõ mọi sinh hoạt của giới quý tộc và người dân bình thường. Do đó, trong chuyến đi vừa qua người Pháp rất kính nể Ngài. Vì trước mắt họ một người Việt gốc Á mà lịch lãm đến lạ thường, thông hiểu mọi sự hầu như tất cả về nước Pháp. Chính vì thế mà Đức Hộ Pháp đã để lại một ấn tượng đặc biệt đối với người Pháp.
Ở Génève khoảng 1 tuần, cuộc vận động hòa bình của Đức Hộ Pháp không đem lại kết quả mong muốn, nên phái đoàn trở về Paris. Quốc Trưởng Bảo Đại mời Ngài đến diện kiến và yêu cầu Đức Hộ Pháp ủng hộ Ngô Đình Diệm về nước cầm quyền Thủ Tướng Chánh Phủ Miền Nam thay Bửu Lộc. Để vừa lòng Bảo Đại, Ngài cho Sĩ Tải Bùi Quang Cao và Tướng Lê Văn Tất trở về nước vận động đồng bào, đồng đạo đón rước Ngô Đình Diệm.

Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Đức Hộ Pháp cùng phái đoàn trở về Việt Nam, sau 2 tháng sang Pháp tìm cách giải quyết về nền hòa bình cho đất nước khỏi chia đôi bất thành.
Thời gian Đức Hộ Pháp ở Paris, có đến viếng xã giao vị Lãnh Sự Trung Hoa, Đài Loan. Nên khi về nước không bao lâu, Ngài được thơ mời của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch sang viếng Đài Loan. Phái đoàn gồm có Ngài, Sĩ Tải Bùi Quang Cao và một ít chức sắc Đường nhơn. Khi phái đoàn lên đường, trước các cơ quan đạo, Ngài có nói:
“Hôm nay bần đạo lãnh một sứ mạng mới do ý muốn của Đức Chí Tôn. Bần đạo vừa được chánh phủ Trung Hoa mời sang Đài Loan. Chủ đích của họ mời bần đạo chỉ vì đạo mà thôi.
Bần đạo được danh dự của Đại Từ Phụ ban cho cầm cây cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn loại. Mình đã đau khổ mà lãnh sứ mạng thiêng liêng để an ủi đau khổ của thiên hạ. Điều ấy làm cho chúng ta suy ngẫm lắm đó.”
Sau khi viếng Đài Loan, Ngài sang Đại Hàn thăm xã giao rồi sang Nhật để rước tro cốt Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, đích tôn của Đông Cung Thái Tử Cảnh về nước. Khi về đến sân bay Tân Sơn Nhất, Ngài nói:
“Đức Cường Để đã hy sinh cuộc đời nơi đất khách, cốt theo đuổi một mục đích là làm thế nào để phục hồi vận mạng tổ quốc độc lập được thực hiện. Ngài cũng như bần đạo, tâm hồn của Ngài phù hợp với tâm hồn bần đạo, là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo…
Đau đớn thay, trên 40 năm lưu vong nơi đất khách, Ngài theo đuổi một ước vọng mà Ngài không đạt đặng. Công chưa thành, danh chưa toại, Ngài thành người thiên cổ nơi đất khách quê người.
Hôm nay, di hài của Người đã được đưa về nước. Do đó khối anh linh của Ngài sẽ cùng hòa hiệp với khối quốc hồn của 4000 năm lập quốc.”
Ngày 20 tháng 9 năm Giáp Ngọ (1954), Ngài về tới Tòa Thánh và tuyên bố trước toàn đạo:
“Tiếp theo lời tuyên bố của bần đạo khi về đến Sài thành, bần đạo không cần nhắc lại, cả một đời sống hy sinh của Ngài mong tạo hạnh phúc cho tổ quốc mà phải chịu biết bao nhiêu gian khổ cũng vì lòng ái quốc của Ngài. Cả thanh niên Việt Nam nên khi nhớ những lời nhắn gởi của Ngài. Trước nửa giờ chết, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cho toàn thanh niên Việt Nam phải cương quyết quật cường cứu quốc.”
Từ ngày mùng 6 đến ngày 16 tháng Giêng năm Ất Mùi (1955) là lễ khánh thành Tòa Thánh kéo dài suốt 10 ngày. Số người từ các tỉnh về tham dự lên đến hàng triệu người, còn số khách vãng lai đến xem có đến khoảng gấp đôi số ấy.
Vào ngày mùng 8 tháng Giêng, là ngày chánh lễ, ở sân Đại Đồng Xã bề ngang 40 thước, bề dài 80 thước, 2 khán đài nam nữ mỗi cái chứa trên 20 ngàn người đã chậc nức. Trên hàng ghế danh dự ngoài Đức Hộ Pháp, còn có Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, các Đại Sứ các nước. Sân Đại Đồng Xã đã đầy người, các đạo hữu đến sau phải đứng tạm trong rừng thiên nhiên, phía sau 2 khán đài chánh. Trong cuộc lễ, Đức Hộ Pháp lên Thiên Hỉ Đài thuyết giảng:
“Hôm nay là ngày kỷ niệm Đạo Cao Đài đã ra mặt quốc tế. Nó đã ra mặt quốc tế rồi, thì ta cũng nên luận về tình hình đương thời của các liệt cường.”
Giờ Tý đêm đó, Hội Thánh rước Đức Hộ Pháp cắt băng khánh thành, pháo bông rực cháy hiện dòng chữ:
“Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Lễ Khánh Thành Tòa Thánh.”
Và khởi hành ngay đại lễ trong chánh điện.
Hôm sau, lễ khánh thành Đền Thờ Phật Mẫu, tạm thời tại Báo Ân Từ. Đến ngày 12 tháng Giêng thì khánh thành các dinh thự như Giáo Tông Đường, Hộ Pháp Đường, Nữ Đầu Sư Đường, Tòa Nội Chánh, Văn Phòng Hội Thánh Phước Thiện.
Đức Hộ Pháp có nói:
“Khởi đầu, bần đạo đi viếng các dinh thự: Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài.
Bần đạo cho toàn chức sắc đương quyền hành chánh đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà sản xuất. Trong Pháp Chánh Truyền, Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài. Trước khi Chí Tôn đến giao truyền mối đạo là Thiên Điều đã định mở cửa Thập Nhị Khai Thiên đặng đem cơ cứu khổ để lại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn cả Cửu nhị ức Nguyên Nhơn. Đức Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài. Chỉ có 15 người gồm Thập nhị Thời Quân với Thượng Phẩm, Thượng Sanh, và bần đạo. Trong số 15 vị chỉ có 4, 5 vị lãnh lịnh mà thôi. Hội Thánh Cửu Trùng Đài của Giáo Tông, Hội Thánh Phước Thiện của Hộ Pháp. Hội Thánh Phước Thiện thay thế cho Hiệp Thiên Đài lo cứu khổ, giải khổ cho nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài chỉ lãnh lịnh có 4-5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được. Bần đạo chỉ lấy bài thi của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành:
‘Tĩnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến tu hậu nhật độ sanh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tĩnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.’

Vì bài thi của Đức Chí Tôn dạy mà bần đạo mới lập ra Phạm Môn rồi sản xuất Thập nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng vị.”
Đến ngày Rằm tháng Giêng năm đó làm lễ thiêu xác các Thánh tông đồ, vì theo Thánh Ngôn chư chức sắc Đại Thiên Phong qui vị 3 năm thì thiêu xác. Đức Hộ Pháp thuyết minh về việc nầy như sau:
“Cả toàn thể quốc dân của chúng ta, hạng đại đức cũng nhiều, hạng học thức cũng đông, nam cũng thế, nữ cũng thế. Vì sao họ không giành chổ cho ông Lê Văn Trung, ông Cao Quỳnh Cư, bà Lâm Ngọc Thanh, ông Lê Bá Trang? Ngọn lửa sẽ thiêu xác các Thánh ấy, nó sẽ biến thành ngọn lửa thiêng, nó sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài, đặng kêu gọi cả nhơn loại tìm một con đường giải thoát. Con đường cứu khổ của họ mà cũng là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con cái Đức Chí Tôn, luôn cả Thánh Thể của Ngài nữa.”
Xen trong cuộc lễ khánh thành còn có các cuộc vui như triển lãm, văn đàn, đánh cờ người, văn nghệ, lửa trại, hòa nhạc, đấu bóng, cộ bông,… Cuộc lễ chấm dứt trong niềm hân hoan và tin vào tương lai rực sáng của toàn thể tín hữu.
Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm từ giã ra về, Đức Hộ Pháp nhắc nhở Thủ Tướng nhớ sớm quốc gia hóa quân đội Cao Đài. Thế nên chánh phủ Ngô Đình Diệm đã ban hành lịnh quốc gia hóa quân đội Cao Đài vào ngày 2 tháng 5 năm 1955. Từ đó, Đức Hộ Pháp từ vị Thượng Tôn Quản Thế do Thánh Lịnh số 704/VPHP vì đạo không còn quân đội nữa.
Ngày 22 tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1954), Khai Pháp Trần Duy Nghĩa đăng Tiên. Đức Hộ Pháp đã biết trước nên trong đêm đó, Ngài sai mấy vị Bảo Thể nhớ coi chừng Khai Pháp. Nhưng mấy vị Bảo Thể không để tâm. Đến rạng sáng ông Khai Pháp té chúi nhủi xuống bực thềm của văn phòng Hiệp Thiên Đài chết. Đầu ông chúi xuống đất, chân thì trên bực thềm. Đức Ngài rầy mấy vị Bảo Thể rồi nói: “Pièrre tới ngày liễu đạo cũng như tiền kiếp vậy.”
Một ngày sau khi mất ông có giáng cơ tại Bộ Pháp Chánh Hiệp Thiên Đài lúc 8 giờ tối ngày 23 tháng Giêng như sau:
“Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
Tệ tăng xin chào quí bạn, qua chào mấy em.

Chẳng phải lẽ sống là hạnh phúc cõi trần gian, nếu biết thì quí bạn cũng đã mừng cho tệ tăng rồi. Cái phàm thể chẳng qua là đồ mục đâu đáng gì. Chính lúc sanh tiền tệ tăng cũng lầm lẫn đó. Vậy xin cảm bái lòng tri ngộ của Đức Hộ Pháp và cảm tạ quí bạn cùng Hội Thánh. Các em cũng vui mà lo tròn trọng trách nghe.
            Xin để lời chào mừng bổn quyến.
Sáu mươi sáu tuổi có bao lâu,
Ngảnh lại trần gian chửa mãn sầu.
Tiếc lúc về già đời mỏi mắt,
Dầu an Tiên cảnh vẫn đeo sầu.”

Đến ngày 26 tháng Giêng ông có giáng cơ nói rõ về sự ra đi của mình như sau:
“Thấy mấy em nhọc nhằn qua không vui chút nào. Sự sanh ly tử biệt là thường của thế gian. May duyên qua được diễm phúc thọ hồng ân của Đức Chí Tôn và Đức Từ Mẫu mà qua được biệt đãi, chớ thật ra qua với mấy em đâu có khác gì.
Nhớ lại lúc anh em chúng ta chung trí để làm việc mặc dầu có nhiều sơ sót vì chúng ta không phải là chuyên môn nhưng có nhiều đặc sắc. Ngày về, qua được Đức Chí Tôn ban ân khen thưởng, đó là công nghiệp của mấy em. Vậy qua xin thành thật cảm tạ ơn trìu mến đã làm nên sợi dây thân ái giữa chúng ta thêm bền chặt. Qua xin mấy em vui lòng với qua nghe.”
Thừa Sử bạch:
“Đức Hộ Pháp muốn rõ lúc Ngài qui vị.”
Khai Pháp Nghĩa:
“Đức Ngài muốn biết rõ để răn phạt em Bảo Thể có phận sự bữa đó.”
Thùa Sử bạch:
“Phải lúc 4 giờ Ngài đi tiểu trở vô mới té phải không?”
Khai Pháp Nghĩa:
“Không phải, lúc ấy vào lối 3 giờ hơn. Qua thấy chột dạ và không muốn làm phiền mấy em Bảo Thể nên qua tự mở cửa định vòng ra ngã sau. Vừa đến tam cấp có luồng gió lạnh đập mạnh vào nên té luôn mà rời xác. Đó là anh Cao Thượng Phẩm đến đem qua về.”
Thừa Sử bạch:
“Có lẽ khi té Ngài trăn trở một lúc rồi mới đi?”

Khai Pháp Nghĩa:
“Đi liền. Qua bị còn một chút nợ nên phải trả bằng cách ấy cho trọn đấy thôi, chớ chẳng phải rủi ro chi cả. Mấy em an tâm, nếu Đức Hộ Pháp có hỏi thì bạch giùm qua, chớ để em Bảo Thể bị phạt thì oan cho nó lắm. Thôi khi khác qua sẽ đàm đạo nhiều. Qua kiếu mấy em.”
Lẽ ra đêm ấy có vị Bảo Thể theo săn sóc sức khỏe cho ông Khai Pháp, nhưng lúc đang đêm ông ra ngoài một mình bị té rồi đăng Tiên. Theo lý lỗi ấy qui vào trách nhiệm của vị Bảo Thể nhưng ông đã thanh minh cho rồi. Ông nói còn chút nợ đó là  nói về tiền kiếp Thánh Pièrre đã 3 lần chối Chúa, khi chết bị đóng ngược đầu trên thập giá. Kiếp nầy ông làm Khai Pháp, cũng bị té chúi nhủi rồi đi luôn.
Trong buổi lễ di liên đài của ông nhập bửu tháp, Đức Hộ Pháp có phát biểu để tưởng niệm và cũng để tuyên dương công nghiệp của ông trích ra như vầy:
“Đức Khai Phai Pháp Chơn Quân cả toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu là ai. Trong 12 vị Chơn quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn vũ trụ thế nào, có lẽ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu thấu. Bần đạo lại thêm một điều trọng hệ hơn hết, Người không phải xa lạ với nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, Người đã cùng làm bạn với nhơn loại và chịu khổ cùng nhơn loại. Ngài là một bậc yếu nhân đã giúp Đức Chí Tôn tạo dựng một nền văn minh hiện tại.
Bần đạo nói quả quyết rằng: Ngài là một vị yếu nhân đã cầm quyền về tinh thần của nền văn minh. Ngài tái kiếp, sứ mạng của Ngài là không chi khác hơn là làm thế nào cho nền văn minh ấy chung hiệp các nền văn minh tối cổ trên mặt địa cầu nầy, làm cho thiên hạ thống nhứt về tâm hồn, thống nhứt về đạo đức.
Thật sự hôm nay, Đức Khai Pháp Chơn Quân đã hưởng trọn hạnh phúc mà bần đạo đã tỏ ra khi nảy đó, cái hạnh phúc chơn thật của Ngài hôm nay được hưởng, trái lụng lại, chúng ta buồn thảm chia ly về phần xác, mà bần đạo lấy làm hân hạnh vui hứng thấy Ngài đã đoạt đạo. Đức Khai Pháp Chơn Quân đã đoạt đạo tại thế nầy đó vậy. Bần đạo làm chứng cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn điều ấy.”
Khai Pháp Trần Duy Nghĩa là do Thánh Pièrre chiết chơn linh giáng phàm để làm tướng soái cho Đức Chí Tôn khai đạo. Đức Hộ Pháp có kể lại những khó khăn của ông trong quãng thời gian hành đạo, cũng như những ngày tháng lưu đày nơi hải đảo nhân dịp lễ Đại Tường như vầy:
“Hôm nay là ngày lễ Đại Tường của Đức Khai Pháp Chơn Quân. Bần đạo không cần minh tả, tưởng toàn thể con cái Đức Chí Tôn mến tiếc Ngài là một vị chơn linh nguyên nhân của Đức Chí Tôn đã định. Nhắc lại công nghiệp của Ngài, bần đạo cảm giác vô cùng. Sự cảm giác của bần đạo đối với Ngài không giờ phút nào
bần đạo quên được cái công cực khổ đáo để của Ngài đối với bần đạo.
Bần đạo chắc chắn rằng, trong chức sắc Hiệp Thiên Đài bần đạo chỉ nhờ Đức Khai Pháp nhiều hơn hết. Đó là bằng chứng hiển nhiên. Ngày nay, Ngài đã qui Thiên thì nền đạo đã bớt hết một cánh tay gánh vác sự nghiệp thiêng liêng vĩ đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế nầy. Bần đạo thấy cái sống ở đời của Đức Trần Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả. Sự nghiệp giàu sang, vinh hiển cũng không màng, chỉ nguyện đem cái xác thân nầy hiến trọn vẹn nơi cửa đạo.
Đức Chí Tôn đã lựa sắm hồi nào mà chính mình Đức Chí Tôn lựa sắm thật là xứng đáng. Trong buổi đầu, Đức Chí Tôn dạy:
" Con muốn ra gánh vác sự nghiệp thiêng liêng, lập nền Quốc Đạo, trước hết con phải lập pháp cho xong thì đạo mới vững bền được."
Buổi nọ, bần đạo để trọn vẹn cho Đức Chí Tôn lựa, chớ không phải phàm lựa.
Khi được cơ bút dạy đi tìm Khai Pháp tại tỉnh Gò Công, bần đạo chưa từng đến, mà cũng không làm bạn với một người nào nơi tỉnh ấy, nhưng cũng vâng lịnh đến tìm.
Hỏi thăm thì đã trúng ngay nhà ông Trần Duy Nghĩa.
Vừa gặp Người đứng trước thềm nhà, hỏi thăm thì Người nói:
‘Tôi là Trần Duy Nghĩa.’
Nói rồi mời bần đạo vào nhà. Bần đạo không ngần ngại và để đức tin nơi quyền thiêng liêng, bèn tả hết công việc thì Ngài hứa tình nguyện một điều là hủy cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình vào nơi cửa đạo. Bần đạo chưa tin, còn hồ nghi bị chúng gạt. Khi về đến Sài Gòn, Ngài chỉ xách theo một gói đồ trên tay và không trở về gia đình lần nào.
Bần đạo đưa bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn bảo đi tìm Ngài, thì Ngài nói với bần đạo 2 câu làm cho bần đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể chung sức với mình gánh vác nổi sự nghiệp của Đức Chí Tôn giao phó. Ngài nói rằng:
‘Tôi tưởng dòng dõi dân tộc Việt Nam 4000 năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn định lập Quốc Đạo thì chắc chắn rằng đất nước Việt Nam sẽ sống lại được mà cứu tổ quốc và giống nòi Việt Nam cổi ách nô lộ giữa thời Pháp thuộc bạo hành."
Kể từ đó, Ngài vẫn cương quyết lo giúp bần đạo với một sự kính nể đáo để, không giờ phút nào Ngài xa bần đạo. Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc đến làm cho giọt lệ của bần đạo tuôn chảy không ngưng. Chẳng phải riêng bần đạo mất một
người ân trọng nghĩa thâm, mà toàn đạo nam nữ thảy đều mất một người bạn yêu mến thiêng liêng đó vậy. Nhớ lại lúc chánh quyền Pháp đày ra hải đảo Madagascar, trong đó có nhiều chức sắc Thiên phong cùng chung chịu ảnh hưởng, bần đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiển hết lòng phụng sự bần đạo, còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt bần đạo đáo để. Có người dựa quyền lợi theo thuyết Cộng sản, dùng sức mạnh trở lại khổ khắc bần đạo mà chưa vừa lòng. Họ còn xúi giục chánh quyền đày bần đạo lên nguồn cao nước độc để giết bần đạo một cách  gián tiếp. Nếu chẳng nhờ quyền năng thiêng liêng giúp sức thì bần đạo không thể trở về tổ quốc Thánh địa nước Việt Nam ngày nay. Tội nghiệp em Thánh Hiển với Ngài Khai Pháp, thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đuổi đánh cũng tính kế đi theo nuôi dưỡng bần đạo cho được. Thánh Hiển vì đi theo bần đạo uống nước độc mà bỏ mình nơi rừng sau núi thẳm, chỉ còn bần đạo và Ngài. Ngài ôm bần đạo mà khóc, chỉ van vái một điều là cầu xin Đức Chí Tôn đem về đất Thánh cổi xác mà thôi. Thật quả nhiên như lời nguyện không sai.
Khi trở về Thánh địa, bần đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng Ngài Khai Pháp và bần đạo không giờ phút nào quên cảnh tù đày lao khổ. Bần đạo thấy con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng bần đạo ôm lòng nín chịu, căn dặn Ngài không thốt ra lời nói gì cả. Bần đạo sợ nói ra đây gây oán chuốc hờn thêm cho đạo. Nếu bần đạo nói ra chắc không bút mực nào tả hết, lại gây thêm xung đột.
Kể từ ngày về Thánh địa, Ngài Khai Pháp thường than thở với bần đạo, vì sợ e gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì quân đội Cao Đài. Ai vui hưởng, chớ riêng Ngài không có ngày nào không lo sợ, sợ đổ máu giết chóc lẫn nhau, lần đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam ta nữa mà chớ.
Sau ngày Trung Tá Trấn (Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) Thánh Vệ Trưởng bị quân đội Thành ám sát, Ngài thường đến Trí Huệ Cung ôm bần đạo vào lòng, khóc và than rằng:
‘Thầy ôi! Cái sợ của tôi ngày nay đã đến rồi. Tôi hằng than thở với Thầy từ nơi hải đảo là nơi chúng đày khổ thân. Thầy trò mình tưởng về đất Thánh địa được yên vui, nào dè có quân đội cho nên mới ra nỗi nầy!’
Than rồi khóc, rồi Ngài vịn níu lấy bần đạo mà nói:
‘Thầy ôi! Vì lời khuyên xưa kia, Thầy trò mình mới về dìu dắt con cái Đức Chí Tôn mà họ đâu thấu đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết rồi thì tôi thấy còn nhiều thảm họa dẫy đầy, tự gây phản bội mà làm ly tán, thì bầy con dại của Đức Chí Tôn phải sống nơi nào cho an phận. Thưa Thầy! Thà Thầy trò mình ở lại vùi thân nơi chốn tù đày hải đảo rừng xanh nước độc, còn thú vị hơn về đây thấy cảnh đổ máu không lịch sử, dòng dõi chủng tộc Việt Nam phải lý tán, tiền đồ tổ quốc không dựng lại, mà nhơn loại phải chịu cảnh sắp điêu tàn, nền đạo chinh nghiêng bởi cảnh đó.’
Nghe qua những tiếng nói thảm thiết làm cho giọt lệ bần đạo đã chảy theo không ngừng, nhưng bần đạo cố gượng cho khuây khỏa. Hồi nghĩ lại, bần đạo gượng làm vui, mượn cớ cho Ngài bớt buồn rầu đau thảm:
‘Không anh à! Mấy em nó vì đầu óc thanh niên, không phải như mấy anh lão thành vậy đâu. Vì máu nóng còn dua tài chác lợi, quyền trọng tham danh chớ buộc cả thảy như quí anh sao được.’
Bần đạo thấy Ngài buồn, kiếm chước cho vui đỡ, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung đặng khuyên Ngài vào ở đó cho yên tịnh, cho bớt thấy cảnh thảm họa trêu diễn trước mắt hằng ngày.”
Home                    1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét